BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lại Thị Kim Cúc

BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG

HOẠT ĐỘNG CA HÁT Ở TRƯỜNG MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lại Thị Kim Cúc

BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG

HOẠT ĐỘNG CA HÁT Ở TRƯỜNG MẦM NON

Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)

Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM THU HƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào

khác.

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Phạm Thu Hương -

người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.

Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với:

Các thầy giáo, cô giáo khoa Giáo Dục Mầm Non, Ban giám hiệu, phòng Quản lý

khoa học, Thư viện trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ em

trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Ban giám hiệu, tập thể các cô giáo cùng các cháu mẫu giáo các trường mầm non ở

TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai: Trường Mầm non Hướng Dương, trường Mầm non Hoa

Mai, trường Mầm non Hòa Bình, trường Mầm non Hố Nai, trường Mầm non Tân Biên,

trường Mầm non Trảng Dài đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em tiến hành nghiên cứu và

thực nghiệm để hoàn thành luận văn.

Cám ơn gia đình, anh chị đồng nghiệp, bạn bè đã hết lòng giúp đỡ, khích lệ, động

viên trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn !

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 12 năm 2014

Tác giả

Lại Thị Kim Cúc

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ cái viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục biểu đồ

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG

CA HÁT .................................................................................................... 4

1.1. Lịch sử nghiên cứu về sáng tạo ............................................................................ 4

1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới về sáng tạo .............................................................. 4

1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam về sáng tạo .................................................... 5

1.2. Cơ sở lý luận về sáng tạo ..................................................................................... 6

1.2.1. Khái niệm sáng tạo ......................................................................................... 6

1.2.2. Đặc điểm của sáng tạo .................................................................................... 8

1.2.3. Các cấp độ của sáng tạo .................................................................................. 9

1.3. Khả năng sáng tạo của trẻ mầm non .................................................................. 11

1.3.1. Khả năng sáng tạo của trẻ mầm non ............................................................. 11

1.3.2. Đặc điểm sáng tạo trẻ mầm non ................................................................... 11

1.3.3. Vai trò sáng tạo đối với sự phát triển của trẻ mầm non ................................ 13

1.3.4. Các điều kiện phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non ........................ 14

1.4. Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động ca hát ở

trường mầm non ............................................................................................... 17

1.4.1. Khái niệm ca hát ........................................................................................... 17

1.4.2. Ý nghĩa của hoạt động ca hát đối với trẻ mầm non ...................................... 17

1.4.3. Các biện pháp hướng dẫn trẻ trong hoạt động ca hát ................................... 18

1.4.4. Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt

động ca hát ................................................................................................... 20

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 23

Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BIỆN PHÁP PHÁT HUY

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG

HOẠT ĐỘNG CA HÁT Ở TRƯỜNG MẦM NON ........................... 24

2.1. Khái quát điều tra thực trạng .............................................................................. 24

2.1.1. Mục đích điều tra .......................................................................................... 24

2.1.2. Đối tượng điều tra ......................................................................................... 24

2.1.3. Địa bàn điều tra ............................................................................................. 24

2.1.4. Thời gian điều tra .......................................................................................... 24

2.1.5. Nội dung điều tra .......................................................................................... 24

2.1.6. Phương pháp điều tra .................................................................................... 25

2.2. Phân tích kết quả điều tra thực trạng .................................................................. 25

2.2.1. Thực trạng về nhận thức của giáo viên trong việc tổ chức HĐCH

nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi ..................................... 25

2.2.2. Thực trạng về việc xây dựng giáo án để tổ chức HĐCH cho trẻ

5 - 6 tuổi ....................................................................................................... 35

2.2.3. Thực trạng về việc tổ chức hoạt động ca hát của trẻ 5 - 6 tuổi. .................... 37

2.2.4. Thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH ..................................... 40

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 45

Chương 3. THỰC NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG HĐCH Ở

TRƯỜNG MẦM NON .......................................................................... 46

3.1. Xây dựng các biện pháp tổ chức HĐCH cho trẻ ................................................ 46

3.1.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp tổ chức HĐCH cho trẻ ....................... 46

3.1.2. Các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong

HĐCH .......................................................................................................... 47

3.1.3. Cách thức sử dụng các biện pháp ................................................................. 53

3.2. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................................ 54

3.2.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................................. 54

3.2.2. Đối tượng, phạm vi và thời gian thực nghiệm .............................................. 55

3.2.3. Điều kiện tiến hành thực nghiệm .................................................................. 55

3.2.4. Nội dung thực nghiệm .................................................................................. 56

3.2.5. Tiêu chí đánh giá .......................................................................................... 56

3.2.6. Tiến trình thực nghiệm ................................................................................. 57

3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm ........................................................................... 57

3.3.1. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng ở trường

MN Hướng Dương - nội thành TP Biên Hòa ............................................... 57

3.3.2. So sánh kết quả giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm ở trường

MN Hố Nai – ngoại thành TP Biên Hòa ...................................................... 59

3.3.3. So sánh hai nhóm thực nghiệm ở hai trường MN Hướng Dương và

MN Hố Nai ................................................................................................... 60

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 63

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 67

PHỤ LỤC

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ĐC

: Đối chứng

HĐCH

: Hoạt động ca hát

MN

: Mầm non

TN

: Thực nghiệm

TP

:

Thành Phố

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về sáng tạo .............................. 25

Bảng 2.2. Khảo sát về biểu hiện sáng tạo của trẻ ....................................................... 26

Bảng 2.3. Khảo sát nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ

trong HĐCH ............................................................................................... 27

Bảng 2.4. Khảo sát về tần suất tổ chức hoạt HĐCH trong tháng ............................... 29

Bảng 2.5. Khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về việc tổ chức cho trẻ

sáng tạo trong HĐCH. ............................................................................... 30

Bảng 2.6. Khảo sát tần suất tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH ........................... 31

Bảng 2.7. Khảo sát các biện pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong

HĐCH ........................................................................................................ 32

Bảng 2.8. Những khó khăn giáo viên gặp khi giúp trẻ phát huy khả năng

sáng tạo trong HĐCH ................................................................................ 33

Bảng 2.9. Tiêu chí đánh giá giáo án của giáo viên..................................................... 36

Bảng 2.10. Tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH ........................ 40

Bảng 2.11. Tổng hợp và đánh giá chung về khả năng sáng tạo của trẻ

5 - 6 tuổi trong HĐCH ............................................................................... 43

Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả đầu vào tại 2 trường mầm non

Hướng Dương và mầm non Hố Nai ........................................................... 56

Bảng 3.2. Kết quả xếp loại của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng trường

MN Hướng Dương ..................................................................................... 57

Bảng 3.3. Kết quả xếp loại của hai nhóm TN và ĐC trường MN

Hố Nai ........................................................................................................ 59

Bảng 3.4. Kết quả đánh giá xếp loại theo các mức độ hai nhóm thực nghiệm

của hai trường MN Hướng Dương và MN Hố Nai. ................................. 60

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng của

trường MN Hướng Dương ....................................................................... 58

Biểu đồ 3.2. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng của

trường MN Hố Nai .................................................................................. 59

Biểu đồ 3.3. So sánh hai nhóm thực nghiệm ở hai trường MN Hướng Dương

và MN Hố Nai ......................................................................................... 61

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, con người thường xuyên

phải suy nghĩ và hành động để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống

hàng ngày. Có thể nói hoạt động của con người trong những ngành nghề khác nhau

cũng đều liên quan đến sáng tạo. Từ đây, việc rèn luyện khả năng sáng tạo là vô cùng

cần thiết trong hoạt động giáo dục và nhất là trong giáo dục trẻ em như John Dewey

nhận xét: "Mục đích giáo dục trẻ em không phải là thông tin về những giá trị của quá

khứ, mà là sáng tạo những giá trị mới của tương lai”.

Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi tràn ngập xúc cảm, trí tò mò, trí tưởng tượng bay

bổng và khả năng liên tưởng mạnh. Do đó trẻ rất dễ dàng sáng tạo, tuy mới chỉ là

những dấu hiệu ban đầu, nhưng nó cũng là một trong những yếu tố, những điều kiện

hết sức quan trọng cho việc hình thành nhân cách trưởng thành của trẻ về sau. Vì vậy

đây là giai đoạn tối ưu, là "mảnh đất" mầu mỡ nhất để khả năng sáng tạo tiềm ẩn của

trẻ được phát hiện và phát triển.

Giáo dục âm nhạc là hoạt động nghệ thuật có tác dụng giáo dục thẩm mỹ ngoài ra

nó còn giúp trẻ phát triển trí tuệ, giúp trẻ có khả năng trải nghiệm những cảm xúc

trong quá trình cảm thụ và thể hiện âm nhạc. Đối với đặc điểm của lứa tuổi mẫu giáo,

giáo dục âm nhạc không chỉ dừng lại ở việc dạy hát, múa đơn giản mà còn tạo điều

kiện cho trẻ sáng tạo phù hợp với khả năng của mình. Một khi giáo viên mầm non tổ

chức hoạt động phù hợp có mục đích, sẽ giúp trẻ trải nghiệm âm nhạc một cách tích

cực, vui tươi tạo cảm giác hưng phấn, hình thành ở trẻ khả năng tự tin, mạnh dạn tạo

tiền đề thành công cho trẻ trong tương lai.

Hiện nay việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non nói chung và việc thực

hiện chương trình giáo dục âm nhạc nói riêng, đã tạo điều kiện linh hoạt cho giáo viên

chủ động xác định, lựa chọn và tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú. Bên cạnh

đó, qua nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế, chúng tôi nhận thấy lứa tuổi mầm non từ

5 - 6 tuổi, trẻ đã có sự phát triển tương đối đầy đủ về thể chất và trí tuệ, trẻ cũng bắt

đầu có những sự độc lập trong các hoạt động cơ bản của con người như tư duy, tình

2

cảm, ngôn ngữ. Trong bất cứ hoạt động nào, trẻ cũng có khuynh hướng khám phá, thử

nghiệm, tìm ra cái mới lạ.

Tuy nhiên trên thực tế, các giáo viên mầm non chưa tạo điều kiện để trẻ bộc lộ

việc cảm thụ âm nhạc bằng chính hoạt động của mình. Các biện pháp trong hoạt động

ca hát còn đơn điệu, nhàm chán, trẻ không hứng thú, không tự do thoải mái qua các

giai điệu, câu từ mà đáng lẽ ra trẻ có thể sáng tạo theo khả năng của mình.

Xuất phát từ những lý do trên mà đề tài: “Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo

của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường mầm non” được xác lập.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng việc tạo cơ hội cho trẻ sáng tạo và đề ra một số biện pháp

nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường

mầm non.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của sáng tạo, đặc điểm sáng tạo trẻ em và các biện

pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát.

3.2. Nghiên cứu thực tiễn các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi.

3.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động

ca hát.

4.2. Khách thể nghiên cứu

Phương pháp giáo dục âm nhạc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu sử dụng hợp lý một số biện pháp sư phạm có thể nâng cao khả năng sáng tạo

của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát.

6. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu

- Nghiên cứu các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6

3

tuổi trong hoạt động ca hát trên giờ học âm nhạc.

- Điều tra thực trạng ở một số trường mầm non thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai.

- Thực nghiệm được tiến hành ở trường mầm non Hướng Dương và trường mầm

non Hố Nai thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu các tài liệu, các công trình nghiên cứu, phân tích tổng hợp, hệ thống

hóa các quan điểm lý luận có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp quan sát: dự giờ, quan sát hoạt động ca hát để thấy được thực

trạng tổ chức hoạt động ca hát.

- Phương pháp điều tra: điều tra giáo viên bằng bảng hỏi để thấy được thực trạng

tổ chức hoạt động ca hát.

- Phương pháp phân tích sản phẩm: nghiên cứu, quan sát, phân tích và đánh giá

khả năng ca hát của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.

7.3. Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt

động ca hát.

7.4. Phương pháp thống kê toán học

Xử lý các số liệu thu được.

8. Những đóng góp mới của đề tài

- Cơ sở lý luận khoa học về sáng tạo, sáng tạo của trẻ mầm non và sáng tạo trong

hoạt động ca hát của trẻ mầm non.

- Thực trạng về khả năng sáng tạo của trẻ và thực trạng các biện pháp phát huy

khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường mầm non thuộc

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Xây dựng các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

trong hoạt động ca hát.

4

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT HUY

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG CA HÁT

1.1. Lịch sử nghiên cứu về sáng tạo

1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới về sáng tạo

Nguồn gốc của từ sáng tạo bắt nguồn từ chữ “Creare” trong tiếng Latinh. Vào thế

thứ III, nhà toán học Papp người Hy Lạp, ở thành phố Alexandria là người đã đặt nền

móng khởi đầu cho khoa học về sáng tạo và từ “Ơristic” lần đầu tiên được xuất hiện

trong những công trình của nhà toán học Hy Lạp. Sau đó nhà toán học triết học nổi

tiếng như Descrartes, Leibnitz, Bernard Bolzano đã cố gắng thành lập hệ thống Ơristic.

Khi nói đến sáng tạo người ta thường đề cập đến những thiên tài trong các lĩnh

vực khoa học, nghệ thuật như: Albert Einstein, Lev Nikolayevich Tolstoy, Isaac

Newton, Leonardo da Vinci… Mặt khác, khi nói đến sáng tạo người ta giải quyết vấn

đề sáng tạo theo góc độ chuyên môn riêng, chẳng hạn các nhà nghiên cứu lịch sử phát

triển khoa học kỹ thuật bỏ qua mặt tâm lý học của quá trình sáng tạo. Ngược lại, các

nhà tâm lý học quan tâm hơn hết những nét đặc biệt về sáng tạo của các nhà sáng chế

xuất sắc mà ít tính đến quy luật khách quan của sự phát triển khoa học kỹ thuật.

Giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội đã khẳng định bản chất của tính tích cực sáng

tạo là hoạt động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà kích thích khả năng sáng

tạo. Quan điểm này gần với quan điểm của các nhà tâm lý học ngày nay.

Đến thế kỷ XX, là một thời điểm bước ngoặt trong lịch sử phát triển nhân loại,

với sự tiến bộ vượt bậc của các lĩnh vực khoa học, nhiều thành tựu khoa học được

công bố. Đặc biệt, xuất hiện nhu cầu nghiên cứu hoạt động sáng tạo trong khuôn khổ

của sự phát triển tâm lý cũng như sự phát triển trí tuệ. Do đó, quốc gia nào càng có nền

khoa học kỹ thuật phát triển bao nhiêu thì càng tập trung nghiên cứu về lĩnh vực sáng

tạo bấy nhiêu.

5

Vào thời điểm này, nước Mỹ là một quốc gia có nền khoa học kỹ thuật phát triển

hàng đầu thế giới. Các công trình nghiên cứu về sáng tạo của Lewis Terman trên

những học sinh giỏi được đánh giá rất cao. Sau đó, ông tiếp tục nghiên cứu các lĩnh

vực và rút ra những kết luận về vấn đề chung của sáng tạo như: môi trường sáng tạo,

vấn đề nhân cách sáng tạo, sản phẩm sáng tạo…

Vấn đề sáng tạo được nghiên cứu hệ thống vào những năm 50 của thế kỷ XX, khi

chủ tịch hội tâm lý học Mỹ J.P Guilford, nguyên là giáo sư trường đại học tổng hợp ở

miền nam California. Ông nhận xét: “ Không có một hiện tượng tâm lý nào đã bị coi

thường trong suốt một thời gian dài và đồng thời lại được quan tâm trở lại một cách

bất ngờ như là hiện tượng sáng tạo” (J.P Guilford, 1967). Từ đây việc bồi dưỡng nhân

cách sáng tạo là vô cùng cần thiết, “ hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không

chỉ đến sự tiến bộ khoa học, mà còn đến toàn bộ xã hội nói chung và dân tộc nào biết

nhận ra được những nhân cách sáng tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo

ra một cách tốt nhất cho họ những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có được

những ưu thế lớn lao” (C. W Taylor, 1964) [ 25, 2].

Từ đây, các công trình nghiên cứu về sáng tạo được xuất bản như: May (1961),

Mackinon ( 1962), Yamanoto (1963), ... Ngoài ra nhiều tác giả khác của Mỹ cũng

nghiên cứu vấn đề sáng tạo như: Barron, Blom, Helmholtz,…

Từ năm 60, 70 không chỉ ở Mỹ, Liên Xô mà Tây Âu , đặc biệt ở Đức do nhận ra

ý nghĩa phát triển kinh tế xã hội cũng như ý nghĩa phát triển cá nhân của tư duy sáng

tạo mà vấn đề sáng tạo dưới cách nhìn của Tâm lý học, Giáo dục học và Xã hội học

được quan tâm nghiên cứu thích đáng, đặc biệt là trong Tâm lý học phát triển, Tâm lý

học nhân cách.

1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam về sáng tạo

Năm 1990 , Viện khoa học giáo dục thuộc Bộ giáo dục đào tạo là cơ quan khoa

học đầu tiên đã tiến hành nghiên cứu khả năng sáng tạo của học sinh. Các công trình

nghiên cứu này quan tâm đến bản chất, cấu trúc tâm lý của sáng tạo, phương pháp

chẩn đoán, đánh giá khả năng sáng tạo và con đường giáo dục, phát huy khả năng sáng

tạo của người Việt Nam. Nhìn chung các công trình nghiên cứu về sáng tạo còn khá

mới mẻ, với những đóng góp của các Tiến sĩ, Thạc sĩ như sau:

6

- Luận án Tiến sĩ của Lê Thanh Thủy nghiên cứu về: “Ảnh hưởng của tri giác tới

tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 - 6 tuổi ”.

- Luận án Tiến sĩ của Trương Bích Hà nghiên cứu về: “Tưởng tượng sáng tạo

hành động của sinh viên trường Đại học sân khấu điện ảnh”.

- Luận văn Thạc sĩ của Phạm Thu Hương nghiên cứu: “ Tiềm năng sáng tạo và

biểu hiện của nó trong vận động theo nhạc của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi”.

- Luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị Kiều Trang nghiên cứu về: “Phát huy tính sáng

tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong trò chơi lắp ghép xây dựng từ các nguyên vật liệu

thiên nhiên và phế liệu”.

- Luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Hoàng Trang nghiên cứu về: “Một số biện pháp

phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong vận động theo nhạc”

- Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Ngọc Kim nghiên cứu về:

“Một số biện pháp bồi dưỡng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua

hoạt động vẽ theo ý thích”.

- Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của Ngô Thị Tuyết Mai nghiên cứu về: “Biện

pháp phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi đóng kịch”.

- Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của Phạm Thị Nguyên Chi nghiên cứu về: “

Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại góc tạo hình”.

Ngoài ra một số tác giả về sách Tâm lý học sáng tạo, giáo trình Tâm lý học sáng

tạo cũng như các bài giảng về Tâm lý học sáng tạo như: PGS – TS Nguyễn Huy Tú,

TS. Nguyễn Đức Uy, TS. Trần Tuấn Lộ, TS. Vũ Kim Thanh, Thạc sĩ Đinh Minh

Châu, Thạc sĩ Trần Thị Nga…

1.2. Cơ sở lý luận về sáng tạo

1.2.1. Khái niệm sáng tạo

Để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, việc tìm ra các biện pháp thích hợp để kích

thích, phát huy, khả năng sáng tạo của con người đang là vấn đề được quan tâm của

các nhà nghiên cứu. Thế nhưng, hiện nay có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi: “ Sáng

tạo là gì?”, hay rất nhiều quan niệm khác nhau về sáng tạo.

Theo nhà phân tâm học Freud: “ Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hình, là

sự tiếp tục và sự thay thế trò chơi trẻ con cũ” [37, 28]. Khi đứa trẻ ngừng chơi nó có

7

thể khước từ được các khoái cảm mà trước đó trò chơi đã đem lại cho nó, các trò chơi

được thay thế bằng những giấc mơ hiện hình hay những trò chơi tưởng tượng. Ông

nói: “Thay vì chơi, giờ đây nó tưởng tượng. Nó xây dựng những tòa lâu đài trong

không khí, tạo ra những cái mà người ta gọi là những giấc mơ hiện hình”[38,30].

Thierry Gaudin, người phụ trách trung tâm dự báo và khảo cứu (CPE) thuộc Bộ

Nghiên cứu khoa học và Công nghệ của Pháp. Ông cho rằng: “Trò chơi là một sự thăm

dò những cái có thể và một sự học tập. Ai không chơi thì người đó đã thu hẹp trường

tri giác và sáng tạo của họ” [37,29].

Nhà tâm lý học Mỹ M.Willson, “ Sáng tạo là quá trình mà kết quả là tạo ra những

kết hợp mới cần thiết từ các ý tưởng dạng năng lượng, các đơn vị thông tin, các khách

thể hay tập hợp của hai ba các yếu tố nêu ra” [38,18].

Người ta thường thấy hoạt động sáng tạo chỉ có ở một số ít thiên tài, hoặc người

có tài năng xuất chúng như: Einstein, Newton, Mozart, Darwin… Nhưng theo

Vygotsky khẳng định: “ Sự sáng tạo thật ra không chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác

phẩm lịch sử vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và

tạo ra một cái gì mới cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi nữa so với những sáng tạo

của thiên tài” [17, 13]. Ông còn cho rằng: “Hoạt động sáng tạo là bất cứ hoạt động nào

của con người tạo ra được một cái gì mới, không kể rằng cái được tạo ra ấy là một vật

nào đó của thế giới bên ngoài hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm chỉ

sống và biểu lộ trong bản thân con người” [17, 5].

Trong sách “Tâm lý học văn nghệ”, giáo sư Chu Quang Tiềm thuộc đại học Bắc

Kinh đã định nghĩa sáng tạo là: “Căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm tài liệu rồi

cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng mới” [27,295].

Ở Việt Nam, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về sáng tạo. Trong từ điển

Tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên): “Sáng tạo là tạo ra cái mới, cách giải quyết mới,

không phụ thuộc vào cái đã có” [22].

Từ điển Tiếng Việt của tác giả Như Ý: “Sáng tạo là tìm thấy và làm nên cái

mới” [39].

Theo từ điển Triết học, “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra

những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác định bởi

8

đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, nghệ thuật, tổ chức quân sự. Có thể nói

sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần” [4,7].

Theo Trần Hiệp và Đỗ Long trong “ Sổ tay tâm lý học” có viết “Sáng tạo là hoạt

động tạo lập phát hiện những giá trị vật chất và tinh thần. Sáng tạo đòi hỏi cá nhân

phải phát huy năng lực, phải có động cơ, tri thức, kỹ năng và với điều kiện như vậy

mới tạo nên sản phẩm mới, độc đáo, sâu sắc” [10,34].

PGS-TS Nguyễn Huy Tú định nghĩa: “Sáng tạo thể hiện khi con người đứng

trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ

đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý

tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt

bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới, độc đáo và thích

hợp cho vấn đề đặt ra” [32,5].

TS Nguyễn Đức Uy cho rằng: “Sáng tạo là sự đột khởi thành hành động của một

sản phẩm liên hệ mới mẻ, nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân và những tư liệu,

biến cố, nhân sự, hay những hoàn cảnh của đời người ấy” [37,9].

Tóm lại, theo chúng tôi sáng tạo là vận dụng những kinh nghiệm của bản thân,

cải biến những sản phẩm có sẵn để tạo ra những sản phẩm mới có ý nghĩa, lợi ích cho

xã hội và cho bản thân.

1.2.2. Đặc điểm của sáng tạo

Sáng tạo được bộc lộ ở ba tính chất hay ba thuộc tính cơ bản: tính mới mẻ, tính

độc lập và tính tối lợi [32, 3-4].

- Sáng tạo bộc lộ tính mới mẻ trong sản phẩm của tư duy hay hành động. Tính

mới mẻ này có thể đối với cá nhân hay xã hội. Và sáng tạo của các nhà khoa học, nhà

phát minh sáng chế có tính mới mẻ trên bình diện xã hội.

Sáng tạo của tuổi học trò không nhất thiết phải có ý nghĩa toàn xã hội mà chỉ là

đối với bản thân. Do đó, mặc dù không mang lại cái mới cho xã hội nhưng học tập

sáng tạo của học sinh có ý nghĩa xã hội to lớn vì ở đó nhân cách của trẻ được rèn luyện

để trở thành người sáng tạo sau này.

- Tính độc lập trong tư duy và hành động là đặc trưng thứ hai của sáng tạo, chính

tư duy độc lập làm tiền đề nảy sinh những ý tưởng mới, phương pháp mới, giải pháp

9

mới. Điều kiện quan trọng để phát triển tính độc lập tư duy là việc đặt trẻ em và người

lớn trước vấn đề mà họ phải đi đến đích bằng con đường giải quyết vấn đề đó. Khi rơi

vào hoàn cảnh có vấn đề, nếu họ thử nghiệm độc lập để tìm giải pháp càng trệch xa

với thông thường thì càng được đánh giá là có tính sáng tạo, người sáng tạo tránh lặp

lại cách giải quyết cũ đã có bằng sự hoài nghi, muốn từ bỏ cách truyền thống, thậm chí

từ bỏ cách truyền thống. Họ cố gắng đưa ra các ý tưởng mới, cách thức mới để thực thi

ý tưởng độc đáo, khác lạ với thông thường ấy của mình.

- Tính tối lợi được thể hiện trong giá trị của sản phẩm mới. Quá trình sáng tạo tạo

ra sản phẩm mới luôn có mối liên quan đến hiện thực, sáng tạo không chỉ là sự đoạn

tuyệt của hiện thực mà là sự phản ánh hiện thực tối đa như trong tính mới, chất lượng

mới và với mục đích mới.

Khi nói đến sáng tạo người ta thường nghĩ tới việc tạo ra cái mới, độc đáo, tốt

hơn, có lợi hơn cho sự phát triển xã hội. Điều này có vẻ trái ngược khi người ta nghiên

cứu sản phẩm do trẻ làm ra thì không độc đáo, không đẹp hơn, không lợi hơn nhưng

điều sâu xa là chúng ta tập cho trẻ cách sáng tạo. Như vậy, việc giúp cho trẻ trở thành

người sáng tạo là việc có ý nghĩa xã hội to lớn mà ngay chính đứa trẻ cũng chưa ý thức

được, mà trẻ chỉ thấy sự thoải mái được thực hiện những điều chúng tưởng tượng ra.

Tóm lại, xét trên bình diện toàn xã hội thì học tập là hoạt động tái tạo. Nhưng

trên bình diện cá nhân thì hoạt động học tập có thể là hoạt động sáng tạo – sáng tạo

cho bản thân mình, vì vậy được gọi là sáng tạo đặc biệt. Còn sáng tạo khoa học là sáng

tạo cho người khác. Học tập sáng tạo là sự tổng hợp của học tập tái tạo và sáng tạo,

chất lượng sáng tạo của học tập được thể hiện ở chỗ người học tự mình đi tìm những

thông tin cần cho giải quyết vấn đề, huy động thông tin cần thiết từ trí nhớ một cách

đúng lúc và lập được mối liên hệ giữa tri thức đã có phục vụ quá trình tìm cái mới.

1.2.3. Các cấp độ của sáng tạo

Theo tác giả Taylor (1974) sáng tạo có thể phân chia ra năm cấp độ như

sau [9,11]:

1. Sáng tạo biểu hiện: là dạng cơ bản nhất của sáng tạo, không đòi hỏi tính độc

đáo hay kỹ năng quan trọng nào. Đặc trưng của cấp độ sáng tạo này là tính bộc phát

“hứng khởi” và sự tự do khoáng đạt.

10

2. Sáng tạo chế tạo: là bậc cao hơn sáng tạo biểu hiện. Nó đòi hỏi kỹ năng nhất

định (xử lý thông tin hoặc kỹ năng, kỹ thuật…) để thể hiện rõ ràng, chính xác các ý

kiến của cá nhân. Ở cấp độ này tính tự do, hứng khởi bộc phát đã nhường bước cho

các quy tắc trong khi thể hiện cái tôi của sáng tạo.

3. Sáng tạo phát kiến: có đặc trưng là sự phát hiện hoặc “tìm ra” do “nhìn thấy”

các quan hệ mới giữa các thông tin trước đây. Đây chưa phải là cấp độ sáng tạo cao

nhất mà chỉ là chế biến các thông tin cũ và sắp xếp lại chúng để đi đến các quan hệ

mới và đó chính là sự xuất hiện sáng kiến hay phát kiến.

4. Sáng tạo cải biến (đổi mới, cải cách): là cấp bậc sáng tạo cao. Nó thể hiện sự

am hiểu sâu sắc các kiến thức khoa học hoặc nghệ thuật, kỹ thuật hay sản xuất, tức đòi

hỏi một trình độ nhất định. Từ đó xây dựng được các ý tưởng cải tạo, cải cách có ý

nghĩa xã hội và khoa học kỹ thuật. Lackben cho rằng dự án trong đầu càng xa với ban

đầu bao nhiêu thì sự sáng tạo càng lớn hơn bấy nhiêu.

5. Sáng tạo cao nhất là những ý tưởng làm nảy sinh ngành mới, nghề mới,

trường phái mới, vượt quá cả trí tuệ đương thời. Đại điện cho những người đạt cấp bậc

này là; Einstien trong vật lý học, Picasso trong hội họa, Chopin trong âm nhạc, Darwin

trong sinh vật học, K.Marx, Hồ Chí Minh trong xã hội, khoa học và chính trị [31,16].

Sáng tạo của trẻ em thường ở cấp bậc thấp nhất, đó là sáng tạo biểu hiện. Nó

không đòi hỏi trẻ phải có kỹ năng cao hay thật nhiều kinh nghiệm, trẻ sáng tạo hoàn

toàn là tự do, không bị áp đặt và vượt ra khỏi khuôn khổ, đây là bậc quan trọng nhất

của sáng tạo. Người ta có thể quan sát hai đặc trưng của cấp độ này ở bất kỳ tầng bậc

sáng tạo nào về sau. Nếu sự hứng khởi và sự tự do khoáng đạt bị hạn chế, bị gò ép vào

khuôn phép ngay từ lúc nảy mầm thì rất có hại cho sự sáng tạo.

Ví dụ, trong giờ hoạt động âm nhạc của trẻ, chẳng hạn như hoạt động ca hát, giáo

viên mầm non thường cho trẻ hát theo, việc ca hát của trẻ chỉ dừng ở mức độ giống

mẫu của cô. Trong giờ hoạt động góc hoặc những lúc trẻ ngẫu hứng muốn hát theo sở

thích của mình dựa trên nhạc có sẵn, hay sửa đổi một số từ của lời bài hát theo ý thích

của mình thì nhận được sự không đồng tình của giáo viên, cho rằng trẻ đã hát sai và áp

đặt trẻ hát đúng như cách cô đã dạy. Giáo viên đã không tạo nhiều cơ hội cho trẻ được

trải nghiệm và thường nghĩ sáng tạo đồi với trẻ là vô cùng khó khăn, trẻ sẽ không làm

11

được. Có thể nói, niềm vui sáng tạo của trẻ đã bị tước mất khiến trẻ không còn hứng

thú với việc thể hiện ý tưởng của cá nhân mình. Do đó người lớn đã vô tình làm mất

niềm vui sáng tạo của trẻ.

Như vậy, nếu như ngay từ đầu chúng ta làm hạn chế những biểu hiện sáng tạo

của trẻ thì dần dần sẽ trở thành thói quen, ngấm dần vào trong tư duy của con người và

đi đến thụ động, máy móc. Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này Đảng và nhà

nước ta có chủ tương trong giáo dục mầm non là lấy “trẻ làm trung tâm” theo sát từng

đối tượng và phát huy mọi tiềm năng và khuyến khích trẻ bộc lộ khả năng trong mọi

lĩnh vực hoạt động một cách tối đa nhất. (nghị định 51/CP của hội đồng chính phủ).

1.3. Khả năng sáng tạo của trẻ mầm non

1.3.1. Khả năng sáng tạo của trẻ mầm non

Khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định.

Khả năng sáng tạo là sự hội tụ của nhiều yếu tố như: khả năng nhận thức, tính cách

cá nhân, cảm xúc và những yếu tố từ môi trường.

Ở lứa tuổi mầm non, trong bất cứ hoạt động nào trẻ cũng tỏ ra ngạc nhiên, tò mò

và có khuynh hướng khám phá, thử nghiệm. Do vậy, nếu một đứa trẻ không có khả

năng sáng tạo thì không hẳn do trẻ vốn đã thiếu khả năng sáng tạo mà có thể xuất phát

từ gia đình, trường học và môi trường văn hóa mà trẻ tiếp nhận.

Khả năng sáng tạo được thể hiện rõ rệt ở trẻ 5 - 6 tuổi vì ở tuổi này trẻ đã bắt đầu

thích nghi với những điều xảy ra xung quanh thông qua việc học, chơi và biết chủ

động tham gia nhiều hoạt động khác nhau, từ đó trẻ tích lũy và biết cách phát huy khả

năng sáng tạo của mình.

1.3.2. Đặc điểm sáng tạo trẻ mầm non

Sáng tạo của trẻ mầm non có những đặc điểm như sau:

- Sáng tạo của trẻ biểu hiện một cách tự phát, độc lập với ý muốn của người lớn.

- Sáng tạo của trẻ cũng như trò chơi về căn bản chưa tách khỏi hứng thú cá nhân và

đời sống cá nhân.

- Sáng tạo của trẻ bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu có trước, một nhu cầu cấp

bách tự nhiên và điều kiện tồn tại của trẻ.

12

- Trẻ không phải ngẫu nhiên tập trung vào việc sáng tạo, mà chính sáng tạo cho

phép trẻ ở lứa tuổi này có thể dễ dàng thể hiện hơn hết những điều đang tràn ngập tâm

hồn trẻ.

- Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách làm tự do, không cần thuật nhớ, không

cần sự bắt chước, bất kỳ chỗ nào thiếu trí nhớ hay những kỷ niệm bị rạn nứt chỉ còn lại

những yếu tố rời rạc thì óc tưởng tượng sẽ móc ghép theo cách riêng. Thế là có sáng

tạo.

- Sáng tạo của trẻ ít khi nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình, phần lớn trẻ sáng

tạo liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và triệt để

những tình cảm đang tràn ngập trong lòng nó.

- Trò chơi hay sáng tạo của trẻ không phải là hồi ức đơn giản, mà là sự gia công

sáng tạo những ấn tượng đã được tiếp nhận, sự phối hợp những tiếp nhận ấy và từ đó

cấu tạo nên một thực tế mới, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của bản thân. Trẻ có khả

năng biết xây dựng một hệ thống bằng cách phối hợp cái cũ lại thành những kết hợp

mới, đây chính là cơ sở chính của sáng tạo.

- Sản phẩm sáng tạo của trẻ có thể không hoàn hảo nhưng ưu thế là chúng nảy

sinh trong quá trình sáng tạo của trẻ.

- Trong mọi hoạt động của mình trẻ luôn có cảm giác thắm mắc, tò mò cao độ và

một sự nỗ lực tự phát nhằm khám phá, thử nghiệm và thao tác theo kiểu độc đáo mang

tính trò chơi. Đó là biểu hiện sáng tạo của trẻ.

- Tầm nhìn về thế giới xung quanh trẻ còn hạn chế, nên hầu như trẻ chưa biết

phân tích các mối liên hệ khác nhau, các sáng tạo của trẻ còn mang tính ước lệ và trên

nhiều phương diện còn rất ngây thơ.

- Những biểu tượng của trẻ không chịu nằm trong lĩnh vực mơ mộng như người

lớn, trẻ luôn muốn thể hiện bất cứ tưởng tượng nào của mình thành những hình tượng

và hành động sinh động.

- Sáng tạo của trẻ mang tính chất tổng hợp các lĩnh vực trí tuệ, tình cảm, ý chí và

đặc biệt là tưởng tượng sáng tạo được hưng phấn với một sức mạnh trực tiếp của cuộc

sống.

13

- Tri thức và kinh nghiệm của trẻ còn ít ỏi hơn so với người lớn, do vậy trí tưởng

tượng trẻ còn nghèo nàn, hứng thú đơn giản và sơ đẳng hơn nhưng do sự dễ dãi, sự

mộc mạc của trí tưởng tượng nên trẻ sống trong thế giới tưởng tượng nhiều hơn, tin

vào những sản phẩm của trí tưởng tượng nhiều hơn, kiểm tra những sản phẩm ít hơn.

Vì vậy mà trẻ dễ có những biểu hiện sáng tạo hơn.

- Ở đứa trẻ, toàn bộ con người nằm trong sự vận động thực tế trực tiếp. Nó sáng

tạo ra hành động thực tế, nó quan tâm trước hết đến quá trình hành động chứ không

phải kết quả.

1.3.3. Vai trò sáng tạo đối với sự phát triển của trẻ mầm non

Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi tràn ngập xúc cảm, là "mảnh đất" mầu mỡ nhất để

gieo hành vi sáng tạo. Mọi tác động của người lớn đều có những ảnh hưởng nhất định

đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Nên việc phát hiện và bồi dưỡng sáng tạo cho trẻ

là vô cùng cần thiết và được quan tâm rất nhiều của các nhà tâm lý, giáo dục. Điều này

thể hiện qua các nghiên cứu về vai trò sáng tạo đối với sự phát triển của trẻ như sau:

Theo Vygotsky: “Mọi hoạt động của trí tưởng tượng bao giờ cũng có một lịch sử

lâu dài. Cái mà ta gọi là sáng tạo, là một hành động đột biến của sự sinh đẻ, nó là kết

quả của sự thai nghén lâu dài bên trong và sự phát triển của bào thai [16,31]. Do đó

hoạt động sáng tạo giúp đứa trẻ vượt qua giai đoạn đột biến trong sự phát triển của trí

tưởng tượng sáng tạo.

Cái tôi của trẻ được thể hiện mãnh liệt trong hoạt động sáng tạo như

X.L.Rubinstien cho rằng: “Mặc dù vốn kiến thức kinh nghiệm của trẻ còn hạn chế,

nhưng trẻ có nhiều cơ hội để bộc lộ sự sáng tạo mang tính chủ quan của mình. Điều

quan trọng là phải xem cái gì là cái mới chủ quan của trẻ. Sứ mệnh của sự sáng tạo với

vị trí là bậc thang cao nhất ở hoạt động của con người, có liên quan không chỉ những

giá trị khách quan và sự phát triển xã hội mà còn có giá trị chủ quan đối với sự phát

triển phong phú đa dạng trong cuộc sống cá nhân.”

Ý nghĩa của sự sáng tạo ở trẻ em cần được xem xét không phải ở kết quả, không

phải trong sản phẩm sáng tạo mà là trong bản thân quá trình sáng tạo đó. Điều quan

trọng không phải là cái mà trẻ xây dựng nên, mà là trẻ đang sáng tạo, đang học tập và

luyện tập trong hoạt động tưởng tượng sáng tạo. Khi trẻ sáng tạo là trẻ đang tự mình

14

khám phá, tìm tòi và tạo ra cái mới như là một trò chơi được nảy sinh từ nhu cầu tự

nhiên của trẻ.

Sự phát triển trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ thông qua các hoạt động mà trẻ

tham gia, trong đó hoạt động vui chơi là hoạt động cơ bản nhất. Qua vui chơi, trẻ thật

sự hồn nhiên, thoải mái và không che giấu cảm xúc của mình, theo Freud: “Đứa bé

không bao giờ xấu hổ trước trò chơi của mình và không che giấu những trò chơi của

mình trước người lớn” [37,45]. Do đó, trẻ được tiếp xúc với thế giới xung quanh trong

mọi hoàn cảnh và xác lập quan hệ với nhiều người khác một cách tự nhiên như chính

trẻ được giao lưu và thỏa sức tưởng tượng.

Tình cảm thẩm mỹ và đời sống xúc cảm của trẻ được hình thành và phát triển

trong hoạt động sáng tạo. Khi trẻ sáng tạo, trẻ nhìn thấy cái đẹp, thích cái đẹp và cố

gắng tạo ra cái đẹp dựa trên kinh nghiệm sẵn có của mình. Giá trị của những sản phẩm

sáng tạo của trẻ tạo ra đôi khi không mang tính độc đáo hay những giá trị cho xã hội

mà là những trải nghiệm cảm xúc, những niềm vui và không có niềm vui nào sánh

được với niềm vui sáng tạo.

Sự phát triển ngôn ngữ cũng như việc hình thành những kỹ năng và khát vọng

sáng tạo của trẻ được rèn luyện. Đặc biệt, những kinh nghiệm được đào sâu, mở rộng

giúp trẻ nắm hơn những tri thức của con người, đây là yếu tố vô cùng cần thiết trong

việc hình thành những tư tưởng, tình cảm, thế giới bên trong của con người.

Tóm lại, thông qua hoạt động sáng tạo mang lại cho trẻ những khoái cảm, rèn

luyện các tư chất cần thiết cho trẻ như: tự hào, tư tin, độc lập những tri thức, kinh

nghiệm và ngôn ngữ có nhiều cơ hội phát triển hơn.

1.3.4. Các điều kiện phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non

Theo PGS. TS Đức Uy để phát huy khả năng sáng tạo cần có những điều kiện

sau [37]:

* Sự an toàn về tâm lý:

1. Chấp nhận cá nhân như một giá trị vô điều kiện

Tất cả những người lớn hay những người xung quanh trẻ phải cảm thấy và nhận

ra rằng mỗi đứa trẻ phải có một giá trị riêng biệt và đang triển khai giá trị đó theo cách

15

thức riêng của trẻ tuy không cần xét đến điều kiện hiện tại là gì? Mọi người phải tôn

trọng và đặt niềm tin vô điều kiện ở trẻ.

Khi trẻ cảm thấy mình đang hoạt động trong một môi trường thật sự an toàn, dần

dần trẻ cảm thấy mình sẽ làm được bất kỳ mọi thứ, không mắc cỡ hay phải che giấu

điều gì. Do đó, trẻ ít phải cứng nhắc, trẻ khám phá con người của mình một cách tự

nhiên và có thể thể hiện bằng chính mình theo những cách mới, thật sự hồn nhiên. Nói

cách khác trẻ đang tiến tới sự sáng tạo.

Để khả năng sáng tạo của trẻ được nảy nở, hình thành và phát triển khi chúng ta

cần tạo cho trẻ một môi trường, một bầu không khí mà trẻ cảm thấy an toàn nhất.

Người lớn không kiềm chế hay áp đặt cho rằng trẻ chưa biết gì, không thể làm điều gi

nếu như thiếu bàn tay của người lớn. Hãy để sáng tạo của trẻ được thoải mái bộc lộ dù

đó chỉ là những việc làm thật đơn giản, một trò chơi nhỏ bé nhưng nó chứa đựng rất

nhiều ý nghĩa và là sự trải nghiệm cho những hành động lâu dài về sau. Quan trọng là

người lớn hãy cho trẻ cơ hội và thật tôn trọng trẻ ở mọi lúc mọi nơi và hãy để giá trị cá

nhân của trẻ được tự nhiên bộc lộ.

2. Tạo nên một bầu không khí trong đó vắng mặt sự lượng giá từ bên ngoài

Sự lượng giá: là các đánh giá, các nhận xét, sự xem xét từ khách thể đối với chủ

thể.

Khi trẻ đang ở trong môi trường không bị lượng giá, không bị đo lường bởi

những tiêu chuẩn bên ngoài thì trẻ cảm thấy hết sức tự do. Sự lượng giá luôn là sự đe

dọa tạo sự phòng vệ từ trẻ. Một khi những tiêu chuẩn bên ngoài không được đưa ra thì

trẻ có thể cởi mở hơn để đón nhận những kinh nghiệm của mình hay trẻ có thể nhận ra

những điều mình thích hoặc không thích, những phản ứng của bản thân một cách sắc

bén hơn. Từ đó trẻ tiến tới việc sáng tạo một cách dễ dàng hơn. Do đó người lớn hãy

tạo cho trẻ môi trường hoàn toàn vắng mặt sự lượng giá để trẻ cảm thấy thật sự thoải

mái, cảm giác bị nhòm ngó, bị để ý dường như không còn thì trẻ sẽ tự nhiên sáng tạo

và dễ dàng bộc lộ chính mình hơn.

3. Sự hiểu biết triệt để

Điều này hợp với hai điều kiện trên tạo thành nền tảng cho sự an toàn tâm lý tối

đa. Một khi trẻ hiểu biết, cảm nhận đầy đủ một cách sâu sắc, ăn nhập tâm hồn thì trẻ

16

dễ dàng diễn đạt hơn. Trẻ sẽ có nhiều ý tưởng xuất hiện khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với

môi trường cũng như có những hiểu biết về chúng, khi ấy trí tưởng tượng sáng tạo của

trẻ sẽ càng phong phú hơn.

* Tự do tâm lý

Theo PGS TS. Nguyễn Đức Uy cho rằng: “ Cá nhân được hoàn toàn tự do để

diễn đạt bằng biểu tượng, thì sự sáng tạo được nuôi dưỡng... Diễn đạt bằng hành vi tất

cả những tình cảm, những thúc đẩy và những hình thái, không phải lúc nào cũng giải

tỏa được mình. Hành vi có thể trong một số trường hợp bị hạn chế bởi xã hội. Nhưng

sự diễn đạt bằng biểu tượng không cần phải bị hạn chế.

Khi trẻ được tự do, thoải mái trong hoạt động, trẻ hoàn toàn tự do để nghĩ, cảm

nhận và hành động. Đây chính là việc nuôi dưỡng sự cởi mở, sự tung bắt thú vị và hồn

nhiên của những tri giác, những khái niệm, những ý nghĩa. Đó là thành phần của sự

sáng tạo.

Sự tư do ở đây cũng đồng nghĩa với sự tự đảm nhận, tự nhận trách nhiệm, hăng

say tích cực với việc làm của trẻ, đặc biệt trong hoạt động sáng tạo. Hãy để trẻ được tự

do trong thế giới của mình, đôi lúc sự can thiệp của người lớn đã vô tình làm gián đoạn

quá trình sáng tạo của trẻ.

Với những điều kiện trên, để phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non chúng

ta cần:

Khơi dậy sự hứng thú của trẻ, sáng tạo của trẻ chỉ có thể bắt đầu khi trẻ thật sự

thích thú và say mê tham gia trên tinh thần tự nguyện. Các hoạt động trẻ tham gia phải

thật sự lôi cuốn, khi đó sẽ kích thích trẻ tìm tòi, khám phá và sẽ chủ động tham gia một

cách tích cực hơn. Hãy kích thích những nhu cầu và khả năng sáng tạo của trẻ, tạo thật

nhiều cơ hội để trẻ có thể tự trải nghiệm các hoạt động trong sự thoải mái, tự nhiên và

vui thích nhất mà sáng tạo có thể đem lại cho trẻ.

Tổ chức một môi trường thật sự an toàn và thật sự tư do cho trẻ, khi trẻ có được

sự thoải mái trẻ sẽ dễ bộc lộ mọi suy nghĩ, những nhu cầu qua các trò chơi, các hoạt

động nơi mà sáng tạo có thể được hình thành và phát triển. Người lớn hãy luôn đồng

hành cùng với trẻ trong mọi thời điểm, không nên cho mình quyền áp đặt, can thiệp

hay phủ nhận việc làm của trẻ dù đó chỉ là một trò chơi nhỏ bé. Không nên quá quan

17

trọng kết quả hay cho rằng trẻ nhỏ thường không làm được việc… Hãy để trẻ cảm

nhận và trải nghiệm vì sáng tạo của trẻ là để thỏa mãn nhu cầu, để được chơi và được

thử nghiệm trong sự thích thú của mình.

Tóm lại, mỗi đứa trẻ sẽ phát huy tối đa khả năng sáng tạo khi chúng có một thế

giới quan sinh động, trí tưởng tượng phong phú và tư duy nhạy bén. Vì vậy, cùng với

việc tôn trọng sự khác biệt trong cá tính cũng như cần định hướng phát triển các kỹ

năng cho trẻ, đó là kỹ năng quan sát, khả năng tưởng tượng, ghi nhớ… thì người lớn

cần dạy cho trẻ biết tự tin vào bản thân, biết đối mặt và chấp nhận thất bại. Những điều

này sẽ giúp trẻ thể hiện và phát triển khả năng sáng tạo của mình hơn.

1.4. Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động ca hát ở

trường mầm non

1.4.1. Khái niệm ca hát

Ca hát là một bộ môn nghệ thuật được phối hợp giữa âm nhạc và ngôn ngữ.

Tiếng hát bắt nguồn từ cuộc sống lao động, là tiếng nói tâm hồn của mọi người, là

nghệ thuật âm nhạc cổ xưa và gần gũi nhất với con người. Tiếng hát cũng là phương

tiện giao lưu giữa con người với con người để bộc lộ, trao đổi tâm tư tình cảm và cũng

để thổ lộ tâm tư tình cảm của mình với chính mình.

1.4.2. Ý nghĩa của hoạt động ca hát đối với trẻ mầm non

Ca hát là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi

trong mọi xã hội

Ca hát đặc biệt gần gũi quan trọng trong đời sống trẻ em. Từ những năm tháng

đầu đời nằm trong nôi được nghe tiếng ru của người mẹ, em bé ngủ sâu hơn, ngon giấc

hơn mặc dù còn chưa hiểu được nội dung bài hát. Theo năm tháng, đứa trẻ lớn dần lên

mang theo trong tiềm thức trọn vẹn âm hưởng của những bài đồng dao gắn bó với

những trò chơi thời thơ ấu giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống xung quanh. Ca hát

luôn gắn bó với trẻ em trong mọi hoạt động học, chơi, ăn ngủ khi còn ngồi trên ghế

nhà trường ở mọi cấp bậc.

Việc trẻ hát gắn liền với việc phát triển sinh lý ở trẻ, đẩy mạnh chức năng hoạt

động của các cơ quan phát thanh, hô hấp, làm cho giọng hát của trẻ tốt hơn.

18

Việc hát, đòi hỏi trẻ phải chú ý, quan sát, nhạy bén, trẻ không chỉ tiếp thu về giai

điệu, tiết tấu, lời ca mà còn phát triển ngôn ngữ (phát âm chính xác, biểu cảm, mở rộng

vốn từ). Khi trẻ nghe nhạc và hát, trẻ cảm nhận được tính chất, tình cảm của âm nhạc

nên hưởng ứng cảm xúc với những trạng thái cảm xúc có trong tác phẩm giúp trẻ hình

thành sự liên tưởng, tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ trong HĐCH của trẻ bắt đầu có

mầm mống từ đây.

Tóm lại, HĐCH có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cơ thể trẻ: phát triển ngôn

ngữ, phát triển tư duy góp phần quan trọng trong việc giáo dục, phát triển toàn diện và

hài hòa nhân cách trẻ.

1.4.3. Các biện pháp hướng dẫn trẻ trong hoạt động ca hát

* Cho trẻ làm quen với bài hát

Trước khi học hát, cần giới thiệu bài hát sắp học cũng như cần cho trẻ nghe trọn

vẹn bài hát: tính chất, nội dung, hình tượng âm nhạc, sự vật, sự kiện sẽ nói đến trong

bài hát.

- Phần giới thiệu:

Giới thiệu tên bài hát, tác giả, tên làn điệu dân ca, cho trẻ biết qua về xuất xứ bài

hát. Có thể dùng lời để giới thiệu bài hát như:

+ Trò chuyện hoặc đặt câu hỏi để dẫn dắt trẻ đến với nội dung hay tính chất bài

hát.

+ Kể một cách sinh động, có hình ảnh về bài hát.

+ Đọc một hai câu thơ ngắn, dễ hiểu có nội dung sát nội dung bài hát.

Bên cạnh đó, có thể dùng lời kết hợp với phương tiện trực quan như tranh ảnh,

thú nhồi bông… có gắn với nội dung bài hát. Tùy theo tính chất, mức độ đơn giản hay

phức tạp của bài hát, giáo viên có thể chọn lựa linh hoạt cho phù hợp. Lời giới thiệu

phải hết sức ngắn gọn, dễ hiểu, sinh động. Các phương tiện trực quan khi sử dụng phải

được lựa chọn phù hợp, gây hứng thú, hấp dẫn trẻ đến với bài hát sắp học.

- Phần hát mẫu:

Hát mẫu là phần trình bày của giáo viên để trẻ có cảm xúc đầy đủ về bài hát, tính

chất âm nhạc, giai điệu tiết tấu, lời ca, sắc thái, tình cảm, phong cách. Cô thể hiện tốt

sẽ tạo ấn tượng mạnh mẽ đến trẻ: sự hứng thú, yêu thích và có nhu cầu học hỏi. Trẻ

19

không chỉ nhanh chóng nắm được giai điệu tiết tấu mà còn cảm thụ được hình tượng

âm nhạc ngay sau khi nghe lần đầu tiên.

Hát mẫu được thể hiện theo nhiều cách như:

+ Giáo viên hát chính xác, trọn vẹn bài hát. Hát thể hiện tình cảm, sắc thái bài hát

kết hợp cử chỉ, điệu bộ minh họa.

+ Hát kết hợp với đệm đàn hoặc gõ dụng cụ âm nhạc đệm theo bài hát. Điều này

sẽ giúp trẻ hình dung được hình tượng âm nhạc một cách đầy đủ, hấp dẫn.

+ Cho trẻ nghe giai điệu bài hát qua việc trình bày trên đàn. Trẻ sẽ cảm nhận

được tính chất của bài hát (vui, buồn, sôi nổi…), sau đó giáo viên hát cho trẻ nghe.

+ Có thể cho trẻ nghe giai điệu của bài hát qua phần ghi nhớ của đàn phím, băng

cát-xét.

* Dạy trẻ hát:

Dạy trẻ hát đúng, thuộc bài hát và thể hiện tình cảm, kết hợp rèn kỹ năng hát

Tùy mức độ khó hay dễ, dài hay ngắn, phức tạp hay đơn giản của bài hát, cô có

thể dạy hát sao cho phù hợp với trẻ. Có các cách dạy hát sau:

+ Với bài hát ngắn, dễ hát, đơn giản: Cô bắt nhịp cho trẻ hát theo cô cả bài. Cô

hát to, chậm, rõ lời, trẻ vừa nghe vừa hát theo cô cho đến khi hát được.

+ Với bài hát dài, khó hát giáo viên có thể chia thành từng câu hay từng đoạn

ngắn. Dạy hát nối tiếp từng câu, từng đoạn với nhau. Không nhất thiết dạy thuộc câu

này rồi chuyển tiếp câu sau. Cần dạy liên tiếp như vậy sẽ giúp trẻ dễ hát và cảm nhận

tác phẩm trọn vẹn và dễ dàng hơn.

+ Trong quá trình học hát nếu hát sai giai điệu hay lời ca cô có thể hát mẫu hoặc

đọc lời trọn vẹn câu hát đó, hướng cho trẻ nghe giai điệu trên đàn và chính xác câu hát

đó hoặc hát lại cùng cô.

* Luyện tập củng cố:

Trong quá trình luyện tập, ngoài việc giúp trẻ hát thuộc, hát đúng. Cô giúp trẻ thể

hiện sắc thái, tình cảm của bài hát. Khi thực hiện biện pháp này, giáo viên chú ý luyện

tập cho trẻ: Phát âm chính xác (hát rõ lời); hát đồng đều, nhịp nhàng; hát ngân giọng,

ngắt giọng tùy theo bài hát cụ thể.

20

Với bài hát trẻ đã hát đúng, hát thuộc cô có thể cho trẻ hát nhiều hình thức khác

nhau như: hát nối tiếp, hát to, nhỏ, nhanh, chậm, hát kết hợp vỗ tay hay phối hợp dụng

cụ âm nhạc… Hát theo nhóm, tổ, hát xen kẽ… theo sự chỉ huy của cô.

Tất cả các biện pháp này chủ yếu giúp trẻ tái tạo lại bài hát, rèn luyện kỹ năng ca

hát cho trẻ cũng như giúp trẻ biết được cái hay trong ca hát. Đây chính là việc làm sao

cho trẻ học thuộc bài hát, hát hay và diễn cảm trong khi hát là được. Các biện pháp này

chưa đặt trẻ vào những tình huống có vấn đề để kích thích trẻ suy nghĩ, tìm nhiều

hướng giải quyết khác nhau. Do đó giáo viên cần tạo điều kiện để trẻ có nhiều cơ hội

được trải nghiệm theo những cách xử lý riêng nhưng phải tạo cho trẻ tâm lý thật tự do

và thoải mái. Chẳng hạn như việc gợi ý cho trẻ hát một câu hát theo cách ngắt nhạc,

lên xuống khác nhau và phù hợp với khả năng của trẻ, hay việc nghĩ một câu hát mới

cho giai điệu mà trẻ rất quen thuộc... Đây là những cách thức để đưa trẻ đến gần với

sáng tạo trong HĐCH và đây cũng chính là tiền đề của sáng tạo.

1.4.4. Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt

động ca hát

1.4.4.1. Khái niệm biện pháp

Theo từ điển: “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”.

Khi sử dụng biện pháp trong các quá trình sư phạm nhằm mục đích giáo dục trẻ

thì biện pháp trở thành một thành tố của quá trình giáo dục. Biện pháp thể hiện sự sáng

tạo của giáo viên trong quá trình dạy học.

1.4.4.2. Khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt động ca hát

Sáng tạo của trẻ mầm non được thể hiện rất phong phú và đa dạng dưới nhiều

hình thức khác nhau, riêng về HĐCH những biểu hiện sáng tạo của trẻ mầm non được

thể hiện cụ thể như sau:

Khi nghe một giai điệu bất kì trẻ có thể hát lên theo nhạc, đôi khi không có nhạc

trẻ cũng có thể tự hát lên câu hát theo ngẫu hứng của mình hay trong một tình huống

nhất định trẻ có thể tạo ra một câu hát hoàn toàn mới. Sự tự do trong sáng tạo được thể

hiện rất rõ ở biểu hiện này của trẻ, tất cả dường như xuất phát trên tinh thần thoải mái,

không gò bó hay không áp đặt. Và rồi trẻ hát lên như là muốn thỏa mãn nhu cầu cấp

bách cần được giải quyết, thật nhẹ nhàng, hồn nhiên và đó là chính sáng tạo của trẻ.

21

Trong khi hát trẻ có thể biểu diễn diễn cảm theo cách riêng như biểu cảm trên nét

mặt, giọng hát nhẹ nhàng với những bài hát tình cảm như lời tâm sự của người con với

mẹ, bài hát vui nhộn trẻ hát rất sinh động, hát có hồn... Những cách thể hiện này đã

giúp trẻ đến gần hơn với âm nhạc, cụ thể là những ca từ trong lời bài hát, làm cho trẻ

cảm thấy yêu nhạc và muốn thể hiện một cách tích cực hơn. Có những trẻ khi nghe

nhạc không thể ngồi im một chỗ được nào là lắc đầu, nhún vai, giậm chân một cách

nhịp nhàng theo nhạc và mỗi trẻ thể hiện theo cách riêng của mình. Không thể nói rằng

chỉ có một cách diễn cảm cho một bài hát hay chỉ có một cách nhảy múa cho một đội

vũ công, do đó hãy để trẻ tự do cảm nhận và thể hiện theo những cách khác nhau để trẻ

có thể tự nhiên, thoải mái sáng tạo khi biểu diễn một bài hát.

Hay trẻ có thể chuyển đổi một câu thơ quen thuộc thành một câu hát hoàn toàn

mới một cách phù hợp theo kinh nghiệm của mình, không cần phải thật hay, hay hoàn

toàn hợp lý vì sáng tạo không có đúng và sai. Trẻ có thể dựa trên hình ảnh của thơ

như: nhịp, vần mà gắn với cao độ, trường độ cho phù hợp với khả năng của mình để có

thể tạo ra một câu hát theo sự sáng tạo của trẻ.

Bên cạnh đó trẻ còn có thể tạo ra lời cho giai điệu có sẵn, không quá phức tạp

như những nhạc sĩ, đối với trẻ những ca từ mà trẻ thêm vào rất đơn giản và gần gũi với

trẻ, nó rất mộc mạc và giản dị như là những câu nói hằng ngày của trẻ mà trẻ có thể

gắn vào giai điệu khi trẻ nghe được. Nghe qua thì việc làm này không dễ nó đòi hỏi trẻ

phải có vốn kinh nghiệm và trẻ phải được trải nghiệm nhiều lần qua những trò chơi.

Dần dần nó thấm vào trẻ và trẻ hoàn toàn bay bổng với những ca từ mà mình thêm vào

giai điệu có sẵn.

Biểu hiện sáng tạo của trẻ trong HĐCH còn được thể hiện khi trẻ có thể thay đổi

giai điệu, tiết tấu cấu trúc của câu hát đã biết thành một câu hát mới. Nghe qua thật

khó tưởng tượng rằng trẻ có thể làm được, chúng ta đừng đòi hỏi quá cao kết quả hoàn

mỹ ở trẻ vì sáng tạo ở trẻ chỉ đơn thuần như một trò chơi, trẻ có thể ngắt quãng hay

ngân giọng khác so với câu hát cũ thì giai điệu trong câu hát mới đã hoàn toàn thay đổi

và đó là sự sáng tạo của trẻ.

Việc chơi nhạc cụ là điều không thể thiếu khi tham gia vào HĐCH của trẻ, với

những nhạc cụ gõ tạo ra tiết tấu sẽ giúp trẻ linh hoạt hơn trong việc hát những bài hát

22

có tiết tấu thay đổi nhiều. Đồng thời khi chơi loại nhạc cụ này trẻ sẽ tạo ra những tiếng

gõ khác nhau nhiều lần lặp đi lặp lại sẽ tạo nên tiết tấu mới. Bên cạnh đó khi chơi nhạc

cụ tạo ra các giai điệu, nhiều lần trẻ sẽ sáng tạo những giai điệu mới. Kết hợp với việc

tạo nên tiết tấu cũng như giai điệu mới thì trẻ có thể hưởng ứng hay hát theo giai điệu

tự tạo này theo ý thích của mình và đây chính là sáng tạo của trẻ. Sáng tạo của trẻ

không phải là tạo ra cái mới hoàn toàn, cơ bản nó dựa trên những cái cũ mà thay đổi

một phần nào đó cho phù hợp với nhu cầu của trẻ. Nó không đòi hỏi phải quá đặc sắc,

phải thật hay miễn sao nó mới so với bản thân trẻ và trẻ cảm thấy thích thú thì đó

chính là sáng tạo của trẻ.

1.4.4.3. Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt

động ca hát

* Khái niệm

Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt động ca hát là

những cách thức tạo cho trẻ có những cơ hội để thử nghiệm những ý tưởng mới, cách

suy nghĩ mới và cách giải quyết vấn đề nảy sinh mới trong hoạt động ca hát. Cung cấp

cơ hội tuyệt vời để trẻ có thể tích cực sáng tạo nhất và cho phép trẻ chứng minh sự

sáng tạo trong bất kỳ sự tự thể hiện nào của mình.

* Các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt

động ca hát

- Biện pháp làm giàu vốn kinh nghiệm ca hát cho trẻ

- Biện pháp tạo môi trường tốt nhất cho trẻ

- Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ

- Biện pháp giúp trẻ vận dụng kinh nghiệm

23

Tiểu kết chương 1

Sáng tạo của trẻ cũng như trò chơi, về căn bản nó chưa tách rời khỏi hứng thú và

đời sống cá nhân. Sáng tạo của trẻ biểu hiện một cách tự phát, độc lập với ý muốn của

người lớn.

Đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, nếu được giáo dục và hướng dẫn kịp thời thì khả

năng sáng tạo sẽ được hình thành và phát triển tốt, góp phần vào việc phát triển toàn

diện nhân cách cho trẻ. Đồng thời nó còn là tiền đề cho các hoạt động sáng tạo ở lứa

tuổi kế tiếp, ngược lại ngay từ lứa tuổi mầm non nếu chúng ta làm hạn chế những biểu

hiện sáng tạo của trẻ, bắt trẻ thực hiện một cách rập khuôn, dần dần sẽ trở thành thói

quen, ngấm vào tư duy và biến trẻ trở thành một con người thụ động, máy móc.

HĐCH là hoạt động mang tính tích cực, sáng tạo, nó là sợi dây liên kết giúp cho

các hoạt động chơi và học của trẻ đạt hiệu quả hơn, nó còn là nơi diễn ra sự giao lưu

tình cảm của mọi người. Đặc biệt, nó góp phần phát triển hài hòa các mặt khác như:

thể chất, ngôn ngữ, tư duy, trí nhớ… giúp trẻ cảm thấy lạc quan, vui vẻ, tự tin và mạnh

dạn khi tham gia tất cả các hoạt động.

Sáng tạo của trẻ là sáng tạo biểu hiện cùng với đặc điểm sáng tạo của trẻ là tự do,

khoáng đạt nên trẻ rất dễ tưởng tượng sáng tạo mà HĐCH lại rất gần gũi với trẻ. Do

vậy, sáng tạo trong HĐCH của trẻ là hết sức cần thiết, để tổ chức tốt việc này, bên

cạnh việc trang bị các điều kiện về cơ sở vật chất như: đàn, dụng cụ âm nhạc, nhạc

cụ… thì giáo viên cần nắm vững các kỹ năng dạy hát cho trẻ, sử dụng các biện pháp

phù hợp để tổ chức các giờ học hát thật phong phú và tránh rập khuôn. Các hoạt động

được diễn ra thật hứng thú, lôi cuốn để trẻ tham gia một cách tích cực, đặc biệt trẻ phải

được cảm thấy tự do, thoải mái khi tham gia các hoạt động. Giáo viên sử dụng hệ

thống câu hỏi cũng như các phương pháp thích hợp giúp trẻ có thêm nhiều cơ hội trải

nghiệm, điều này sẽ kích thích trẻ nảy sinh những ý tưởng mới là tiền đề để trẻ sáng

tạo về sau.

24

Chương 2

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BIỆN PHÁP PHÁT HUY

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG CA HÁT Ở TRƯỜNG MẦM NON

2.1. Khái quát điều tra thực trạng

2.1.1. Mục đích điều tra

Tìm hiểu thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ và các biện pháp nhằm phát huy

khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH ở một số trường mầm non tại thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2.1.2. Đối tượng điều tra

- 60 giáo viên đang dạy lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi.

- 120 trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.

2.1.3. Địa bàn điều tra

- Trường thuộc khu vực nội thành TP Biên Hòa

+ Trường mầm non Hướng Dương, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

+ Trường mầm non Hoa Mai, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

+ Trường mầm non Hòa Bình, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

- Trường thuộc khu vực ngoại thành TP Biên Hòa

+ Trường mầm non Trảng Dài, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

+ Trường mầm non Hố Nai, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

+ Trường mầm non Tân Biên, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.1.4. Thời gian điều tra

Từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 03 năm 2014

2.1.5. Nội dung điều tra

- Nhận thức của giáo viên về các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

5 - 6 tuổi trong HĐCH.

- Các giáo án của giáo viên để tìm ra các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo

của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH.

25

- Việc tổ chức 12 giờ HĐCH cho trẻ 5 - 6 tuổi.

- Khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH.

2.1.6. Phương pháp điều tra

- Điều tra bằng bảng hỏi

- Phân tích giáo án

- Dự giờ và quan sát việc tổ chức các giờ học âm nhạc của trẻ 5 - 6 tuổi

- Tổ chức bài tập

2.2. Phân tích kết quả điều tra thực trạng

2.2.1. Thực trạng về nhận thức của giáo viên trong việc tổ chức HĐCH

nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi

HĐCH trong các trường mầm non được tổ chức trong các giờ âm nhạc theo sự

phối hợp các hình thức như là: dạy hát, nghe nhạc, trò chơi âm nhạc hay vận động theo

nhạc, tùy theo từng nội dung bài hát, mục đích dạy học mà giáo viên chọn một trong

những hình thức này làm trọng tâm. Giờ học cho trẻ sáng tạo trong HĐCH là hoàn

toàn không có, tất cả các hình thức nghe, hát hay vận động theo nhạc đều diễn ra theo

sự sắp xếp của giáo viên, nếu có sáng tạo cũng chỉ là sáng tạo một vài động tác trong

vận động theo nhạc. Thực trạng là như vậy nhưng nhận thức giáo viên có thật sự cho

rằng việc tổ chức HĐCH nhằm phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ là cần thiết hay

không?

Câu 1: Chị hiểu như thế nào là sáng tạo?

Bảng 2.1. Khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về sáng tạo

STT Mức độ nhận thức của giáo viên về sáng tạo Số ý kiến Tỷ lệ (%)

Sáng tạo là tạo ra cái mới 3/60 5% 1

Sáng tạo là tạo ra những tác phẩm vĩ đại 0/60 0% 2

Sáng tạo là tạo ra những cái độc đáo, mới lạ 10/60 17% 3

78% Sáng tạo là tạo ra cái mới, cách giải quyết 47/60 4  không bị phụ thuộc vào cái đã có

mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có

26

Nhìn vào bảng 2.1: Khảo sát mức độ nhận thức về sáng tạo của giáo viên, có

78% (47 ý kiến) chiếm hơn 3/4 kết quả, cho rằng sáng tạo là tạo ra cái mới, cách giải

quyết mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có. Có 17% (10 ý kiến) cho rằng sáng tạo là

tạo ra những cái độc đáo, mới lạ. Có 5% (3 ý kiến) cho rằng sáng tạo là tạo ra cái mới.

Không có ý kiến nào cho rằng sáng tạo là tạo ra những tác phẩm vĩ đại.

Nhìn chung đa số ý kiến cho rằng sáng tạo không chỉ tạo ra những cái mới, hay

là phải tạo ra được những tác phẩm vĩ đại, cũng không phải là tạo ra những cái gì thật

độc đáo, mới lạ mà sáng tạo là tạo ra cái gì mới,cách giải quyết mới, không phụ thuộc

vào cái đã có.

Câu 2: Theo chị, những biểu hiện nào sau đây cho thấy trẻ sáng tạo?

Bảng 2.2. Khảo sát về biểu hiện sáng tạo của trẻ

STT Biểu hiện sáng tạo của trẻ Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Mạnh dạn, tự tin 1/60 1.7%

Biết tự mình nêu lên những ý tưởng mới lạ 15/60 25% 2

Tích cực, hứng thú tham gia các hoạt động 1/60 1.7% 3

Có cách xử lý tình huống khi học và chơi một cách 10/60 16.7% 4

độc đáo, linh hoạt

5 Biết tạo ra các sản phẩm độc đáo 13/60 21.7%

6 Độc lập suy nghĩ và không làm theo khuôn mẫu 20/60 33.3%

của giáo viên

Qua bảng 2.2: Khảo sát về biểu hiện sáng tạo của trẻ, chúng ta thấy có 33.3% sự

đồng tình nhiều nhất chiếm 1/3 trong tổng số với (20 ý kiến) cho rằng khi trẻ biết độc

lập suy nghĩ không làm theo khuôn mẫu của giáo viên thì trẻ đã có những biểu hiện

sáng tạo. Có đến 25% (15 ý kiến) chiếm 1/4 kết quả cho rằng trẻ có biểu hiện sáng tạo

là biết tự mình nêu lên những ý tưởng mới lạ. Kế đến có 21.7% (13 ý kiến) cho rằng

trẻ có biểu hiện sáng tạo là trẻ phải tạo ra được các sản phẩm độc đáo và giáo viên căn

cứ vào những sản phẩm đó để đánh giá trẻ có sáng tạo hay không. Đồng thời có 21,7%

với (10 ý kiến) biểu hiện sáng tạo của trẻ là trẻ có cách xử lý tình huống khi học và

chơi một cách độc đáo, linh hoạt. Cuối cùng có 1.7% (1 ý kiến) cho rằng trẻ mạnh dạn,

tự tin đó chính là biểu hiện sáng tạo, cùng với số ý kiến này cho rằng trẻ tích cực hứng

thú tham gia hoạt động là trẻ đã có biểu hiện sáng tạo.

27

Đa số ý kiến cho rằng những biểu hiện sáng tạo của trẻ là trẻ biết độc lập suy

nghĩ không làm theo khuôn mẫu, chỉ dẫn của giáo viên, biết tự thể hiện theo cách

riêng, không bị gò bó, ràng buộc vào những cái có sẵn. Kế đến là ý kiến cho rằng trẻ

biết tự mình nêu lên ý tưởng mới lạ, biết tạo ra các sản phẩm độc đáo, có cách xử lý

tình huống khi học và chơi một cách độc đáo, linh hoạt. Cuối cùng với ý kiến đồng

tình ít nhất là trẻ mạnh dạn, tự tin và tích cực, hứng thú tham gia hoạt động. Nếu như

trẻ rụt rè, nhút nhát, không mạnh dạn, tự tin hay không tích cực, hứng thú tham gia các

hoạt động thì không thể sáng tạo được tuy nhiên số ý kiến này lại đồng tình thấp nhất.

Sáng tạo không nhất thiết là trẻ phải tạo ra những sản phẩm độc đáo mới hay nêu lên

những ý tưởng phải thật độc đáo khác lạ. Qua đó cho thấy giáo viên đã phần nào biết

về những biểu hiện sáng tạo của trẻ nhưng chưa hiểu hết cũng như chưa nắm bắt được

các cơ hội giúp trẻ sáng tạo và phát huy được tối đa khả năng sáng tạo ấy trong

HĐCH. Do đó, trong giờ học âm nhạc trẻ chưa thật sự mạnh dạn, tự tin còn rụt rè, nhút

nhát như trẻ không dám thể hiện thái độ, cử chỉ, nét mặt, xúc cảm riêng của mình khi

hát. Vì vậy, giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ hơn nữa những biểu hiện sáng tạo của

trẻ đồng thời rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin cùng với việc tạo cho trẻ những cơ hội được

thể hiện theo cách riêng cũng như tạo mọi điều kiện để trẻ có thể phát huy mọi khả

năng sáng tạo trong các hoạt động nói chung và trong HĐCH nói riêng.

Câu 3: Chị hiểu như thế nào về khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH?

Bảng 2.3. Khảo sát nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ

trong HĐCH

STT Khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Biểu diễn diễn cảm trong khi hát theo cách 39/60 65%

riêng

Tạo ra câu hát mới trong tình huống nhất định 2 4/60 6.7%

3 Chuyển bài thơ thành bài hát 2/60 3.3%

4 Thay đổi giai điệu bài hát đã biết 7/60 11.7%

5 Nghĩ ra câu hát từ giai điệu có sẵn 8/60 13.3%

28

Qua bảng 2.3: Khảo sát nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ

trong HĐCH, ta thấy sự đồng tình cao nhất có 65% (39 ý kiến) chiếm gần 2/3 trong

tổng số, cho rằng trẻ biểu diễn diễn cảm trong khi hát theo cách riêng là trẻ có khả

năng sáng tạo trong hoạt HĐCH. Kế đến là trẻ nghĩ ra câu hát từ giai điệu có sẵn với

13.3% (8 ý kiến) và 11.7% (7 ý kiến) cho rằng trẻ biết thay đổi giai điệu bài hát đã biết

là khả năng sáng tạo trong hoạt HĐCH. Hai ý kiến ít đồng tình nhất khi cho rằng khả

năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH là trẻ tạo ra câu hát mới trong tình huống nhất định

với 6.7% (4 ý kiến) và trẻ biết chuyển bài thơ thành bài hát với 3.3% (2 ý kiến).

Với kết quả của bảng khảo sát trên, đa số nhận thức của giáo viên về khả năng

sáng tạo trong HĐCH của trẻ chỉ dừng lại ở việc trẻ biểu diễn diễn cảm theo cách riêng

khi hát, chiếm tới 65% tổng số. Điều này cho thấy sự nhìn nhận của giáo viên về khả

năng sáng tạo nói chung của trẻ còn hạn chế, trẻ sáng tạo trong HĐCH không chỉ dừng

lại ở việc trẻ biểu diễn như thế nào, nó mới chỉ là hình thức bên ngoài. Để đánh giá

được khả năng này cần chú ý về nhiều phương diện như việc thay đổi giai điệu, tiết

tấu, thay đổi lời câu hát, chuyển câu thơ thành câu hát hay nghĩ ra câu hát mới…

Thế nhưng giáo viên cho rằng việc sáng tạo như vậy là rất khó nên chỉ có 8 ý

kiến đồng ý trẻ có thể nghĩ ra câu hát từ giai điệu có sẵn, kế đến là trẻ có thể thay đổi

giai điệu bài hát đã biết với 7 ý kiến. Cuối cùng là trẻ có thể tạo ra câu hát mới trong

tình huống nhất định và chuyển bài thơ thành bài hát. Do đó, để giúp cho trẻ sáng tạo

hay phát huy khả năng ấy trong HĐCH thì giáo viên ngoài việc nâng cao nhận thức về

khả năng sáng tạo của trẻ thì cần chủ động hơn trong việc tạo mọi cơ hội để trẻ có thể

trải nghiệm trong nhiều cách khác nhau khi hát, hoặc đặt trẻ vào các tình huống thực

để trẻ có thể nghĩ ra nhiều câu hát, hay có thể thay đổi được giai điệu đã biết thành câu

hát hoàn toàn mới… Đồng thời giúp trẻ có thêm nhiều vốn kinh nghiệm cũng như các

các kỹ năng cần thiết để trẻ có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.

29

Câu 4: Trong lớp của chị, HĐCH được tổ chức mấy lần trong tháng?

Bảng 2.4. Khảo sát về tần suất tổ chức hoạt HĐCH trong tháng

STT Tần suất tổ chức HĐCH trong tháng Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 1 lần 0/60 0%

2 2 lần 0/60 0%

3 3 lần 11/60 18.3%

4 4 lần 49/60 81.7%

Qua bảng 2.4: Khảo sát về tần suất tổ chức HĐCH trong tháng, có 81.7% (49 ý

kiến) cho rằng HĐCH được tổ chức 4 lần trong tháng. Kế đến 18.3% (11 ý kiến) cho

rằng nên tổ chức HĐCH 3 lần trong tháng. Không có ý kiến nào cho rằng tổ chức

HĐCH dưới 3 lần trong tháng.

Tất cả các giáo viên đều nhận thức rất tốt được việc tổ chức HĐCH là phương

pháp giáo dục nhẹ nhàng mà mang lại hiệu quả cao giúp trẻ thể hiện cảm xúc, cảm

nhận được niềm vui trong học tập và cuộc sống. Hát làm cho việc tiếp nhận bài học

hay các hoạt động giải trí trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, một số giáo

viên cho rằng HĐCH không chỉ tổ chức 4 lần trong tháng mà được tổ chức mọi lúc

mọi nơi tùy theo từng chủ đề trong tháng. Như vậy, HĐCH không thể thiếu trong các

giờ học, giờ chơi của trẻ nó như là một phương tiện giúp mọi người gắn kết với nhau

hơn qua việc cùng hát, cùng nghe hay cùng nhảy múa một bài nhạc, nó cũng là một

công cụ giúp mọi người giao lưu cảm xúc với nhau một cách dễ dàng hơn và đặc biệt ở

trẻ, sự hồn nhiên kết hợp với giai điệu của bài hát làm cho trẻ vui tươi, lạc quan giúp

trẻ dễ tiếp nhận các kiến thức cũng như các hoạt động khác nhau ở trường.

Tuy nhiên qua tìm hiểu trao đổi thì phần lớn các giáo viên rất quan trọng hình

thức khi cho rằng tổ chức HĐCH cho trẻ phải đánh đàn cho trẻ hát, phải có những

dụng cụ âm nhạc như phách, trống… hoặc phải hóa thân vào những nhân vật khác

nhau để trẻ hứng thú học hát. Đặc biệt không có giờ học hát riêng mà HĐCH luôn gắn

liền với các hình thức khác như: nghe nhạc, trò chơi âm nhạc hay vận động theo nhạc

và được tổ chức theo mỗi tuần với một hình thức là trọng tâm. Do đó, giờ âm nhạc nói

chung thì nhiều nhưng việc rèn luyện cho trẻ ca hát thì ít vì các giáo viên quá lạm

30

dụng trong việc tích hợp các hoạt động lại với nhau nên HĐCH đúng nghĩa không đạt

hiệu quả cao.

Câu 5: Theo chị, có cần thiết tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH không?

Bảng 2.5. Khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về việc tổ chức cho trẻ sáng

tạo trong HĐCH.

STT Mức độ nhận thức của giáo viên Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Rất cần thiết 26/60 43.3%

2 Cần thiết 34/60 56.7%

3 Ít cần thiết 0/60 0%

4 Không cần thiết 0/60 0%

Nhìn vào bảng 2.5: Khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về việc tổ chức cho

trẻ sáng tạo trong HĐCH. Có 56.7% (34 ý kiến) cho rằng việc tổ chức cho trẻ sáng tạo

trong HĐCH là cần thiết và có 43.3% (26 ý kiến) đồng tình việc tổ chức cho trẻ sáng

tạo trong HĐCH là rất cần thiết. Không có giáo viên nào cho rằng việc tổ chức cho trẻ

sáng tạo trong HĐCH là ít cần thiết và không cần thiết .

Qua bảng khảo sát chúng ta thấy được hầu hết tất cả các giáo viên đều cho rằng

tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH là hoạt động rất cần thiết đối với trẻ vì khi trẻ

được sáng tạo là trẻ đang thỏa mãn nhu cầu muốn tìm hiểu, muốn khám phá và muốn

thử sức với chính mình và sự sáng tạo đúng nghĩa chỉ được diễn ra theo sự tự nguyện,

không bị gò bò và luôn vui vẻ. Thế nhưng sự đồng tình cho đáp án “rất cần thiết” lại ít

hơn đáp án “cần thiết”, phải chăng việc tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH thì quá

khó, tốn nhiều thời gian và e ngại trẻ sẽ không làm được? Theo các giáo viên thì sáng

tạo là việc làm quá khó, mà sáng tạo trong HĐCH lại càng khó khăn hơn vì trẻ rất ít

vốn kinh nghiệm, khả năng ca hát còn hạn chế nên việc sáng tạo đối với trẻ là không

hề đơn giản.

31

Câu 6: Chị có thường xuyên tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH hay không?

Bảng 2.6. Khảo sát tần suất tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH

STT Tần suất tổ chức cho trẻ sáng Số ý kiến Tỷ lệ (%)

tạo trong HĐCH

1 Thường xuyên 42/60 70%

2 Thỉnh thoảng 18/60 30%

3 Ít khi 0/60 0%

4 Không bao giờ 0/60 0%

Nhìn vào bảng 2.6: Khảo sát tần suất tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH, ta

thấy có 70% (42 ý kiến) khi cho rằng phải thường xuyên tổ chức cho trẻ sáng tạo trong

HĐCH và 30% (18 ý kiến) cho rằng thỉnh thoảng tổ chức cho trẻ sáng tạo trong

HĐCH. Và giáo viên không cho rằng không bao giờ hoặc ít khi tổ chức cho trẻ sáng

tạo trong HĐCH.

Với những nhận định trên thì đa số các giáo viên nhận thức được rằng nên

thường xuyên tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH chiếm 70%, vì cho rằng việc tổ

chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH là cần thiết theo kết quả điều tra của câu 5. Thế

nhưng vẫn còn tới 30% giáo viên cho rằng chỉ thỉnh thoảng tổ chức cho trẻ sáng tạo

trong HĐCH. Điều này cho thấy nhận thức thì rất tốt nhưng trên thực trạng thì cũng

không ít giáo viên ngần ngại cho trẻ sáng tạo vì không biết nên chọn cách thức nào và

làm sao để tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH. Khi trao đổi cũng như tham gia vào

các giờ học của trẻ thì trẻ chỉ được sáng tạo các động tác vận động theo nhạc mà thôi,

giáo viên cũng chưa tạo điều kiện cho trẻ sáng tạo khi hát.

32

Câu 7: Chị sử dụng biện pháp nào để phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6

tuổi trong HĐCH?

Bảng 2.7. Khảo sát các biện pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong

HĐCH

STT Biện pháp Số ý kiến Tỷ lệ (%)

6/60 10% 1

Tạo môi trường vật chất phong phú để kích thích trẻ sáng tạo

19/60 31.7 % 2

Cho trẻ nghe nhiều bài hát cũng như các giai điệu khác nhau

3 Đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ để trẻ suy 7/60 11.7%

nghĩ và tưởng tượng ra lời hát mới

Tạo cơ hội cho trẻ tự thể hiện mình 8/60 13.3% 4

9/60 15% 5

Tạo bầu không khí tâm lý thoải mái, không áp đặt, gò bó trẻ

6 Gợi ý, hướng dẫn trẻ sáng tạo ra câu hát bất 11/60 18.3%

kì, hay thay đổi lời câu hát

Qua bảng 2.7: Khảo sát các biện pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong

HĐCH, sự đồng tình nhiều nhất là 31.7% ( 19 ý kiến) cho rằng cho trẻ nghe nhiều bài

hát cũng như các giai điệu khác nhau là biện pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo

trong HĐCH. Kế đến có 18.3% (11 ý kiến) các giáo viên cho rằng để phát huy khả

năng sáng tạo trong HĐCH cho trẻ cần phải gợi ý, hướng dẫn trẻ sáng tạo ra câu hát

bất kì, hay thay đổi lời câu hát. Tiếp theo những biện pháp được chọn không chênh

lệch nhau nhiều là tạo bầu không khí tâm lý thoải mái, không áp đặt, gò bó trẻ với

15% (9 ý kiến), biện pháp tạo cơ hội cho trẻ tự thể hiện mình 13.3% (8 ý kiến),11.7%

(7 ý kiến)cho rằng cần đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ để trẻ suy nghĩ và tưởng

tượng ra lời hát mới và cuối cùng biện pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong

HĐCH là tạo môi trường vật chất phong phú để kích thích trẻ sáng tạo với 10% (6 ý

kiến).

Nhìn chung biện pháp cho trẻ nghe nhiều bài hát cũng như các giai điệu khác

nhau để giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐCH là biện pháp được đồng tình

33

nhiều nhất chiếm gần 1/3 tổng số đáp án. Giáo viên nhận thức được muốn giúp trẻ

sáng tạo thì cần cung cấp cho trẻ nhiều vốn kiến thức cũng như giúp trẻ trải nghiệm, để

trẻ có thể vận dụng tốt thì trẻ mới sáng tạo được. Thế nhưng biện pháp tạo cơ hội cho

trẻ tự thể hiện mình thì chỉ có 8 giáo viên đồng ý cũng như biện pháp tạo bầu không

khí tâm lý thoải mái, không áp đặt, gò bó trẻ hay biện pháp đặt những câu hỏi gợi mở

cho trẻ để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng ra lời hát mới cũng đồng tình tương tự, những

biện pháp này không được giáo viên chú trọng, họ chưa nhận thức việc trẻ sáng tạo

cần được tự do và môi trường tâm lý thật thoải mái... Vì phần lớn trong giờ âm nhạc

mọi hoạt động đều diễn ra dưới sự sắp xếp của giáo viên, trẻ chủ yếu làm theo các yêu

cầu của cô. Do đó, người giáo viên vô tình dạy trẻ theo sự rập khuôn, bắt chước và đã

làm hạn chế sự sáng tạo của trẻ. Nên biện pháp giáo viên gợi ý, hướng dẫn trẻ sáng tạo

ra câu hát bất kì, hay thay đổi lời câu hát là biện pháp đứng thứ hai với 18.3% (11 ý

kiến). Sự tự do của trẻ trong sáng tạo là hoàn toàn không có, nó được thay thế bởi sự

hướng dẫn của giáo viên. Cuối cùng biện pháp khá quan trọng trong việc sáng tạo của

trẻ nhưng chỉ có 6 giáo viên đồng ý với việc tạo môi trường vật chất phong phú để

kích thích trẻ sáng tạo. Điều này cho thấy giáo viên còn hạn chế trong việc lựa chọn và

sử dụng các biện pháp nhằm giúp trẻ sáng tạo trong các hoạt động nói chung và trong

HĐCH nói riêng.

Câu 8: Chị thường gặp khó khăn gì để phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

5 - 6 tuổi trong HĐCH?

Bảng 2.8. Những khó khăn giáo viên gặp khi giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo

trong HĐCH

STT Những khó khăn Số ý kiến Tỷ lệ (%)

Trẻ cảm nhận bài hát chưa trọn vẹn 1 4/60 6.7%

Trẻ thường bắt chước bạn 2 6/60 10%

Cơ sở vật chất còn hạn chế: đồ dùng, dụng cụ 24/60 3 40%

âm nhạc…

4 Giai điệu trẻ tự sáng tạo chưa chuẩn 8/60 13.3%

5 Thời gian cho hoạt động chưa đủ 0/60 0%

6 Kỹ năng hát của trẻ còn hạn chế 18/60 30%

34

Qua bảng 2.8: Những khó khăn giáo viên gặp khi giúp trẻ phát huy khả năng

sáng tạo trong HĐCH. Chúng ta nhận thấy sự đồng tình nhiều nhất chiếm 40% (24 ý

kiến ) cho rằng cơ sở vật chất còn hạn chế: đồ dùng, dụng cụ âm nhạc… là khó khăn

hàng đầu trong việc giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐCH. Khó khăn kế

tiếp giáo viên chọn là kỹ năng hát của trẻ còn hạn chế với 30% ( 18 ý kiến), kế đến là

khó khăn giai điệu trẻ tự sáng tạo chưa chuẩn với 13.3 % ( 8 ý kiến) , trẻ thường bắt

chước bạn với 10% (6 ý kiến), trẻ cảm nhận bài hát chưa trọn vẹn với 6.7% ( 4 ý kiến).

Riêng khó khăn về thời gian cho hoạt động chưa đủ để phát huy khả năng sáng tạo

trong HĐCH không có giáo viên đồng tình.

Với kết quả khảo sát trên thì hầu hết giáo viên cho rằng cơ sở vật chất là mối

quan tâm hàng đầu cho việc giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐCH. Điều

này cũng dễ dàng nhận thấy trong số các trường chúng tôi đến thì chỉ có duy nhất một

trường có phòng chức năng, phòng này được sử dụng tổng hợp vừa dành cho hoạt

động âm nhạc và học vi tính. Có những nơi cả trường chỉ có 1-2 cây đàn organ và nó

chỉ được sử dụng khi lên tiết dự giờ hay thanh tra mà thôi. Phần lớn các giáo viên mở

nhạc bằng máy cát sét khi dạy trẻ hát, điều này phần nào đã ảnh hưởng đến hoạt động

học hát của trẻ nhưng nó không hoàn toàn quyết định đến khả năng sáng tạo của trẻ.

Kế đến kỹ năng hát của trẻ rất được giáo viên quan tâm, khi giáo viên cho rằng việc

sáng tạo trong HĐCH là phải làm sao cho trẻ hát hay hát đúng, rõ lời… Đây không

phải là mục đích của sáng tạo, muốn trẻ sáng tạo thì cần rất nhiều yếu tố như: môi

trường thoáng mát không bị ồn và kích thích trẻ sáng tạo, vốn kinh nghiệm, cơ hội trẻ

tự trải nghiệm, tâm lý trẻ phải thật sự tự do, thoải mái, không có sự áp đặt và hoàn toàn

không có sự rập khuôn. Bên cạnh đó giáo viên lại khá bận tâm về kỹ thuật ca hát của

trẻ với những khó khăn như: Giai điệu trẻ tự sáng tạo chưa chuẩn, trẻ thường bắt

chước bạn hay trẻ cảm nhận bài hát chưa trọn vẹn. Do đó, giáo viên cần nhìn nhận

đúng hơn về sáng tạo của trẻ nói chung và sáng tạo của trẻ trong HĐCH nói riêng,

không nên quá chú trọng đến cơ sở vật chất hoặc kỹ năng ca hát của trẻ, điều này sẽ

làm hạn chế cũng như gây cản trở trong việc giúp trẻ phát huy hết khả năng của mình

trong lĩnh vực sáng tạo.

35

2.2.2. Thực trạng về việc xây dựng giáo án để tổ chức HĐCH cho trẻ

5 - 6 tuổi

Qua việc trao đổi với giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi,

kết hợp với nghiên cứu giáo án tổ chức HĐCH và dự 12 tiết dạy nhạc chúng tôi nhận

thấy như sau:

Giáo viên đều có soạn giáo án tổ chức HĐCH cho trẻ 5 - 6 tuổi. Tuy nhiên giờ

âm nhạc được tổ chức theo 4 hình thức: dạy hát, nghe nhạc, trò chơi âm nhạc và vận

động theo nhạc. Mỗi giờ học được diễn ra với 1 hình thức là trọng tâm còn những hình

thức còn lại là tích hợp cho giờ học trở nên hấp dẫn lôi cuốn, giúp trẻ hoạt động tích

cực hơn. Do đó, hoàn toàn không có giờ dạy hát riêng biệt, trên tinh thần này chúng tôi

chỉ nhận xét những giờ học lấy hình thức dạy hát làm trọng tâm.

- Nội dung hướng dẫn trẻ trong HĐCH, với hình thức dạy hát là trọng tâm các

giáo án đã thể hiện các nội dung sau:

+ Trò chuyện gây hứng thú để dẫn dắt trẻ vào câu chuyện.

+ Cô đánh đàn hát mẫu.

+ Cô đàm thoại với trẻ.

+ Cô đánh đàn cho trẻ hát theo.

+ Cô sửa lỗi từ khó hát như sai chính tả hoặc hát chưa rõ tiếng…

+ Chia nhóm ra hát: theo tổ hoặc theo nhóm bạn trai, bạn gái.

+ Cô cho trẻ nghe nhạc, cô cùng trẻ hát và nhảy múa.

+ Chơi trò chơi âm nhạc và hát theo bài hát.

Ví dụ: dạy hát : “ Hoa lá mùa xuân”

+ Cô trò chuyện về mùa xuân, cô mùa xuân đến và tặng đĩa nhạc.

+ Cô mở nhạc cả lớp nghe (Hoa lá mùa xuân ).

+ Cô đánh đàn và hát cho trẻ nghe.

+ Mời một số bé hát tốt lên biểu diễn( múa, nhún nhảy)

+ Cô chia nhóm hát .

+ Cô cho trẻ nghe bài “ Mùa xuân đến rồi”, cô hát và cả lớp tay theo

+ Cô mời một số bé lên hát bài “ Hoa lá mùa xuân”

+ Chơi trò chơi âm nhạc: nhạc lớn hát mạnh, nhạc nhỏ hát nhẹ.

36

Bảng 2.9. Tiêu chí đánh giá giáo án của giáo viên

STT TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ

1 Mục đích yêu cầu rõ ràng theo 0/12 0%

hướng sáng tạo của trẻ

Biện pháp giảng giải 2 8/12 66.7%

Biện pháp làm mẫu 3 6/12 50%

Biện pháp sửa sai 4 5/12 41.7%

5 Biện pháp luyện tập biểu diễn diễn 2/12 16.7%

cảm cho trẻ: sắc thái, tình cảm

6 Biện pháp đặt trẻ vào tình huống có 0/12 0%

vấn đề để trẻ giải quyết

7 Chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ phong 9/12 75%

phú và hợp lý

8 Câu hỏi kích thích suy nghĩ, tưởng 0/12 0%

tượng sáng tạo cho trẻ

Qua bảng 2.9, ta thấy tỷ lệ đạt cao nhất là phần chuẩn bị đồ dùng rất được giáo

viên quan tâm chiếm 75%, tiếp theo là biện pháp giảng giải và làm mẫu chiếm hơn

50% vì giáo viên cho rằng dạy hát cho trẻ chủ yếu là để trẻ hát đúng và thuộc bài, biện

pháp sửa sai cũng không được quan tâm nhiều chỉ với 41.7%. Kế đến là biện pháp

luyện tập biểu diễn diễn cảm cho trẻ chỉ với 16.7% chỉ có 2 giáo án là đề cập đến.

Cuối cùng những tình huống, các câu hỏi cũng như các yêu cầu trẻ phải giải quyết hay

xử lý các vấn đề nhằm kích thích trẻ suy nghĩ, tưởng tượng thì hoàn toàn không có

trong giáo án.

* Nhận xét:

- Các giáo viên đều chưa xác định rõ mục đích yêu cầu chỉ nêu chung chung,

không có yêu cầu cụ thể trong giờ dạy hát để xác định các lĩnh vực phát triển cho phù

hợp. Và hoàn toàn không có yêu cầu phát triển sáng tạo của trẻ trong HĐCH. Vì vậy

việc lựa chọn các phương pháp, biện pháp giảng dạy cũng không phù hợp với mục tiêu

37

của việc dạy hát, điều này gây không ít khó khăn trong việc phát huy khả năng sáng

tạo của trẻ.

- Cô không đặt những câu hỏi gợi mở để giúp trẻ suy nghĩ, tưởng tượng cũng như

đặt trẻ vào những tình huống có vấn đề để trẻ tìm ra cách giải quyết cho riêng mình mà

chỉ có những câu hỏi giúp trẻ nhớ nội dung bài hát, học thuộc giai điệu. Tất cả HĐCH

này được diễn ra theo khuôn mẫu của giáo viên từ cách hát cũng như cách diễn đạt,

nếu có sự sáng tạo thì chỉ diễn ra trong cách vận động của trẻ nhưng cũng chỉ ở mức

khá đơn giản.

- Các biện pháp giáo viên sử dụng chủ yếu giúp trẻ tái tạo lại bài hát chứ không

kích thích trẻ thể hiện theo ý tưởng của mình, vì giáo viên cho rằng sáng tạo đối với trẻ

là rất khó, nên trong quá trình soạn giáo án cũng không đưa ra các yêu cầu cũng như

các biện pháp để kích thích cũng như phát triển sáng tạo cho trẻ. Riêng biện pháp

luyện tập biểu diễn diễn cảm cho trẻ thì có rất ít giáo viên sử dụng họ chỉ chú ý đến

biểu diễn theo vận động như nhún nhảy, lắc đầu,.. và ít quan tâm đến việc thể hiện sắc

thái, tình cảm của trẻ.

- Còn lại một số giáo án quá sơ sài vì những bài hát trong giờ dạy hát phần lớn

các trẻ đã thuộc hết, nên những yêu cầu trong phần mục tiêu, phần chuẩn bị, hay các

hoạt động đã không được cụ thể hóa mà phần lớn các giáo án quan tâm nên chọn bài

hát nào để dạy hát, nghe nhạc hay chọn trò chơi gì hoặc vận động gì cho phù hợp. Do

đó tính chất then chốt của HĐCH không còn mang bản sắc riêng mà nó đã bị tích hợp

với những hình thức dạy nhạc khác.

2.2.3. Thực trạng về việc tổ chức hoạt động ca hát của trẻ 5 - 6 tuổi.

Sau khi dự giờ về việc tổ chức HĐCH ( hình thức dạy hát là trọng tâm) tại các

lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi, chúng tôi có những nhận xét như sau:

- Cả 12 tiết học giáo viên đều có sự chuẩn bị về giáo án, dụng cụ âm nhạc: đàn,

trống lắc, máy cát sét… Tuy nhiên việc chuẩn bị đó còn khá đơn giản và rập khuôn.

- Cả 12 tiết học giáo viên đều đã thực hiện các công việc như sau:

+ Cô hát mẫu cho trẻ nghe kết hợp với đánh đàn hoặc mở nhạc đã thu âm sẵn.

Phần lớn những bài hát này trẻ đã được làm quen từ trước nên dường như các trẻ đã

thuộc. Do đó, hát mẫu của cô chỉ là làm đúng theo trình tự của giáo án mà thôi mặt

38

khác là giúp trẻ tập trung chú ý về cô hơn.

+ Giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại về bài hát trẻ vừa được nghe bằng

một hệ thống các câu hỏi đã chuẩn bị trong giáo án. Câu hỏi đàm thoại chủ yếu tập

trung vào các tên bài hát, tác giả hay nội dung bài hát, mà không có hoặc có rất ít

những câu hỏi giúp trẻ phát triển tư duy, tưởng tượng, những câu hỏi tình huống để trẻ

tự tìm cách giải quyết cho riêng mình có như thế thì trẻ mới sáng tạo khi hát được. Ví

dụ: khi dạy hát cho trẻ những bài hát dân ca, cô có thể đặt tình huống, “ Mẹ bé đi làm

về mệt rồi, bạn nào thương mẹ, có thể ru em bé ngủ được”. Có thể lúc đầu trẻ sẽ mượn

một bài hát mà trẻ thích để ru em ngủ nhưng sau nhiều lần trẻ có kinh nghiệm trẻ có

thể tự nghĩ ra 1 câu hát bất kì để ru em ngủ. Hoặc là sau khi dạy hát hay khi trẻ đã

thuộc bài hát, giáo viên có thể tổ chức cuộc thi làm nhạc sĩ sáng tác một câu hát mới từ

giai điệu bài hát đã biết… Những câu hỏi như thế sẽ kích thích trẻ suy nghĩ, tưởng

tượng, sáng tạo ra cách giải quyết riêng và đó vừa là những trò chơi, tình huống rất

hữu ích nhưng không gây nhàm chán cho trẻ.

+ Cô hát lại kèm theo múa hoặc nhún nhảy minh họa theo nhạc.

+ Cô cho cả lớp hát theo cô theo nhạc. Do phần lớn trẻ dã thuộc bài hát nên cô

không sửa sai cho trẻ nữa.

+ Cô mời một số bạn hát tốt, hát mẫu cho cả lớp nghe.

+ Cô chia nhóm hát thi đua, hoặc phân tổ vừa hát vừa múa.

+ Cô nhận xét, khen ngợi những bạn hát tốt và cổ vũ khích lệ những bạn hát chưa

tốt.

+ Cô thưởng cho các bạn một bài hát do cô hát hoặc mở đĩa.

+ Cô trò chuyện với trẻ về bài hát vừa được nghe.

+ Cô cho cả lớp hát lại bài hát đầu tiên cô dạy trẻ.

+ Cô cho trẻ chơi trò chơi âm nhạc hoặc là vận động theo nhạc bài hát đã được

dạy.

+ Cô nhận xét cuối buổi học và kết thúc.

Tất cả mọi hoạt động được diễn ra theo sự sắp xếp của cô, hoàn toàn không có

một sự khởi sướng nào từ trẻ, trẻ thụ động chỉ biết làm theo những gì cô đã hướng dẫn

mà không có cơ hội được kích thích tự suy nghĩ để đưa ra những cách thể hiện riêng

39

của chính mình. Các giờ học mà chúng tôi dự giờ đều mang tính chất tương tự, nó

mang đậm nét của sự trình diễn hơn là một giờ học hát. Vì vậy mà nó làm giảm đi khả

năng linh hoạt, thích ứng, cụ thể là khả năng sáng tạo khi đặt trẻ vào một tình huống

mới buộc trẻ phải tự giải quyết.

Giọng hát của cô chủ yếu là hát đúng, về truyền cảm cũng như độ luyến láy của

những từ khó thì giáo viên chưa diễn đạt tốt, đơn giản vì giáo viên nghĩ dạy hát cho trẻ

chủ yếu làm sao trẻ hát đúng và thuộc bài hát là được không đòi hỏi quá cao về sự biểu

cảm và sắc thái cũng như tình cảm của trẻ khi thể hiện bài hát. Thế nhưng giáo viên đã

không chú ý rằng khi mình hát truyền cảm hay giọng nói nhẹ nhàng thì trẻ rất hứng thú

và dễ dàng bắt chước theo, điều này sẽ kích thích trẻ hưng phấn và say mê học hát

hơn.

Về hình thức học hát giáo viên không nên chỉ chú ý về phần thuộc bài hát mà cần

quan tâm hơn nữa về khả năng biểu cảm của trẻ. Mỗi bài hát thường sẽ có cách diễn

cảm riêng, quan trọng là trẻ phải cảm nhận được bài hát đó có sắc thái ra sao và thể

hiện tình cảm như thế nào cho phù hợp với bài hát mà không quá khó so với khả năng

của mình. Việc làm này cần giáo viên quân tâm hơn nữa vì đây là sự hình thành tình

cảm, xúc cảm đầu tiên của trẻ đối với âm nhạc mà đơn giản là việc thể hiện nét mặt,

ánh mắt, nụ cười, hay sự nhẹ nhàng uyển chuyển cũng như sự mạnh mẽ thông qua việc

hát những ca từ, giai điệu của một bài hát. Bên cạnh đó việc nhận xét sau mỗi lần trẻ

hát hay thi đua giữa các nhóm, nói chung tất cả các giáo viên đều mới chỉ đưa ra ý

kiến của bản thân mình, nhận xét còn chung chung mà chưa khuyến khích trẻ tự đưa ra

ý kiến nhận xét, đánh giá bản thân và đánh giá bạn khác hát như thế nào?

Hoạt động âm nhạc nói chung hay HĐCH nói riêng của trẻ mầm non được diễn

ra dưới rất nhiều hình thức: giờ học, giờ chơi, biểu diễn văn nghệ, lễ hội… Do đó, việc

cho trẻ làm quen một bài hát, hay dạy trẻ hát một bài hát mới nó không chỉ gói gọn

trong giờ học nhạc nữa, mà chúng ta vẫn thường hay nghe quen cụm từ “ dạy hát mọi

lúc mọi nơi”. Vậy, thời gian để trẻ biết và thuộc các bài hát là rất nhiều nên trong giờ

học hát, cho dù giáo viên chọn hình thức dạy hát là trọng tâm thì bài hát này hoàn toàn

không còn xa lạ với trẻ, thậm chí có rất nhiều trẻ đã thuộc. Thế nhưng trình tự của

HĐCH lại diễn ra cũng chỉ với mục đích thuộc bài hát, biểu diễn bài hát kết hợp với

40

vận động hay trò chơi mà thôi. Sự rập khuôn ấy làm cho trẻ khó hào hứng hay không

thể tập trung chú ý nhiều được. Do đó để trẻ hứng thú và sáng tạo hơn khi tham gia vào

HĐCH thì giáo viên cần phải khuyến khích, động viên trẻ để giúp trẻ tự tin khi thể hiện,

đặt những câu hỏi để kích thích trẻ tư duy, tưởng tượng, đặt trẻ vào nhiều tình huống và

cách giải quyết khác nhau. Đặc biệt, không nên áp đặt trẻ làm theo yêu cầu của giáo

viên, vì muốn trẻ sáng tạo thì trẻ phải được tự do, tâm lý phải thoải mái, tình huống đưa

ra phải nhẹ nhàng uyển chuyển không gượng ép. Hãy xem đây chỉ là những trò chơi để

trẻ cảm thấy tự tin khi mình thể hiện hơn là những bài tập bắt trẻ phải giải quyết.

2.2.4. Thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH

Để tìm hiểu thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong

HĐCH, chúng tôi đã tổ chức đưa trẻ vào các tình huống có vấn đề và đưa ra những

tiêu chí đánh giá mức độ của trẻ như sau:

Bảng 2.10. Tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH

STT BÀI TẬP TIÊU CHÍ BIỂU HIỆN SÁNG TẠO MỨC ĐIỂM

CỦA TRẺ ĐỘ

Không nghĩ ra câu hát nào I 0 1 Bài tập 1: 1. Nghĩ ra

Tạo ra câu nhiều câu hát Nghĩ ra 1 câu hát II 1

hát mới Nghĩ ra 2 câu hát khác nhau III 2

từ giai điệu Nghĩ ra từ 3 câu hát khác IV 3

có sẵn nhau trở lên

Dưới 1/4 số từ trong câu hát I 0 2. Từ trong câu

phù hợp với giai điệu có sẵn hát phù hợp

với giai điệu có Từ 1/4 – 2/4 số từ trong câu II 1

sẵn (dấu và độ hát phù hợp với giai điệu có

lên xuống) sẵn

(Chọn 1 câu Từ 2/3 – 3/4 số từ trong câu III 2

hát hay nhất hát phù hợp với giai điệu có

để đánh giá) sẵn

41

Trên 3/4 số từ trong câu hát IV 3

phù hợp với giai điệu có sẵn

Không chuyển được câu thơ I 0 2 Bài tập 2: 1. Số lượng câu

thành câu hát Chuyển

câu thơ Chuyển thành 1 câu hát II 1

“ Ông mặt Chuyển thành 2 câu hát III 2

trời óng Chuyển thành từ 3 câu hát IV 3

ánh” thành Dưới 1/4 giai điệu phù hợp I 0 2. Giai điệu

câu hát với câu thơ phù hợp với từ

trong câu Từ 1/4 – 2/4 giai điệu phù hợp II 1

thơ (dấu và với câu thơ

độ lên xuống) Từ 2/4 – 3/4 giai điệu phù hợp III 2

( chọn 1 câu hát với câu thơ

hay nhất để đánh Trên 3/4 giai điệu phù hợp với IV 3

giá) câu thơ

Sự ngắt quãng của câu hát I 0 3. Sự ngắt

hoàn toàn không phù hợp với quãng của câu

nghĩa của câu thơ hát phù hợp

với nghĩa của Sự ngắt quãng của câu hát ít II 1

câu thơ phù hợp với nghĩa của câu thơ

Sự ngắt quãng của câu hát III 2

tương đối phù hợp với nghĩa

của câu thơ

Sự ngắt quãng của câu hát rất IV 3

phù hợp với nghĩa của câu thơ

I 0 - 2 từ 0 3 Bài tập 3: 1. Số lượng từ

Ru em bằng trong câu II Từ 3 - 4 từ 1

một câu hát III Từ 5 - 6 từ 2

mới IV Từ 7 từ trở lên 3

42

Không có câu nào I 0 2. Số lượng câu

Tạo được 1 câu II 1

Tạo được 2 câu III 2

Từ 3 câu trở lên IV 3

Không có giai điệu I 0 3. Giai điệu

II 1 Giai điệu dưới 4 nốt nhạc

2 Giai điệu trên 4 nốt nhạc III

nhưng bị lập lại

3 Giai điệu trên 4 nốt nhạc IV

nhưng không bị lập lại

Mức độ Mức độ sáng tạo Điểm

I Không sáng tạo 0

II Ít sáng tạo 1

III Sáng tạo 2

IV Rất sáng tạo 3

Trẻ rất sáng tạo: 20 – 24 điểm

Trẻ sáng tạo: 12 – 19 điểm

Trẻ ít sáng tạo: 4 – 11 điểm

Trẻ không sáng tạo: < 4 điểm

Sau khi điều tra, quan sát theo biên bản cùng với việc phân tích đánh giá, xếp

loại theo các tiêu chí nêu trên, căn cứ theo phụ lục 3, kết quả cụ thể về khả năng sáng

tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐCH ở các trường được tổng hợp như sau:

43

Bảng 2.11. Tổng hợp và đánh giá chung về khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi

trong HĐCH

Loại Rất sáng Sáng tạo Ít Không Tổng số

tạo sáng tạo sáng tạo trẻ Số lượng

trẻ

0 Trường MN Hướng Dương 8 17 15 40

0 Trường MN Hoa Mai 2 4 4 10

0 Trường MN Hòa Bình 1 4 5 10

0 Trường MN Hố Nai 9 16 15 40

0 Trường MN Trấn Biên 1 4 5 10

0 Trường MN Trảng Dài 1 3 6 10

0 Số lượng 22 48 50 120 Tổng số 0% Phần trăm 18.3% 40% 41.7%

0% 60 % trường nội thành 18.3% 41.7% 40%

0% 60 % trường ngoại thành 18.3% 38.3% 43.3%

Nhận xét:

Qua khảo sát, cả 6 trường tỉ lệ trẻ không sáng tạo là chiếm đa số 41.7% (50/120

trẻ ): chiếm gần 1/2 tổng số, cho thấy phần lớn các trẻ có rất ít kinh nghiệm trong

HĐCH. Trẻ có thể hát lại câu hát đã nghe nhưng không thể hát lời khác từ giai điệu

câu hát đó. Trẻ có thể ru em ngủ thông qua nhưng bài hát mình đã thuộc nhưng không

thể tự nghĩ ra một câu hát mới. Hay trẻ có thể đọc thuộc rất nhiều bài thơ, thậm chí có

những bài thơ trên 20 câu nhưng lại không thể hát được 1 câu thơ rất quen thuộc, phải

chăng vì trẻ không thích hát hay không thể hát? Khi chúng tôi điều tra thì không có

một giáo viên nào cho rằng thời gian giành cho HĐCH là ít, chứng tỏ thời gian của

hoạt động này khá nhiều. Tuy nhiên, giáo viên đã không tận dụng ưu thế này để tổ

chức giờ học nhạc phong phú cho trẻ, mà thường rập khuôn, áp đặt trẻ theo các hoạt

động mà giáo viên đã sắp xếp.

44

Tiếp đến là tỉ lệ trẻ ít sáng tạo 40% ( 48/120 trẻ ). Trẻ có thể nghĩ ra được 1 câu

hát từ giai điệu có sẵn nhưng từ trong câu hát hoàn toàn chưa phù hợp. Trẻ có thể

chuyển được 1 câu thơ quen thuộc thành 1 câu hát nhưng còn ở mức độ rất thấp, còn

có những hạn chế như: sự ngắt quãng của câu hát hoàn toàn không phù hợp với nghĩa

của câu thơ, hay giai điệu chưa hợp lý về dấu cũng như độ lên xuống của các ca từ.

Hay trẻ có thể ru em bé ngủ với 1 lời ru rất ngắn chẳng hạn: “ à ơi, à ơi, à ơi”, “ à ơi,

em ngủ đi em”… số từ trong câu hát khá ngắn gọn và giai điệu thường lập lại. Qua đây

chúng ta thấy trẻ thực hiện còn rất hạn chế các yêu cầu của bài tập, chứng tỏ khả năng

sáng tạo của trẻ trong HĐCH còn ở mức khá thấp.

Loại sáng tạo chiếm tỉ lệ rất thấp 18.3% (22/120 trẻ). Đây là những trẻ thực hiện

tương đối các bài tập, trẻ có thể nghĩ ra câu hát từ giai điệu có sẵn với 2/3 số từ trong

câu hát phù hợp với giai điệu. Trẻ có thể chuyển được 1 câu thơ đã biết thành 2 câu hát

khác nhau nhưng giai điệu về dấu và độ lên xuống chỉ phù hợp khoảng 2/3 số từ trong

câu thơ. Bên cạnh đó, trẻ cũng có thể nghĩ ra những lời ru khá ngắn và giai điệu cũng

lặp lại hơn. Thế nhưng những trẻ thực hiện những bài tập này chỉ ở mức độ tương đối

còn rụt rè, chưa mạnh dạn thể hiện ý tưởng của mình. Loại rất sáng tạo không có trẻ

nào.

Khả năng sáng tạo của trẻ ở trường nội thành và ngoại thành có sự chênh lệch

như sau: loại không sáng tạo ở trường ngoại thành cao hơn trường nội thành là 3.3%,

loại ít sáng tạo trường nội thành 41.7% cao hơn trường ngoại thành 3.4% , loại sáng

tạo trường nội thành và ngoại thành bằng nhau là 18.3%, loại rất sáng tạo thì không có

trẻ nào. Điều này cho thấy trẻ ở trường nội thành do được tiếp xúc những điều kiện

thuận lợi hơn trường ngoại thành như: lễ hội, các buổi biểu diễn văn nghệ, các cuộc thi

ca hát, cùng với cơ sở vật chất của trường như: đàn, nhạc cụ, các bộ gõ... Do đó khả

năng sáng tạo của trẻ trường nội thành cao hơn trường ngoại thành.

Nhìn chung khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH còn thấp là do giáo viên chưa

có những biện pháp để kích thích trẻ sáng tạo khi tổ chức HĐCH cũng như chưa có

hình thức khác khơi gợi trẻ sáng tạo. Hệ thống các câu hỏi hay các yêu cầu bài tập chủ

yếu là trẻ hát đúng và thuộc, hoàn toàn không có khái niệm sáng tạo đây. Do đó, trẻ rất

ít có cơ hội tự thể hiện mình, nên việc trải nghiệm các bài tập mà chúng tôi đưa ra là

rất khó khăn đối với trẻ.

45

Tiểu kết chương 2

Qua việc phân tích kết quả thực trạng giáo án và việc tổ chức HĐCH cho trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi cũng như thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH. Chúng tôi

có những nhận định như sau:

Về nhận thức: Đa số giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của HĐCH và

cũng nắm được những biểu hiện sáng tạo của trẻ. Tuy nhiên trên giờ học HĐCH còn

mang tính biểu diễn, giáo viên chưa thật sự chú ý cũng như chưa tạo nhiều cơ hội sáng

tạo cho trẻ. Do đó, trẻ chỉ có thể làm theo hoàn toàn và không có sự khởi sướng từ trẻ,

điều này vô tình đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ.

Về giáo án: Giáo viên có soạn đầy đủ giáo án khi lên tiết dạy, có đồ dùng, đồ

chơi… Giáo viên cũng sử dụng những câu hỏi đàm thoại để giúp trẻ nắm nội dung bài

hát, tác giả, lời bài hát, giai điệu cũng như tiết tấu, giúp trẻ hiểu rõ và mau thuộc bài

hát hơn. Tuy nhiên phần lớn các giáo án dành cho tiết dạy rất sơ sài, mục đích, yêu cầu

còn nêu chung chung, chưa cụ thể hóa điều cần đạt ở trẻ trong HĐCH là gì?

Về khả năng sáng tạo của trẻ: rất ít trẻ sáng tạo trong HĐCH và ở mức độ rất

thấp bởi vì tất cả các hình thức trên chỉ dừng lại ở mục đích là giúp trẻ thuộc bài hát và

yêu thích âm nhạc. Bên cạnh đó giờ học hát chưa hoàn toàn đặt trẻ làm trung tâm, mọi

hoạt động đều diễn ra theo yêu cầu của cô. Do đó, sự chủ động, tích cực của trẻ chưa

được đánh giá cao.

Từ thực trạng trên cho thấy để tổ chức tốt HĐCH cho trẻ ngoài việc chuẩn bị tốt

về cơ sở vật chất: đàn, nhạc cụ, dụng cụ âm nhạc… Bên cạnh đó giáo viên cần làm

phong phú hơn các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ bằng hệ thống các câu hỏi, bài

tập kích thích trẻ suy nghĩ và thực hiện theo ý riêng của mình. Tạo thật nhiều cơ hội

cho trẻ trải nghiệm, không áp đặt trẻ phải làm đúng hay rập khuôn theo một cách thức,

đồng thời luôn khuyến khích để trẻ mạnh dạn hơn. Điều này sẽ góp phần kích thích

làm tăng khả năng sáng tạo của trẻ nói chung và phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

trong HĐCH nói riêng.

46

Chương 3

THỰC NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG HĐCH

Ở TRƯỜNG MẦM NON

3.1. Xây dựng các biện pháp tổ chức HĐCH cho trẻ

3.1.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp tổ chức HĐCH cho trẻ

Sáng tạo là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, không phải

chỉ có những người làm nghệ thuật mới phải thường xuyên sáng tạo mà những người ở

những ngành nghề khác nhau cũng đều liên quan đến nó. Muốn phát triển sáng tạo đòi

hỏi trẻ phải ở trong môi trường nhất định mà quan trọng nhất đó chính là giáo dục.

Nếu được giáo dục đúng đắn thì khả năng này sẽ phát triển ở trẻ rất tốt, nếu không khả

năng này sẽ bị hạn chế.

Căn cứ vào đặc điểm phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo cùng với quan

điểm đổi mới giáo dục hiện nay HĐCH giữ vai trò rất quan trọng và rất cần thiết trong

việc giáo dục, góp phần rất lớn trong việc phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ.

Qua khảo sát thực trạng, việc tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH còn ít và

chưa được quan tâm, làm chúng tôi phải suy nghĩ thêm: Làm thế nào để tìm ra một số

biện pháp phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ - giúp trẻ phát triển khả năng này tốt hơn

trong HĐCH?

Việc tìm ra các biện pháp nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi

trong HĐCH đã được chúng tôi xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn như

sau:

+ Đặc điểm về khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo.

+ Kết quả điều tra nghiên cứu thực trạng việc tổ chức HĐCH cho trẻ 5 - 6 tuổi ở

một số trường mầm non.

Qua đó, chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp nhằm phát huy khả năng sáng

tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH và ở những biện pháp này phải đảm bảo được những

nguyên tắc sau:

- Biện pháp tổ chức HĐCH phải hướng tới mục tiêu chung của giáo dục mầm

47

non là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mẫu giáo.

- Biện pháp dạy trẻ phải đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển, tính hệ thống

nhưng phải mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với từng hoàn cảnh và đối tượng giáo dục.

- Các biện pháp cần được xây dựng dựa trên cơ sở tính đến đặc điểm tâm lí, nhận

thức của trẻ, đảm bảo tính vừa sức, có yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi trẻ phải nỗ lực cố

gắng khi tham gia HĐCH.

- Biện pháp đưa ra phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tạo điều kiện

cho trẻ thật nhiều cơ hội được trải nghiệm với những tình huống, những yêu cầu bài

tập để trẻ có thể vận dụng tốt những kinh nghiệm cũng như kích thích được trí tưởng

tưởng, sáng tạo của trẻ.

- Các biện pháp cần phải được đảm bảo đáp ứng kinh nghiệm, nhu cầu của lứa

tuổi, để phát huy thật tốt khả năng sáng tạo của trẻ trong các hoạt động nói chung và

trong HĐCH nói riêng.

Đó là những cơ sở khoa học đã giúp chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm

phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH.

3.1.2. Các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong

HĐCH

3.1.2.1. Biện pháp làm giàu vốn kinh nghiệm ca hát cho trẻ

Giáo viên cho trẻ được tiếp xúc các bài hát trên giờ học hay ở mọi lúc, mọi nơi

cùng với việc sử dụng hệ thống câu hỏi cũng như trò chuyện với trẻ về bài hát (nội

dung, tính chất sắc thái, những hình ảnh trong bài hát…) để trẻ có thêm nhiều kinh

nghiệm, vốn sống, xúc cảm, tình cảm của bài hát... điều này đã làm phong phú biểu

tượng trong đầu trẻ giúp trẻ có thể vận dụng tốt những kinh nghiệm đó vào kỹ năng ca

hát và khả năng biểu diễn để giúp trẻ cảm thụ tốt hơn về các bài hát đồng thời khơi gợi

ở trẻ các hình ảnh tưởng tượng, phong phú về âm nhạc. Ví dụ như dạy bài hát : “Chú

bộ đội đảo xa”, của tác giả Trần Xuân Tiên giáo viên đã sử dụng hệ thống các câu hỏi

như sau: bài hát nói về điều gì? Các con có yêu quí chú bộ đội không?... Cô trò chuyện

về tính chất bài hát, bài hát có tiết tấu nhanh khi hát thể hiện sắc thái vui tươi. Hoặc

khi dạy hát giáo viên dùng lời để giải thích và sửa sai cho trẻ những từ hát chưa đúng,

chưa rõ lời hay những chỗ cần hát nhanh, chậm cho phù hợp...

48

Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động văn nghệ, lễ hội đặc biệt là các tiết

mục âm nhạc để góp phần nâng cao kỹ năng ca hát, nghệ thuật diễn cảm, đồng thời

giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn khi thể hiện bài hát. Khác với trước đây là trẻ rụt rè, nhút

nhát khi hát trước tập thể, thậm chí không giám mở miệng ra hát vì sợ hát sai hay sợ

bạn chê cười. Bên cạnh đó còn giúp trẻ gắn bó cảm xúc với các ca từ, giai điệu, tạo

tiền đề cho tinh thần yêu âm nhạc của trẻ về sau.

Ngoài hình thức cho trẻ hát một mình, giáo viên cần chú trọng đến hình thức

nhóm, tạo điều kiện cho trẻ tự trao đổi, bàn bạc học tập kinh nghiệm lẫn nhau với nhau

thông qua những lần thể hiện bài hát, cách biểu diễn cũng như việc ghi nhớ bài hát…

Cho trẻ sử dụng nhiều dụng cụ, đồ chơi âm nhạc đa dạng, phong phú, có thể tận

dụng những vật liệu, đồ dùng, đồ chơi có sẵn ở trong lớp để bày trí sân khấu để trẻ có

điều kiện tìm tòi, khám phá, hoạt động tích cực và phát triển khả năng sáng tạo trong

HĐCH.

Giáo viên cần sử dụng lời nói sinh động, giàu hình ảnh cũng như biểu cảm trên

mặt khi giới thiệu về bài hát. Chẳng hạn như: giọng nói cô lên, xuống lúc nhanh, lúc

chậm tránh nói đều đều, đôi lúc tươi cười khi nói về những hình ảnh vui nhộn như các

bài hát về mùa xuân, hoặc có thể giả làm giọng nói, tiếng kêu của các con vật... để

giúp trẻ thêm hứng khởi và cảm nhận tốt về nội dung bài hát. Bên cạnh đó việc sử

dụng những lời nói sinh động trong quá trình hướng dẫn, gợi ý cho trẻ sẽ giúp trí

tưởng tượng của trẻ bay bỗng. Trẻ sẽ tưởng tượng ra nhiều hình ảnh phong phú, từ đó

sẽ làm nảy sinh sự sáng tạo khi tham gia vào HĐCH.

3.1.2.2. Biện pháp tạo môi trường tốt nhất cho trẻ

* Môi trường tâm lý

Việc kích thích trẻ phát huy khả năng sáng tạo đòi hỏi giáo viên phải tạo cho trẻ

một môi trường tự nhiên, thoải mái, không gò bó, áp đặt trẻ. Phải luôn tôn trọng trẻ,

mọi hành động của trẻ phải được đề cao và đặt hi vọng. Chẳng hạn khi cho trẻ thử sức

với cách hát khác của một câu hát quen thuộc, hoặc thêm lời cho một giai điệu mà trẻ

đã biết, giáo viên quá đặt nặng là trẻ phải làm được ngay, phải hát thật tốt cũng như

các câu hát của trẻ phải hoàn toàn khác nhau. Nếu như trẻ không làm được hoặc chỉ

bắt trước bạn của mình thì giáo viên nên quan tâm và cổ vũ trẻ hơn nữa tránh tạo áp

49

lực cho trẻ, tạo cho trẻ cảm thấy sáng tạo là một trò chơi, đồng thời luôn tôn trọng mọi

sản phẩm mà trẻ làm ra.

Khi đứa trẻ cảm thấy một bầu không khí an toàn thì không còn sự mắc cỡ, rụt rè,

sợ sệt, có thể làm tất cả những gì mình mong muốn như tự nghĩ ra câu hát riêng, hay

biểu diễn một bài hát theo ý thích của mình. Trẻ không còn cứng nhắc, sợ hãi khi tự

khám phá ra con người thật của mình, trẻ cảm thấy rất tự do, thoải mái khi thể hiện

những ý tưởng của mình trong HĐCH.

Khả năng sáng tạo chỉ được đâm chồi, nảy lộc khi được chấp nhận, kích thích sự

tò mò, ham hiểu biết, tạo điều kiện cho trẻ thử nghiệm trong những tình huống mới.

Chẳng hạn như thay vì yêu cầu trẻ tạo ra câu hát mới thì giáo viên có thể đặt ra tình

huống: “ Mẹ đi chợ lâu chưa về nhưng em bé buồn ngủ rồi mà không có ai ru em ngủ,

các con hãy ru em ngủ giùm mẹ nhé!”, giáo viên có thể tổ chức những cuộc thi: “Nhạc

sĩ nhí” cho trẻ sáng tạo lời cho những giai điệu mà trẻ quen thuộc, hát lên từ câu thơ

mà trẻ biết... Tất cả những kích thích hay những tình huống này sẽ làm tiền đề vững

chắc để tạo cho trẻ một tâm lý an toàn, tự tin khi sáng tạo.

Bên cạnh đó giáo viên phải kiên nhẫn, gợi ý kịp thời, cũng như tôn trọng những

gì trẻ làm được, cho trẻ biết mình luôn tin tưởng vào khả năng của trẻ, cho phép trẻ

hoàn toàn tự do thể hiện những ý tưởng của mình trong quá trình trẻ tham gia HĐCH

để trẻ có thể độc lập, tự tin hơn khi thể hiện khả năng sáng tạo của mình.

Sự động viên, quan tâm, chú ý đến trẻ, khuyến khích trẻ là điều kiện rất cần thiết

trong việc phát huy khả năng sáng tạo của trẻ. Những ý tưởng xuất phát ở trẻ nếu được

động viên, khuyến khích của những người xung quanh sẽ giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và

phát triển những ý tưởng mới. Điều này sẽ giúp trẻ phát triển được tính độc lập trong

hoạt động sáng tạo.

Đồng thời giáo viên nên sử dụng những lời động viên, khuyến khích trẻ kịp thời

khi trẻ khám phá ra những điều mới, cách thể hiện mới.

Nếu bất kỳ một khởi xướng ý tưởng nào của cá nhân cũng được chấp nhận ngay

từ đầu cùng với một môi trường thuận lợi cũng như được sự quan tâm, ủng hộ của giáo

viên thì tâm lý an toàn được củng cố và phát triển rất cao, nó góp phần giúp trẻ hình

thành việc tự nhận thức, tự đánh giá thúc đẩy sự phát triển những ý tưởng mới.

50

Một môi trường thuận lợi phải là một môi trường tự nhiên, thoải mái, không có

sự nhòm ngó, để ý, đánh giá, nhận xét, xem xét, xét nét, quan tâm quá mức, như thế sẽ

làm cho trẻ cảm thấy mất hết sự tự do.

Trong quá trình cho trẻ tham gia vào HĐCH phải tạo ra bầu không khí thi đua

nhưng không ganh đua giữa các nhóm hay giữa cá nhân với nhau. Giáo viên phải định

hướng, giúp trẻ có những lời nhận xét nêu lên cái đẹp, cái tốt của bạn, tránh xem xét,

xét nét quá mức, nếu không sẽ tạo cho trẻ cảm giác lo âu, phòng vệ, cảnh giác, xem

chừng, thậm chí mất cả phương hướng mà không hay biết.

Cách phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo cho trẻ là tạo cho trẻ sự an toàn về tâm

lý bao gồm chấp nhận cá nhân như một giá trị vô điều kiện, tổ chức một môi trường

thuận lợi để trẻ cảm thấy hứng thú, tích cực, say mê như là đang vui chơi với những

sáng tạo mà mình tự tạo ra, hơn là những yêu cầu hay sự áp đặt.

* Môi trường vật chất

Để trẻ có nhiều cơ hội thể hiện sự sáng tạo trong HĐCH cần tạo môi trường vật

chất cho trẻ, đây là điều kiện bên ngoài của hoạt động sáng tạo nhưng nó giữ vai trò

quan trọng trong việc hình thành nhân cách sáng tạo.

Khi tổ chức HĐCH cho trẻ phải tạo một không gian thoáng mát, rộng rãi, yên

tĩnh, trẻ phải thật sự cảm thấy vui vẻ, thoải mái khi tham gia thể hiện hay biểu diễn các

bài hát.

Phải trang bị đầy đủ các đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ âm nhạc, các thiết bị âm nhạc

cần thiết khi tổ chức HĐCH. Nếu có đủ những dụng cụ, đồ dùng khi thực hiện thì trẻ

sẽ tham gia tích cực giúp trẻ có nhiều điều kiện để tự do thể hiện, góp phần nâng cao

hứng thú là tiền đề vững chắc để trẻ thỏa sức sáng tạo. Chẳng hạn khi trẻ hát kết hợp

với những bộ gõ đệm, hay trống, đàn, kèn thì những âm nhanh được tạo ra từ những

bộ nhạc cụ ấy sẽ giúp trẻ hát hay hơn, hát đúng nhịp hơn. Bên cạnh đó, nó còn kích

thích trẻ hứng thú hơn trong việc tạo ra những âm thanh, tiết tấu hay những giai điệu

ngẫu nhiên khi trẻ chơi, dần dần trẻ ghi nhớ và có thể sáng tạo những ca từ mới cho

các giai điệu mình vừa tạo ra.

3.1.2.3. Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ

* Rèn kỹ năng ca hát trên giờ học

51

Hình thức trên tiết học là hình thức cung cấp kiến thức và kỹ năng cho trẻ một cách

chính xác và đầy đủ nhất. Ở giờ hoạt động này, tất cả các trẻ đều được tham gia và trước

khi tiến hành dạy trẻ hát một bài hát nào đó thì giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về

đồ dùng dạy học, về đồ chơi, lựa chọn nội dung bài hát.

Khi tiến hành trên lớp phần thực hiện hát mẫu của cô phải hát đúng, rõ lời, đúng

giai điệu bài hát, có như vậy trẻ mới tri giác bài hát một cách trọn vẹn và chính xác

được. Bởi lứa tuổi này, trẻ đang bắt chước và làm theo người lớn nên mọi cử chỉ, việc

làm của cô phải chuẩn mực để làm gương cho trẻ học tập và noi theo. Nếu cô hát

không chuẩn lời, giai điệu không đúng trẻ sẽ bắt chước hát theo, điều này sẽ rất khó

khăn cho việc sửa sai cho trẻ về sau.

Trong khi dạy trẻ hát, giáo viên luôn chú ý lắng nghe trẻ hát để phát hiện ra chỗ

hát sai kịp thời sửa chữa uốn nắn lại cho trẻ. Ví dụ: Dạy trẻ bài hát: “Mùa xuân đến

rồi” qua tiết dạy thường thì trẻ hát sai về giai điệu câu hát “Mùa xuân đến hát ca reo

vui mừng” vì câu hát này có dấu luyến, nên giáo viên có thể cho trẻ hát lại nhiều lần.

Bên cạnh việc hát đúng lời, giáo viên cần chú ý cách thể hiện sắc thái, tình cảm

cũng như sự biểu cảm trên nét mặt của trẻ. Giúp trẻ linh hoạt hơn trong cách biểu diễn

bài hát như bài hát có tiết tấu nhanh thì hát vui tươi, nhí nhảnh, ngược lại bài hát trầm

lắng thì hát chậm lại và thể hiện nét mặt buồn...

Đặc biệt ở lứa tuổi này, trẻ chỉ có thể hát được những bài có âm vực vừa phải,

câu hát đơn giản không luyến láy nhiều, vì vậy phải lựa chọn bài hát có nội dung tính

chất âm nhạc phù hợp với nhận thức và tâm lý của trẻ.

Ngoài ra, để tránh cho trẻ sự nhàm chán giáo viên tổ chức thi đua hát giữa các

nhóm, các tổ xem nhóm nào, tổ nào hát đúng nhất, hay nhất, có như thế mới kích thích

được trẻ tích cực rèn luyện và tạo hứng thú cho trẻ trong học tập.

* Rèn kỹ năng thông qua các trò chơi âm nhạc

Đối với trẻ thơ, việc làm quen với âm nhạc thông qua các trò chơi âm nhạc là

một biện pháp hữu hiệu nhất vì đặc điểm lứa tuổi mầm non là học mà chơi, chơi mà

học. Hiện nay, trong các nhà trường, trò chơi âm nhạc được coi là một trong các hình

thức vận động theo nhạc của chương trình giáo dục âm nhạc mầm non, nó có vai trò

quan trọng giúp trẻ luyện tai nghe nhạc, củng cố ca hát, tạo cảm giác nhịp điệu, phát

52

triển năng khiếu âm nhạc. Các yếu tố đó góp phần làm cho trẻ cảm thụ âm nhạc một

cách tốt hơn.

Để tổ chức tốt trò chơi âm nhạc cho trẻ giáo viên cần phải lựa chọn trò chơi một

cách phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp nhận của trẻ. Chẳng hạn trò chơi

nghe tiếng hát tìm đồ vật, trò chơi này giúp trẻ phát triển kỹ năng hát và nghe nhạc,

hoặc trò chơi nghe giai điệu âm nhạc và xướng âm bằng âm La, yêu cầu của trò chơi

này: Khi cô đánh giai điệu lời ca bài hát nào đó, trẻ chú ý nghe và xướng âm bằng “âm

La” bài hát đó.

Ví dụ: Trong bài hát “Mùa xuân” của tác giả Hoàng Văn Yến, cô đánh trên đàn:

Fa fa son son lá, trẻ hát la la la la lá hoặc trò chơi âm nhạc “Tập làm ca sĩ”, yêu cầu

của trò chơi: Cô hát một câu hát bất kỳ, khi hát dứt câu quả bóng được truyền đến tay

bạn nào thì hát lại câu cô vừa hát. Chú ý giáo viên nên lựa chọn những câu hát khó, trẻ

hay hát sai trong bài hát để cá nhân trẻ được luyện tập nhiều lần câu hát đó.

3.1.2.4. Biện pháp giúp trẻ vận dụng kinh nghiệm

- Tìm hiểu và theo dõi năng lực, sở thích của trẻ đối với những bài hát khác nhau.

Có trẻ hát có giọng thanh thì nên cho trẻ sáng tạo những câu hát có âm vực dài và cao

độ cao, ngược lại trẻ có giọng trầm thì hát những bài hát có cao độ thấp, hay có những

bé có khả năng hát luyến láy rất tốt thì nên cho bé hát hay sáng tạo về mảng dân ca

như những câu hò, ru em... Qua đó, giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ trẻ kịp thời thể hiện

thật tốt các bài hát theo khả năng, sự cảm nhận và sự sáng tạo riêng của mình.

- Tập cho trẻ nhớ lại những giai điệu, tiết tấu, ca từ của bài hát để trẻ có thể hình

dung ra cách thể hiện một cách phù hợp thông qua các trò chơi, hay tổ chức các buổi

tranh tài, thi đua với sự linh hoạt của giáo viên.

- Dạy trẻ biết thể hiện biểu cảm cho phù hợp với giai điệu khi hát như: sự biểu

cảm của nét mặt, sự vui tươi trong giọng hát, sự uyển chuyển với các ca từ khó hay

việc nhún nhảy, lắc lư đầu cho phù hợp với tiết tấu…

- Tạo cơ hội cho trẻ quen dần với các tình huống nảy sinh nhưng phải thật nhẹ

nhàng uyển chuyển, không tạo áp lực với trẻ. Các tình huống được tổ chức dưới hình

thức trò chơi như: “ Ai là nhạc sĩ giỏi”, cô cho trẻ tạo lời từ giai điệu có sẵn , hay trò

chơi “Mẹ ru em bé”, cô cho trẻ sáng tao ra lời ru... các hình thức này có thể thay đổi

53

phù hợp cho nội dung, yêu cầu mà trẻ cần sáng tạo. Quan trọng hơn hết là giáo viên

cần tạo cho trẻ cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái khi tham gia các trò chơi.

- Hình thành ở trẻ những kỹ năng để giải quyết, xử lý các tình huống phát sinh

khi hát. Chẳng hạn đang hát mà trẻ quên lời, hay trẻ hát sai từ thường thì trẻ im và mắc

cỡ không hát nữa. Giáo viên có thể hình thành ở trẻ kỹ năng giải quyết bằng cách trẻ

vẫn bình tĩnh hát tiếp mà không cảm thấy ngại ngùng... Giáo viên phải thật sự khéo léo

hỗ trợ để trẻ có thể chủ động hơn khi tham gia biểu diễn trong HĐCH. Khả năng biểu

diễn của mỗi trẻ là khác nhau, có trẻ thì thấy rất là bối rối, không tự tin khi vừa hát vừa

tươi cười, hoặc có trẻ không thể hát lớn trước các bạn của mình. Giáo viên nên nhẹ

nhàng giúp đỡ trẻ vì mỗi trẻ có những khả năng và kinh nghiệm khác nhau, tránh áp

đặt trẻ dưới nhiều hình thức hay sử dụng những lời nói chê bai không cần thiết, làm trẻ

cảm thấy sợ sệt hơn khi biểu diễn trước tập thể.

- Đưa trẻ đến gần với khả năng sáng tạo một cách tốt nhất với việc giáo viên vận

dụng thật tốt hệ thống các câu hỏi, cách xử lý cho phù hợp với khả năng của từng trẻ.

- Kích thích trẻ suy nghĩ, tưởng tượng thật nhiều hướng khác nhau để giải quyết

các vấn đề nảy sinh nhưng phải dựa trên tinh thần tự nguyện của trẻ, không gò bó hay

áp đặt trẻ góp phần phát huy khả năng sáng tạo của trẻ.

Trên đây là một số biện pháp mà chúng tôi lựa chọn để thực hiện trên trẻ, nhằm

phát huy khả năng sáng tạo của trẻ thông qua HĐCH.

Con đường sáng tạo trải qua nhiều giai đoạn, những biện pháp trên sẽ giúp trẻ

thực hiện từng bước, đi từ việc cảm thụ tới việc thể hiện tích cực và tìm tòi sáng tạo.

Việc phân chia các biện pháp trên chỉ ở mức độ tương đối, bởi vì muốn bồi

dưỡng cho trẻ khả năng sáng tạo trong HĐCH, chúng ta phải kết hợp nhiều biện pháp

cùng một lúc và mỗi biện pháp chỉ mang lại kết quả thực sự khi có sự kết hợp linh

hoạt, mềm dẻo các biện pháp với nhau.

3.1.3. Cách thức sử dụng các biện pháp

Để có được kết quả khi sử dụng các biện pháp đề xuất, chúng tôi thực hiện một

số vấn đề sau:

- Sắp xếp, phân bố các đề tài trong quá trình thực nghiệm, lựa chọn những nội

dung phù hợp với đặc điểm của trẻ theo yêu cầu của chương trình và phù hợp với tình

54

hình thực tế tỉnh chúng tôi. Chúng tôi thực hiện các chủ đề đi từ đơn giản đến phức

tạp, trên cơ sở phù hợp với các chủ đề mà chương trình qui định.

- Trao đổi với giáo viên lớp thực nghiệm một số nội dung cần thiết để thực

nghiệm.

+ Bàn về vấn đề soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng cho tiết dạy.

+ Tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện nhiều trong HĐCH bằng nhiều hình thức,

cách thức khác nhau giúp trẻ có những cảm xúc với các bài hát, tạo nhiều điều kiện để

trẻ tham gia biểu diễn trong các buổi biểu diễn văn nghệ, các ngày hội, ngày lễ, tết do

trường tổ chức…

+ Trên tiết học giáo viên phối hợp các biện pháp cũng như sử dụng hệ thống câu

hỏi giúp trẻ đến gần hơn với âm nhạc nói chung và HĐCH nói riêng. Giúp trẻ cảm thụ

bài hát một cách tốt nhất, biết biểu diễn diễn cảm, mạnh dạn, tự tin giải quyết các tình

huống xảy ra khi hát cũng như xử lý tốt các vấn đề bài tập của giờ học.

+ Trong khi trẻ thực hiện giáo viên cần bao quát lớp, chú ý từng trẻ, kịp thời giải

quyết những vấn đề khi trẻ gặp khó khăn. Giáo viên cần phải tôn trọng ý kiến riêng

của trẻ, không bắt buộc trẻ phải làm theo mẫu giống như cô, điều này làm hạn chế việc

phát huy khả năng của trẻ. Bên cạnh đó trong quá trình trẻ thực hiện giáo viên cần

động viên, khuyến khích trẻ chủ động, tự tin hơn khi thể hiện ý tưởng của mình, giúp

trẻ có thêm hứng thú tích cực để kích thích trẻ sáng tạo.

Tóm lại, việc đề ra một số biện pháp nhằm phát huy khả năng sáng tạo của

trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐCH đạt được kết quả hay không còn tùy thuộc vào

nhiều vấn đề mà phần lớn phụ thuộc vào cách thức tổ chức các hoạt động cùng với sự

kết hợp linh hoạt, khéo léo các hình thức âm nhạc và các biện pháp giảng dạy của giáo

viên.

3.2. Thực nghiệm sư phạm

3.2.1. Mục đích thực nghiệm

Xem xét tính khả thi của một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

5 - 6 tuổi trong HĐCH đã đề xuất, nhằm chứng minh cho giả thuyết khoa học đã đề ra.

Đánh giá hiệu quả của việc vận dụng các biện pháp phát huy khả năng sáng tạo

trong HĐCH.

55

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn chúng tôi đã đề xuất bốn biện pháp nhằm phát huy

khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH. Thực nghiệm nhằm chứng minh hiệu

quả của các biện pháp này được thực hiện trong việc tổ chức HĐCH. Từ đó chúng tôi

có cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng các biện pháp, góp phần nâng cao

hiệu quả giáo dục một cách toàn diện cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH.

3.2.2. Đối tượng, phạm vi và thời gian thực nghiệm

* Đối tượng thực nghiệm

Chúng tôi đã tiến hành TN tại hai trường mầm non Hướng Dương nội thành TP

Biên Hòa và trường mầm non Hố Nai ngoại thành TP Biên Hòa tỉnh Đồng Nai.

- Nhóm TN gồm 2 nhóm của 2 trường trên với mỗi nhóm là 20 trẻ.

- Nhóm ĐC gồm 2 nhóm của 2 trường trên với mỗi nhóm là 20 trẻ.

* Thời gian thực nghiệm.

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm từ tháng 03/ 2014 - 05/ 2014

3.2.3. Điều kiện tiến hành thực nghiệm

Nhóm TN và nhóm ĐC không có sự khác biệt, cụ thể:

+ Giáo viên của 2 lớp đều có trình độ cao đẳng, đại học và có thâm niên công tác

đều nhau.

+ 40 trẻ ở hai nhóm TN và ĐC đều tương đương nhau về mức độ phát triển nhận

thức, đặc biệt tâm sinh lí cũng như điều kiện giáo dục

+ Nhóm TN giáo viên tiến hành dạy theo các biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất.

Nhóm ĐC giáo viên tiến hành dạy theo các biện pháp mà họ vẫn thường sử dụng.

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm theo các giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Chúng tôi chọn kết quả đo thực trạng làm đầu vào trước khi tiến

hành TN của hai nhóm ĐC và TN tại hai trường mầm non Hướng Dương và mầm non

Hố Nai.

- Giai đoạn 2: Tổ chức các nội dung TN cho trẻ ở hai trường thông qua việc cung

cấp cho giáo viên nhóm TN những tài liệu về cơ sở lí luận, cách triển khai những biện

pháp mà chúng tôi đã đề xuất để giáo viên có thể vận dụng và xây dựng các HĐCH ở

hai nhóm TN. Nhóm ĐC, giáo viên vẫn tiến hành sử dụng các biện pháp bình thường.

56

- Giai đoạn 3: Chúng tôi tiến hành đo kết quả đầu ra sau quá trình tổ chức TN

của hai trường, hai nhóm ĐC và hai nhóm TN.

KẾT QUẢ ĐẦU VÀO TRƯỚC KHI TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM

Kết quả này được khái quát cụ thể qua bảng tổng hợp kết quả 3.1 như sau:

Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả đầu vào tại 2 trường mầm non Hướng Dương và

mầm non Hố Nai

Nhóm Trường MN Hướng Dương Trường MN Hố Nai

ĐC TN ĐC TN

Xếp loại SL % SL % SL % SL %

Rất sáng tạo 0 0% 0 0% 0 0% 0 0%

Sáng tạo 4 20% 4 20% 5 25% 4 20%

Ít sáng tạo 9 45% 8 40% 8 40% 8 40%

Không sáng tạo 7 35% 8 40% 7 35% 8 40%

3.2.4. Nội dung thực nghiệm

Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi tiến hành tổ chức HĐCH nhằm phát

huy khả năng sáng tạo bằng các biện pháp tác động:

- Biện pháp làm giàu vốn kinh nghiệm ca hát cho trẻ

- Biện pháp tạo môi trường tốt nhất cho trẻ

- Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ

- Biện pháp giúp trẻ vận dụng kinh nghiệm

Nội dung các thực nghiệm:

Bài tập 1: Tạo một câu hát mới từ một giai điệu có sẵn (khác với giai điệu bài

tập 1 ở chương II)

Bài tập 2: Chuyển câu thơ “Chẳng đâu bằng chính nhà em” thành câu hát

Bài tập 3: Ru em bằng một câu hát mới.

3.2.5. Tiêu chí đánh giá

Trên cơ sở tìm hiểu về khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH, chúng tôi đưa ra

các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH như đã

nêu ở bảng 2.10 của chương II.

57

3.2.6. Tiến trình thực nghiệm

Nhóm ĐC: Giáo viên tổ chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH với các bài tập trên.

Nhóm TN: Chúng tôi kết hợp với giáo viên tiến hành tổ chức HĐCH với các bài

tập giống nhóm ĐC và vận dụng những biện pháp đã nêu để tổ chức HĐCH cho trẻ .

Chúng tôi đã ghi chép, quay phim những hoạt động của trẻ, từ đó dựa vào những

tiêu chí đã xây dựng để đánh giá mức độ sáng tạo trong HĐCH của trẻ.

3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm

Sau một thời gian tiến hành thực nghiệm bằng việc tổ chức HĐCH cho trẻ theo

hình thức bài tập, chúng tôi dựa vào tiêu chí đã đưa ra để tiến hành đánh giá mức độ

sáng tạo trong HĐCH của trẻ. Chúng tôi đã tiến hành quan sát và ghi chép lại toàn bộ

những diễn biến của quá trìnhTN.

3.3.1. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng ở trường

MN Hướng Dương - nội thành TP Biên Hòa

Bảng 3.2. Kết quả xếp loại của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng trường MN

Hướng Dương

Nhóm Thực nghiệm Đối chứng

Xếp loại Số lượng Phần trăm Số lượng Phần trăm

Rất sáng tạo 5 25% 0 0%

Sáng tạo 12 60% 4 20%

Ít sáng tạo 3 15% 10 50%

Không sáng tạo 0 0% 6 30%

58

Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng của

trường MN Hướng Dương

Nhận xét:

Nhìn vào kết quả xếp loại của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng ta đã nhận thấy

rõ sự chênh lệch. Cụ thể:

Loại rất sáng tạo: ở nhóm TN đạt 5 trẻ chiếm 25% , còn nhóm ĐC thì không có trẻ nào

Loại sáng tạo: nhóm TN đạt 12 chiếm 60%, còn nhóm ĐC thì chỉ có 4 trẻ chiếm 20%

Loại ít sáng tạo: nhóm TN chỉ còn 3 trẻ chiếm 15%, nhóm ĐC còn 10 trẻ chiếm tới

50%

Loại không sáng tạo: nhóm TN không còn trẻ nào, nhóm ĐC còn tới 6 trẻ chiếm 30%

Nhìn chung, ta thấy mức độ sáng tạo trong HĐCH của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở 2

nhóm ĐC và nhóm TN như sau: ở nhóm TN trẻ đạt loại rất sáng tạo và sáng tạo tăng lên

rất nhiều chiếm 85% và không còn trẻ loại không sáng tạo, còn nhóm ĐC thay đổi rất ít

không đáng kể chỉ có 20% trẻ đạt loại rất sáng tạo và sáng tạo còn trẻ loại ít sáng tạo và

không sáng tạo lên đến 80%. Từ đó cho thấy sau khi sử dụng các biện pháp tác động thì

mức độ sáng tạo của trẻ trong HĐCH ở nhóm TN cao hơn nhóm ĐC rất nhiều.

59

3.3.2. So sánh kết quả giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm ở trường

MN Hố Nai – ngoại thành TP Biên Hòa

Bảng 3.3. Kết quả xếp loại của hai nhóm TN và ĐC trường MN Hố Nai

Nhóm Thực nghiệm Đối chứng

Xếp loại Số lượng Phần trăm Số lượng Phần trăm

Rất sáng tạo 4 20% 0 0%

Sáng tạo 10 50% 5 25%

Ít sáng tạo 6 30% 8 40%

Không sáng tạo 0 0% 7 35%

Biểu đồ 3.2. So sánh kết quả giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng của

trường MN Hố Nai

Nhận xét:

Nhìn vào kết quả xếp loại của hai lớp thực nghiệm và đối chứng ta đã nhận thấy

rõ sự chênh lệch. Cụ thể:

Loại rất sáng tạo: nhóm TN đạt 4 trẻ chiếm 20% , còn nhóm ĐC thì không có trẻ

nào

60

Loại sáng tạo: nhóm TN đạt 10 chiếm 50,% còn nhóm ĐC thì chỉ có 5 trẻ chiếm

25%

Loại ít sáng tạo : nhóm TN chỉ còn 6 trẻ chiếm 30%, nhóm ĐC còn 8 trẻ chiếm tới

40%

Loại không sáng tạo: nhóm TN không còn trẻ nào, còn nhóm ĐC còn 7 trẻ chiếm tới

35%

Qua đó ta thấy, mức độ sáng tạo trong HĐCH của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở 2 nhóm

ĐC và nhóm TN như sau: ở nhóm TN trẻ đạt loại rất sáng tạo và sáng tạo tăng lên rất

nhiều chiếm 70% và không còn trẻ loại không sáng tạo. Còn nhóm ĐC thì không thay đổi

loại rất sáng tạo và sáng tạo chỉ có 25%, loại ít sáng tạo và loại không sáng tạo lên đến

75%. Từ đó cho thấy sau khi sử dụng các biện pháp tác động thì mức độ sáng tạo của trẻ

trong HĐCH ở nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng rất nhiều.

3.3.3. So sánh hai nhóm thực nghiệm ở hai trường MN Hướng Dương và

MN Hố Nai

Bảng 3.4. Kết quả đánh giá xếp loại theo các mức độ hai nhóm thực nghiệm của

hai trường MN Hướng Dương và MN Hố Nai.

Trường MN Hướng Dương Hố Nai

Xếp loại Số lượng Phần trăm Số lượng Phần trăm

5 25% 4 20% Rất sáng tạo

12 60% 10 50% Sáng tạo

3 15% 6 30% Ít sáng tạo

0 0% 0 0% Không sáng tạo

61

Biểu đồ 3.3. So sánh hai nhóm thực nghiệm ở hai trường MN Hướng Dương

và MN Hố Nai

Qua bảng chúng ta thấy kết quả hai nhóm thực nghiệm ở các mức độ của hai

trường có sự chênh lệch như sau. Cụ thể

Loại rất sáng tạo: trường MN Hướng Dương đạt tới 5 trẻ chiếm 25%, còn trường

MN Hố Nai chỉ có 4 trẻ chiếm 20%.

Loại sáng tạo: trường MN Hướng Dương đạt tới 12 trẻ, còn trường MN Hố Nai

chỉ có 10 trẻ chiếm 50%

Loại ít sáng tạo: trường MN Hướng Dương chỉ có 3 trẻ chiếm 15%, còn trường

MN Hố Nai còn 6 trẻ chiếm 30%

Loại không sáng tạo: cả hai trường đều không còn.

Tuy đầu vào của 2 nhóm trước TN là ngang nhau nhưng sau khi tác động các

biện pháp giống nhau thì trường MN Hướng Dương có tỉ lệ trẻ đạt loại rất sáng tạo và

sáng tạo lên đến 85%, trẻ ít sáng tạo chỉ có 15%. Còn trường MN Hố Nai có tỉ lệ trẻ

đạt loại rất sáng tạo và sáng tạo ít hơn chỉ đạt 70%, còn trẻ loại ít sáng tạo lên đến

30%.

Với kết quả đó cho ta thấy nếu giáo viên biết vận dụng những biện pháp tác động

phù hợp cùng với việc phát huy các điều kiện sẵn có của trường nội thành sẽ giúp trẻ

62

phát huy tốt khả năng sáng tạo của mình đồng thời trẻ tích cực, mạnh dạn, tự tin hơn

trong khi tham gia HĐCH.

Qua đó cho thấy khu vực nội thành trẻ thường xuyên được tiếp xúc âm nhạc,

được xem nhiều chương trình biểu diễn văn nghệ nói chung và chương trình ca nhạc

nói riêng. Bên cạnh đó các trường này thường tổ chức các hội thi, lễ hội tạo cơ hội cho

trẻ được tham gia nhiều các HĐCH dưới nhiều hình thức. Cùng với việc nhận thức của

giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ khá tốt được thể hiện qua việc tổ chức các hoạt

động đặc biệt là HĐCH. Điều này đã giúp trẻ có thêm nhiều kinh nghiệm, kỹ năng ca

hát góp phần làm cho tỉ lệ trẻ sáng tạo trong HĐCH của trẻ ở trường nội thành cao hơn

những trẻ ở trường ngoại thành.

63

Tiểu kết chương 3

Sau thời gian tiến hành thực nghiệm chúng tôi nhận thấy việc xây dựng và đưa ra

các biện pháp nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong

HĐCH là phù hợp và đạt hiệu quả cao.

Qua quá trình thực nghiệm, cho thấy trẻ đã làm tốt các bài tập về sáng tạo hơn là

trước khi thực nghiệm, điều này chứng tỏ các biện pháp đưa ra rất phù hợp và có ý

nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy việc phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong

HĐCH một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, chúng ta thấy tuy sử dụng các biện pháp như

nhau nhưng kết quả sáng tạo của trẻ nội thành cao hơn ngoại thành là do trường nội

thành thường xuyên tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với các hoạt động âm nhạc cùng với

cơ sở vật chất tốt. Do vậy, nếu các giáo viên biết vận dụng tốt các biện pháp này kết

hợp việc tạo môi trường thuận lợi cho trẻ tiếp cận với các hoạt động âm nhạc thì khả

năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH rất cao.

Tóm lại, giáo viên cần có nhận thức sâu sắc về khả năng sáng tạo trong HĐCH

đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ, từ đó có những kế hoạch, cụ thể để tổ

chức cho trẻ sáng tạo trong HĐCH, giúp trẻ tự do thoải mái chọn lựa các hình thức biểu

diễn, cách thể hiện cũng như cách hát riêng của mình. Qua đó, giáo viên đặt ra nhiều

tình huống mới thật linh hoạt, nhẹ nhàng và giúp trẻ tìm các cách giải quyết cho riêng

mình điều này sẽ giúp trẻ tự tin sáng tạo và độc lập hơn trong khi thể hiện khả năng của

mình đồng thời cũng giúp trẻ chủ động, linh hoạt hơn khi xử lý các tình huống xảy ra

trong cuộc sống.

64

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1. Sáng tạo là sự phối hợp các yếu tố cũ tạo nên một hệ thống mới. Đây là cơ sở

của sự sáng tạo. Hoạt động sáng tạo là hoạt động tạo ra những giá trị vật chất và tinh

thần mới độc đáo. Sáng tạo không là mảnh đất riêng dành cho các bậc thiên tài mà

tiềm ẩn trong mỗi cá nhân, khi có điều kiện thì bộc lộ và phát triển. Tính sáng tạo

thường liên quan đến tính tích cực, chủ động, độc lập, tự tin và người có tư duy sáng

tạo thường không chịu ràng buộc bởi những nguyên tắc cứng nhắc.

2. Sáng tạo của trẻ mầm non là sáng tạo biểu hiện dựa trên sự tự do, khoáng đạt,

trẻ rất dễ dàng sáng tạo, cơ bản sáng tạo của trẻ như một trò chơi và sáng tạo một cách

tự nhiên thoải mái. Bên cạnh đó HĐCH là hoạt động hết sức gần với trẻ, mọi hoạt

động chơi và học dường như đều gắn liền với âm nhạc. Do vậy, việc sáng tạo trong

HĐCH đối với trẻ là việc làm không khó nếu như giáo viên biết tổ chức các hoạt động

hợp lý cùng với việc sử dụng các biện pháp phù hợp, kích thích trẻ suy nghĩ, tìm tòi

những cách giải quyết riêng nhằm giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo của mình trong

HĐCH.

3. Tìm hiểu về thực trạng việc tổ chức HĐCH cũng như khả năng sáng tạo của

trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi chúng tôi thấy rằng: Mặc dù đa số giáo viên đều nhận thức được

vai trò của sáng tạo trong HĐCH đối với sự phát triển toàn diện của trẻ nhưng việc tổ

chức HĐCH nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ, còn nhiều hạn chế và chưa

khoa học, các giáo viên chưa thực sự dành nhiều thời gian để tổ chức các hoạt động

phong phú cho trẻ. Giờ học còn khá cứng nhắc, rập khuôn vì vậy chưa phát huy được

tính tích cực trong hoạt động của trẻ, trẻ chủ yếu thực hiện theo hướng dẫn mẫu của

giáo viên mà chưa tưởng tượng, tự tìm cách thể hiện của mình, cụ thể là hát lại giống

cô chứ không có cách hát khác, hay cách thể hiện biểu cảm khác. Điều này làm cho

khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐCH chưa đạt hiệu quả cao.

4. Để tìm ra biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

trong HĐCH cùng với việc căn cứ vào những lý luận và thực tiễn chúng tôi đã đề ra

bốn biện pháp là:

- Biện pháp làm giàu vốn kinh nghiệm ca hát cho trẻ

65

- Biện pháp tạo môi trường tốt nhất cho trẻ

- Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ

- Biện pháp giúp trẻ vận dụng kinh nghiệm

Các biện pháp này đã được thực nghiệm và mang đến cho chúng tôi những kết

quả khả quan trong việc phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ. Khi áp dụng những biện

pháp này thì trẻ thích thú, tích cực và sáng tạo hơn trong HĐCH. Lúc đầu khi chưa áp

dụng những biện pháp trên thì trẻ không tích cực tham gia, trẻ thường rụt rè và cũng

chỉ hát giống mẫu của cô mà không có sự sáng tạo của bản thân nhưng sau khi áp dụng

những biện pháp này thì trẻ rất hứng thú, tích cực, mạnh dạn thể hiện bài hát theo các

cách khác nhau, trẻ tự nghĩ ra cách biểu diễn, cách hát riêng phù hợp với ca từ và giai

điệu của bài hát. Và trẻ không còn lùng túng khi tự mình giải quyết các vấn đề xảy ra

trong khi hát. Chính vì thế, sau khi thực nghiệm các biện pháp trên thì kết quả sáng tạo

của trẻ được nâng cao rõ rệt: tỉ lệ trẻ rất sáng tạo và sáng tạo tăng lên rất nhiều còn tỉ lệ

trẻ ít sáng tạo và không sáng tạo thì giảm đáng kể.

Kết quả này cũng phù hợp với giả thuyết khoa học mà chúng tôi đưa ra. Nếu đề

xuất được một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo hợp lý thì sẽ tạo điều kiện phát

huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH.

2. Kiến nghị

1. Trong quá trình nghiên cứu và xây dựng chương trình chăm sóc giáo dục ở các

lứa tuổi, nhất là độ tuổi 5 - 6 tuổi cần quan tâm, chú ý hơn nữa đến việc phát huy khả

năng sáng tạo cho trẻ trong HĐCH.

2. Cần giúp cho giáo viên mầm non hiểu rõ hơn nhiệm vụ phát huy khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐCH. Từ đó cung cấp cho họ những cơ sở

lý luận và kỹ năng thực hiện các biện pháp này. Việc vận dụng biện pháp phải linh

hoạt, mềm dẻo, giúp cho trẻ được tích cực tham gia, độc lập thể hiện vai diễn một cách

tự tin và sáng tạo.

3. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên mầm non những kiến thức

khoa học về tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ em, không ngừng bồi dưỡng kiến thức

âm nhạc, rèn luyện khả năng ca hát đặc biệt là tổ chức HĐCH cho trẻ mẫu giáo một

cách hiệu quả.

66

4. Nâng cao hiểu biết của trẻ về các hoạt động âm nhạc bằng cách cho trẻ xem

hoặc tham gia các chương trình biểu diễn văn nghệ ở sân khấu, nhà hát, nhà văn hóa

thiếu nhi... Tổ chức các cuộc thi sáng tạo về hoạt động nghệ thuật: múa, hát, thể dục

nhịp điệu..., cho trẻ mẫu giáo, góp phần cũng cố và nâng cao vốn kinh nhiệm âm nhạc

của trẻ.

5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, các phương tiện để tổ chức HĐCH như: đồ

dùng, đồ chơi, dụng cụ âm nhạc, sân khấu, trang phục, cảnh trí..., để kích thích trẻ tích

cực, hứng thú, mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo hơn khi tham gia vào HĐCH.

67

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Kim Anh (2004), Biện pháp phát triển tính tích cực sáng tạo của trẻ

mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, Luận án tiến sĩ, Trường

ĐHSP Quốc Gia Matxcova.

2. Phạm Thị Châu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh (2002), Giáo dục học mầm non,

Nxb ĐHQG Hà Nội.

3. Phạm Thị Nguyên Chi (2013), Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

5-6 tuổi tại góc tạo hình, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, Trường ĐHSP

Tp. HCM.

4. Phan Dũng (1992), Làm thế nào để sáng tạo, Ủy ban Khoa học kỹ thuật, Tp.HCM.

5. Phan Thị Thu Hiền (2002), “Con đường phát triển sức sáng tạo ở trẻ em”, Tạp chí

giáo dục mầm non (1).

6. Nguyễn Thị Hòa, Giáo trình giáo dục học mầm non, Nxb ĐHSP Hà Nội.

7. Ngô Công Hoàn (1995), Tâm lí học trẻ em (lứa tuổi từ lọt lòng đến 6 tuổi), Tập I,

II, Hà Nội.

8. Lê Xuân Hồng (2000), Phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ mầm non, Nxb

Giáo dục.

9. Lê Xuân Hồng (2002), Giáo dục nghệ thuật cho trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb

Phụ nữ.

10. Trần Hiệp, Đỗ Long (1990), Sổ tay Tâm lý học, Nxb KHXH Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Huệ (2003), Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình nhằm phát

triển khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi, Luận văn thạc sĩ GDMN.

12. Phạm Thu Hương (2000), Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động

theo nhạc ở trẻ MG 5 – 6 tuổi, Luận văn thạc sĩ tâm lý.

13. Lê Thu Hương (chủ biên) (2007), Tổ chức họat động âm nhạc cho trẻ mầm non

theo hướng tích hợp, Viện chiến lược và chương trình nghiên cứu giáo dục, Nxb

Giáo dục.

14. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2002), Một số biện pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 – 6

tuổi chơi trò chơi đóng kịch, Luận văn thạc sĩ giáo dục.

68

15. Nguyễn Thị Ngọc Kim (2005), Một số biện pháp bồi dưỡng khả năng sáng tạo của

trẻ MG 5- 6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích, Luận văn thạc sĩ GDMN.

16. L.X.Vưgôtxki (1985 ), Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi, Tài liệu

dịch, Nxb Phụ nữ.

17. L.X.Vưgôtxki (2002 ), Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi, Tài liệu

dịch, Nxb Văn Hóa Dân Tộc.

18. L.X.Vưgôtxki (1995 ), Tâm lý học nghệ thuật, Tài liệu dịch, Nxb Khoa Học

Xã hội .

19. Lã Thị Bắc Lý (2008), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb ĐHSP Hà Nội.

20. Ngô Thị Tuyết Mai (2013), Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi

trong trò chơi đóng kịch, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, Trường ĐHSP

Tp. HCM.

21. Phạm Thành Nghị (2012), Giáo trình tâm lý học sáng tạo, Nxb Đại Học Quốc Gia

Hà Nội.

22. Hoàng Phê (2009), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng.

23. Nguyễn Thị Hồng Phượng (2004), Xây dựng và tổ chức môi trường giáo dục thúc

đẩy trẻ 5-6 tuổi hoạt động tích cực ở trường mầm non, Báo cáo toàn văn đề tài

Khoa học và Công Nghệ cấp Bộ, TP HCM.

24. Bùi Thanh Tâm (2013), Phương pháp phát triển tính sáng tạo cho trẻ, Nxb

Thời đại.

25. Trần Trọng Thủy (2000), Sáng tạo - một chức năng quan trọng của trí tuệ, Thông

tin khoa học giáo dục số 81.

26. Lê Thanh Thủy (2/2002), “Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ em trong hoạt động

tạo hình”, Tạp chí giáo dục (22).

27. Chu Quang Tiềm (1999), Tâm lý học văn nghệ, Nxb giáo dục, TP.HCM

28. Lê Thị Hoàng Trang (2005), Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

5 – 6 tuổi trong vận động theo nhạc ở trường mầm non, Luận văn thạc sĩ giáo

dục học

69

29. Vũ Thị Kiều Trang (2008), Phát huy tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong

trò chơi lắp ghép xây dựng từ nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu, Luận văn

thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.

30. Trường CĐSPMGTW3 (2002), Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của

trẻ 5- 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ở trường mầm non, Tp.HCM.

31. Đinh Thị Tứ, Phan Trọng Ngọ (2007), Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, Tập I,

Nxb Giáo dục.

32. Nguyễn Huy Tú (1997), Đề cương bài giảng tâm lý sáng tạo, viện KHGD.

33. Nguyễn Ánh Tuyết (1994), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb Hà Nội.

34. Nguyễn Ánh Tuyết (2002), Hoạt động vui chơi với trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb

Giáo dục.

35. Nguyễn Ánh Tuyết (2008), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb Đại Học

Sư phạm.

36. Nguyễn Quang Uẩn (1999), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHQG Hà Nội

37. PGS.TS Đức Uy (1998), Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục.

38. PGS.TS Đức Uy (1996), Tâm lý học đề cương bài giảng, Hà Nội.

39. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa-Thông tin.

40. Hoàng Văn Yến (2008), Nghệ thuật âm nhạc với trẻ mầm non, Nxb Giáo dục.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG THỰC NGHIỆM

Chúng tôi tiến hành 3 bài tập thực nghiệm với các mạng hoạt động sau, thời gian từ

tháng 03 – 05 / 2014

Bài tập 1: Tạo một câu hát mới từ một giai điệu có sẵn

Bài tập 2: Chuyển câu thơ “Chẳng đâu bằng chính nhà em” thành câu hát

Bài tập 3: Ru em bằng một câu hát mới.

HÌNH ẢNH THỰC NGHIỆM

KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Bài tập 1:

'&=2==@==©=C©====D©="=====U====D====!===e==! Mẹ em thương em nhiều lắm '&=2==@==©=C©====D©="=====U====D====!===e==!

Bà em cho em nhiều bánh

'&=2==@==©=C©====D©="=====U====D====!===e==!

Mẹ ru em bé à ơi

'&=2==@==©=C©====D©="=====U====D====!===e==!

À ơi ru em à ơi

'&=2==@==©=C©====D©="=====U====D====!===e==! Ngoài sân hoa lá theo gió

Bài tập 2:

'&=2==@==="===C======@======E=====@===='===c==!

Chẳng đâu bằng chính nhà em

'&=2==@=====D===="===P====ÕE=====C===='===d===! Chẳng đâu bằng chính nhà em

÷

'&=2==ÕU======X=='=d==='==U=====P===S=='===b==! Chẳng đâu bằng chính nhà em

'&=2==@====="===U=====B==='==T===R==P==='==c==! Chẳng đâu bằng chính nhà em

Bài tập 3:

'&=2==@======C====="====P=======@======F======! À ơi à ơi em

'&=2==F=======F========C========F===='===f====!

ơi em ngủ cho ngoan

'&=2==A====T=='==D====A====A====D==='==T===F==! À ơi con cò mày đi đâu tối

'&=2==D======A=======D=======A======='===a====! tăm mày không chịu về

Phụ lục 2:

     

    

PHIẾU ĐIỀU TRA (Dành cho giáo viên trường mầm non) Với mục đích tìm hiểu thực tế về đề tài luận văn: “Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường mầm non”. Xin chị vui lòng đánh dấu X vào ô  mà chị đồng ý chọn hoặc chị cho biết thêm ý kiến về những vấn đề liên quan đến đề tài. Chúng tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ ý kiến từ các chị. A. THÔNG TIN VỀ BẢN THÂN Giáo viên trường mầm non:……………………………………………………… Lớp phụ trách:…………………………………………… Trình độ chuyên môn: Sơ cấp  Trung cấp  Cao đẳng  Đại học  Sau đại học  Thâm niên công tác: Dưới 5 năm  Từ 5 - 9 năm  Từ 10 - 15 năm  Trên 15 năm  B NỘI DUNG Câu 1: Chị hiểu như thế nào là sáng tạo? - Sáng tạo là tạo ra cái mới  - Sáng tạo là tạo ra những tác phẩm vĩ đại   - Sáng tạo là tạo ra những cái độc đáo, mới lạ - Sáng tạo là tạo ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có  Ý kiến khác: ……………………………………………………………………………………… Câu 2: Theo chị, những biểu hiện nào sau đây cho thấy trẻ sáng tạo? - Mạnh dạn, tự tin - Biết tự mình nêu lên những ý tưởng mới lạ - Tích cực, hứng thú tham gia các hoạt động - Có cách xử lý tình huống khi học và chơi một cách độc đáo, linh hoạt - Biết tạo ra sản phẩm mới đối với bản thân - Độc lập suy nghĩ và không làm theo khuôn mẫu của giáo viên Ý kiến khác: ……………………………………………………………………………………… Câu 3: Chị hiểu như thế nào về khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động ca hát? - Biểu diễn diễn cảm trong khi hát theo cách riêng - Tạo ra câu hát mới trong tình huống nhất định - Chuyển bài thơ thành bài hát - Thay đổi giai điệu bài hát đã biết - Nghĩ ra câu hát từ giai điệu có sẵn Ý kiến khác: ....................................................................................................................................... Câu 4: Trong lớp của chị, hoạt động ca hát được tổ chức mấy lần trong tháng? 1 lần  2 lần  3 lần  4 lần 

     

     

Ý kiến khác: ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… Câu 5: Chị có thường xuyên tổ chức cho trẻ sáng tạo trong hoạt động ca hát hay không? Thường xuyên  Thỉnh thoảng  Ít khi  Không bao giờ  Ý kiến khác: ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… Câu 6: Theo chị, có cần thiết tổ chức cho trẻ sáng tạo trong hoạt động ca hát không? Rất cần  Cần thiết  Ít cần thiết  Không cần thiết  Ý kiến khác: ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… Câu 7 : Chị sử dụng những biện pháp nào để phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH? - Tạo môi trường vật chất phong phú để kích thích trẻ sáng tạo - Cho trẻ nghe nhiều bài hát cũng như các giai điệu khác nhau - Đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng ra lời hát mới - Tạo cơ hội cho trẻ tự thể hiện mình - Tạo bầu không khí tâm lý thoải mái, không áp đặt, gò bó trẻ - Gợi ý, hướng dẫn trẻ sáng tạo ra câu hát bất kì, hay thay đổi lời câu hát Ý kiến khác: ……………………………………………………………………………………….. ………………………………..……………………………………………………… Câu 8 : Chị thường gặp những khó khăn gì để phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐCH? - Trẻ cảm nhận bài hát chưa trọn vẹn - Trẻ thường bắt chước bạn - Cơ sở vật chất còn hạn chế: đồ dùng, dụng cụ âm nhạc… - Giai điệu trẻ tự sáng tạo chưa chuẩn - Thời gian cho hoạt động chưa đủ - Kỹ năng hát của trẻ còn hạn chế Ý kiến khác: ………………………………………………………………………………………… …………………………….……………………………………………………… Câu 9: Chị có đề xuất hoặc kiến nghị khi tổ chức hoạt động ca hát nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ? Cuối cùng, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình từ các chị !

Phụ lục 3:

PHIẾU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ Họ&tên trẻ:……………………………………………….. Năm sinh:…………………………………………………. Lớp, Trường:……………………………………………....

Điểm Bài tập Tiêu chí Biểu hiện của trẻ Ghi chú

Đánh giá mức độ sáng tạo

1. Bài tập 1: Tạo ra câu hát mới từ giai điệu có sẵn

1. Nghĩ ra nhiều câu hát 2. Từ trong câu hát phù hợp với giai điệu có sẵn (dấu và độ lên xuống) 1. Số lượng câu

2. Giai điệu phù hợp với từ trong câu thơ (dấu và độ lên xuống) 3. Sự ngắt quãng của câu hát phù hợp với nghĩa của câu thơ

2. Bài tập 2: Chuyển câu thơ “Chẳng đâu bằng chính nhà em thành câu hát” 3. Bài tập 3:

Ru em bằng một câu hát mới

1. Số lượng từ trong câu 2. Số lượng câu 3. Giai điệu

TỔNG ĐIỂM

BIÊN BẢN DỰ GIỜ ÂM NHẠC GIÁO VIÊN

Họ và tên giáo viên: ……………………………………………………………… Lớp: ……………………………………………………………………………… Trường: …………………………………………………………………………... Thời gian dự giờ: ………………………………………………………………… Hoạt động:………………………………………………………………………... Đề tài:…………………………………………………………………………….. Phần chuẩn bị của giáo viên:……………………………………………………...

STT Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ Nhận xét

1.HĐ1 2.HĐ2 3.HĐ3

Phụ lục 4: BẢNG TỔNG HỢP NHÓM THỰC NGHIỆM

MN HƯỚNG DƯƠNG T.TN

GHI

TỔNG

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

CHÚ

ĐIỂM

1

Phạm Phương Mẫn

13

Sáng tạo

2

Lê Ngọc Yến Linh

13

Sáng tạo

3

Phạm Ngọc Hùng

12

Sáng tạo

4

Nguyễn Ngọc Châu

12

Sáng tạo

5

Bành Kim Đạt

7

Ít sáng tạo

6

Nguyễn Ngọc Hân

7

Ít sáng tạo

7

Nguyễn Đăng Khoa

7

Ít sáng tạo

8

Bùi Đức Tuấn Khải

6

Ít sáng tạo

9

Đặng Minh Khang

6

Ít sáng tạo

10

Hoàng Văn Việt

6

Ít sáng tạo

11

Nguyễn Thiên Khang

6

Ít sáng tạo

12

Lê Nguyễn Hoài Thương

5

Ít sáng tạo

13

Lê Thị Minh Hân

5

Ít sáng tạo

14

Trần Ngọc Hân

3

Không sáng tạo

15

Trương Ngọc Khánh Linh

3

Không sáng tạo

16

Nguyễn Hoàng Như Phương

3

Không sáng tạo

17

Đôn Phùng Nhật Mai

3

Không sáng tạo

18

Trương Gia Tuệ

3

Không sáng tạo

19

Võ Minh Anh

2

Không sáng tạo

20

Trần Thanh Tân

2

Không sáng tạo

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM THỰC NGHIỆM

MN HƯỚNG DƯƠNG S.TN

TỔNG

GHI

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

ĐIỂM

CHÚ

Rất sáng tạo

1

Phạm Phương Mẫn

23

2

Lê Ngọc Yến Linh

22

Rất sáng tạo

3

Phạm Ngọc Hùng

22

Rất sáng tạo

4

Nguyễn Ngọc Châu

21

Rất sáng tạo

5

Bành Kim Đạt

20

Rất sáng tạo

6

Nguyễn Ngọc Hân

18

Sáng tạo

7

Nguyễn Đăng Khoa

17

Sáng tạo

8

Bùi Đức Tuấn Khải

16

Sáng tạo

9

Đặng Minh Khang

15

Sáng tạo

10

Hoàng Văn Việt

15

Sáng tạo

11

Nguyễn Thiên Khang

15

Sáng tạo

12

Lê Nguyễn Hoài Thương

15

Sáng tạo

13

Lê Thị Minh Hân

15

Sáng tạo

14

Trần Ngọc Hân

15

Sáng tạo

15

Trương Ngọc Khánh Linh

14

Sáng tạo

16

Nguyễn Hoàng Như Phương

13

Sáng tạo

17

Đôn Phùng Nhật Mai

12

Sáng tạo

18

Trương Gia Tuệ

10

Ít sáng tạo

19

Võ Minh Anh

8

Ít sáng tạo

20

Trần Thanh Tân

7

Ít sáng tạo

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM ĐỐI CHỨNG MN HƯỚNG DƯƠNG T.TN TỔNG

GHI

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

CHÚ

ĐIỂM

1

Lê Vũ Anh Thư

13

Sáng tạo

2

Nguyễn Thảo Vy

13

Sáng tạo

3

Đỗ Phạm Bảo Thương

12

Sáng tạo

4

Đàm Nguyễn Anh Thư

12

Sáng tạo

5

Đỗ Mai Anh

7

Ít sáng tạo

6

Huỳnh Khả Hân

7

Ít sáng tạo

7

Nguyễn Ngọc Ánh Tuyết

7

Ít sáng tạo

8

Nguyễn Ngọc Việt Hà

6

Ít sáng tạo

9

Đồng Thanh Ngân

6

Ít sáng tạo

10

Lê Bảo My

5

Ít sáng tạo

11

Châu Gia Hân

4

Ít sáng tạo

12

Võ Phạm Gia Hân

4

Ít sáng tạo

13

Lương Minh Thùy

3

Không sáng tạo

14

Hồ Thúy Vy

3

Không sáng tạo

15

Lê Huỳnh Anh Khoa

3

Không sáng tạo

16

Lê Đại Phúc

3

Không sáng tạo

17

Trần Tấn Phúc

2

Không sáng tạo

18

Nguyễn Thanh Trúc

2

Không sáng tạo

19

Phan Ngọc Minh Thảo

2

Không sáng tạo

20

Lê Quang Đức

2

Không sáng tạo

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM ĐỐI CHỨNG

MN HƯỚNG DƯƠNG S.TN

TỔNG

GHI

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

ĐIỂM

CHÚ

1

Lê Vũ Anh Thư

Sáng tạo

13

2

Nguyễn Thảo Vy

Sáng tạo

13

3

Đỗ Phạm Bảo Thương

Sáng tạo

12

4

Đàm Nguyễn Anh Thư

Sáng tạo

12

5

Đỗ Mai Anh

Ít sáng tạo

7

6

Huỳnh Khả Hân

Ít sáng tạo

7

7

Nguyễn Ngọc Ánh Tuyết

Ít sáng tạo

7

8

Nguyễn Ngọc Việt Hà

Ít sáng tạo

6

9

Đồng Thanh Ngân

Ít sáng tạo

6

10

Lê Bảo My

Ít sáng tạo

6

11

Châu Gia Hân

Ít sáng tạo

6

12

Võ Phạm Gia Hân

Ít sáng tạo

5

13

Lương Minh Thùy

Ít sáng tạo

5

14

Hồ Thúy Vy

Ít sáng tạo

5

15

Lê Huỳnh Anh Khoa

Không sáng tạo

3

16

Lê Đại Phúc

Không sáng tạo

3

17

Trần Tấn Phúc

Không sáng tạo

3

18

Nguyễn Thanh Trúc

Không sáng tạo

3

19

Phan Ngọc Minh Thảo

Không sáng tạo

2

20

Lê Quang Đức

Không sáng tạo

2

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM THỰC NGHIỆM

MN HỐ NAI T.TN

TỔNG

GHI

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

ĐIỂM

CHÚ

Sáng tạo

1

Đỗ Thị Anh Thư

14

Sáng tạo

2

Nguyễn Vũ Minh Mẫn

13

Ít sáng tạo

3

Lý Mỹ Nhung

11

Ít sáng tạo

4

Võ Hoàng Anh Thư

10

Ít sáng tạo

5

Đỗ Tiến Đạt

9

Ít sáng tạo

6

Nguyễn Tấn Dũng

9

Ít sáng tạo

7

Võ Thị Xuân Hiếu

8

Ít sáng tạo

8

Phạm Nguyễn Bích Trâm

7

Ít sáng tạo

9

Đoàn Huyền Trân

6

Ít sáng tạo

10

Đặng Thị Thùy Trang

5

Không sáng tạo

11

Nguyễn Thị Thảo Vy

3

Không sáng tạo

12

Nguyễn Lương Triều Vỹ

3

Không sáng tạo

13

Trần Đình Long

3

Không sáng tạo

14

Đào Nguyễn Gia Mẫn

3

Không sáng tạo

15

Trần Thụy Thiên Phúc

3

Không sáng tạo

16

Ngô Ngọc Quốc

3

Không sáng tạo

17

Nguyễn Ngọc Diễm Quỳnh

2

Không sáng tạo

18

Lê Quang Tân

2

Không sáng tạo

19

Trần Đoàn Tuấn Tú

2

Không sáng tạo

20

Nguyễn Quang Thành

2

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM THỰC NGHIỆM

MN HỐ NAI S.TN

GHI

TỔNG

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

CHÚ

ĐIỂM

1

Đỗ Thị Anh Thư

Rất sáng tạo

22

2

Nguyễn Vũ Minh Mẫn

Rất sáng tạo

21

3

Lý Mỹ Nhung

Rất sáng tạo

20

4

Võ Hoàng Anh Thư

Rất sáng tạo

20

5

Đỗ Tiến Đạt

Sáng tạo

19

6

Nguyễn Tấn Dũng

Sáng tạo

19

7

Võ Thị Xuân Hiếu

Sáng tạo

19

8

Phạm Nguyễn Bích Trâm

Sáng tạo

18

9

Đoàn Huyền Trân

Sáng tạo

18

10

Đặng Thị Thùy Trang

Sáng tạo

17

11

Nguyễn Thị Thảo Vy

Sáng tạo

15

12

Nguyễn Lương Triều Vỹ

Sáng tạo

14

13

Trần Đình Long

Sáng tạo

12

14

Đào Nguyễn Gia Mẫn

Sáng tạo

12

15

Trần Thụy Thiên Phúc

Ít sáng tạo

9

16

Ngô Ngọc Quốc

Ít sáng tạo

7

17

Nguyễn Ngọc Diễm Quỳnh

Ít sáng tạo

7

18

Lê Quang Tân

Ít sáng tạo

5

19

Trần Đoàn Tuấn Tú

Ít sáng tạo

5

20

Nguyễn Quang Thành

Ít sáng tạo

4

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM ĐỐI CHỨNG

MN HỐ NAI T.TN

GHI

TỔNG

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

CHÚ

ĐIỂM

1

Phạm Bằng Hương Vy

13

Sáng tạo

2

Trần Thị Diễm Quyên

12

Sáng tạo

3

Vũ Huy Hoàng

12

Sáng tạo

4

Nguyễn Thị Giáng Xuân

8

Ít sáng tạo

5

Phạm Minh Quý

7

Ít sáng tạo

6

Nguyễn Hoàng Trung

7

Ít sáng tạo

7

Phạm Duy Khang

7

Ít sáng tạo

8

Trần Đức Dũng

6

Ít sáng tạo

9

Nguyễn Ngọc Linh

6

Ít sáng tạo

10

Uông Thị Lan Anh

5

Ít sáng tạo

11

Nguyễn Mỹ Linh

4

Ít sáng tạo

12

Nguyễn Mai Hương

4

Ít sáng tạo

13

Nguyễn Phương Quỳnh

3

Không sáng tạo

14

Lê Nhã Trúc

3

Không sáng tạo

15

Tô Ngọc Mạnh

3

Không sáng tạo

16

Nguyễn Mộng Thùy Trang

3

Không sáng tạo

17

Lê Hoàng Thiên Trúc

2

Không sáng tạo

18

Nguyễn Thành Đạt

2

Không sáng tạo

19

Lệ Thị Thu Hiền

2

Không sáng tạo

20

Nguyễn Anh Thư

2

Không sáng tạo

BẢNG TỔNG HỢP NHÓM ĐỐI CHỨNG

MN HỐ NAI S.TN

TỔNG

GHI

STT

HỌ&TÊN

XẾP LOẠI

ĐIỂM

CHÚ

1

Phạm Bằng Hương Vy

13

Sáng tạo

2

Trần Thị Diễm Quyên

13

Sáng tạo

3

Vũ Huy Hoàng

12

Sáng tạo

4

Nguyễn Thị Giáng Xuân

10

Ít sáng tạo

5

Phạm Minh Quý

10

Ít sáng tạo

6

Nguyễn Hoàng Trung

9

Ít sáng tạo

7

Phạm Duy Khang

7

Ít sáng tạo

8

Trần Đức Dũng

6

Ít sáng tạo

9

Nguyễn Ngọc Linh

5

Ít sáng tạo

10

Uông Thị Lan Anh

5

Ít sáng tạo

11

Nguyễn Mỹ Linh

4

Ít sáng tạo

12

Nguyễn Mai Hương

4

Ít sáng tạo

13

Nguyễn Phương Quỳnh

3

Không sáng tạo

14

Lê Nhã Trúc

3

Không sáng tạo

15

Tô Ngọc Mạnh

3

Không sáng tạo

16

Nguyễn Mộng Thùy Trang

3

Không sáng tạo

17

Lê Hoàng Thiên Trúc

3

Không sáng tạo

18

Nguyễn Thành Đạt

2

Không sáng tạo

19

Lệ Thị Thu Hiền

2

Không sáng tạo

20

Nguyễn Anh Thư

2

Không sáng tạo