intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

133
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số

  1. LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số. Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999. Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại. Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47 -NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ
  3. quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đ ánh giá về nhận thức, thái độ và sự thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển (DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6 tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy, chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên Bái đã đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT, sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau:
  4. Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết. Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS, trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục, những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công. Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục, văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình. Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ. Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số 6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS. Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005) về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS.
  5. Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm 2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai; khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác DS - KHHGĐ trong thời gian tới. Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm 1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số, DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để thực hiện công tác DS - KHHGĐ.
  6. Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền: Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS - KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ. Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ. Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS. Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái đ ộ và hành vi của CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần làm rõ th ực trạng nguyên nhân, xu h ướng biến chuyển trong nhận thức, thái đ ộ và hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - K HHGĐ và DSPT trong thời gian qua. Song đến nay vẫn ch ưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn d iện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân c ư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các
  7. công trình nghiên c ứu nh ư vậy càng hiếm h ơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc thực hiện PLDS. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL. - Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết dân số. - Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có liên quan. - Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. - Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả PLDS. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường của Yên Bái với PLDS. * Khách thể nghiên cứu:
  8. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái. * Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: tỉnh Yên Bái. - Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay. 5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn * Giả thuyết nghiên cứu: - PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái độ và hành vi chưa đúng. - Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt. - Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối công tác. * Khung lý thuyết: Hành vi: - Gương mẫu thực hiện. Tuổi - Tham gia tổ chức thực Giới Môi hiện. - Tuyên truyền, tính trườn Cán bộ g KT Thái độ: Học -XH - ủng hộ hay không ủng vấn lãnh hộ. Chính - Tích cực hay không đạo, Dân tộc sách tích cực. dân số quản lý Cấp công Pháp Nhận thức: tác lệnh - Nội dung PLDS. dân số - Trách nhiệm cá nhân Khối công đối với PLDS. tác - Trách nhiệm của cơ quan đối với PLDS. - Nghị quyết 47/ BCT. *Hệ biến số: Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau:
  9. + Biến số độc lập: Đặc điểm cá nhân: - Độ tuổi. - Giới tính. - Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên. - Dân tộc. - Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường. - Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp. + Biến số phụ thuộc: Nhận thức: - Thời điểm ra đời của PLDS. - Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân. - Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị. - Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào? - Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau. - Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị Thái độ: - Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa? - Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS - Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không? - Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị. Hành vi: - Gương mẫu thực hiện. - Tuyên truyền vận động người khác thực hiện. - Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực. + Biến trung gian: Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên c ứu của luận văn
  10. * Cơ sở lý luận: - Lu ận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t ư tư ởng Hồ Chí Minh và quan đ i ểm của Đ ảng và Nhà n ư ớc về dân số và chính s ách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS. - Dựa trên các lý thuyết xã hội học nh ư: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau: + Phương pháp nghiên cứu định tính: - Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay. - Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc). + Phương pháp nghiên cứu định lượng: Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến. + Giới tính người trả lời : Nam giới : 67% Nữ giới : 33% + Về độ tuổi: Dưới 30 tuổi : 15,9% Từ 31 - 40 tuổi : 31,4% Từ 41 - 50 tuổi : 46,2% Trên 51 tuổi : 6,5% + Về dân tộc: Kinh : 78,3% Dân tộc thiểu số : 21,7% + Học vấn: Trung học phổ thông : 6,7%
  11. Trung cấp : 25,7% Cao đẳng trở lên : 67,6% + Khối cơ quan: Khối Đảng : 19,7% Khối chính quyền : 54,0% Khối đoàn thể : 17,7% Khối doanh nghiệp : 8,6% 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao chất lượng dân số. * ý nghĩa thực tiễn: - Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL vào quá trình hoàn chỉnh và thực hiện PLDS. - Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS
  12. Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng thực hiện PLDS
  13. Chương 1 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Nhận thức Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89]. Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ: - Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống. - Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai. Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá t rình tiếp cận, tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250]. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số: Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số.
  14. 1.1.2. Thái độ Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một trong những nhân tố chính gắn với cá nhâ n và quyết định ứng xử của cá nhân đối với đối tượng [16, tr.443]. Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo hướng nào đó trước một vấn đề. Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là gián tiếp do người khác cấp cho. Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội. Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó kh ăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346]. Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số: Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm hiểu và thực hiện PLDS. 1.1.3. Hành vi Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi tr ường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh thì gọi là hành vi. Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách c ư xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25].
  15. Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một dữ kiện riêng. Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống c ưỡng chế ít hay nhiều rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện hành vi của chủ thể [83, tr.125]. Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số: Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu c ăn bản của quá trình nhận thức về PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện nh ư nêu ý kiến sửa đổi, tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện PLDS. 1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý * Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong c ơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ [54, tr.121]. * Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng [17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó. * Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định [17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ
  16. chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý đến những mục tiêu đã được xác định trước. Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, dân cư...mà không lãnh đạo. Như vậy, trong luận văn sử dụng khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là chỉ những người giữ cương vị nhất định, thường là cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay. 1.1.5. Pháp lệnh dân số Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo quy định (điều 91) của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Uỷ ban thường vụ Quốc hội “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày. Quyền công bố pháp lệnh thuộc về Chủ tịch nước (Điều 103, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau một thời gian thực hiện và hoàn thiện, Quốc hội sẽ xem xét để quyết định ban hành thành luật (điều 21). Điều 47 luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi pháp lệnh được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thực hiện pháp lệnh. Quyền giải thích pháp lệnh thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội [21, tr.419]. Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính (Khoản 1, điều 3 PLDS )
  17. Pháp lệnh dân số: Là văn bản qui phạm pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số và nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình, Nhà nước và xã hội trong công tác dân số. PLDS điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số. Theo những văn bản có tính pháp quy về dân số thì: + Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định (Khoản 2, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, quy mô dân số sẽ chẳng có ý nghĩa khi xét độc lập về mặt số lượng đơn thuần, nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi so sánh chúng với nhau theo thời gian và khi xét chúng trong mối quan hệ với không gian mà con người sinh sống, nghĩa là theo quốc gia, khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Quy mô dân số chỉ có ý nghĩa khi so sánh về tốc độ thay đổi của nó với những đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và sự phát triển nói chung của xã hội. + Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Khoản 3, điều 3 PLDS). Cơ cấu dân số phản ánh các đặc trưng của mỗi lớp người và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về mặt nhân khẩu học; các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt xã hội; các đặc trưng về nghề nghiệp, trình độ chuyên môn phản ánh về mặt kinh tế; các đặc trưng về giai cấp, thành phần xã hội phản ánh về mặt chính trị. Như vậy, việc phân loại tập hợp người theo các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng được hiểu chung như là cơ cấu xã hội của tập hợp người theo các đặc trưng cụ thể. + Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số (Khoản 6, điều 3 PLDS). Hiện nay có rất nhiều đặc trưng phản ánh trạng thái về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên việc đo lường đánh giá chất lượng dân số là rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thành 5 nhóm: Thu nhập và phúc lợi; sức khoẻ và dinh dưỡng; giáo dục và phát triển trí tuệ; giải trí văn hoá và tinh thần; môi trường sống.
  18. + Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số (Khoản 10, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, dân số là một tập hợp người nên mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều tác động đến mỗi người và tập hợp người. Do đó, việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động dân số là hết sức cần thiết nhằm tác động và tác động có hiệu quả đến quá trình dân số để hình thành quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai. 1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn 1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng Lý thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Emile Durkheim, Talcott Parson, Robert Merton và nhiều nhà xã hội học khác. Lý thuyết cơ cấu chức năng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền vững. Cấu trúc theo các tác giả của phương pháp tiếp cận chức năng có thể khái quát lại là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững. Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống [23, tr.201]. Các luận điểm chính của việc tiếp cận cấu trúc chức năng đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Theo lý thuyết cơ cấu chức năng, một xã hội tồn tại được, phát triển là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định [23, tr.199]. Tiếp cận chức năng hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện xã hội, hiện tượng xã hội nào, những
  19. người theo thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xem xét quan hệ của chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển các sự kiện, hiện tượng đó. Ngoài ra lý thuyết cơ cấu chức năng còn đòi hỏi phải hướng vào tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của một cấu trúc xã hội [23, tr.199]. T. Parsons được coi như là đại biểu xuất sắc nhất đã phát triển lý thuyết cơ cấu chức năng lên mức hoàn thiện nhất hay lý thuyết cơ cấu chức năng đã được trình bày một cách có hệ thống nhất. Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi, vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển [23, tr.204]. Khi nghiên cứu cấu trúc của hành động xã hội, Parsons cho rằng cấu trúc của hành động được triển khai trên các cấp độ hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống xã hội chỉ là một trong các hệ thống của nó. Ông cho rằng thông qua quá trình xã hội hoá cá nhân, hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi của cá thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Trong các hệ thống hành động trên (từ cấp hành vi đến cấp văn hoá) đều phải thích ứng với những vấn đề có tính chức năng, những nhu cầu của tổng thể hệ thống, đó là vấn đề thích nghi, hướng đích, thống nhất và duy trì khuôn mẫu. Các nhu cầu chức năng của hệ thống là những đòi hỏi mạnh đến mức nó buộc bộ phận nào hoạt động không đúng chức năng sẽ phải thay đổi thậm chí bị thu hẹp lại, hay phá bỏ đi hình thành bộ phận thay thế. Bộ phận nào hoạt động có hiệu quả sẽ trưởng thành, lớn mạnh. Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G) Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự [23, tr.206]. Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã
  20. hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo. Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội. Parson cho rằng các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học và theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Thực tế, các tiểu hệ thống trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội. Còn Merton cho rằng thuyết cấu trúc chức năng là sự giải thích một hiện tượng xã hội bằng cách chỉ ra hệ quả (chức năng) của nó đối với những cấu trúc mà nó là một bộ phận cấu thành. Theo ông các cấu trúc văn hoá mà cụ thể là hệ các giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản để lý giải cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các thiết chế xã hội. Một trong những đóng góp lớn của Merton đối với lý thuyết chức năng trong xã hội học là việc phát hiện ra sự loạn chức năng còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng. Theo ông phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Điều này cho thấy hệ quả có thể là chức năng, tức là có lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm người kia. Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích chức năng luận để đưa ra lý thuyết về sự sai lệch xã hội. Ông cho rằng sự lệch chuẩn là sự không phù hợp, sự lệch pha giữa mục tiêu văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá hoặc chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm chí là tội phạm. Merton đã phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với xã hội đó là: + “Kiểu thoả hiệp: Khi cả mục tiêu văn hoá và phương tiện được chủ thể lựa chọn đều phù hợp với các hệ giá trị, chuẩn mực xã hội và do vậy được xã hội hoàn toàn chấp nhận. + Kiểu đổi mới: Đây là kiểu hành động nhằm mục tiêu đã được chấp nhận nhưng bằng những phương tiện và cách làm mà xã hội có thể chưa hay không chấp nhận. + Kiểu nghi thức: Đây là kiểu hành động tuân theo các thủ tục, các quy định và sử dụng các phương tiện được thừa nhận, nhưng lại không nhằm vào mục tiêu văn hoá được xã hội chấp nhận.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2