
LUẬN VĂN:
Phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Đối ngoại Cămpuchia là lĩnh vực rất quan trọng đóng góp cho sự phát triển của
Cămpuchia nói chung và nền kinh tế Cămpuchia nói riêng.
Hiện nay quá trình toàn cầu hoá là một xu thế phát triển và tất yếu của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Theo xu thế phát triển đó, Cămpuchia đã gia nhập 2 tổ chức lớn trên thế giới đó
là: Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với
mục đích đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Cùng với sự ưu đãi và những thuận lợi mà ASEAN và WTO mang lại, Cămpuchia cũng
đang phải đối mặt với những thách thức cũng như những bất lợi do tác động 2 chiều của quá
trình hội nhập. Xuất phát từ sự cần thiết đó, đề tài “Phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” được chọn làm chuyên dề
thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Phân tích những thuận lợi và bất lợi mà Cămpuchia đã được hưởng và phải đối mặt do
việc hội nhập ASEAN và WTO đem lại.
- Phân tích Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trước và sau khi gia nhập ASEAN và
WTO.
- Đề xuất một số phương hướng đối với Cămpuchia nhằm đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế
Đối ngoại trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nền kinh tế Cămpuchia trước và sau khi giai nhập ASEAN và WTO.
- Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở tư duy của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được sử dụng là:
Phương pháp thống kế, phân tích, tổng hợp và khái quát hoá v.v.
5. Đóng góp của đề tài
Cho biết cụ thể những thuận lợi và bất lợi của Cămpuchia sau khi gia nhập ASEAN và
WTO.
Cho biết về tình hình thực hiện CEPT của Cămpuchia.
Cho biết thực trạng Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trong thời gian trước khi gia
nhập và sau khi gia nhập ASEAN và WTO.
Đề xuất một số phương hướng nhằm đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia sau khi gia nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Một số kiến nghị nhằm phát triển nền kinh tế Cămpuchia trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
6. Bố cục của đề tài
Đề được chia làm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại.
Phần II: Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia.
Phần III: Các phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia và những kiến
nghị.
Nội dung
I/ Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại
1/ Khái niệm
Hội nhập: là quá trình hợp tác của các quốc gia trong một khu vực địa lý hoặc quốc tế
nhằm mục đích giảm bớt hay xóa bỏ các trở ngại đối với dòng vận động của hàng hóa, dịch
vụ, lao động và vốn giữa các quốc gia đó.

Thương mại quốc tế: là sự trao đổi mua bán qua biên giới hàng hoá và dịch vụ.
Đầu tư nước ngoài: là một quá trình kinh doanh trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch
khác nhau cùng nhau góp vốn để thực hiện một hay một số dư án đầu tư nhằm tạo ra lọi ích
cho các bên tham gia.
2/ Các hình thức hội nhập khu vực
Hình thức hội nhập khu vực bao gồm một số hình thức như sau:
Khu vực thương mại tự do, là một hình thức hội nhập trong đó các thành viên cùng nhau
thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc
một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là:
Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối
với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.
Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán
với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách ngoại thương riêng
đối với các quốc gia ngoài khối
Liên minh thuế quan, là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp
tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên
cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên,
còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên
minh, tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành
viên.
Cộng đồng kinh tế, là một hình thức hội nhập trong đó không chỉ qui định việc loại bỏ
hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu thuế quan chung đối với
các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và
vốn trong nội bộ khối.
Liên minh kinh tế, là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương đồng với cộng
đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các
quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước

không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn,
trong đó các nước thành viên còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền
tệ. Như vậy, cộng đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị trường
chung sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình thành Liên minh Châu Âu
(European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh tế này đã trải qua nhiều hình thức hội nhập,
trong đó có Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community – EEC) (năm
1957), Cộng đồng Châu Âu (European Community) (năm 1967).
Liên minh tiền tệ, là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một “quốc gia kinh tế
chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau:
Một, xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại thương chung.
Hai, hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của các nước
thành viên.
Ba, thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ.
Bốn, xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của các
nước thành viên.
Năm, xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài liên
minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
3/ WTO tổ chức mang tính hội nhập toàn cầu
3.1/ Sự ra đời của WTO
Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu năm 1990, nhiều
vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa
thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu
trí tuệ, đầu tư, lao động, môi trường…
Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loạt nhân nhượng
kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến chính phủ các nước đưa ra một loạt
hình thức bảo hộ khác như: Tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm
dịch, nâng cao tiêu chuẩn hàng hoá nhập khẩu… Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở
nên phức tạp hơn nhiều so với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiều