ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------------

VŨ THỊ THU TRANG

ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG

ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

1

Hà Nội - Năm 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------------

VŨ THỊ THU TRANG

ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG

ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành: Tôn giáo học

Mã số: 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN

2

Hà Nội - Năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu

của riêng cá nhân tôi.

Luận văn này đƣợc thực hiện sau quá trình học tập ở Trƣờng Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình

nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên

Giang, đặc biệt đi sâu tìm hiểu các lễ hội truyền thống tiêu biểu của Phật giáo

Nam tông (khmer) và sự ảnh hƣởng của nó đối với ngƣời dân trên địa bàn

huyện Hòn Đất. Luận văn này đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của

Cô: Tiến sĩ Nguyễn Thị Tố Uyên.

Các số liệu nghiên cứu, kết quả điền dã trong luận văn là trung thực,

luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào.

Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020

Tác giả

3

Vũ Thị Thu Trang

LỜI CẢM ƠN

Em xin cảm ơn chân thành đến Cô Nguyễn Thị Tố Uyên, là ngƣời trực

tiếp giảng dạy và hƣớng dẫn em thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Trong suốt

thời gian thực hiện, từ lúc định hƣớng đề tài, chọn đề tài và tiến hành viết nội

dung luận văn, tuy công tác giảng dạy và nghiên cứu có nhiều bận rộn nhƣng

Cô đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để hƣớng dẫn em chọn đề tài, định

hƣớng cho em cách viết, cách lập luận, phân tích và trình bày phù hợp với yêu

cầu đề tài đặt ra. Nhờ sự góp ý tận tụy và hƣớng dẫn tận tình của Cô đã giúp

em hoàn thành những kiến thức về đề tài của mình.

Em xin cảm ơn đến quý thầy cô trong Bộ môn Tôn giáo học và Nhà trƣờng

đã giảng dạy cho em những kiến thức nền tảng, những hiểu biết về chuyên ngành

tôn giáo học. Đây là cơ sở và nguồn động lực quan trọng giúp em hoàn thành luận

văn, nắm vững kiến thức chuyên ngành và tự tin hơn trong những dự định sắp tới.

Em xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơ quan,

những ngƣời đã quan tâm giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm và động viên tinh thần

cho em trong khoảng thời gian thực hiện luận văn cũng nhƣ trong khoảng thời

gian học tập. Nhờ vậy, mà em tự tin vững bƣớc qua từng ngày trong quá trình

thực hiện luận văn này.

Do trình độ lý luận, kiến thức chuyên ngành cũng nhƣ kinh nghiệm

thực tiễn của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.

Em mong nhận đƣợc nhiều ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo của quý thầy cô để em

hoàn thiện kiến thức cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng luận văn của mình.

Em xin chân thành cảm ơn!

Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020

Tác giả

4

Vũ Thị Thu Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƢỢC

PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÕN ĐẤT ......................................... 8

1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội .............................................................. 8

1.2. Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông

Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. ............................................ 17

1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện Hòn Đất. 17

1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Nam tông khmer ở Hòn Đất, tỉnh

Kiên Giang. ............................................................................................... 20

CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG

ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN KHMER HUYỆN HÕN ĐẤT VÀ MỘT

SỐ GIẢI PHÁP ............................................................................................... 34

2.1. Một số lễ hội Phật giáo Nam tông khmer ở huyện Hòn Đất ........... 34

2.1.1. Lễ Chôl Chnăm Thmây .................................................................. 35

2.1.2. Lễ Sene Đôn Ta .............................................................................. 43

2.1.3. Lễ Okombok ................................................................................... 49

2.2. Ảnh hƣởng của Lễ hội Phật giáo Nam tông đến một số lĩnh vực đời

sống xã hội của ngƣời dân khmer ở Hòn Đất hiện nay. ......................... 61

2.2.1. Ảnh hƣởng đến đời sống chính trị .................................................. 62

2.2.2. Ảnh hƣởng đến đời sống kinh tế .................................................... 65

2.2.3. Ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa ................................................... 66

2.2.4. Ảnh hƣởng đến đời sống xã hội...................................................... 66

2.3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và giá trị của

lễ hội phật giáo nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân khmer

5

huyện Hòn Đất thời gian tới. ..................................................................... 69

2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tôn

giáo và văn hóa ngƣời dân khmer. ............................................................ 69

2.3.2. Giải pháp về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động lễ hội............... 71

2.3.3. Giải pháp về tuyên truyền, vận động các chức sắc, tín đồ Phật giáo

Nam tông Khmer ...................................................................................... 72

2.3.4. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phật giáo nam

tông khmer. ............................................................................................... 74

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 79

6

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phật giáo là một tôn giáo bao gồm một loạt các truyền thống, tín

ngƣỡng và phƣơng pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử

là Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới

hiện nay, có sức lan tỏa rộng rãi, đặc biệt ở Châu Á. “Phật giáo là một tôn

giáo cao siêu và trí tuệ, không ít những nhà kho học phƣơng tây đã thấy giá trị

và hết lời ca ngợi phật giáo. A.Anhxtanh cho rằng, nếu có một tôn giáo nào

đáp ứng được nhu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật

giáo. Phật giáo không chỉ đóng góp cho khoa học, mà còn là di sản văn hóa

thế giới” {26, tr. 186}. Đạo Phật với tƣ tƣởng vô thƣờng, vô ngã, nhân quả,

nghiệp báo và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn, đứng về phía

ngƣời nghèo khổ trong học thuyết Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát

chính đạo gần gũi và phù hợp với triết lý đạo đức nhân sinh, cũng nhƣ phong

tục, tập quán, tín ngƣỡng của Ngƣời Việt. Quan niệm phúc đức, nhân ái, vị

tha, hòa hiếu của Phật giáo đã đƣợc đông đảo ngƣời Việt tiếp nhận. Trong các

tôn giáo du nhập vào nƣớc ta thì Phật giáo là tôn giáo bám rễ sâu nhất, bền

chắc nhất và góp phần xây dựng nên truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết gắn bó

của dân tộc ta, có vai trò quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đời sống tín

ngƣỡng, đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam. Tôn giáo nói chung và

Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có những “hạt nhân hợp lý” hiện

vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa, đạo đức và đáp ứng đƣợc yêu

cầu đời sống tâm linh của con ngƣời. Đảng ta khẳng định “Phát huy những

giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [16, tr. 165]. Phật giáo là

một trong 16 tổ chức tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc ta công nhận. Phật giao Nam

tông khmer với nhiều lễ hội đặc sắc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của

1

ngƣời dân Việt Nam nói chung và của ngƣời khmer nói riêng.

Tỉnh Kiên Giang có 14 huyện, thị, có bờ biển chạy từ rạch Tiểu Dừa

giáp ranh với tỉnh Cà Mau đến tận Hà Tiên, giáp biên giới Campuchia. Hàng

năm, bờ biển đƣợc phù sa bồi đắp khá nhanh, mỗi năm tiến ra biển đƣợc 3m

[xem 21]. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, Phật giáo nam

tông khmer Kiên Giang có 57 chùa, 7887 sƣ sãi và 1.071.895 tín đồ [6, tr.48].

Hòn Đất là một trong 14 huyện, thị thuộc tỉnh Kiên Giang, là 1 trong 5 huyện

thuộc vùng biên giới hải đảo, là vùng đất mang đậm tín ngƣỡng dân gian và

các tôn giáo. Đạo Phật tồn tại trong 3 cộng đồng ngƣời Việt, ngƣời Khmer và

ngƣời Hoa. Theo niên giám thống kê huyện Hòn Đất năm 2017 [27, tr. 17],

tổng dân số huyện Hòn Đất 159.419 ngƣời, trong đó ngƣời Khmer ở Hòn Đất

có dân số khá đông là 20.978 ngƣời, xếp thứ 2 (Chỉ sau ngƣời Kinh) trong cơ

cấu dân số chung của huyện và có tới khoảng 17.563 ngƣời Khmer theo đạo

Phật. Với tƣ cách là một chính giáo của ngƣời Khmer, Phật giáo Nam tông có

vai trò và vị trí quan trọng, có tầm ảnh hƣởng và chi phối lớn đến mọi lĩnh

vực đời sống từ vật chất đến tinh thần của ngƣời Khmer ở tỉnh Kiên Giang nói

chung và ở Hòn Đất nói riêng. Hiện nay, phần lớn ngƣời Khmer ở Hòn Đất

tin theo Phật giáo, lấy đó làm một trong những lẽ sống của mình, là chỗ dựa

tinh thần vững chắc để điều chỉnh hành vi, xử lý các mối quan hệ giữa cá

nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Phật giáo Nam tông khmer với

nhiều phong tục, nhiều lễ hội…, đã tạo cho ngƣời Khmer ở Hòn Đất một đời

sống tín ngƣỡng phong phú, độc đáo, mang bản sắc riêng góp phần vào sự đa

dạng trong nền văn hóa đất nƣớc. Tuy nhiên, niềm tin tôn giáo nhiệt thành ấy

cũng từng bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây nhiều khó khăn cho

công tác giáo dục, tuyên truyền, quản lý của chính quyền, đôi lúc còn ảnh

hƣởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng. Với một bề dày lịch sử

không quá dài nhƣng cũng không quá ngắn, Phật giáo Nam tông đã gia nhập

2

vào trong đời sống ngƣời dân Khmer nhƣ một yếu tố của truyền thống đạo

đức. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, song ảnh hƣởng tích cực mà Phật

giáo Nam tông mang lại thực sự có ý nghĩa to lớn, góp phần xây dựng xã hội

và đời sống tinh thần, xây dựng nền văn hóa ngƣời dân Khmer trong giai đoạn

toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Ảnh

hưởng của lễ hội phật giáo Nam tông đối với đời sống người dân huyện

Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Phật giáo nói chung và Phật giáo Nam Tông nói riêng là mảng đề tài

thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả ở các góc độ khác nhau. Có

thể tạm sắp xếp các nghiên cứu đó vào hai nhóm công trình sau đây:

Một là: Các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo nói chung.

Trong nhóm công trình này, trƣớc hết phải kể đến một số tác giả và tác

phẩm tiêu biểu nhƣ PGS.TS Vƣơng Xuân Tình chủ biên trong đó có bài viết

của PGS.TS Nguyễn Văn Minh trong các cuốn nhƣ: nhân học tôn giáo và tôn

giáo, tín ngƣỡng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cuốn Xung Đột Và Giải

Xung Đột Tộc Ngƣời Vùng Tây Nam Bộ, cuốn Các dân tộc ở Việt Nam đăng

trong sách: Vƣơng Xuân Tình (Chủ biên), dân tộc Khmer Tập 3 Nxb chính trị

quốc gia Hà Nội (2007); Võ Văn Dũng/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số

6/2016; Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn có cuốn“Giáo trình Tôn giáo học”

(2005), Nxb ĐHSP Hà nội; Lƣơng Khải Siêu với cuốn “Lƣợc khảo Phật giáo

Ấn Độ” (1957), Nxb Phật học; Tác giả Thích Mật Thể với công trình “Thế

giới quan Phật giáo” (1967), Nxb Vạn Hạnh; Nguyễn Tài Thƣ (Chủ

biên,1991) với “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, Nxb Viện Triết học Hà Nội.

Trong những công trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích những tƣ

tƣởng cơ bản của Phật giáo trong quá trình hình thành, du nhập và phát triển

của nó. Từ đó đánh giá vị trí, vai trò của Phật giáo trong lịch sử tƣ tƣởng Việt

3

Nam. Ngoài ra, còn có các công trình của Tịnh Vân “Phật giáo và nhân sinh”

(2011), Nxb Hồng Đức; Thích Chúc Phú (2013), “Vài vấn đề về Phật giáo và

nhân sinh”;Nxb Hồng Đức; Hoàng Ngọc Vĩnh (2011),“Nhân sinh quan Phật

giáo qua góc nhìn của lịch sử triết học’; Nguyễn Hùng Hậu, “Một số suy nghĩ

về ảnh hƣởng của Phật giáo đối với tƣ duy ngƣời Việt”, Tạp chí Triết học số

5/1996. Nhìn chung, các công trình này đều nghiên cứu về Phật giáo dƣới góc

độ nhân sinh quan và những ảnh hƣởng của nó đến đời sống tín ngƣỡng của

con ngƣời hiện nay.

Hai là: các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo Nam tông và

những ảnh hƣởng của nó đến đời sống của ngƣời Khmer Nam bộ chủ đề về

Phật giáo Nam tông và những ảnh hƣởng của nó đến đời sống tinh thần của

ngƣời Khmer Nam bộ cũng đƣợc nhiều tác giả dụng tâm nghiên cứu. Trong

mảng đề tài này, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: nghiên cứu về

Phật giáo Nam tông tác giả Nguyễn Mạnh Cƣờng có cuốn Phật giáo Khmer

Nam Bộ - Những vấn đề nhìn lại, (2008), Nxb Tôn giáo. Công trình này đã

cho thấy tƣ tƣởng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Nam tông Khmer

(Theravada) đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngƣỡng tôn giáo của

đồng bào dân tộc Khmer và cũng đã phản ánh đƣợc những nét văn hóa độc

đáo trong văn hóa của cộng đồng ngƣời Khmer Nam Bộ. Đồng thời, công

trình Nhựt hành của ngƣời tại gia tu Phật của Tỳ khƣu Hộ Tông cùng đƣợc ấn

hành bởi Nxb Tôn giáo (2006) cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra, còn có Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc

(6/2014), Viện nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt

Nam và Học viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt

Nam. Kỷ yếu với nhiều bài viết, tổng số hơn 200 trang đã đi vào nghiên cứu

lịch sử du nhập, phát triển của Phật giáo Nam tông Khmer vào khu vực đồng

bằng sông Cửu Long. Sự biến đổi và những diễn biến hiện nay của Phật giáo

4

Nam tông Khmer trƣớc những ảnh hƣởng của điều kiện lịch sử mới. Riêng về

ngƣời Khmer và đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Khmer có các công trình

nghiên cứu của: Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lí luận và ứng

dụng, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014,

trang 56. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo lí luận xƣa và nay, Nhà xuất bản Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, trang 285. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học nhập

môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 23. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học

nhập môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 26. Bùi Thị Hải Yến (Chủ

biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2012, trang 31.

Bùi Thị Hải Yến (Chủ biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt

Nam, 2012, trang 31. Nguyễn Đức Lộ, Cấu hình làng xã Cộng đồng Công

Giáo bắc di cƣ tại Nam Bộ, Nhà xuất bản Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,

2015, trang 30. Phan An (2010), Phật giáo tiểu thừa khmer, Tài liệu hội thảo

tôn giáo ở nam bộ; những vấn đề nổi bật, những đáp ứng của chính sách và

nghiên cứu, trang 41.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hƣởng của lễ hội Phật giáo Nam

tông khmer đối với đời sống ngƣời dân huyện Hòn Đất hiện nay, luận văn đƣa

ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò giá trị của lễ hội Phật giáo Nam

tông trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

3.2. Nhiệm vụ

+ Trình bày khái lƣợc về quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo

Nam tông khmer ở Hòn Đất.

+ Đi sâu phân tích một số lễ hội và sự ảnh hƣởng của lễ hội Phật giáo

Nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân huyện Hòn Đất hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực, phát huy

5

ảnh hƣởng tích cực của nó để góp phần xây dựng xã hội, phát huy giá trị của

lễ hội phật giáo Nam tông đối với ngƣời dân huyện Hòn Đất trong giai đoạn

toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về một số các lễ hội cơ bản của Phật giáo Nam Tông

đối với ngƣời dân huyện Hòn Đất. Phạm vi nghiên cứu về những ảnh hƣởng

của lễ hội Phật giáo Nam tông chủ yếu là các lễ hội nhƣ: Lễ Chol Chnam

Thmay, lễ Sen Đôn Ta, lễ Okombok đến đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế

của ngƣời dân Hòn Đất. Các số liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu chủ yếu

lấy từ năm 2010 đến năm nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc

Việt Nam về tôn giáo. căn cứ Hiến pháp năm 2013 của Quốc hội.

- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp biện chứng

duy vật của triết học Mác –Lênin, các phƣơng pháp nghiên cứu của Tôn giáo

học và kết hợp với một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhƣ phân

tích và tổng hợp, lôgíc -lịch sử, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa...

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, Phật

giáo Việt Nam nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho

việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về tôn giáo.

- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần lí giải thấu đáo hơn về lễ hội và

sự ảnh hƣởng của lễ hội lễ Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất. Làm cơ sở cho

việc đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy đời sống của ngƣời dân

Hòn Đất phù hợp tiến trình xây dựng đất nƣớc Việt Nam ngày nay.

- Về mặt thực tiễn: Những phân tích và đánh giá về nội dung của Phật

6

giáo Nam tông, sự ảnh hƣởng của lễ hội trong đời sống tinh thần của ngƣời

dân ở Hòn Đất và những giải pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt

tích cực của nó, qua đó cung cấp cho các cấp Đảng, chính quyền, ban ngành,

đoàn thể của địa phƣơng những căn cứ khoa học để nâng cao vi trò giá trị của

lễ hội văn hóa ngƣời khmer và đề ra những chủ trƣơng, chính sách trong công

tác tôn giáo hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

7

luận văn gồm 2 chƣơng, 5 tiết.

Chƣơng 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƢỢC

PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÒN ĐẤT

1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội

Về khái niệm lễ hội có thể thấy rất nhiều quan điểm, trong phạm vi đề

tài nghiên cứu tác giả xin nêu một số cách hiểu về lễ hội nhƣ sau:

+ Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính

cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong chu kỳ về không gian

và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trƣng về

sự kiện nhân vật đƣợc thờ cúng. Còn lễ hội tín ngƣỡng là hình thức sinh hoạt

văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cƣ trong thời gian và không

gian xác định: nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại có

tính thiêng; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con ngƣời với

thiên nhiên - thần thánh và con ngƣời trong xã hội [22, tr. 34-35].

Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trƣng của cộng

đồng xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó nhằm tôn vinh và quảng bá cho

những giá trị nhất định. Lễ hội là cuộc sống đƣợc tái hiện dƣới hình thức một

trò diễn đƣợc thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, của

tƣ tƣởng và của biểu tƣợng, vƣợt trên thế giới hiện thực.

+ Trong từ điển bách khoa Việt Nam: Lễ là hệ thống những hành vi,

động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh

những ước mơ của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả

năng thực hiện.

Còn: Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất

phát từ nhu cầu cuộc sống. Chức năng xã hội của hội là củng cố những mối

8

quan hệ giữa các nhóm, khẳng định tinh thần cộng đồng. Về phƣơng diện văn

hóa, hội có chức năng khẳng định trình độ văn hóa của một cộng đồng và giao

lƣu văn hóa trên quy mô xã hội.

Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngƣỡng, các phong tục tập quán, các thể

lệ và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng đƣợc tái hiện một cách rất sinh

động.

Lễ hội là một sự kiện văn hóa đƣợc tổ chức mang tính cộng đồng. Lễ

hội là hoạt động tập thể và thƣờng có liên quan đến tín ngƣỡng, tôn giáo. Con

ngƣời xƣa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ánh

hiện tƣợng đó. Tôn giáo rất có ảnh hƣởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội

để phô trƣơng thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo để thần linh hóa những thứ

trần tục. Nhƣng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm

bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng

hƣớng tới đối tƣợng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó

chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con ngƣời. Giúp

con ngƣời nhớ về nguồn cội, hƣớng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt

lành, yên vui.

Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu: khái niệm lễ hội phật

giáo là hình thức sinh hoạt tôn giáo mang tính cộng đồng của ngƣời theo Phật

giáo, là một phƣơng thức biểu hiện đức tin của ngƣời Phật tử diễn ra vào một

khoảng thời gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với

Phật giáo.

Nhƣ vậy lế hội Nam tông Khmer dƣợc hiểu là: hình thức sinh hoạt tôn

giáo mang tính cộng đồng của ngƣời theo Phật giáo Nam tông Khmer, là một

phƣơng thức biểu hiện đức tin của ngƣời Phật tử diễn ra vào một khoảng thời

gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với Phật giáo

9

Nam tông Khmer

* Bản chất của lễ hội

Lễ hội là một hoạt động văn hóa của từng cộng đồng ngƣời, phản ánh

trình độ tổ chức xã hội. Lễ hội bao giờ cũng thể hiện sự ƣớc vọng, niềm tin về

cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng ngƣời vào hiện tại và tƣơng lai, hoài niệm

quá khứ, gợi về cội nguồn dân tộc.

Trong xã hội phong kiến, nhà nƣớc và các tôn giáo luôn tạo dựng củng

cố những lễ hội để khẳng định trật tự xã hội, uy quyền và sự linh thiêng tôn

giáo. Tính giai cấp của lễ hội thể hiện ở sự phân cấp quyền lợi của ngƣời tham

gia. Thƣờng thì ngƣời dân chỉ tham gia các trò diễn, còn nghi lễ chính thức

vẫn do quan viên phụ trách. Tuy nhiên, về mặt quyền lợi nhƣ hƣởng các phần

thƣởng, lễ vật cúng thần thì thƣờng không phân biệt mà có tính cộng đồng, ai

tham gia sẽ đƣợc chia phần và đƣợc thƣởng nếu chiến thắng trong các hội thi.

Lễ hội luôn duy trì liên tục qua các thời đại, nó vừa nối tiếp truyền

thống vừa mang yếu tố thời đại. Dù muốn hay không, lễ hội đều phải chịu ảnh

hƣởng của chế độ xã hội. Mỗi xã hội đều có ảnh hƣởng và tác động nhiều hay

ít đến sinh hoạt, tập tục, lối sống. Xã hội hiện đại với nếp sống hiện đại ít

nhiều đã tạo nên một số thói quen sinh hoạt mới, khác với lối sống và thói

quen cũ. Nhƣng nó có duy trì và tồn tại đến thế hệ sau hay không là tùy thuộc

vào sự ƣu việt của nó, tùy vào sự chấp nhận và thích nghi của thế hệ mới. Sự

phát triển kinh tế xã hội thúc đẩy sự thay đổi và hình thành những nếp sống và

lễ hội hiện đại. Có những lễ hội mới phát sinh trong xu thế hội nhập và phát

triển của xã hội, do tác động của sự phát triển các ngành nghề và sự mở rộng

quy mô kinh doanh nhƣ lễ hội hoa, lễ hội trà, lễ hội cà phê, lễ hội trái cây,...

Lễ hội của ngƣời Khmer gồm 2 loại là lễ hội dân tộc và lễ hội tôn giáo.

Lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày

cũng nhƣ cuộc sống lao động của dân chúng, tuy nhiên, trong quá trình phát

10

triển thì những lễ hội này thƣờng bị pha trộn với những yếu tố tôn giáo [Xem

8]. Những lễ hội dân tộc lớn trong năm của ngƣời Khmer gồm: lễ Vào năm

mới (Chôl chnam thmây) - thƣờng tổ chức vào giữa tháng 4 Dƣơng lịch tức

đầu tháng Chét của ngƣời Khmer, lễ cúng ông bà (Đôn - ta) - tổ chức vào 3

ngày từ 29-8 đến 1-9 Âm lịch, lễ cúng trăng hay lễ cúng cốm dẹp (Ók om

bok) - tổ chức ngày 15-10 Âm lịch. Lễ hội tôn giáo của ngƣời Khmer ngày

nay đều gắn với Phật giáo Nam tông. Những lễ hội tôn giáo định kỳ hàng năm

đó là: Lễ phật đản (Lễ phật đản của ngƣời Khmer tổ chức vào rằm tháng 5

Âm lịch khác với ngày lễ phật đản của Phật giáo đại thừa: 8-4 âm lịch); lễ đặt

cơm vắt (từ ngày 15 đến 30-8 Âm lịch); lễ ra hạ (14 và 15-9 âm lịch); lễ dâng

y (từ 14-9 đến 15-10 Âm lịch). Ngoài ra còn có những ngày lễ không định kỳ

nhƣ lễ an vị tƣợng Phật và lễ kết giới [xem 19].

* Khái niệm văn hóa

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng lớn với rất nhiều cách hiểu

khác nhau và còn nhiều vấn đề còn tranh luận. Dù nghiên cứu văn hoá dƣới

góc độ nào thì văn hoá vẫn có những nội dung cơ bản của nó.

Mặc dù ra đời sớm trong ngôn ngữ Phƣơng Tây cũng nhƣ Phƣơng

Đông nhƣng phải đến thế kỷ XVIII, từ “văn hóa” mới đƣợc đƣa vào khoa học,

sử dụng nhƣ một thuật ngữ khoa học. Từ đó đến nay khái niệm văn hóa đƣợc

nhiều ngƣời đề cập.

Các nhà đạo đức học coi văn hoá là đạo đức, các nhà tôn giáo học coi

văn hoá là phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, các nhà dân tộc học coi văn hoá là

hình thức biểu hiện đời sống của các tộc ngƣời,… Tính đa nghĩa của khái

niệm văn hoá không chỉ có trong nhận thức lý luận mà còn là thực tiễn. Văn

hoá là khái niệm đang vận động, mang tính lịch sử, biến đổi cùng các thời đại

trong lịch sử. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hoá, mỗi

11

định nghĩa đi vào một khía cạnh khác nhau của văn hoá.

Khái niệm văn hóa của Trần Ngọc Thêm: [30, tr. 56] “Văn hóa là một

hệ thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo ra và tích lũy

qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và xã hội của mình”.

Năm 2002, tổ chức UNESCO đã đƣa ra khái niệm về văn hóa nhƣ sau:

“Văn hóa nên đƣợc đề cập đến nhƣ là một tập hợp những đặc trƣng về tâm

hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm

ngƣờitrong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật cả cách sống,

phƣơng thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, Ngƣời đƣa ra

khái niệm về văn hóa nhƣ sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích cuộc sống

loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ta ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp

luật khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt

hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng

tạo và phát minh đó đƣợc gọi là văn hóa” [26, tập 4].

Các tác giả trong sách Tôn giáo lý luận xƣa và nay cho rằng: “Tôn giáo

biểu hiện là một trong những lĩnh vực của văn hóa tinh thần. Với quan niệm

như vậy, thì tôn giáo và văn hóa không tách biệt và xa lạ nhau, tôn giáo

không vượt ra ngoài khuôn khổ của văn hóa, không bị mất đi những đặc điểm

vốn có của nó với tư cách là một hiện tượng văn hóa. Mặt khác, chỉnh thể văn

hóa không thể thiếu tôn giáo, không đánh mất nó, giữ lại nó trong mình,

không thu hẹp nội dung và không gian của nó” [23, tr. 285]

Tóm lại Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đƣợc con

ngƣời sáng tạo và lƣu giữ trong quá trình lịch sử.

* Khái niệm cộng đồng

Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng đƣợc sử dụng một cách

12

tƣơng đối khá rộng rãi, nhằm chỉ nhiều đối tƣợng có những đặc điểm tƣơng

đối khác nhau về quy mô, đặc tính xã hội. Danh từ cộng đồng đƣợc sử dụng

cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng-xã, hay một nhóm xã hội nào đó

có những đặc tính xã hội chung về tâm thức và lý tƣởng xã hội, hay về lứa

tuổi, giới, hay về nghề nghiệp, về thân phận xã hội.

Từ đó có thể khẳng định rằng, khái niệm cộng đồng đƣợc hiểu dƣới

nhiều chiều kích khác nhau nhƣ: cộng đồng, tập thể, nhóm… và ở Việt Nam

khái niệm đƣợc sử dụng khá phổ biến là làng-xã, thôn, ấp… cũng đƣợc xem

nhƣ loại hình cộng đồng.

Theo J.Hfichter: “Cộng đồng là một tập thể ngƣời nhất định trên một

lãnh thổ kinh tế và văn hóa bao gồm các yếu tố:

+ Tƣơng quan cá nhân mật thiết với nhau, tƣơng quan này đôi khi đƣợc

gọi là tƣơng quan mặt đối mặt, tƣơng quan thân mật.

+ Có sự tình nguyện hi sinh đối với những giá trị đƣợc tập thể coi là

cao cả và có ý nghĩa.

+ Có ý thức với mọi thành viên trong tập thể”

Theo Nguyễn Hữu Nhân, sách Du lịch cộng đồng, Nhà xuất bản giáo

duc Việt Nam do Bùi Thị Hải Yến chủ biên, thì [31, tr.31] “Cộng đồng là

những cộng đồng đƣợc gọi tên nhƣ đơn vị làng, bản, xã, huyện...những ngƣời

chung về lí tƣởng xã hội, lứa tuổi, giới tính, thân phận xã hội. Khái niệm cộng

đồng có hai nghĩa:

- Là một nhóm dân cƣ cùng sinh sống trong một địa phƣơng nhất định,

có cùng giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.

- Là một nhóm dân cƣ có cùng mối quan tâm. [31, tr. 31]

- Theo Nguyễn Đức Lộ, nghiên cứu về cộng đồng là “nghiên cứu các

đặc trƣng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn giáo – tín ngƣỡng, phong tục tập

quán, cách giao tiếp ứng xử, khả năng chinh phục thiên nhiên, khả năng sáng

13

tạo nghệ thuật, tính cách tâm lý của cƣ dân trong cộng đồng” [25, tr.30].

Đặc biệt, theo quan niệm của Marxist thì: “Mối liên hệ qua lại giữa các

cá nhân, đƣợc quyết định bởi các lợi ích chung của các thành viên có sự giống

nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con ngƣời hợp thành

cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác

của họ, sự gần gũi giữa họ về tƣ tƣởng, tín ngƣỡng, hệ giá trị và chuẩn mực,

nền sản xuất, sự tƣơng đồng về điều kiện sống cũng nhƣ các quan niệm chủ

quan của họ về các mục tiêu và phƣơng tiện hoạt động”.

Tóm lại, các hình thức tổ chức của con ngƣời đều là kiểu cộng đồng, nó

chỉ khác nhau ở thời gian và không gian, cũng nhƣ nội dung lợi ích của việc

liên kết. Cụ thể đó là hình thức tổ chức, cộng đồng dân cƣ đƣợc xếp theo thứ

bậc, theo tộc ngƣời, quốc gia và cuối cùng là loài ngƣời.

* Đặc trƣng của cộng đồng

Theo Ferdinand Tonnies, cộng đồng có các đặc trƣng sau: “Thứ nhất,

những quan hệ xã hội nào mang tính chất tinh thần, thân thiện, mang độ cố

kết có ý nghĩa tự nhiên thì đấy là tính cộng đồng. Thứ hai là tính bền vững.

Tính cộng đồng đƣợc khẳng định theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có

một vai trò là yếu tố kết dính các thành viên trong cộng đồng. Thứ ba là tính

cộng đồng khi đƣợc xét từ quan điểm đánh giá và vị thế xã hội của các thành

viên xã hội thì đó là vị thế xã hội đƣợc gán sẵn nhiều hơn là vị thế phấn đấu

mà có đƣợc. Cuối cùng, tính cộng đồng lấy quan hệ dòng họ là quan niệm cơ

bản và mang cả hai đặc trƣng: dòng họ là huyết thống và dòng họ trở thành

khuôn mẫu văn hóa của sinh hoạt cộng đồng”.

Cộng đồng làng xã đƣợc xem là nơi cƣ trú truyền thống lâu đời của

ngƣời Việt, và nó cũng chính là chủ đề nghiên cứu của các nhà sử học, dân

tộc học, nhân học...

Ở Việt Nam, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi là ngƣời đầu tiên cố gắng

14

hệ thống hóa một cách đầy đủ về cơ cấu tổ chức xã hội làng Việt. Theo ông,

tổng thể cơ cấu xã hội ở làng-xã cổ truyền đƣợc tạo thành bởi năm hình thức

tập hợp ngƣời nhƣ sau:

Tập hợp ngƣời theo địa vực: chính loại hình tập hợp này đã hình thành

lên tổ chức ngõ, xóm. Tuy những phân thể này chỉ là mặt cƣ trú của làng xã,

nhƣng cũng có đời sống lối sinh hoạt và đời sống riêng.

Tập hợp ngƣời theo huyết thống – họ tộc: Dòng họ là tập hợp những

ngƣời đang sống và cả ngƣời đã chết, nó đƣợc liên kết với nhau bằng dòng

máu và có chung vị thủy tổ.

Tập hợp theo lớp tuổi: Giáp là loại hình tổ chức nằm giữa hai cực địa

vực và huyết thống. Giáp là tổ chức dành riêng cho nam giới. Quan hệ và vị

trí của các thành viên trong giáp đƣợc xác định dựa trên tuổi tác của ngƣời đó.

Trong mối tƣơng quan với cơ cấu tổ chức xã hội của làng Việt cổ truyền, giáp

đƣợc coi là tổ chức năng động nhất, đảm nhiệm nhiều vai trò và chức năng

nhất trong đời sống làng - xã.

Tập hợp ngƣời trong bộ máy chính quyền ở cấp xã: đó chính là loại

hình tập hợp theo địa vị xã hội. Nhƣng đến thời nhà Nguyễn thì bộ máy chính

quyền cấp cơ sở đã đƣợc hình thành với ba tổ chức Dân hàng xã: gồm toàn bộ

cƣ dân nam giới từ 18 tuổi trở lên.

Tập hợp ngƣời trong những tổ chức dựa trên lòng tự nguyện tham gia

của từng cá nhân - phe, hội, phƣờng: mục đích của tập hợp này là tƣơng trợ

nhau, đáp ứng những nhu cầu về tinh thần.

Trong khi đó, Tô Duy Hợp, Lƣơng Hồng Quang trong công trình Phát

triển cộng đồng lý thuyết và thực tiễn, cho rằng cần phải phân tích trên một

chiều kích khác về cộng đồng, đó là chỉ ra các thành phần tạo lập nên một

cộng đồng. Theo hai tác giả này, những cuộc nghiên cứu tại khắp nơi trên thế

giới cho thấy có một số yếu tố chính của cộng đồng là địa vực, yếu tố kinh tế

15

hay nghề nghiệp, và cuối cùng là các yếu tố có tính văn hoá. Những yếu tố

này tạo ra sự cố kết cộng đồng từ những đặc điểm chung, mà các thành viên

có thể chia sẻ với nhau.

Đối với thực tế, nhân loại thƣờng tổ chức đời sống dựa theo ba nguyên

tắc cơ bản sau: dòng dõi, cùng cƣ trú, cùng lợi ích, từ đó chúng ta thấy rằng

làng xã Việt thích hợp với ba nguyên lí cơ bản trên, vừa có huyết thống, láng

giềng và vừa có cùng lợi ích. Tuy khác nhau về quy mô, nhƣng làng Việt ở ba

miền đều là nơi cƣ trú của những cộng đồng có chung huyết thống, hoặc cùng

quê, và đặc biệt có cùng một không gian xác định. Tuy nhiên, do quá trình

lịch sử, hay do sự mở rộng lãnh thổ, nên từ đó việc hình thành, cũng nhƣ quá

trình diễn ra cũng khác nhau ở các vùng.

Những làng ở Bắc bộ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy – cái nôi nền

văn minh lúa nƣớc. Bởi vì việc phát triển của làng xã Việt, nó không phá vỡ

hoàn cơ cấu tổ chức của lãng xã cũ, do đó nó vẫn mang những tàn dƣ của

công xã nông thôn, do chƣa có tƣ hữu. Tình hình này còn biểu hiện rất rõ ở

các tộc ngƣời thiểu số ở Trƣờng Sơn (Tây Nguyên) trong những thập niên gần

đây. Ngƣời Việt trong quá trình Nam tiến đã mở rộng biên cƣơng, xác lập chủ

quyền, cũng là lúc hình thành những điểm tụ cƣ và trở thành làng.

Đối với làng xã Nam bộ cũng mang nét chung của làng xã Bắc bộ, đó

là nơi của ngụ của của cộng đồng ngƣời Việt có mối quan hệ về huyết

thống hoặc cùng quê. Các làng Việt Nam bộ đƣợc hình thành muộn hơn

nhiều so với làng Việt Bắc bộ nên không có làng-xã cổ truyền nhƣ các làng

Việt Bắc bộ.

Chính vì vậy, làng Việt Nam bộ đƣợc hình thành trên cơ sở tái sản xuất

cấu trúc cộng đồng trên nền tảng ký ức của những lƣu dân.

Ngoài kết cấu cộng đồng dựa trên huyết thống, hàng xóm, láng giềng,

cùng thân phận lƣu vọng, thì trong quan hệ tôn giáo, sự kết cấu cộng đồng

16

còn dựa trên niềm tin tôn giáo, chính niềm tin này là yếu tố quyết định tính

chất bền vững cho sự trƣờng tồn của cộng đồng. Cùng chung một niềm tin tín

ngƣỡng-tôn giáo là sự chia sẻ những ƣớc nguyện về mặt tinh thần, tạo nên sự

thống nhất tinh thần, củng cố nền tảng đạo lý chung tại cộng đồng. Các tôn

giáo lớn cùng với hệ thống giáo lý, giáo hội và giáo đoàn đã góp phần củng cố

sự đoàn kết cộng đồng bằng sự chặt chẽ về tổ chức, những “áp chế” của hệ

thống giáo lý, của tầng lớp giáo sĩ và tinh thần tự nguyện của tín đồ cũng đã

tạo nên sự đoàn kết trong cộng đồng. Trong thực tiễn, các tín ngƣỡng dân

gian và tôn giáo lại có sự lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, từ đó,

thống nhất về mặt lịch sử các niềm tin của ngƣời dân, tránh những xung đột,

tạo ra những sức mạnh cố kết cộng đồng mới, có tính hiệu quả mạnh mẽ.

Nhƣ vậy, cộng đồng làng xã cổ truyền của ngƣời Việt không chỉ vừa

bảo lƣu các yếu tố của công xã nông thôn có từ thời nguyên thủy, mà còn còn

tồn tại trong xã hội có giai cấp và đẳng cấp dƣới sự quản lý của nhà nƣớc, vì

thế bên cạnh những thiết chế xã hội mang tính cộng đồng phi quan phƣơng thì

các thiết chế nhà nƣớc và quan hệ giai cấp đẳng cấp chi phối rất mạnh mẽ gắn

liền với lợi ích và quyền lực của các nhóm xã hội khác nhau.

Một trong các nghiên cứu về làng xã Việt của các nhà khoa học xã hội,

thì không ít đã vận dụng lý thuyết theo cấu trúc – chức năng luận của

Radcliffe Brown, chẳng hạn nhƣ nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi khi nghiên

cứu “Cơ cấu làng của làng Việt cổ truyền Bắc bộ”.

1.2 Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông

Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện

Hòn Đất.

Ngƣời khmer ở Nam bộ với Ngƣời khmer ở Campuchia là đồng tộc, có

nhiều nét tƣơng tự về lịch sử văn hóa và tộc ngƣời. Trƣớc khi di cƣ đến vùng

đất Nam bộ của Việt Nam, ngƣời khmer đã tiếp nhận phật giáo tiểu thừa đƣợc

17

truyền từ Ấn độ qua nhiều nẻo đƣờng khác nhau [1, tr. 41].

Ở Tây Nam bộ, ngƣời Chăm, ngƣời khmer, ngƣời Hoa đã có lịch sử lâu

đời với tổ quốc Việt Nam, là thành viên trong 54 dân tộc anh em đã cố kết với

nhau trong truyền thống dựng nƣớc và giữ nƣớc. Mỗi dân tộc có bản sắc văn

hóa riêng. Cái bản sắc đó cần đƣợc duy trì và phát triển. Đánh mất cái bản sắc

đó thì cũng có nghĩa là đánh mất cả dân tộc [5, tr. 15].

Theo một số tài liệu nghiên cứu, ngƣời Khmer là một tộc ngƣời sinh

sống từ rất lâu đời ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, còn gọi là đồng

bằng Nam bộ. Vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang). Vào năm 1679,

Mạc Cửu ngƣời Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, một di thần nhà

Minh, không thần phục nhà Thanh, nên đã dong thuyền sang Chân Lạp, rồi

đến Phƣơng Thành (Trúc Phiên Thành) hay gọi là Man Khảm đã đƣợc vua

Lê, Chúa Nguyễn cho định cƣ tại vùng đất mới. Ngài đã chiêu mộ cƣ dân lƣu

dân các dân tộc, Việt, Khmer, Hoa khai khẩn đất hoang, lập ra các thôn xã:

Rạch Giá, Cà Mau, Cần Bột, Cần Vọt, Phú Quốc, Vũng Thơm. Tƣơng truyền,

thƣờng có nàng Tiên đi lại trên ung nên gọi là Hà Tiên, ngƣời Khmer gọi là

Tà Ten.

Dƣới thời vua Lê Hiển Tông (1705), Chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu

đã dâng phần đất Hà Tiên cho Triều đình và Chúa Nguyễn, đƣợc vua Lê,

Chúa Nguyễn chấp nhận và phong làm Tổng trấn Hà Tiên, Tƣớc Cửu Ngọc

Hầu. Kể từ đó, Hà Tiên là phần đất cuối cùng của phƣơng Nam thuộc về Đại

Việt. Mạc Cửu là một phật tử thân tín của Hòa thƣợng Hoàng Long (Hoằng

Long) từ Quy Nhơn vào Hà Tiên hành đạo khoảng năm 1705-1715, trụ trì

chùa Núi Bạch Tháp, viên tịch năm 1737, nhập tháp tại chùa núi Bạch Tháp

(núi Vân Sơn). Năm 1730, Mạc Cửu đã xây dựng chùa Tam Bảo để phụng

thờ Tam bảo Phật – Pháp – Tăng và để làm nơi tu dƣỡng cho mẹ già là bà

18

Thái Thị.

Năm 1736, sau khi Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Thiên Tích (Tứ)

kế nghiệp, đƣợc vua Lê Túc Tông phong chức Đô Đốc Trấn thủ Hà Tiên.

Năm 1750, Ngài cho xây dựng chùa Phù Cừ (Phù Dung) cho bà Thứ Cơ Phù

Cừ sau khi xuất gia, có nơi tu hành tụng Kinh niệm Phật. Có thể nói, ba ngôi

chùa Bạch Tháp, Tam Bảo, Phù Dung là cơ sở tự viện đƣợc xây dựng đầu tiên

và Hòa thƣợng Hoàng Long là vị Thiền sƣ mang đạo Phật đến Hà Tiên- Kiên

Giang trong những ngày đầu bình minh của Phật giáo xứ Phƣơng Nam.

Tỉnh Kiên Giang theo thống kê năm 1989 có 145.496 ngƣời Khmer,

chiếm tỷ lệ 12% dân số, phân bố rải rác khắp các huyện trong tỉnh. Trong đó

ngƣời Khmer phân bố đông nhất ở các huyện: Châu Thành có 32.000 ngƣời,

Gò Quao có 21.610 ngƣời, Giồng Riêng có 16.190 ngƣời, Hà Tiên có 16.409

ngƣời, An Biên có 8.210 ngƣời và thị xã Rạch Giá có 8.032 ngƣời. Đây là hai

tỉnh giáp biên giới với Campuchia, ngƣời Khmer ở đây xây ung phum sóc

trên đồi hay trên các giồng ven kinh trong những vùng đất thấp hoặc ven chân

núi quanh dãy Bảy Núi.

Cuốn lịch sử Đảng bộ Hòn Đất ghi rõ, Hòn Đất (trƣớc là Châu Thành

A) là một huyện lỵ của tỉnh Rạch Giá. Hòn Đất là huyện nằm giữa Hà Tiên và

Rạch giá, là khu vực gần biên giới Campuchia, dân tộc Khmer di dân đến Hòn

Đất sinh sống khá đông. Là 1 một huyện có nhiều chùa Nam Tông và có đông

ngƣời khmer sinh sống, ít nhiều bà con kể cả ngƣời kinh, ngƣời Khmer theo

đạo Phật.

Tóm lại, sự du nhập phật giáo Nam tông vào Hòn Đất, Kiên Giang

đƣợc hình thành gắn liền với các cuộc chiến tranh chống giặc xâm lƣợc, các

cơ sở thờ tự trong tỉnh cùng tăng, ni, phật tử đã có nhiều đóng góp cho địa

phƣơng xây dựng nông thôn mới. Qua những minh chứng trên, có thế thấy

rằng Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer đƣợc truyền bá vào Hòn Đất –

19

Kiên Giang từ rất sớm đồng thời có thể khẳng định rằng quá trình du nhập của

Phật giáo Nam tông vào Hòn Đất – Kiên Giang gắn với với quá trình du nhập

của ngƣời Khmer vào Nam bộ nói chung, vào Hòn Đất nói riêng.

1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Nam tông khmer ở Hòn

Đất, tỉnh Kiên Giang.

+ Từ khi du nhập vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung,

vào Kiên Giang và huyện Hòn Đất nói riêng, Phật giáo Nam tông đã trải qua

nhiều thăng trầm, biến cố, nhƣng nhìn chung hệ phái tôn giáo này vẫn phát

triển cùng với sự phát triển của vùng đất này. Hòn Đất là huyện đứng hàng

thứ 2 trong 15 huyện thuộc tỉnh Kiên Giang có đông đồng bào Khmer và phật

tử. Phật giáo Nam tông ở đây đã phát triển trong thế ổn định và đồng hành

cùng dân tộc. Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất khá phát triển với hệ thống …

chùa thờ Phật, chủ yếu tập trung ở thị trấn Hòn Đất, Sóc Sơn, Sơn Kiên, Lình

Huỳnh và Thổ Sơn. Cuộc sống của ngƣời Khmer tuy đƣợc Đảng, Nhà nƣớc

quan tâm chăm lo nhƣng vẫn còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, am

hiểu về pháp luật kém, dễ bị các phần tử xấu xúi giục, lôi kéo chống phá Nhà

nƣớc. Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đã tận tình quan tâm chăm sóc

đến ngƣời Khmer, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chủ trƣơng, chính sách của

Trung ƣơng quy định đối với đồng bào Khmer và Phật giáo Nam tông Khmer,

các ngày lễ lớn nhƣ Phật đản, tết Nguyên đán, tết và các ngày lễ lớn của đồng

bào Khmer, tỉnh và huyện đều tổ chức đoàn đến thăm, chúc mừng, tặng quà.

Theo tác giả Nguyễn Mạnh Cƣờng viết trong cuốn Phật giáo Khmer nam bộ-

những vấn đề nhìn lại (2008), Nhà xuất bản tôn giáo thì:

Đời sống tu tập của sƣ sãi: Theo truyền thống, những quy định trong tu

học của chi phái Mohamikay (Bình dân) chặt chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn chi

phái Thommayutt (Hoàng Gia). Theo truyền thống tu hành của Phật giáo Nam

tông, mọi đàn ông ngƣời Khmet là tín đồ Phật giáo thì phải vào chùa tu học

20

để đền ơn ông bà cha mẹ.

Thiền theo Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn đƣợc giải thích:

Thiền là tiếng Phạn, kêu trọn nghĩa là Thiền na (Dhyana) cũng còn gọi theo

nghĩa: Thiền định, Tham thiền, Tƣ duy. Tiếng ấy có thể dùng là danh từ hay

động từ”. Thiền là sự suy xét, thầm nghĩ về đạo lý. Thiền cho lâu dài, cao viễn

kêu là nhập định, đại định (tiếng phạm: Samadhi). Nhƣ vậy kêu là Thiền định

[12, tr.1361].

Về quan hệ xã hội: chi phái Mohamikay (Bình dân) thƣờng co cụm, ít

quan hệ xã hội nên nguồn lực và sự ủng hộ còn hạn chế.

+ Trong quá trình tồn tại và phát triển Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất

luôn nêu cao tinh thần Từ bi, hỷ xả, vô ngã vị tha, lấy đó làm phƣơng tiện để

giáo hóa chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp để phụng sự Tổ quốc, Giáo hội.

Chức sắc, nhà tu hành, phật tử ở đây luôn có truyền thống đoàn kết, cùng

nhau xây dựng giáo hội vững mạnh, hành đạo đúng phƣơng châm “Đạo pháp

– Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Các chùa khmer, các sƣ sãi ngƣời khmer mở

các lớp dạy chữ khmer, cùng với việc dạy chữ, nhà sƣ Khmer còn tập trung

truyền dạy đạo lý, tri thức làm ngƣời cho Phật tử và ngƣời dân trong phum,

sóc để họ có đƣợc “cái tâm làm ngƣời đúng đạo”, vững bƣớc trong con đƣờng

ăn ở nơi trần thế [xem 20]. Thông qua các giai thoại, truyền thuyết Phật giáo

về tiền kiếp, nhân đức, các vị sƣ đã chuyển tải thông điệp cuộc sống đến cộng

đồng dân tộc Khmer, góp phần giáo dục văn hóa ứng xử và nhân cách sống

cho họ.

Nhìn chung với những chính sách tôn giáo của Đảng, nhà nƣớc và sự

quan tâm hƣớng dẫn, tạo điều kiện các cấp ủy, chính quyền, mặt trận trong

tỉnh, các hoạt động tôn giáo của Phật giáo hệ phái Nam tông diễn ra khá ổn

định, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời Khmer ở

21

nơi đây.

+ Một điểm nổi bật là Phật giáo Nam Tông khmer có sự ảnh hƣởng

từ tín ngƣỡng, phong tục, tập quán

Tôn giáo có thể là tiền đề của lễ hội. Điều này dễ nhận thấy qua các lễ

hội của ngƣời Khmer Nam bộ. Đa số các lễ hội của ngƣời Khmer đều mang

dấu ấn của Phật giáo. Các lễ hội (dù bắt nguồn từ Phật giáo hay từ dân gian)

đều thể hiện rõ vai trò của nhà sƣ và ngôi chùa Khmer. Lễ hội là nơi gửi gấm

niềm tin và ƣớc vọng của con ngƣời nhất là khi cuộc sống còn gặp nhiều khó

khăn, bế tắc. Trong chừng mực nhất định, tôn giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần

của lễ hội, qua đó góp phần giúp con ngƣời thêm sức mạnh củng cố niềm tin

vƣơn tới chân, thiện, mỹ, lạc quan hƣớng tới tƣơng lai. Tôn giáo cũng chính

là nội dung cơ bản mà lễ hội hƣớng đến. Có thể coi lễ hội là hình thức, còn

tôn giáo là nội dung. Trong lễ hội hàm chứa yếu tố tôn giáo, con ngƣời hƣớng

tới cái thiêng, xem là cứu ánh để tôn kính, ngƣỡng mộ... Trong không gian

trang nghiêm của lễ hội, qua các nghi lễ, hành vi tôn giáo đƣợc thể hiện nhƣ

nhu cầu cần thiết của con ngƣời. Chính vì vậy, khi nói đến lễ hội tôn giáo là

nói đến lễ hội gắn với niềm tin, tín ngƣỡng.

Bên cạnh đó văn hóa tôn giáo cũng bị ảnh hƣởng bởi tín ngƣỡng dân

gian, cụ thể:

 Lễ hội tín ngƣỡng dân gian hình thành văn hóa tôn giáo Khmer

Lễ cắt tóc trả ơn mụ (Pithi kat sâk bâng kâk ch' mâp): Trẻ con sau khi

sinh đƣợc 7 ngày thì cha mẹ tổ chức một buổi lễ gọi là lễ cắt tóc trả ơn mụ, để

cắt tóc, cạo đầu hay đặt tên và cột tay cầu chúc cho nó mau lớn, mạnh khỏe và

sống lâu. Đồng thời, ngƣời mẹ cũng tạ ơn và trả ơn bà mụ đã giúp đỡ trong

ngày sinh đẻ. Trƣớc khi làm lễ, ngƣời ta sửa soạn hai mâm cơm, nấu chè

đƣờng và thêm một thúng lúa mà ngƣời Khmer gọi là “Chơn thbâung” rồi

mời bà con, họ hàng lại cùng cúng tổ tiên, kế đó họ cạo đầu hay cắt tóc cho

22

đứa trẻ và lấy chỉ cột tay chúc sức khỏe cho nó.

Về phần cúng bà mụ thì họ sắp xếp một cái thùng đựng lúa, một cái Sla

chôm, một trái dừa, một nải chuối, một vài mét vải, một chai rƣợu, một con

gà luộc… rồi để ngƣời mẹ ngồi cạnh cúng bà mụ, sau đó biếu bà mụ các vật

cúng đó và một ít tiền. Lễ này thƣờng chỉ tổ chức gói gọn trong một buổi

sáng, tuy nhiên ở nhiều nhà khá giả thì có thể kéo đài đến chiều. Lễ này ngày

nay không còn phổ biến ở một số tỉnh Nam bộ và thƣờng đƣợc tổ chức chung

với lễ đầy tháng với ý nghĩa mừng cháu bé đã thích nghi đƣợc với môi trƣờng

sống bên ngoài cơ thể mẹ.

 Lễ giáp tuổi (Pithi kat chup)

Khi đứa con trai đƣợc đúng 12 tuổi tức là đƣợc đúng một con giáp, gia

đình ngƣời Khmer tổ chức một buổi lễ gọi là “lễ giáp tuổi” để cúng trả ơn

thần thánh đã giúp họ nuôi con qua đƣợc một con giáp; đồng thời cũng để xua

đuổi ma quỷ không cho đến gần đứa trẻ để cho nó khoẻ mạnh. Trƣớc hết, họ

chuẩn bị cơm, mời ông lục đến tụng kinh, vẩy nƣớc cho đứa trẻ để giúp đứa

trẻ khỏe mạnh ma quỷ không đám đến gần. Sau đó, ngƣời ta mời ông lục

dùng bữa cơm khi kết thúc lễ vào buổi sáng.

 Lễ lên nhà mới (Pithi lơng phteah thmei)

Sau khi cất nhà mới, ngƣời Khmer làm lễ để vào nhà mới với mục đích

ở nhà mới cho đƣợc vui vẻ hạnh phúc. Họ còn mời hai ông bà có tuổi, đầy đủ

sức khoẻ giả vờ làm chủ nhà mới, còn chủ nhà thật sự thì đóng vai ngƣời đi

đƣờng xa đến nhà mới xin ở đợ. Họ mang theo quần áo, đồ đạc, dụng cụ cùng

với vợ con đến ở. Chủ nhà cho ở và tìm cách biến họ thành chủ nhà thay thế

họ (ông bà già). Khi đó, ông bà sẽ nói là ông bà đã già, lại muốn đi kiếm ăn

nơi xa mà không có con cái để giữ cửa nhà và của cải cho nên đƣợc những

ngƣời này đến xin ở đợ thì ông bà mừng lắm, muốn để cho họ trông coi nhà

23

cửa và của cải dùm.

Sau đó, ông bà đem hai mâm cơm cúng tổ tiên, cột tay những ngƣời

nhận là chủ nhà mới thay thế mình, chúc họ ở trong nhà mới đƣợc khoẻ mạnh,

trăm năm hạnh phúc. Họ cũng mời ông lục đểu tụng kinh cầu an xong mới

chấm dứt buổi lễ. Lễ này, về mặt ý nghĩa ngày nay đã có sự thay đổi lớn.

Theo đó, về hình thức, lễ đƣợc tổ chức gần giống với lễ “tân gia” của ngƣời

Việt tức là tổ chức một tiệc để thông báo với láng giềng, thân thuộc về ngôi

nhà mình vừa xây dựng xong.

Về mặt nội dung thì các thủ tục nêu trên hầu nhƣ đã dƣợc giản lƣợc hết,

mọi ngƣời cùng ăn uống vui vẻ, tụng kinh cầu phúc cho gia chủ. Về ý nghĩa,

đối với ngƣời chủ là sự đánh dấu những thắng lợi của một quá trình lao động,

đối với khách là sự chia vui, chúc mừng gia chủ hạnh phúc, làm ăn ngày càng

tiến tới.

 Lễ cúng ông tà (Pithi đâun lơng neaka)

Tục thờ cúng ông tà cũng nhƣ các vị thần trong thiên nhiên (mƣa, gió,

sấm chớp ...) đã chiếm một địa vị quan trọng trong đời sống của ngƣời nông

dân Khmer. Neakta còn gọi là ông tà là các vị thần địa phƣơng của ngƣời

Khmer. Những ông tà này phụ trách từng khu vực hoặc lớn hoặc nhỏ và tuỳ

nơi ông cai quản mà ngƣời ta có những tên gọi khác nhau: Neakta sre - ông tà

giữ thửa ruộng; Neakta vatt - ông tà giữ chùa; Neakte peam beo - ông tà ngã

ba sông… Ông tà có nhiệm vụ trông coi sức khỏe và sự thịnh vƣợng ở những

nơi mà ông gìn giữ. Ông chịu trách nhiệm về những chuyện xảy ra ở đó nên

mỗi khi có vấn đề khó khăn (bệnh tật, đau ốm, thiên tai, tai nạn ...) thì ngƣời

ta đếu làm lễ cúng cầu khẩn ông tà. Nơi thờ cúng ông tà là những bàn thờ thô

sơ dựng ở chung quanh con đƣờng trên bờ ruộng hay dƣới gốc cây to trong

mỗi phum. Cũng có khi miếu thờ đƣợc xây dựng bằng gạch to hơn ở hƣớng

24

đông bắc của chùa hay ở một vị trí trung tâm nào đó trong srok.

Đây là miếu dành cho Neakta vatt hoặc Neakta mechas srok (Neakta

chủ srok). Tƣợng thần thƣờng đƣợc tƣợng trƣng băng viên đá hình bầu dục và

nhẵn bóng, có khi to gọi là thmâr thôm, có khi nhỏ gọi là thmâr tâuch. Lễ

cúng ông tà hàng năm đƣợc tổ chức vào tháng 4 - 5 dƣơng lịch (tức ngày

trong vòng một tháng đầu mùa hạ), trƣớc khi làm đồng áng. Vào những ngày

này, ngƣời Khmer họp nhau làm lễ theo từng srok để cúng ông tà và cúng để

cầu xin mƣa làm ruộng rẫy trong năm.

Họ kính trọng ông tà, coi nhƣ vị thần trực tiếp bảo hộ và giúp họ thu

hoạch tốt trong công việc đồng áng, đuổi sâu rầy phá hại mùa màng. Họ đến

miếu ông tà (còn là nhà ông tà) để làm lễ xin nƣớc mƣa. Họ dọn cúng các

quỷ ngoài đồng là con cháu của ông tà. Các ma quỷ đƣợc ăn uống sẽ dẫn

nhau đi bảo vệ ruộng rẫy cho họ. Vào lễ, phát xuất từ cửa miếu ông tà, họ đi

vòng quanh nhà ông tà 3 lần theo chiều kim đồng hồ tƣợng trƣng cho sự xin

nƣớc mƣa. Đi đầu là ngƣời chủ lễ, kế đó mọi ngƣời đi tự do không cần theo

thứ tự. Sau đó, họ kéo nhau đến bàn thờ ông tà đốt nhang, cẩu khẩn ông tà

bảo hộ xóm làng yên vui, mạnh khỏe và giúp cho mƣa thuận gió hoà, mùa

màng tƣơi tốt.

Trong lúc làm lễ, họ dùng nhạc và lời hát để mời các vị thần đến dự.

Sau khi cúng, họ tổ chức chơi bời ghe trên khô gọi là “um tuk lơ kôk”, nhà

nào có xuồng, thì họ đem ra bơi và vừa đánh cồng vừa hát. Buổi lễ chấm dứt

ở đây.

 Lễ cúng sân lúa (Pithi sên lean)

Lễ này đƣợc tổ chức khi mùa màng đã kết thúc vụ thu hoạch, lúa đã về

dến sân phơi. Khi đó, ngƣời Khmer tổ chức cúng sân lúa để tạ ơn ông tà. Nghi

thức tiến hành nhƣ sau: Sau khi dọn lễ vật cúng sân lúa nhƣ đầu heo, rƣợu,

25

các loại thức ăn khác….

Gia chủ mời một vài ngƣời cao tuổi của gia đình hoặc của phum, srok

và bạn bè đi với mình vòng quanh sân lúa 3 lần đều đáp tạ ông tả và ma quỷ

ngoài đồng đã giúp họ có một vụ mùa bội thu. Lễ này đƣợc tổ chức ngay trên

sân lúa của gia đình vào buổi sáng lúc vụ lúa vừa thu hoạch xong. Sau khi

cúng, mọi ngƣời sẽ ăn uống đồ lễ cúng tại sân lúa và buổi lễ chấm dứt. Về

phƣơng diện xã hội, buổi lễ này có thể xem nhƣ một buổi lễ mừng thắng lợi,

đánh dấu một khoảng thời gian lao động vất vả và đã thu đƣợc những thành

quả xứng đáng với công sức lao động của mọi ngƣời.

Buổi lễ đƣợc xem là sự chia sẻ niềm vui và thƣởng công cho mọi ngƣời

đã giúp gia chủ trong vụ mùa vừa qua. Vì vậy, lễ này khá phố biến ở nông

thôn Khmer nhƣ hình thức tổ chức thì thay đổi khá nhiều, các nghi thức gần

nhƣ đã đơn giản gần hết. Tuy nhiên về ý nghĩa thì vẫn nhƣ cũ có lẽ vì đây là

một nghi lễ nông nghiệp truyền thống cũa ngƣời Khmer.

 Tín ngƣỡng nông nghiệp

Thờ thần lúa, thần cây, thần trăng, ngƣời Khmer còn có lễ cúng Trăng

(15 tháng Kdăk-tháng 10 âm lịch), lễ hạ điền (sau tết), lễ cúng cơm mới...cầu

mong chờ mƣa thuận gió hòa, trồng đƣợc nhiều lúa, săn bắt đƣợc nhiều cá,

tôm,… Tín ngƣỡng này còn tồn tại đến ngày nay.

* Đặc điểm đời sống kinh tế xã hội ngƣời dân ở Hòn Đất

Theo báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, nhiệm kỳ

2010-2015; phƣơng hƣớng nhiệm vụ, nhiệm kỳ 2015-2020 của Huyện ủy Hòn

Đất:[xem 4] Về tình kinh tế từ năm 2010 đến 2015 đạt tốc độ tăng trƣởng

kinh tế bình quân 13%/năm, đạt Nghị quyết. Thu nhập bình quân đầu ngƣời

42,5 triệu đồng/năm, vƣợt 7% Nghị quyết. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng

hƣớng, so với năm 2010, tỷ trọng nông-lâm-ngƣ nghiệp giảm từ 72,68%

xuống còn 61,47%; công nghiệp-xây dựng tăng từ 9,57% lên 15,21%; thƣơng

26

mại-dịch vụ tăng từ 17,75% lên 23,32%, vƣợt Nghị quyết Đại hội (Nghị quyết

phấn đấu đến năm 2015, tỷ trọng các lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế là: nông-

lâm-ngƣ nghiệp chiếm 65%, thƣơng mại dịch vụ-du lịch chiếm 18%, công

nghiệp-xây dựng chiếm 17%.). Nhận định chung thì kinh tế tiếp tục phát triển

khá, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt, vƣợt Nghị quyết Đại hội đề ra.

Về văn hóa – xã hội thì sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển đạt quy

mô trƣờng lớp đƣợc mở rộng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đƣợc quan

tâm đầu tƣ. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn là 99,8%. Tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt

nghiệp các cấp, trúng tuyển đại học, cao đẳng hằng năm đều tăng, học sinh bỏ

học giảm. Huy động trẻ 6-14 tuổi đến trƣờng đạt 98,14% vƣợt Nghị quyết

{Toàn huyện có 70 trƣờng học (tăg 8 trƣờng so với năm 2010), trong đó có 18

trƣờng đạt chuẩn quốc gia (tăng 5 trƣờng so với 2010), 44 trƣờng xanh-sạch-

đẹp (tăng 9 trƣờng so với 2010); 2.273 giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục,

tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trên 99%; huy động trẻ 6-14 tuổi đến trƣờng đạt

98,14%, trong đó trẻ 6 tuổi vào lớp 1đạt 99,8%; học sinh tốt nghiệp THPT đạt

99,41% (tăng 29,28% so năm 2010); học sinh trúng tuyển đại học-cao đẳng

đạt 41,53%; học sinh bỏ học giảm từ 1,85% xuống còn 1,79%…}. 14/14 xã

thị trấn tiếp tục đƣợc công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở; 12/14 xã,

thị trấn đạt chuẩn phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi (còn xã Mỹ Hiệp Sơn và xã

Mỹ Thái chƣa đạt).

Đẩy mạnh giáo dục định hƣớng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau

trung học cơ sở và trung học phổ thông; tăng cƣờng liên kết đào tạo với các

cơ sở trong và ngoài tỉnh, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 15%

năm 2010 lên 40% năm 2015 đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Công tác xóa mù chữ cho ngƣời lớn tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và

trung học cơ sở tiếp tục đƣợc duy trì; triển khai thực hiện phổ cập mầm non

cho trẻ 5 tuổi đạt kết quả khá. Công tác xã hội hóa giáo dục, phong trào

27

khuyến học, khuyến tài đƣợc đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.

Triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo gia đình

chính sách, hỗ trợ hộ nghèo. Thông qua các đề án phát triển kinh tế-xã hội,

chƣơng trình quốc gia giải quyết việc làm, phát triển ngành nghề, 5 năm qua

đã giới thiệu, giải quyết việc làm cho 20.000 lao động, vƣợt chỉ tiêu Nghị

quyết; trong đó, xuất khẩu lao động 60 ngƣời. Đẩy mạnh vận động gây quỹ

“vì ngƣời nghèo” cất nhà đại đoàn kết, nhà tình thƣơng, tranh thủ nhiều nguồn

vốn xây dựng nhà tình nghĩa, nhà ở cho đồng bào dân tộc, nhà đồng đội, nhà

mái ấm công đoàn... Đến nay, toàn huyện đã cơ bản xoá nhà xiêu vẹo, dột nát,

góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 3,55% (NQ 4%). Trong 5 năm qua

xây dựng 862 căn nhà theo Quyết định 167 của Thủ tƣớng Chính phủ, 160

căn nhà tình nghĩa, 592 căn nhà đại đoàn kết.

Đạt đƣợc những kết quả nêu trên là do: có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự hỗ trợ của các sở, ngành cấp tỉnh.

Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thể hiện quyết tâm chính trị cao, lựa chọn

những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo trong từng thời gian.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền trong huyện đã có nhiều cố gắng nỗ lực cụ thể

hóa các chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện

phù hợp với tình hình thực tế, triển khai thực hiện có kết quả. Mặt trận và các

đoàn thể tích cực tuyên truyền vận động, tạo đƣợc sự đồng thuận trong các

tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên, kinh tế của huyện phát triển chƣa thật sự vững chắc, tiềm

năng thế mạnh về công nghiệp chế biến, du lịch... chƣa đƣợc quan tâm đầu tƣ

đúng mức, khai thác chƣa hiệu quả. Cơ cấu kinh tế tuy chuyển dịch đúng

hƣớng nhƣng còn chậm. Nông nghiệp phát triển chƣa toàn diện, chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hợp tác sản xuất, liên doanh, liên kết còn nhiều hạn

chế. Xây dựng nông thôn mới còn lúng túng, chƣa huy động tốt nguồn lực

28

trong dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn; ô nhiễm môi

trƣờng còn xảy ra ở một số nơi nhƣng chƣa đƣợc khắc phục, xử lí kịp thời.

Chất lƣợng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp; lao động thiếu việc làm và

chƣa qua đào tạo nghề còn nhiều; phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể

thao phát triển chƣa mạnh, đạo đức xã hội có mặt chƣa tốt; chăm sóc sức khỏe

nhân dân, phòng chống dịch bệnh có mặt còn hạn chế; giảm nghèo chƣa bền

vững; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Tình hình an ninh,

trật tự từng lúc, từng nơi vẫn còn diễn biến phức tạp, tội phạm, tệ nạn xã hội,

tranh chấp khiếu kiện trong dân còn xảy ra khá nhiều. Công tác xây dựng

Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Năng lực

lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy cơ sở, chi bộ và cán bộ, đảng viên

có mặt chƣa đáp ứng yêu cầu; khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm

theo Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) còn chậm; học tập và làm theo tấm

gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh chƣa đi vào chiều sâu, kết quả làm theo chƣa

nhiều. Chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể có mặt

còn thấp.

Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan nhƣ: do ảnh

hƣởng của suy thoái kinh tế thế giới; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp;

nguồn lực ngân sách hạn chế; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ,... Nhƣng chủ

yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan: vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành,

Ban Thƣờng vụ Huyện ủy, cấp ủy cơ sở từng lúc chƣa thật sự quyết liệt;

phát hiện, nắm bắt tình hình chƣa kịp thời; chỉ đạo, kiểm tra uốn nắn chƣa

thƣờng xuyên. Quản lí, điều hành của chính quyền trên một số mặt còn yếu.

Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong khâu tổ chức thực hiện có lúc

chƣa chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Một bộ phận cán bộ trình độ, năng lực hạn

chế, tinh thần trách nhiệm chƣa cao, thiếu chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo,

29

thực hiện nhiệm vụ.

* Đặc điểm tâm lý của ngƣời khmer:

Thích sống quần tụ với nhau thành các phum, sóc; cũng có một số rất ít

sống ở các thị trấn, thị xã. Thƣờng làm nhà trên các đồi cao cách mặt ruộng

khoảng 5 m. Sống đoàn kết, thƣờng giúp đỡ nhau trong sản xuất. Tôn trọng

già làng. Cả tin, ghét giả dối. Rất nhiệt tình, tự giác trong công việc chung,

nhất là dịp lễ, cúng phật, dâng cơm sƣ sãi, lễ cầu phƣớc... Hoàn toàn tin v2

theo phật giáo tiểu thừa, tự nguyện đến với Phật {18, tr. 48}.

* Đặc điểm đời sống của ngƣời dân ở Hòn Đất

Trải qua hàng ngàn năm bén rễ và phát triển tại cộng đồng ngƣời

Khmer, Phật giáo Nam tông với những quan niệm độc đáo, sâu sắc về thế giới

quan, nhân sinh quan đã trở thành nguồn gốc tƣ tƣởng, tác động vào việc hình

thành những đặc trƣng trong đời sống của cộng đồng dân tộc này. Cụ thể ở

một số đặc trƣng sau:

Một là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer ở Hòn Đất luôn

gắn liền với nền nông nghiệp lúa nƣớc. Mọi hoạt động của ngƣời dân Khmer

dù dƣới góc độ vật chất hay tinh thần cũng đều thể hiện sự mong muốn

“Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.

Hai là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer nơi đây thể hiện

tính đoàn kết trong cộng đồng, gắn liền với phum, sóc. Quản lý phum sóc do

một ngƣời lớn tuổi có uy tín trong đồng bào đảm nhận [9, tr. 222].

Ba là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer luôn gắn liền với

tôn giáo đó là Phật giáo Nam tông.

Bốn là, đối với ngƣời Khmer luôn gắn liền với một ngôi chùa nhất

định, chính vì thế bất kì ngƣời con trai Khmer nào cũng phải vào chùa tu học

một thời gian trong cuộc đời của mình. Ngƣời Khmer tin vào Phật giáo Nam

tông bởi vì nó thoả mãn đƣợc nhu cầu về tinh thần của ngƣời dân nơi đây [14,

30

tr 362].

* Tình hình tôn giáo dân tộc ở Huyện Hòn Đất:

Theo báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của

BCH TW khóa IX về công tác dân tộc tôn giáo của Huyện ủy Hòn Đất đánh

giá: đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào đời sống kinh

tế xã hội của huyện, các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đƣờng hƣớng hành đạo,

hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc công nhận đã hành đạo

gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân,

xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. UBND, các ban ngành, đoàn thể huyện

tích cực thực hiện các chủ trƣơng, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc,

phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào

dân tộc, tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại những hoạt

động lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để hoạt động chống phá Đảng và Nhà

nƣớc. Tuy nhiên; tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức

tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số ngƣời chƣa tuân

thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngƣỡng, tôn

giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan

đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay

gắt, phức tạp. Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số ngƣời đã

lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích

động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định

chính trị. Nguyên nhân là do: công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và

phƣơng thức hoạt động, trong khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành

giật, lôi kéo quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Một số cấp ủy, chính quyền

cơ sở, một số cán bộ có trách nhiệm chƣa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ

trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về tôn giáo. Có nơi chủ quan, nóng

vội, giản đơn trong giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo; có nơi lại

31

hữu khuynh, thụ động, buông lỏng quản lý. Các chủ trƣơng, chính sách của

Đảng và Nhà nƣớc đối với tín ngƣỡng, tôn giáo chậm đƣợc thể chế hóa. Tổ

chức, bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy

quản lý nhà nƣớc về tôn giáo chƣa xác định rõ đƣợc mô hình, chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp, thiếu sự quan tâm đầu tƣ bảo đảm các

điều kiện hoạt động; đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và hệ thống chính

trị cơ sở ở các vùng đông tín đồ tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số

còn yếu, việc tập hợp quần chúng còn hạn chế [ xem 3].

Tiểu kết: Phật giáo Nam tông khmer du nhập vào huyện Hòn Đất rất

sớm, tồn tại và phát triển cho đến nay. Với những giai đoạn và các thời kỳ

lịch sử Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất có những biến đổi và vị trí riêng, đặc

biệt, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Phật

giáo Nam tông khmer có những đóng góp quan trọng cũng nhƣ trong quá

trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Từ

khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phật giáo nam tông và đồng

bào khmer luôn đoàn kết, kề vai sát cánh cùng các dân tộc trong công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là

trong kháng chiến chống Mĩ, xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng trong đồng

bào khmer nhƣ: Ban khmer vận, Ban Sãi vận, Mặt trận sƣ sãi yêu nƣớc, hội

đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc, Bộ đội Isarac, Tiểu đoàn 512... và một số cá nhân

ngƣời khmer tiêu biểu. Sau giải phóng miền nam đến nay, Phật giáo nam

tông, đồng bào khmer cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác đƣợc hƣởng các

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Trƣớc hết đó là chính

sách đoàn kết, bình đẳng, tƣơng trợ và cùng phát triển. Các chính sách đó

đƣợc thể hiện rõ qua các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng, nghị định và quyết định của Chính phủ [17, tr. 45-46].

Những giáo lý, giới luật đã đƣợc Đức Phật chế định từ khi giác ngộ đến khi

32

nhập diệt cho đến nay đã đƣợc ngƣời Khmer giữ gìn và lƣu truyền từ đời này

sang đời khác, con nối tiếp cha, đời tiếp nối đời. Tóm lại, Phật giáo Nam

Tông Khmer là tôn giáo có sức ảnh hƣởng trên nhiều phƣơng diện đối với đời

sống của ngƣời dân Khmer ở huyện Hòn Đất. Trong quá trình hình thành và

phát triển lâu bền tại đây, Phật giáo Nam Tông Khmer đã chứng tỏ sự hòa

hợp, gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa, đạo đức của Phật giáo Nam Tông Khmer

với lối sống trong cộng đồng ngƣời Khmer. Có thể nói, Phật giáo Nam Tông

Khmer đã có nhiều nỗ lực trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa riêng của ngƣời

Khmer; củng cố các giá trị tích cực trong đạo đức, lối sống của ngƣời Khmer;

duy trì phong tục tập quán truyền thống của ngƣời Khmer và phát huy tinh

thần yêu nƣớc, tính cố kết cộng đồng của họ trong thời đại mới. Bên cạnh đó,

Phật giáo Nam Tông Khmer còn chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và huy động

một nguồn lực xã hội lớn cho hoạt động từ thiện xã hội, bảo vệ môi sinh ở

huyện hòn Đất. Phật giáo Nam Tông Khmer luôn đồng hành cùng dân tộc trên

mỗi chặng đƣờng phát triển và đóng góp trực tiếp cho sự ổn định, phát triển

33

bền vững tại khu vực Tây Nam Bộ [xem 24] trong đó có huyện Hòn Đất.

Chƣơng 2:

ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐẾN

ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN KHMER HUYỆN HÒN ĐẤT VÀ MỘT SỐ

GIẢI PHÁP

2.1. Một số lễ hội Phật giáo Nam tông khmer ở huyện Hòn Đất

Lễ hội truyền thống giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội

của các dân tộc nói chung, của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu

Long nói riêng. Đó là sự kết tụ những nét đặc sắc về văn hóa của một dân tộc,

một cồng đồng. Khi nghiên cứu lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer, điểm

dễ nhận thấy là Phật giáo Nam tông đã để lại dấu ấn khá đậm nét. Điều đó

trƣớc hết thể hiện ở chỗ, hầu hết các lễ hội của ngƣời Khmer từ lễ hội truyền

thống cho đến lễ hội Phật giáo đều gắn bó với ngôi chùa, thƣờng diễn ra ở

chùa do các vị sƣ chủ trì. Các nghi thức trong lễ hội truyền thống của ngƣời

Khmer cũng mang đậm nghi thức của đạo Phật. Các lễ hội có đặc điểm là

đều chịu ảnh hƣởng của tín ngƣỡng tôn giáo, nên không chỉ riêng các lễ hội

của Phật giáo, mà cả lễ hội dân gian cũng đƣợc tổ chức theo nghi thức của

đạo Phật.

Dấu ấn của Phật giáo Nam tông không chỉ thể hiện ở các dấu hiệu bên

ngoài mà còn cả trong nội dung, làm cho lễ hội truyền thống có thêm ý nghĩa

mới. Các lễ hội này đều gắn với một câu chuyện, truyền thuyết hay sự tích

nào đó của Phật giáo Nam tông, hình thành một tâm thức giàu tính thiêng.

Ngay từ ngày xƣa cho đến bây giờ, đại bộ phận đồng bào dân tộc

Khmer tin theo đạo Phật, thuộc nhánh Theravada hay còn gọi là Nam tông

Khmer. Đối với họ, một con ngƣời khi cất tiếng khóc chào đời mặc nhiên đã

34

là một tín đồ phật tử của Phật giáo dòng Nam tông trong lĩnh vực gia đình.

Mỗi năm các tín đồ phật tử Phật giáo Khmer cùng các sƣ sãi tập trung

tại chùa và cử hành 8 cuộc lễ lớn (chính). Tất cả 8 cuộc lễ này chỉ có lễ vào

năm mới (tết) là theo sự tính của Balamôn giáo, còn 7 lễ đều là lễ Phật. Tất cả

các lễ đều đƣợc tổ chức tại chùa, chƣơng trình lễ do vị sƣ cả trong chùa soạn

thảo. Ngày lễ thực sự là ngày hội quần chúng, mọi ngƣời đếu quy tụ về ngôi

chùa trong xóm để dự lễ và vui chơi với hàng loạt những trò chơi nhất là

những trò chơi dân gian, truyền thống của dân tộc mình. Trong một năm có

các lễ đƣợc tiến hành nhƣ sau:

1. Lễ Mékabauchia: Lễ đức Phật cho biết ba tháng nữa sẽ nhập Niết

Bàn (tính theo dƣơng lịch thì vào đầu tháng 2).

2. Chol chnam thmay: Lễ vào năm mới (tết) thời gian giữa tháng 4.

3. Lễ Visakabauchia: Lễ Phật Đản (nhập Niết Bàn) thời gian đầu

tháng 5.

4. Lễ Cholvôsa: Lễ các sƣ nhập hạ (ở trong chùa tu 3 tháng không ra

ngoài) thời gian đầu tháng 7.

5. Lễ Phchum ben (hay sen Đônta): Lễ xá tội vong nhân, thời gian giữa

tháng 9.

6. Lễ Chanh Vôsa: Lễ các sƣ sãi ra hạ (măm thời kỳ nhập hạ), thời gian

đầu tháng 10.

7. Lễ Ok om bok: Lễ cúng trăng, vào cuối tháng 10.

8. Lễ Katthanh: Lễ dâng y cà sa cho sƣ sãi không ấn định ngày cụ thể

trong khoảng thời gian từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11.

Trong luận văn này tác giả chỉ xin trình bày 3 lễ hội chính nhƣ sau:

2.1.1 Lễ Chôl Chnăm Thmây

Lễ vào năm mới (Chôl Chnăm Thmây) còn gọi là “Lễ chịu tuổi”, là

35

ngày Tết cổ truyền của đồng bào Khmer Nam Bộ.

Xét về mặt lịch Khmer: Tết mừng năm mới lại diễn ra vào tháng khchét

Khmer tức từ 14 đến 16-4 (dƣơng lịch), tuy lịch khmer cũng kết thúc vào cuối

tháng 12 (âm lịch). Việc chọn vào ngày này vì dựa trên nền nông nghiệp, tập

quán canh tác một vụ trƣớc đây. Việc canh tác này bắt đầu từ tháng 12 kết

thúc vào tháng tƣ, lúc này ngƣời khmer đã thảnh thơi sau những tháng lao

động vất vả.

Xét về mặt địa lí và thời tiết vùng miền: Giao mùa ở Nam bộ rơi vào

tháng 4, khi mùa khô vừa kểt thủc và bƣớc sang mùa mƣa. Những cơn mƣa

đầu mùa làm cho có cây tƣơi tốt, thíên nhiên nhƣ trỗi dậy sức sống.

Chính hai điều kiện trên đã tạo nên quan niệm của ngƣời khmer về

ngày thay năm cũ vào năm mới nên gọi là Chôl Chnăm Thmây.

Sự chuẩn bị đón lễ của ngƣời Khmer rất chu đáo, qua các việc từ tại gia

đến chùa. Tại nhà ngƣời khmer chuẩn bị nhà cửa cho tƣơm tất, lo tiền nong,

đi chợ mua bản sắm sửa, may quần áo mới, làm bánh trái, v.v.. Tại các chùa

độ đầu tháng trƣớc khi đến lễ các ngƣời dân tự nguyện góp tiền, góp của để tu

bổ, sửa sang chùa. Tƣợng Phật, chính điện, cổng chào đƣợc sơn son, thiếp

vàng, khuôn viên chùa đƣợc dọn dẹp sạch sẽ chuẩn bị đón Tết.

Với tên gọi Hôra là ngày lễ năm mới đƣợc các nhà thiên văn ấn định.

Ngày nay, việc soạn sách lịch dùng cho một năm của ngƣời Khmer là các vị

Thƣợng Tọa, Đại đức thông híểu khoa thíên văn. Tùy vào từng năm mà thời

khắc giao thừa diễn ra vảo sáng, trƣa, chiếu hay tối để hoàn thành một chu kỳ

là 365 ngày và 1/4 ngày.

Lễ tết của ngƣời khmer cũng giống nhƣ ngƣời Kinh, ngƣời Hoa, cũng

có “ba ngày Tết”. Thế nên tại các nhà ngƣời khmer đều thắp nhang, đèn làm

lễ đƣa Têvêđa cũ và rƣớc Têvêđa mới.

Sau đó, mọi nghi thức quan trọng đón Tết đều diễn ra tại chùa. Gia đình

36

nào có con trai đến tuổi đi tu thì dẫn vào chùa làm lễ thí phát, quy y. Nhiều

ngƣời còn đƣa cả gia đình vào trong chùa suốt những ngày Tểt. Dƣời mải

chùa chung của cả phum sóc mọi ngƣời đều hƣớng lòng thành kính về Đức

Phật, tƣởng nhớ đến ông bà tổ tiên và đặt hy vọng vào một năm mới an lành.

Ở trong chùa, những Phật tử cao niên cùng các vị sƣ sãi tụng kinh niệm

Phật để đƣa năm cũ, rƣớc năm mới.

Vào thời điểm này, các nƣớc nhƣ Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanma

cũng tổ chức Lễ vào năm mới, nhƣng thời gian có thể chênh lệch nhau vài

ngày. Tùy theo mỗi quốc gia mà có tên gọi khác nhau. Ở Thái Lan gọi là

Song Kran, ở Lào là Bunpimay, Campuchia gọi thống nhất với ngƣời Khmer

Nam Bộ là Chôl Chnăm Thmây, ở Myanma thì gọi là Thing yan.

* Phần lễ: Nhƣ đã đƣợc đề cập ngày lễ đƣợc diễn ra 3 ngày, cụ thể:

Ngày thứ nhất Chol Sangkran Thmay gọi là Thngay Chôl Chnăm Thmây

(ngày vào năm mới) (lễ rƣớc “Mâh Sangkran mới”). Thời gian tổ chức sớm

hay muộn dựa theo quan niệm của ngƣời Khmer chỉ cần trong ngày, miễn là

chọn đúng giờ tốt. Ngƣời khmer tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn,

lễ vật đến chùa dâng lên các vị sƣ và đƣợc nghe các vị chúc tụng năm mới.

Ông Acha là ngƣời điều hành cho tín đồ đi vòng quanh chính điện 3 lần để

làm lễ chào mừng năm mới. Đêm lại, nghe các vị sƣ tụng kinh cầu an năm

mới, cầu cho “Quốc thái dân an” và hƣởng đƣợc 4 pháp của đức Phật (sống

lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh), rồi đƣợc nghe các vị thuyết pháp về ý nghĩa

của lễ Chôl Chnăm Thmây.

Ngày thứ hai Wonbơt gọi là Thngay Von-boch: mỗi gia đình làm lễ

dâng cơm buổi sớm và buổi trƣa cho các vị sƣ sãi. Theo đạo Phật Nam Tông,

thì các ngày lễ tín đồ đi chùa lạy Phật có bổn phận mang cơm, thức ăn dâng

cho sƣ sãi và lắng nghe các vị chúc tụng, cầu an, thuyết pháp giảng đạo, rồi

các thanh niên nam, nữ vui chơi trƣớc sân chùa. Buổi chiều, ngƣời ta làm lễ

37

“đắp núi cát” (Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên chùa, để mong gặp

đƣợc điều lành. Tập tục này bắt nguồn từ sự tích của một thợ săn, gắn với ma

thuật cầu mùa của ngƣời xƣa.

Ngày thứ ba Lơn Săk gọi là Thngay Lơn-săk (ngày thêm tuổi), mới là

ngày chính cũng là ngày cuối tết, tƣơng tự nhƣ hai ngày đầu, sau khi đã dâng

cơm sáng cho các vị sƣ ở chùa, ngƣời ta làm lễ tắm tƣợng Phật bằng nƣớc có

ƣớp hƣơng thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sƣ cao niên ở chùa, nhằm rửa sạch

những bụi bặm của trần thế trong năm cũ, để bƣớc sang năm mới với một

thân thể sạch sẽ và hoàn toàn mới.

Tiếp theo đó là lễ cầu siêu (Băng Skôl), các vị sƣ đƣợc mời đến tháp

lƣu giữ hài cốt của những ngƣời quá cố để cầu kinh, mong vong linh của họ

sớm đƣợc siêu thoát. Đến trƣa, mọi ngƣời về nhà làm lễ tắm tƣợng Phật thờ

trong từng gia đình, dâng bánh trái tạ ơn tỏ lòng tƣởng nhớ và biết ơn đức

Phật, rồi chúc mừng cha mẹ, ông bà, đồng thời để rửa những điều không may

của năm cũ đón năm mới vạn sự nhƣ ý. Nghi lễ ngày thứ ba rất quan trọng với

đồng bào Khmer Nam Bộ vì họ tin rằng sẽ đƣợc Phật tha thứ cho những lỗi

lầm thiếu sót trong năm cũ, gọi là lễ Kha ma tôs, giống lễ sám hối của Phật

giáo Đại thừa; ban nhiều sức khỏe, làm ăn trúng mùa, ý nguyện đƣợc thành,

xóm làng yên ổn, tai qua nạn khỏi... trong năm mới.

Đối với các lễ hội Khmer, tôn giáo tín ngƣỡng Phật giáo nhƣ hòa quyện

vào trong đời sống của các thiện tín thể hiện qua các truyền thuyết và nghi

thức thờ phụng.

Lễ rƣớc Sâng Kran trong Tết Chôl Chnăm Thmây là theo một truyền

thuyết Phật giáo đó là chuyện Thom Ma Bal và Kabil Maha Prum còn gọi là

"thần Bốn mặt"

Truyền thuyết Khmer kể rằng, “Ngày xƣa có một cậu bé tên Thom Ma

Bal, rất thông minh. Lúc bấy giờ đã biết đem sự hiểu biết của mình truyền bá

38

cho mọi ngƣời. Dân chúng thán phục và rất thích nghe cậu thuyết giảng.

Tiếng đồn về tài trí của cậu bé ngày càng lan rộng, chẳng mấy chốc đă vang

đến tận thƣợng giới. Các vị thần cũng xuống trần gian để nghe Thom Ma Bal

thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabil Maha Prum

trên thƣợng giới ngày càng vắng vẻ.

Thần Kabil Maha Prum rât có uy thế trên thƣợng giới nghe ở trần gian

có kẻ hơn mình, lấy làm tức giận, đã cho gọi hết các vị thần trở về, cấm

không cho xuống trần gian nghe thuyết giảng. Đồng thời thần Kabil Maha

Prum tìm cách hãm hại Thom Ma Bal. Một hôm, lúc Thom Ma Bal đang

thuyết giảng cho dân chúng nghe, thần Kabil Maha Prum xuất hiện và phán

rằng: “Ta nghe đồn nhà ngƣơi thông minh xuất chúng, nhƣng ta chƣa tin điều

ấy. Nay ta đặt cho ngƣơi ba câu đố, nếu ngƣơi giải đáp đúng ta sẽ cẳt đầu của

ta cho ngƣơi. Còn nếu không giải đáp đƣợc, thì ngƣơi phải dâng mạng sống

của ngƣơi cho ta”. Không thế từ chối, Thom Ma Bal đành phải chấp nhận trả

lời: Ngƣơi hãy cho tà biết: “Buổi sáng, duyên của con ngƣời nằm ở đâu? Buổi

trƣa, duyên con ngƣời nằm ở đâu? Buổi tối, duyên của con ngƣời nằm ở

đâu?” Hỏi xong“ thần hẹn bảy ngày sẽ trở lại nghe Thom Ma Bal giải đáp, rồi

bay về trời. Thom Ma Bal suy nghĩ suốt ngày, đêm mà vẫn không tìm đƣợc

câu giải đáp. Đến ngày thứ sáu rồi mà Cậu bé vẫn chƣa tìm đƣợc câu trả lời,

chàng đi lang thang từ sáng đến trƣa. Quá mệt mỏi và thất vọng, chàng nghỉ

mệt dƣới gốc cây Thốt nốt.

Lúc ấy, trên cây Thốt nốt có hai con chim đại bàng đang nói chuyện với

nhau. Con chim mái hỏi chim trống:

- Ngày mai ta sẽ đi ăn ở đâu?

- Ngày mai ta sẽ ăn thịt Thom Ma Bal, chim trống đáp.

Chim mái ngạt nhiên:

39

- Tại sao ăn thịt Thom Ma Bal?

- Chim trống thuật lại chuyện thần Kabil Maha Prum yêu cầu Thom Ma

Bal phải trả lời câu hỏi thách đố của thần. Nghe xong chim mái hỏi:

- Vậy có ai giải đáp đƣợc không?

Chim trống tự đắc đáp:

- Ta đã nghe thần Kabil Maha Prum nói là: Buổi sáng, duyên của con

ngƣời ở trên mặt, nên ngủ dậy ngƣời ta phải rửa mặt cho tƣơi tỉnh. Buổi trƣa,

duyên của con ngƣời ở trên ngực, nên ngƣời ta phải tắm cho mát. Buổi tối,

duyên của con ngƣời ở dƣới bàn chân, nên ngƣời ta thƣờng rửa chân cho sạch

trƣớc khi đi ngủ.

Thom Ma Bal ngồi dƣới gốc cây, nghe đƣợc lời nói chuyện của đôi

chim nên rất mừng rỡ và trở về nhà.

Hôm sau đúng hẹn, thần Kabil Maha Prum tay cầm gƣơm vàng, xuống

gặp Thom Ma Bal. Y lời chim trống nói hôm qua, Thom Ma Bal trả lời ba câu

hỏi đó của thần Kabil Maha Prum.

Điều mà Thom Ma Bal trả lời hoàn toàn chính xác. Thần Kabil Maha

Prum thua cuộc ngửa mặt lên trời gọi bảy ngƣời con gái xuống trần gian và

bảo: “Cha đã thua trí Thom Ma Bal rồi. Theo lời hứa, cha phải chết. Các con

hãy cất giữ đầu của cha trong tháp trên đỉnh núi Kaylas, nơi ngƣời trần không

chạm đến đƣợc. Các con hãy cẩn thận, nếu để đầu cha rơi xuống biển, biển sẽ

cạn, nếu để đầu cha tung lên không trung thì trời không có mƣa và nếu để đầu

cha trên mặt đất thì đất sẽ khô cằn, cỏ cây không mọc đƣợc”.

Dặn các con xong, Thần tự cắt cổ trao đầu mình cho con gái lớn của

thần và thần biến thành một luồng ánh sáng bay vút lên không trung.

Ngày nay, khi đến chùa của ngƣời Khmer ta thƣờng thấy đầu thần

Kabil Maha Prum (thần Bốn mặt) đƣợc thờ trong cảc tháp xây trong chùa và

chính nơi đặt đầu của thần là vị trí trung tâm, là bàn thờ chính trong các nghi

40

lễ tôn giáo cũng nhƣ các nghi lễ truyền thống đƣợc tổ chức trong chùa. Trong

lịch sử, tƣợng bốn mặt trên tháp xuất hiện từ cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII ở

ngôi đền Bayon nổi tiếng ở Angkor Thom (Siêm Riệp). Mặc dù đây là công

trình kiến trúc Phật giáo, song nó hƣớng đến sự hòa đồng tín ngƣỡng nên có

những gian thờ và những tác phẩm điêu khắc dâng cúng cho chƣ thần Bà-la-

môn lẫn Đức Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm và các đối tƣợng Phật giáo khác.

Chính vì vậy, cho đến nay, việc định dạng bốn khuôn mặt trên tháp Bayon

vẫn là vấn đề tồn nghi: trên tháp Bayon vẫn là vấn đề tồn nghi: một số nhà

nghiên cứu cho đó là thần Brahma/Khmer: Maha Brum, một số khác lại

khẳng định đó là các thần bảo vệ bốn hƣớng chính; một số khác chỉ ra đó là

khuôn mặt của chính đức vua Jayavarman (ngƣời xây dựng nên Angkor);

hoặc khuôn mặt của đức vua đƣợc tạo hình dƣới dạng Bồ-tát, theo tín niệm

thần-vua/Phật-vua (Deva-raja) thời thƣợng của các quốc gia chịu ảnh hƣởng

văn hóa Ấn.

Vào ngày đầu của năm mới thay vì rƣớc đầu “thần Bốn mặt”, ngƣời

Khmer rƣớc Maha Sâng Kran đi vòng quanh chính điện ba lần. Ở đây, cũng

cần lƣu ý rằng, ngôi chánh điện trong quần thể kiến trúc chùa Khmer đƣợc

ƣớc lệ là ngọn núi trung tâm vũ trụ Preah Sôme; theo đó, đƣờng thẳng đứng

từ dƣới lên đỉnh đầu unisha của Đức Phật là trục vũ trụ. Điều đó, giải thích

việc trên đỉnh nóc chùa tháp Khmer thƣờng có tƣợng đầu thần bốn mặt Maha

Brum, ngó về 4 phƣơng Đông-Tây-Nam-Bắc.

Về truyền thuyết này ở Campuchia Thom Ma Bal lại là một hoàng tử,

trong truyền thuyết của đồng bào Khmer Nam Bộ chỉ là một cậu bé thông

minh. Từ đây cho thấy, tuy có ảnh hƣởng của những yếu tố Bà la môn giáo

nhƣng khi đến Nam Bộ đã giản dị, gần gũi hơn rất nhiều. Cái thiện, cái ảo

đƣợc thể hiện rõ, dù là vị thần tối cao cũng mang đặc tính rất con ngƣời, đó là

sự ích kỷ, hiếu thắng và cải thiện cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác nhƣ trong

41

truyền thuyết Chôl Chnăm Thmây.

Trong Tết Chôl Chnăm Thmây còn có một sự tích nữa, liên quan đến

tục Đắp núi cát. Sự tích kể lại truyện một ngƣời làm nghề săn bắn. Từ lúc trẻ

đến khi già, ông giết rất nhiều muông thú, nhƣng rất may mắn là ông đã đƣợc

một nhà sƣ hƣớng dẫn tích phƣớc bằng cảnh đắp núi cát trong một ngôi chùa

gần nơi ông ở. Lúc về già ông đau yếu và thƣờng bị ảm ảnh về bầy muông thú

bao vây quanh ông rồi hành hung để đòi nợ oan nghiệt. Do phƣớc đức đắp núi

cát, ông tỉnh táo bảo bọn muông thú hãy đếm những hạt cát ông đã đắp thành

núi rồi hãy đòi nợ. Bọn thú đồng ý, chúng đếm, nhƣng rồi không tài nào đếm

nổi. Chán nản chúng bỏ đi. Nhờ đắp núi cát mà ông giữ đƣợc tính mạng cho

đến khi chết đƣợc lên thiên đƣờng. Từ tích truyện này mà đồng bào Khmer

vẫn giữ tục đắp núi cát để tích phƣớc, tích đức vào Tết Chôl Chnăm Thmây.

Tục đắp núi cát gọi là Pun phnôm khsach. Cát sạch đƣợc đem về đổs

thành từng đống quanh đền thờ Phật, bên ngoài hành lang chung quanh sân

chính điện. Vị Achar (một ngƣời đã từng đi tu, am hiểu các nghi lễ đạo Phật)

đƣợc nhà chùa giao cho việc hƣớng dẫn đồng bào đắp thành những ngọn núi

nhỏ ở tám hƣớng và làm rào tre hoặc cây bao quanh núi cát. Những núi này

tƣợng trƣng cho vũ trụ, mỗi núi một hƣớng. Núi thứ chín ở giữa là trung tâm

của trái đất tức núi Sômêru. Sau đó đồng bào còn làm lễ quy y cho các núi.

Các nghi lễ này đƣợc gọi là Anisâng Pun Phnôm Khsách, theo nghi

thức Phật giáo “Phúc duyên đắp núi cát” đƣợc lƣu truyền trong ngƣời Khmer

cho đến ngày nay.

Cũng tại chùa, sau khi tắm Phật bằng nƣớc ƣớp hƣơng thơm xong, họ

còn tắm cho các vị sƣ cao niên nhằm rửa sạch hết những cái cũ trong năm cũ

để sang nắm mới hoàn toàn. Sau đó còn mời các vị sƣ đến cảc ngôi tháp đựng

cốt để tụng kinh chúc phƣớc lành cho những ngƣời quá cố. Xong xuôi cảc

việc qua ba ngày Tết ở chùa mọi ngƣời mới làm lễ tắm tƣợng Phật ở nhà, mời

ông bà cha 'mẹ đến để chúc mừng, tạ lỗi và đem bánh trái tạ ơn ông bà, cha

42

mẹ hoặc tắm cho cha mẹ, ông bà gọi là để trả hiếu.

* Phần hội:

Đồng bào dân tộc thƣờng tổ chức các trò chơi Đơ Chhơ Chrót (đi cà

kheo) để rèn luyện sức khỏe, rèn luyện sự khéo léo, kiên trì; Trò chơi Vay

Thmatt (trò chơi bịt mắt đập niêu); Trò chơi Bos Chhun (trò chơi ném khăn)...

Những lần tổ chức thi đấu đã tạo đƣợc không khí vui vẻ trong sóc, tăng cƣờng

sự giao lƣu đoàn kết giữa các sóc với nhau. Ngoài ra, họ còn tổ chức múa các

điệu múa dân tộc, tổ chức thi hát, giao lƣu bóng đá, bóng chuyền với các đội

bạn...

* Ý nghĩa của lễ Chôl Chnăm Thmây:

Là lễ mừng năm mới, là ngày tết của đồng bào khmer. Tết Chôl Chnăm

Thmây cũng là dịp để bà con Phật từ thể hiện tâm niệm của mình với Đức

Phật, với ông bà cha mẹ mình để “mình ăn gì thì ông bà mình có cái đó” nhƣ

suy nghĩ phổ biến của ngƣời Khmer. Vật dâng cúng không thể thiếu cặp bánh

tét, trái cây vƣờn nhà, một sấp vải trắng để cầu siêu gửi cho ông bà dùng.

Những truyền thống tốt đẹp trong văn hóa Tết của ngƣời Khmer đƣợc giữ cho

đến ngày nay. Trƣớc kia, ngƣời khmer ăn tết kéo dài rất tốn kém, ngày nay

chỉ gói gọn trong vài 3 ngày.

2.1.2. Lễ Sene Đôn Ta

Lễ Sen Đôn ta của đồng bào Khmer Nam bộ còn có tên gọi khác

là Phchum Ben, nghĩa là lễ tụ hội, tích phúc đức, vì ngƣời Khmer xem đây là

lễ lớn nhất trong các lễ tạo phúc đức.

* Phần lễ:

Lễ đƣợc bắt đầu từ tuần trăng khuyết của tháng Phô-tro-bót (15 đến 30

tháng 8 âm lịch). Ngƣời khmer quan niệm trong khoảng thời gian đó, nếu để ý

thì sẽ nghe một tiếng nổ nhƣ sấm to đặc biệt. Đó là tiếng Diêm Vƣơng mở

cửa địa ngục cho vong hồn ngƣời chết đƣợc về trần gian thăm nhà. Mƣời lăm

43

ngày hạ tuần trăng khuyết của tháng này. Theo tín lý đó, là khoảng thời gian

thiêng. Các vong hồn từ thế giới bên kia sống chung với ngƣời dân trong

phum sóc, họ lần lƣợt tìm đến chùa và có tín niệm rằng, khi họ đã tìm đến 7

ngôi chùa mà không thấy con cháu cúng kiếng cho mình thì các vong hồn đó

sẽ oán giận, nguyền rủa con cháu... Thế nên khắp mọi nhà ai cũng tiến hành

việc mang cơm đến chùa cúng để cầu phƣớc cho ông bà và thực hành lễ Đặt

cơm vắt quanh hiên chánh điện để thí thực cho vong hồn cô độc.

Lễ tang của ngƣời khmer cũng mang tính truyền thống và đặc sắc. “Khi

biết ngƣời thân sắp chết, con cháu phải để họ nằm trong một căn phòng riêng

biệt, lập bàn thờ Phật ở phía đầu để hình ảnh Đức Phật ngự trị trong tâm hồn

ngƣời lâm chung. Mỗi buổi tối, con cháu mời sƣ sãi hoặc Acha Duki (thầy

cúng thông thạo việc tang lễ) đến tụng Kinh Apithom: “Đời là bể khổ, nếu

muốn tránh khỏi mọi sự khổ ải trong thế gian, phải tu tập theo pháp tịch diệt,

vô úy, quyết chí đoạn từ mọi cái duyên do, trong lòng giữ gìn mọi mối chính

đạo chớ vƣơng dính cảnh trần, đừng ham nhiều sự tục, thân tâm thanh tịnh thì

chứng đƣợc quả Niết Bàn, thật là sung sƣớng”. “Ngày xƣa, có một ngƣời

chuyên sống bằng nghề săn thú. Trong cuộc đời, ông đã giết biết bao nhiêu

loài thú không kể xiết. Đến khi bị bệnh sắp chết, ông thấy các loài thú bị giết

đến đòi mạng. Ông rất đau đớn và khổ sở. Con trai của ông là Tỳ khƣu, thấy

cha đau đớn nhƣ vậy mới lấy lá trầu xanh ghim vào cây hƣơng đặt lên ngực

ông mà nói rằng: Cha đừng nghĩ vẩn vơ nữa, mà chỉ nghĩ đến Đức Phật mà

thôi. Nhờ thế, ông không còn nghĩ lung tung nữa mà chỉ một lòng hƣớng về

Đức Phật cho đến khi nhắm mắt” [7, tr. 101-102] .

Lễ Sen Đôn Ta bắt nguồn từ tín ngƣỡng dân gian.

Truyền thuyết kể rằng vào thời Đức Phật còn tại thế, một hôm vào lúc

nửa đêm, trong hoàng cung của vua Tần Bà Sa La có tiếng rên la than khóc.

44

Nhà vua sợ hãi ra lệnh cho mời các nhà tiên tri đến để xem quẻ.

Những nhà tiên tri thưa rằng: “Tiếng kêu khóc này là do các Ngạ quỷ

chết oan ức, không gia đình người thân, từ lâu không ai cúng cho họ ăn, nay

họ đến xin được ăn uống. Nếu Hoàng thượng không cúng cho họ, thần lo e

sợ sẽ có chuyện bắt 100 người nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ

cúng tế”.

Nghe xong, hoàng hậu can gián: “Nếu Hoàng thượng làm như vậy, thì

sẽ 200 con người và 100 con vật bị chết oan ức, những thân nhân của họ

càng phẫn uất và oán trách Hoàng thượng, sẽ càng tổn hại đến vương quốc.

Đức Phật là thầy của chư thiên và phàm dân, vậy mình đem việc này

bạch với Đức Phật xem ngài có dạy bảo gì không?”.

Sau khi nghe Hoàng hậu, vua đến chùa bạch với Đức Phật, Đức Phật

nghe xong, dạy rằng: “Đây là Ngạ quỷ thuộc dòng dõi quý tộc, là thân nhân

quốc thích của nhà vua khi họ còn tại ở dương gian từ nhiều đời nhiều kiếp,

do phạm phải lỗi lầm nên bị đọa xuống âm phủ, hiện họ đang thiếu ăn thiếu

mặc đến cầu xin đức vua. Nhưng Ngạ quỷ không ăn trực tiếp được, mà phải

dâng cúng đồ ăn cho các vị giới đức rồi nhờ các vị đó tụng kinh hồi hướng,

thì các ma quỷ đó mới thọ hưởng được”.

Đêm đầu tiên sau khi thực hành theo lời Phật dạy, nhà vua không nghe

ma quỷ rên khóc nữa. Nhưng đến đêm thứ hai nhà vua lại tiếp tục nghe tiếng

rên khóc nữa. Sáng sớm hôm sau, nhà vua lại đến chỗ Đức Phật xin chỉ giáo.

Đức Phật dạy rằng: “Đêm trước là do đã được ăn no nên họ không rên la

nữa. Đêm sau họ khóc là do bị rét lạnh vì không có quần áo để mặc”. Nhà

vua nghe xong, về chuẩn bị y áo cùng vật thực làm lễ dâng cúng cho chư tăng

và nhờ chư tăng hồi hướng.

Sau khi làm lễ, nhà vua không còn nghe tiếng Ngạ quỷ rên khóc nữa.

Từ đó về sau mỗi năm cứ đến ngày này là nhà vua lại thỉnh các vị chư tăng

45

đến cúng dường và hồi hướng cho Ngạ quỷ và những người quá cố.

Giống đời sống tâm linh của ngƣời Kinh theo đạo Phật, có lễ Vu lan

diễn ra vào tháng 7 âm lịch hằng năm. Vu lan là “mùa bảo hiếu”, một nét đẹp

về lòng tri ân, hiếu thảo của các con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Cũng tƣơng

tự nhƣ vậy, ngƣời Khmer theo Phật giáo Nam tông tiểu thừa có lễ Sen Đôn Ta

(lễ cúng ông bà, tổ tiên) là một trong ba lễ lớn hằng năm.

Vào mùa Đôn Ta, các vị sƣ sãi và đồng bào Khmer ở các chùa, ở trong

mỗi gia đình đều hƣớng về tổ tiên với lòng thành kính để đƣợc dâng ơn, đáp

nghĩa bao la vô tận đối với các đấng sinh thành đã dƣỡng dục cho mỗi ngƣời

lớn lên và trƣởng thành. Lễ Sen Đôn Ta gắn liền với tâm linh, tín ngƣỡng đã

in sâu trong tâm thức đồng bào Khmer thể hiện rõ nét giá trị đạo đức, văn hóa,

phong tục tập quán của dân tộc.

Lễ Đôn Ta đƣợc tổ chức vào 3 ngày từ 29-8 đển 1-9 âm lịch. Tùy từng

nơi mà lễ có thể đƣợc rút ngắn hơn. Nghi thức lễ Đôn Ta từ trƣớc đến nay hầu

nhƣ không có sự thay đổi. Nhƣng cũng tùy thuộc vào khả năng của mỗi nhà

mà làm lễ cúng lớn hay nhỏ.

Ngày đầu tiên (30-8 âl) các gia đình tổ chức lễ Đón ông bà. Công việc

bắt đầu là dọn dẹp các bàn thờ trong nhà. Ngƣời Khmer thờ Phật, bàn thờ

chính giữa nhà, 2 bên là bàn thờ tổ tiên và bàn thờ tổ nghề. Công việc kế đó là

trải chiếu, gối, mùng, mền mới lên giƣờng và lo làm cổ, trƣớc hết là nấu bánh

tét (Nùm som chruốt). Đặc điểm là lễ vật cúng không đặt trên bàn thờ, ở đó

chỉ thắp đèn, nhang; mâm cơm cúng, lễ vật, trà, bánh... đều dọn ở trên giƣờng,

trƣớc bàn thờ ông bà, tức ở một bên nhà. Buổi sáng, cúng lễ Đón ông bà thì

chiều cúng một lần nữa và trong lễ này con cháu mời ông bà đi chùa nghe chƣ

Tăng tụng kinh. Nghi thức cúng lễ tất thảy đều y nhƣ thật. Ngƣời chủ lễ khấn

vái, mời ông bà dự lễ, con cháu ngồi quanh mâm cơm cúng bới cơm, gắp thức

ăn bỏ vào chén, bày bánh, rót rƣợu, nƣớc bƣng lên dâng cho ông bà. Ngoài

46

đặc điểm nghi thức không có tính hình thức tƣợng trƣng, lễ vật cũng là vật

thực thật. Ở mâm cúng chiều, đặt trên đĩa bồng "chơn piên" là vải áo trắng, sà

rông dệt hoa văn đẹp đẽ cùng với gƣơng, lƣợc và kéo. Đó là những lễ vật thật

để ông bà sửa soạn tóc, râu cho tƣơm tất, chƣng diện trang phục đẹp xinh... để

đi chùa lễ Phật nghe kinh. Nói cách khác, ngƣời Khmer không dùng đồ mã và

ngay cả tiền để cúng tiễn đặt trên thuyền bè làm bằng bẹ chuối thả ra sông

cũng là tiền... thật, chứ không phải giấy tiền, vàng bạc bán hàng bó ngoài chợ!

Đây là những khác biệt văn hóa khiến phải suy ngẫm. Lệ cúng ở đây, buộc

chủ lễ gắp thức ăn một thứ một ít bỏ vào dĩa, đem ra sân góc vƣờn cúng

những binh gia âm phủ - gọi là "Neak Mhắc Bàtranh" để đƣa vong hồn ông bà

về nhà. Tín niệm truyền thống cho rằng các đối tƣợng này không đƣợc phép

vào nhà dự hƣởng lễ vật nhƣ ông bà tổ tiên.

Lễ Đặt cơm vắt Prochum Bôn: Đƣợc ngƣời Việt dịch là lễ Hội linh

(Prochum: tụ hội lại; Bôn: cơm vắt), có nghĩa là cùng nhau cúng cơm vắt, thí

thực/ làm phƣớc cho các vong linh quá vãng. Theo truyền thống, lễ này đƣợc

tiến hành trong hạ tuần trăng khuyết của tháng Phôtrobot (16 - 30/8 âl) tại

chùa. Nay để giản tiện, đƣợc tích hợp vào dịp Pi-thi sene Đôn-ta.

Lễ này luôn đƣợc tiến hành vào giấc khuya. Theo giờ đã định, dân

chúng trong sóc lũ lƣợt mang gạo, nếp, bánh, trái và cơm vắt đặt vào khay

cúng đến sa-la (hay chính điện Preah Vihear) để cúng Tam bảo và mời sƣ sãi

tụng kinh cầu phƣớc cho tổ tiên mình. Dịp này, các nhà sƣ cũng có thể làm lễ

thọ giới cho tín đồ. Nghi thức gồm việc tuyên đọc Ngũ giới và kế đó là nghi

thức phát nguyện giữ đúng các giới này. Cuộc lễ chấm dứt, bằng nghi thức đặt

bát và thỉnh mời chƣ Tăng thọ thực. Tục xƣa, các vắt cơm còn đƣợc đem đặt

ngoài hè, trong vƣờn chùa, gọi là để cúng các vong hồn không ngƣời tế tự,

quân lính cõi âm có nhiệm vụ đƣa vong linh ông bà về dƣơng thế và trở lại

47

cõi âm.

Ngày thứ hai, vẫn để ông bà ở lại chùa tiếp tục nghe sƣ sãi tụng kinh

thuyết pháp và vui chơi. Đến trƣa sau khi dâng cơm cho sƣ sãi xong thì đƣa

linh hồn ngƣời quá cố về nhà, làm cơm cúng và mời ông bà ở lại chơi với con

cháu thêm một đêm nữa.

Ngày thứ ba là ngày cúng cuối cùng gọi là “cúng đƣa”. Mỗi gia đình lại

dọn lễ vật nhƣ ngày đầu tiên và cũng mời bà con họ hàng, làng xóm đến dự.

Khi làm xong các thủ tục cúng nhƣ ngày đầu thì xới cơm, gắp thức ăn vào

chén (bát), để thêm bánh trái, lúa, muối, đậu, mè... tất cả đƣợc đặt lên một

chiếc xuồng hoặc tàu buồm làm bằng bẹ chuối kết lại để tiễn đƣa ông bà và

ma quỷ mang theo về nơi cũ dùng dần. Ở mũi và lái xuồng có hình cá sấu để

các linh hồn tránh gặp tai nạn. Chiếc xuồng đƣợc thả trên sông, rạch gần nhà.

Sau đó, mọi ngƣời dùng cơm, xem ca hát, không khí rất vui vẻ. Có nhà còn

mời các vị sƣ đến tụng kinh cho thêm phần long trọng. Chiều hoặc tối thì kết

thúc 3 ngày lễ Đôn Ta.

Lâu nay ở khu vực Nam Bộ, trong mối quan hệ đoàn kết giữa ba dân

tộc Kinh - Khmer - Hoa, dịp lễ Đôn Ta của đồng bào dân tộc Khmer anh em,

đồng bào Kinh, Hoa trong các xóm ấp lân cận cũng đƣợc mời đến chung vui,

thắt chặt thêm tình làng, nghĩa xóm.

* Phần hội:

Tƣơng tự nhƣ lễ Chon chnam thmay, họ cũng tổ chức các trò chơi nhƣ

ném bóng, đá banh, bóng chuyền, tổ chức múa hát.

* Ý nghĩa của lễ Sen Đôn ta:

Lễ Sen Đôn ta là lễ cúng ông bà. Lễ này có ý nghĩa giáo dục con cháu

truyền thống tƣởng nhớ công ơn dƣỡng dục của ông bà, cha mẹ và cũng là dịp

con cháu quây quần họp mặt để tƣởng nhở tổ tiên. Lễ Sen Đôn ta của đồng

bào Khmer Nam bộ là lễ hội không chỉ mang tín ngƣỡng dân gian, xen lẫn

48

yếu tố tôn giáo. Đối với đồng bào Khmer, Phật giáo là tôn giáo gắn liền với

đời sống văn hóa tinh thần của họ, mọi lễ hội, sinh hoạt đều gắn liền với Phật

giáo, với chùa chiền và đều hƣớng dẫn con ngƣời đến cội nguồn việc thiện,

biết vay biết trả và biết nhớ đến nguồn cội của mình.

2.1.3. Lễ Okombok

Lễ hội okombok là một lễ hội lớn trong năm của ngƣời khmer, trong lễ

hội này sôi động nhất là các lễ cúng trăng, lễ đút cốm dẹp, hội đua ghe ngo,

hội thả đèn gió.... Đó là truyền thuyết truyện cổ tích đƣợc các bậc cao niên

tiền bối kể lại.

* Phần lễ:

Đồng bào Khmer cử hành các lễ hội cổ truyền theo Phật lịch Nam

Tông. Theo lịch này một năm có 354 ngày, chia thành 12 tháng theo thứ tự kể

sau đây. Thứ tự này có thể tƣơng đƣơng với tháng âm lịch - chỉ là có thể

tƣơng đƣơng thôi, vì âm lịch còn có ngày nhuận, tháng nhuận nên có khi lịch

xê xích ngày tháng lên xuống theo từng năm…

Đồng bào khmer đợi đến ngày 15 tháng kdoeh là tổ chức Lễ Cúng

Trăng, một lễ hội văn hóa độc đáo của Ngƣời Khmer Nam Bộ. Đêm ngày 15

tháng kdoeh là đêm rằm tròn trăng thứ 12 cuối cùng, khép lại một năm của

ngƣời Khmer.

Tháng kdoeh là tháng lúa mùa trên đồng chín vàng mùa thu hoạch.

Ngày xƣa nông dân Đồng bằng sông Cửu Long làm một vụ lúa. Ngƣời nông

theo lịch trăng mà cấy trồng.

Ông Trăng theo quan niệm của ngƣời Khmer là chủ của mùa màng.

Trăng tỏa hào quang khắp bầu trời. Trong tâm thức cùa những thiện

nam tín nữ Ông Trăng chính là hình ảnh cung quảng của Thỏ Ngọc. Tƣơng

tuyền có một tiền kiếp của đức Phật là Thỏ trắng, Thỏ sống bên bờ sông Hằng

kết bạn cùng với Khỉ, Rái Cá và Chó Rừng. Chúng sống yên vui tƣơng thân

49

tƣơng ái với nhau. Trong đám thú đó Thỏ hiểu biết hơn cả, Thỏ còn biết tham

thiền. Chính thỏ đã nghĩ ra và đề xuất với các bạn cuộc ƣớc hẹn sẽ cùng ngồi

thiền tu thân. Một lần, trƣớc ngày tròn trăng, Thỏ nhắc các bạn lo thực hiện

việc ngồi thiền. Các bạn phải kiếm thức ăn dự trữ khi ngồi thiền giành thức ăn

đó cho kẻ thiếu thốn đói khát. Các con vật kia hăng hái đi săn bắt lo phần ăn

những ngày ngồi thiền và để bố thí. Trên trời cao, thần Sakah vị chúa của cảc

thần Têvađa thấu đƣợc việc hẹn hò của các thú vật động lòng cảm mến. Thần

bèn giả làm ngƣời ăn xin xuống trần gian coi các con vật thực hiện lời hứa?

Rái Cá, Khỉ và Chó Rừng đều thảo lòng mời ngƣời ăn xin dùng bữa thức ăn

của mình. Ngƣời ăn xin gặp Thỏ, Thỏ ngồi thiền từ mấy ngày nên không có

thức ăn, nhƣng Thỏ nhanh nhẹn nhóm bếp tính nƣớng thân mình cho ngƣời ăn

xin. Thỏ vùa nhảy vào lửa, thần Sakah biến lửa không nóng chảy Thỏ và thần

hiện nguyên hình. Thần ngợi ca nghĩa cử thƣong ngƣời cao cả của Thỏ. Thần

vẽ hình thỏ lên mặt trăng. Tiền kiếp Thỏ của Phật Thích Ca tỏa sáng vĩnh

hằng trong càn khôn!

Trăng thiêng liêng, Trăng tháng kdoeh càng thiêng liêng cao quý. Nên

đồng bào Khmer tổ chức Lễ Cúng Trăng. Cúng mừng mùa vụ và cúng hết

năm. Cử hành lễ. Ngƣời cao tuổi nhất liên gia là chủ lễ, cung kính thắp nhang.

Trong hƣơng trầm ngào ngạt, mọi ngƣời hƣớng lên mặt trăng cùng khấn

thỉnh.

Lời khấn thỉnh truyền đời:

“Hôm nay là ngày rằm tháng kdoeh, một ngày đầy uy lực, hào quang

tóa khắp bầu trời, tốt tƣơi sƣời ấm lòng ngƣời. Chúng tôi cùng nhau kẻ ít

ngƣời nhiều đem lễ vật do mình làm ra: cốm dẹp, khoai, bƣởi, mía… .để dâng

lên Ông Trăng là ngƣời chủ của mùa màng. Xin ngài vui lòng tiếp nhận và

ban phƣớc cho loài ngƣời chúng tôi no ấm hạnh phúc.”

Những cặp mắt trông trăng tỏ ân nghĩa và chờ mong hy vọng đƣợc

50

thấm nhuần ảnh sáng cuộc sống ngày mai tốt đẹp hơn.

Lễ Cúng Trăng có nghi thức đút cốm dẹp - Ok Om bok. Ngƣời đút cốm

chính là ngƣời già đứng đầu lễ. Sau khi khấn vái cầu nguyện với vừng trăng

mùa vụ dâng cốm cũng nhƣ các lễ vật lên Mặt Trăng, ngƣời đƣợc hƣởng lộc

trƣớc tiên là con nít, lộc lễ ban phát đầu tiên là Cốm dẹp. Chủ lễ bốc cốm dẹp

lần lƣợt đút cho tất cả trẻ con của liên gia đƣợc ngồi vòng tròn trong. Trẻ em

là “đối tƣợng” đút cốm và chúng là những “nhân vật” nói lên niềm ƣớc muốn

vởi cuộc sống. Sau khi đút cho trẻ nắm cốm dẹp để nó ăn thì ngƣời đút cốm

hỏi: Con có ƣớc mơ gì?

Mỗi năm mỗi lễ Cúng Trăng những lời mơ ƣớc thiêng líêng của trẻ em

vang trong Trăng Rằm Kdoch. Đó là những lời không thể thiếu đƣợc trong Lễ

Cúng Trăng, trong lễ nghi đút cốm dẹp. Nhũng ƣớc mơ này cũng giống nhƣ

lời chúc tết của trẻ em của cộng đồng khi đón năm mới, xuân mới, đƣợc lì xì

mừng tuổi.

Lời trẻ đƣợc đút cốm dẹp nói chi?

Đó là những lời trẻ ƣớc mong cho ông bà cha mẹ anh chị em trong gia

đình và bà con lối xóm khỏe mạnh.

Đó là những lời trẻ ƣớc mơ mùa màng tƣơi tốt, có nhiều cốm dẹp ngon,

có cơm có khoai có bắp ăn no lòng mỗi bữa, mỗi ngày.

Đó là những lời trẻ ƣớc mơ đƣợc học hành. Có áo quần lành, có cặp

sách, tập viết để học. Đó là những lời trẻ ƣớc mơ khi lớn lên làm nhiều công

việc khác: làm thầy giáo, cô giáo dạy học, làm bác sĩ chữa bệnh, làm kỹ sƣ

trồng trọt...

Có những em ƣớc mơ lớn lên thành cầu thủ đá banh, thành ngƣòi ngồi

đầu mũi ghe ngo trong Lễ hội un túk - Đua ghe ngo.

Ngƣờí lớn nghe, tới ngƣời lớn hƣởng lộc trông trăng, ngẫm nghĩ và bàn

51

luận về những ƣớc mơ của trẻ con.

Câu trả lời của trẻ thơ có ý nghĩa thiêng liêng, đƣợc Xem nhƣ là một lời

dự báo với đời sống của các gia đình của lối xóm và cả bản thân trẻ nữa.

Không hẳn chỉ là điềm báo mà những ngƣời lớn lắng nghe lời mong ƣớc của

trẻ luận ra cuộc sống năm sau mùa tới ngƣời lớn đóng vai trò chính trong việc

lo toan làm ăn để thực hiện ƣớc mơ đó... Và tới Lễ Cúng Trăng tiếp theo lại

tiếp tục nghe những lời mơ ƣớc mới trong việc xây dựng gia đình phum sóc

ấm no hạnh phúc. Sau khi ăn cỗ cúng trăng cuộc hội vui tƣng bừng phum sóc.

* Phần hội:

Ngƣời khmer tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân dịp lễ. Tổ

chức các trò chơi tạo không khí vui tƣơi trong dịp lễ. Mở đầu là trò chơi thả

đèn gió. Chiếc đèn gió mang ánh sáng bay lên với ánh trăng rằm. Những cái

đèn gió là sự phát triển cao hơn từ ngọn đèn trong cây đèn thắp sáng trên cây

cột ở trƣớc cửa các ngôi chùa Phật. Những ngọn đèn trong cây đèn trƣớc cửa

chùa đã đƣợc thắp sáng hằng đêm từ đêm rằm tháng trƣớc - tháng asoch.

Những ngƣời làm ra đèn gió chắp cánh cho ngọn lửa đèn bay lên với ánh

trăng huyền diệu. Làm đèn gió thả đèn gió phải có kỹ thuật, có nghệ thuật, từ

lối cân dây buộc hèo, lối làm khung xƣơng, lối phết giấy tới lo đĩa dầu đốt

trong lòng đèn. Đèn đƣợc thả lên bay cao chảy cạn kiệt dầu và định đƣợc cả

chỗ đèn rớt xuống ở đâu đó trong đồng ruộng xa phum sóc. Những ngọn đèn

dâng Phật làm hết sức cẩn thận an toàn. Ngƣời ta quan niệm nếu đèn chảy,

đèn sa xuống trong phum sóc nhà ai đó là xui xẻo. Phum sóc ngày trƣớc có

tháp chính điện, tre trúc hiền hòa không lô xô cây lả, không chằng chịt dây

điện sảng, điện thoại, càng không có những chất đủ loại đú kiểu mất an

toàn nhƣ ngày nay. Ngọn đèn gió đƣợc thả bay lên trời đúng nhƣ tên gọi

của nó. Đèn bay cao vút... xa dần, dƣờng nhƣ ánh đèn hòa nhập vào ánh

52

Trăng Thỏ Ngọc.

Trƣớc cổng cúng trăng cuộc vui đã chuyển qua phần văn nghệ, ca hát,

kể chuyện sự tích lịch sử về Đức Phật, về phum sóc. Nhạc khí Khmer kết dàn

trình diễn, những lời ca, những điệu múa những câu hát đối đáp và những trò

chơi dân dân tiếp nối.

Từ các liên gia trong phum sóc, lễ hội chuyển dần ra sân chùa. Những

đoàn ngƣời ca hát tụ về hội chùa, trăng càng lên cao cuộc hội nhập về chùa

càng đông vui, càng say mê tƣng bừng.

Tục đua Ghe ngo; ghe ngo là một chiếc thuyền dài cong vút. Một

thuyền đua có cấu tạo nhiều nét khá đặc biệt. Ghe đƣợc làm bằng gỗ tốt, có

đầy đủ những tính chất của một vật dụng bơi chải chịu nƣớc tốt, chịu đƣợc

hoạt động cực kỳ mạnh mẽ linh hoạt của trên 40 tay chèo đua. Về cấu tạo: ghe

ngo có thân dài khoảng 25m, có chiều ngang ở giữa lớn nhất tới 1,4m vuốt

suôn về hai đầu chỉ còn 0,4m. Trong lòng ghe đặt ngang những “thang ghế

ngồi đôi” từ đầu tới cuối ghe.

Về nhân sự đội đua ghe ngo đƣợc tổ chửc sắp xếp rất chặt chẽ với một

loat những “tay chèo” vởi dầm chèo nhiều kích cỡ ở từng vị trí khác nhau.

Có ba ngƣời ngồi đầu ghe vởi vị trí lãnh đạo. Một trƣởng ngồi trƣớc và

hai phó ngồi sau hai bên. Mỗi ngƣời cầm một dầm xác định hƣớng tới, nhịp

độ đua và thời khắc tới đích. Đó là những nhiệm vụ chỉ huy thiết yếu giữ vai

trò quan trọng hàng đầu quyết định thắng thua của cuộc đua.

Những con dầm chèo những cặp kề vai ngồi trên những băng ghế từ

sau ba nguời ngồi mũi ghe, bao gồm:

- Khoảng 18 con dầm ngồi bơi.

- Khoảng 20 con dầm quỳ bơi.

- 8 con dầm nhún bơi.

- 3 con dầm lái. Lái chính ngồi cuối cùng, hai lái phụ ngồi ở hai bên

53

phải và trái trƣớc lái chính.

Trên ghe còn ngƣời đứng cầm nhịp, giữ nhịp. Ngƣời đó ra nhịp bằng

còi (ngày trƣớc dùng kèn sừng trâu) hoặc trống. Nhịp chèo lệnh tập trung các

tay chèo dồn sức lên, đƣa ghe lƣớt tới mạnh nhất. Cái nhịp đó lan tỏa tiếng hô

con dầm chèo (làm gắn kết hành động toàn đội đua tạo một nhịp dồn, một sức

đẩy ghe vút tới) với những tiếng: Hầy dơ! Hầy dơ! Không dứt.

Khi dựng chùa, mỗi phum sóc chọn một con vật làm biểu tƣợng.

Ở đầu ghe, cuối ghe ngƣời thợ tài hoa uốn cách điệu dáng đầu đuôi con

vật hoặc trên thân ghe vẽ hình con vật đó. Hội đua ghe toàn vùng hội về muôn

sắc màu, với dáng vẻ rực rỡ uy phong của cọp, voi, ngựa, ó biển, thỏ, dơi, sƣ

tứ, nàng tiên cá... trên các ghe ngo.

Ghe ngo là linh vật của phum sóc, đƣợc đóng và gìn giữ bảo quản đặc

biệt là để tại chùa. Trong đất chùa dựng một cải Nhà ghe rông túk thiêng

liêng. Rông túk có mái che mƣa nắng có dàn đà để đặt ghe lên trân trọng và

chống ẩm mục, mối mọt. Ngày trƣớc kiêng kỵ phụ nữ không đƣợc tới gần

rông túk.

Hằng ngày các sƣ sãi và phật tử thắp nhang cúng Phật, thăp nhang,

dâng bông ghe ngo.

* Phần hội:

Nổi bật là truyền thuyết về đua ghe Ngo theo tƣơng truyền thì có nhiều

giả thuyết. Nhƣng trong đó có 3 giả thuyết đáng đƣợc chú ý nhất, đó là:

Thứ nhất, theo dân gian kể rằng ngày xƣa có công chúa Neng Chanh

(Nàng Chanh) có tài sắc vẹn toàn đƣợc nhà vua rất yêu quý. Từ lòng ganh

ghét ti tiện nên một tên quan đại thần đã vu cáo cho nàng tội bỏ chất cáu bẩn

ở móng tay vào nồi canh của vua. Biết mình không còn cách nào minh oan,

Neng Chanh vội vã xuống thuyền xuôi theo sông Ba Sắc chạy trốn. Nhà vua

cho quân lính đuổi theo hạ sát nàng. Biết không thể thoát thân, định mạng đã

54

đến, nên Neng Chanh vội vã ném chiếc ống nhổ (ngƣời Khmer gọi là Kon

thô) là kỷ vật đƣợc Nhà vua ban tặng trƣớc đó xuống vàm sông và nơi đó sau

này ngƣời Khmer gọi là “Peam Kon thô” (Peam là vàm, Kon Thô là ống nhổ;

ngƣời Việt gọi vàm Ống Nhổ - nay gọi vàm Dù Tho) và kết cục nàng bị vua

xử trảm một cách thƣơng tâm. Từ truyền thuyết đó, nên trong dân gian Khmer

tƣơng truyền: để tƣởng nhớ Neng Chanh tài hoa, bạc mệnh, hàng năm cƣ dân

Khmer quanh vùng tổ chức đua ghe Ngo để diễn lại cảnh Neng Chanh chạy

trốn khỏi hoàng cung đến vùng đất Ba Sắc - nay là Sóc Trăng.

Thứ hai, Tục đua ghe Ngo theo dân gian tƣơng truyền thì xuất phát từ

đặc điểm cuộc sống của cộng đồng cƣ dân lúc bấy giờ ở vùng sông nƣớc, cho

nên khởi đầu họ đã làm nên chiếc ghe độc mộc dùng để làm phƣơng tiện đi

lại, đồng thời chiếc ghe Ngo cũng là vật linh thiêng dùng ghe Ngo để đƣa

nƣớc từ ruộng đồng ra biển cả, đánh dấu sự kết thúc của một năm đồng áng.

Những cuộc mƣu sinh để chống chọi với thiên nhiên và đàn thú dữ thƣờng

đƣợc tổ chức đi thành từng đoàn, do đó chiếc ghe độc mộc lúc bấy giờ có

phần bất tiện, không khả năng đáp ứng đƣợc sức tải nhiều ngƣời theo yêu cầu,

nên họ phải sáng kiến đóng chiếc ghe dài ra để chở đƣợc nhiều ngƣời, phục

vụ cho cuộc sống mƣu sinh của cộng đồng.

Thứ ba, có thuyền thuyết cho rằng tục đua ghe Ngo của đồng bào

Khmer là nhằm ôn lại kỳ tích của lực lƣợng chủ lực hải quân và chiếc thuyền

chiến (ghe Ngo). Theo tài liệu đƣợc viết gần đây bằng tiếng Khmer, về

“Nguồn gốc lễ hội đua ghe Ngo, thả đèn nƣớc và cúng trăng” của nhà sƣ

Thạch Sô Tƣm xuất bản năm 2009 cũng đáng ngẫm nghĩ về lịch sử của lễ hội

truyền thống này. Trong đó đã nêu về nguồn gốc của lễ hội đua ghe Ngo ở

Sóc Trăng rằng: “Hội đua ghe Ngo đã có từ lâu và trở thành một tập tục của

những cƣ dân ở xứ sở Ba Sắc xƣa (nay là Sóc Trăng) vào khoảng năm 2071

tính theo Phật lịch và năm 1528 tính theo Dƣơng lịch, tƣơng ứng với thời đại

55

Nhà vua Ăng Chanh thứ nhất, vƣơng triều Long wêk của Campuchia (Trang 4

và 5). Theo tƣơng truyền, tục đua ghe Ngo của ngƣời Khmer Sóc Trăng lần

đầu tiên đƣợc tổ chức tại “Pem Kon Thô” tức là Vàm Dù Tho ngày nay thuộc

địa bàn huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nơi này các đội ghe Ngo của các

vùng Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh tập trung về đây đều thuận lợi, ở đây có

1 con sông lớn thẳng dài, dòng nƣớc chảy đều, có sân bãi lộ thiên và cũng là

nơi ngã ba đƣờng tiếp giáp nhau thành nơi giao thƣơng sầm uất lúc bấy giờ.

Đến thời Pháp thuộc, chúng bắt buộc phải dời điểm đua về sông Om

pu gie tức là sông Nhu Gia ngày nay thuộc xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên,

tỉnh Sóc Trăng để dễ bề kiểm soát an ninh. Đến thời kỳ Mỹ ngụy cuộc đua

cũng tổ chức tại sông Nhu Gia, thỉnh thoảng (năm 1972 - 1974) tập trung tổ

chức tai Kinh Xáng thuộc thành phố Sóc Trăng ngày nay. Sau ngày miền

Nam giải phóng cuộc đua ghe Ngo lại đƣợc tổ chức tại sông Nhu Gia cho đến

khoảng đầu thập niên 80 để tổ chức cuộc đua ghe Ngo truyền thống của đồng

bào Khmer ngày càng chu đáo, phát huy giá trị văn hóa và tính chất quần

chúng hóa lễ hội nên cuộc đua chính thức đƣợc dời về tổ chức tại Kinh Xáng

hay còn gọi là sông Sung Đinh, thời Pháp gọi là sông Maspéro (thành phố Sóc

Trăng) thuộc trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng cho đến ngày nay. Hằng năm, quy

mô tổ chức cuộc đua ngày càng lớn, thể hiện rõ tính chất quần chúng hóa lễ

hội theo hƣớng nét đẹp văn minh, đoàn kết, an toàn vì mục tiêu nâng cao mức

hƣởng thụ về đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc nói riêng và

nhân dân trong tỉnh, khu vực nói chung.

“Tuk Ngô” (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm

bằng cây sao. Thuở xƣa rừng châu thổ sông Mêkông ngút ngàn gỗ quý. Tuy

nhiên, để tìm đƣợc một thân cây sao bằng hai ngƣời ôm thì không phải là

chuyện dễ. Ngƣời ta phải tổ chức cho một nhóm ngƣời vào rừng tìm cây thích

hợp bất chấp thú dữ, rắn rít. Khi tìm đƣợc cây đúng tiêu chuẩn thì ngƣời ta

56

phải làm lễ cúng thần giữ rừng (Neak ta Prey ph'nôm) để đƣợc bình an vô sự

rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết

thành bè rồi thả theo dòng nƣớc. Cây sao đem về phải cƣa, đục, đẽo, khoét

thành chiếc ghe độc mộc. Sau này ghe đƣợc cải tiến nối thêm đầu và đuôi

đều cong ngƣời Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Cong là ngô – đọc trại

thành Ngo).

Theo nguyên tắc, chiếc ghe Ngo dài 27 mét, hình tựa con rắn, mình

thon thon, thoai thoải về phía trƣớc, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái một

chút. Ghe Ngo có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang

dài 1,2m làm băng ngồi vừa đủ 2 ngƣời ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song

song gồm 24 đôi. Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo

từng vị trí ngƣời bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, thƣờng là

thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, hai cây kềm chịu lực này giúp cho ghe

nhún nhảy và phóng nhanh đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Hai

cây này có đƣờng kính 0,2m. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái

(từ giữa thân thân ghe về phía sau) gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu).

Thân ghe đƣợc chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên

be sơn một lằn trắng hoặc vàng tùy ý thích của sƣ cả trụ trì. Hai bên be vẽ

hình các con vật, nhƣ rồng, cọp, hổ… hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi

ghe vẽ hình biểu tƣợng của ghe và ghi tên chùa. Khi xây chùa, ngƣời ta chọn

một con vật làm biểu tƣợng và khi đóng ghe, con vật này cũng là biểu tƣợng

của chiếc ghe.

Ngày nay, những thân cây sao bằng 2 ngƣời ôm hầu nhƣ không còn

nữa nên ghe Ngo hiện đại đƣợc đóng bằng ván cây sao. Có lẽ do kết cấu của

ghe ngày nay mỏng và nhẹ hơn ghe truyền thống nên nhiều ngƣời nhận định

rằng ghe ngày nay lƣớt nhanh hơn ghe độc mộc ngày xƣa. Ghe Ngo bao giờ

57

cũng đƣợc bảo quản trong một mái nhà để ghe trong khuôn viên chùa. Mái

che, dàn đà cao chắc chắn để che mƣa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi

thiêng liêng, ngày xƣa phụ nữ không đƣợc đến gần, đây là điều cấm kỵ.

Trƣớc đây, ngƣời ngồi mũi (nhân vật số 1 của đội bơi) phải là ngƣời

khá giả, có uy tín trong phum sóc. Đƣợc bình chọn ngồi mũi, ngƣời ấy phải lo

lễ cúng, lo nuôi “con dầm” ăn, tập dợt, lo chi phí cho cuộc đua. Ngày nay

nhiều sóc vẫn còn giữ lệ này.

Sau ngƣời ngồi mũi là những cặp ngồi trên băng ghế. Cặp ngồi kế mũi

là “s'ma tƣm”. Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh (theo đúng nhịp cồng

hoặc còi), làm chuẩn mực cho ngƣời ngồi phía sau. Kế tiếp là “kôn Chro va”

gồm 6 ngƣời ngồi bơi. Tiếp theo là “Kô lich” gồm 28 ngƣời quỳ bơi, khi ghe

bơi gần đến đích, 28 ngƣời này nhất tề đứng lên, một chân làm trụ, một chân

dùng hết sức cánh tay đẩy ghe phóng nhanh, lao thẳng về đích. 8 ngƣời nhún

bơi gọi là “sroong dôn”. Sau cùng là 3 tay lái. Lái chính đứng sau cùng, 2 lái

phụ đứng trƣớc ở 2 bên phải trái.

Vì chiếc ghe Ngo đƣợc tạo dáng nhƣ con rắn dài, đầu và lái đều cong.

Khi bơi, nếu động tác phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thăng bằng

và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục. Ngƣời đƣợc

chọn bơi phải là trai tráng khoẻ mạnh, đƣợc tập dợt theo từng vị trí của mình.

Trƣớc hết là tập bơi trên cạn: tất cả tay dầm, đứng theo vị trí của mình tại

điểm tập bơi (thƣờng là trƣớc sân chùa). Tập theo tiếng cồng (ngày nay có khi

dùng tiếng còi thay thế) của huấn luyện viên cho thật đều và thật nhịp nhàng.

Kế đó là tập bơi trên dàn gỗ dƣới ao hay là trên sông gần chùa nhằm luyện

sức cánh tay và sức bền thể lực. Sau cùng là tập bơi trên ghe Ngo để hoàn

chỉnh cuộc tập dợt. Khổ luyện sức, kỳ công luyện kỹ thuật, luyện cho tất cả

nhập sức làm một nhịp chèo, đƣa ghe lƣớt về đích.

Ghe ngo là vật thiêng liêng. Nhất cử nhất động đều phải cứ lễ cầu xin

58

trƣớc. Sau đây là những tiết lễ đƣợc tiến hành với một ghe ngo.

- Lễ cửa rừng xin cây làm ghe. Mời thần cây về làm thần ghe.

- Lễ khởi công làm ghe ngo.

- Lễ khánh thành ghe ngo. Đƣa ghe lên Nhà ghe. Khi đƣa ghe vào hội

đua ghe có các lễ.

- Lễ xuống ghe. Đƣa ghe từ Nhà ghe xuống nƣớc trƣớc ngày hội đua để

đội đua luyện tập.

- Lễ xuất ghe đi dự hội.

- Lễ xuất phát trƣớc cuộc đua.

- Lễ lên ghe.

- Khi tham dự hội về làm lễ đƣa ghe lên Nhà ghe.

Trong mỗi lễ kể trên đều có những quy định cụ thể chi tiết các tiết lễ,

các vật lễ. Quy định rõ tới cả vị trí đặt lễ, ngƣời hành lễ, ngƣời dự lễ, lời thỉnh

lễ và cả các linh sự liên quan với lễ.

Khi cứ hành Lễ xuống ghe có 5 mâm cỗ. Hai mâm trƣớc nhà ghe. Ba

mâm ở trên ghe đặt ở đầu, giữa và cuối ghe. Mỗi mâm cúng kiếng có rƣợu,

thịt heo, thịt gà luộc, trứng gà, lúa nổ, nửa ly huyết gà tƣơi và trái cây... Slatho

có nhang, đèn cầy (nến), trầu cau… Mỗi chỗ trên băng ghế đặt một bó hoa

tƣơi.

Khi tiến hành cúng ghe ngo phải cúng Thổ Địa.

Phum Sóc Khmer có chính điện thờ Phật. Chùa Khmer là trung tâm văn

hóa. Cái ghe trong Nhà ghe ở chùa là vật thiêng của cả cộng đồng. Ngƣời ta

tổ chức lễ hội ghe ngo, ngƣời ta tham gia đua ghe ngo là hoạt động văn hóa và

tham dự thành tâm hết mình để giữ danh dự của phum sóc. Do Vậy mà lễ hội

đua ghe ngo đƣợc tổ chức hết sức trang trọng và tƣng bùng.

Theo lịch cổ của ngƣời Khmer tháng mƣời là tháng cùng của năm.

Ngày rằm là ngày sáng đẹp nhất của tháng. Mặt trăng có sự tích thỏ ngọc, một

59

trong những tiền kiếp của đức Phật. Lễ Cúng Trăng, Lễ đút cốm dẹp... Ngày

nhƣ vậy đua ghe ngo thật là một dịp tốt tuyệt vời, nếu đua thắng cuộc đem

niềm vui về cho phum sóc. Nhƣng trƣớc hết lễ hội đua ghe ngo là cuộc tụ hội

đông vui của cả cộng đồng. Hội đua ghe ngo ở Sóc Trăng là cuộc chơi có sự

hiện diện của vài vạn ngƣời dân quanh vùng. Dân gian còn truyền câu ca nói

cái tinh thần “chơi hết mình” của dân đất giống nghèo khó ngày xƣa: “Hầy

dơ… Ăn khoai ăn mì đi coi đua ghe... ”

Nhƣ trên đã nói, cuộc Hội mang sinh hoạt niềm vui danh dự tự hào của

phum sóc cho nên đƣợc toàn phum sóc quan tâm đóng góp. Đội đua đƣợc

tuyển chọn kỹ lƣỡng từ những thành viên tốt nhất trong làng xóm không kể

họ ngƣời dân tộc nào.

Ngƣời ngồi mũi phải đƣợc cả phum sóc tín nhiệm. Đó là con ngƣời

toàn diện, có đức, có nhân nghĩa, làm ăn khá giả, công chuyện gia đình đang

rất tốt đẹp. Khi đƣợc cả làng xã chọn lựa tín nhiệm ngƣời ngồi đầu mũi ghe

phải có điều kiện vật chất và nhất là có tấm lòng lo chi phí chu toàn cho đội

đua tham dự lễ hội. Ngƣời đầu mũi ghe lo làm các lễ cúng ghe, lo nuôi con

dầm ăn, tập, lo chi phí đi đua ghe ngo. Tới nay việc chi phí lễ hội là của phum

sóc, nhƣng nhiều nơi các ngƣời ngồi đầu mũi ghe vẫn lo đảm nhiệm tốt yêu

cầu nhiệm vụ này nhƣ ngày xƣa.

Các con dầm chèo hầu hết là ngƣời Khmer, nhƣng cũng có cả ngƣời

Việt, ngƣời Hoa. Phải là những ngƣời tuổi khoảng 30, có đức, có sức khỏe tốt.

Không chọn trai mởi lởn vì sức không dẻo dai, không bền.

Hội đua ghe ngo mở đầu bằng Lễ xuống ghe trang trọng trƣớc ngày hội

cả tháng trời. Từ khi xuống ghe, công việc đƣợc giao cho huấn luyện viên.

Cuộc tập bơi tiến hành theo những quy trình luyện tập bài bản.

Tập bơi trên cạn cho đều nhịp chèo.

Tập bơi nƣớc ngồi tại chỗ. Cặm cây xuống rạch ngồi bơi chèo tại chỗ

60

cho mọi tay ra dầm cùng một nhịp dồn sức đẩy ghe.

Tập bơi trên ghe. Ngƣời ngồi mũi, ngƣời ngồi lái và con dầm kết hợp

bơi cho thật nhuyễn.

Khổ luyện sao cho đều nhịp dồn lực để ghe vút lên bay về đích. Đội bơi

tập luyện trên kênh rạch của làng xã, đƣờng bơi chừng 10km, tập hằng ngày

lắm khi cả tháng trời liên tục, nâng tốc độ ghe bơi 4 phút đi đƣợc 1.500m, 3

phút đi 1.200m... Có đội bơi lấy chuẩn của ngƣời chạy xe gắn máy tốc độ đó

trên bờ cho ghe đua bơi chạy song song cùng ngƣời đi xe.

* Ý nghĩa của buổi lễ:

Lễ hội Ok Om Bok của ngƣời Khmer hội tụ đầy đủ những giá trị văn

hóa đặc sắc từ những nghi lễ (cúng trăng, đút cốm dẹp, đi chùa nghe thuyết

pháp…), những phần hội hấp dẫn (đua ghe Ngo, thả hoa đăng, thả đèn gió) và

yếu tố tín ngƣỡng tâm linh sâu sắc (tín ngƣỡng thờ tứ thần từ văn hóa dân

gian trong canh tác nông nghiệp và ý nghĩa sinh thái học tâm linh từ Phật

thoại trong Phật giáo Nam tông Khmer). Qua đó, lễ hội có ý nghĩa hết sức

nhân văn khi hƣớng đến yếu tố bảo vệ nguồn nƣớc, bảo vệ môi trƣờng. Tƣ

tƣởng Phật giáo Nam tông Khmer và tâm thức ứng xử tôn trọng môi trƣờng

tự nhiên của ngƣời Khmer thấm nhuần trong lễ hội Ok Om Bok cần đƣợc tôn

vinh và bảo tồn để nâng cao nhận thức của cả cộng đồng về bảo tồn nguồn

tài nguyên thiên nhiên trƣớc biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp nhƣ

hiện nay.

2.2. Ảnh hƣởng của Lễ hội Phật giáo Nam tông đến một số lĩnh vực

đời sống xã hội của ngƣời dân khmer ở Hòn Đất hiện nay.

Có thể nói, hầu nhƣ toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời

Khmer chịu sự tác động mạnh mẽ và liên tục của Phật giáo Nam tông nhất là

các lễ hội truyền thống ảnh hƣởng trực tiếp góp phần nâng cao đời sống tinh

61

thần của mọi ngƣời dân trong xã hội.

2.2.1. Ảnh hưởng đến đời sống chính trị

Tôn giáo luôn mang tính hai mặt và ảnh hƣởng của nó cũng vậy.

Những ngƣời theo chủ nghĩa duy vật tầm thƣờng chỉ nhìn thấy mặt trái của

tôn giáo, coi đó chỉ là thứ vô bổ chỉ có hại chứ không có lợi cho con ngƣời.

Ngƣợc lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn nhận thấu đáo cả hai phƣơng

diện của tôn giáo, nếu biết tận dụng mặt mạnh của tôn giáo sẽ có tác dụng bù

đắp những khoảng trống trong con ngƣời dù nó chỉ là nhƣ ảo.

Phật giáo Nam tông Hòn Đất có truyền thống yêu nƣớc, gắn bó với dân

tộc, sƣ sãi tín đồ Phật giáo sớm đi theo cách mạng. Dƣới chế độ phong kiến

hà khắc thời Nguyễn, ngƣời Khmer kề vai sát cánh cùng ngƣời Việt, Chăm,

Hoa nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Khi tổ chức Phật giáo chƣa đƣợc hình

thành, các vị sƣ sãi cũng đã nhanh chóng “cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào”

hoặc ẩn dƣới những mái chùa Khmer là nơi che dấu bộ đội, tích trữ lƣơng

thực, vũ khí ,..hoặc tham gia nhiều tổ chức kháng Pháp ở địa phƣơng. Trong

cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ đồng bào Khmer ở đây càng gắn bó với

Phật giáo hơn bao giờ hết.

Tiếp bƣớc truyền thống yêu nƣớc tôn trọng các nhà cầm quyền, tất cả

các chùa thuộc Nam tông đều đến trụ sở để đăng kí hoạt động tôn giáo, nhất

là trong lĩnh vực lễ hội. Đại đức Danh Lâm - Trụ trì chùa Lình Huỳnh chia sẻ:

hàng năm, vào tháng 01, đại diện nhà Chùa đến UBND xã gặp PCTUBND xã

và đồng chí Chủ tịch UBMT tổ quốc xã Lình Huỳnh để đăng ký chƣơng trình

hoạt động trong năm. Trên cơ sở đăng ký của Chùa, UBND xã Lình huỳnh

phê duyệt chƣơng trình hoạt động của chùa Lình huỳnh trong năm và chúng

tôi tổ chức các lễ hội theo đúng chƣơng trình đã đƣợc UBND xã phê duyệt.

Đ/c Huỳnh Văn Gặp - UVBTV- Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam xã Lình

Huỳnh cho biết nhƣ sau: Xã Lình Huỳnh là xã ven biển thuộc huyện Hòn Đất.

62

Dân số 10.637 người, trong đó người kinh chiếm 80%, còn lại là người khmer

và hoa. Toàn xã chỉ có 01 chùa khmer Sakararansĩ Lình Huỳnh, tín đồ có

1873 người. Hàng năm, Ban Quản trị chùa có đến UBND xã và UBMTTQ xã

gặp gỡ đăng ký chương trình hoạt động trong năm, được UBND xã phê duyệt.

Qua các năm hoạt động, tôi thấy Ban Quản trị chùa chấp hành nghiêm các

quy định của Đảng và Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và

đúng chương trình đã đăng ký.

Đ/c Huỳnh Thanh Hà, PBT, Chủ tịch UBND xã Lình Huỳnh cho biết:

Đảng ủy xã, chính quyền địa phương và MTTQ xã quan tâm chỉ đạo lĩnh vực

dân tộc, tôn giáo. Cơ cấu trụ trì chùa Sakararansĩ Lình Huỳnh vào thành viên

UBMTTQ xã, giới thiệu lục à cha chùa tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân

xã. Chùa Lình Huỳnh và các phật tử có nhiều đóng góp cho địa phương trong

xây dựng nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hỗ trợ kinh phí làm đường,

cầu...góp phần xây dựng nông thôn mới.

Đ/c Trần Quang Minh, PCT UBMTTQ huyện Hòn Đất cho biết: Nhân

các dịp lễ, tết của đồng bào dân tộc, Huyện ủy, UBND, các ban, ngành đoàn

thể từ huyện đến các xã, thị trấn trong huyện thành lập các đoàn cán bộ gồm

lãnh đạo Huyện ủy, HĐND, UBND, mặt trận và các đoàn thể đến thăm, chúc

tết và tặng quà cho chùa và người uy tín trong đồng bào dân tộc khmer.

UBND thì chỉ đạo lực lượng vũ trang có kế hoạch và phân công cán bộ bảo

vệ an ninh trật tự đảm bảo an toàn cho chùa và người dân, tín đồ đến dự lễ.

Qua nắm tình hình trên địa bàn huyện, tôi thấy ban quản trị các chùa trên địa

bàn huyện nói chung, Chùa khmer nói riêng và các tín đồ phật tử ở địa

phương luôn chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước, chấp hành tốt các quy định của địa phương, sống tốt đời đẹp đạo.

Mới đây ngày 6/4, tại thành phố Cần Thơ, Thủ tƣớng Chính phủ

Nguyễn Xuân Phúc cùng Đoàn công tác đã có dự cuộc họp mặt mừng Tết cổ

63

truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ năm 2019.

Thủ tƣớng đánh giá hệ thống chính trị trong vùng dân tộc Khmer không

ngừng đƣợc củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi

dƣỡng cán bộ đƣợc chú trọng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên

chức là ngƣời dân tộc Khmer tăng dần hàng năm cả về số lƣợng và chất

lƣợng. Truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo đƣợc phát

huy; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vùng có đông đồng

bào dân tộc Khmer đƣợc giữ vững. Chức sắc, tín đồ Phật giáo Nam tông

Khmer và Hội Đoàn kết Sƣ sãi yêu nƣớc đã hoạt động tích cực, đoàn kết

trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tham gia hiệu quả các

phong trào thi đua yêu nƣớc, phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Các hoạt động

tu học và sinh hoạt Phật giáo của chƣ tăng và đồng bào Khmer đƣợc tạo điều

kiện đúng chính sách pháp luật.

Bên cạnh đó có những mặt hạn chế nhƣ sau:

Thế lực thù địch còn tổ chức nhiều hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc

để kích động, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong vùng đồng bào Khmer vẫn còn

diễn ra.

Công tác quản lý Nhà nƣớc đối với các lễ hội chƣa đƣợc quan tâm đúng

mức, chƣa tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức và hƣớng dẫn cụ thể để

ngƣời dân nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội,

khắc phục những hiện tƣợng không lành mạnh trong lễ hội. Việc chỉ đạo của

chính quyền về lễ hội một số nơi chƣa chặt chẽ về kế hoạch, nội dung, thời

gian, những vấn đề cần thiết bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trong lễ hội, đặc

biệt là vai trò quản lý điều hành của ban chỉ đạo lễ hội còn hạn chế, nên nhiều

việc đặt ra trong lễ hội còn bị buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra kiểm soát

nhất là những vấn đề trật tự an ninh, mê tín dị đoan trong lễ hội.

Chính vì vậy đồng bào dân dộc không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác

64

cách mạng, chống âm mƣu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp

phần giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các vị chức sắc Phật

giáo Nam tông Khmer gƣơng mẫu thực hiện chính sách, pháp luật, tích cực

vận động đồng bào Phật tử tham gia các phong trào thi đua, phát triển kinh tế,

văn hóa xã hội, nâng cao đời sống, thực hiện hiệu quả công tác Phật sự, tổ

chức các hoạt động Phật giáo tuân thủ pháp luật và Hiến chƣơng của Giáo

hội, xây dựng Hội Đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc ngày càng vững mạnh.

2.2.2. Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế

Mặt dù các lễ hội đã tạo ra nét văn hóa rất riêng của ngƣời Khmer

nhƣng tính hai mặt trong ảnh hƣởng của lễ hội đã làm cho tính chất tốt đẹp

của nó không còn nguyên nghĩa. Việc có quá nhiều lễ hội trong năm dƣờng

nhƣ trở thành gánh nặng trong đời sống ngƣời Khmer ở hòn đất và đó là một

trong những nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khó của họ.

Trong lịch sử, cộng đồng Ngƣời Khmer ít có hộ giàu. Một trong những

nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bởi ngƣời Khmer rất coi trọng các giá trị

tinh thần. Họ yên tâm chấp nhận thực tại khó khăn miễn sao tâm không bị vẩn

đục bởi những cám dỗ của tiền tài vật chất. Vì vậy, họ dễ chia sẻ và đồng cảm

với những ngƣời nghèo khó. Họ dành dụm tiền kiếm đƣợc mà trong số đó

phần lớn để cúng nhà chùa. Ngay cả việc cƣới hỏi của con cái, sau khi trang

trải phí tổn, họ cũng đem một phần tài sản cúng vào chùa làm phúc để tích

đức cho kiếp sau. Nhiều gia đình mặc dù còn rất khó khăn nhƣng vẫn hết lòng

thành tâm với cửa Phật, góp phần tôn tạo chùa chiền, cúng dƣờng chƣ tăng.

Mọi ngƣời đều chung tay gánh vác xây cất, tu sửa ngôi chùa mà không đùn

đẩy trách nhiệm cho cá nhân nào. Ai có nhiều tiền góp nhiều, có ít góp ít. Vì

vậy, nhà ở của ngƣời Khmer tuy rất đơn giản tuyềnh toàng song ngôi chùa

khá đồ sộ, uy nghi, lộng lẫy vì họ coi đó là đại gia đình của mình. Điều này

cho thấy một triết lý nhân sinh, một lối sống mang nặng dấu ấn của Phật giáo

65

thuần thành, nguyên thủy, ít chịu những tác động của thời cuộc trong bối cảnh

kinh tế thị trƣờng. Cũng do lối sống nhƣ vậy nên ngƣời Khmer đồng bằng

sông Cửu Long không thích cạnh tranh, đua chen để làm giàu. Ngƣợc lại, họ

thƣờng hài lòng, yên phận với thực tại, ƣa thảnh thơi, an nhàn. Họ tin rằng có

phần, có phƣớc mới làm giàu đƣợc, vì thế họ ít chú tâm để tìm cách thay đổi

cuộc sống. Đó là một thực tế làm cho ngƣời Khmer gặp nhiều khó khăn để

thích ứng với kinh tế thị trƣờng.

Mặt trái của những hoạt động lễ hội này còn thể hiện ở chỗ vẫn còn xảy

ra tình trạng các phần tử xấu lợi dụng lúc ngƣời dân tụ họp đông trong dịp lễ

hội để thực hiện các hoạt động kinh tế bằng hình thức mê tín dị đoan nhƣ: lên

đồng, bóng, bói quẻ, thậm chí tuyên truyền chống phá, lôi kéo, nói xấu Đảng

và Nhà nƣớc ta, để chuộc.

2.2.3. Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa

Những lễ hội truyền thống nhƣ Chol Chnăm Thmây, Sen Đol Ta, Ók

Om Bok đều có vai trò rất lớn của Phật giáo Nam tông và đặc biệt là các nhà

sƣ – những ngƣời làm công tác lãnh đạo tôn giáo nhƣng cũng đồng thời là tín

đồ của Phật giáo. Khi giáo dục vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính thì

có thể thông qua các hoạt động tế lễ tôn giáo, dạy lễ nghi tôn giáo và lý luận

tôn giáo cho đệ tử, rồi dần dần giáo dục cả những kiến thức xã hội.

Các lễ hội của Phật giáo Khmer, có tác dụng giúp ngƣời Khmer làm

sạch thế giới tinh thần của mình, làm đẹp môi trƣờng tự nhiên, hiểu về giá trị

tinh thần trong cuộc sống. Phật giáo vốn là một tôn giáo truyền thống của

ngƣời Khmer, phân bố rộng rãi trên địa bàn ngƣời Khmer sinh sống, trở thành

một nhân tố văn hóa có ảnh hƣởng lớn đối với các hình thức giáo hóa truyền

thống. Điều này có lợi cho những nhân tố làm ổn định xã hội.

2.2.4. Ảnh hưởng đến đời sống xã hội

Lễ hội ngƣời khmer là sự cộng hƣởng các giá trị về mặt lịch sử, phong

66

tục, văn chƣơng, nghệ thuật, là bảo tàng sống về các giá trị tinh thần, dân chủ,

nhân văn đã đƣợc kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử của họ. Đó là sự thỏa

mãn các nhu cầu về tín ngƣỡng, tâm linh, về giải trí.

Việc lễ hội diễn ra, trƣớc tiên là nhu cầu của cộng đồng ngƣời khmer,

tiếp theo đó là làm phong phú lễ hội việt nam nói chung, vùng hòn đất nói

riêng. Tạo nên sự giao lƣu, học hỏi, là sự đoàn kết. Quan trọng nhất là nhu

cầu sáng tạo và thụ hƣởng văn hóa khác góp phần nâng cao đời sống văn hóa

của cộng đồng dân cƣ.

Trong xã hội hiện đại hôm nay, ngoài giá trị nhân văn, thẩm mỹ, ngƣời

ta rất chú trọng tới tinh thần dân chủ của lễ hội, điều mà con ngƣời ngày hôm

nay đang hƣớng tới, phấn đấu. Trong lễ hội, tất cả mọi ngƣời không phân biệt

tầng lớp, đẳng cấp, giới tính, tuổi tác hay tôn giáo… đều đƣợc tham gia, bình

đẳng, vô tƣ.

Ngƣời dân ở Hòn Đất rất yêu thích lễ hội và hầu hết họ đều hiểu đƣợc ý

nghĩa của những lễ hội. Nhất là ngƣời Khmer dành một khoảng thời gian khá

nhiều trong năm để thực hiện tổ chức các lễ hội. Trong đó, có tới 10 lễ hội bắt

nguồn từ Phật giáo và do sƣ sãi Phật giáo đứng ra tổ chức trong khuôn viên

các chùa, với sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Khi đƣợc hỏi tới ba lễ hội

quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần cộng đồng Khmer là

PiThi Chôl Chnăm Thmây (lễ vào năm mới), PiThi Sene Đôn Ta (lễ cúng

Ông, Bà) và Okombok (lễ cúng trăng) thì nhận đƣợc các câu trả lời:

Khi đƣợc hỏi về ý nghĩa ba lễ trên của ngƣời Khmer. Ông Nguyễn Văn

Kỷ ( 61 tuổi, số nhà 211- Tổ 11 - cƣ ngụ ở Khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn

Đất và đƣợc ông chia sẻ: “Tôi có biết các lễ hội này, tôi thấy sau tết nguyên

đán của người Việt, thì định kỳ vào tháng 4 người khmer chuẩn bị cho Lễ

Chôl Chnăm Thmây - là ngày tết của người dân tộc khmer, còn lễ Lễ Sene

Đôn Ta và Lễ Okombok thì tổ chức vào các tháng trong năm, tôi không biết ý

67

nghĩa của 2 lễ hội này là gì”.

Cũng câu hỏi trên, ông Đoàn Văn Sơn, cư ngụ tại ấp Vàm Răng, xã

Sơn Kiên, huyện Hòn Đất cho biệt: tôi là người kinh, nhưng tại ấp Vàm Răng

này người khmer sống khá đông, nhà tôi ở gần Chùa Khmer Sóc Xoài, một

ngôi chùa lớn được Nhà nước công nhận di tích lịch sử, xung quanh nhà tôi ở

có rất nhiều hộ khmer sinh sống, nên tôi biết rất rõ về 03 lễ hội trên. Nhân

dịp lễ tết của đồng bào dân tộc, tôi và các con của tôi cùng với các hộ gần

nhà đến Chùa khmer Sóc Xoài xem các hoạt động cúng bái và xem các trò

chơi mà Nhà Chùa tổ chức. Tại đó, tôi thấy Ban quản trị chùa và các Phật tử

trang trí nơi thờ cúng rất đẹp, có hoa, quả, đèn... Kiến trúc của Chùa hoa văn

rất tinh xảo. Tôi thấy người Khmer rất tin tưởng vào Phật, đồng bào khmer

sống rất đoàn kết.

Ông Huỳnh Sang (ngƣời tín đồ) ( 67 tuổi, Ngƣời có uy tín trong đồng

bào khmer - cƣ ngụ tại ấp lình Huỳnh, xã Lình Huỳnh) và đƣợc ông chia sẻ:

“Bản thân tôi và gia đình là người khmer, về Lình Huỳnh sinh sống gần 40

năm. Hầu như người khmer khi lớn lên cũng là tín đồ và ngoài làm ăn phát

triển kinh tế gia đình thì hầu hết các gia đình người khmer đều đến chùa

khmer gần nhà. Chùa cũng như là ngôi nhà thứ hai của chúng tôi. Vì ngôi

chùa là nơi thiêng liêng và quan trọng nhất của mỗi người dân Khmer và cả

cuộc đời của một người Khmer sinh sống ở đây hầu như người khmer ai cũng

gắn bó với ngôi chùa. Ở chùa, chúng tôi được trụ trì tuyên truyền kinh kệ của

người khmer và tuyên truyền cho chúng tôi phải giáo dục gia đình chấp hành

tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hầu như người

khmer chúng tôi tham gia đầy đủ các lễ hội của dân tộc. Bản thân tôi chỉ là

tín đồ theo truyền thống cha ông, tôi không nằm trong ban quản trị chùa, vì

ban quản trị phải là người ưu tú, có nhiều cống hiến cho nhà chùa và được

68

tập thể suy cử. Tôi rất vui khi các lễ hội truyền thống của dân tộc được bảo

tồn và tổ chức hàng năm, được chính quyền địa phương quan tâm chấp thuận.

Tôi thích cả phần lễ và phần hội”.

Đến gia đình Chị Diệp Thị Mỹ (ngƣời Hoa) tại ấp Mƣơng Kinh xã Sơn

Bình, huyện Hòn Đất đƣợc chị chia sẻ: “Tuy tôi là người dân tộc Hoa nhưng

tôi rất thích lễ hội của người Khmer, lễ hội họ có nhiều ý nghĩa, giáo dục con

người về nhân đạo, đạo đức. Con người Khmer tôi rất thích rất chất phác thật

thà, thật tình là đặc điểm của họ, thế nên khi đến đây vào mỗi dịp lễ hội họ

tiếp đãi rất thân tình”.

Các lễ hội diễn ra hàng năm đã thể hiện sức mạnh của cộng đồng và

làm tăng thêm tính đoàn kết của các cá nhân, các gia đình trong phum sóc.

Nói cách khác, nó làm tăng sự cố kết cộng đồng của dân tộc Khmer.

2.3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và giá trị

của lễ hội phật giáo nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân khmer

huyện Hòn Đất thời gian tới.

Căn cứ vào quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, căn cứ kết quả tích cực đạt

đƣợc và từ những hạn chế để đề giải pháp :

2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến

tôn giáo và văn hóa người dân khmer.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo phù

hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nƣớc {xem 19 và

20}, đây là vấn đề quan trọng để đƣa Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.

Mục tiêu của công tác quản lý không chỉ dừng lại ở việc hƣớng dẫn các hoạt

động tôn giáo tuân thủ pháp luật mà điều có tác dụng cơ bản và lâu dài là phải

tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động tôn giáo tạo thuận lợi cho

công tác quản lý nhà nƣớc về tôn giáo. Có nhƣ vậy, ý thức xã hội mới thể

hiện đƣợc tính tích cực của mình khi tác động trở lại tồn tại xã hội. Phật giáo

69

Nam tông mặc dù còn những hạn chế nhƣng những gía trị tích cực của nó

không thể phủ nhận. Đó là mặt đạo đức của nó, đáp ứng đƣợc yêu cầu của đời

sống tâm linh của con ngƣời “dƣới Chủ nghĩa xã hội Phật giáo Nam tông

khmer vẫn còn có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hƣớng đi cùng

với dân tộc, sống “tốt đời, đẹp đạo”[2; tr. 24].

Cần tăng cƣờng công tác giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức cho

mọi ngƣời dân về lễ hội, nắm vững chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng

và Nhà nƣớc về chính sách đại đoàn kết dân tộc, tự do tín ngƣỡng về tôn giáo

dân tộc. Trên cơ sở đó giúp mọi ngƣời nâng cao nhận thức vễ lễ hội, xây dựng

ý thức trách nhiệm tham gia lễ hội, chống mê tín dị đoan, bảo đảm hoạt động

lễ hội thực sự văn hoá, văn minh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, hoạt

động an toàn, tiết kiệm, hiệu quả. Triển khai sâu rộng tới toàn dân nhất là

trong các tôn giáo về chỉ thị số 41/CT-TW của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng,

Công điện 229/CĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng công tác tổ

chức và quản lý lễ hội.

Tăng cƣờng và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới [xem 15]. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động

nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thực hiện tốt chủ

trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hòn Đất nêu: Tiếp tục hoàn thiện

chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của

Đảng. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động

viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng

góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo

điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chƣơng, điều lệ của tổ

chức tôn giáo đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận, đúng quy định của pháp luật.

70

Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi

dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn

dân tộc.

2.3.2. Giải pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội

Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phƣơng thƣờng xuyên thăm hỏi,

động viên các sƣ sải trong công tác chăm lo Đạo- Đời ở các chùa Phật giáo

Nam tông. Sau một thời gian tu học tại chùa, các vị sƣ Khmer có thể chọn con

đƣờng xuất tu, trở về với cuộc sống gia đình, mang những hành trang tốt đƣợc

trang bị trong lớp chùa để phục vụ xã hội với vai trò của một công dân. Họ

cũng có thể phát tâm hiến dâng trọn cuộc đời của mình vào việc tu học theo

giáo lý của Đức Phật, để tiếp tục con đƣờng giáo hóa, dạy dỗ các tín đồ Phật

tử theo hạnh nguyện của một vị xuất gia. Bất kỳ là xuất tƣ trở về với đời

thƣờng, hay tiếp tục con đƣờng tu hành tịnh hạnh, những con ngƣời này đều

luôn ý thức mình phải mang những điều cao cả trong giáp lý phật giáo và trí

thức xã hội đƣợc kế thừa trong môi trƣờng chùa để phát huy, chia sẻ với cộng

đồng, góp phần làm tốt đẹp hơn cho xã hội.

Từ đó ngƣời sƣ sãi sẽ giáo dục tín đồ hiểu đƣợc ý nghĩa của lễ hội,

sống tốt đời đẹp đạo, việc thực hành lễ hội tôn giáo không chỉ đứng theo tôn

giáo của mình, mà phải hợp tình hợp lí với chủ trƣơng chính sách nhà nƣớc.

Đào tạo đội ngũ cán bộ là ngƣời dân tộc Khmer vừa có chuyên môn

vừa có phẩm chất chính trị tốt đẹp, đặc biệt sự chuyên môn về lễ hội của

mình. Để gìn giữ cũng cố và phát triển lễ hội.

Ngoài ra, việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải bám sát điều kiện thực

tế, trình độ dân trí, nhu cầu lao động của thị trƣờng để nâng cao hiệu quả của

công tác giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer. Chăm lo giáo dục

nâng cao dân trí cho họ chính là thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và

71

Nhà nƣớc ta. Viêc nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc Khmer sẽ góp phần

quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng nông thôn nơi có đồng bào Khmer

sinh sống vừa góp phần nâng cao đời sống tinh thần họ tại nơi đây.

Bảo đảm công tác an ninh trong lễ hội, có phƣơng án xử lý những trƣờng

hợp gây mất trật tự, an toàn, những hiện tƣợng gây rối, trộm cắp, chen lấn, xô

đẩy, đánh nhau trong lễ hội; phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện

tiêu cực, lợi dụng lễ hội để tuyên truyền phản động chống phá Đảng, Nhà nƣớc,

chính quyền địa phƣơng, những hoạt động thiếu văn hoá nhƣ đồng bóng, bói

toán, mê tín dị đoan, cờ bạc, rƣợu chè, lợi dụng để tổ chức những trò chơi thiếu

lành mạnh, phản cảm gây mất an ninh chính trị ở địa phƣơng, nghiêm cấm việc

đổi tiền lẻ, hạn chế đến mức thấp nhất việc đốt vàng mã trong lễ hội, tuyên

truyền nhân rộng những lễ hội không đốt vàng mã.

Cần ban hành thêm một số chính sách phù hợp để hỗ trợ về kinh tế cho

hộ nghèo ngƣời khmer để họ cải thiện cuộc sống, có đủ điều kiện chăm lo và

an tâm cho con em mình đến trƣờng học. Ngoài ra, cần tập trung giải quyết

tình trạng mù chữ trong đồng bào dân tộc.

Tăng cƣờng nguồn cán bộ cho đồng bào Khmer. Tỉnh cần nghiên cứu

tình hình thực tế và kiến nghị bổ sung thêm trong Nghị định 134/2006/NĐ-CP

của Chính phủ vì trong Nghị định này chỉ quy định thực hiện chính sách cử

tuyển ở những vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, trên thực tế mặc dù nhiều con

em ngƣời Khmer không sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nhƣng bản thân gia

đình lại hết sức khó khăn lại không đƣợc áp dụng chính sách trong Nghị định

này. Cho nên cần phải mở rộng đối tƣợng cử tuyển này. Không nên chỉ bó

hẹp trong vùng đặc biệt khó khăn nhƣ hiện nay.

2.3.3. Giải pháp về tuyên truyền, vận động các chức sắc, tín đồ Phật

giáo Nam tông Khmer

Sƣ sãi phật giáo nam tông khmer xem hội đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc gần

72

nhƣ là một tổ chức Giáo hội, nên mọi hoạt động nhƣ thuyên chuyển, tổ chức

đại giới đàn, thọ giới tỳ khƣu, phong phẩm, kỷ luật, đào tạo sƣ sãi..., đều do

hội đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc xem xét, quyết định [13, tr. 48-49]. Do đó, mọi

tu sỹ luôn đề cao chức năng giáo dục cho tín đồ, Phật tử, con em trong cộng

đồng đƣợc coi là một nội dung quan trọng mà sƣ sãi Phật giáo Nam tông phải

có trách vụ cao cã thực hiện. Vì thế ngƣời tu hành trong Phật giáo Nam tông

là ngƣời thầy thật sự. Trong các trƣờng nhà chùa, các lớp Bổ túc Pali, nội

dung đƣợc đƣa vào giảng dạy là chữ Pali, giáo lý, văn hóa, nghề thủ công và

cả đạo đức nhân cách cho cộng đồng tín đồ. Các lớp học trong chùa này do

chính sác sƣ đảm trách, họ đƣợc gọi là các sãi giáo. Bằng kiến thức và sự hiểu

biết của mình, các sãi giáo sẽ trực tiếp dạt cho con em trong cộng đồng các

nội dung nói trên, phân theo từng cấp học. Qua các trƣờng, lớp chùa do các

sãi giáo đảm trách, hầu hết các thành viên trong cộng đồng đều đƣợc đào tạo

về các tri thức văn hóa, nghề thủ công ở một trình độ nhất định. Từ đó tạo

dựng cho họ những hành trang ban đâù, căn bản nhất trƣớc khi bƣớc vào cuộc

sống ở tuổi trƣởng thành. Vì vậy, các vị sƣ dạy học đƣợc cộng đồng kính

trọng, cho nên tiếng nói, ý kiến của các sƣ tăng về những công việc chung

luôn có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi thành viên trong phum, sóc. Không

chỉ mang nghĩa hẹp là dạy trong trƣờng chùa các vị sƣ Khmer còn góp phần

quan trọng vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp qua

việc lấy chính đạo hạnh và đức độ của mình trong cuộc sống làm gƣơng cho

xã hội mà trƣớc hết là trong cộng đồng ngƣời Khmer. Vì thế, tỉnh cần quan

tâm nhiều chính sách đãi ngộ đối với các sƣ sãi Phật giáo Nam tông để họ an

tâm cống hiến sức mình thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra

liên quan đến công tác tôn giáo.

Chính quyền địa phƣơng quan tâm hơn nữa đến việc phát thanh tiếng

Khmer trong vùng có ngƣời Khmer đang sinh sống với thời gian hợp lý và nội

73

dung phát phải phù hợp với khả năng tiếp thu của ngƣời Khmer. Đặc biệt, nội

dung phát thanh ngoài tuyên truyền chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nƣớc thì phải lồng ghép thêm những nội dung liên quan công tác

khuyến nông, tuyên truyền những gƣơng điển hình trong lao động sản xuất,

gƣơng học sinh nghèo vƣợt khó hiếu học của con em ngƣời Khmer. Đặc biệt

là các giá trị văn hóa, lễ hội, của cộng đồng.

Quá trình hội nhập, giao lƣu và tiếp biến văn hóa của tộc ngƣời

Khmer với các tộc ngƣời trong khu vực nhƣ Việt – Hoa – Chăm thì các lễ

hội truyền thống của tộc ngƣời Khmer có sự biến đổi nhất định, nhƣng

những lễ hội này vẫn giữ đƣợc những giá trị tuyền thống vốn có của nó mà

không có sự pha trộn trong quá trình tiếp biến của nền văn hóa đƣơng đại.

Nhƣ đã phân tích lễ hội của dân tộc Khmer, ta có thể tham gia vào phần hội

của họ để lồng ghép tuyên truyền. Dĩ nhiên là đƣợc sự đồng thuận của sƣ sãi

và ban quản trị của Chùa.

Thành lập website điện tử bằng tiếng Khmer với nội dung chứa đựng

các thông tin thời sự, cuộc sống, xã hội, văn hóa, tri thức, nhất là các lễ hội.

Với sự biên tập của các nhà khoa học, nội dung và hình thức đảm bảo đúng

với chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nƣớc.

2.3.4. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phật giáo

nam tông khmer.

Nhận thức đƣợc vai trò của giá trị lễ hội ngày nay, từ các chức sắc tôn

giáo đến Đảng và nhà nƣớc phải tiến trình củng cố, phục dựng lại các dữ kiện

văn hóa ở cả hai phƣơng diện vật thể và phi vật thể. Hàng loạt các hoạt động

đã và đang đƣợc thực hiện nhƣ: trùng tu lại chùa chiền, xây dựng các bảo

tàng, tái hiện lại sân khấu nghệ thuật Dù Kê, Rô băm và các loại hình nghệ

thuật dân gian,...

Hỗ trợ kinh phí trùng tu, tôn tạo các Chùa là di tích văn hóa, có công

74

trong khán chiến chống mĩ xâm lƣợc. Hỗ trợ cho các chùa có đƣợc lò hỏa

táng phục vụ nhu cầu tang tế của đồng bào; tạo điều kiện cho các chùa có

đƣợc ghe ngo và dàn nhạc ngũ âm để phục vụ nhu cầu tổ chức lễ hội vui chơi

và giải trí của đồng bào.

Việc gìn giữ lễ hội và chùa Khmer nhằm phát huy vai trò Phật giáo

Nam tông trong cộng đồng tại huyện hòn đát. Đây là hoạt động nền tảng trong

giai đoạn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

nhƣ hiện nay. Chính vì ý nghĩa biểu tƣợng của ngôi chùa, sự gắn kết của

ngƣời Khmer với Phật giáo mà việc gìn giữ và phát huy vai trò của ngôi chùa

đối với đời sống văn hóa của ngƣời Khmer là cấp thiết.

Việc tín đồ thực hiện nghi lễ hay lễ hội đều tập trung tại các ngôi chùa,

thế nên việc xây dựng ngôi chùa để phục vụ nhu cầu này cũng cần thiết. Vì

ngôi chùa luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của ngƣời Khmer.

Hòa thƣợng Kim Rên (Huyện Hòn đất) cho rằng “chùa và chƣ tăng là

trụ cột về tinh thần của ngƣời Khmer, nên mọi nghi thức lễ hội, đón mừng

năm mới…đều diễn ra ở trong chùa”. “Các vị chức sắc: Đại Đức, Thƣợng

Toạ, Mê Kôn, sãi cả, sãi phó có quyền uy tinh thần rất lớn đối với nhân dân.

Các vị sƣ sãi đƣợc nhân dân sùng kính, bởi vì họ là những ngƣời trí thức dạy

dân học chữ, học nghề, tổ chức cuộc sống cho nhân dân, đám cƣới, đám tang.

Khi gia đình có ngƣời ốm đau, bệnh tật, thiên tai, hoạn nạn đều có mặt các vị

sƣ chia bùi sẻ ngọt, tụng kinh làm phƣớc. Họ đã đến với dân chúng trong

những lúc khó khăn nhất mà không cần bất cứ điều kiện nào nên sƣ sãi gắn bó

ruột thịt với nhân dân” và ngƣời Khmer có câu “Sống vào chùa gửi thân, chết

vào chùa gửi cốt”.

Tiểu kết: Các lễ hội truyền thống của Phật giáo nam tông khmer với

nhiều hoạt động đặc sắc, sự ảnh hƣởng của lễ hội tác động đến đời sống chính

trị, kinh tế xã hội ở địa phƣơng. Ngoài các hoạt động lễ hội, Phật giáo nam

75

tông khmer còn có những quy định không chỉ thể hiện trong giới luật nhà Phật

mà còn đƣợc thể hiện trong thực tiễn cuộc sống của con ngƣời. Những tác

dụng xã hội tích cực của Phật giáo đối với cộng đồng ngƣời Khmer đã đƣợc

thực tế chứng minh, nhƣng thực chất ảnh hƣởng giữa Phật giáo và xã hội là

một quá trình tác động qua lại. Ảnh hƣởng của Phật giáo đối với xã hội cũng

luôn có hai mặt. Mặt tích cực là góp phần làm ổn định xã hội nhƣng mặt tiêu

cực cũng dễ dàng bắt nguồn từ mặt tích cực; hiện nay nhiều thế lực xấu trong

và ngoài nƣớc luôn tìm cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ

ngƣời Khmer, chống phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện chính

sách tôn giáo ở vùng nông thôn Khmer cần có sự liên kết với việc thực hiện

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc. Chính quyền và các tổ chức đoàn

thể nói chung và ngƣời làm công tác tuyên truyền nói riêng cần có thái độ

bình đẳng, không phân biệt Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer hay Phật

giáo Bắc tông của ngƣời Việt, Hoa trong khu vực. Ngoài ra còn cần phải chú

trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài cho ngƣời

dân Khmer, từng bƣớc xóa đói giảm nghèo để cuộc sống của ngƣời dân tộc

đƣợc cải thiện. Có nhƣ vậy, văn hóa truyền thống và Phật giáo Nam tông mới

76

có thể phát triển một cách bền vững và lâu dài.

KẾT LUẬN

Trong quá trình phát triển, Phật giáo Nam tông với những giáo lý sâu

sắc đã trở thành nguồn tƣ tƣởng, niềm tin tác động vào việc hình thành nên lẽ

sống, đạo lý, phong tục tập quán của ngƣời Khmer và toàn thể ngƣời dân

huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Những bài học về nhân quả báo ứng, về vô

ngã vị tha, về thƣơng yêu muôn loài, về nuôi nấng và phát khởi tâm lành, về

giữ gìn trai giới và báo hiếu,... đã trở thành phƣơng châm sống cho đồng bào

Khmer. Cuộc sống dù còn nhiều khó khăn vất vả nhƣng ngƣời Khmer vẫn đối

xử với nhau hết lòng bằng sự chân thành, thuần phác đúng với triết lý của nhà

Phật. Chính sự ảnh hƣởng sâu sắc của Phật giáo Nam tông đã tạo nên những

giá trị nhân bản và đạo đức mà đồng bào Khmer có đƣợc cho đến ngày hôm

nay. Phật giáo Nam tông từ lâu đã trở thành chỗ dựa tinh thần không thể thiếu

đƣợc trong cuộc sống của ngƣời Khmer ở Hòn Đất. Không những thế, Phật

giáo Nam tông khmer còn ảnh hƣởng và chi phối sâu sắc đến mọi mặt đời

sống xã hội của ngƣời Khmer và ngƣời dân trong huyện, từ tƣ tƣởng đến

những hoạt động đời sống hằng ngày, từ đạo đức, lối sống, phong tục tập

quán, tín ngƣỡng, lễ hội đến các quan hệ xã hội của họ. Chu trình sống của

ngƣời Khmer từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi luôn gắn với ngôi chùa và

những lễ nghi sinh hoạt của tôn giáo này. Những ảnh hƣởng tích cực của lễ

hội Phật giáo Nam tông đã mang lại cho ngƣời Khmer và ngƣời dân Hòn Đất

một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú. Những phong tục, tập quán,

những nghi lễ đan xen giữa Phật giáo và các lễ hội dân gian đã trở thành nét

văn hóa truyền thống đặc sắc của ngƣời Khmer, góp phần làm phong phú

thêm nền văn hóa của gia đình các dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên, ảnh hƣởng

của Phật giáo Nam tông trong đời sống tinh thần của ngƣời dân Hòn Đất có

77

mặt tích cực mà còn có cả mặt tiêu cực do những nguyên nhân về địa lý, lịch

sử, dân tộc, kinh tế, xã hội.., trong quá trình xây dựng kiến tạo đời sống mới

văn minh, hiện đại cho cộng đồng ngƣời Khmer hiện nay, cần phát huy những

ảnh hƣởng tích cực, khắc phục và loại bỏ mặt tiêu cực đó. Để làm đƣợc điều

này, tác giả luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhƣ Phát triển kinh

tế- xã hội góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời dân ở

Hòn Đất. Việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp nêu trên sẽ góp

phần để Phật giáo Nam tông tiếp tục đồng hành cùng đồng bào Khmer ở Hòn

Đất nói riêng và ngƣời dân Hòn Đất nói chung, đồng thời hòa nhập cùng

những vận hội mới của dân tộc và thời đại, góp phần xây dựng nền văn hóa

trong đồng bào dân tộc khmer nói riêng và con ngƣời Việt Nam nói chung

78

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

01. PGS.TS Phan An (2010), Phật giáo tiểu thừa khmer, Tài liệu hội

thảo tôn giáo ở nam bộ; những vấn đề nổi bật, những đáp ứng của chính sách

và nghiên cứu, trang 41.

02. Ban Tƣ tƣởng - Văn hóa trung ƣơng (2000),Vấn đề tôn giáo và

chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam,Nxb Giáo dục, Hà Nội.

03. Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của

BCH (khóa IX) về công tác tôn giáo của Đảng bộ huyện Hòn Đất.

04. Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của

nhiệm kỳ 2010-2015 của Huyện ủy Hòn Đất.

05. Trần Văn Bính (chủ biên - 2004) Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ

- thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

06. Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, báo cáo khảo sát các tôn giáo trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang.

07. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ ngƣời Khmer Nam Bộ,

sđd: 101 - 102.

08. Ban Tôn giáo Chính phủ: Ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối

với đời sống văn hóa đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long,

http://btgcp.gov.vn

09. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), sự hình thành cộng đồng ngƣời khmer

vùng đồng bằng sông cửu long, sđd, trang 222.

10. Nguyễn Mạnh Cƣờng, Nguyễn Minh Ngọc (2004), Tôn giáo - Tín

ngƣỡng của các cƣ dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Phƣơng Đông,

Tp. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2008), Phật giáo Khơ Me Nam Bộ (những

79

vấn đề nhìn lại), Nxb Tôn giáo và Nxb Hà Nội.

12. Đoàn Trung Còn, Phật học Từ điển, NXB Tổng Hợp TP.HCM,

trang 1361, 1362, năm 2011.

13. Nguyễn Đức Dũng (2012), Góp phần hoàn thiện chính sách đối với

Phật giáo Nam tông Khmer”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6), tr.48–51.

14. Võ Văn Dũng(2015), So sánh sự giao lƣu Phật giáo và phong tục

tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê Kông, Hội thảo Quốc tế Phật

giáo vùng Mê- Kông, quyển 1, tr 362.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy

Ban chấp hành Trung ƣơng khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tòn

quốc lần thứ khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Bùi Minh Đạo (2006), Dân tộc Khơ me trong công cuộc bảo vệ và

xây dựng quốc gia Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, (5), tr. 45–46.

18. Hoàng Mạnh Đoàn (2006), “Một số vấn đề về văn hóa tâm linh của

ngƣời Khơ me hiện nay dƣới góc độ tâm lý học”, Tạp chí Dân tộc học, (4), tr.

48–51.

19. Lê Thị Hằng, học viện chính trị khu vực IV, bài Văn hóa truyền

thống của đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, tạp chí Lý luận chính trị

t4/2017.

20. Hồ Trọng Hoài (2015), “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa Khmer và

Phật giáo Nam Tông Khmer vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020, tầm nhìn

2030”, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nƣớc: Chính sách tổng thể

đối với đồng bào Khmer và Phật giáo Nam Tông Khmer vùng đồng bằng

sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội.

21. Trần Xuân Hoàng (chủ biên - 2000), Kiên Giang điểm hẹn, Nxb

Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

80

22. PGS.TS Nguyễn Thị Hòa Hới, Lễ hội Việt Nam, tr 34-35.

23. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo lý luận xƣa và nay, Nhà xuất bản tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr 285.

24. Phạm Thị Hằng, Phật giáo nam tông khmer với sự phát triển bền

vững khu vực Tây Nam bộ, tạp chí khoa học xã hội Việt Nam

http://vssr.vass.gov.vn.

25. Nguyễn Đức Lộ, Cấu hình làng xã Cộng đồng công giáo bắc di cƣ

tại Nam bộ, Nhà xuất bản Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr 30.

26. Nguyễn Đức Lữ, Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa,

tạp chí triết học, số 11 (186, tháng 11 năm 2006)

27. Phòng thống kê huyện Hòn Đất, Niên giám thống kê 2017.

28. Cao Xuân Phổ (2004), Văn hóa Phật giáo của ngƣời Khơ me Nam

Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (2), tr. 47-51

29. PGS.TS. Vƣơng Xuân Tình có các cuốn nhƣ: nhân học tôn giáo và

tôn giáo, tín ngƣỡng của các dân tộc thiểu số ở việt nam, cuốn Xung Đột Và

Giải Xung Đột Tộc Ngƣời Vùng Tây Nam Bộ, cuốn Các dân tộc ở Việt Nam

trong đó có dân tộc Khmer Tập 3 Nxb chính trị quốc gia Hà Nội (2007);

30. Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,

Nhà xuất bản Văn hóa, văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, tr 56.

31 . Bùi Thị Hải Yến, Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt

81

Nam, 2012, tr 31.

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

Đại diện lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện, các ban, ngành đoàn thể huyện và

Thƣờng trực Đảng ủy, UBND, các ban ngành, đoàn thể xã đến thăm, chúc tết

các Chùa khmer Lình Huỳnh nhân dịp lễ, tết đồng bào dân tộc khmer

82

Bà con phật tử đem cơm đến Chùa Chòm Chuối huyện Hòn Đất nhằm

gửi công đức cho Ông, Bà, cha, mẹ nhân Lễ seldota

Chuẩn bị lễ tắm phật nhân dịp lễ Chol chnam thmay

83

ở Chùa khmer Lình Huỳnh

84

Kiến trúc cổng Chùa Khmer Sakararansĩ Lình Huỳnh, huyện Hòn Đất

Trò chơi dân gian của ngƣời khmer tại lễ hội Chol Chnam thmay

Đua ghe ngo ở huyện Hòn Đất nhân dịp lễ ok om bok của đồng bào

85

khmer