ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
VŨ THỊ THU TRANG
ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
1
Hà Nội - Năm 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
VŨ THỊ THU TRANG
ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT,
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN
2
Hà Nội - Năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của riêng cá nhân tôi.
Luận văn này đƣợc thực hiện sau quá trình học tập ở Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên
Giang, đặc biệt đi sâu tìm hiểu các lễ hội truyền thống tiêu biểu của Phật giáo
Nam tông (khmer) và sự ảnh hƣởng của nó đối với ngƣời dân trên địa bàn
huyện Hòn Đất. Luận văn này đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của
Cô: Tiến sĩ Nguyễn Thị Tố Uyên.
Các số liệu nghiên cứu, kết quả điền dã trong luận văn là trung thực,
luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào.
Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020
Tác giả
3
Vũ Thị Thu Trang
LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn chân thành đến Cô Nguyễn Thị Tố Uyên, là ngƣời trực
tiếp giảng dạy và hƣớng dẫn em thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Trong suốt
thời gian thực hiện, từ lúc định hƣớng đề tài, chọn đề tài và tiến hành viết nội
dung luận văn, tuy công tác giảng dạy và nghiên cứu có nhiều bận rộn nhƣng
Cô đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để hƣớng dẫn em chọn đề tài, định
hƣớng cho em cách viết, cách lập luận, phân tích và trình bày phù hợp với yêu
cầu đề tài đặt ra. Nhờ sự góp ý tận tụy và hƣớng dẫn tận tình của Cô đã giúp
em hoàn thành những kiến thức về đề tài của mình.
Em xin cảm ơn đến quý thầy cô trong Bộ môn Tôn giáo học và Nhà trƣờng
đã giảng dạy cho em những kiến thức nền tảng, những hiểu biết về chuyên ngành
tôn giáo học. Đây là cơ sở và nguồn động lực quan trọng giúp em hoàn thành luận
văn, nắm vững kiến thức chuyên ngành và tự tin hơn trong những dự định sắp tới.
Em xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơ quan,
những ngƣời đã quan tâm giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm và động viên tinh thần
cho em trong khoảng thời gian thực hiện luận văn cũng nhƣ trong khoảng thời
gian học tập. Nhờ vậy, mà em tự tin vững bƣớc qua từng ngày trong quá trình
thực hiện luận văn này.
Do trình độ lý luận, kiến thức chuyên ngành cũng nhƣ kinh nghiệm
thực tiễn của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Em mong nhận đƣợc nhiều ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo của quý thầy cô để em
hoàn thiện kiến thức cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Kiên Giang, ngày 10 tháng 2 năm 2020
Tác giả
4
Vũ Thị Thu Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƢỢC
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÕN ĐẤT ......................................... 8
1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội .............................................................. 8
1.2. Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông
Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. ............................................ 17
1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện Hòn Đất. 17
1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Nam tông khmer ở Hòn Đất, tỉnh
Kiên Giang. ............................................................................................... 20
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN KHMER HUYỆN HÕN ĐẤT VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP ............................................................................................... 34
2.1. Một số lễ hội Phật giáo Nam tông khmer ở huyện Hòn Đất ........... 34
2.1.1. Lễ Chôl Chnăm Thmây .................................................................. 35
2.1.2. Lễ Sene Đôn Ta .............................................................................. 43
2.1.3. Lễ Okombok ................................................................................... 49
2.2. Ảnh hƣởng của Lễ hội Phật giáo Nam tông đến một số lĩnh vực đời
sống xã hội của ngƣời dân khmer ở Hòn Đất hiện nay. ......................... 61
2.2.1. Ảnh hƣởng đến đời sống chính trị .................................................. 62
2.2.2. Ảnh hƣởng đến đời sống kinh tế .................................................... 65
2.2.3. Ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa ................................................... 66
2.2.4. Ảnh hƣởng đến đời sống xã hội...................................................... 66
2.3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và giá trị của
lễ hội phật giáo nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân khmer
5
huyện Hòn Đất thời gian tới. ..................................................................... 69
2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tôn
giáo và văn hóa ngƣời dân khmer. ............................................................ 69
2.3.2. Giải pháp về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động lễ hội............... 71
2.3.3. Giải pháp về tuyên truyền, vận động các chức sắc, tín đồ Phật giáo
Nam tông Khmer ...................................................................................... 72
2.3.4. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phật giáo nam
tông khmer. ............................................................................................... 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 79
6
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một tôn giáo bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngƣỡng và phƣơng pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử
là Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới
hiện nay, có sức lan tỏa rộng rãi, đặc biệt ở Châu Á. “Phật giáo là một tôn
giáo cao siêu và trí tuệ, không ít những nhà kho học phƣơng tây đã thấy giá trị
và hết lời ca ngợi phật giáo. A.Anhxtanh cho rằng, nếu có một tôn giáo nào
đáp ứng được nhu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật
giáo. Phật giáo không chỉ đóng góp cho khoa học, mà còn là di sản văn hóa
thế giới” {26, tr. 186}. Đạo Phật với tƣ tƣởng vô thƣờng, vô ngã, nhân quả,
nghiệp báo và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn, đứng về phía
ngƣời nghèo khổ trong học thuyết Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát
chính đạo gần gũi và phù hợp với triết lý đạo đức nhân sinh, cũng nhƣ phong
tục, tập quán, tín ngƣỡng của Ngƣời Việt. Quan niệm phúc đức, nhân ái, vị
tha, hòa hiếu của Phật giáo đã đƣợc đông đảo ngƣời Việt tiếp nhận. Trong các
tôn giáo du nhập vào nƣớc ta thì Phật giáo là tôn giáo bám rễ sâu nhất, bền
chắc nhất và góp phần xây dựng nên truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết gắn bó
của dân tộc ta, có vai trò quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đời sống tín
ngƣỡng, đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam. Tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có những “hạt nhân hợp lý” hiện
vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa, đạo đức và đáp ứng đƣợc yêu
cầu đời sống tâm linh của con ngƣời. Đảng ta khẳng định “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [16, tr. 165]. Phật giáo là
một trong 16 tổ chức tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc ta công nhận. Phật giao Nam
tông khmer với nhiều lễ hội đặc sắc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của
1
ngƣời dân Việt Nam nói chung và của ngƣời khmer nói riêng.
Tỉnh Kiên Giang có 14 huyện, thị, có bờ biển chạy từ rạch Tiểu Dừa
giáp ranh với tỉnh Cà Mau đến tận Hà Tiên, giáp biên giới Campuchia. Hàng
năm, bờ biển đƣợc phù sa bồi đắp khá nhanh, mỗi năm tiến ra biển đƣợc 3m
[xem 21]. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, Phật giáo nam
tông khmer Kiên Giang có 57 chùa, 7887 sƣ sãi và 1.071.895 tín đồ [6, tr.48].
Hòn Đất là một trong 14 huyện, thị thuộc tỉnh Kiên Giang, là 1 trong 5 huyện
thuộc vùng biên giới hải đảo, là vùng đất mang đậm tín ngƣỡng dân gian và
các tôn giáo. Đạo Phật tồn tại trong 3 cộng đồng ngƣời Việt, ngƣời Khmer và
ngƣời Hoa. Theo niên giám thống kê huyện Hòn Đất năm 2017 [27, tr. 17],
tổng dân số huyện Hòn Đất 159.419 ngƣời, trong đó ngƣời Khmer ở Hòn Đất
có dân số khá đông là 20.978 ngƣời, xếp thứ 2 (Chỉ sau ngƣời Kinh) trong cơ
cấu dân số chung của huyện và có tới khoảng 17.563 ngƣời Khmer theo đạo
Phật. Với tƣ cách là một chính giáo của ngƣời Khmer, Phật giáo Nam tông có
vai trò và vị trí quan trọng, có tầm ảnh hƣởng và chi phối lớn đến mọi lĩnh
vực đời sống từ vật chất đến tinh thần của ngƣời Khmer ở tỉnh Kiên Giang nói
chung và ở Hòn Đất nói riêng. Hiện nay, phần lớn ngƣời Khmer ở Hòn Đất
tin theo Phật giáo, lấy đó làm một trong những lẽ sống của mình, là chỗ dựa
tinh thần vững chắc để điều chỉnh hành vi, xử lý các mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Phật giáo Nam tông khmer với
nhiều phong tục, nhiều lễ hội…, đã tạo cho ngƣời Khmer ở Hòn Đất một đời
sống tín ngƣỡng phong phú, độc đáo, mang bản sắc riêng góp phần vào sự đa
dạng trong nền văn hóa đất nƣớc. Tuy nhiên, niềm tin tôn giáo nhiệt thành ấy
cũng từng bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây nhiều khó khăn cho
công tác giáo dục, tuyên truyền, quản lý của chính quyền, đôi lúc còn ảnh
hƣởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng. Với một bề dày lịch sử
không quá dài nhƣng cũng không quá ngắn, Phật giáo Nam tông đã gia nhập
2
vào trong đời sống ngƣời dân Khmer nhƣ một yếu tố của truyền thống đạo
đức. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, song ảnh hƣởng tích cực mà Phật
giáo Nam tông mang lại thực sự có ý nghĩa to lớn, góp phần xây dựng xã hội
và đời sống tinh thần, xây dựng nền văn hóa ngƣời dân Khmer trong giai đoạn
toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Ảnh
hưởng của lễ hội phật giáo Nam tông đối với đời sống người dân huyện
Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phật giáo nói chung và Phật giáo Nam Tông nói riêng là mảng đề tài
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả ở các góc độ khác nhau. Có
thể tạm sắp xếp các nghiên cứu đó vào hai nhóm công trình sau đây:
Một là: Các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo nói chung.
Trong nhóm công trình này, trƣớc hết phải kể đến một số tác giả và tác
phẩm tiêu biểu nhƣ PGS.TS Vƣơng Xuân Tình chủ biên trong đó có bài viết
của PGS.TS Nguyễn Văn Minh trong các cuốn nhƣ: nhân học tôn giáo và tôn
giáo, tín ngƣỡng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cuốn Xung Đột Và Giải
Xung Đột Tộc Ngƣời Vùng Tây Nam Bộ, cuốn Các dân tộc ở Việt Nam đăng
trong sách: Vƣơng Xuân Tình (Chủ biên), dân tộc Khmer Tập 3 Nxb chính trị
quốc gia Hà Nội (2007); Võ Văn Dũng/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số
6/2016; Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn có cuốn“Giáo trình Tôn giáo học”
(2005), Nxb ĐHSP Hà nội; Lƣơng Khải Siêu với cuốn “Lƣợc khảo Phật giáo
Ấn Độ” (1957), Nxb Phật học; Tác giả Thích Mật Thể với công trình “Thế
giới quan Phật giáo” (1967), Nxb Vạn Hạnh; Nguyễn Tài Thƣ (Chủ
biên,1991) với “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, Nxb Viện Triết học Hà Nội.
Trong những công trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích những tƣ
tƣởng cơ bản của Phật giáo trong quá trình hình thành, du nhập và phát triển
của nó. Từ đó đánh giá vị trí, vai trò của Phật giáo trong lịch sử tƣ tƣởng Việt
3
Nam. Ngoài ra, còn có các công trình của Tịnh Vân “Phật giáo và nhân sinh”
(2011), Nxb Hồng Đức; Thích Chúc Phú (2013), “Vài vấn đề về Phật giáo và
nhân sinh”;Nxb Hồng Đức; Hoàng Ngọc Vĩnh (2011),“Nhân sinh quan Phật
giáo qua góc nhìn của lịch sử triết học’; Nguyễn Hùng Hậu, “Một số suy nghĩ
về ảnh hƣởng của Phật giáo đối với tƣ duy ngƣời Việt”, Tạp chí Triết học số
5/1996. Nhìn chung, các công trình này đều nghiên cứu về Phật giáo dƣới góc
độ nhân sinh quan và những ảnh hƣởng của nó đến đời sống tín ngƣỡng của
con ngƣời hiện nay.
Hai là: các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo Nam tông và
những ảnh hƣởng của nó đến đời sống của ngƣời Khmer Nam bộ chủ đề về
Phật giáo Nam tông và những ảnh hƣởng của nó đến đời sống tinh thần của
ngƣời Khmer Nam bộ cũng đƣợc nhiều tác giả dụng tâm nghiên cứu. Trong
mảng đề tài này, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: nghiên cứu về
Phật giáo Nam tông tác giả Nguyễn Mạnh Cƣờng có cuốn Phật giáo Khmer
Nam Bộ - Những vấn đề nhìn lại, (2008), Nxb Tôn giáo. Công trình này đã
cho thấy tƣ tƣởng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Nam tông Khmer
(Theravada) đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngƣỡng tôn giáo của
đồng bào dân tộc Khmer và cũng đã phản ánh đƣợc những nét văn hóa độc
đáo trong văn hóa của cộng đồng ngƣời Khmer Nam Bộ. Đồng thời, công
trình Nhựt hành của ngƣời tại gia tu Phật của Tỳ khƣu Hộ Tông cùng đƣợc ấn
hành bởi Nxb Tôn giáo (2006) cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra, còn có Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc
(6/2014), Viện nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam và Học viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam. Kỷ yếu với nhiều bài viết, tổng số hơn 200 trang đã đi vào nghiên cứu
lịch sử du nhập, phát triển của Phật giáo Nam tông Khmer vào khu vực đồng
bằng sông Cửu Long. Sự biến đổi và những diễn biến hiện nay của Phật giáo
4
Nam tông Khmer trƣớc những ảnh hƣởng của điều kiện lịch sử mới. Riêng về
ngƣời Khmer và đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Khmer có các công trình
nghiên cứu của: Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lí luận và ứng
dụng, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014,
trang 56. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo lí luận xƣa và nay, Nhà xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, trang 285. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học nhập
môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 23. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo học
nhập môn, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2009, trang 26. Bùi Thị Hải Yến (Chủ
biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2012, trang 31.
Bùi Thị Hải Yến (Chủ biên), Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, 2012, trang 31. Nguyễn Đức Lộ, Cấu hình làng xã Cộng đồng Công
Giáo bắc di cƣ tại Nam Bộ, Nhà xuất bản Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2015, trang 30. Phan An (2010), Phật giáo tiểu thừa khmer, Tài liệu hội thảo
tôn giáo ở nam bộ; những vấn đề nổi bật, những đáp ứng của chính sách và
nghiên cứu, trang 41.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hƣởng của lễ hội Phật giáo Nam
tông khmer đối với đời sống ngƣời dân huyện Hòn Đất hiện nay, luận văn đƣa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò giá trị của lễ hội Phật giáo Nam
tông trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
+ Trình bày khái lƣợc về quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo
Nam tông khmer ở Hòn Đất.
+ Đi sâu phân tích một số lễ hội và sự ảnh hƣởng của lễ hội Phật giáo
Nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân huyện Hòn Đất hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực, phát huy
5
ảnh hƣởng tích cực của nó để góp phần xây dựng xã hội, phát huy giá trị của
lễ hội phật giáo Nam tông đối với ngƣời dân huyện Hòn Đất trong giai đoạn
toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một số các lễ hội cơ bản của Phật giáo Nam Tông
đối với ngƣời dân huyện Hòn Đất. Phạm vi nghiên cứu về những ảnh hƣởng
của lễ hội Phật giáo Nam tông chủ yếu là các lễ hội nhƣ: Lễ Chol Chnam
Thmay, lễ Sen Đôn Ta, lễ Okombok đến đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế
của ngƣời dân Hòn Đất. Các số liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu chủ yếu
lấy từ năm 2010 đến năm nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc
Việt Nam về tôn giáo. căn cứ Hiến pháp năm 2013 của Quốc hội.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp biện chứng
duy vật của triết học Mác –Lênin, các phƣơng pháp nghiên cứu của Tôn giáo
học và kết hợp với một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhƣ phân
tích và tổng hợp, lôgíc -lịch sử, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, Phật
giáo Việt Nam nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về tôn giáo.
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần lí giải thấu đáo hơn về lễ hội và
sự ảnh hƣởng của lễ hội lễ Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất. Làm cơ sở cho
việc đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy đời sống của ngƣời dân
Hòn Đất phù hợp tiến trình xây dựng đất nƣớc Việt Nam ngày nay.
- Về mặt thực tiễn: Những phân tích và đánh giá về nội dung của Phật
6
giáo Nam tông, sự ảnh hƣởng của lễ hội trong đời sống tinh thần của ngƣời
dân ở Hòn Đất và những giải pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt
tích cực của nó, qua đó cung cấp cho các cấp Đảng, chính quyền, ban ngành,
đoàn thể của địa phƣơng những căn cứ khoa học để nâng cao vi trò giá trị của
lễ hội văn hóa ngƣời khmer và đề ra những chủ trƣơng, chính sách trong công
tác tôn giáo hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
7
luận văn gồm 2 chƣơng, 5 tiết.
Chƣơng 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI LƢỢC
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở HUYỆN HÒN ĐẤT
1.1. Một số vấn đề lí luận về lễ hội
Về khái niệm lễ hội có thể thấy rất nhiều quan điểm, trong phạm vi đề
tài nghiên cứu tác giả xin nêu một số cách hiểu về lễ hội nhƣ sau:
+ Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính
cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong chu kỳ về không gian
và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trƣng về
sự kiện nhân vật đƣợc thờ cúng. Còn lễ hội tín ngƣỡng là hình thức sinh hoạt
văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cƣ trong thời gian và không
gian xác định: nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại có
tính thiêng; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con ngƣời với
thiên nhiên - thần thánh và con ngƣời trong xã hội [22, tr. 34-35].
Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trƣng của cộng
đồng xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó nhằm tôn vinh và quảng bá cho
những giá trị nhất định. Lễ hội là cuộc sống đƣợc tái hiện dƣới hình thức một
trò diễn đƣợc thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, của
tƣ tƣởng và của biểu tƣợng, vƣợt trên thế giới hiện thực.
+ Trong từ điển bách khoa Việt Nam: Lễ là hệ thống những hành vi,
động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh
những ước mơ của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện.
Còn: Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất
phát từ nhu cầu cuộc sống. Chức năng xã hội của hội là củng cố những mối
8
quan hệ giữa các nhóm, khẳng định tinh thần cộng đồng. Về phƣơng diện văn
hóa, hội có chức năng khẳng định trình độ văn hóa của một cộng đồng và giao
lƣu văn hóa trên quy mô xã hội.
Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngƣỡng, các phong tục tập quán, các thể
lệ và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng đƣợc tái hiện một cách rất sinh
động.
Lễ hội là một sự kiện văn hóa đƣợc tổ chức mang tính cộng đồng. Lễ
hội là hoạt động tập thể và thƣờng có liên quan đến tín ngƣỡng, tôn giáo. Con
ngƣời xƣa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ánh
hiện tƣợng đó. Tôn giáo rất có ảnh hƣởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội
để phô trƣơng thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo để thần linh hóa những thứ
trần tục. Nhƣng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm
bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng
hƣớng tới đối tƣợng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó
chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con ngƣời. Giúp
con ngƣời nhớ về nguồn cội, hƣớng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt
lành, yên vui.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu: khái niệm lễ hội phật
giáo là hình thức sinh hoạt tôn giáo mang tính cộng đồng của ngƣời theo Phật
giáo, là một phƣơng thức biểu hiện đức tin của ngƣời Phật tử diễn ra vào một
khoảng thời gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với
Phật giáo.
Nhƣ vậy lế hội Nam tông Khmer dƣợc hiểu là: hình thức sinh hoạt tôn
giáo mang tính cộng đồng của ngƣời theo Phật giáo Nam tông Khmer, là một
phƣơng thức biểu hiện đức tin của ngƣời Phật tử diễn ra vào một khoảng thời
gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm nào đó đối với Phật giáo
9
Nam tông Khmer
* Bản chất của lễ hội
Lễ hội là một hoạt động văn hóa của từng cộng đồng ngƣời, phản ánh
trình độ tổ chức xã hội. Lễ hội bao giờ cũng thể hiện sự ƣớc vọng, niềm tin về
cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng ngƣời vào hiện tại và tƣơng lai, hoài niệm
quá khứ, gợi về cội nguồn dân tộc.
Trong xã hội phong kiến, nhà nƣớc và các tôn giáo luôn tạo dựng củng
cố những lễ hội để khẳng định trật tự xã hội, uy quyền và sự linh thiêng tôn
giáo. Tính giai cấp của lễ hội thể hiện ở sự phân cấp quyền lợi của ngƣời tham
gia. Thƣờng thì ngƣời dân chỉ tham gia các trò diễn, còn nghi lễ chính thức
vẫn do quan viên phụ trách. Tuy nhiên, về mặt quyền lợi nhƣ hƣởng các phần
thƣởng, lễ vật cúng thần thì thƣờng không phân biệt mà có tính cộng đồng, ai
tham gia sẽ đƣợc chia phần và đƣợc thƣởng nếu chiến thắng trong các hội thi.
Lễ hội luôn duy trì liên tục qua các thời đại, nó vừa nối tiếp truyền
thống vừa mang yếu tố thời đại. Dù muốn hay không, lễ hội đều phải chịu ảnh
hƣởng của chế độ xã hội. Mỗi xã hội đều có ảnh hƣởng và tác động nhiều hay
ít đến sinh hoạt, tập tục, lối sống. Xã hội hiện đại với nếp sống hiện đại ít
nhiều đã tạo nên một số thói quen sinh hoạt mới, khác với lối sống và thói
quen cũ. Nhƣng nó có duy trì và tồn tại đến thế hệ sau hay không là tùy thuộc
vào sự ƣu việt của nó, tùy vào sự chấp nhận và thích nghi của thế hệ mới. Sự
phát triển kinh tế xã hội thúc đẩy sự thay đổi và hình thành những nếp sống và
lễ hội hiện đại. Có những lễ hội mới phát sinh trong xu thế hội nhập và phát
triển của xã hội, do tác động của sự phát triển các ngành nghề và sự mở rộng
quy mô kinh doanh nhƣ lễ hội hoa, lễ hội trà, lễ hội cà phê, lễ hội trái cây,...
Lễ hội của ngƣời Khmer gồm 2 loại là lễ hội dân tộc và lễ hội tôn giáo.
Lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
cũng nhƣ cuộc sống lao động của dân chúng, tuy nhiên, trong quá trình phát
10
triển thì những lễ hội này thƣờng bị pha trộn với những yếu tố tôn giáo [Xem
8]. Những lễ hội dân tộc lớn trong năm của ngƣời Khmer gồm: lễ Vào năm
mới (Chôl chnam thmây) - thƣờng tổ chức vào giữa tháng 4 Dƣơng lịch tức
đầu tháng Chét của ngƣời Khmer, lễ cúng ông bà (Đôn - ta) - tổ chức vào 3
ngày từ 29-8 đến 1-9 Âm lịch, lễ cúng trăng hay lễ cúng cốm dẹp (Ók om
bok) - tổ chức ngày 15-10 Âm lịch. Lễ hội tôn giáo của ngƣời Khmer ngày
nay đều gắn với Phật giáo Nam tông. Những lễ hội tôn giáo định kỳ hàng năm
đó là: Lễ phật đản (Lễ phật đản của ngƣời Khmer tổ chức vào rằm tháng 5
Âm lịch khác với ngày lễ phật đản của Phật giáo đại thừa: 8-4 âm lịch); lễ đặt
cơm vắt (từ ngày 15 đến 30-8 Âm lịch); lễ ra hạ (14 và 15-9 âm lịch); lễ dâng
y (từ 14-9 đến 15-10 Âm lịch). Ngoài ra còn có những ngày lễ không định kỳ
nhƣ lễ an vị tƣợng Phật và lễ kết giới [xem 19].
* Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng lớn với rất nhiều cách hiểu
khác nhau và còn nhiều vấn đề còn tranh luận. Dù nghiên cứu văn hoá dƣới
góc độ nào thì văn hoá vẫn có những nội dung cơ bản của nó.
Mặc dù ra đời sớm trong ngôn ngữ Phƣơng Tây cũng nhƣ Phƣơng
Đông nhƣng phải đến thế kỷ XVIII, từ “văn hóa” mới đƣợc đƣa vào khoa học,
sử dụng nhƣ một thuật ngữ khoa học. Từ đó đến nay khái niệm văn hóa đƣợc
nhiều ngƣời đề cập.
Các nhà đạo đức học coi văn hoá là đạo đức, các nhà tôn giáo học coi
văn hoá là phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, các nhà dân tộc học coi văn hoá là
hình thức biểu hiện đời sống của các tộc ngƣời,… Tính đa nghĩa của khái
niệm văn hoá không chỉ có trong nhận thức lý luận mà còn là thực tiễn. Văn
hoá là khái niệm đang vận động, mang tính lịch sử, biến đổi cùng các thời đại
trong lịch sử. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hoá, mỗi
11
định nghĩa đi vào một khía cạnh khác nhau của văn hoá.
Khái niệm văn hóa của Trần Ngọc Thêm: [30, tr. 56] “Văn hóa là một
hệ thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo ra và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Năm 2002, tổ chức UNESCO đã đƣa ra khái niệm về văn hóa nhƣ sau:
“Văn hóa nên đƣợc đề cập đến nhƣ là một tập hợp những đặc trƣng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm
ngƣờitrong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật cả cách sống,
phƣơng thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, Ngƣời đƣa ra
khái niệm về văn hóa nhƣ sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích cuộc sống
loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ta ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó đƣợc gọi là văn hóa” [26, tập 4].
Các tác giả trong sách Tôn giáo lý luận xƣa và nay cho rằng: “Tôn giáo
biểu hiện là một trong những lĩnh vực của văn hóa tinh thần. Với quan niệm
như vậy, thì tôn giáo và văn hóa không tách biệt và xa lạ nhau, tôn giáo
không vượt ra ngoài khuôn khổ của văn hóa, không bị mất đi những đặc điểm
vốn có của nó với tư cách là một hiện tượng văn hóa. Mặt khác, chỉnh thể văn
hóa không thể thiếu tôn giáo, không đánh mất nó, giữ lại nó trong mình,
không thu hẹp nội dung và không gian của nó” [23, tr. 285]
Tóm lại Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đƣợc con
ngƣời sáng tạo và lƣu giữ trong quá trình lịch sử.
* Khái niệm cộng đồng
Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng đƣợc sử dụng một cách
12
tƣơng đối khá rộng rãi, nhằm chỉ nhiều đối tƣợng có những đặc điểm tƣơng
đối khác nhau về quy mô, đặc tính xã hội. Danh từ cộng đồng đƣợc sử dụng
cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng-xã, hay một nhóm xã hội nào đó
có những đặc tính xã hội chung về tâm thức và lý tƣởng xã hội, hay về lứa
tuổi, giới, hay về nghề nghiệp, về thân phận xã hội.
Từ đó có thể khẳng định rằng, khái niệm cộng đồng đƣợc hiểu dƣới
nhiều chiều kích khác nhau nhƣ: cộng đồng, tập thể, nhóm… và ở Việt Nam
khái niệm đƣợc sử dụng khá phổ biến là làng-xã, thôn, ấp… cũng đƣợc xem
nhƣ loại hình cộng đồng.
Theo J.Hfichter: “Cộng đồng là một tập thể ngƣời nhất định trên một
lãnh thổ kinh tế và văn hóa bao gồm các yếu tố:
+ Tƣơng quan cá nhân mật thiết với nhau, tƣơng quan này đôi khi đƣợc
gọi là tƣơng quan mặt đối mặt, tƣơng quan thân mật.
+ Có sự tình nguyện hi sinh đối với những giá trị đƣợc tập thể coi là
cao cả và có ý nghĩa.
+ Có ý thức với mọi thành viên trong tập thể”
Theo Nguyễn Hữu Nhân, sách Du lịch cộng đồng, Nhà xuất bản giáo
duc Việt Nam do Bùi Thị Hải Yến chủ biên, thì [31, tr.31] “Cộng đồng là
những cộng đồng đƣợc gọi tên nhƣ đơn vị làng, bản, xã, huyện...những ngƣời
chung về lí tƣởng xã hội, lứa tuổi, giới tính, thân phận xã hội. Khái niệm cộng
đồng có hai nghĩa:
- Là một nhóm dân cƣ cùng sinh sống trong một địa phƣơng nhất định,
có cùng giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.
- Là một nhóm dân cƣ có cùng mối quan tâm. [31, tr. 31]
- Theo Nguyễn Đức Lộ, nghiên cứu về cộng đồng là “nghiên cứu các
đặc trƣng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn giáo – tín ngƣỡng, phong tục tập
quán, cách giao tiếp ứng xử, khả năng chinh phục thiên nhiên, khả năng sáng
13
tạo nghệ thuật, tính cách tâm lý của cƣ dân trong cộng đồng” [25, tr.30].
Đặc biệt, theo quan niệm của Marxist thì: “Mối liên hệ qua lại giữa các
cá nhân, đƣợc quyết định bởi các lợi ích chung của các thành viên có sự giống
nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con ngƣời hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác
của họ, sự gần gũi giữa họ về tƣ tƣởng, tín ngƣỡng, hệ giá trị và chuẩn mực,
nền sản xuất, sự tƣơng đồng về điều kiện sống cũng nhƣ các quan niệm chủ
quan của họ về các mục tiêu và phƣơng tiện hoạt động”.
Tóm lại, các hình thức tổ chức của con ngƣời đều là kiểu cộng đồng, nó
chỉ khác nhau ở thời gian và không gian, cũng nhƣ nội dung lợi ích của việc
liên kết. Cụ thể đó là hình thức tổ chức, cộng đồng dân cƣ đƣợc xếp theo thứ
bậc, theo tộc ngƣời, quốc gia và cuối cùng là loài ngƣời.
* Đặc trƣng của cộng đồng
Theo Ferdinand Tonnies, cộng đồng có các đặc trƣng sau: “Thứ nhất,
những quan hệ xã hội nào mang tính chất tinh thần, thân thiện, mang độ cố
kết có ý nghĩa tự nhiên thì đấy là tính cộng đồng. Thứ hai là tính bền vững.
Tính cộng đồng đƣợc khẳng định theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có
một vai trò là yếu tố kết dính các thành viên trong cộng đồng. Thứ ba là tính
cộng đồng khi đƣợc xét từ quan điểm đánh giá và vị thế xã hội của các thành
viên xã hội thì đó là vị thế xã hội đƣợc gán sẵn nhiều hơn là vị thế phấn đấu
mà có đƣợc. Cuối cùng, tính cộng đồng lấy quan hệ dòng họ là quan niệm cơ
bản và mang cả hai đặc trƣng: dòng họ là huyết thống và dòng họ trở thành
khuôn mẫu văn hóa của sinh hoạt cộng đồng”.
Cộng đồng làng xã đƣợc xem là nơi cƣ trú truyền thống lâu đời của
ngƣời Việt, và nó cũng chính là chủ đề nghiên cứu của các nhà sử học, dân
tộc học, nhân học...
Ở Việt Nam, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi là ngƣời đầu tiên cố gắng
14
hệ thống hóa một cách đầy đủ về cơ cấu tổ chức xã hội làng Việt. Theo ông,
tổng thể cơ cấu xã hội ở làng-xã cổ truyền đƣợc tạo thành bởi năm hình thức
tập hợp ngƣời nhƣ sau:
Tập hợp ngƣời theo địa vực: chính loại hình tập hợp này đã hình thành
lên tổ chức ngõ, xóm. Tuy những phân thể này chỉ là mặt cƣ trú của làng xã,
nhƣng cũng có đời sống lối sinh hoạt và đời sống riêng.
Tập hợp ngƣời theo huyết thống – họ tộc: Dòng họ là tập hợp những
ngƣời đang sống và cả ngƣời đã chết, nó đƣợc liên kết với nhau bằng dòng
máu và có chung vị thủy tổ.
Tập hợp theo lớp tuổi: Giáp là loại hình tổ chức nằm giữa hai cực địa
vực và huyết thống. Giáp là tổ chức dành riêng cho nam giới. Quan hệ và vị
trí của các thành viên trong giáp đƣợc xác định dựa trên tuổi tác của ngƣời đó.
Trong mối tƣơng quan với cơ cấu tổ chức xã hội của làng Việt cổ truyền, giáp
đƣợc coi là tổ chức năng động nhất, đảm nhiệm nhiều vai trò và chức năng
nhất trong đời sống làng - xã.
Tập hợp ngƣời trong bộ máy chính quyền ở cấp xã: đó chính là loại
hình tập hợp theo địa vị xã hội. Nhƣng đến thời nhà Nguyễn thì bộ máy chính
quyền cấp cơ sở đã đƣợc hình thành với ba tổ chức Dân hàng xã: gồm toàn bộ
cƣ dân nam giới từ 18 tuổi trở lên.
Tập hợp ngƣời trong những tổ chức dựa trên lòng tự nguyện tham gia
của từng cá nhân - phe, hội, phƣờng: mục đích của tập hợp này là tƣơng trợ
nhau, đáp ứng những nhu cầu về tinh thần.
Trong khi đó, Tô Duy Hợp, Lƣơng Hồng Quang trong công trình Phát
triển cộng đồng lý thuyết và thực tiễn, cho rằng cần phải phân tích trên một
chiều kích khác về cộng đồng, đó là chỉ ra các thành phần tạo lập nên một
cộng đồng. Theo hai tác giả này, những cuộc nghiên cứu tại khắp nơi trên thế
giới cho thấy có một số yếu tố chính của cộng đồng là địa vực, yếu tố kinh tế
15
hay nghề nghiệp, và cuối cùng là các yếu tố có tính văn hoá. Những yếu tố
này tạo ra sự cố kết cộng đồng từ những đặc điểm chung, mà các thành viên
có thể chia sẻ với nhau.
Đối với thực tế, nhân loại thƣờng tổ chức đời sống dựa theo ba nguyên
tắc cơ bản sau: dòng dõi, cùng cƣ trú, cùng lợi ích, từ đó chúng ta thấy rằng
làng xã Việt thích hợp với ba nguyên lí cơ bản trên, vừa có huyết thống, láng
giềng và vừa có cùng lợi ích. Tuy khác nhau về quy mô, nhƣng làng Việt ở ba
miền đều là nơi cƣ trú của những cộng đồng có chung huyết thống, hoặc cùng
quê, và đặc biệt có cùng một không gian xác định. Tuy nhiên, do quá trình
lịch sử, hay do sự mở rộng lãnh thổ, nên từ đó việc hình thành, cũng nhƣ quá
trình diễn ra cũng khác nhau ở các vùng.
Những làng ở Bắc bộ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy – cái nôi nền
văn minh lúa nƣớc. Bởi vì việc phát triển của làng xã Việt, nó không phá vỡ
hoàn cơ cấu tổ chức của lãng xã cũ, do đó nó vẫn mang những tàn dƣ của
công xã nông thôn, do chƣa có tƣ hữu. Tình hình này còn biểu hiện rất rõ ở
các tộc ngƣời thiểu số ở Trƣờng Sơn (Tây Nguyên) trong những thập niên gần
đây. Ngƣời Việt trong quá trình Nam tiến đã mở rộng biên cƣơng, xác lập chủ
quyền, cũng là lúc hình thành những điểm tụ cƣ và trở thành làng.
Đối với làng xã Nam bộ cũng mang nét chung của làng xã Bắc bộ, đó
là nơi của ngụ của của cộng đồng ngƣời Việt có mối quan hệ về huyết
thống hoặc cùng quê. Các làng Việt Nam bộ đƣợc hình thành muộn hơn
nhiều so với làng Việt Bắc bộ nên không có làng-xã cổ truyền nhƣ các làng
Việt Bắc bộ.
Chính vì vậy, làng Việt Nam bộ đƣợc hình thành trên cơ sở tái sản xuất
cấu trúc cộng đồng trên nền tảng ký ức của những lƣu dân.
Ngoài kết cấu cộng đồng dựa trên huyết thống, hàng xóm, láng giềng,
cùng thân phận lƣu vọng, thì trong quan hệ tôn giáo, sự kết cấu cộng đồng
16
còn dựa trên niềm tin tôn giáo, chính niềm tin này là yếu tố quyết định tính
chất bền vững cho sự trƣờng tồn của cộng đồng. Cùng chung một niềm tin tín
ngƣỡng-tôn giáo là sự chia sẻ những ƣớc nguyện về mặt tinh thần, tạo nên sự
thống nhất tinh thần, củng cố nền tảng đạo lý chung tại cộng đồng. Các tôn
giáo lớn cùng với hệ thống giáo lý, giáo hội và giáo đoàn đã góp phần củng cố
sự đoàn kết cộng đồng bằng sự chặt chẽ về tổ chức, những “áp chế” của hệ
thống giáo lý, của tầng lớp giáo sĩ và tinh thần tự nguyện của tín đồ cũng đã
tạo nên sự đoàn kết trong cộng đồng. Trong thực tiễn, các tín ngƣỡng dân
gian và tôn giáo lại có sự lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, từ đó,
thống nhất về mặt lịch sử các niềm tin của ngƣời dân, tránh những xung đột,
tạo ra những sức mạnh cố kết cộng đồng mới, có tính hiệu quả mạnh mẽ.
Nhƣ vậy, cộng đồng làng xã cổ truyền của ngƣời Việt không chỉ vừa
bảo lƣu các yếu tố của công xã nông thôn có từ thời nguyên thủy, mà còn còn
tồn tại trong xã hội có giai cấp và đẳng cấp dƣới sự quản lý của nhà nƣớc, vì
thế bên cạnh những thiết chế xã hội mang tính cộng đồng phi quan phƣơng thì
các thiết chế nhà nƣớc và quan hệ giai cấp đẳng cấp chi phối rất mạnh mẽ gắn
liền với lợi ích và quyền lực của các nhóm xã hội khác nhau.
Một trong các nghiên cứu về làng xã Việt của các nhà khoa học xã hội,
thì không ít đã vận dụng lý thuyết theo cấu trúc – chức năng luận của
Radcliffe Brown, chẳng hạn nhƣ nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi khi nghiên
cứu “Cơ cấu làng của làng Việt cổ truyền Bắc bộ”.
1.2 Sự hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông
Khmer ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
1.2.1. Quá trình du nhập của Phật giáo nam tông khmer ở huyện
Hòn Đất.
Ngƣời khmer ở Nam bộ với Ngƣời khmer ở Campuchia là đồng tộc, có
nhiều nét tƣơng tự về lịch sử văn hóa và tộc ngƣời. Trƣớc khi di cƣ đến vùng
đất Nam bộ của Việt Nam, ngƣời khmer đã tiếp nhận phật giáo tiểu thừa đƣợc
17
truyền từ Ấn độ qua nhiều nẻo đƣờng khác nhau [1, tr. 41].
Ở Tây Nam bộ, ngƣời Chăm, ngƣời khmer, ngƣời Hoa đã có lịch sử lâu
đời với tổ quốc Việt Nam, là thành viên trong 54 dân tộc anh em đã cố kết với
nhau trong truyền thống dựng nƣớc và giữ nƣớc. Mỗi dân tộc có bản sắc văn
hóa riêng. Cái bản sắc đó cần đƣợc duy trì và phát triển. Đánh mất cái bản sắc
đó thì cũng có nghĩa là đánh mất cả dân tộc [5, tr. 15].
Theo một số tài liệu nghiên cứu, ngƣời Khmer là một tộc ngƣời sinh
sống từ rất lâu đời ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, còn gọi là đồng
bằng Nam bộ. Vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang). Vào năm 1679,
Mạc Cửu ngƣời Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, một di thần nhà
Minh, không thần phục nhà Thanh, nên đã dong thuyền sang Chân Lạp, rồi
đến Phƣơng Thành (Trúc Phiên Thành) hay gọi là Man Khảm đã đƣợc vua
Lê, Chúa Nguyễn cho định cƣ tại vùng đất mới. Ngài đã chiêu mộ cƣ dân lƣu
dân các dân tộc, Việt, Khmer, Hoa khai khẩn đất hoang, lập ra các thôn xã:
Rạch Giá, Cà Mau, Cần Bột, Cần Vọt, Phú Quốc, Vũng Thơm. Tƣơng truyền,
thƣờng có nàng Tiên đi lại trên ung nên gọi là Hà Tiên, ngƣời Khmer gọi là
Tà Ten.
Dƣới thời vua Lê Hiển Tông (1705), Chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu
đã dâng phần đất Hà Tiên cho Triều đình và Chúa Nguyễn, đƣợc vua Lê,
Chúa Nguyễn chấp nhận và phong làm Tổng trấn Hà Tiên, Tƣớc Cửu Ngọc
Hầu. Kể từ đó, Hà Tiên là phần đất cuối cùng của phƣơng Nam thuộc về Đại
Việt. Mạc Cửu là một phật tử thân tín của Hòa thƣợng Hoàng Long (Hoằng
Long) từ Quy Nhơn vào Hà Tiên hành đạo khoảng năm 1705-1715, trụ trì
chùa Núi Bạch Tháp, viên tịch năm 1737, nhập tháp tại chùa núi Bạch Tháp
(núi Vân Sơn). Năm 1730, Mạc Cửu đã xây dựng chùa Tam Bảo để phụng
thờ Tam bảo Phật – Pháp – Tăng và để làm nơi tu dƣỡng cho mẹ già là bà
18
Thái Thị.
Năm 1736, sau khi Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Thiên Tích (Tứ)
kế nghiệp, đƣợc vua Lê Túc Tông phong chức Đô Đốc Trấn thủ Hà Tiên.
Năm 1750, Ngài cho xây dựng chùa Phù Cừ (Phù Dung) cho bà Thứ Cơ Phù
Cừ sau khi xuất gia, có nơi tu hành tụng Kinh niệm Phật. Có thể nói, ba ngôi
chùa Bạch Tháp, Tam Bảo, Phù Dung là cơ sở tự viện đƣợc xây dựng đầu tiên
và Hòa thƣợng Hoàng Long là vị Thiền sƣ mang đạo Phật đến Hà Tiên- Kiên
Giang trong những ngày đầu bình minh của Phật giáo xứ Phƣơng Nam.
Tỉnh Kiên Giang theo thống kê năm 1989 có 145.496 ngƣời Khmer,
chiếm tỷ lệ 12% dân số, phân bố rải rác khắp các huyện trong tỉnh. Trong đó
ngƣời Khmer phân bố đông nhất ở các huyện: Châu Thành có 32.000 ngƣời,
Gò Quao có 21.610 ngƣời, Giồng Riêng có 16.190 ngƣời, Hà Tiên có 16.409
ngƣời, An Biên có 8.210 ngƣời và thị xã Rạch Giá có 8.032 ngƣời. Đây là hai
tỉnh giáp biên giới với Campuchia, ngƣời Khmer ở đây xây ung phum sóc
trên đồi hay trên các giồng ven kinh trong những vùng đất thấp hoặc ven chân
núi quanh dãy Bảy Núi.
Cuốn lịch sử Đảng bộ Hòn Đất ghi rõ, Hòn Đất (trƣớc là Châu Thành
A) là một huyện lỵ của tỉnh Rạch Giá. Hòn Đất là huyện nằm giữa Hà Tiên và
Rạch giá, là khu vực gần biên giới Campuchia, dân tộc Khmer di dân đến Hòn
Đất sinh sống khá đông. Là 1 một huyện có nhiều chùa Nam Tông và có đông
ngƣời khmer sinh sống, ít nhiều bà con kể cả ngƣời kinh, ngƣời Khmer theo
đạo Phật.
Tóm lại, sự du nhập phật giáo Nam tông vào Hòn Đất, Kiên Giang
đƣợc hình thành gắn liền với các cuộc chiến tranh chống giặc xâm lƣợc, các
cơ sở thờ tự trong tỉnh cùng tăng, ni, phật tử đã có nhiều đóng góp cho địa
phƣơng xây dựng nông thôn mới. Qua những minh chứng trên, có thế thấy
rằng Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer đƣợc truyền bá vào Hòn Đất –
19
Kiên Giang từ rất sớm đồng thời có thể khẳng định rằng quá trình du nhập của
Phật giáo Nam tông vào Hòn Đất – Kiên Giang gắn với với quá trình du nhập
của ngƣời Khmer vào Nam bộ nói chung, vào Hòn Đất nói riêng.
1.2.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Nam tông khmer ở Hòn
Đất, tỉnh Kiên Giang.
+ Từ khi du nhập vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung,
vào Kiên Giang và huyện Hòn Đất nói riêng, Phật giáo Nam tông đã trải qua
nhiều thăng trầm, biến cố, nhƣng nhìn chung hệ phái tôn giáo này vẫn phát
triển cùng với sự phát triển của vùng đất này. Hòn Đất là huyện đứng hàng
thứ 2 trong 15 huyện thuộc tỉnh Kiên Giang có đông đồng bào Khmer và phật
tử. Phật giáo Nam tông ở đây đã phát triển trong thế ổn định và đồng hành
cùng dân tộc. Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất khá phát triển với hệ thống …
chùa thờ Phật, chủ yếu tập trung ở thị trấn Hòn Đất, Sóc Sơn, Sơn Kiên, Lình
Huỳnh và Thổ Sơn. Cuộc sống của ngƣời Khmer tuy đƣợc Đảng, Nhà nƣớc
quan tâm chăm lo nhƣng vẫn còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, am
hiểu về pháp luật kém, dễ bị các phần tử xấu xúi giục, lôi kéo chống phá Nhà
nƣớc. Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đã tận tình quan tâm chăm sóc
đến ngƣời Khmer, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chủ trƣơng, chính sách của
Trung ƣơng quy định đối với đồng bào Khmer và Phật giáo Nam tông Khmer,
các ngày lễ lớn nhƣ Phật đản, tết Nguyên đán, tết và các ngày lễ lớn của đồng
bào Khmer, tỉnh và huyện đều tổ chức đoàn đến thăm, chúc mừng, tặng quà.
Theo tác giả Nguyễn Mạnh Cƣờng viết trong cuốn Phật giáo Khmer nam bộ-
những vấn đề nhìn lại (2008), Nhà xuất bản tôn giáo thì:
Đời sống tu tập của sƣ sãi: Theo truyền thống, những quy định trong tu
học của chi phái Mohamikay (Bình dân) chặt chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn chi
phái Thommayutt (Hoàng Gia). Theo truyền thống tu hành của Phật giáo Nam
tông, mọi đàn ông ngƣời Khmet là tín đồ Phật giáo thì phải vào chùa tu học
20
để đền ơn ông bà cha mẹ.
Thiền theo Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn đƣợc giải thích:
Thiền là tiếng Phạn, kêu trọn nghĩa là Thiền na (Dhyana) cũng còn gọi theo
nghĩa: Thiền định, Tham thiền, Tƣ duy. Tiếng ấy có thể dùng là danh từ hay
động từ”. Thiền là sự suy xét, thầm nghĩ về đạo lý. Thiền cho lâu dài, cao viễn
kêu là nhập định, đại định (tiếng phạm: Samadhi). Nhƣ vậy kêu là Thiền định
[12, tr.1361].
Về quan hệ xã hội: chi phái Mohamikay (Bình dân) thƣờng co cụm, ít
quan hệ xã hội nên nguồn lực và sự ủng hộ còn hạn chế.
+ Trong quá trình tồn tại và phát triển Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất
luôn nêu cao tinh thần Từ bi, hỷ xả, vô ngã vị tha, lấy đó làm phƣơng tiện để
giáo hóa chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp để phụng sự Tổ quốc, Giáo hội.
Chức sắc, nhà tu hành, phật tử ở đây luôn có truyền thống đoàn kết, cùng
nhau xây dựng giáo hội vững mạnh, hành đạo đúng phƣơng châm “Đạo pháp
– Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Các chùa khmer, các sƣ sãi ngƣời khmer mở
các lớp dạy chữ khmer, cùng với việc dạy chữ, nhà sƣ Khmer còn tập trung
truyền dạy đạo lý, tri thức làm ngƣời cho Phật tử và ngƣời dân trong phum,
sóc để họ có đƣợc “cái tâm làm ngƣời đúng đạo”, vững bƣớc trong con đƣờng
ăn ở nơi trần thế [xem 20]. Thông qua các giai thoại, truyền thuyết Phật giáo
về tiền kiếp, nhân đức, các vị sƣ đã chuyển tải thông điệp cuộc sống đến cộng
đồng dân tộc Khmer, góp phần giáo dục văn hóa ứng xử và nhân cách sống
cho họ.
Nhìn chung với những chính sách tôn giáo của Đảng, nhà nƣớc và sự
quan tâm hƣớng dẫn, tạo điều kiện các cấp ủy, chính quyền, mặt trận trong
tỉnh, các hoạt động tôn giáo của Phật giáo hệ phái Nam tông diễn ra khá ổn
định, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời Khmer ở
21
nơi đây.
+ Một điểm nổi bật là Phật giáo Nam Tông khmer có sự ảnh hƣởng
từ tín ngƣỡng, phong tục, tập quán
Tôn giáo có thể là tiền đề của lễ hội. Điều này dễ nhận thấy qua các lễ
hội của ngƣời Khmer Nam bộ. Đa số các lễ hội của ngƣời Khmer đều mang
dấu ấn của Phật giáo. Các lễ hội (dù bắt nguồn từ Phật giáo hay từ dân gian)
đều thể hiện rõ vai trò của nhà sƣ và ngôi chùa Khmer. Lễ hội là nơi gửi gấm
niềm tin và ƣớc vọng của con ngƣời nhất là khi cuộc sống còn gặp nhiều khó
khăn, bế tắc. Trong chừng mực nhất định, tôn giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần
của lễ hội, qua đó góp phần giúp con ngƣời thêm sức mạnh củng cố niềm tin
vƣơn tới chân, thiện, mỹ, lạc quan hƣớng tới tƣơng lai. Tôn giáo cũng chính
là nội dung cơ bản mà lễ hội hƣớng đến. Có thể coi lễ hội là hình thức, còn
tôn giáo là nội dung. Trong lễ hội hàm chứa yếu tố tôn giáo, con ngƣời hƣớng
tới cái thiêng, xem là cứu ánh để tôn kính, ngƣỡng mộ... Trong không gian
trang nghiêm của lễ hội, qua các nghi lễ, hành vi tôn giáo đƣợc thể hiện nhƣ
nhu cầu cần thiết của con ngƣời. Chính vì vậy, khi nói đến lễ hội tôn giáo là
nói đến lễ hội gắn với niềm tin, tín ngƣỡng.
Bên cạnh đó văn hóa tôn giáo cũng bị ảnh hƣởng bởi tín ngƣỡng dân
gian, cụ thể:
Lễ hội tín ngƣỡng dân gian hình thành văn hóa tôn giáo Khmer
Lễ cắt tóc trả ơn mụ (Pithi kat sâk bâng kâk ch' mâp): Trẻ con sau khi
sinh đƣợc 7 ngày thì cha mẹ tổ chức một buổi lễ gọi là lễ cắt tóc trả ơn mụ, để
cắt tóc, cạo đầu hay đặt tên và cột tay cầu chúc cho nó mau lớn, mạnh khỏe và
sống lâu. Đồng thời, ngƣời mẹ cũng tạ ơn và trả ơn bà mụ đã giúp đỡ trong
ngày sinh đẻ. Trƣớc khi làm lễ, ngƣời ta sửa soạn hai mâm cơm, nấu chè
đƣờng và thêm một thúng lúa mà ngƣời Khmer gọi là “Chơn thbâung” rồi
mời bà con, họ hàng lại cùng cúng tổ tiên, kế đó họ cạo đầu hay cắt tóc cho
22
đứa trẻ và lấy chỉ cột tay chúc sức khỏe cho nó.
Về phần cúng bà mụ thì họ sắp xếp một cái thùng đựng lúa, một cái Sla
chôm, một trái dừa, một nải chuối, một vài mét vải, một chai rƣợu, một con
gà luộc… rồi để ngƣời mẹ ngồi cạnh cúng bà mụ, sau đó biếu bà mụ các vật
cúng đó và một ít tiền. Lễ này thƣờng chỉ tổ chức gói gọn trong một buổi
sáng, tuy nhiên ở nhiều nhà khá giả thì có thể kéo đài đến chiều. Lễ này ngày
nay không còn phổ biến ở một số tỉnh Nam bộ và thƣờng đƣợc tổ chức chung
với lễ đầy tháng với ý nghĩa mừng cháu bé đã thích nghi đƣợc với môi trƣờng
sống bên ngoài cơ thể mẹ.
Lễ giáp tuổi (Pithi kat chup)
Khi đứa con trai đƣợc đúng 12 tuổi tức là đƣợc đúng một con giáp, gia
đình ngƣời Khmer tổ chức một buổi lễ gọi là “lễ giáp tuổi” để cúng trả ơn
thần thánh đã giúp họ nuôi con qua đƣợc một con giáp; đồng thời cũng để xua
đuổi ma quỷ không cho đến gần đứa trẻ để cho nó khoẻ mạnh. Trƣớc hết, họ
chuẩn bị cơm, mời ông lục đến tụng kinh, vẩy nƣớc cho đứa trẻ để giúp đứa
trẻ khỏe mạnh ma quỷ không đám đến gần. Sau đó, ngƣời ta mời ông lục
dùng bữa cơm khi kết thúc lễ vào buổi sáng.
Lễ lên nhà mới (Pithi lơng phteah thmei)
Sau khi cất nhà mới, ngƣời Khmer làm lễ để vào nhà mới với mục đích
ở nhà mới cho đƣợc vui vẻ hạnh phúc. Họ còn mời hai ông bà có tuổi, đầy đủ
sức khoẻ giả vờ làm chủ nhà mới, còn chủ nhà thật sự thì đóng vai ngƣời đi
đƣờng xa đến nhà mới xin ở đợ. Họ mang theo quần áo, đồ đạc, dụng cụ cùng
với vợ con đến ở. Chủ nhà cho ở và tìm cách biến họ thành chủ nhà thay thế
họ (ông bà già). Khi đó, ông bà sẽ nói là ông bà đã già, lại muốn đi kiếm ăn
nơi xa mà không có con cái để giữ cửa nhà và của cải cho nên đƣợc những
ngƣời này đến xin ở đợ thì ông bà mừng lắm, muốn để cho họ trông coi nhà
23
cửa và của cải dùm.
Sau đó, ông bà đem hai mâm cơm cúng tổ tiên, cột tay những ngƣời
nhận là chủ nhà mới thay thế mình, chúc họ ở trong nhà mới đƣợc khoẻ mạnh,
trăm năm hạnh phúc. Họ cũng mời ông lục đểu tụng kinh cầu an xong mới
chấm dứt buổi lễ. Lễ này, về mặt ý nghĩa ngày nay đã có sự thay đổi lớn.
Theo đó, về hình thức, lễ đƣợc tổ chức gần giống với lễ “tân gia” của ngƣời
Việt tức là tổ chức một tiệc để thông báo với láng giềng, thân thuộc về ngôi
nhà mình vừa xây dựng xong.
Về mặt nội dung thì các thủ tục nêu trên hầu nhƣ đã dƣợc giản lƣợc hết,
mọi ngƣời cùng ăn uống vui vẻ, tụng kinh cầu phúc cho gia chủ. Về ý nghĩa,
đối với ngƣời chủ là sự đánh dấu những thắng lợi của một quá trình lao động,
đối với khách là sự chia vui, chúc mừng gia chủ hạnh phúc, làm ăn ngày càng
tiến tới.
Lễ cúng ông tà (Pithi đâun lơng neaka)
Tục thờ cúng ông tà cũng nhƣ các vị thần trong thiên nhiên (mƣa, gió,
sấm chớp ...) đã chiếm một địa vị quan trọng trong đời sống của ngƣời nông
dân Khmer. Neakta còn gọi là ông tà là các vị thần địa phƣơng của ngƣời
Khmer. Những ông tà này phụ trách từng khu vực hoặc lớn hoặc nhỏ và tuỳ
nơi ông cai quản mà ngƣời ta có những tên gọi khác nhau: Neakta sre - ông tà
giữ thửa ruộng; Neakta vatt - ông tà giữ chùa; Neakte peam beo - ông tà ngã
ba sông… Ông tà có nhiệm vụ trông coi sức khỏe và sự thịnh vƣợng ở những
nơi mà ông gìn giữ. Ông chịu trách nhiệm về những chuyện xảy ra ở đó nên
mỗi khi có vấn đề khó khăn (bệnh tật, đau ốm, thiên tai, tai nạn ...) thì ngƣời
ta đếu làm lễ cúng cầu khẩn ông tà. Nơi thờ cúng ông tà là những bàn thờ thô
sơ dựng ở chung quanh con đƣờng trên bờ ruộng hay dƣới gốc cây to trong
mỗi phum. Cũng có khi miếu thờ đƣợc xây dựng bằng gạch to hơn ở hƣớng
24
đông bắc của chùa hay ở một vị trí trung tâm nào đó trong srok.
Đây là miếu dành cho Neakta vatt hoặc Neakta mechas srok (Neakta
chủ srok). Tƣợng thần thƣờng đƣợc tƣợng trƣng băng viên đá hình bầu dục và
nhẵn bóng, có khi to gọi là thmâr thôm, có khi nhỏ gọi là thmâr tâuch. Lễ
cúng ông tà hàng năm đƣợc tổ chức vào tháng 4 - 5 dƣơng lịch (tức ngày
trong vòng một tháng đầu mùa hạ), trƣớc khi làm đồng áng. Vào những ngày
này, ngƣời Khmer họp nhau làm lễ theo từng srok để cúng ông tà và cúng để
cầu xin mƣa làm ruộng rẫy trong năm.
Họ kính trọng ông tà, coi nhƣ vị thần trực tiếp bảo hộ và giúp họ thu
hoạch tốt trong công việc đồng áng, đuổi sâu rầy phá hại mùa màng. Họ đến
miếu ông tà (còn là nhà ông tà) để làm lễ xin nƣớc mƣa. Họ dọn cúng các
quỷ ngoài đồng là con cháu của ông tà. Các ma quỷ đƣợc ăn uống sẽ dẫn
nhau đi bảo vệ ruộng rẫy cho họ. Vào lễ, phát xuất từ cửa miếu ông tà, họ đi
vòng quanh nhà ông tà 3 lần theo chiều kim đồng hồ tƣợng trƣng cho sự xin
nƣớc mƣa. Đi đầu là ngƣời chủ lễ, kế đó mọi ngƣời đi tự do không cần theo
thứ tự. Sau đó, họ kéo nhau đến bàn thờ ông tà đốt nhang, cẩu khẩn ông tà
bảo hộ xóm làng yên vui, mạnh khỏe và giúp cho mƣa thuận gió hoà, mùa
màng tƣơi tốt.
Trong lúc làm lễ, họ dùng nhạc và lời hát để mời các vị thần đến dự.
Sau khi cúng, họ tổ chức chơi bời ghe trên khô gọi là “um tuk lơ kôk”, nhà
nào có xuồng, thì họ đem ra bơi và vừa đánh cồng vừa hát. Buổi lễ chấm dứt
ở đây.
Lễ cúng sân lúa (Pithi sên lean)
Lễ này đƣợc tổ chức khi mùa màng đã kết thúc vụ thu hoạch, lúa đã về
dến sân phơi. Khi đó, ngƣời Khmer tổ chức cúng sân lúa để tạ ơn ông tà. Nghi
thức tiến hành nhƣ sau: Sau khi dọn lễ vật cúng sân lúa nhƣ đầu heo, rƣợu,
25
các loại thức ăn khác….
Gia chủ mời một vài ngƣời cao tuổi của gia đình hoặc của phum, srok
và bạn bè đi với mình vòng quanh sân lúa 3 lần đều đáp tạ ông tả và ma quỷ
ngoài đồng đã giúp họ có một vụ mùa bội thu. Lễ này đƣợc tổ chức ngay trên
sân lúa của gia đình vào buổi sáng lúc vụ lúa vừa thu hoạch xong. Sau khi
cúng, mọi ngƣời sẽ ăn uống đồ lễ cúng tại sân lúa và buổi lễ chấm dứt. Về
phƣơng diện xã hội, buổi lễ này có thể xem nhƣ một buổi lễ mừng thắng lợi,
đánh dấu một khoảng thời gian lao động vất vả và đã thu đƣợc những thành
quả xứng đáng với công sức lao động của mọi ngƣời.
Buổi lễ đƣợc xem là sự chia sẻ niềm vui và thƣởng công cho mọi ngƣời
đã giúp gia chủ trong vụ mùa vừa qua. Vì vậy, lễ này khá phố biến ở nông
thôn Khmer nhƣ hình thức tổ chức thì thay đổi khá nhiều, các nghi thức gần
nhƣ đã đơn giản gần hết. Tuy nhiên về ý nghĩa thì vẫn nhƣ cũ có lẽ vì đây là
một nghi lễ nông nghiệp truyền thống cũa ngƣời Khmer.
Tín ngƣỡng nông nghiệp
Thờ thần lúa, thần cây, thần trăng, ngƣời Khmer còn có lễ cúng Trăng
(15 tháng Kdăk-tháng 10 âm lịch), lễ hạ điền (sau tết), lễ cúng cơm mới...cầu
mong chờ mƣa thuận gió hòa, trồng đƣợc nhiều lúa, săn bắt đƣợc nhiều cá,
tôm,… Tín ngƣỡng này còn tồn tại đến ngày nay.
* Đặc điểm đời sống kinh tế xã hội ngƣời dân ở Hòn Đất
Theo báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, nhiệm kỳ
2010-2015; phƣơng hƣớng nhiệm vụ, nhiệm kỳ 2015-2020 của Huyện ủy Hòn
Đất:[xem 4] Về tình kinh tế từ năm 2010 đến 2015 đạt tốc độ tăng trƣởng
kinh tế bình quân 13%/năm, đạt Nghị quyết. Thu nhập bình quân đầu ngƣời
42,5 triệu đồng/năm, vƣợt 7% Nghị quyết. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hƣớng, so với năm 2010, tỷ trọng nông-lâm-ngƣ nghiệp giảm từ 72,68%
xuống còn 61,47%; công nghiệp-xây dựng tăng từ 9,57% lên 15,21%; thƣơng
26
mại-dịch vụ tăng từ 17,75% lên 23,32%, vƣợt Nghị quyết Đại hội (Nghị quyết
phấn đấu đến năm 2015, tỷ trọng các lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế là: nông-
lâm-ngƣ nghiệp chiếm 65%, thƣơng mại dịch vụ-du lịch chiếm 18%, công
nghiệp-xây dựng chiếm 17%.). Nhận định chung thì kinh tế tiếp tục phát triển
khá, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt, vƣợt Nghị quyết Đại hội đề ra.
Về văn hóa – xã hội thì sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển đạt quy
mô trƣờng lớp đƣợc mở rộng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đƣợc quan
tâm đầu tƣ. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn là 99,8%. Tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt
nghiệp các cấp, trúng tuyển đại học, cao đẳng hằng năm đều tăng, học sinh bỏ
học giảm. Huy động trẻ 6-14 tuổi đến trƣờng đạt 98,14% vƣợt Nghị quyết
{Toàn huyện có 70 trƣờng học (tăg 8 trƣờng so với năm 2010), trong đó có 18
trƣờng đạt chuẩn quốc gia (tăng 5 trƣờng so với 2010), 44 trƣờng xanh-sạch-
đẹp (tăng 9 trƣờng so với 2010); 2.273 giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục,
tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trên 99%; huy động trẻ 6-14 tuổi đến trƣờng đạt
98,14%, trong đó trẻ 6 tuổi vào lớp 1đạt 99,8%; học sinh tốt nghiệp THPT đạt
99,41% (tăng 29,28% so năm 2010); học sinh trúng tuyển đại học-cao đẳng
đạt 41,53%; học sinh bỏ học giảm từ 1,85% xuống còn 1,79%…}. 14/14 xã
thị trấn tiếp tục đƣợc công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở; 12/14 xã,
thị trấn đạt chuẩn phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi (còn xã Mỹ Hiệp Sơn và xã
Mỹ Thái chƣa đạt).
Đẩy mạnh giáo dục định hƣớng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau
trung học cơ sở và trung học phổ thông; tăng cƣờng liên kết đào tạo với các
cơ sở trong và ngoài tỉnh, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 15%
năm 2010 lên 40% năm 2015 đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
Công tác xóa mù chữ cho ngƣời lớn tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở tiếp tục đƣợc duy trì; triển khai thực hiện phổ cập mầm non
cho trẻ 5 tuổi đạt kết quả khá. Công tác xã hội hóa giáo dục, phong trào
27
khuyến học, khuyến tài đƣợc đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.
Triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo gia đình
chính sách, hỗ trợ hộ nghèo. Thông qua các đề án phát triển kinh tế-xã hội,
chƣơng trình quốc gia giải quyết việc làm, phát triển ngành nghề, 5 năm qua
đã giới thiệu, giải quyết việc làm cho 20.000 lao động, vƣợt chỉ tiêu Nghị
quyết; trong đó, xuất khẩu lao động 60 ngƣời. Đẩy mạnh vận động gây quỹ
“vì ngƣời nghèo” cất nhà đại đoàn kết, nhà tình thƣơng, tranh thủ nhiều nguồn
vốn xây dựng nhà tình nghĩa, nhà ở cho đồng bào dân tộc, nhà đồng đội, nhà
mái ấm công đoàn... Đến nay, toàn huyện đã cơ bản xoá nhà xiêu vẹo, dột nát,
góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 3,55% (NQ 4%). Trong 5 năm qua
xây dựng 862 căn nhà theo Quyết định 167 của Thủ tƣớng Chính phủ, 160
căn nhà tình nghĩa, 592 căn nhà đại đoàn kết.
Đạt đƣợc những kết quả nêu trên là do: có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự hỗ trợ của các sở, ngành cấp tỉnh.
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thể hiện quyết tâm chính trị cao, lựa chọn
những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo trong từng thời gian.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền trong huyện đã có nhiều cố gắng nỗ lực cụ thể
hóa các chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện
phù hợp với tình hình thực tế, triển khai thực hiện có kết quả. Mặt trận và các
đoàn thể tích cực tuyên truyền vận động, tạo đƣợc sự đồng thuận trong các
tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, kinh tế của huyện phát triển chƣa thật sự vững chắc, tiềm
năng thế mạnh về công nghiệp chế biến, du lịch... chƣa đƣợc quan tâm đầu tƣ
đúng mức, khai thác chƣa hiệu quả. Cơ cấu kinh tế tuy chuyển dịch đúng
hƣớng nhƣng còn chậm. Nông nghiệp phát triển chƣa toàn diện, chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hợp tác sản xuất, liên doanh, liên kết còn nhiều hạn
chế. Xây dựng nông thôn mới còn lúng túng, chƣa huy động tốt nguồn lực
28
trong dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn; ô nhiễm môi
trƣờng còn xảy ra ở một số nơi nhƣng chƣa đƣợc khắc phục, xử lí kịp thời.
Chất lƣợng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp; lao động thiếu việc làm và
chƣa qua đào tạo nghề còn nhiều; phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao phát triển chƣa mạnh, đạo đức xã hội có mặt chƣa tốt; chăm sóc sức khỏe
nhân dân, phòng chống dịch bệnh có mặt còn hạn chế; giảm nghèo chƣa bền
vững; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Tình hình an ninh,
trật tự từng lúc, từng nơi vẫn còn diễn biến phức tạp, tội phạm, tệ nạn xã hội,
tranh chấp khiếu kiện trong dân còn xảy ra khá nhiều. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy cơ sở, chi bộ và cán bộ, đảng viên
có mặt chƣa đáp ứng yêu cầu; khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm
theo Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) còn chậm; học tập và làm theo tấm
gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh chƣa đi vào chiều sâu, kết quả làm theo chƣa
nhiều. Chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể có mặt
còn thấp.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan nhƣ: do ảnh
hƣởng của suy thoái kinh tế thế giới; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp;
nguồn lực ngân sách hạn chế; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ,... Nhƣng chủ
yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan: vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành,
Ban Thƣờng vụ Huyện ủy, cấp ủy cơ sở từng lúc chƣa thật sự quyết liệt;
phát hiện, nắm bắt tình hình chƣa kịp thời; chỉ đạo, kiểm tra uốn nắn chƣa
thƣờng xuyên. Quản lí, điều hành của chính quyền trên một số mặt còn yếu.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong khâu tổ chức thực hiện có lúc
chƣa chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Một bộ phận cán bộ trình độ, năng lực hạn
chế, tinh thần trách nhiệm chƣa cao, thiếu chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo,
29
thực hiện nhiệm vụ.
* Đặc điểm tâm lý của ngƣời khmer:
Thích sống quần tụ với nhau thành các phum, sóc; cũng có một số rất ít
sống ở các thị trấn, thị xã. Thƣờng làm nhà trên các đồi cao cách mặt ruộng
khoảng 5 m. Sống đoàn kết, thƣờng giúp đỡ nhau trong sản xuất. Tôn trọng
già làng. Cả tin, ghét giả dối. Rất nhiệt tình, tự giác trong công việc chung,
nhất là dịp lễ, cúng phật, dâng cơm sƣ sãi, lễ cầu phƣớc... Hoàn toàn tin v2
theo phật giáo tiểu thừa, tự nguyện đến với Phật {18, tr. 48}.
* Đặc điểm đời sống của ngƣời dân ở Hòn Đất
Trải qua hàng ngàn năm bén rễ và phát triển tại cộng đồng ngƣời
Khmer, Phật giáo Nam tông với những quan niệm độc đáo, sâu sắc về thế giới
quan, nhân sinh quan đã trở thành nguồn gốc tƣ tƣởng, tác động vào việc hình
thành những đặc trƣng trong đời sống của cộng đồng dân tộc này. Cụ thể ở
một số đặc trƣng sau:
Một là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer ở Hòn Đất luôn
gắn liền với nền nông nghiệp lúa nƣớc. Mọi hoạt động của ngƣời dân Khmer
dù dƣới góc độ vật chất hay tinh thần cũng đều thể hiện sự mong muốn
“Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
Hai là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer nơi đây thể hiện
tính đoàn kết trong cộng đồng, gắn liền với phum, sóc. Quản lý phum sóc do
một ngƣời lớn tuổi có uy tín trong đồng bào đảm nhận [9, tr. 222].
Ba là, đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Khmer luôn gắn liền với
tôn giáo đó là Phật giáo Nam tông.
Bốn là, đối với ngƣời Khmer luôn gắn liền với một ngôi chùa nhất
định, chính vì thế bất kì ngƣời con trai Khmer nào cũng phải vào chùa tu học
một thời gian trong cuộc đời của mình. Ngƣời Khmer tin vào Phật giáo Nam
tông bởi vì nó thoả mãn đƣợc nhu cầu về tinh thần của ngƣời dân nơi đây [14,
30
tr 362].
* Tình hình tôn giáo dân tộc ở Huyện Hòn Đất:
Theo báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của
BCH TW khóa IX về công tác dân tộc tôn giáo của Huyện ủy Hòn Đất đánh
giá: đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào đời sống kinh
tế xã hội của huyện, các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đƣờng hƣớng hành đạo,
hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc công nhận đã hành đạo
gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân,
xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. UBND, các ban ngành, đoàn thể huyện
tích cực thực hiện các chủ trƣơng, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc,
phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào
dân tộc, tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại những hoạt
động lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để hoạt động chống phá Đảng và Nhà
nƣớc. Tuy nhiên; tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số ngƣời chƣa tuân
thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngƣỡng, tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan
đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay
gắt, phức tạp. Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số ngƣời đã
lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích
động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định
chính trị. Nguyên nhân là do: công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và
phƣơng thức hoạt động, trong khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành
giật, lôi kéo quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Một số cấp ủy, chính quyền
cơ sở, một số cán bộ có trách nhiệm chƣa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ
trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về tôn giáo. Có nơi chủ quan, nóng
vội, giản đơn trong giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo; có nơi lại
31
hữu khuynh, thụ động, buông lỏng quản lý. Các chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc đối với tín ngƣỡng, tôn giáo chậm đƣợc thể chế hóa. Tổ
chức, bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy
quản lý nhà nƣớc về tôn giáo chƣa xác định rõ đƣợc mô hình, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp, thiếu sự quan tâm đầu tƣ bảo đảm các
điều kiện hoạt động; đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và hệ thống chính
trị cơ sở ở các vùng đông tín đồ tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
còn yếu, việc tập hợp quần chúng còn hạn chế [ xem 3].
Tiểu kết: Phật giáo Nam tông khmer du nhập vào huyện Hòn Đất rất
sớm, tồn tại và phát triển cho đến nay. Với những giai đoạn và các thời kỳ
lịch sử Phật giáo Nam tông ở Hòn Đất có những biến đổi và vị trí riêng, đặc
biệt, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Phật
giáo Nam tông khmer có những đóng góp quan trọng cũng nhƣ trong quá
trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Từ
khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phật giáo nam tông và đồng
bào khmer luôn đoàn kết, kề vai sát cánh cùng các dân tộc trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là
trong kháng chiến chống Mĩ, xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng trong đồng
bào khmer nhƣ: Ban khmer vận, Ban Sãi vận, Mặt trận sƣ sãi yêu nƣớc, hội
đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc, Bộ đội Isarac, Tiểu đoàn 512... và một số cá nhân
ngƣời khmer tiêu biểu. Sau giải phóng miền nam đến nay, Phật giáo nam
tông, đồng bào khmer cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác đƣợc hƣởng các
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Trƣớc hết đó là chính
sách đoàn kết, bình đẳng, tƣơng trợ và cùng phát triển. Các chính sách đó
đƣợc thể hiện rõ qua các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, nghị định và quyết định của Chính phủ [17, tr. 45-46].
Những giáo lý, giới luật đã đƣợc Đức Phật chế định từ khi giác ngộ đến khi
32
nhập diệt cho đến nay đã đƣợc ngƣời Khmer giữ gìn và lƣu truyền từ đời này
sang đời khác, con nối tiếp cha, đời tiếp nối đời. Tóm lại, Phật giáo Nam
Tông Khmer là tôn giáo có sức ảnh hƣởng trên nhiều phƣơng diện đối với đời
sống của ngƣời dân Khmer ở huyện Hòn Đất. Trong quá trình hình thành và
phát triển lâu bền tại đây, Phật giáo Nam Tông Khmer đã chứng tỏ sự hòa
hợp, gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa, đạo đức của Phật giáo Nam Tông Khmer
với lối sống trong cộng đồng ngƣời Khmer. Có thể nói, Phật giáo Nam Tông
Khmer đã có nhiều nỗ lực trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa riêng của ngƣời
Khmer; củng cố các giá trị tích cực trong đạo đức, lối sống của ngƣời Khmer;
duy trì phong tục tập quán truyền thống của ngƣời Khmer và phát huy tinh
thần yêu nƣớc, tính cố kết cộng đồng của họ trong thời đại mới. Bên cạnh đó,
Phật giáo Nam Tông Khmer còn chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và huy động
một nguồn lực xã hội lớn cho hoạt động từ thiện xã hội, bảo vệ môi sinh ở
huyện hòn Đất. Phật giáo Nam Tông Khmer luôn đồng hành cùng dân tộc trên
mỗi chặng đƣờng phát triển và đóng góp trực tiếp cho sự ổn định, phát triển
33
bền vững tại khu vực Tây Nam Bộ [xem 24] trong đó có huyện Hòn Đất.
Chƣơng 2:
ẢNH HƢỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN KHMER HUYỆN HÒN ĐẤT VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP
2.1. Một số lễ hội Phật giáo Nam tông khmer ở huyện Hòn Đất
Lễ hội truyền thống giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội
của các dân tộc nói chung, của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu
Long nói riêng. Đó là sự kết tụ những nét đặc sắc về văn hóa của một dân tộc,
một cồng đồng. Khi nghiên cứu lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer, điểm
dễ nhận thấy là Phật giáo Nam tông đã để lại dấu ấn khá đậm nét. Điều đó
trƣớc hết thể hiện ở chỗ, hầu hết các lễ hội của ngƣời Khmer từ lễ hội truyền
thống cho đến lễ hội Phật giáo đều gắn bó với ngôi chùa, thƣờng diễn ra ở
chùa do các vị sƣ chủ trì. Các nghi thức trong lễ hội truyền thống của ngƣời
Khmer cũng mang đậm nghi thức của đạo Phật. Các lễ hội có đặc điểm là
đều chịu ảnh hƣởng của tín ngƣỡng tôn giáo, nên không chỉ riêng các lễ hội
của Phật giáo, mà cả lễ hội dân gian cũng đƣợc tổ chức theo nghi thức của
đạo Phật.
Dấu ấn của Phật giáo Nam tông không chỉ thể hiện ở các dấu hiệu bên
ngoài mà còn cả trong nội dung, làm cho lễ hội truyền thống có thêm ý nghĩa
mới. Các lễ hội này đều gắn với một câu chuyện, truyền thuyết hay sự tích
nào đó của Phật giáo Nam tông, hình thành một tâm thức giàu tính thiêng.
Ngay từ ngày xƣa cho đến bây giờ, đại bộ phận đồng bào dân tộc
Khmer tin theo đạo Phật, thuộc nhánh Theravada hay còn gọi là Nam tông
Khmer. Đối với họ, một con ngƣời khi cất tiếng khóc chào đời mặc nhiên đã
34
là một tín đồ phật tử của Phật giáo dòng Nam tông trong lĩnh vực gia đình.
Mỗi năm các tín đồ phật tử Phật giáo Khmer cùng các sƣ sãi tập trung
tại chùa và cử hành 8 cuộc lễ lớn (chính). Tất cả 8 cuộc lễ này chỉ có lễ vào
năm mới (tết) là theo sự tính của Balamôn giáo, còn 7 lễ đều là lễ Phật. Tất cả
các lễ đều đƣợc tổ chức tại chùa, chƣơng trình lễ do vị sƣ cả trong chùa soạn
thảo. Ngày lễ thực sự là ngày hội quần chúng, mọi ngƣời đếu quy tụ về ngôi
chùa trong xóm để dự lễ và vui chơi với hàng loạt những trò chơi nhất là
những trò chơi dân gian, truyền thống của dân tộc mình. Trong một năm có
các lễ đƣợc tiến hành nhƣ sau:
1. Lễ Mékabauchia: Lễ đức Phật cho biết ba tháng nữa sẽ nhập Niết
Bàn (tính theo dƣơng lịch thì vào đầu tháng 2).
2. Chol chnam thmay: Lễ vào năm mới (tết) thời gian giữa tháng 4.
3. Lễ Visakabauchia: Lễ Phật Đản (nhập Niết Bàn) thời gian đầu
tháng 5.
4. Lễ Cholvôsa: Lễ các sƣ nhập hạ (ở trong chùa tu 3 tháng không ra
ngoài) thời gian đầu tháng 7.
5. Lễ Phchum ben (hay sen Đônta): Lễ xá tội vong nhân, thời gian giữa
tháng 9.
6. Lễ Chanh Vôsa: Lễ các sƣ sãi ra hạ (măm thời kỳ nhập hạ), thời gian
đầu tháng 10.
7. Lễ Ok om bok: Lễ cúng trăng, vào cuối tháng 10.
8. Lễ Katthanh: Lễ dâng y cà sa cho sƣ sãi không ấn định ngày cụ thể
trong khoảng thời gian từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11.
Trong luận văn này tác giả chỉ xin trình bày 3 lễ hội chính nhƣ sau:
2.1.1 Lễ Chôl Chnăm Thmây
Lễ vào năm mới (Chôl Chnăm Thmây) còn gọi là “Lễ chịu tuổi”, là
35
ngày Tết cổ truyền của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Xét về mặt lịch Khmer: Tết mừng năm mới lại diễn ra vào tháng khchét
Khmer tức từ 14 đến 16-4 (dƣơng lịch), tuy lịch khmer cũng kết thúc vào cuối
tháng 12 (âm lịch). Việc chọn vào ngày này vì dựa trên nền nông nghiệp, tập
quán canh tác một vụ trƣớc đây. Việc canh tác này bắt đầu từ tháng 12 kết
thúc vào tháng tƣ, lúc này ngƣời khmer đã thảnh thơi sau những tháng lao
động vất vả.
Xét về mặt địa lí và thời tiết vùng miền: Giao mùa ở Nam bộ rơi vào
tháng 4, khi mùa khô vừa kểt thủc và bƣớc sang mùa mƣa. Những cơn mƣa
đầu mùa làm cho có cây tƣơi tốt, thíên nhiên nhƣ trỗi dậy sức sống.
Chính hai điều kiện trên đã tạo nên quan niệm của ngƣời khmer về
ngày thay năm cũ vào năm mới nên gọi là Chôl Chnăm Thmây.
Sự chuẩn bị đón lễ của ngƣời Khmer rất chu đáo, qua các việc từ tại gia
đến chùa. Tại nhà ngƣời khmer chuẩn bị nhà cửa cho tƣơm tất, lo tiền nong,
đi chợ mua bản sắm sửa, may quần áo mới, làm bánh trái, v.v.. Tại các chùa
độ đầu tháng trƣớc khi đến lễ các ngƣời dân tự nguyện góp tiền, góp của để tu
bổ, sửa sang chùa. Tƣợng Phật, chính điện, cổng chào đƣợc sơn son, thiếp
vàng, khuôn viên chùa đƣợc dọn dẹp sạch sẽ chuẩn bị đón Tết.
Với tên gọi Hôra là ngày lễ năm mới đƣợc các nhà thiên văn ấn định.
Ngày nay, việc soạn sách lịch dùng cho một năm của ngƣời Khmer là các vị
Thƣợng Tọa, Đại đức thông híểu khoa thíên văn. Tùy vào từng năm mà thời
khắc giao thừa diễn ra vảo sáng, trƣa, chiếu hay tối để hoàn thành một chu kỳ
là 365 ngày và 1/4 ngày.
Lễ tết của ngƣời khmer cũng giống nhƣ ngƣời Kinh, ngƣời Hoa, cũng
có “ba ngày Tết”. Thế nên tại các nhà ngƣời khmer đều thắp nhang, đèn làm
lễ đƣa Têvêđa cũ và rƣớc Têvêđa mới.
Sau đó, mọi nghi thức quan trọng đón Tết đều diễn ra tại chùa. Gia đình
36
nào có con trai đến tuổi đi tu thì dẫn vào chùa làm lễ thí phát, quy y. Nhiều
ngƣời còn đƣa cả gia đình vào trong chùa suốt những ngày Tểt. Dƣời mải
chùa chung của cả phum sóc mọi ngƣời đều hƣớng lòng thành kính về Đức
Phật, tƣởng nhớ đến ông bà tổ tiên và đặt hy vọng vào một năm mới an lành.
Ở trong chùa, những Phật tử cao niên cùng các vị sƣ sãi tụng kinh niệm
Phật để đƣa năm cũ, rƣớc năm mới.
Vào thời điểm này, các nƣớc nhƣ Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanma
cũng tổ chức Lễ vào năm mới, nhƣng thời gian có thể chênh lệch nhau vài
ngày. Tùy theo mỗi quốc gia mà có tên gọi khác nhau. Ở Thái Lan gọi là
Song Kran, ở Lào là Bunpimay, Campuchia gọi thống nhất với ngƣời Khmer
Nam Bộ là Chôl Chnăm Thmây, ở Myanma thì gọi là Thing yan.
* Phần lễ: Nhƣ đã đƣợc đề cập ngày lễ đƣợc diễn ra 3 ngày, cụ thể:
Ngày thứ nhất Chol Sangkran Thmay gọi là Thngay Chôl Chnăm Thmây
(ngày vào năm mới) (lễ rƣớc “Mâh Sangkran mới”). Thời gian tổ chức sớm
hay muộn dựa theo quan niệm của ngƣời Khmer chỉ cần trong ngày, miễn là
chọn đúng giờ tốt. Ngƣời khmer tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn,
lễ vật đến chùa dâng lên các vị sƣ và đƣợc nghe các vị chúc tụng năm mới.
Ông Acha là ngƣời điều hành cho tín đồ đi vòng quanh chính điện 3 lần để
làm lễ chào mừng năm mới. Đêm lại, nghe các vị sƣ tụng kinh cầu an năm
mới, cầu cho “Quốc thái dân an” và hƣởng đƣợc 4 pháp của đức Phật (sống
lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh), rồi đƣợc nghe các vị thuyết pháp về ý nghĩa
của lễ Chôl Chnăm Thmây.
Ngày thứ hai Wonbơt gọi là Thngay Von-boch: mỗi gia đình làm lễ
dâng cơm buổi sớm và buổi trƣa cho các vị sƣ sãi. Theo đạo Phật Nam Tông,
thì các ngày lễ tín đồ đi chùa lạy Phật có bổn phận mang cơm, thức ăn dâng
cho sƣ sãi và lắng nghe các vị chúc tụng, cầu an, thuyết pháp giảng đạo, rồi
các thanh niên nam, nữ vui chơi trƣớc sân chùa. Buổi chiều, ngƣời ta làm lễ
37
“đắp núi cát” (Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên chùa, để mong gặp
đƣợc điều lành. Tập tục này bắt nguồn từ sự tích của một thợ săn, gắn với ma
thuật cầu mùa của ngƣời xƣa.
Ngày thứ ba Lơn Săk gọi là Thngay Lơn-săk (ngày thêm tuổi), mới là
ngày chính cũng là ngày cuối tết, tƣơng tự nhƣ hai ngày đầu, sau khi đã dâng
cơm sáng cho các vị sƣ ở chùa, ngƣời ta làm lễ tắm tƣợng Phật bằng nƣớc có
ƣớp hƣơng thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sƣ cao niên ở chùa, nhằm rửa sạch
những bụi bặm của trần thế trong năm cũ, để bƣớc sang năm mới với một
thân thể sạch sẽ và hoàn toàn mới.
Tiếp theo đó là lễ cầu siêu (Băng Skôl), các vị sƣ đƣợc mời đến tháp
lƣu giữ hài cốt của những ngƣời quá cố để cầu kinh, mong vong linh của họ
sớm đƣợc siêu thoát. Đến trƣa, mọi ngƣời về nhà làm lễ tắm tƣợng Phật thờ
trong từng gia đình, dâng bánh trái tạ ơn tỏ lòng tƣởng nhớ và biết ơn đức
Phật, rồi chúc mừng cha mẹ, ông bà, đồng thời để rửa những điều không may
của năm cũ đón năm mới vạn sự nhƣ ý. Nghi lễ ngày thứ ba rất quan trọng với
đồng bào Khmer Nam Bộ vì họ tin rằng sẽ đƣợc Phật tha thứ cho những lỗi
lầm thiếu sót trong năm cũ, gọi là lễ Kha ma tôs, giống lễ sám hối của Phật
giáo Đại thừa; ban nhiều sức khỏe, làm ăn trúng mùa, ý nguyện đƣợc thành,
xóm làng yên ổn, tai qua nạn khỏi... trong năm mới.
Đối với các lễ hội Khmer, tôn giáo tín ngƣỡng Phật giáo nhƣ hòa quyện
vào trong đời sống của các thiện tín thể hiện qua các truyền thuyết và nghi
thức thờ phụng.
Lễ rƣớc Sâng Kran trong Tết Chôl Chnăm Thmây là theo một truyền
thuyết Phật giáo đó là chuyện Thom Ma Bal và Kabil Maha Prum còn gọi là
"thần Bốn mặt"
Truyền thuyết Khmer kể rằng, “Ngày xƣa có một cậu bé tên Thom Ma
Bal, rất thông minh. Lúc bấy giờ đã biết đem sự hiểu biết của mình truyền bá
38
cho mọi ngƣời. Dân chúng thán phục và rất thích nghe cậu thuyết giảng.
Tiếng đồn về tài trí của cậu bé ngày càng lan rộng, chẳng mấy chốc đă vang
đến tận thƣợng giới. Các vị thần cũng xuống trần gian để nghe Thom Ma Bal
thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabil Maha Prum
trên thƣợng giới ngày càng vắng vẻ.
Thần Kabil Maha Prum rât có uy thế trên thƣợng giới nghe ở trần gian
có kẻ hơn mình, lấy làm tức giận, đã cho gọi hết các vị thần trở về, cấm
không cho xuống trần gian nghe thuyết giảng. Đồng thời thần Kabil Maha
Prum tìm cách hãm hại Thom Ma Bal. Một hôm, lúc Thom Ma Bal đang
thuyết giảng cho dân chúng nghe, thần Kabil Maha Prum xuất hiện và phán
rằng: “Ta nghe đồn nhà ngƣơi thông minh xuất chúng, nhƣng ta chƣa tin điều
ấy. Nay ta đặt cho ngƣơi ba câu đố, nếu ngƣơi giải đáp đúng ta sẽ cẳt đầu của
ta cho ngƣơi. Còn nếu không giải đáp đƣợc, thì ngƣơi phải dâng mạng sống
của ngƣơi cho ta”. Không thế từ chối, Thom Ma Bal đành phải chấp nhận trả
lời: Ngƣơi hãy cho tà biết: “Buổi sáng, duyên của con ngƣời nằm ở đâu? Buổi
trƣa, duyên con ngƣời nằm ở đâu? Buổi tối, duyên của con ngƣời nằm ở
đâu?” Hỏi xong“ thần hẹn bảy ngày sẽ trở lại nghe Thom Ma Bal giải đáp, rồi
bay về trời. Thom Ma Bal suy nghĩ suốt ngày, đêm mà vẫn không tìm đƣợc
câu giải đáp. Đến ngày thứ sáu rồi mà Cậu bé vẫn chƣa tìm đƣợc câu trả lời,
chàng đi lang thang từ sáng đến trƣa. Quá mệt mỏi và thất vọng, chàng nghỉ
mệt dƣới gốc cây Thốt nốt.
Lúc ấy, trên cây Thốt nốt có hai con chim đại bàng đang nói chuyện với
nhau. Con chim mái hỏi chim trống:
- Ngày mai ta sẽ đi ăn ở đâu?
- Ngày mai ta sẽ ăn thịt Thom Ma Bal, chim trống đáp.
Chim mái ngạt nhiên:
39
- Tại sao ăn thịt Thom Ma Bal?
- Chim trống thuật lại chuyện thần Kabil Maha Prum yêu cầu Thom Ma
Bal phải trả lời câu hỏi thách đố của thần. Nghe xong chim mái hỏi:
- Vậy có ai giải đáp đƣợc không?
Chim trống tự đắc đáp:
- Ta đã nghe thần Kabil Maha Prum nói là: Buổi sáng, duyên của con
ngƣời ở trên mặt, nên ngủ dậy ngƣời ta phải rửa mặt cho tƣơi tỉnh. Buổi trƣa,
duyên của con ngƣời ở trên ngực, nên ngƣời ta phải tắm cho mát. Buổi tối,
duyên của con ngƣời ở dƣới bàn chân, nên ngƣời ta thƣờng rửa chân cho sạch
trƣớc khi đi ngủ.
Thom Ma Bal ngồi dƣới gốc cây, nghe đƣợc lời nói chuyện của đôi
chim nên rất mừng rỡ và trở về nhà.
Hôm sau đúng hẹn, thần Kabil Maha Prum tay cầm gƣơm vàng, xuống
gặp Thom Ma Bal. Y lời chim trống nói hôm qua, Thom Ma Bal trả lời ba câu
hỏi đó của thần Kabil Maha Prum.
Điều mà Thom Ma Bal trả lời hoàn toàn chính xác. Thần Kabil Maha
Prum thua cuộc ngửa mặt lên trời gọi bảy ngƣời con gái xuống trần gian và
bảo: “Cha đã thua trí Thom Ma Bal rồi. Theo lời hứa, cha phải chết. Các con
hãy cất giữ đầu của cha trong tháp trên đỉnh núi Kaylas, nơi ngƣời trần không
chạm đến đƣợc. Các con hãy cẩn thận, nếu để đầu cha rơi xuống biển, biển sẽ
cạn, nếu để đầu cha tung lên không trung thì trời không có mƣa và nếu để đầu
cha trên mặt đất thì đất sẽ khô cằn, cỏ cây không mọc đƣợc”.
Dặn các con xong, Thần tự cắt cổ trao đầu mình cho con gái lớn của
thần và thần biến thành một luồng ánh sáng bay vút lên không trung.
Ngày nay, khi đến chùa của ngƣời Khmer ta thƣờng thấy đầu thần
Kabil Maha Prum (thần Bốn mặt) đƣợc thờ trong cảc tháp xây trong chùa và
chính nơi đặt đầu của thần là vị trí trung tâm, là bàn thờ chính trong các nghi
40
lễ tôn giáo cũng nhƣ các nghi lễ truyền thống đƣợc tổ chức trong chùa. Trong
lịch sử, tƣợng bốn mặt trên tháp xuất hiện từ cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII ở
ngôi đền Bayon nổi tiếng ở Angkor Thom (Siêm Riệp). Mặc dù đây là công
trình kiến trúc Phật giáo, song nó hƣớng đến sự hòa đồng tín ngƣỡng nên có
những gian thờ và những tác phẩm điêu khắc dâng cúng cho chƣ thần Bà-la-
môn lẫn Đức Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm và các đối tƣợng Phật giáo khác.
Chính vì vậy, cho đến nay, việc định dạng bốn khuôn mặt trên tháp Bayon
vẫn là vấn đề tồn nghi: trên tháp Bayon vẫn là vấn đề tồn nghi: một số nhà
nghiên cứu cho đó là thần Brahma/Khmer: Maha Brum, một số khác lại
khẳng định đó là các thần bảo vệ bốn hƣớng chính; một số khác chỉ ra đó là
khuôn mặt của chính đức vua Jayavarman (ngƣời xây dựng nên Angkor);
hoặc khuôn mặt của đức vua đƣợc tạo hình dƣới dạng Bồ-tát, theo tín niệm
thần-vua/Phật-vua (Deva-raja) thời thƣợng của các quốc gia chịu ảnh hƣởng
văn hóa Ấn.
Vào ngày đầu của năm mới thay vì rƣớc đầu “thần Bốn mặt”, ngƣời
Khmer rƣớc Maha Sâng Kran đi vòng quanh chính điện ba lần. Ở đây, cũng
cần lƣu ý rằng, ngôi chánh điện trong quần thể kiến trúc chùa Khmer đƣợc
ƣớc lệ là ngọn núi trung tâm vũ trụ Preah Sôme; theo đó, đƣờng thẳng đứng
từ dƣới lên đỉnh đầu unisha của Đức Phật là trục vũ trụ. Điều đó, giải thích
việc trên đỉnh nóc chùa tháp Khmer thƣờng có tƣợng đầu thần bốn mặt Maha
Brum, ngó về 4 phƣơng Đông-Tây-Nam-Bắc.
Về truyền thuyết này ở Campuchia Thom Ma Bal lại là một hoàng tử,
trong truyền thuyết của đồng bào Khmer Nam Bộ chỉ là một cậu bé thông
minh. Từ đây cho thấy, tuy có ảnh hƣởng của những yếu tố Bà la môn giáo
nhƣng khi đến Nam Bộ đã giản dị, gần gũi hơn rất nhiều. Cái thiện, cái ảo
đƣợc thể hiện rõ, dù là vị thần tối cao cũng mang đặc tính rất con ngƣời, đó là
sự ích kỷ, hiếu thắng và cải thiện cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác nhƣ trong
41
truyền thuyết Chôl Chnăm Thmây.
Trong Tết Chôl Chnăm Thmây còn có một sự tích nữa, liên quan đến
tục Đắp núi cát. Sự tích kể lại truyện một ngƣời làm nghề săn bắn. Từ lúc trẻ
đến khi già, ông giết rất nhiều muông thú, nhƣng rất may mắn là ông đã đƣợc
một nhà sƣ hƣớng dẫn tích phƣớc bằng cảnh đắp núi cát trong một ngôi chùa
gần nơi ông ở. Lúc về già ông đau yếu và thƣờng bị ảm ảnh về bầy muông thú
bao vây quanh ông rồi hành hung để đòi nợ oan nghiệt. Do phƣớc đức đắp núi
cát, ông tỉnh táo bảo bọn muông thú hãy đếm những hạt cát ông đã đắp thành
núi rồi hãy đòi nợ. Bọn thú đồng ý, chúng đếm, nhƣng rồi không tài nào đếm
nổi. Chán nản chúng bỏ đi. Nhờ đắp núi cát mà ông giữ đƣợc tính mạng cho
đến khi chết đƣợc lên thiên đƣờng. Từ tích truyện này mà đồng bào Khmer
vẫn giữ tục đắp núi cát để tích phƣớc, tích đức vào Tết Chôl Chnăm Thmây.
Tục đắp núi cát gọi là Pun phnôm khsach. Cát sạch đƣợc đem về đổs
thành từng đống quanh đền thờ Phật, bên ngoài hành lang chung quanh sân
chính điện. Vị Achar (một ngƣời đã từng đi tu, am hiểu các nghi lễ đạo Phật)
đƣợc nhà chùa giao cho việc hƣớng dẫn đồng bào đắp thành những ngọn núi
nhỏ ở tám hƣớng và làm rào tre hoặc cây bao quanh núi cát. Những núi này
tƣợng trƣng cho vũ trụ, mỗi núi một hƣớng. Núi thứ chín ở giữa là trung tâm
của trái đất tức núi Sômêru. Sau đó đồng bào còn làm lễ quy y cho các núi.
Các nghi lễ này đƣợc gọi là Anisâng Pun Phnôm Khsách, theo nghi
thức Phật giáo “Phúc duyên đắp núi cát” đƣợc lƣu truyền trong ngƣời Khmer
cho đến ngày nay.
Cũng tại chùa, sau khi tắm Phật bằng nƣớc ƣớp hƣơng thơm xong, họ
còn tắm cho các vị sƣ cao niên nhằm rửa sạch hết những cái cũ trong năm cũ
để sang nắm mới hoàn toàn. Sau đó còn mời các vị sƣ đến cảc ngôi tháp đựng
cốt để tụng kinh chúc phƣớc lành cho những ngƣời quá cố. Xong xuôi cảc
việc qua ba ngày Tết ở chùa mọi ngƣời mới làm lễ tắm tƣợng Phật ở nhà, mời
ông bà cha 'mẹ đến để chúc mừng, tạ lỗi và đem bánh trái tạ ơn ông bà, cha
42
mẹ hoặc tắm cho cha mẹ, ông bà gọi là để trả hiếu.
* Phần hội:
Đồng bào dân tộc thƣờng tổ chức các trò chơi Đơ Chhơ Chrót (đi cà
kheo) để rèn luyện sức khỏe, rèn luyện sự khéo léo, kiên trì; Trò chơi Vay
Thmatt (trò chơi bịt mắt đập niêu); Trò chơi Bos Chhun (trò chơi ném khăn)...
Những lần tổ chức thi đấu đã tạo đƣợc không khí vui vẻ trong sóc, tăng cƣờng
sự giao lƣu đoàn kết giữa các sóc với nhau. Ngoài ra, họ còn tổ chức múa các
điệu múa dân tộc, tổ chức thi hát, giao lƣu bóng đá, bóng chuyền với các đội
bạn...
* Ý nghĩa của lễ Chôl Chnăm Thmây:
Là lễ mừng năm mới, là ngày tết của đồng bào khmer. Tết Chôl Chnăm
Thmây cũng là dịp để bà con Phật từ thể hiện tâm niệm của mình với Đức
Phật, với ông bà cha mẹ mình để “mình ăn gì thì ông bà mình có cái đó” nhƣ
suy nghĩ phổ biến của ngƣời Khmer. Vật dâng cúng không thể thiếu cặp bánh
tét, trái cây vƣờn nhà, một sấp vải trắng để cầu siêu gửi cho ông bà dùng.
Những truyền thống tốt đẹp trong văn hóa Tết của ngƣời Khmer đƣợc giữ cho
đến ngày nay. Trƣớc kia, ngƣời khmer ăn tết kéo dài rất tốn kém, ngày nay
chỉ gói gọn trong vài 3 ngày.
2.1.2. Lễ Sene Đôn Ta
Lễ Sen Đôn ta của đồng bào Khmer Nam bộ còn có tên gọi khác
là Phchum Ben, nghĩa là lễ tụ hội, tích phúc đức, vì ngƣời Khmer xem đây là
lễ lớn nhất trong các lễ tạo phúc đức.
* Phần lễ:
Lễ đƣợc bắt đầu từ tuần trăng khuyết của tháng Phô-tro-bót (15 đến 30
tháng 8 âm lịch). Ngƣời khmer quan niệm trong khoảng thời gian đó, nếu để ý
thì sẽ nghe một tiếng nổ nhƣ sấm to đặc biệt. Đó là tiếng Diêm Vƣơng mở
cửa địa ngục cho vong hồn ngƣời chết đƣợc về trần gian thăm nhà. Mƣời lăm
43
ngày hạ tuần trăng khuyết của tháng này. Theo tín lý đó, là khoảng thời gian
thiêng. Các vong hồn từ thế giới bên kia sống chung với ngƣời dân trong
phum sóc, họ lần lƣợt tìm đến chùa và có tín niệm rằng, khi họ đã tìm đến 7
ngôi chùa mà không thấy con cháu cúng kiếng cho mình thì các vong hồn đó
sẽ oán giận, nguyền rủa con cháu... Thế nên khắp mọi nhà ai cũng tiến hành
việc mang cơm đến chùa cúng để cầu phƣớc cho ông bà và thực hành lễ Đặt
cơm vắt quanh hiên chánh điện để thí thực cho vong hồn cô độc.
Lễ tang của ngƣời khmer cũng mang tính truyền thống và đặc sắc. “Khi
biết ngƣời thân sắp chết, con cháu phải để họ nằm trong một căn phòng riêng
biệt, lập bàn thờ Phật ở phía đầu để hình ảnh Đức Phật ngự trị trong tâm hồn
ngƣời lâm chung. Mỗi buổi tối, con cháu mời sƣ sãi hoặc Acha Duki (thầy
cúng thông thạo việc tang lễ) đến tụng Kinh Apithom: “Đời là bể khổ, nếu
muốn tránh khỏi mọi sự khổ ải trong thế gian, phải tu tập theo pháp tịch diệt,
vô úy, quyết chí đoạn từ mọi cái duyên do, trong lòng giữ gìn mọi mối chính
đạo chớ vƣơng dính cảnh trần, đừng ham nhiều sự tục, thân tâm thanh tịnh thì
chứng đƣợc quả Niết Bàn, thật là sung sƣớng”. “Ngày xƣa, có một ngƣời
chuyên sống bằng nghề săn thú. Trong cuộc đời, ông đã giết biết bao nhiêu
loài thú không kể xiết. Đến khi bị bệnh sắp chết, ông thấy các loài thú bị giết
đến đòi mạng. Ông rất đau đớn và khổ sở. Con trai của ông là Tỳ khƣu, thấy
cha đau đớn nhƣ vậy mới lấy lá trầu xanh ghim vào cây hƣơng đặt lên ngực
ông mà nói rằng: Cha đừng nghĩ vẩn vơ nữa, mà chỉ nghĩ đến Đức Phật mà
thôi. Nhờ thế, ông không còn nghĩ lung tung nữa mà chỉ một lòng hƣớng về
Đức Phật cho đến khi nhắm mắt” [7, tr. 101-102] .
Lễ Sen Đôn Ta bắt nguồn từ tín ngƣỡng dân gian.
Truyền thuyết kể rằng vào thời Đức Phật còn tại thế, một hôm vào lúc
nửa đêm, trong hoàng cung của vua Tần Bà Sa La có tiếng rên la than khóc.
44
Nhà vua sợ hãi ra lệnh cho mời các nhà tiên tri đến để xem quẻ.
Những nhà tiên tri thưa rằng: “Tiếng kêu khóc này là do các Ngạ quỷ
chết oan ức, không gia đình người thân, từ lâu không ai cúng cho họ ăn, nay
họ đến xin được ăn uống. Nếu Hoàng thượng không cúng cho họ, thần lo e
sợ sẽ có chuyện bắt 100 người nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ
cúng tế”.
Nghe xong, hoàng hậu can gián: “Nếu Hoàng thượng làm như vậy, thì
sẽ 200 con người và 100 con vật bị chết oan ức, những thân nhân của họ
càng phẫn uất và oán trách Hoàng thượng, sẽ càng tổn hại đến vương quốc.
Đức Phật là thầy của chư thiên và phàm dân, vậy mình đem việc này
bạch với Đức Phật xem ngài có dạy bảo gì không?”.
Sau khi nghe Hoàng hậu, vua đến chùa bạch với Đức Phật, Đức Phật
nghe xong, dạy rằng: “Đây là Ngạ quỷ thuộc dòng dõi quý tộc, là thân nhân
quốc thích của nhà vua khi họ còn tại ở dương gian từ nhiều đời nhiều kiếp,
do phạm phải lỗi lầm nên bị đọa xuống âm phủ, hiện họ đang thiếu ăn thiếu
mặc đến cầu xin đức vua. Nhưng Ngạ quỷ không ăn trực tiếp được, mà phải
dâng cúng đồ ăn cho các vị giới đức rồi nhờ các vị đó tụng kinh hồi hướng,
thì các ma quỷ đó mới thọ hưởng được”.
Đêm đầu tiên sau khi thực hành theo lời Phật dạy, nhà vua không nghe
ma quỷ rên khóc nữa. Nhưng đến đêm thứ hai nhà vua lại tiếp tục nghe tiếng
rên khóc nữa. Sáng sớm hôm sau, nhà vua lại đến chỗ Đức Phật xin chỉ giáo.
Đức Phật dạy rằng: “Đêm trước là do đã được ăn no nên họ không rên la
nữa. Đêm sau họ khóc là do bị rét lạnh vì không có quần áo để mặc”. Nhà
vua nghe xong, về chuẩn bị y áo cùng vật thực làm lễ dâng cúng cho chư tăng
và nhờ chư tăng hồi hướng.
Sau khi làm lễ, nhà vua không còn nghe tiếng Ngạ quỷ rên khóc nữa.
Từ đó về sau mỗi năm cứ đến ngày này là nhà vua lại thỉnh các vị chư tăng
45
đến cúng dường và hồi hướng cho Ngạ quỷ và những người quá cố.
Giống đời sống tâm linh của ngƣời Kinh theo đạo Phật, có lễ Vu lan
diễn ra vào tháng 7 âm lịch hằng năm. Vu lan là “mùa bảo hiếu”, một nét đẹp
về lòng tri ân, hiếu thảo của các con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Cũng tƣơng
tự nhƣ vậy, ngƣời Khmer theo Phật giáo Nam tông tiểu thừa có lễ Sen Đôn Ta
(lễ cúng ông bà, tổ tiên) là một trong ba lễ lớn hằng năm.
Vào mùa Đôn Ta, các vị sƣ sãi và đồng bào Khmer ở các chùa, ở trong
mỗi gia đình đều hƣớng về tổ tiên với lòng thành kính để đƣợc dâng ơn, đáp
nghĩa bao la vô tận đối với các đấng sinh thành đã dƣỡng dục cho mỗi ngƣời
lớn lên và trƣởng thành. Lễ Sen Đôn Ta gắn liền với tâm linh, tín ngƣỡng đã
in sâu trong tâm thức đồng bào Khmer thể hiện rõ nét giá trị đạo đức, văn hóa,
phong tục tập quán của dân tộc.
Lễ Đôn Ta đƣợc tổ chức vào 3 ngày từ 29-8 đển 1-9 âm lịch. Tùy từng
nơi mà lễ có thể đƣợc rút ngắn hơn. Nghi thức lễ Đôn Ta từ trƣớc đến nay hầu
nhƣ không có sự thay đổi. Nhƣng cũng tùy thuộc vào khả năng của mỗi nhà
mà làm lễ cúng lớn hay nhỏ.
Ngày đầu tiên (30-8 âl) các gia đình tổ chức lễ Đón ông bà. Công việc
bắt đầu là dọn dẹp các bàn thờ trong nhà. Ngƣời Khmer thờ Phật, bàn thờ
chính giữa nhà, 2 bên là bàn thờ tổ tiên và bàn thờ tổ nghề. Công việc kế đó là
trải chiếu, gối, mùng, mền mới lên giƣờng và lo làm cổ, trƣớc hết là nấu bánh
tét (Nùm som chruốt). Đặc điểm là lễ vật cúng không đặt trên bàn thờ, ở đó
chỉ thắp đèn, nhang; mâm cơm cúng, lễ vật, trà, bánh... đều dọn ở trên giƣờng,
trƣớc bàn thờ ông bà, tức ở một bên nhà. Buổi sáng, cúng lễ Đón ông bà thì
chiều cúng một lần nữa và trong lễ này con cháu mời ông bà đi chùa nghe chƣ
Tăng tụng kinh. Nghi thức cúng lễ tất thảy đều y nhƣ thật. Ngƣời chủ lễ khấn
vái, mời ông bà dự lễ, con cháu ngồi quanh mâm cơm cúng bới cơm, gắp thức
ăn bỏ vào chén, bày bánh, rót rƣợu, nƣớc bƣng lên dâng cho ông bà. Ngoài
46
đặc điểm nghi thức không có tính hình thức tƣợng trƣng, lễ vật cũng là vật
thực thật. Ở mâm cúng chiều, đặt trên đĩa bồng "chơn piên" là vải áo trắng, sà
rông dệt hoa văn đẹp đẽ cùng với gƣơng, lƣợc và kéo. Đó là những lễ vật thật
để ông bà sửa soạn tóc, râu cho tƣơm tất, chƣng diện trang phục đẹp xinh... để
đi chùa lễ Phật nghe kinh. Nói cách khác, ngƣời Khmer không dùng đồ mã và
ngay cả tiền để cúng tiễn đặt trên thuyền bè làm bằng bẹ chuối thả ra sông
cũng là tiền... thật, chứ không phải giấy tiền, vàng bạc bán hàng bó ngoài chợ!
Đây là những khác biệt văn hóa khiến phải suy ngẫm. Lệ cúng ở đây, buộc
chủ lễ gắp thức ăn một thứ một ít bỏ vào dĩa, đem ra sân góc vƣờn cúng
những binh gia âm phủ - gọi là "Neak Mhắc Bàtranh" để đƣa vong hồn ông bà
về nhà. Tín niệm truyền thống cho rằng các đối tƣợng này không đƣợc phép
vào nhà dự hƣởng lễ vật nhƣ ông bà tổ tiên.
Lễ Đặt cơm vắt Prochum Bôn: Đƣợc ngƣời Việt dịch là lễ Hội linh
(Prochum: tụ hội lại; Bôn: cơm vắt), có nghĩa là cùng nhau cúng cơm vắt, thí
thực/ làm phƣớc cho các vong linh quá vãng. Theo truyền thống, lễ này đƣợc
tiến hành trong hạ tuần trăng khuyết của tháng Phôtrobot (16 - 30/8 âl) tại
chùa. Nay để giản tiện, đƣợc tích hợp vào dịp Pi-thi sene Đôn-ta.
Lễ này luôn đƣợc tiến hành vào giấc khuya. Theo giờ đã định, dân
chúng trong sóc lũ lƣợt mang gạo, nếp, bánh, trái và cơm vắt đặt vào khay
cúng đến sa-la (hay chính điện Preah Vihear) để cúng Tam bảo và mời sƣ sãi
tụng kinh cầu phƣớc cho tổ tiên mình. Dịp này, các nhà sƣ cũng có thể làm lễ
thọ giới cho tín đồ. Nghi thức gồm việc tuyên đọc Ngũ giới và kế đó là nghi
thức phát nguyện giữ đúng các giới này. Cuộc lễ chấm dứt, bằng nghi thức đặt
bát và thỉnh mời chƣ Tăng thọ thực. Tục xƣa, các vắt cơm còn đƣợc đem đặt
ngoài hè, trong vƣờn chùa, gọi là để cúng các vong hồn không ngƣời tế tự,
quân lính cõi âm có nhiệm vụ đƣa vong linh ông bà về dƣơng thế và trở lại
47
cõi âm.
Ngày thứ hai, vẫn để ông bà ở lại chùa tiếp tục nghe sƣ sãi tụng kinh
thuyết pháp và vui chơi. Đến trƣa sau khi dâng cơm cho sƣ sãi xong thì đƣa
linh hồn ngƣời quá cố về nhà, làm cơm cúng và mời ông bà ở lại chơi với con
cháu thêm một đêm nữa.
Ngày thứ ba là ngày cúng cuối cùng gọi là “cúng đƣa”. Mỗi gia đình lại
dọn lễ vật nhƣ ngày đầu tiên và cũng mời bà con họ hàng, làng xóm đến dự.
Khi làm xong các thủ tục cúng nhƣ ngày đầu thì xới cơm, gắp thức ăn vào
chén (bát), để thêm bánh trái, lúa, muối, đậu, mè... tất cả đƣợc đặt lên một
chiếc xuồng hoặc tàu buồm làm bằng bẹ chuối kết lại để tiễn đƣa ông bà và
ma quỷ mang theo về nơi cũ dùng dần. Ở mũi và lái xuồng có hình cá sấu để
các linh hồn tránh gặp tai nạn. Chiếc xuồng đƣợc thả trên sông, rạch gần nhà.
Sau đó, mọi ngƣời dùng cơm, xem ca hát, không khí rất vui vẻ. Có nhà còn
mời các vị sƣ đến tụng kinh cho thêm phần long trọng. Chiều hoặc tối thì kết
thúc 3 ngày lễ Đôn Ta.
Lâu nay ở khu vực Nam Bộ, trong mối quan hệ đoàn kết giữa ba dân
tộc Kinh - Khmer - Hoa, dịp lễ Đôn Ta của đồng bào dân tộc Khmer anh em,
đồng bào Kinh, Hoa trong các xóm ấp lân cận cũng đƣợc mời đến chung vui,
thắt chặt thêm tình làng, nghĩa xóm.
* Phần hội:
Tƣơng tự nhƣ lễ Chon chnam thmay, họ cũng tổ chức các trò chơi nhƣ
ném bóng, đá banh, bóng chuyền, tổ chức múa hát.
* Ý nghĩa của lễ Sen Đôn ta:
Lễ Sen Đôn ta là lễ cúng ông bà. Lễ này có ý nghĩa giáo dục con cháu
truyền thống tƣởng nhớ công ơn dƣỡng dục của ông bà, cha mẹ và cũng là dịp
con cháu quây quần họp mặt để tƣởng nhở tổ tiên. Lễ Sen Đôn ta của đồng
bào Khmer Nam bộ là lễ hội không chỉ mang tín ngƣỡng dân gian, xen lẫn
48
yếu tố tôn giáo. Đối với đồng bào Khmer, Phật giáo là tôn giáo gắn liền với
đời sống văn hóa tinh thần của họ, mọi lễ hội, sinh hoạt đều gắn liền với Phật
giáo, với chùa chiền và đều hƣớng dẫn con ngƣời đến cội nguồn việc thiện,
biết vay biết trả và biết nhớ đến nguồn cội của mình.
2.1.3. Lễ Okombok
Lễ hội okombok là một lễ hội lớn trong năm của ngƣời khmer, trong lễ
hội này sôi động nhất là các lễ cúng trăng, lễ đút cốm dẹp, hội đua ghe ngo,
hội thả đèn gió.... Đó là truyền thuyết truyện cổ tích đƣợc các bậc cao niên
tiền bối kể lại.
* Phần lễ:
Đồng bào Khmer cử hành các lễ hội cổ truyền theo Phật lịch Nam
Tông. Theo lịch này một năm có 354 ngày, chia thành 12 tháng theo thứ tự kể
sau đây. Thứ tự này có thể tƣơng đƣơng với tháng âm lịch - chỉ là có thể
tƣơng đƣơng thôi, vì âm lịch còn có ngày nhuận, tháng nhuận nên có khi lịch
xê xích ngày tháng lên xuống theo từng năm…
Đồng bào khmer đợi đến ngày 15 tháng kdoeh là tổ chức Lễ Cúng
Trăng, một lễ hội văn hóa độc đáo của Ngƣời Khmer Nam Bộ. Đêm ngày 15
tháng kdoeh là đêm rằm tròn trăng thứ 12 cuối cùng, khép lại một năm của
ngƣời Khmer.
Tháng kdoeh là tháng lúa mùa trên đồng chín vàng mùa thu hoạch.
Ngày xƣa nông dân Đồng bằng sông Cửu Long làm một vụ lúa. Ngƣời nông
theo lịch trăng mà cấy trồng.
Ông Trăng theo quan niệm của ngƣời Khmer là chủ của mùa màng.
Trăng tỏa hào quang khắp bầu trời. Trong tâm thức cùa những thiện
nam tín nữ Ông Trăng chính là hình ảnh cung quảng của Thỏ Ngọc. Tƣơng
tuyền có một tiền kiếp của đức Phật là Thỏ trắng, Thỏ sống bên bờ sông Hằng
kết bạn cùng với Khỉ, Rái Cá và Chó Rừng. Chúng sống yên vui tƣơng thân
49
tƣơng ái với nhau. Trong đám thú đó Thỏ hiểu biết hơn cả, Thỏ còn biết tham
thiền. Chính thỏ đã nghĩ ra và đề xuất với các bạn cuộc ƣớc hẹn sẽ cùng ngồi
thiền tu thân. Một lần, trƣớc ngày tròn trăng, Thỏ nhắc các bạn lo thực hiện
việc ngồi thiền. Các bạn phải kiếm thức ăn dự trữ khi ngồi thiền giành thức ăn
đó cho kẻ thiếu thốn đói khát. Các con vật kia hăng hái đi săn bắt lo phần ăn
những ngày ngồi thiền và để bố thí. Trên trời cao, thần Sakah vị chúa của cảc
thần Têvađa thấu đƣợc việc hẹn hò của các thú vật động lòng cảm mến. Thần
bèn giả làm ngƣời ăn xin xuống trần gian coi các con vật thực hiện lời hứa?
Rái Cá, Khỉ và Chó Rừng đều thảo lòng mời ngƣời ăn xin dùng bữa thức ăn
của mình. Ngƣời ăn xin gặp Thỏ, Thỏ ngồi thiền từ mấy ngày nên không có
thức ăn, nhƣng Thỏ nhanh nhẹn nhóm bếp tính nƣớng thân mình cho ngƣời ăn
xin. Thỏ vùa nhảy vào lửa, thần Sakah biến lửa không nóng chảy Thỏ và thần
hiện nguyên hình. Thần ngợi ca nghĩa cử thƣong ngƣời cao cả của Thỏ. Thần
vẽ hình thỏ lên mặt trăng. Tiền kiếp Thỏ của Phật Thích Ca tỏa sáng vĩnh
hằng trong càn khôn!
Trăng thiêng liêng, Trăng tháng kdoeh càng thiêng liêng cao quý. Nên
đồng bào Khmer tổ chức Lễ Cúng Trăng. Cúng mừng mùa vụ và cúng hết
năm. Cử hành lễ. Ngƣời cao tuổi nhất liên gia là chủ lễ, cung kính thắp nhang.
Trong hƣơng trầm ngào ngạt, mọi ngƣời hƣớng lên mặt trăng cùng khấn
thỉnh.
Lời khấn thỉnh truyền đời:
“Hôm nay là ngày rằm tháng kdoeh, một ngày đầy uy lực, hào quang
tóa khắp bầu trời, tốt tƣơi sƣời ấm lòng ngƣời. Chúng tôi cùng nhau kẻ ít
ngƣời nhiều đem lễ vật do mình làm ra: cốm dẹp, khoai, bƣởi, mía… .để dâng
lên Ông Trăng là ngƣời chủ của mùa màng. Xin ngài vui lòng tiếp nhận và
ban phƣớc cho loài ngƣời chúng tôi no ấm hạnh phúc.”
Những cặp mắt trông trăng tỏ ân nghĩa và chờ mong hy vọng đƣợc
50
thấm nhuần ảnh sáng cuộc sống ngày mai tốt đẹp hơn.
Lễ Cúng Trăng có nghi thức đút cốm dẹp - Ok Om bok. Ngƣời đút cốm
chính là ngƣời già đứng đầu lễ. Sau khi khấn vái cầu nguyện với vừng trăng
mùa vụ dâng cốm cũng nhƣ các lễ vật lên Mặt Trăng, ngƣời đƣợc hƣởng lộc
trƣớc tiên là con nít, lộc lễ ban phát đầu tiên là Cốm dẹp. Chủ lễ bốc cốm dẹp
lần lƣợt đút cho tất cả trẻ con của liên gia đƣợc ngồi vòng tròn trong. Trẻ em
là “đối tƣợng” đút cốm và chúng là những “nhân vật” nói lên niềm ƣớc muốn
vởi cuộc sống. Sau khi đút cho trẻ nắm cốm dẹp để nó ăn thì ngƣời đút cốm
hỏi: Con có ƣớc mơ gì?
Mỗi năm mỗi lễ Cúng Trăng những lời mơ ƣớc thiêng líêng của trẻ em
vang trong Trăng Rằm Kdoch. Đó là những lời không thể thiếu đƣợc trong Lễ
Cúng Trăng, trong lễ nghi đút cốm dẹp. Nhũng ƣớc mơ này cũng giống nhƣ
lời chúc tết của trẻ em của cộng đồng khi đón năm mới, xuân mới, đƣợc lì xì
mừng tuổi.
Lời trẻ đƣợc đút cốm dẹp nói chi?
Đó là những lời trẻ ƣớc mong cho ông bà cha mẹ anh chị em trong gia
đình và bà con lối xóm khỏe mạnh.
Đó là những lời trẻ ƣớc mơ mùa màng tƣơi tốt, có nhiều cốm dẹp ngon,
có cơm có khoai có bắp ăn no lòng mỗi bữa, mỗi ngày.
Đó là những lời trẻ ƣớc mơ đƣợc học hành. Có áo quần lành, có cặp
sách, tập viết để học. Đó là những lời trẻ ƣớc mơ khi lớn lên làm nhiều công
việc khác: làm thầy giáo, cô giáo dạy học, làm bác sĩ chữa bệnh, làm kỹ sƣ
trồng trọt...
Có những em ƣớc mơ lớn lên thành cầu thủ đá banh, thành ngƣòi ngồi
đầu mũi ghe ngo trong Lễ hội un túk - Đua ghe ngo.
Ngƣờí lớn nghe, tới ngƣời lớn hƣởng lộc trông trăng, ngẫm nghĩ và bàn
51
luận về những ƣớc mơ của trẻ con.
Câu trả lời của trẻ thơ có ý nghĩa thiêng liêng, đƣợc Xem nhƣ là một lời
dự báo với đời sống của các gia đình của lối xóm và cả bản thân trẻ nữa.
Không hẳn chỉ là điềm báo mà những ngƣời lớn lắng nghe lời mong ƣớc của
trẻ luận ra cuộc sống năm sau mùa tới ngƣời lớn đóng vai trò chính trong việc
lo toan làm ăn để thực hiện ƣớc mơ đó... Và tới Lễ Cúng Trăng tiếp theo lại
tiếp tục nghe những lời mơ ƣớc mới trong việc xây dựng gia đình phum sóc
ấm no hạnh phúc. Sau khi ăn cỗ cúng trăng cuộc hội vui tƣng bừng phum sóc.
* Phần hội:
Ngƣời khmer tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân dịp lễ. Tổ
chức các trò chơi tạo không khí vui tƣơi trong dịp lễ. Mở đầu là trò chơi thả
đèn gió. Chiếc đèn gió mang ánh sáng bay lên với ánh trăng rằm. Những cái
đèn gió là sự phát triển cao hơn từ ngọn đèn trong cây đèn thắp sáng trên cây
cột ở trƣớc cửa các ngôi chùa Phật. Những ngọn đèn trong cây đèn trƣớc cửa
chùa đã đƣợc thắp sáng hằng đêm từ đêm rằm tháng trƣớc - tháng asoch.
Những ngƣời làm ra đèn gió chắp cánh cho ngọn lửa đèn bay lên với ánh
trăng huyền diệu. Làm đèn gió thả đèn gió phải có kỹ thuật, có nghệ thuật, từ
lối cân dây buộc hèo, lối làm khung xƣơng, lối phết giấy tới lo đĩa dầu đốt
trong lòng đèn. Đèn đƣợc thả lên bay cao chảy cạn kiệt dầu và định đƣợc cả
chỗ đèn rớt xuống ở đâu đó trong đồng ruộng xa phum sóc. Những ngọn đèn
dâng Phật làm hết sức cẩn thận an toàn. Ngƣời ta quan niệm nếu đèn chảy,
đèn sa xuống trong phum sóc nhà ai đó là xui xẻo. Phum sóc ngày trƣớc có
tháp chính điện, tre trúc hiền hòa không lô xô cây lả, không chằng chịt dây
điện sảng, điện thoại, càng không có những chất đủ loại đú kiểu mất an
toàn nhƣ ngày nay. Ngọn đèn gió đƣợc thả bay lên trời đúng nhƣ tên gọi
của nó. Đèn bay cao vút... xa dần, dƣờng nhƣ ánh đèn hòa nhập vào ánh
52
Trăng Thỏ Ngọc.
Trƣớc cổng cúng trăng cuộc vui đã chuyển qua phần văn nghệ, ca hát,
kể chuyện sự tích lịch sử về Đức Phật, về phum sóc. Nhạc khí Khmer kết dàn
trình diễn, những lời ca, những điệu múa những câu hát đối đáp và những trò
chơi dân dân tiếp nối.
Từ các liên gia trong phum sóc, lễ hội chuyển dần ra sân chùa. Những
đoàn ngƣời ca hát tụ về hội chùa, trăng càng lên cao cuộc hội nhập về chùa
càng đông vui, càng say mê tƣng bừng.
Tục đua Ghe ngo; ghe ngo là một chiếc thuyền dài cong vút. Một
thuyền đua có cấu tạo nhiều nét khá đặc biệt. Ghe đƣợc làm bằng gỗ tốt, có
đầy đủ những tính chất của một vật dụng bơi chải chịu nƣớc tốt, chịu đƣợc
hoạt động cực kỳ mạnh mẽ linh hoạt của trên 40 tay chèo đua. Về cấu tạo: ghe
ngo có thân dài khoảng 25m, có chiều ngang ở giữa lớn nhất tới 1,4m vuốt
suôn về hai đầu chỉ còn 0,4m. Trong lòng ghe đặt ngang những “thang ghế
ngồi đôi” từ đầu tới cuối ghe.
Về nhân sự đội đua ghe ngo đƣợc tổ chửc sắp xếp rất chặt chẽ với một
loat những “tay chèo” vởi dầm chèo nhiều kích cỡ ở từng vị trí khác nhau.
Có ba ngƣời ngồi đầu ghe vởi vị trí lãnh đạo. Một trƣởng ngồi trƣớc và
hai phó ngồi sau hai bên. Mỗi ngƣời cầm một dầm xác định hƣớng tới, nhịp
độ đua và thời khắc tới đích. Đó là những nhiệm vụ chỉ huy thiết yếu giữ vai
trò quan trọng hàng đầu quyết định thắng thua của cuộc đua.
Những con dầm chèo những cặp kề vai ngồi trên những băng ghế từ
sau ba nguời ngồi mũi ghe, bao gồm:
- Khoảng 18 con dầm ngồi bơi.
- Khoảng 20 con dầm quỳ bơi.
- 8 con dầm nhún bơi.
- 3 con dầm lái. Lái chính ngồi cuối cùng, hai lái phụ ngồi ở hai bên
53
phải và trái trƣớc lái chính.
Trên ghe còn ngƣời đứng cầm nhịp, giữ nhịp. Ngƣời đó ra nhịp bằng
còi (ngày trƣớc dùng kèn sừng trâu) hoặc trống. Nhịp chèo lệnh tập trung các
tay chèo dồn sức lên, đƣa ghe lƣớt tới mạnh nhất. Cái nhịp đó lan tỏa tiếng hô
con dầm chèo (làm gắn kết hành động toàn đội đua tạo một nhịp dồn, một sức
đẩy ghe vút tới) với những tiếng: Hầy dơ! Hầy dơ! Không dứt.
Khi dựng chùa, mỗi phum sóc chọn một con vật làm biểu tƣợng.
Ở đầu ghe, cuối ghe ngƣời thợ tài hoa uốn cách điệu dáng đầu đuôi con
vật hoặc trên thân ghe vẽ hình con vật đó. Hội đua ghe toàn vùng hội về muôn
sắc màu, với dáng vẻ rực rỡ uy phong của cọp, voi, ngựa, ó biển, thỏ, dơi, sƣ
tứ, nàng tiên cá... trên các ghe ngo.
Ghe ngo là linh vật của phum sóc, đƣợc đóng và gìn giữ bảo quản đặc
biệt là để tại chùa. Trong đất chùa dựng một cải Nhà ghe rông túk thiêng
liêng. Rông túk có mái che mƣa nắng có dàn đà để đặt ghe lên trân trọng và
chống ẩm mục, mối mọt. Ngày trƣớc kiêng kỵ phụ nữ không đƣợc tới gần
rông túk.
Hằng ngày các sƣ sãi và phật tử thắp nhang cúng Phật, thăp nhang,
dâng bông ghe ngo.
* Phần hội:
Nổi bật là truyền thuyết về đua ghe Ngo theo tƣơng truyền thì có nhiều
giả thuyết. Nhƣng trong đó có 3 giả thuyết đáng đƣợc chú ý nhất, đó là:
Thứ nhất, theo dân gian kể rằng ngày xƣa có công chúa Neng Chanh
(Nàng Chanh) có tài sắc vẹn toàn đƣợc nhà vua rất yêu quý. Từ lòng ganh
ghét ti tiện nên một tên quan đại thần đã vu cáo cho nàng tội bỏ chất cáu bẩn
ở móng tay vào nồi canh của vua. Biết mình không còn cách nào minh oan,
Neng Chanh vội vã xuống thuyền xuôi theo sông Ba Sắc chạy trốn. Nhà vua
cho quân lính đuổi theo hạ sát nàng. Biết không thể thoát thân, định mạng đã
54
đến, nên Neng Chanh vội vã ném chiếc ống nhổ (ngƣời Khmer gọi là Kon
thô) là kỷ vật đƣợc Nhà vua ban tặng trƣớc đó xuống vàm sông và nơi đó sau
này ngƣời Khmer gọi là “Peam Kon thô” (Peam là vàm, Kon Thô là ống nhổ;
ngƣời Việt gọi vàm Ống Nhổ - nay gọi vàm Dù Tho) và kết cục nàng bị vua
xử trảm một cách thƣơng tâm. Từ truyền thuyết đó, nên trong dân gian Khmer
tƣơng truyền: để tƣởng nhớ Neng Chanh tài hoa, bạc mệnh, hàng năm cƣ dân
Khmer quanh vùng tổ chức đua ghe Ngo để diễn lại cảnh Neng Chanh chạy
trốn khỏi hoàng cung đến vùng đất Ba Sắc - nay là Sóc Trăng.
Thứ hai, Tục đua ghe Ngo theo dân gian tƣơng truyền thì xuất phát từ
đặc điểm cuộc sống của cộng đồng cƣ dân lúc bấy giờ ở vùng sông nƣớc, cho
nên khởi đầu họ đã làm nên chiếc ghe độc mộc dùng để làm phƣơng tiện đi
lại, đồng thời chiếc ghe Ngo cũng là vật linh thiêng dùng ghe Ngo để đƣa
nƣớc từ ruộng đồng ra biển cả, đánh dấu sự kết thúc của một năm đồng áng.
Những cuộc mƣu sinh để chống chọi với thiên nhiên và đàn thú dữ thƣờng
đƣợc tổ chức đi thành từng đoàn, do đó chiếc ghe độc mộc lúc bấy giờ có
phần bất tiện, không khả năng đáp ứng đƣợc sức tải nhiều ngƣời theo yêu cầu,
nên họ phải sáng kiến đóng chiếc ghe dài ra để chở đƣợc nhiều ngƣời, phục
vụ cho cuộc sống mƣu sinh của cộng đồng.
Thứ ba, có thuyền thuyết cho rằng tục đua ghe Ngo của đồng bào
Khmer là nhằm ôn lại kỳ tích của lực lƣợng chủ lực hải quân và chiếc thuyền
chiến (ghe Ngo). Theo tài liệu đƣợc viết gần đây bằng tiếng Khmer, về
“Nguồn gốc lễ hội đua ghe Ngo, thả đèn nƣớc và cúng trăng” của nhà sƣ
Thạch Sô Tƣm xuất bản năm 2009 cũng đáng ngẫm nghĩ về lịch sử của lễ hội
truyền thống này. Trong đó đã nêu về nguồn gốc của lễ hội đua ghe Ngo ở
Sóc Trăng rằng: “Hội đua ghe Ngo đã có từ lâu và trở thành một tập tục của
những cƣ dân ở xứ sở Ba Sắc xƣa (nay là Sóc Trăng) vào khoảng năm 2071
tính theo Phật lịch và năm 1528 tính theo Dƣơng lịch, tƣơng ứng với thời đại
55
Nhà vua Ăng Chanh thứ nhất, vƣơng triều Long wêk của Campuchia (Trang 4
và 5). Theo tƣơng truyền, tục đua ghe Ngo của ngƣời Khmer Sóc Trăng lần
đầu tiên đƣợc tổ chức tại “Pem Kon Thô” tức là Vàm Dù Tho ngày nay thuộc
địa bàn huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nơi này các đội ghe Ngo của các
vùng Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh tập trung về đây đều thuận lợi, ở đây có
1 con sông lớn thẳng dài, dòng nƣớc chảy đều, có sân bãi lộ thiên và cũng là
nơi ngã ba đƣờng tiếp giáp nhau thành nơi giao thƣơng sầm uất lúc bấy giờ.
Đến thời Pháp thuộc, chúng bắt buộc phải dời điểm đua về sông Om
pu gie tức là sông Nhu Gia ngày nay thuộc xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên,
tỉnh Sóc Trăng để dễ bề kiểm soát an ninh. Đến thời kỳ Mỹ ngụy cuộc đua
cũng tổ chức tại sông Nhu Gia, thỉnh thoảng (năm 1972 - 1974) tập trung tổ
chức tai Kinh Xáng thuộc thành phố Sóc Trăng ngày nay. Sau ngày miền
Nam giải phóng cuộc đua ghe Ngo lại đƣợc tổ chức tại sông Nhu Gia cho đến
khoảng đầu thập niên 80 để tổ chức cuộc đua ghe Ngo truyền thống của đồng
bào Khmer ngày càng chu đáo, phát huy giá trị văn hóa và tính chất quần
chúng hóa lễ hội nên cuộc đua chính thức đƣợc dời về tổ chức tại Kinh Xáng
hay còn gọi là sông Sung Đinh, thời Pháp gọi là sông Maspéro (thành phố Sóc
Trăng) thuộc trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng cho đến ngày nay. Hằng năm, quy
mô tổ chức cuộc đua ngày càng lớn, thể hiện rõ tính chất quần chúng hóa lễ
hội theo hƣớng nét đẹp văn minh, đoàn kết, an toàn vì mục tiêu nâng cao mức
hƣởng thụ về đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc nói riêng và
nhân dân trong tỉnh, khu vực nói chung.
“Tuk Ngô” (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm
bằng cây sao. Thuở xƣa rừng châu thổ sông Mêkông ngút ngàn gỗ quý. Tuy
nhiên, để tìm đƣợc một thân cây sao bằng hai ngƣời ôm thì không phải là
chuyện dễ. Ngƣời ta phải tổ chức cho một nhóm ngƣời vào rừng tìm cây thích
hợp bất chấp thú dữ, rắn rít. Khi tìm đƣợc cây đúng tiêu chuẩn thì ngƣời ta
56
phải làm lễ cúng thần giữ rừng (Neak ta Prey ph'nôm) để đƣợc bình an vô sự
rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết
thành bè rồi thả theo dòng nƣớc. Cây sao đem về phải cƣa, đục, đẽo, khoét
thành chiếc ghe độc mộc. Sau này ghe đƣợc cải tiến nối thêm đầu và đuôi
đều cong ngƣời Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Cong là ngô – đọc trại
thành Ngo).
Theo nguyên tắc, chiếc ghe Ngo dài 27 mét, hình tựa con rắn, mình
thon thon, thoai thoải về phía trƣớc, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái một
chút. Ghe Ngo có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang
dài 1,2m làm băng ngồi vừa đủ 2 ngƣời ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song
song gồm 24 đôi. Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo
từng vị trí ngƣời bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, thƣờng là
thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, hai cây kềm chịu lực này giúp cho ghe
nhún nhảy và phóng nhanh đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Hai
cây này có đƣờng kính 0,2m. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái
(từ giữa thân thân ghe về phía sau) gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu).
Thân ghe đƣợc chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên
be sơn một lằn trắng hoặc vàng tùy ý thích của sƣ cả trụ trì. Hai bên be vẽ
hình các con vật, nhƣ rồng, cọp, hổ… hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi
ghe vẽ hình biểu tƣợng của ghe và ghi tên chùa. Khi xây chùa, ngƣời ta chọn
một con vật làm biểu tƣợng và khi đóng ghe, con vật này cũng là biểu tƣợng
của chiếc ghe.
Ngày nay, những thân cây sao bằng 2 ngƣời ôm hầu nhƣ không còn
nữa nên ghe Ngo hiện đại đƣợc đóng bằng ván cây sao. Có lẽ do kết cấu của
ghe ngày nay mỏng và nhẹ hơn ghe truyền thống nên nhiều ngƣời nhận định
rằng ghe ngày nay lƣớt nhanh hơn ghe độc mộc ngày xƣa. Ghe Ngo bao giờ
57
cũng đƣợc bảo quản trong một mái nhà để ghe trong khuôn viên chùa. Mái
che, dàn đà cao chắc chắn để che mƣa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi
thiêng liêng, ngày xƣa phụ nữ không đƣợc đến gần, đây là điều cấm kỵ.
Trƣớc đây, ngƣời ngồi mũi (nhân vật số 1 của đội bơi) phải là ngƣời
khá giả, có uy tín trong phum sóc. Đƣợc bình chọn ngồi mũi, ngƣời ấy phải lo
lễ cúng, lo nuôi “con dầm” ăn, tập dợt, lo chi phí cho cuộc đua. Ngày nay
nhiều sóc vẫn còn giữ lệ này.
Sau ngƣời ngồi mũi là những cặp ngồi trên băng ghế. Cặp ngồi kế mũi
là “s'ma tƣm”. Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh (theo đúng nhịp cồng
hoặc còi), làm chuẩn mực cho ngƣời ngồi phía sau. Kế tiếp là “kôn Chro va”
gồm 6 ngƣời ngồi bơi. Tiếp theo là “Kô lich” gồm 28 ngƣời quỳ bơi, khi ghe
bơi gần đến đích, 28 ngƣời này nhất tề đứng lên, một chân làm trụ, một chân
dùng hết sức cánh tay đẩy ghe phóng nhanh, lao thẳng về đích. 8 ngƣời nhún
bơi gọi là “sroong dôn”. Sau cùng là 3 tay lái. Lái chính đứng sau cùng, 2 lái
phụ đứng trƣớc ở 2 bên phải trái.
Vì chiếc ghe Ngo đƣợc tạo dáng nhƣ con rắn dài, đầu và lái đều cong.
Khi bơi, nếu động tác phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thăng bằng
và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục. Ngƣời đƣợc
chọn bơi phải là trai tráng khoẻ mạnh, đƣợc tập dợt theo từng vị trí của mình.
Trƣớc hết là tập bơi trên cạn: tất cả tay dầm, đứng theo vị trí của mình tại
điểm tập bơi (thƣờng là trƣớc sân chùa). Tập theo tiếng cồng (ngày nay có khi
dùng tiếng còi thay thế) của huấn luyện viên cho thật đều và thật nhịp nhàng.
Kế đó là tập bơi trên dàn gỗ dƣới ao hay là trên sông gần chùa nhằm luyện
sức cánh tay và sức bền thể lực. Sau cùng là tập bơi trên ghe Ngo để hoàn
chỉnh cuộc tập dợt. Khổ luyện sức, kỳ công luyện kỹ thuật, luyện cho tất cả
nhập sức làm một nhịp chèo, đƣa ghe lƣớt về đích.
Ghe ngo là vật thiêng liêng. Nhất cử nhất động đều phải cứ lễ cầu xin
58
trƣớc. Sau đây là những tiết lễ đƣợc tiến hành với một ghe ngo.
- Lễ cửa rừng xin cây làm ghe. Mời thần cây về làm thần ghe.
- Lễ khởi công làm ghe ngo.
- Lễ khánh thành ghe ngo. Đƣa ghe lên Nhà ghe. Khi đƣa ghe vào hội
đua ghe có các lễ.
- Lễ xuống ghe. Đƣa ghe từ Nhà ghe xuống nƣớc trƣớc ngày hội đua để
đội đua luyện tập.
- Lễ xuất ghe đi dự hội.
- Lễ xuất phát trƣớc cuộc đua.
- Lễ lên ghe.
- Khi tham dự hội về làm lễ đƣa ghe lên Nhà ghe.
Trong mỗi lễ kể trên đều có những quy định cụ thể chi tiết các tiết lễ,
các vật lễ. Quy định rõ tới cả vị trí đặt lễ, ngƣời hành lễ, ngƣời dự lễ, lời thỉnh
lễ và cả các linh sự liên quan với lễ.
Khi cứ hành Lễ xuống ghe có 5 mâm cỗ. Hai mâm trƣớc nhà ghe. Ba
mâm ở trên ghe đặt ở đầu, giữa và cuối ghe. Mỗi mâm cúng kiếng có rƣợu,
thịt heo, thịt gà luộc, trứng gà, lúa nổ, nửa ly huyết gà tƣơi và trái cây... Slatho
có nhang, đèn cầy (nến), trầu cau… Mỗi chỗ trên băng ghế đặt một bó hoa
tƣơi.
Khi tiến hành cúng ghe ngo phải cúng Thổ Địa.
Phum Sóc Khmer có chính điện thờ Phật. Chùa Khmer là trung tâm văn
hóa. Cái ghe trong Nhà ghe ở chùa là vật thiêng của cả cộng đồng. Ngƣời ta
tổ chức lễ hội ghe ngo, ngƣời ta tham gia đua ghe ngo là hoạt động văn hóa và
tham dự thành tâm hết mình để giữ danh dự của phum sóc. Do Vậy mà lễ hội
đua ghe ngo đƣợc tổ chức hết sức trang trọng và tƣng bùng.
Theo lịch cổ của ngƣời Khmer tháng mƣời là tháng cùng của năm.
Ngày rằm là ngày sáng đẹp nhất của tháng. Mặt trăng có sự tích thỏ ngọc, một
59
trong những tiền kiếp của đức Phật. Lễ Cúng Trăng, Lễ đút cốm dẹp... Ngày
nhƣ vậy đua ghe ngo thật là một dịp tốt tuyệt vời, nếu đua thắng cuộc đem
niềm vui về cho phum sóc. Nhƣng trƣớc hết lễ hội đua ghe ngo là cuộc tụ hội
đông vui của cả cộng đồng. Hội đua ghe ngo ở Sóc Trăng là cuộc chơi có sự
hiện diện của vài vạn ngƣời dân quanh vùng. Dân gian còn truyền câu ca nói
cái tinh thần “chơi hết mình” của dân đất giống nghèo khó ngày xƣa: “Hầy
dơ… Ăn khoai ăn mì đi coi đua ghe... ”
Nhƣ trên đã nói, cuộc Hội mang sinh hoạt niềm vui danh dự tự hào của
phum sóc cho nên đƣợc toàn phum sóc quan tâm đóng góp. Đội đua đƣợc
tuyển chọn kỹ lƣỡng từ những thành viên tốt nhất trong làng xóm không kể
họ ngƣời dân tộc nào.
Ngƣời ngồi mũi phải đƣợc cả phum sóc tín nhiệm. Đó là con ngƣời
toàn diện, có đức, có nhân nghĩa, làm ăn khá giả, công chuyện gia đình đang
rất tốt đẹp. Khi đƣợc cả làng xã chọn lựa tín nhiệm ngƣời ngồi đầu mũi ghe
phải có điều kiện vật chất và nhất là có tấm lòng lo chi phí chu toàn cho đội
đua tham dự lễ hội. Ngƣời đầu mũi ghe lo làm các lễ cúng ghe, lo nuôi con
dầm ăn, tập, lo chi phí đi đua ghe ngo. Tới nay việc chi phí lễ hội là của phum
sóc, nhƣng nhiều nơi các ngƣời ngồi đầu mũi ghe vẫn lo đảm nhiệm tốt yêu
cầu nhiệm vụ này nhƣ ngày xƣa.
Các con dầm chèo hầu hết là ngƣời Khmer, nhƣng cũng có cả ngƣời
Việt, ngƣời Hoa. Phải là những ngƣời tuổi khoảng 30, có đức, có sức khỏe tốt.
Không chọn trai mởi lởn vì sức không dẻo dai, không bền.
Hội đua ghe ngo mở đầu bằng Lễ xuống ghe trang trọng trƣớc ngày hội
cả tháng trời. Từ khi xuống ghe, công việc đƣợc giao cho huấn luyện viên.
Cuộc tập bơi tiến hành theo những quy trình luyện tập bài bản.
Tập bơi trên cạn cho đều nhịp chèo.
Tập bơi nƣớc ngồi tại chỗ. Cặm cây xuống rạch ngồi bơi chèo tại chỗ
60
cho mọi tay ra dầm cùng một nhịp dồn sức đẩy ghe.
Tập bơi trên ghe. Ngƣời ngồi mũi, ngƣời ngồi lái và con dầm kết hợp
bơi cho thật nhuyễn.
Khổ luyện sao cho đều nhịp dồn lực để ghe vút lên bay về đích. Đội bơi
tập luyện trên kênh rạch của làng xã, đƣờng bơi chừng 10km, tập hằng ngày
lắm khi cả tháng trời liên tục, nâng tốc độ ghe bơi 4 phút đi đƣợc 1.500m, 3
phút đi 1.200m... Có đội bơi lấy chuẩn của ngƣời chạy xe gắn máy tốc độ đó
trên bờ cho ghe đua bơi chạy song song cùng ngƣời đi xe.
* Ý nghĩa của buổi lễ:
Lễ hội Ok Om Bok của ngƣời Khmer hội tụ đầy đủ những giá trị văn
hóa đặc sắc từ những nghi lễ (cúng trăng, đút cốm dẹp, đi chùa nghe thuyết
pháp…), những phần hội hấp dẫn (đua ghe Ngo, thả hoa đăng, thả đèn gió) và
yếu tố tín ngƣỡng tâm linh sâu sắc (tín ngƣỡng thờ tứ thần từ văn hóa dân
gian trong canh tác nông nghiệp và ý nghĩa sinh thái học tâm linh từ Phật
thoại trong Phật giáo Nam tông Khmer). Qua đó, lễ hội có ý nghĩa hết sức
nhân văn khi hƣớng đến yếu tố bảo vệ nguồn nƣớc, bảo vệ môi trƣờng. Tƣ
tƣởng Phật giáo Nam tông Khmer và tâm thức ứng xử tôn trọng môi trƣờng
tự nhiên của ngƣời Khmer thấm nhuần trong lễ hội Ok Om Bok cần đƣợc tôn
vinh và bảo tồn để nâng cao nhận thức của cả cộng đồng về bảo tồn nguồn
tài nguyên thiên nhiên trƣớc biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp nhƣ
hiện nay.
2.2. Ảnh hƣởng của Lễ hội Phật giáo Nam tông đến một số lĩnh vực
đời sống xã hội của ngƣời dân khmer ở Hòn Đất hiện nay.
Có thể nói, hầu nhƣ toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời
Khmer chịu sự tác động mạnh mẽ và liên tục của Phật giáo Nam tông nhất là
các lễ hội truyền thống ảnh hƣởng trực tiếp góp phần nâng cao đời sống tinh
61
thần của mọi ngƣời dân trong xã hội.
2.2.1. Ảnh hưởng đến đời sống chính trị
Tôn giáo luôn mang tính hai mặt và ảnh hƣởng của nó cũng vậy.
Những ngƣời theo chủ nghĩa duy vật tầm thƣờng chỉ nhìn thấy mặt trái của
tôn giáo, coi đó chỉ là thứ vô bổ chỉ có hại chứ không có lợi cho con ngƣời.
Ngƣợc lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn nhận thấu đáo cả hai phƣơng
diện của tôn giáo, nếu biết tận dụng mặt mạnh của tôn giáo sẽ có tác dụng bù
đắp những khoảng trống trong con ngƣời dù nó chỉ là nhƣ ảo.
Phật giáo Nam tông Hòn Đất có truyền thống yêu nƣớc, gắn bó với dân
tộc, sƣ sãi tín đồ Phật giáo sớm đi theo cách mạng. Dƣới chế độ phong kiến
hà khắc thời Nguyễn, ngƣời Khmer kề vai sát cánh cùng ngƣời Việt, Chăm,
Hoa nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Khi tổ chức Phật giáo chƣa đƣợc hình
thành, các vị sƣ sãi cũng đã nhanh chóng “cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào”
hoặc ẩn dƣới những mái chùa Khmer là nơi che dấu bộ đội, tích trữ lƣơng
thực, vũ khí ,..hoặc tham gia nhiều tổ chức kháng Pháp ở địa phƣơng. Trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ đồng bào Khmer ở đây càng gắn bó với
Phật giáo hơn bao giờ hết.
Tiếp bƣớc truyền thống yêu nƣớc tôn trọng các nhà cầm quyền, tất cả
các chùa thuộc Nam tông đều đến trụ sở để đăng kí hoạt động tôn giáo, nhất
là trong lĩnh vực lễ hội. Đại đức Danh Lâm - Trụ trì chùa Lình Huỳnh chia sẻ:
hàng năm, vào tháng 01, đại diện nhà Chùa đến UBND xã gặp PCTUBND xã
và đồng chí Chủ tịch UBMT tổ quốc xã Lình Huỳnh để đăng ký chƣơng trình
hoạt động trong năm. Trên cơ sở đăng ký của Chùa, UBND xã Lình huỳnh
phê duyệt chƣơng trình hoạt động của chùa Lình huỳnh trong năm và chúng
tôi tổ chức các lễ hội theo đúng chƣơng trình đã đƣợc UBND xã phê duyệt.
Đ/c Huỳnh Văn Gặp - UVBTV- Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam xã Lình
Huỳnh cho biết nhƣ sau: Xã Lình Huỳnh là xã ven biển thuộc huyện Hòn Đất.
62
Dân số 10.637 người, trong đó người kinh chiếm 80%, còn lại là người khmer
và hoa. Toàn xã chỉ có 01 chùa khmer Sakararansĩ Lình Huỳnh, tín đồ có
1873 người. Hàng năm, Ban Quản trị chùa có đến UBND xã và UBMTTQ xã
gặp gỡ đăng ký chương trình hoạt động trong năm, được UBND xã phê duyệt.
Qua các năm hoạt động, tôi thấy Ban Quản trị chùa chấp hành nghiêm các
quy định của Đảng và Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và
đúng chương trình đã đăng ký.
Đ/c Huỳnh Thanh Hà, PBT, Chủ tịch UBND xã Lình Huỳnh cho biết:
Đảng ủy xã, chính quyền địa phương và MTTQ xã quan tâm chỉ đạo lĩnh vực
dân tộc, tôn giáo. Cơ cấu trụ trì chùa Sakararansĩ Lình Huỳnh vào thành viên
UBMTTQ xã, giới thiệu lục à cha chùa tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân
xã. Chùa Lình Huỳnh và các phật tử có nhiều đóng góp cho địa phương trong
xây dựng nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hỗ trợ kinh phí làm đường,
cầu...góp phần xây dựng nông thôn mới.
Đ/c Trần Quang Minh, PCT UBMTTQ huyện Hòn Đất cho biết: Nhân
các dịp lễ, tết của đồng bào dân tộc, Huyện ủy, UBND, các ban, ngành đoàn
thể từ huyện đến các xã, thị trấn trong huyện thành lập các đoàn cán bộ gồm
lãnh đạo Huyện ủy, HĐND, UBND, mặt trận và các đoàn thể đến thăm, chúc
tết và tặng quà cho chùa và người uy tín trong đồng bào dân tộc khmer.
UBND thì chỉ đạo lực lượng vũ trang có kế hoạch và phân công cán bộ bảo
vệ an ninh trật tự đảm bảo an toàn cho chùa và người dân, tín đồ đến dự lễ.
Qua nắm tình hình trên địa bàn huyện, tôi thấy ban quản trị các chùa trên địa
bàn huyện nói chung, Chùa khmer nói riêng và các tín đồ phật tử ở địa
phương luôn chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, chấp hành tốt các quy định của địa phương, sống tốt đời đẹp đạo.
Mới đây ngày 6/4, tại thành phố Cần Thơ, Thủ tƣớng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc cùng Đoàn công tác đã có dự cuộc họp mặt mừng Tết cổ
63
truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ năm 2019.
Thủ tƣớng đánh giá hệ thống chính trị trong vùng dân tộc Khmer không
ngừng đƣợc củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi
dƣỡng cán bộ đƣợc chú trọng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức là ngƣời dân tộc Khmer tăng dần hàng năm cả về số lƣợng và chất
lƣợng. Truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo đƣợc phát
huy; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vùng có đông đồng
bào dân tộc Khmer đƣợc giữ vững. Chức sắc, tín đồ Phật giáo Nam tông
Khmer và Hội Đoàn kết Sƣ sãi yêu nƣớc đã hoạt động tích cực, đoàn kết
trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tham gia hiệu quả các
phong trào thi đua yêu nƣớc, phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Các hoạt động
tu học và sinh hoạt Phật giáo của chƣ tăng và đồng bào Khmer đƣợc tạo điều
kiện đúng chính sách pháp luật.
Bên cạnh đó có những mặt hạn chế nhƣ sau:
Thế lực thù địch còn tổ chức nhiều hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc
để kích động, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong vùng đồng bào Khmer vẫn còn
diễn ra.
Công tác quản lý Nhà nƣớc đối với các lễ hội chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức, chƣa tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức và hƣớng dẫn cụ thể để
ngƣời dân nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội,
khắc phục những hiện tƣợng không lành mạnh trong lễ hội. Việc chỉ đạo của
chính quyền về lễ hội một số nơi chƣa chặt chẽ về kế hoạch, nội dung, thời
gian, những vấn đề cần thiết bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trong lễ hội, đặc
biệt là vai trò quản lý điều hành của ban chỉ đạo lễ hội còn hạn chế, nên nhiều
việc đặt ra trong lễ hội còn bị buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra kiểm soát
nhất là những vấn đề trật tự an ninh, mê tín dị đoan trong lễ hội.
Chính vì vậy đồng bào dân dộc không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác
64
cách mạng, chống âm mƣu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp
phần giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các vị chức sắc Phật
giáo Nam tông Khmer gƣơng mẫu thực hiện chính sách, pháp luật, tích cực
vận động đồng bào Phật tử tham gia các phong trào thi đua, phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, nâng cao đời sống, thực hiện hiệu quả công tác Phật sự, tổ
chức các hoạt động Phật giáo tuân thủ pháp luật và Hiến chƣơng của Giáo
hội, xây dựng Hội Đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc ngày càng vững mạnh.
2.2.2. Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế
Mặt dù các lễ hội đã tạo ra nét văn hóa rất riêng của ngƣời Khmer
nhƣng tính hai mặt trong ảnh hƣởng của lễ hội đã làm cho tính chất tốt đẹp
của nó không còn nguyên nghĩa. Việc có quá nhiều lễ hội trong năm dƣờng
nhƣ trở thành gánh nặng trong đời sống ngƣời Khmer ở hòn đất và đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khó của họ.
Trong lịch sử, cộng đồng Ngƣời Khmer ít có hộ giàu. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bởi ngƣời Khmer rất coi trọng các giá trị
tinh thần. Họ yên tâm chấp nhận thực tại khó khăn miễn sao tâm không bị vẩn
đục bởi những cám dỗ của tiền tài vật chất. Vì vậy, họ dễ chia sẻ và đồng cảm
với những ngƣời nghèo khó. Họ dành dụm tiền kiếm đƣợc mà trong số đó
phần lớn để cúng nhà chùa. Ngay cả việc cƣới hỏi của con cái, sau khi trang
trải phí tổn, họ cũng đem một phần tài sản cúng vào chùa làm phúc để tích
đức cho kiếp sau. Nhiều gia đình mặc dù còn rất khó khăn nhƣng vẫn hết lòng
thành tâm với cửa Phật, góp phần tôn tạo chùa chiền, cúng dƣờng chƣ tăng.
Mọi ngƣời đều chung tay gánh vác xây cất, tu sửa ngôi chùa mà không đùn
đẩy trách nhiệm cho cá nhân nào. Ai có nhiều tiền góp nhiều, có ít góp ít. Vì
vậy, nhà ở của ngƣời Khmer tuy rất đơn giản tuyềnh toàng song ngôi chùa
khá đồ sộ, uy nghi, lộng lẫy vì họ coi đó là đại gia đình của mình. Điều này
cho thấy một triết lý nhân sinh, một lối sống mang nặng dấu ấn của Phật giáo
65
thuần thành, nguyên thủy, ít chịu những tác động của thời cuộc trong bối cảnh
kinh tế thị trƣờng. Cũng do lối sống nhƣ vậy nên ngƣời Khmer đồng bằng
sông Cửu Long không thích cạnh tranh, đua chen để làm giàu. Ngƣợc lại, họ
thƣờng hài lòng, yên phận với thực tại, ƣa thảnh thơi, an nhàn. Họ tin rằng có
phần, có phƣớc mới làm giàu đƣợc, vì thế họ ít chú tâm để tìm cách thay đổi
cuộc sống. Đó là một thực tế làm cho ngƣời Khmer gặp nhiều khó khăn để
thích ứng với kinh tế thị trƣờng.
Mặt trái của những hoạt động lễ hội này còn thể hiện ở chỗ vẫn còn xảy
ra tình trạng các phần tử xấu lợi dụng lúc ngƣời dân tụ họp đông trong dịp lễ
hội để thực hiện các hoạt động kinh tế bằng hình thức mê tín dị đoan nhƣ: lên
đồng, bóng, bói quẻ, thậm chí tuyên truyền chống phá, lôi kéo, nói xấu Đảng
và Nhà nƣớc ta, để chuộc.
2.2.3. Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa
Những lễ hội truyền thống nhƣ Chol Chnăm Thmây, Sen Đol Ta, Ók
Om Bok đều có vai trò rất lớn của Phật giáo Nam tông và đặc biệt là các nhà
sƣ – những ngƣời làm công tác lãnh đạo tôn giáo nhƣng cũng đồng thời là tín
đồ của Phật giáo. Khi giáo dục vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính thì
có thể thông qua các hoạt động tế lễ tôn giáo, dạy lễ nghi tôn giáo và lý luận
tôn giáo cho đệ tử, rồi dần dần giáo dục cả những kiến thức xã hội.
Các lễ hội của Phật giáo Khmer, có tác dụng giúp ngƣời Khmer làm
sạch thế giới tinh thần của mình, làm đẹp môi trƣờng tự nhiên, hiểu về giá trị
tinh thần trong cuộc sống. Phật giáo vốn là một tôn giáo truyền thống của
ngƣời Khmer, phân bố rộng rãi trên địa bàn ngƣời Khmer sinh sống, trở thành
một nhân tố văn hóa có ảnh hƣởng lớn đối với các hình thức giáo hóa truyền
thống. Điều này có lợi cho những nhân tố làm ổn định xã hội.
2.2.4. Ảnh hưởng đến đời sống xã hội
Lễ hội ngƣời khmer là sự cộng hƣởng các giá trị về mặt lịch sử, phong
66
tục, văn chƣơng, nghệ thuật, là bảo tàng sống về các giá trị tinh thần, dân chủ,
nhân văn đã đƣợc kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử của họ. Đó là sự thỏa
mãn các nhu cầu về tín ngƣỡng, tâm linh, về giải trí.
Việc lễ hội diễn ra, trƣớc tiên là nhu cầu của cộng đồng ngƣời khmer,
tiếp theo đó là làm phong phú lễ hội việt nam nói chung, vùng hòn đất nói
riêng. Tạo nên sự giao lƣu, học hỏi, là sự đoàn kết. Quan trọng nhất là nhu
cầu sáng tạo và thụ hƣởng văn hóa khác góp phần nâng cao đời sống văn hóa
của cộng đồng dân cƣ.
Trong xã hội hiện đại hôm nay, ngoài giá trị nhân văn, thẩm mỹ, ngƣời
ta rất chú trọng tới tinh thần dân chủ của lễ hội, điều mà con ngƣời ngày hôm
nay đang hƣớng tới, phấn đấu. Trong lễ hội, tất cả mọi ngƣời không phân biệt
tầng lớp, đẳng cấp, giới tính, tuổi tác hay tôn giáo… đều đƣợc tham gia, bình
đẳng, vô tƣ.
Ngƣời dân ở Hòn Đất rất yêu thích lễ hội và hầu hết họ đều hiểu đƣợc ý
nghĩa của những lễ hội. Nhất là ngƣời Khmer dành một khoảng thời gian khá
nhiều trong năm để thực hiện tổ chức các lễ hội. Trong đó, có tới 10 lễ hội bắt
nguồn từ Phật giáo và do sƣ sãi Phật giáo đứng ra tổ chức trong khuôn viên
các chùa, với sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Khi đƣợc hỏi tới ba lễ hội
quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần cộng đồng Khmer là
PiThi Chôl Chnăm Thmây (lễ vào năm mới), PiThi Sene Đôn Ta (lễ cúng
Ông, Bà) và Okombok (lễ cúng trăng) thì nhận đƣợc các câu trả lời:
Khi đƣợc hỏi về ý nghĩa ba lễ trên của ngƣời Khmer. Ông Nguyễn Văn
Kỷ ( 61 tuổi, số nhà 211- Tổ 11 - cƣ ngụ ở Khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn
Đất và đƣợc ông chia sẻ: “Tôi có biết các lễ hội này, tôi thấy sau tết nguyên
đán của người Việt, thì định kỳ vào tháng 4 người khmer chuẩn bị cho Lễ
Chôl Chnăm Thmây - là ngày tết của người dân tộc khmer, còn lễ Lễ Sene
Đôn Ta và Lễ Okombok thì tổ chức vào các tháng trong năm, tôi không biết ý
67
nghĩa của 2 lễ hội này là gì”.
Cũng câu hỏi trên, ông Đoàn Văn Sơn, cư ngụ tại ấp Vàm Răng, xã
Sơn Kiên, huyện Hòn Đất cho biệt: tôi là người kinh, nhưng tại ấp Vàm Răng
này người khmer sống khá đông, nhà tôi ở gần Chùa Khmer Sóc Xoài, một
ngôi chùa lớn được Nhà nước công nhận di tích lịch sử, xung quanh nhà tôi ở
có rất nhiều hộ khmer sinh sống, nên tôi biết rất rõ về 03 lễ hội trên. Nhân
dịp lễ tết của đồng bào dân tộc, tôi và các con của tôi cùng với các hộ gần
nhà đến Chùa khmer Sóc Xoài xem các hoạt động cúng bái và xem các trò
chơi mà Nhà Chùa tổ chức. Tại đó, tôi thấy Ban quản trị chùa và các Phật tử
trang trí nơi thờ cúng rất đẹp, có hoa, quả, đèn... Kiến trúc của Chùa hoa văn
rất tinh xảo. Tôi thấy người Khmer rất tin tưởng vào Phật, đồng bào khmer
sống rất đoàn kết.
Ông Huỳnh Sang (ngƣời tín đồ) ( 67 tuổi, Ngƣời có uy tín trong đồng
bào khmer - cƣ ngụ tại ấp lình Huỳnh, xã Lình Huỳnh) và đƣợc ông chia sẻ:
“Bản thân tôi và gia đình là người khmer, về Lình Huỳnh sinh sống gần 40
năm. Hầu như người khmer khi lớn lên cũng là tín đồ và ngoài làm ăn phát
triển kinh tế gia đình thì hầu hết các gia đình người khmer đều đến chùa
khmer gần nhà. Chùa cũng như là ngôi nhà thứ hai của chúng tôi. Vì ngôi
chùa là nơi thiêng liêng và quan trọng nhất của mỗi người dân Khmer và cả
cuộc đời của một người Khmer sinh sống ở đây hầu như người khmer ai cũng
gắn bó với ngôi chùa. Ở chùa, chúng tôi được trụ trì tuyên truyền kinh kệ của
người khmer và tuyên truyền cho chúng tôi phải giáo dục gia đình chấp hành
tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hầu như người
khmer chúng tôi tham gia đầy đủ các lễ hội của dân tộc. Bản thân tôi chỉ là
tín đồ theo truyền thống cha ông, tôi không nằm trong ban quản trị chùa, vì
ban quản trị phải là người ưu tú, có nhiều cống hiến cho nhà chùa và được
68
tập thể suy cử. Tôi rất vui khi các lễ hội truyền thống của dân tộc được bảo
tồn và tổ chức hàng năm, được chính quyền địa phương quan tâm chấp thuận.
Tôi thích cả phần lễ và phần hội”.
Đến gia đình Chị Diệp Thị Mỹ (ngƣời Hoa) tại ấp Mƣơng Kinh xã Sơn
Bình, huyện Hòn Đất đƣợc chị chia sẻ: “Tuy tôi là người dân tộc Hoa nhưng
tôi rất thích lễ hội của người Khmer, lễ hội họ có nhiều ý nghĩa, giáo dục con
người về nhân đạo, đạo đức. Con người Khmer tôi rất thích rất chất phác thật
thà, thật tình là đặc điểm của họ, thế nên khi đến đây vào mỗi dịp lễ hội họ
tiếp đãi rất thân tình”.
Các lễ hội diễn ra hàng năm đã thể hiện sức mạnh của cộng đồng và
làm tăng thêm tính đoàn kết của các cá nhân, các gia đình trong phum sóc.
Nói cách khác, nó làm tăng sự cố kết cộng đồng của dân tộc Khmer.
2.3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và giá trị
của lễ hội phật giáo nam tông khmer đối với đời sống ngƣời dân khmer
huyện Hòn Đất thời gian tới.
Căn cứ vào quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, căn cứ kết quả tích cực đạt
đƣợc và từ những hạn chế để đề giải pháp :
2.3.1. Giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến
tôn giáo và văn hóa người dân khmer.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo phù
hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nƣớc {xem 19 và
20}, đây là vấn đề quan trọng để đƣa Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.
Mục tiêu của công tác quản lý không chỉ dừng lại ở việc hƣớng dẫn các hoạt
động tôn giáo tuân thủ pháp luật mà điều có tác dụng cơ bản và lâu dài là phải
tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động tôn giáo tạo thuận lợi cho
công tác quản lý nhà nƣớc về tôn giáo. Có nhƣ vậy, ý thức xã hội mới thể
hiện đƣợc tính tích cực của mình khi tác động trở lại tồn tại xã hội. Phật giáo
69
Nam tông mặc dù còn những hạn chế nhƣng những gía trị tích cực của nó
không thể phủ nhận. Đó là mặt đạo đức của nó, đáp ứng đƣợc yêu cầu của đời
sống tâm linh của con ngƣời “dƣới Chủ nghĩa xã hội Phật giáo Nam tông
khmer vẫn còn có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hƣớng đi cùng
với dân tộc, sống “tốt đời, đẹp đạo”[2; tr. 24].
Cần tăng cƣờng công tác giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức cho
mọi ngƣời dân về lễ hội, nắm vững chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc về chính sách đại đoàn kết dân tộc, tự do tín ngƣỡng về tôn giáo
dân tộc. Trên cơ sở đó giúp mọi ngƣời nâng cao nhận thức vễ lễ hội, xây dựng
ý thức trách nhiệm tham gia lễ hội, chống mê tín dị đoan, bảo đảm hoạt động
lễ hội thực sự văn hoá, văn minh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, hoạt
động an toàn, tiết kiệm, hiệu quả. Triển khai sâu rộng tới toàn dân nhất là
trong các tôn giáo về chỉ thị số 41/CT-TW của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng,
Công điện 229/CĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng công tác tổ
chức và quản lý lễ hội.
Tăng cƣờng và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới [xem 15]. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thực hiện tốt chủ
trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hòn Đất nêu: Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của
Đảng. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động
viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng
góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo
điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chƣơng, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận, đúng quy định của pháp luật.
70
Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
2.3.2. Giải pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội
Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phƣơng thƣờng xuyên thăm hỏi,
động viên các sƣ sải trong công tác chăm lo Đạo- Đời ở các chùa Phật giáo
Nam tông. Sau một thời gian tu học tại chùa, các vị sƣ Khmer có thể chọn con
đƣờng xuất tu, trở về với cuộc sống gia đình, mang những hành trang tốt đƣợc
trang bị trong lớp chùa để phục vụ xã hội với vai trò của một công dân. Họ
cũng có thể phát tâm hiến dâng trọn cuộc đời của mình vào việc tu học theo
giáo lý của Đức Phật, để tiếp tục con đƣờng giáo hóa, dạy dỗ các tín đồ Phật
tử theo hạnh nguyện của một vị xuất gia. Bất kỳ là xuất tƣ trở về với đời
thƣờng, hay tiếp tục con đƣờng tu hành tịnh hạnh, những con ngƣời này đều
luôn ý thức mình phải mang những điều cao cả trong giáp lý phật giáo và trí
thức xã hội đƣợc kế thừa trong môi trƣờng chùa để phát huy, chia sẻ với cộng
đồng, góp phần làm tốt đẹp hơn cho xã hội.
Từ đó ngƣời sƣ sãi sẽ giáo dục tín đồ hiểu đƣợc ý nghĩa của lễ hội,
sống tốt đời đẹp đạo, việc thực hành lễ hội tôn giáo không chỉ đứng theo tôn
giáo của mình, mà phải hợp tình hợp lí với chủ trƣơng chính sách nhà nƣớc.
Đào tạo đội ngũ cán bộ là ngƣời dân tộc Khmer vừa có chuyên môn
vừa có phẩm chất chính trị tốt đẹp, đặc biệt sự chuyên môn về lễ hội của
mình. Để gìn giữ cũng cố và phát triển lễ hội.
Ngoài ra, việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải bám sát điều kiện thực
tế, trình độ dân trí, nhu cầu lao động của thị trƣờng để nâng cao hiệu quả của
công tác giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer. Chăm lo giáo dục
nâng cao dân trí cho họ chính là thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và
71
Nhà nƣớc ta. Viêc nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc Khmer sẽ góp phần
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng nông thôn nơi có đồng bào Khmer
sinh sống vừa góp phần nâng cao đời sống tinh thần họ tại nơi đây.
Bảo đảm công tác an ninh trong lễ hội, có phƣơng án xử lý những trƣờng
hợp gây mất trật tự, an toàn, những hiện tƣợng gây rối, trộm cắp, chen lấn, xô
đẩy, đánh nhau trong lễ hội; phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện
tiêu cực, lợi dụng lễ hội để tuyên truyền phản động chống phá Đảng, Nhà nƣớc,
chính quyền địa phƣơng, những hoạt động thiếu văn hoá nhƣ đồng bóng, bói
toán, mê tín dị đoan, cờ bạc, rƣợu chè, lợi dụng để tổ chức những trò chơi thiếu
lành mạnh, phản cảm gây mất an ninh chính trị ở địa phƣơng, nghiêm cấm việc
đổi tiền lẻ, hạn chế đến mức thấp nhất việc đốt vàng mã trong lễ hội, tuyên
truyền nhân rộng những lễ hội không đốt vàng mã.
Cần ban hành thêm một số chính sách phù hợp để hỗ trợ về kinh tế cho
hộ nghèo ngƣời khmer để họ cải thiện cuộc sống, có đủ điều kiện chăm lo và
an tâm cho con em mình đến trƣờng học. Ngoài ra, cần tập trung giải quyết
tình trạng mù chữ trong đồng bào dân tộc.
Tăng cƣờng nguồn cán bộ cho đồng bào Khmer. Tỉnh cần nghiên cứu
tình hình thực tế và kiến nghị bổ sung thêm trong Nghị định 134/2006/NĐ-CP
của Chính phủ vì trong Nghị định này chỉ quy định thực hiện chính sách cử
tuyển ở những vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, trên thực tế mặc dù nhiều con
em ngƣời Khmer không sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nhƣng bản thân gia
đình lại hết sức khó khăn lại không đƣợc áp dụng chính sách trong Nghị định
này. Cho nên cần phải mở rộng đối tƣợng cử tuyển này. Không nên chỉ bó
hẹp trong vùng đặc biệt khó khăn nhƣ hiện nay.
2.3.3. Giải pháp về tuyên truyền, vận động các chức sắc, tín đồ Phật
giáo Nam tông Khmer
Sƣ sãi phật giáo nam tông khmer xem hội đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc gần
72
nhƣ là một tổ chức Giáo hội, nên mọi hoạt động nhƣ thuyên chuyển, tổ chức
đại giới đàn, thọ giới tỳ khƣu, phong phẩm, kỷ luật, đào tạo sƣ sãi..., đều do
hội đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc xem xét, quyết định [13, tr. 48-49]. Do đó, mọi
tu sỹ luôn đề cao chức năng giáo dục cho tín đồ, Phật tử, con em trong cộng
đồng đƣợc coi là một nội dung quan trọng mà sƣ sãi Phật giáo Nam tông phải
có trách vụ cao cã thực hiện. Vì thế ngƣời tu hành trong Phật giáo Nam tông
là ngƣời thầy thật sự. Trong các trƣờng nhà chùa, các lớp Bổ túc Pali, nội
dung đƣợc đƣa vào giảng dạy là chữ Pali, giáo lý, văn hóa, nghề thủ công và
cả đạo đức nhân cách cho cộng đồng tín đồ. Các lớp học trong chùa này do
chính sác sƣ đảm trách, họ đƣợc gọi là các sãi giáo. Bằng kiến thức và sự hiểu
biết của mình, các sãi giáo sẽ trực tiếp dạt cho con em trong cộng đồng các
nội dung nói trên, phân theo từng cấp học. Qua các trƣờng, lớp chùa do các
sãi giáo đảm trách, hầu hết các thành viên trong cộng đồng đều đƣợc đào tạo
về các tri thức văn hóa, nghề thủ công ở một trình độ nhất định. Từ đó tạo
dựng cho họ những hành trang ban đâù, căn bản nhất trƣớc khi bƣớc vào cuộc
sống ở tuổi trƣởng thành. Vì vậy, các vị sƣ dạy học đƣợc cộng đồng kính
trọng, cho nên tiếng nói, ý kiến của các sƣ tăng về những công việc chung
luôn có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi thành viên trong phum, sóc. Không
chỉ mang nghĩa hẹp là dạy trong trƣờng chùa các vị sƣ Khmer còn góp phần
quan trọng vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp qua
việc lấy chính đạo hạnh và đức độ của mình trong cuộc sống làm gƣơng cho
xã hội mà trƣớc hết là trong cộng đồng ngƣời Khmer. Vì thế, tỉnh cần quan
tâm nhiều chính sách đãi ngộ đối với các sƣ sãi Phật giáo Nam tông để họ an
tâm cống hiến sức mình thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra
liên quan đến công tác tôn giáo.
Chính quyền địa phƣơng quan tâm hơn nữa đến việc phát thanh tiếng
Khmer trong vùng có ngƣời Khmer đang sinh sống với thời gian hợp lý và nội
73
dung phát phải phù hợp với khả năng tiếp thu của ngƣời Khmer. Đặc biệt, nội
dung phát thanh ngoài tuyên truyền chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nƣớc thì phải lồng ghép thêm những nội dung liên quan công tác
khuyến nông, tuyên truyền những gƣơng điển hình trong lao động sản xuất,
gƣơng học sinh nghèo vƣợt khó hiếu học của con em ngƣời Khmer. Đặc biệt
là các giá trị văn hóa, lễ hội, của cộng đồng.
Quá trình hội nhập, giao lƣu và tiếp biến văn hóa của tộc ngƣời
Khmer với các tộc ngƣời trong khu vực nhƣ Việt – Hoa – Chăm thì các lễ
hội truyền thống của tộc ngƣời Khmer có sự biến đổi nhất định, nhƣng
những lễ hội này vẫn giữ đƣợc những giá trị tuyền thống vốn có của nó mà
không có sự pha trộn trong quá trình tiếp biến của nền văn hóa đƣơng đại.
Nhƣ đã phân tích lễ hội của dân tộc Khmer, ta có thể tham gia vào phần hội
của họ để lồng ghép tuyên truyền. Dĩ nhiên là đƣợc sự đồng thuận của sƣ sãi
và ban quản trị của Chùa.
Thành lập website điện tử bằng tiếng Khmer với nội dung chứa đựng
các thông tin thời sự, cuộc sống, xã hội, văn hóa, tri thức, nhất là các lễ hội.
Với sự biên tập của các nhà khoa học, nội dung và hình thức đảm bảo đúng
với chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nƣớc.
2.3.4. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phật giáo
nam tông khmer.
Nhận thức đƣợc vai trò của giá trị lễ hội ngày nay, từ các chức sắc tôn
giáo đến Đảng và nhà nƣớc phải tiến trình củng cố, phục dựng lại các dữ kiện
văn hóa ở cả hai phƣơng diện vật thể và phi vật thể. Hàng loạt các hoạt động
đã và đang đƣợc thực hiện nhƣ: trùng tu lại chùa chiền, xây dựng các bảo
tàng, tái hiện lại sân khấu nghệ thuật Dù Kê, Rô băm và các loại hình nghệ
thuật dân gian,...
Hỗ trợ kinh phí trùng tu, tôn tạo các Chùa là di tích văn hóa, có công
74
trong khán chiến chống mĩ xâm lƣợc. Hỗ trợ cho các chùa có đƣợc lò hỏa
táng phục vụ nhu cầu tang tế của đồng bào; tạo điều kiện cho các chùa có
đƣợc ghe ngo và dàn nhạc ngũ âm để phục vụ nhu cầu tổ chức lễ hội vui chơi
và giải trí của đồng bào.
Việc gìn giữ lễ hội và chùa Khmer nhằm phát huy vai trò Phật giáo
Nam tông trong cộng đồng tại huyện hòn đát. Đây là hoạt động nền tảng trong
giai đoạn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
nhƣ hiện nay. Chính vì ý nghĩa biểu tƣợng của ngôi chùa, sự gắn kết của
ngƣời Khmer với Phật giáo mà việc gìn giữ và phát huy vai trò của ngôi chùa
đối với đời sống văn hóa của ngƣời Khmer là cấp thiết.
Việc tín đồ thực hiện nghi lễ hay lễ hội đều tập trung tại các ngôi chùa,
thế nên việc xây dựng ngôi chùa để phục vụ nhu cầu này cũng cần thiết. Vì
ngôi chùa luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của ngƣời Khmer.
Hòa thƣợng Kim Rên (Huyện Hòn đất) cho rằng “chùa và chƣ tăng là
trụ cột về tinh thần của ngƣời Khmer, nên mọi nghi thức lễ hội, đón mừng
năm mới…đều diễn ra ở trong chùa”. “Các vị chức sắc: Đại Đức, Thƣợng
Toạ, Mê Kôn, sãi cả, sãi phó có quyền uy tinh thần rất lớn đối với nhân dân.
Các vị sƣ sãi đƣợc nhân dân sùng kính, bởi vì họ là những ngƣời trí thức dạy
dân học chữ, học nghề, tổ chức cuộc sống cho nhân dân, đám cƣới, đám tang.
Khi gia đình có ngƣời ốm đau, bệnh tật, thiên tai, hoạn nạn đều có mặt các vị
sƣ chia bùi sẻ ngọt, tụng kinh làm phƣớc. Họ đã đến với dân chúng trong
những lúc khó khăn nhất mà không cần bất cứ điều kiện nào nên sƣ sãi gắn bó
ruột thịt với nhân dân” và ngƣời Khmer có câu “Sống vào chùa gửi thân, chết
vào chùa gửi cốt”.
Tiểu kết: Các lễ hội truyền thống của Phật giáo nam tông khmer với
nhiều hoạt động đặc sắc, sự ảnh hƣởng của lễ hội tác động đến đời sống chính
trị, kinh tế xã hội ở địa phƣơng. Ngoài các hoạt động lễ hội, Phật giáo nam
75
tông khmer còn có những quy định không chỉ thể hiện trong giới luật nhà Phật
mà còn đƣợc thể hiện trong thực tiễn cuộc sống của con ngƣời. Những tác
dụng xã hội tích cực của Phật giáo đối với cộng đồng ngƣời Khmer đã đƣợc
thực tế chứng minh, nhƣng thực chất ảnh hƣởng giữa Phật giáo và xã hội là
một quá trình tác động qua lại. Ảnh hƣởng của Phật giáo đối với xã hội cũng
luôn có hai mặt. Mặt tích cực là góp phần làm ổn định xã hội nhƣng mặt tiêu
cực cũng dễ dàng bắt nguồn từ mặt tích cực; hiện nay nhiều thế lực xấu trong
và ngoài nƣớc luôn tìm cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ
ngƣời Khmer, chống phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện chính
sách tôn giáo ở vùng nông thôn Khmer cần có sự liên kết với việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc. Chính quyền và các tổ chức đoàn
thể nói chung và ngƣời làm công tác tuyên truyền nói riêng cần có thái độ
bình đẳng, không phân biệt Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer hay Phật
giáo Bắc tông của ngƣời Việt, Hoa trong khu vực. Ngoài ra còn cần phải chú
trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài cho ngƣời
dân Khmer, từng bƣớc xóa đói giảm nghèo để cuộc sống của ngƣời dân tộc
đƣợc cải thiện. Có nhƣ vậy, văn hóa truyền thống và Phật giáo Nam tông mới
76
có thể phát triển một cách bền vững và lâu dài.
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển, Phật giáo Nam tông với những giáo lý sâu
sắc đã trở thành nguồn tƣ tƣởng, niềm tin tác động vào việc hình thành nên lẽ
sống, đạo lý, phong tục tập quán của ngƣời Khmer và toàn thể ngƣời dân
huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Những bài học về nhân quả báo ứng, về vô
ngã vị tha, về thƣơng yêu muôn loài, về nuôi nấng và phát khởi tâm lành, về
giữ gìn trai giới và báo hiếu,... đã trở thành phƣơng châm sống cho đồng bào
Khmer. Cuộc sống dù còn nhiều khó khăn vất vả nhƣng ngƣời Khmer vẫn đối
xử với nhau hết lòng bằng sự chân thành, thuần phác đúng với triết lý của nhà
Phật. Chính sự ảnh hƣởng sâu sắc của Phật giáo Nam tông đã tạo nên những
giá trị nhân bản và đạo đức mà đồng bào Khmer có đƣợc cho đến ngày hôm
nay. Phật giáo Nam tông từ lâu đã trở thành chỗ dựa tinh thần không thể thiếu
đƣợc trong cuộc sống của ngƣời Khmer ở Hòn Đất. Không những thế, Phật
giáo Nam tông khmer còn ảnh hƣởng và chi phối sâu sắc đến mọi mặt đời
sống xã hội của ngƣời Khmer và ngƣời dân trong huyện, từ tƣ tƣởng đến
những hoạt động đời sống hằng ngày, từ đạo đức, lối sống, phong tục tập
quán, tín ngƣỡng, lễ hội đến các quan hệ xã hội của họ. Chu trình sống của
ngƣời Khmer từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi luôn gắn với ngôi chùa và
những lễ nghi sinh hoạt của tôn giáo này. Những ảnh hƣởng tích cực của lễ
hội Phật giáo Nam tông đã mang lại cho ngƣời Khmer và ngƣời dân Hòn Đất
một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú. Những phong tục, tập quán,
những nghi lễ đan xen giữa Phật giáo và các lễ hội dân gian đã trở thành nét
văn hóa truyền thống đặc sắc của ngƣời Khmer, góp phần làm phong phú
thêm nền văn hóa của gia đình các dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên, ảnh hƣởng
của Phật giáo Nam tông trong đời sống tinh thần của ngƣời dân Hòn Đất có
77
mặt tích cực mà còn có cả mặt tiêu cực do những nguyên nhân về địa lý, lịch
sử, dân tộc, kinh tế, xã hội.., trong quá trình xây dựng kiến tạo đời sống mới
văn minh, hiện đại cho cộng đồng ngƣời Khmer hiện nay, cần phát huy những
ảnh hƣởng tích cực, khắc phục và loại bỏ mặt tiêu cực đó. Để làm đƣợc điều
này, tác giả luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhƣ Phát triển kinh
tế- xã hội góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời dân ở
Hòn Đất. Việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp nêu trên sẽ góp
phần để Phật giáo Nam tông tiếp tục đồng hành cùng đồng bào Khmer ở Hòn
Đất nói riêng và ngƣời dân Hòn Đất nói chung, đồng thời hòa nhập cùng
những vận hội mới của dân tộc và thời đại, góp phần xây dựng nền văn hóa
trong đồng bào dân tộc khmer nói riêng và con ngƣời Việt Nam nói chung
78
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. PGS.TS Phan An (2010), Phật giáo tiểu thừa khmer, Tài liệu hội
thảo tôn giáo ở nam bộ; những vấn đề nổi bật, những đáp ứng của chính sách
và nghiên cứu, trang 41.
02. Ban Tƣ tƣởng - Văn hóa trung ƣơng (2000),Vấn đề tôn giáo và
chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam,Nxb Giáo dục, Hà Nội.
03. Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của
BCH (khóa IX) về công tác tôn giáo của Đảng bộ huyện Hòn Đất.
04. Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của
nhiệm kỳ 2010-2015 của Huyện ủy Hòn Đất.
05. Trần Văn Bính (chủ biên - 2004) Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ
- thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
06. Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang, báo cáo khảo sát các tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang.
07. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ ngƣời Khmer Nam Bộ,
sđd: 101 - 102.
08. Ban Tôn giáo Chính phủ: Ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối
với đời sống văn hóa đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long,
http://btgcp.gov.vn
09. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), sự hình thành cộng đồng ngƣời khmer
vùng đồng bằng sông cửu long, sđd, trang 222.
10. Nguyễn Mạnh Cƣờng, Nguyễn Minh Ngọc (2004), Tôn giáo - Tín
ngƣỡng của các cƣ dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Phƣơng Đông,
Tp. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2008), Phật giáo Khơ Me Nam Bộ (những
79
vấn đề nhìn lại), Nxb Tôn giáo và Nxb Hà Nội.
12. Đoàn Trung Còn, Phật học Từ điển, NXB Tổng Hợp TP.HCM,
trang 1361, 1362, năm 2011.
13. Nguyễn Đức Dũng (2012), Góp phần hoàn thiện chính sách đối với
Phật giáo Nam tông Khmer”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6), tr.48–51.
14. Võ Văn Dũng(2015), So sánh sự giao lƣu Phật giáo và phong tục
tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê Kông, Hội thảo Quốc tế Phật
giáo vùng Mê- Kông, quyển 1, tr 362.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ƣơng khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tòn
quốc lần thứ khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Bùi Minh Đạo (2006), Dân tộc Khơ me trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng quốc gia Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, (5), tr. 45–46.
18. Hoàng Mạnh Đoàn (2006), “Một số vấn đề về văn hóa tâm linh của
ngƣời Khơ me hiện nay dƣới góc độ tâm lý học”, Tạp chí Dân tộc học, (4), tr.
48–51.
19. Lê Thị Hằng, học viện chính trị khu vực IV, bài Văn hóa truyền
thống của đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, tạp chí Lý luận chính trị
t4/2017.
20. Hồ Trọng Hoài (2015), “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa Khmer và
Phật giáo Nam Tông Khmer vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020, tầm nhìn
2030”, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nƣớc: Chính sách tổng thể
đối với đồng bào Khmer và Phật giáo Nam Tông Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội.
21. Trần Xuân Hoàng (chủ biên - 2000), Kiên Giang điểm hẹn, Nxb
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
80
22. PGS.TS Nguyễn Thị Hòa Hới, Lễ hội Việt Nam, tr 34-35.
23. Đỗ Minh Hợp, Tôn giáo lý luận xƣa và nay, Nhà xuất bản tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr 285.
24. Phạm Thị Hằng, Phật giáo nam tông khmer với sự phát triển bền
vững khu vực Tây Nam bộ, tạp chí khoa học xã hội Việt Nam
http://vssr.vass.gov.vn.
25. Nguyễn Đức Lộ, Cấu hình làng xã Cộng đồng công giáo bắc di cƣ
tại Nam bộ, Nhà xuất bản Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr 30.
26. Nguyễn Đức Lữ, Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa,
tạp chí triết học, số 11 (186, tháng 11 năm 2006)
27. Phòng thống kê huyện Hòn Đất, Niên giám thống kê 2017.
28. Cao Xuân Phổ (2004), Văn hóa Phật giáo của ngƣời Khơ me Nam
Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (2), tr. 47-51
29. PGS.TS. Vƣơng Xuân Tình có các cuốn nhƣ: nhân học tôn giáo và
tôn giáo, tín ngƣỡng của các dân tộc thiểu số ở việt nam, cuốn Xung Đột Và
Giải Xung Đột Tộc Ngƣời Vùng Tây Nam Bộ, cuốn Các dân tộc ở Việt Nam
trong đó có dân tộc Khmer Tập 3 Nxb chính trị quốc gia Hà Nội (2007);
30. Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,
Nhà xuất bản Văn hóa, văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, tr 56.
31 . Bùi Thị Hải Yến, Du lịch Cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
81
Nam, 2012, tr 31.
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Đại diện lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện, các ban, ngành đoàn thể huyện và
Thƣờng trực Đảng ủy, UBND, các ban ngành, đoàn thể xã đến thăm, chúc tết
các Chùa khmer Lình Huỳnh nhân dịp lễ, tết đồng bào dân tộc khmer
82
Bà con phật tử đem cơm đến Chùa Chòm Chuối huyện Hòn Đất nhằm
gửi công đức cho Ông, Bà, cha, mẹ nhân Lễ seldota
Chuẩn bị lễ tắm phật nhân dịp lễ Chol chnam thmay
83
ở Chùa khmer Lình Huỳnh
84
Kiến trúc cổng Chùa Khmer Sakararansĩ Lình Huỳnh, huyện Hòn Đất
Trò chơi dân gian của ngƣời khmer tại lễ hội Chol Chnam thmay
Đua ghe ngo ở huyện Hòn Đất nhân dịp lễ ok om bok của đồng bào
85
khmer