BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ Hồ CHÍ MINH

HOÀNG CÔNG DŨNG

NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ -

HIỆN ĐẠI HOÁ

Chuyên ngành : Địa lí học (Trừ Địa lí tự nhiên)

Mã số: 60 31 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

Hướng dẫn khoa học:

PGS.TS.Phạm Xuân Hậu

TP. HỒ CHÍ MINH – 2006

LỜI CÁM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu thực hiện hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ

nhiệt tình của các thầy cô, các giáo sư giảng dạy các chuyên đề, giúp cho tác giả thu họach được rất

nhiều kiến thức cần thiết và bể ích.

Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn khoa học PGS. TS. Phạm

Xuân Hậu đã tận tình chỉ dẫn trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn, cảm ơn Ban

Giám hiệu Trường ĐHSP, NXBGD, Phòng Công nghệ và Sau đại học, Khoa Địa lí đã tạo mọi điều

kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành luận văn, cảm ơn sâu sắc đến các sở, ban, ngành :

- Sở Công nghiệp.

- Viện Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

- Sở Tài nguyên môi trường.

- Ban Quản lí các khu khu chế xuất và khu công nghiệp.

- Viện Quy hoạch Đô thị.

- Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, đã cung cấp các tư liệu quý giá cho tác giả trong quá

trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình; cám ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đồng

nghiệp đã chia sẻ khó khăn, động viên trong quá trình hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn

Hoàng Công Dũng

MỤC LỤC

0TLỜI CÁM ƠN0T ...................................................................................................... 2

0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 3

0TDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT0T .......................................................................... 7

0TMỞ ĐẦU0T .............................................................................................................. 8

0T1.Tính cấp thiết của đề tài0T ....................................................................................... 8

0T2.Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn đề tài0T ................................................................. 9

0T2.1.Mục tiêu0T ........................................................................................................... 9

0T2.2.Nhiệm vụ0T ......................................................................................................... 9

0T2.3.Giới hạn phạm vi nghiên cứu0T......................................................................... 9

0T3.Lịch sử nghiên cứu vấn đề TCLTCN0T ................................................................ 10

0T3.1.Trên thế giới0T .................................................................................................. 10

0T3.2.Ở Việt Nam và TP. HCM0T .............................................................................. 10

0T4.Quan điểm và phương pháp nghiên cứu0T ........................................................... 12

0T4.1.Quan điểm nghiên cứu0T ................................................................................. 12

0T4.1.1.Quan điểm tổng hớp lãnh thổ0T ............................................................... 12

0T4.1.2.Quan điểm hệ thống0T .............................................................................. 13

0T4.1.3.Quan điểm lịch sử viễn cảnh0T ................................................................ 13

0T4.1.4.Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững0T ........................................ 14

0T4.2.Phương pháp nghiên cứu0T ............................................................................. 14

0T4.2.1.Phương pháp thống kê0T .......................................................................... 14

0T4.2.2.Phương pháp phân tích, so sánh0T .......................................................... 15

0T4.2.3.Phương pháp thực địa0T ........................................................................... 15

0T4.2.4.Phương pháp bản đồ, biểu đồ0T ............................................................... 15

3

0T4.2.5.Phương pháp dự báo0T ............................................................................. 16

0T4.2.6.Phương pháp hệ thống thông tin địa lí (GIS)0T ...................................... 16

0T5.Cấu trúc luận văn0T ................................................................................................ 16

0TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP0T

............................................................................................................................. 17

0T1.1.Tổng quan0T ......................................................................................................... 17

0T1.1.1.Tính khách quan của TCLTCN0T ................................................................ 17

0T1.1.2.Các khái niêm, lí thuyết liên quan0T ............................................................ 17

0T1.1.2.1.Khái niệm không gian0T ........................................................................ 17

0T1.1.2.2.Cơ sở của tổ chức không gian sản xuất0T ............................................ 18

0T1.1.2.3.Một số khái niệm và nội dung về tổ chức không gian0T ...................... 19

0T1.2.Tổ chức lãnh thổ công nghiệp0T...................................................................... 27

0T1.2.1.Tập trung công nghiệp theo lãnh thổ0T ....................................................... 27

0T1.2.2.Quá trình tập trung công nghiệp theo lãnh thổ0T ....................................... 28

0T1.2.3.Hệ thống phân vi tổ chức lãnh thổ công nghiệp0T ...................................... 28

0T1.2.3.1.Điểm công nghiệp0T ............................................................................... 29

0T1.2.3.2.Cụm công nghiệp0T ................................................................................ 29

0T1.2.3.3.KCN (khu công nghiệp tập trung)0T ..................................................... 29

0T1.2.3.4.KCX (khu chế xuất)0T ............................................................................ 31

0T1.2.3.5.KCNC (Khu công nghệ cao)0T .............................................................. 34

0T1.2.3.6.Trung tâm công nghiệp0T ...................................................................... 34

0T1.2.3.7.Vùng công nghiệp0T ............................................................................... 34

0T1.3.Kinh nghiệm tổ chức phát triển KCN và KCX ở một số nước và vùng lãnh

0T1.3.1.Ở Đài Loan0T ................................................................................................. 35

thổ châu Á0T ............................................................................................................... 35

4

0T1.3.2.Ở Thái Lan0T ................................................................................................. 36

0T1.3.3.Ở Malaysia0T ................................................................................................. 37

0T1.3.4.Ở Hàn Quốc0T ............................................................................................... 38

0T1.3.5.Ở Trung Quốc0T ............................................................................................ 38

0TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH0T ........................................................................ 40

0T2.1.Sơ lược quá trình phát triển CN0T ..................................................................... 40

0T2.2.Công nghiệp TP. HCM trong bối cảnh phát triển công nghiệp cả nước0T .... 41

0T2.3.Thực trạng tổ chức lãnh thổ CN TP. Hồ Chí Minh0T ...................................... 45

0T2.3.1.Sự chuyển dịch cơ cấu CN0T ........................................................................ 45

0T2.3.2.Tổ chức LTSXCN theo ngành0T ................................................................... 48

0T2.3.3.Tổ chức LTSXCN theo thành phần kinh tế0T.............................................. 57

0T2.3.4.Các hình thức tổ chức lãnh thổ SXCN ở TP. HCM0T................................. 62

0T2.4.Những vấn đề rút ra từ nghiên cứu thực trạng TCLTCN TP. HCM0T ......... 73

0TCHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC LÃNH THỔ

CÔNG NGHIỆP TP. HCM THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA0T .................................................................................................................... 77

0T3.1.Những cơ sở chính để định hướng0T .................................................................. 77

0T3.1.1.Nhận thức bối cảnh quốc tế và các xu hướng phát triển0T......................... 77

0T3.1.2.Nhân thức các nguồn lực0T .......................................................................... 80

0T3.1.3.Hiện trạng phát triển công nghiệp TP. HCM0T........................................... 82

0T3.1.4.Định hướng phát triển KTXH TP. Hồ Chí Minh đến năm 20200T ............ 83

0T3.2.Định hướng tổ chức lãnh thổ CN TP. Hồ Chí Minh đến năm 20200T ............ 86

0T3.2.1.Định hướng phát triển các ngành công nghiệp0T ....................................... 86

0T3.2.2.Định hướng đầu tư phát triển công nghiệp TP. Hồ Chí Minh0T ............... 90

5

0T3.2.3.Hướng TCLTCN TP. Hồ Chí Minh0T .......................................................... 91

0T3.3.Giải pháp phát triển KCN, KCX, KCNC, CCN0T ........................................... 98

0T3.3.1.Các giải pháp0T .............................................................................................. 98

0T3.3.2.Đề xuất và kiến nghị0T ................................................................................ 103

0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................... 106

0TVề lí luận0T ............................................................................................................... 106

0TVề thực trạng TCLTCN TP. HCM0T .................................................................... 106

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................. 109

0TPHỤ LỤC0T ......................................................................................................... 112

0TPHỤ LỤC 1: CÁC CCN, KCN ĐANG HOẠT ĐỘNG ĐỀ NGHỊ GIỮ LẠI0T . 112

0TPHỤ LỤC 2: CÁC KCN ĐỀ NGHỊ PHÁT TRIỂN ĐẾN 20200T ....................... 113

0TPHỤ LỤC 3 : DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ TP. HỒ CHÍ MINH0T ....... 113

0TPHỤ LỤC 4 : THÔNG KÊ LAO ĐỘNG0T ........................................................... 114

0TPHỤ LỤC 5 : DÂN SỐ VÀ BIÊN ĐỘNG DÂN SỐ NAM, NỮ TP. HCM0T ..... 115

6

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CN : Công nghiệp

CCN: Cụm công nghiệp

GTSXCN: Giá trị sản xuất công nghiệp

GTNK: Giá trị nhập khẩu

GTXK: Giá trị xuất khẩu

KTXH: Kinh tế - xã hội

KCN: Khu công nghiệp

KCNC: Khu công nghệ cao

KCX Khu chế xuất

TCLTCN: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp

TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh

SXCN: Sản xuất công nghiệp

VKTTĐPN: Vùng Kinh tế trọng điểm phía

7

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Công nghiệp là ngành kinh tế động lực trong quá trình CNH và HĐH đất

nước, Công nghiệp giữ vai trò thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển đối với mỗi

quốc gia. Tổ chức lãnh thể công nghiệp khoa học, hợp lí sẽ thúc đẩy sự phát triển

nhanh không chỉ đối với ngành công nghiệp mà còn thúc đẩy sự phát triển nhanh

chóng nến kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam là một quốc gia chưa thoát khỏi

tình trạng kém phát triển, đang trên con đường CNH và HĐH, phấn đấu đến năm 2020

cơ bản trở thành nước công nghiệp, có thu nhập trung bình (2500 - 2700 USD/người).

Vì vậy, công nghiệp Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh, trong đó, các KCN,

KCX ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và mở rộng quy mô diện tích lãnh

thể, quy mô giá trị sản lượng công nghiệp. Tuy nhiên, các KCN, KCX của nước ta

phân bố chưa thật hợp lí, chưa tạo được mối quan hệ hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, tình

trạng ô nhiễm môi trường còn phổ biến, phát triển công nghiệp chưa gắn liền với xử lí

chất thải để bảo vệ môi trường. Để công nghiệp phát triển mạnh, đem lại hiệu quả cao

cả về mặt KTXH và môi trường thì cần phải TCLTCN một cách khoa học, hợp lí.

TP. HCM - trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước, phát huy được các điều kiện

thuận lợi về vị trí địa lí, tiềm lực kinh tế... nên đã tạo được lợi thế so sánh rất lớn cho

sự phát triển công nghiệp Thành phố. Công nghiệp TP. HCM đã có nhiều đóng góp

tích cực vào sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Công nghiệp TP. HCM chiếm vị trí đặc

biệt quan trọng trong VKTTĐPN cũng như cả nước (chiếm 23,55% GTSXCN cả

nước năm 2005). Nhưng để phát huy mạnh mẽ tiềm lực kinh tế của TP. HCM, phát

huy vai trò đầu tàu trong phát triển công nghiệp, đòi hỏi Thành phố cần có sự nghiên

cứu, phân tích đánh giá chính xác các nguồn lực, để TCLTCN một cách tối ưu. Đặc

biệt, sau khi nước ta gia nhập WTO, cơ hội và thách thức luôn là sức ép căng thẳng,

đòi hỏi phải làm gì, làm như thế nào để vượt lên, để tăng trương cao và phát triển bền

vững? Một trong những mấu chốt nhằm huy động tổng hợp sức mạnh của mọi nguồn

lực, đó chính là tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp một cách khoa học, hợp lí.

Đề tài : "Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. Hồ Chí Minh thời kì công

nghiệp hóa - hiện đại hóa " có ý nghĩa lí luận và thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao

8

hiệu quả KTXH và môi trường của ngành công nghiệp TP. HCM trong thời kì CNH

và HĐH.

2.Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn đề tài

2.1.Mục tiêu

-Nghiên cứu hiện trạng công nghiệp TP. HCM, (sự tăng trưởng, phát triển theo

ngành, theo thành phần kinh tế và theo lãnh thổ, nghiên cứu những thành tựu và khó

khăn của công nghiệp Thành phố)

Đề xuất định hướng và giải pháp TCLTCN hợp lí nhằm khai thác có hiệu quả

những ưu thế để TP. HCM thực sự là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước.

2.2.Nhiệm vụ

-Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận TCLTCN, qua đó, rút ra lí luận liên quan

đến TCLTCN, nhằm góp phần TCLTCN TP. HCM.

-Tổng hợp và xử lí các số liệu liên quan đến phát triển và phân bố công nghiệp

TP. HCM, đánh giá sự phát triển, tăng trưởng và phân bố CN.

-Định hướng TCLTCN hợp lí để có hiệu quả cao hơn.

2.3.Giới hạn phạm vi nghiên cứu

TCLTCN TP. HCM liên quan đến mọi mặt của nền công nghiệp đa ngành, từ cơ

cấu ngành, nhóm ngành, ngành mũi nhọn, ngành chủ lực đến phân bố, hướng phát

triển, điều chỉnh, mở rộng các KCN, KCX, KCNC. Trong khuôn khổ luận văn Thạc

sĩ, do còn nhiều hạn chế, nên đề tài giới hạn ở một số nội dung chính sau đây :

-UVề nội dungU:

+ Nghiên cứu một số khái niệm, lí thuyết liên quan TCLTCN.

+ Nghiên cứu thực trạng công nghiệp TP. HCM trên bình diện tổng thể về phát

triển, tăng trưởng theo ngành, theo thành phần kinh tế và theo lãnh thổ. Qua đó, xác

định các lợi thế và những hạn chế trong TCLTCN TP. HCM.

+ Định hướng TCLTCN đến năm 2020.

-Về không gian:

9

Nghiên cứu hiện trạng tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM. Trong đó, quan

tâm nhiều hơn đến không gian phát triển và phân bố các KCN, KCX, KCNC ở TP.

HCM. Mặt khác, nghiên cứu cũng gắn với không gian cơ sở hạ tầng và giao thông nối

liền hệ thống KCN, khu vực phụ cận trong VKTTĐPN.

-Thời gian:

Luận văn nghiên cứu TCLTCN TP. HCM trong thời kì 1995 đến 2005, trong đó

tập trung chính vào giai đoạn 2001 - 2005. Yếu tố thời gian được coi như một tiêu chí

không thể thiếu trong TCLTCN theo hướng CNH, HĐH.

3.Lịch sử nghiên cứu vấn đề TCLTCN

3.1.Trên thế giới

Trên thế giới, có nhiều lí thuyết về phát triển và tổ chức không gian công nghiệp,

trong đó, một số quan điểm chủ yếu dựa vào các nhân tố khách quan gắn liền với cơ

cấu nguồn nội lực lẫn ngoại lực của từng vùng, từng quốc gia và đặc điểm kinh tế - kĩ

thuật cụ thể của từng ngành công nghiệp ; những quan điểm còn lại đặt nền tảng vào

hành vi của các nhà đầu tư. Các lí thuyết phân bố công nghiệp tối ưu đầu tiên được

nghiên cứu do Alírer Weber (1909) đưa ra, sau đó được các tác giả Greenhut (1956)

và Smith (1981) cải thiện. Lí thuyết vị trí phân bố cồng nghiệp tối ưu quan tâm đến

hai yếu tố đầu vào và đầu ra. Ngoài ra, còn lí thuyết hành vi do CTKelly (1989) và

Smith (1995) đưa ra, phân tích cơ cấu của đơn vị có nhu cầu lựa chọn địa điểm đầu tư

và tạo những liên kết. Mỗi lí thuyết đều có cơ sở riêng, có giá trị nhất định trong điều

kiện hoàn cảnh đương thời ; song dường như chưa có lí thuyết nào cân nhắc đúng

nghĩa yếu tố thời gian - mà trong đó khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão - làm

lu mờ và nhấn chìm cái cũ, làm xuất hiện và tăng trưởng nhanh cái mới hầu khắp các

ngành sản xuất công nghiệp.

3.2.Ở Việt Nam và TP. HCM

Ở nước ta nói chung và TP. HCM nói riêng, vấn đề nghiên cứu tổ chức lãnh thổ

công nghiệp đã được nhiều nhà khoa học cũng như các nhà quản lí quan tâm nghiên

cứu, đã có các công trình tiêu biểu sau đây:

"Nghiên cứu đánh giá toàn bộ KCX ở Việt Nam" PGS Văn Thái năm 1995, công

10

trình "Nghiên cứu sự hình thành và phát triển các KCN tập trung ở Việt Nam" của Lê

Văn Ninh... Các tác giả đã phân tích cơ sở khoa học trong việc hình thành và phát

triển, các quan điểm về KCN, KCX, việc quy hoạch các KCN, KCX ở Việt Nam.

Kỉ yếu KCN - KCX Việt Nam 2002 - NXB. TP. HCM. Kỉ yếu hội nghị -hội thảo

quốc gia: 15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam (1991 - 2006).

Trong các báo cáo đã trình bày những thành tựu và hạn chế của các KCN, KCX ở

nước ta.

GS. TS Lê Thông và PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ, năm 2000 đã cho ra mắt cuốn

" Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam", đã đưa ra cơ sở lí thuyết về TCLTCN.

Trong sách giáo khoa Địa lí 10 nâng cao (xuất bản năm 2006) cũng đề cập đến

vấn đề tổ chức lãnh thổ công nghiệp và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp

chung trên thế giới.

Bản báo cáo tổng hợp "Định hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế,

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam" tháng 4/2004, chủ nhiệm đề tài là TS. Trần Du

Lịch, PGS.TS Đặng Văn Phan và các thành viên, đề tài này đã phân tích hiện trạng

chuyển dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN, đánh giá vấn đề tồn tại phát triển kinh tế của

vùng, đồng thời đánh giá các KCN, KCX trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- HEPZA - Ban quản lí các KCX và công nghiệp TP. HCM đã cho ra kỉ yếu "10

năm phát triển và quản lí các KCX và công nghiệp TP. HCM 1992 -2002". Giới thiệu

các KCN, KCX trên địa bàn TP HCM.

- Đề tài cấp Bộ do ThS. Lê Thị Hường chủ nhiệm đề tài đã đánh giá "Các KCN,

KCX Việt Nam - Hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển", tháng 5/2004, trong đó

có đề nghị xếp CCN vào KCN, dùng tên gọi KCN, không dùng tên gọi KCN tập

trung. Nội dung cũng đưa ra phân loại KCN theo 3 cấp nhỏ, vừa và lớn.

- Năm 2004, TS. Trần Du Lịch đã thực hiện đề tài nghiên cứu "Các KCN tập

trung, các CCN trên địa bàn TP. HCM, thực trạng và kiến nghị điều chỉnh quy hoạch".

Nội dung đề tài liên quan đến các vấn đề quan tâm là : đề nghị chuyển đổi một số

KCN thành CCN (như KCN Phú Mỹ, Tân Quy, Bắc Thủ Đức, Phong Phú, Đông

Thạnh, Phú Hữu), nhưng lí luận về CCN thì tác giả giới thiệu sẽ nghiên cứu làm rõ

11

vào một dịp khác. Hướng phân bố một số ngành gây ô nhiễm độc hại như hóa chất,

cao su được đề nghị di dời và phát triển về phía đông nam (ở phía hạ lưu sông Sài

Gòn - như ở KCN Hiệp Phước).

- Tháng 11 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phát triển CN TP. HCM

đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020". Trong đó có nhiều chỉ tiêu quan trọng như

GTSXCN so với cả nước (năm 2010 : 29,1%, năm 2020 : 30,1%), tỉ trọng CN trong

cơ cấu GDP của Thành phố năm 2010 : 39,28%, năm 2020 : 39,66%, lao động CN

của Thành phố năm 2010 : 1,2 triệu, năm 2020 : 1,55 triệu người.

Về tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM chưa có công trình chuyên biệt nào

nghiên cứu chuyên sâu!

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã cố gắng thu thập tổng hợp tài liệu về công

nghiệp, về các tư liệu liên quan và tiến hành khảo sát thực địa tại các KCN, KCX,...

Trên cơ sở đó, xử lí số liệu, phân tích, đánh giá vân đề lãnh thổ công nghiệp TP.

HCM, nhằm đưa ra những nhận định có cơ sở căn cứ, phân tích thực trạng và đóng

góp ý kiến vào định hướng TCLTCN TP. HCM nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và

môi trường. Tuy nhiên, với khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ và thời gian có hạn

nên khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả luận văn mong nhận được

những ý kiến đóng góp chân thành của quý Thầy, Cô và quý độc giả để có thể tiếp tục

nghiên cứu hoàn thiện hơn ương tương lai.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã may mắn được kế thừa các công

trình nghiên cứu, quan điểm của các Thầy Cô và các nhà khoa học về TCLT nói

chung và TCLTCN nói riêng - đó là các tài liệu quý giá để tác giả có thể tiếp tục thực

hiện các đề tài nghiên cứu một cách sâu sắc.

4.Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

4.1.Quan điểm nghiên cứu

4.1.1.Quan điểm tổng hớp lãnh thổ

Các sự vật và hiện tượng địa lí tồn tại và phát triển trong không gian và tác động

tương tác lẫn nhau trong những mối quan hệ tổng hợp đa chiều tạo nên sự phân hóa

trong không gian các lãnh thổ công nghiệp. Do vậy, khi nghiên cứu lãnh thổ công

12

nghiệp trên địa bàn TP. HCM, cần phải đánh giá tổng hợp vai trò của các yếu tố tự

nhiên, kinh tế - xã hội trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Mặt khác, cần chú ý đến

nhóm nhân tố chủ lực (vị trí, lao động, môi trường đầu tư) ảnh hưởng đến hiệu quả

phát triển sản xuất của công nghiệp TP. HCM, nhằm đưa ra định hướng phát triển và

phân bố công nghiệp TP. HCM một cách hợp lí, hiệu quả để phát huy cao độ các lợi

thế so sánh của TP HCM. Hơn nữa, khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp,

chính là nghiên cứu sự kết hợp giữa các ngành khác nhau trên một lãnh thổ, do đó

phải đứng trên quan điểm tổng hợp lãnh thể để phân tích đánh giá và xây dựng

phương hương tổ chức lãnh thổ công nghiệp trong tương lai một cách đúng đắn, khoa

học.

4.1.2.Quan điểm hệ thống

Công nghiệp là một hệ thống các ngành, tổ chức lãnh thổ công nghiệp bao gồm

cơ cấu và phân bố các ngành công nghiệp và các kết hợp sản xuất lãnh thổ, hệ thống

các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ và khả

năng điểu khiển của các hệ thống trong không gian các ngành. Vì thế, khi nghiên cứu

đề tài Tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM cần phải chú ý đến quan điểm hệ

thống.

Hơn nữa, TCLTCN mang tính hệ thống, bao gồm việc phân bố và phát triển các

ngành công nghiệp trong hệ thống các ngành công nghiệp và tổ chức lãnh thổ CN TP.

HCM là phần trung tâm của VKTTĐPN và cũng là bộ phận quan trọng của lãnh thổ

CN cả nước. Do đó, để đưa ra các nhận định, đánh giá về tổ chức lãnh thổ công

nghiệp TP. HCM phải xem xét trong hệ thống CN và lãnh thổ CN toàn quốc.

4.1.3.Quan điểm lịch sử viễn cảnh

Quá trình hình thành, phát triển tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở TP. HCM có sự

biến đổi rõ nét qua từng giai đoạn lịch sử, gắn với phát triển KTXH của đất nước nói

chung và TP. HCM nói riêng. Trong quá trình Đổi mới đường lối phát triển KT - XH,

sự hợp tác kinh tế Quốc tế và khu vực ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức lãnh thổ công

nghiệp nước ta nói chung và TP. HCM nói riêng.

Do vậy, khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM cần phải chú ý

13

phân tích, đánh giá tình hình phát triển và phân bố công nghiệp trong bối cảnh lịch sử

nhất định. Đặc biệt cần chú ý đến các mốc lịch sử quan trọng như thời kì đổi mới

KTXH, thời điểm Nhà nước ban hành Luật đầu tư nước ngoài, thời điểm Việt Nam

gia nhập ASEAN và WTO.

4.1.4.Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Sự phát triển và phân bố công nghiệp thường có những ảnh hưởng rất lớn đến

môi trường, tài nguyên : cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Trong

quá trình phát triển sản xuất công nghiêp và đô thị hoa, nhất là giai đoạn đầu, công

nghiệp thường phát triển, phân bố tự phát và thiếu sự tổ chức, quản lí và quy hoạch

dẫn đến tình trạng bất hợp lí như các điểm, cụm công nghiệp, các cơ sở sản xuất công

nghiệp gây ô nhiễm môi trường phân bố gần nơi cư trú, hoặc các cơ sở sản xuất công

nghiệp bố trí gần nhau nhưng không tạo được mối liên hệ về mặt kinh tế, kĩ thuật, mà

ngược lại gây cản trở cho nhau trong sản xuất như làm giảm chất lượng sản phẩm, gây

ách tắc giao thông...

Do vậy, TCLTCN TP. HCM cần phải chú ý quán triệt quan điểm sinh thái, bền

vững khi lập các phương án phát triển, phân bố các xí nghiệp công nghiệp để vừa đảm

bảo phát triển kinh tế- xã hội, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.

4.2.Phương pháp nghiên cứu

4.2.1.Phương pháp thống kê

TCLTCN là vấn đề rất rộng nhằm phát triển phân bố sản xuất công nghiệp một

cách hợp lí, có hiệu quả cao về KT -XH và môi trường, trên cơ sở đánh giá, sử dụng

hợp lí các nguồn lực và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm,... Do vậy, cần phải dựa

vào khối lượng các nguồn tài liệu, số liệu rất lớn. Đòi hỏi tác giả phải thu thập số liệu

thống kê từ nhiều nguồn, như tư liệu từ Niên giám thống kê nhiều năm liền của Cục

thống kê TP. HCM, Tổng cục thống kê Việt Nam, Viện kinh tế ra HCM, các số liệu

của các KCN, KCX, Sở CN TP. HCM, của Viện Quy hoạch Đô thị, sở Tài nguyên

môi trường... Trên cơ sở đó, tác giả lựa chọn những tư liệu quý giá phục vụ đề tài

nghiên cứu TCLTCN TP. HCM.

14

4.2.2.Phương pháp phân tích, so sánh

Dựa trên cơ sở các nguồn tư liệu thu thập được, tác giả đã sắp xếp, phân loại và

phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Tác giả so sánh lợi

thế của công nghiệp TP. HCM, xác định hướng tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP.

HCM. Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của lãnh thổ CN TP. HCM từ đó

đưa ra phương hướng mới tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM.

Đồng thời, tác giả cũng sử dụng các số liệu của các cơ quan ban ngành trong cả

nước về thống kê kinh tế - xã hội, tài nguyên thiên nhiên và vấn đề TCLTCN ở các địa

phương khác trong nước để phân tích, so sánh với tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP.

HCM.

4.2.3.Phương pháp thực địa

Phương pháp thực địa là phương pháp đặc trưng của Địa lí học, giúp tác giả xác

định được thực tế phân bố và phát triển TCLTCN TP. HCM, khẳng định mức độ tin

cậy của các tài liệu, số liệu. Tác giả đã tham quan, nghiên cứu một số KCN, KCX,

KCNC ở TP. HCM, tham quan một số cơ sở sản xuất công nghiệp, tìm hiểu nguồn

cung cấp nguyên liệu, nơi tiêu thụ sản phẩm, những thành công và thách thức đối với

KCN, KCX, nhằm đưa ra những kiến nghị có tính khả thi.

Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo ý kiến các các nhà khoa học, nhà quản lí về

vấn đề tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM nói riêng và TCLTCN nói chung để có

sự phân tích đa chiều. Tác giả cũng tiến hành phỏng vấn một số cư dân ở gần các cơ

sở sản xuất công nghiệp về những tác động của các xí nghiệp công nghiệp đối với KT

- XH và môi trường.

4.2.4.Phương pháp bản đồ, biểu đồ

Bản đồ và biểu đồ vừa là nguồn tư liệu quý để tác giả nghiên cứu, đồng thời là

phương tiện để tác giả trình bày công trình nghiên cứu của mình, nên đã sử dụng kết

hợp biểu bảng, biểu đồ, bản đồ hiện trạng cũng như quy hoạch CN TP. HCM đến năm

2020.

Các biểu đồ thể hiện các số liệu thống kê tiêu biểu đã được xử lí để thấy rõ sự

phát triển theo ngành và theo thành phần kinh tế, thấy rõ sự biến đổi về tổ chức lãnh

15

thổ công nghiệp TP. HCM.

4.2.5.Phương pháp dự báo

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển phân bố sản xuất công nghiệp trong

quá khứ, hiện tại từ đó rút ra quy luật phát triển, biến đổi của tổ chức lãnh thổ công

nghiệp trong tương lai. Phương pháp dự báo dự trên một chuỗi sự kiện phát triển,

phân bố công nghiệp từ năm 1995 đến năm 2005, tác giả cố gắng dự báo phương

hướng TCLTCN trong tương lai và ảnh hưởng của nó đến tình hình phát triển KTXH

và môi trường.

4.2.6.Phương pháp hệ thống thông tin địa lí (GIS)

Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng hệ thống thông tin địa lí (GIS)

phân tích xử lí các thông tin không gian lãnh thổ công nghiệp, thiết lập hệ thống bản

đồ, biểu đồ.

5.Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương :

Chương 1: Cơ sở lí luận tổ chức lãnh thổ công nghiệp

Chương 2 : Thực trạng tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM

Chương 3 : Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ công nghiệp TP. HCM

thời kì CNH, HĐH.

16

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG

NGHIỆP

1.1.Tổng quan

1.1.1.Tính khách quan của TCLTCN

Theo dòng lịch sử, nền kinh tế nông nghiệp gắn liền với sản xuất nhỏ và tiểu thủ

công, công nghệ kĩ thuật lạc hậu, sản xuất theo lối truyền thống. Khi máy móc ra đời,

sản xuất công nghiệp hình thành và thay thế dần sản xuất nông nghiệp (chuyển dịch

cơ cấu, giải phóng sức lao động). Thoạt đầu, công nghiệp được hình thành và phát

triển tự phát rải rác ở một số nước, lúc đó chưa ai nghĩ đến tổ chức, quy hoạch lãnh

thổ. Càng về sau, công nghiệp phát triển lan rộng, đồng thời được CNH và HĐH, theo

đó người ta chú ý đến việc nghiên cứu -tổ chức sắp xếp nhà máy, xí nghiệp cần đặt ở

đâu cho thích hợp và có hiệu quả cao. Đó là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất công

nghiệp. Công việc nghiên cứu, tổ chức, sắp xếp, bố trí phân bố theo lãnh thổ khoa học,

hợp lí bao nhiêu thì nền sản xuất công nghiệp phát triển nhanh và bền vững bấy nhiêu.

Khi sản xuất công nghiệp tiến đến đỉnh cao (ngưỡng của hậu công nghiệp) thì đồng

hành với quá trình đó là sự lớn mạnh và thay thế vai trò chủ đạo bởi khu vực kinh tế

dịch vụ, đó là giai đoạn chuyển sang nền kinh tế tri thức.

Cùng với sự phát triển và đòi hỏi tất yếu CNH, HĐH nền kinh tế, sự phân công

lao động công nghiệp theo ngành và theo lãnh thổ đồng thời diễn ra và đòi hỏi ngày

càng cao về phân công lao động. Đó cũng là một tất yếu khách quan trong tiến trình

phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy việc nghiên cứu TCLTCN.

1.1.2.Các khái niêm, lí thuyết liên quan

1.1.2.1.Khái niệm không gian

Các Mác đã nói: "Với trình độ phát triển nhất định của năng suất lao động bao

giờ cũng cần một không gian nào đó".

Theo từ điển Địa lí (Oxford Universiry Press, 1997) không gian (space) là phạm

vi của một vùng hay một khu vực thường được thể hiện dưới dạng bề mặt Trái Đất.

Mối quan hệ không gian giữ vị trí trung tâm trong Địa lí học. Ở đây cần phân biệt hai

17

khái niệm không gian tuyệt đối và không gian tương đối.

Không gian tuyệt đối là một không gian tuyệt đối khách quan.

Không gian tương đối là một không gian nhận thức bởi con người hay xã hội và

có liên quan tới những mối liên hệ giữa những sự kiện và khuynh hướng của sự kiện

đó.

1.1.2.2.Cơ sở của tổ chức không gian sản xuất

Khi nói tới tể chức không gian là nói tới không gian lãnh thổ KT - XH của một

nước, một vùng, một địa phương cụ thể trong hình thái xã hội nhất định, trong đó

không gian sản xuất là những bộ phận được hình thành và phát triển từ tự phát ở trình

độ thấp và lên tự giác ở trình độ cao có tổ chức khoa học chặt chẽ. Không gian sản

xuất là những bộ phận lãnh thổ, trong đó diễn ra các hoạt động sản xuất khác nhau, đó

là một phần trong tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội. Lãnh thổ một nước là một bộ phận

của bề mặt Trái Đất thuộc chủ quyền của một quốc gia. Lãnh thổ bao gồm phần đất

liền, vùng trời, vùng biển. Giới hạn lãnh thổ là đường biên giới, hải giới và không

phận của quốc gia tạo nên một tổng thể hình khối không gian ba chiều.

Theo E.BAlaev : Tổ chức lãnh thổ xã hội là sự kết hợp các cơ cấu lãnh thổ đang

hoạt động như bố trí sắp xếp dân cư, sản xuất, sử dụng tài nguyên thiên nhiên,... được

liên kết lại bởi cơ cấu quản lí với mục đích tái sản xuất cuộc sống xã hội, phù hợp với

các mục đích và trên cơ sở kinh tế hiện hành trong hình thái xã hội đó.

Như vậy, bản chất của tổ chức không gian KT - XH là :

- Tính tổ chức ngày càng cao, càng hiệu quả, do con người quyết định.

- Tính không gian lãnh thổ được bố trí, định vị ngày càng hợp lí theo trình độ và

hình thái kinh tế- xã hội.

- Tính hiện đại và đi trước thời gian.

Ở những nước đã sớm CNH, sớm đi vào kinh tế thị trường từ thế kỉ XIX, tổ chức

lãnh thổ đã trở thành khoa học tổ chức quy hoạch và quản lí điều hành, tổ chức lãnh

thổ được hiểu là: "nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và hiệu quả

"( Gaudemar, 1992 ). Nhiệm vụ của TCLT là phân bố, định vị, xác định tỉ lệ và quan

18

hệ hợp lí về phát triển KT - XH giữa các ngành trong một vùng, giữa các vùng trong

một quốc gia và trên mức độ nhất định có tính đến mối liên kết, tương tác giữa các

quốc gia với nhau, tạo nên giá trị mới tối ưu, nhờ có sự bố trí sắp xếp hợp lí hài hoà

giữa các đơn vị lãnh thổ khác nhau trong cùng một tỉnh, một vùng, một nước, đặc biệt

điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện

nay.

Tổ chức lãnh thổ là sự nghiên cứu, tìm kiểm trong khung cảnh lãnh thổ sự phân

bố sản xuất phù hợp với các nguồn lực hiện hữu và nguồn lực tiềm năng trong và

ngoài nước.

1.1.2.3.Một số khái niệm và nội dung về tổ chức không gian

• UKhái niêm không gian KT - XH

- Là một bộ phận lãnh thổ có khả năng cung cấp các nguồn lực phát triển, chứa

đựng các hoạt động KT - XH thông qua những quan hệ phân bố, những liên kết kinh

tế liên ngành, liên vùng và quốc tế. Dưới góc độ tổ chức không gian, người ta thường

xem không gian KT - XH là một trường lực (kiểu như các trường lực trong vật lí học),

với 3 thành phần sau đây :

+ Trung tâm KT - XH (còn gọi là cực hay nút phát triển): là nơi có nhiều nguồn

lực thuận lợi, tập trung dân cư đông đúc, các hoạt động công nghiệp chế biến và dịch

vụ phát triển hơn cả. Đây là bộ phận tạo ra các lực liên kết kinh tế-xã hội, hay còn

được gọi là bộ phận tạo lực.

+ Hành lang phát triển: là nơi diễn ra các dòng liên kết kinh tế - xã hội giữa các

trung tâm. Thực chất đây chính là mạng lưới hạ tầng, bao gồm: đường sá, bến bãi,

điện, thông tin liên lạc thông qua hành lang, sức phát triển từ trung tâm sẽ dẫn truyền

ra các bề mặt, hành lang phát triển đi đến đâu ở đó sẽ có sự phát triển.

+ Bề mặt: là những "vùng trống" của không gian kinh tế - xã hội, nơi dân cư

thưa thớt, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp hoặc công nghiệp khai thác đơn thuần. Bề

mặt là bộ phận chịu tác động bởi các lực từ trung tâm thông qua hành lang, những nơi

nào gần trung tâm và hành lang thì sẽ có trình độ phát triển cao hơn; càng xa trung

tâm, hành lang thì càng kém phát triển. Nơi nào sức ảnh hưởng của trung tâm trở nên

19

không đáng kể thì nơi đó chính là ranh giới của bề mặt.

o UVùng phân cựcU:

Vùng phân cực là một không gian không đồng nhất, các bộ phận khác nhau của

nó có tính chất bổ sung lẫn nhau và duy trì với một cực chi phối và trao đổi với cực

này nhiều hơn bất kì một cực nào khác có cùng quy mô tầm cỡ chi phối một vùng kế

bên. "Vùng phân cực là tổng thể những liên hệ có thang bậc, tồn tại giữ các cực kinh

tế, tuy theo các dòng nối liền chúng với nhau" (J.R.Boundeville).

Hai yếu tố đặc trưng của vùng phân cực là khái niệm liên hệ (liên kết) và khái

niệm thang bậc (phi đối xứng).

Sự phân cực là tổng thể một mạng lưới những giao lưu, những liên hệ. Chính vì

các đơn vị kinh tế tồn tại trên lãnh thổ (ngành, khu vực, thành phố) giao lưu với nhau

mà hợp thành những tổng thể phân cực.

Các liên hệ được quan tâm xem xét:

+ Liên hệ vị trí - địa lí.

+ Liên hệ kĩ thuật - công nghệ.

+ Liên hệ kinh tế, thị trường song phương, đa phương,

o UKhái niệm về "cực"

Cực là một phức hợp tổng thể những hoạt động kinh tế - xã hội có hiệu quả, tạo

nên sức hút, trên cơ sở những liên hệ bổ sung lẫn nhau đa chiều, nhờ đó mà duy trì

được sức hút - lí do tồn tại cực.

+ Cực phát triển : khi tổng thể các hoạt động của cực có một hoạt động có tính

động lực thì đó là cực phát triển. Cực phát triển là một phức hợp trong đó có một hoạt

động động lực xoay quanh nó, nhờ đó có những tác động lôi cuốn quan trọng đối với

các khu vực xung quanh, các vệ tinh và toàn bộ nền kinh tế vùng. Tác động ấy rất đa

dạng và thể hiện khác nhau theo tình hình cụ thể, nhưng bản chất là năng động, đổi

mới dẫn đến tiến bộ kinh tế có thể thúc đẩy tạo lập những ngành hoạt động mới, có thể

làm cho tổng quy mô của ngành hiện có thay đổi cơ cấu, đổi mới kĩ thuật, đổi mới

phương thức tổ chức.

20

+ Cực tăng trưởng : là một tổng thể, một phức hợp những hoạt động, chịu ảnh

hưởng thúc đẩy từ bên ngoài của cực phát triển. Các cực tăng trưởng là các vệ tinh của

cực phát triển. Nhịp độ phát triển của các cực vệ tinh - cực tăng trưởng, thường là

mạnh, bởi chúng phản ứng mạnh và sâu đối với những sự thúc đẩy lôi cuốn từ cực

phát triển.

+ Cực liên kết : là một cực phát triển gắn liền hai hệ thống đô thị từ khi chưa có

mối liên hệ nào cho đến lúc nó tạo ra các mối liên hệ chặt chẽ, nhờ đó không chỉ tác

dụng lôi cuốn của nó tăng lên mà các cực tăng trưởng vệ tinh cũng tăng lên.

- Thang bậc (tính phi đối xứng) : hiện tượng phân cực dựa trên sự tồn tại của các

liên hệ, sau đó đưa vào các liên hệ này tiêu chuẩn thang bậc. Thang bậc là yếu tố chìa

khóa " của sự phân cực".

+ Thang bậc địa lí, (thang bậc vùng).

+ Thang bậc ngành, (xí nghiệp).

o USức hút

Những thang bậc thể hiện sức lôi cuốn, sức hút của một ngành, một xí nghiệp

hay của một cực phát triển. Những ảnh hưởng lôi cuốn ấy có nhiều loại :

+ Sức hút về trao đổi hàng hoá, với tính cách là nguồn cung cấp lớn nhất hay thị

trường lớn nhất.

+ Sức lôi cuốn về mặt đầu tư thiết lập những hoạt động mới, đầu tư phát triển kết

cấu hạ tầng, sản xuất xã hội, đầu tư phát triển đô thị.

+ Sự lan truyền đổi mới công nghệ kĩ thuật, thúc đẩy những nghiên cứu khoa

học, sáng tạo khoa học - kĩ thuật.

+ Lan truyền đổi mới về văn hoá, giáo dục, thể chế, những đổi mới về tư tưởng

và tâm lí, thị hiếu của người sản xuất và tiêu dùng dẫn đến đổi mới nhu cầu về lượng

và chất.

• UTổ chức không gian kinh tế- xã hộiU:

Là quá trình lựa chọn có tính chiến lược các cách thức phát triển và bố trí

những trung tâm, những hành lang, các bề mặt, trên cơ sở tận dụng và phát huy cao

21

nhất các nguồn lực, tạo ra cơ cấu không gian kinh tế- xã hội tối ưu trong một giai

đoạn phát triển nhất định có tính đến tương lai xa hơn. Để đảm bảo tính chiến lược,

có tầm nhìn sâu rộng và tổng hợp, quá trình tổ chức không gian kinh tế -xã hội phải

được thực hiện một cách trình tự, có kế thừa và điều chỉnh qua lại giữa các bước cơ

bản sau đây :

+ Tổng hợp đánh giá các nguồn lực trong phạm vi lãnh thổ được nghiên cứu.

+ Đánh giá hiện trạng lãnh thổ, phát hiện những bất hợp lí, những xu thế có tính

quy luật đối với tổ chức không gian kinh tế - xã hội của lãnh thổ được nghiến cứu.

+ Lập các phương án tổ chức không gian để lựa chọn phương án tối ưu.

+ Hoạch định các giai đoạn phát triển lãnh thổ cùng phương án quản lí điều hành

và triển khai các biện pháp đầu tư, thực hiện.

Như vậy, để tiến hành nghiên cứu tể chức lãnh thổ phải có sự phân tích những

phân dị địa lí nhằm tìm ra các cấu trúc không gian (cấu trúc lãnh thổ), phân tích mối

quan hệ lãnh thể, sự tác động qua lại giữa các cấu trúc không gian thành phần để tổng

hợp lại, nhận dạng một không gian tổng hợp.

• UNhân thức về tổ chức lãnh thổ KT – XH:

Tổ chức lãnh thổ được hiểu là toàn bộ quá trình hoạt động của con người nhằm

phân bố các cơ sơ sản suất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng tự nhiên có liên quan

đến các mối liên hệ, quan hệ, các phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Các hoạt động này

phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và trên cơ sở các quy luật kinh tế

hoạt động trong hình thái xã hội tương ứng. Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế là đạt đến

cơ cấu sản xuất năng động hợp lí, phát triển bền vững của đất nước hay từng vùng cụ

thể. Tổ chức lãnh thổ cũng nhằm phát triển tổng hợp, có hiệu quả cao cho nền sản

xuất, sử dụng hợp lí các nguồn lực tài nguyên, nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy,

tổ chức lãnh thổ KT - XH góp phần vào mục đích phát triển kinh tế bền vững.

Tổ chức lãnh thổ KT - XH còn được hiểu như sự kết hợp của các cấu trúc lãnh

thổ đang hoạt động : cấu trúc lãnh thổ quần cư, câu trúc không gian xã hội, cấu trúc

không gian sản xuất, cấu trúc không gian sử dụng tài nguyên tự nhiên,... Tổ chức

không gian lãnh thổ chính là hướng tới quy luật phát triển khách quan trên con đường

22

phát triển tối ưu của một lãnh thổ.

• Tổ chức không gian công nghiệp

Trên thế giới, có nhiều quan điểm, nhiều lí thuyết về phát triển và tổ chức không

gian công nghiệp, trong đó, một số quan điểm dựa chủ yếu vào các nhân tố khách

quan gắn liền với nội lực và ngoại lực của vùng, của từng quốc gia và đặc điểm kinh

tế - khoa học kĩ thuật cụ thể của từng ngành công nghiệp ; những quan điểm còn lại

đặt nền tảng vào hành động của các nhà đầu tư.

Không gian công nghiệp là một bộ phận đặc biệt quan trọng của không gian kinh

tế - xã hội, vì tổ chức lãnh thổ công nghiệp gắn liền và đi trước một bước ương quá

trình CNH, HĐH đất nước. Do vậy, quá trình tổ chức không gian công nghiệp có

những ảnh hưởng lớn, thậm chí là quyết định đến toàn bộ quá trình tổ chức không

gian kinh tế - xã hội, nhưng đồng thời cũng chịu những tác động từ các quá trình tổ

chức không gian thuộc các lĩnh vực còn lại, như vậy đòi hỏi sự tương thích đồng bộ

giữa tổ chức không gian kinh tế xã hội với không gian công nghiệp. Như vậy, các khái

niệm chung về không gian kinh tế- xã hội, về sự hình thành và phát triển các không

gian kinh tế- xã hội là những lí luận cần thiết khi xem xét đến cơ sở lí luận của việc

phát triển và tổ chức không gian công nghiệp.

• Lí thuyết vị trí phân bố công nghiệp tối ưu

Alfrer Weber (1909) là người đầu tiên đưa ra học thuyết phân bố công nghiệp tối

ưu, sau đó được các tác giả khác tiếp tục phát triển như Greenhut (1956) và Smith

(1981). Lí thuyết này chú ý đến hai yếu tố chính là :

- Yếu tố đầu vào rất quan trọng là nguyên liệu, nhiên liệu -năng lương, lao động,

vốn đầu tư và đầu ra là thị trường tiêu thụ sản phẩm.

- Yếu tố quan trọng thứ 2 là các chi phí đầu vào và chi phí phân phối sản phẩm

đến thị trường tiêu thụ phải thấp, đặc biệt yếu tố chi phí được coi là yếu tố quan trọng

nhất.

- Vị trí phân bố công nghiệp tối ưu phải đạt được yêu cầu giá thành sản phẩm

thấp nhất. Dựa vào lí thuyết này để lựa chọn vị trí thuận lợi nhằm xây dựng và tổ chức

lãnh thổ công nghiệp. Hiện nay, lí thuyết vị trí phân bố công nghiệp tối ưu vẫn còn

23

được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp, kể cả công nghiệp kĩ thuật cao

và dịch vụ thương mại.

• Lí thuyết hành vi

0'Kelli (1989) và Smith (1995) đã đưa ra lí thuyết hành vi, nội dung của lí thuyết

này dựa vào "tính hợp lí có giới hạn" và "cách tiếp cận hệ thống" để xác định vị trí

phân bố công nghiệp. Tính hợp lí có giới hạn có nghĩa là các công ti xí nghiệp thường

khó đạt đến những vị trí phân bố tối ưu khách quan do bị giới hạn bởi một số yếu tố

có tính chủ quan. Các yếu tố đó thể hiện trong việc bố trí xí nghiệp, nhà máy còn phụ

thuộc vào chính người ra quyết định, hoặc tổ chức mà người đó chịu ảnh hưởng. Do

đó, việc lựa chọn địa điểm bố trí nhà máy xí nghiệp và bỏ vốn đầu tư còn phụ thuộc

vào đường lối, chính sách phát triển công nghiệp và ý nghĩ chủ quan của người quyết

đinh tể chức sản xuất. Lí thuyết hành vi ảnh hưởng đến việc lựa chọn các vị trí phân

bố công nghiệp ở trong các trường hợp cụ thể sau :

- Phân tích cơ cấu của đơn vị sản xuất có nhu cầu lựa chọn địa điểm đầu tư và

tạo những mối liên kết.

- Mô hình hoa dự báo tăng trưởng và liên hệ với thực trạng của đơn vị.

- Phân tích những tác động từ môi trường kinh tế bên ngoài đối với chiến lược

phát triển của đơn vị.

Lí thuyết hành vi có ưu điểm nổi bật là cân nhắc đến ảnh hưởng của những thay

đổi trong môi trường kinh tế bên ngoài đối với hành vi của người ra quyết định điểm

đầu tư. Tuy nhiên, quan điểm hành vi quá đề cao vai trò quản trị của cá nhân, đôi khi

lại bỏ qua những cơ sở khách quan cần thiết có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả lựa chọn

vị trí phân bố các xí nghiệp, nhà máy.

• Lí thuyết liên quan phân công và hợp tác ngành

Nhiều tác giả rất chú trọng đến công nghệ sản xuất công nghiệp, đặc biệt là tính

liên hệ sản xuất thường xuyên giữa các ngành, tính liên tục giữa các khâu trong quá

trình sản xuất, từ đó có những giải pháp phân bố các ngành công nghiệp cho phù hợp

với các nguồn lực của từng nơi, từng vùng. Sau đây là một số lí thuyết:

24

* ULí thuyết chu trình đông lực sản xuất (hay liên hợp công nghiệp)

Quan điểm này do tác giả N.N. Koloxopxki (9/1947) đề xướng và được nhiều

nhà kinh tế Nga ủng hộ vào những năm 1960-1970. Xuất phát từ đặc điểm công nghệ

sản xuất của các ngành công nghiệp, nhằm đảm bảo mục tiêu hiệu quả kinh tế gắn liền

với sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tận dụng phế phụ phẩm, giảm thiểu ô

nhiễm môi trường, các tác giả đã làm rõ những liên hệ sản xuất giữa các ngành khác

nhau trên cơ sở sử dụng một loại tài nguyên nhất định.

Chu trình động lực sản xuất là tập hợp các quá trình sản xuất có liên quan với

nhau, trong đó có nhiều quá trình sản xuất phụ xoay quanh một quá trình sản xuất

chính ; dựa trên cơ sở chế biến tổng hợp một loại nguyên liệu chủ yếu. Như vậy, khi

phân bố các xí nghiệp gần nhau phải theo những quy định chặt chẽ chứ không thể tuy

tiện. Đó là những xí nghiệp có liên hệ mật thiết với nhau về sản xuất, có tác động

mạnh mẽ đối với nhau chứ không chỉ đơn giản là cùng tồn tại trong một phạm vi

không gian nào đó. Mặt khác, sự tồn tại của xí nghiệp trong chu trình cũng phải phù

hợp với cơ cấu nguồn lực.

Trong các tài liệu về tổ chức không gian công nghiệp ở Mĩ, Anh, khái niệm liên

hợp công nghiệp (industrial complex) đồng nghĩa với khái niệm chu trình động lực

sản xuất. Theo tác giả W.Isard : "trước kia liên hợp công nghiệp được hiểu là tập hợp

các hoạt động tồn tại trong một vị tá phân bố nhất định (tức trong một xí nghiệp, gọi là

xí nghiệp liên hợp), bao gồm một loạt các ngành có quan hệ qua lại với nhau về sản

xuất, tiếp thị cùng với những quan hệ liên vùng khác. Hiện nay, người ta không còn

quan niệm cứng nhắc rằng, liên hợp công nghiệp là tập hợp các hoạt động xí nghiệp,

nhưng nếu các hoạt động không cùng một xí nghiệp mà cùng một liên hợp thì ít nhất

cũng phải bố trí liền kề nhau theo không gian".

Quan hệ giữa các đơn vị sản xuất trong tổ chức liên hợp có thể là chế biến tuần

tự, hoặc chế biến đồng thời một nguyên vật liệu ban đầu, hay một số ngành tập trung

chế biến các phế phụ phẩm từ quá trình sản xuất chính thải ra. Liên hợp công nghiệp

phát triển mạnh trong các ngành luyện kim, hoa chất, chế biến lương thực thực phẩm,

dệt may.

25

Liên hợp công nghiệp mang lại nhiều lợi ích : một là giảm chi phí đầu tư xây

dựng ; hai là sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu, tân dụng các phế phụ phẩm, giảm hao

phí lao động ; ba là giảm bớt chi phí và rút ngắn cự li vận chuyển trong quá trình sản

xuất. Nói tóm lại, liên hợp công nghiệp sẽ làm giảm giá thành sản phẩm, giảm những

tác động tiêu cực đối với môi trường. Song, những lợi ích trên chỉ phát huy khi quy

mô liên hợp đạt mức thích hợp.

* ULí thuyết phân công chuyên môn hoa sâu và hợp tác hoá rộng

Quy mô xí nghiệp gia tăng làm phát sinh nhu cầu chuyên môn hoa sâu trong các

ngành công nghiệp. Tổ chức sản xuất công nghiệp theo dây chuyền chuyên môn hoá

được khởi xướng đầu tiên bởi tác giả Taylor. Chuyên môn hoa sâu là quá trình phân

công sản xuất ngày càng tỉ mỉ giữa các ngành công nghiệp. Mỗi ngành chỉ tập trung

sản xuất một bộ phận, thậm chí một chi tiết của bộ phận thành phẩm.

Chuyên môn hoá sâu đã góp phần nâng cao tay nghề và tăng năng suất lao động,

nâng cao chất lượng sản phẩm mà giá thành lại hạ. Tuy nhiên, các xí nghiệp chuyên

môn hoa sâu có xu hướng tách rời về không gian, ngày càng ít liên hệ với nhau, điều

đó có thể dẫn đến mất cân đối công suất thiết kế, kém đồng bộ về tiêu chuẩn kĩ thuật,

đồng thời tăng chi phí vận chuyển các bộ phận, các chi tiết của thành phẩm. Do đó,

chuyên môn hoá sâu cần phải kèm theo hợp tác rộng.

Hợp tác hoá rộng là quá trình tổ chức những liên hệ sản xuất thường xuyên giữa

các xí nghiệp chuyên sâu, để từ nhiều nguyên liệu khác nhau tạo ra một loại sản phẩm

cuối cùng.

Các xí nghiệp cùng trong một tổ chức hợp tác hoa có thể phân bố gần nhau (tức

tập trung) để thuận lợi cho việc liên kết. Như vậy, một khi đã có khả năng tạo địa bàn

cho các xí nghiệp công nghiệp tập trung cao thì các xí nghiệp đó cần chuyên môn hoa

sâu trong một tổ chức hợp tác hoa hơn là tập trung các đơn vị sản xuất ít liên hệ, thậm

chí không liên hệ gì với nhau. Thực hiện điều này, ngoài làm tăng hiệu quả tập trung,

còn tránh được những tác động bất lợi có thể xảy ra giữa các xí nghiệp có mâu thuẫn

về mặt công nghệ. Tất nhiên, không hẳn toàn bộ các tổ chức hợp tác hoá đều phải

phân bố tập trung các xí nghiệp chuyên sâu của mình. Khi quy mô tập trung vượt quá

giới hạn cho phép của các nguồn lực, thì khiến chi phí sản xuất gia tăng, nên tốt hơn

26

cả là bố trí các xí nghiệp chuyên sâu phân tán vào những nơi có lợi thế, thậm chí

những quốc gia sẩn có các nguồn lực cần thiết cho xí nghiệp. Như vậy, không gian

hợp tác giữa các xí nghiệp chuyên sâu có thể mở rộng trên toàn quốc, thậm chí đa

quốc gia.

* ULí thuyết tạo cực phát triển

Nhà kinh tế học người Pháp Francoi Perroux đã đưa ra lí thuyết tạo cực phát

triển vào đầu những năm 1950, sau đó được các tác giả Albert, O.Hirshman, Gunnar,

Myrdal, Friedmann tổng hợp lại. Lí thuyết này cho rằng, công nghiệp và dịch vụ có

vai trò to lớn trong việc tạo ra cực phát triển. Mỗi cực phát triển luôn có một "hạt

nhân" công nghiệp hoặc hạt nhân dịch vụ làm then chốt gắn với địa bàn có lợi thế

nhiều nhất so với toàn vùng. Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ then chốt đó phát triển

thì kéo theo sự phát triển của các ngành khác, nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ

mới được thu hút vào. Do đó, giải quyết được công ăn việc làm, tăng thu nhập, sức

mua tăng lên. Đó chính là tổ chức không gian công nghiệp và dịch vụ theo hướng tạo

cực phát triển, phù hợp với những quốc gia thiếu vốn đầu tư, cần thu hút vốn từ nước

ngoài (FDI).

1.2.Tổ chức lãnh thổ công nghiệp

1.2.1.Tập trung công nghiệp theo lãnh thổ

Tập trung công nghiệp theo lãnh thổ là hình thức tổ chức không gian công

nghiệp khách quan, xuất phát từ bản chất hoạt động của ngành, được thể hiện ở hai

mặt: một là, quy mô xí nghiệp ngày càng lớn, hai là, mật độ xí nghiệp ngày càng cao.

Quá trình này, ngoài việc tạo ra các loại hình xí nghiệp hiện đại, quy mô lớn, còn làm

xuất hiện hệ thống không gian công nghiệp với những cấp độ khác nhau, làm phân

hoa lãnh thổ mạnh mẽ về quy mô và giá trị kinh tế nói chung, các dòng chảy sản phẩm

cũng trở nên mở rộng và nhanh chóng hơn giữa các không gian kinh tế- xã hội.

Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là quá trình lựa chọn vị trí và phân bố SXCN một

cách khoa học, đồng thời thiết lập các mối quan hệ KT - XH liên ngành, liên vùng và

quốc tế cho các ngành công nghiệp. Việc tổ chức này phải đảm bảo phù hợp giữa đặc

điểm kinh tế - kĩ thuật ngành công nghiệp với các nguồn lực phát triển, nhằm sử dụng

27

tối ưu hoá mọi nguồn lực và tối thiểu hoá mọi chi phí sản xuất - kinh doanh trong thế

phát triển bền vững.

1.2.2.Quá trình tập trung công nghiệp theo lãnh thổ

Tập trung công nghiệp theo lãnh thổ (không gian) xuất phát từ bản chất hoạt

động của sản xuất công nghiệp mang tính tập trung cao độ, ít phụ thuộc vào điều kiện

tự nhiên, có thể tổ chức linh hoạt theo không gian và thời gian, như gắn với những yếu

tố nguyên liệu, lao động, vị trí, thị trường ương và ngoài nước, khả năng rút ngắn thời

gian sản xuất, thu hồi vốn nhanh, thay thế, chuyển đổi công nghệ theo chiều sâu. Để

tạo ra sản phẩm hàng hoa chất lượng cao, giá thành rẻ, đáp ứng nhu cầu xã hội, sản

xuất công nghiệp phải tuân thủ theo quy trình công nghệ tiên tiến, công nghệ cao để

đáp ứng tiết kiệm chi phí nguyên nhiên liệu và nhân công, đạt hiệu quả cao về kinh tế,

xã hội và môi trường, khắc phục tình trạng cạn kiệt tài nguyên.

Tập trung SXCN theo không gian vừa là bản chất, vừa là đòi hỏi khách quan

trong quá trình phát triển. Do vậy, tập trung hoá ngày càng cao trong công nghiệp là

đặc thù riêng của ngành, đặc biệt là khả năng lan toa, tập hợp, hấp dẫn những ngành

nghề khác nhau, hội tụ dân cư lao động thích ứng và kiến lập đô thị công nghiệp. Tuy

nhiên, quá trình tập trung công nghiệp nói trên diễn ra theo quy luật từ thấp đến cao và

mức độ nhanh hay chậm tuy thuộc vào sự chi phối mạnh mẽ của đường lối và chính

sách phát triển công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH, liên quan chặt chẽ với phân

công lao động, đầu tư phát triển, thị trường.

1.2.3.Hệ thống phân vi tổ chức lãnh thổ công nghiệp

Quá trình tập trung công nghiệp thường tạo ra những không gian công nghiệp

đặc thù có quy mô, mức độ liên kết và tính đa dạng khác nhau. Có thể phân biệt các

mức độ cơ bản từ thấp đến cao theo hệ thống phân vị sau :

28

1.2.3.1.Điểm công nghiệp

Điểm công nghiệp là mức tập trung thấp nhất trong tổ chức không gian công

nghiệp, bao gồm một vài xí nghiệp liền kề nhau, gắn với một điểm dân cư, phân bố

gần nguyên liệu hoặc thị trường tiêu thụ, không nhất thiết phải có hạ tầng riêng. Trong

điểm công nghiệp không có các liên hệ sản xuất, nếu có cũng rất lỏng lẻo.

Điểm công nghiệp là hạt nhân tạo ra những cụm kinh tế- xã hội ở nông thôn,

giúp tận dụng nguồn nguyên liệu từ nông - lâm - thúy sản, lao động,... và đáp ứng kịp

thời các nhu cầu trong sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và đời sống tại chỗ.

1.2.3.2.Cụm công nghiệp

Cụm công nghiệp là nhóm các xí nghiệp công nghiệp thường được di dời, tổ

chức sắp xếp lại, được bố trí trong một mặt bằng thống nhất, có quan hệ hợp tác trong

xây dựng, có các công trình sử dụng chung như công trình phục vụ công cộng, công

trình phụ trợ sản xuất, công trình giao thông vận tải, cấp thoát nước, cấp năng lượng

và tuy mức độ có thể về dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế về

vốn đầu tư, tiết kiệm đất đai xây dựng, tiết kiệm chi phí quản lí khai thác. Quy mô

diện tích có thể tương đương KCN.

1.2.3.3.KCN (khu công nghiệp tập trung)

Theo quan niệm của địa lí Xô Viết, KCN là hình thức tể chức lãnh thổ công

nghiệp nhưng chưa thật sự thống nhất về nội dung và những đặc trưng chủ yếu. Các

29

nhà khoa học của Trường Đại học tổng hợp Matxcơva đưa ra : KCN là sự tập hợp

theo lãnh thổ của những điểm công nghiệp, tạo thành sự thống nhất kinh tế và nền

tảng là các ngành công nghiệp lớn có ý nghĩa toàn quốc và các ngành phục vụ có liên

quan.

Theo tác giả Peddle (1993) : "KCN là một khoảng đất tương đối rộng chia nhiều

lô và được xây dựng hạ tầng, trong đó các xí nghiệp dễ dàng lựa chọn địa điểm phát

triển, thống nhất sử dụng hạ tầng và hưởng những lợi thế vị trí liền kề nhau".

KCN có quy mô tập trung trung bình, bao gồm một số điểm công nghiệp phát

triển gần nhau ; thống nhất sử dụng mạng lưới hạ tầng, có thể có những liên hệ sản

xuất nhất định giữa các xí nghiệp. Hình thái tập trung này cho phép sử dụng hiệu quả

hơn mạng lưới hạ tầng và các nguồn lực quan trọng khác.

Trong những điều kiện không thuận lợi lắm về diện tích mặt bằng, hạ tầng, lao

động, vốn đầu tư,... KCN chỉ là hạt nhân tạo nên hoặc làm tăng tốc CNH các đô thị

nhỏ ở vùng nông nghiệp, như thị trấn, thị tứ,... Nhưng nếu diện tích mặt bằng có khả

năng mỡ rộng, các điều kiện hạ tầng, lao động, vốn có thể tăng cường ; đặc biệt là vị

trí tiếp cận dễ dàng với các trung tâm tiêu thụ lớn (ngoại thành của thành phố lớn, trên

địa bàn của thành phố loại vừa có diện tích dự trữ, gần trục hoặc trung tâm giao thông

quan trọng của quốc gia), KCN sẽ là hạt nhân tạo ra hoặc làm tăng tốc CNH các thành

phố loại vừa như thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các vành đai ngoại thành ; một số KCN

phát triển liền kề nhau, tạo nên những trung tâm công nghiệp quan trọng, hoặc cao

hơn nữa.

Hiện nay, phần lớn các tài liệu nghiên cứu về KCN ở Việt Nam đều sử dụng

định nghĩa trích từ quy chế KCN, KCX, KCNC theo các Nghị định của Chính phủ,

như Nghị định 36/CP ngày 24/04/1997 : "KCN là khu tập trung các doanh nghiệp

công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất

công nghiệp, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ

hoặc Thủ tướng quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất".

Định nghĩa này thực ra chỉ nhằm phục vụ cho công tác quản lí, giúp các ban quản lí

KCN và những cơ quan chức năng có liên quan phân biệt KCN với đối tượng khác về

mặt hình thức và quy chế.

30

Trong những năm gần đây, KCN được chú trọng và có quản lí riêng, vì được

xem như một đối tượng quy hoạch phát triển công nghiệp, dùng để đón đầu xu thế tập

trung công nghiệp trong quá trình CNH.

Bộ phận dân cư bao gồm nhà ở cho người lao động và những hạ tầng xã hội thiết

yếu đều phải được xem như là một trong những thành phần cơ bản của KCN nằm

ngoài hàng rào, cho nên quy hoạch để phát triển các KCN phải kết hợp quy hoạch lại

các điểm và cụm dân cư cùng với hạ tầng xã hội kèm theo.

Tóm lại, có thể định nghĩa KCN : "KCN là địa bàn thuận lợi, tập trung công

nghiệp tương đối lớn, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện những dịch vụ

sản xuất công nghiệp, có thể có những liên kết kinh tế' kĩ thuật với nhau, thống nhất

sử dụng cơ sở hạ tầng và xử lí chất thải”

1.2.3.4.KCX (khu chế xuất)

Trong thực tế, các hình thức thể hiện của KCN rất đa dạng. Một trong số đó là

KCX. Có các định nghĩa về KCX như sau :

+ Theo hiệp hội KCX thế giới (WORLD EXPORT PROCESSING ZONE

ASSOICIATION - WEPZA ) : "KCX bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ cho

phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu miễn thuế quan, KCN tự dỡ, khu ngoại

thương tự do... hoặc bất kì loại khu xuất khẩu tự do nào".

+ Theo Tổ chức phát triển CN Liên Hợp Quốc (UNIDO) : "KCX là một khu vực

tương đối nhỏ, phân cách về địa lí trong một quốc gia, nhằm mục tiêu thu hút đầu tư

sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho chúng những điều

kiện về đầu tư, về mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần còn lại của nước chủ nhà.

Trong đó, đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất để

xuất khẩu miễn thuế trên cơ sở kho quá cảng".

+ Theo Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển : " KCX là vùng

cách biệt giữa một lãnh thổ quốc giày được quy hoạch riêng, thường gần hải cảng,

sân bay. Các thiết bị, tài sản, nguyên vật liệu được nhập vào cũng như hàng hoa xuất

đi từ khu vực này không phải chịu thuế hải quan, trừ những sản phẩm hay thành phẩm

tái chế nhập/ xuất vào ngay lãnh thổ quốc gia được bảo vệ của nước chủ nhà”

31

+ Theo Uy ban kinh tế - xã hội châu Á- Thái Bình Dương của Liên hợp quốc:

"KCX là KCN nằm trong vùng tự do thương mại. Các hoạt động sản xuất kinh doanh

ở đây chủ yếu hướng vào xuất khẩu".

Các khái niệm trên về KCX đều có những xác định điểm chung : KCX là khu

vực tổ chức lãnh thổ công nghiệp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản

xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu, trên cơ sở có các điều kiện thuận lợi như vị trí

địa lí, tài nguyên thiên nhiên, khả năng hợp tác quốc tế và được hưởng các chính sách

líu đãi của nước chủ nhà.

+ Theo dự thảo pháp lệnh KCX của Việt Nam ban hành : " KCX là KCN chuyên

sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu và

hoạt động xuất khẩu do chính phủ quyết định thành lập tại những địa bàn có vị trí

thuận tiện cho xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lí ấn định, có

hàng rào ngăn cách với bên ngoài, có cổng ra vào, có hải quan riêng. Hàng hoá của

các xí nghiệp trong KCX được coi như hàng hoá Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài

hoặc xuất khẩu ra nước ngoài".

Dưới góc độ TCLT nền kinh tế - xã hội, KCX là một dạng đặc biệt của khu công

nghiệp tập trung với các đặc trưng tổ chức lãnh thổ :

- Sản xuất công nghiệp tập trung, chuyên môn hoa các sản phẩm nhằm mục đích

xuất khẩu.

- Quy mô lãnh thổ KCX lớn hay nhỏ tuy thuộc vào khả năng phân bố kết hợp

các nguồn vốn.

- Đặc điểm xây dựng KCX phải thể hiện nhiều lợi thế so sánh so với nước ngoài,

đồng thời thể hiện nhiều ưu thế đối với lãnh thổ trong nước.

- Nước có KCX góp vốn dưới dạng cho thuê đất đai, mặt bằng xây dựng, hệ

thống cấu trúc hạ tầng, lao động và nguyên liệu. Các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn

dưới dạng ngoại tệ, xây dựng nhà máy, thiết bị công nghệ, vật tư kĩ thuật, nhân viên

quản trị kĩ thuật và có thể một số nguyên liệu từ các nước láng giềng.

- Tạo khả năng thu hút vốn đầu tư

+ Tính biệt lập : KCX nằm cách li với các vùng xung quanh của nội địa, các

32

hoạt động sản xuất kinh doanh kinh tế trong khu đặt ngoài sự chi phối, điều tiết của

nền kinh tế trong nước, hoàn toàn chịu sự chi phối của các nhà đầu tư.

+ Tính một cửa : Việc quản lí và điều hành KCX được đặt dưới quyền của cơ

quan quản trị. Nhà đầu tư khi gia nhập KCX chỉ biết và quan hệ duy nhất với cơ quan

quản trị trong suốt quá trình đầu tư từ khi nộp đơn xin gia nhập đến lúc giải thể xí

nghiệp, đưa vốn và tài sản về nước. Cơ quan quản trị thay mặt Nhà nước có quyền xử

lí tất cả các công việc đối với nhà đầu tư cũng như hoạt động của KCX.

- Tăng khả năng xuất khẩu

+ Các hoạt động thương mại diễn ra ở KCX không bị chi phối bởi cơ quan thuế

trong nước, hàng hoá xuất nhập khẩu đều được miễn thuế xuất nhập khẩu. KCX có

cửa khẩu và kho bãi chuyên đùng, hệ thống vận chuyển riêng, giảm bớt việc thẩm

định lại hàng hoa vào nội địa. Nhà đầu tư có thể thuận tiện nhập vật tư nguyên liệu từ

nước ngoài và xuất hàng hoa ra nước ngoài.

+ KCX được áp dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, các biện pháp hành

chánh thông thoáng để khuyến khích và thu hút các nhà đầu tư.

- Tăng hiệu quả KT-XH.

+ Đối với các chủ đầu tư, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào

KCX, KCN vì những mục đích :

- Giảm chi phí sản xuất.

- Hưởng những ưu đãi về thuế.

- Tận dụng những ưu đãi về tài chính.

- Tìm chỗ đứng vững chắc và lâu dài tại thị trường đầu tư.

- Đối với nước nhận đầu tư, việc thành lập các KCX nhằm mục tiêu :

+ Tăng cường xuất khẩu và thu ngoại tệ.

+ Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.

+ Giải quyết công ăn việc làm.

+ Thu hút kĩ thuật công nghiệp, kinh nghiệm chuyên môn, quản trị hiện đại của

33

nước ngoài.

+ Tăng cường các mối liên kết và tác động đến bộ phận còn lại của nền kinh tế.

+ Tạo các lợi ích khác như: tăng giá trị đất đai, thuế...

Các mục tiêu nói trên hợp thành một thể thống nhất và được thực hiện trong suốt

thời hạn hoạt động của KCX. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của KCX là KCN sản

xuất hàng xuất khẩu, vì vậy, tạo nguồn hàng xuất khẩu là mục tiêu chính, xuyên suốt.

1.2.3.5.KCNC (Khu công nghệ cao)

KCNC là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kĩ thuật cao và các đơn vị

hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm : nghiên cứu triển khai khoa học

- công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lí xác định, do Chính

phủ hay Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh

nghiệp chế xuất.

1.2.3.6.Trung tâm công nghiệp

Trung tâm công nghiệp là hình thức tập trung công nghiệp có trình độ cao, phát

triển trên địa bàn cực kì thuận lợi về vị trí địa lí và những nguồn lực phát triển khác.

Các đơn vị được tập trung có những liên hệ tất yếu về kinh tế - kĩ thuật, gắn liền với

những đô thị vừa và lớn, đa dạng và hiện đại trong các loại hình dịch vụ. Mỗi trung

tâm công nghiệp có thể gồm một số khu và điểm công nghiệp liền kề nhau, có những

xí nghiệp lớn mang tính "hạt nhân", tác động đến xung quanh, biểu thị xu hướng

chuyên môn hoa nói chung của toàn trung tâm.

1.2.3.7.Vùng công nghiệp

Vùng công nghiệp là kết quả tập trung cao độ các hoạt động công nghiệp và dịch

vụ trong quá trình CNH, đô thị hoá. Vùng công nghiệp thường bao gồm một số trung

tâm công nghiệp, xen kẽ nhiều khu và điểm công nghiệp liền kề nhau, trong đó có

những xí nghiệp quy mô lớn mang tầm cỡ quốc tế. Vùng công nghiệp là hạt nhân tạo

ra những thành phố cực lớn, các chuỗi đô thị (urban agglomeration ), hoặc vùng đô thị

(urban region ), hay khu vực đô thị (urban area). Quy mô tập trung này hiện nay bộc

lộ nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng cả về kinh tế, xã hội, môi trường. Do vậy, vùng

cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

34

1.3.Kinh nghiệm tổ chức phát triển KCN và KCX ở một số nước và vùng

lãnh thổ châu Á

1.3.1.Ở Đài Loan

Đài Loan nhanh chóng trở thành một trong những "con rồng" Đông Á chỉ sau 30

năm thực hiện quá trình CNH. Kế hoạch xây dựng các KCN - KCX được triển khai từ

năm 1966 (với KCX Cao Hùng), đến nay đã có hơn 100 khu đi vào hoạt động, và

đóng góp nhiều thành quả quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển các KCN Đài Loan

có đặc trưng đáng lưu ý :

- Phối hợp thông minh giữa tổ chức các KCN trọng điểm với những KCN địa

phương phù hợp trong từng lãnh thể. Bên cạnh 12 KCN quan trọng nhất tập trung ở

những tỉnh, thành phố trọng điểm do Trung ương quản lí, Đài Loan đã mở rộng mạng

lưới với hơn 80 KCN trên toàn quốc do chính quyền địa phương và tư nhân quản lí ;

hầu hết các huyện đều có KCN. Với hình thức tổ chức này, Đài Loan có thể tập trung

phát triển các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường

thế giới, vừa tận dụng các nguồn lực địa phương, phát triển ổn định các ngành công

nghiệp chế biến thấp, nhằm tăng tốc CNH các vùng nông nghiệp.

- Đặc biệt lưu ý đến những điều kiện cơ sỡ hạ tầng, giao thông thuận lợi, điện

nước đầy đủ và ổn định, thông tin liên lạc nhanh chóng với giá cả dễ chấp nhận.

- Chính sách thông thoáng, có những ưu tiên nhất định như miễn giảm thuế một

số năm, thuế suất thấp, một số trường hợp được vay vốn ưu đãi. Chẳng hạn thuế thu

nhập xí nghiệp chỉ ở mức 22-25% trong các KCN kĩ thuật cao, trong khi Singapore là

2 - Chi phí đầu tư hạ tầng trung bình/kmP

P và giá thuê nhà xưởng tương đối thấp so

40%.

với Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan.

- Các KCX đều đã bước vào giai đoạn trưởng thành, tì lệ nội địa hoa ngày càng

cao, thông qua hoạt động gia công của các xí nghiệp vệ tinh ngoài KCX, những liên

kết phía sau thậm chí phía trước ngày càng cao với thị trường nội địa.

35

1.3.2.Ở Thái Lan

Năm 1972, Thái Lan bắt đầu xây dựng các KCN, Năm 1997 đã có 64 khu đi vào

hoạt động. Các KCN Thái Lan vẫn chưa lấp đầy toàn bộ, nhưng trong hơn 30 năm

phát triển, các KCN đã góp phần đắc lực giúp Thái Lan nhanh chóng vượt qua thời kì

đầu của CNH và đang chuẩn bị kết thúc công cuộc CNH.

Phát triển các KCN Thái Lan có đặc trưng đáng lưu ý :

- Cực phát triển kinh tế mạnh nhất của Thái Lan hầu như chỉ tập trung vào

Bangkok, do vậy mà các KCN tạo ra 3 vành đai xung quanh Bangkok với những lợi

thế khác nhau. Vành đai thứ nhất gồm 6 tỉnh, có ưa thế tiếp cận thị trường tiêu thụ lớn

là Bangkok, hạ tầng thuận lợi, lao động vừa đông vừa có trình độ ; vành đai thứ hai

gồm 10 tỉnh bao xung quanh vành đai thứ nhất, lợi thế kém hơn ; vành đai cuối cùng

gồm 60 tỉnh còn lại, kém lợi thế nhất.

- Chính phủ Thái Lan có chủ trương phát triển cân đối lãnh thổ, nhằm khắc phục

thế đơn cực trước kia, bằng cách thực hiện chính sách ưu đãi tài chính hoàn toàn khác

nhau ở 3 vành đai phát triển KCN. Chẳng hạn, thuế nhập khẩu thiết bị máy móc : vành

đai 1-2 được giảm 50%, vành đai 3 được miễn hoàn toàn ; thuế nhập khẩu nguyên liệu

sản xuất : vành đai 1-2 được miễn trong vòng 3 năm, vành đai 3 được miễn trong

vòng 5 năm ; thuế thu nhập công ti: vành đai 1 được miễn 3 năm, vành đai 2 được

miễn 7 năm, vành đai 3 được miễn 8 năm và được giảm 50% trong 5 năm tiếp theo.

- Bộ máy quản lí thống nhất theo cơ chế "một cửa". Các hoạt động từ điều tra,

thiết kế ban đầu, đến những quy định giá cả bất động sản, thủ tục cấp giấy phép,... đều

tập trung vào Cục quản lí các KCN Thái Lan (IEAT ). Hình thức quản lí này đã đảm

bảo các dịch vụ hành chính KCN trở nên nhanh chóng, hiệu quả. Thường các nhà đầu

tư chỉ mất một ngày là làm xong mọi thủ tục, và chỉ sau một tuần có thể nhận được

giấy phép bước vào xây dựng.

- Các KCN Thái Lan là điển hình của quản lí môi trường có hiệu quả. Bên cạnh

quản lí môi trường bằng luật pháp và chính sách, Thái Lan còn mạnh dạn áp dụng các

công cụ kinh tế theo nguyên tắc PPP (người gây ô nhiễm phải trả tiền). Các chất thải

đều được xử lí thỏa đáng và doanh nghiệp có trách nhiệm chi trả những chi phí ấy.

36

1.3.3.Ở Malaysia

Cũng bắt đầu xây dựng các KCN từ đầu những năm 70 như Thái Lan. Tuy diện

tích của Malaysia nhỏ hơn Thái Lan và tương đương Việt Nam, dân số chỉ 26 triệu

(năm 2005) nhưng Malaysia có số lượng KCN nhiều nhất trong khu vực Đông Nam

Á, đạt đến 166 khu (năm 1997). Có thể rút ra một số nhận xét trong mô hình phát triển

KCN ở Malaysia như sau :

- Malaysia đã mạnh dạn mở ra nhiều khu thương mại tự do (50 khu), có nhiều ưu

đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, nhà đầu tư được tự do chuyển lợi

nhuận ra nước ngoài, không bị quốc hữu hoa tài sản, thời hạn thuê đất có thể kéo dài

đến 99 năm.

- Phát triển nhiều doanh nghiệp chế xuất nằm ngoài KCX. Hình thức này đã lôi

cuốn được nhiều doanh nghiệp trong nước tạo ra nhiều nguồn hàng xuất khẩu mà

không phải tăng đầu tư mở rộng hạ tầng và diện tích các KCX.

- Có chính sách hỗ trợ vốn tích cực từ phía Nhà nước. Nguồn von từ ngân sách

các bang và liên bang chủ yếu dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng.

- Hầu hết các KCN đều có vị trí thích hợp, giao thông thuận lợi, mặt bằng mở

rộng, giá đất không cao, phần lớn nằm ở ngoại vi thành phố có thể tránh ô nhiễm môi

trường cho những trung tâm dân cư đông đúc, mà vẫn tiếp cận nơi cung cấp lao động.

- Quan tâm thích đáng đến hạ tầng xã hội như nhà ở cho người lao động, chợ,

trường học, trạm xá, khu vui chơi ; nhất là những điều kiện sinh hoạt cho chuyên gia

nước ngoài.

Bên cạnh những ưu điểm trên đây, Malaysia có cơ chế quản lí các KCN chưa

được thích hợp lắm. Bộ máy quản lí các KCN tương đối cồng kềnh, mỗi tiểu bang đều

có một bang quản lí riêng nhưng không được phép giải quyết sự việc, họ chỉ tập hợp

các vấn đề rồi kiến nghị lên ban quản lí trung ương xử lí. Mặc dù các nhà đầu tư chỉ

cần tiếp xúc với Phòng Xúc tiến được thành lập ở các ban quản lí địa phương (không

phải liên hệ với tất cả các bộ phận khác nhau), nhưng do không được phân cấp quyết

định, phải trải qua một số khâu trung gian, nên nhiều vụ việc không được giải quyết

kịp thời.

37

1.3.4.Ở Hàn Quốc

Hàn Quốc chọn KCX làm khâu đột phá từ hơn 4 thập kỉ trước, tạo cầu nối kinh

tế trong và ngoài nước. Các KCX được phép tổ chức các vệ tinh gia công bên ngoài

KCX, tạo nên cái gọi "chế xuất ngoài KCX". Các xí nghiệp ngoài KCX được uy thác

để có thể hoạt động hết công suất, nhằm đáp ứng nhu cầu trong KCX, phục vụ nhu

cầu xuất khẩu cao. Từ một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá đến năm 1953, sau 4

thập kỉ, Hàn Quốc đã vươn lên quốc gia công nghiệp mới (NIC), GDP đầu người đạt

trên 10.000USD/năm.

1.3.5.Ở Trung Quốc

Trung quốc đã thành lập các đặc khu kinh tế lớn ven duyên hải, như Thâm

Quyến, Sán Đầu, Chu Hải, Hạ Môn, Hải Nam,... Họ đã rất thành công trong thu hút

đầu tư nước ngoài (khoảng 60 tỉ USD/năm trong những năm gần đây),... tăng đột biến

giá trị xuất khẩu (đạt trên 500 tỉ USD/năm 2005),... GDP đầu người tăng nhanh,...

Thượng Hải là trung tâm kinh tế năng động hàng đầu của Trung Quốc, với 17 triệu

dân, có khu phố Đông nổi tiếng mới phát triển trong thời mở cửa, GDP đầu người đã

vượt qua 6000USD/ năm 2005, có nghĩa tổng GDP của Thượng Hải đã vượt con số

100 tỉ USD/năm.

38

39

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG

NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.Sơ lược quá trình phát triển CN

Sài Gòn xưa được hình thành từ năm 1698, đến nay đã hơn 300 tuổi, là nơi đất

lành chim đậu, phản ánh sự trù phú của thiên nhiên ban tặng "thiên thời địa lợi". Trải

qua biết bao thăng trầm trong lịch sử, qua các giai đoạn phong kiến, thực dân cũ và

mới, Sài Gòn hào hùng với những chiến công nối tiếp và đương nhiên chưa có thời

gian hoa bình đủ dài để phát triển CN. Tuy nhiên, trong quá khứ đã có một thời, Sài

Gòn được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông", điều đó phản ánh sự vượt trội và toa

sáng của Sài Gòn so với xung quanh vào thời đó. Sau ngày giải phóng (30/4/1975),

Sài Gòn được đổi tên là TP. Hồ Chí Minh (1976), lúc đó, nền CN Thành phố tuy chưa

lớn mạnh và hầu như giữ được nguyên vẹn sau chiến tranh, song do nhiều hạn chế,

công cuộc cải tạo nền kinh tế tư sản đã dẫn đến SXCN bị đình đốn kéo dài suốt cả giai

đoạn bao cấp 1976 - 1985. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), chính sách đổi mới

mở cửa được bắt đầu, xoa bỏ cơ chế tập trung bao cấp lỗi thời, chuyển sang kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhiều thành phần kinh tế,... Từ

đó, CN Thành phố bắt đầu chuyển động đi lên, và đến năm 1991, khu CN đầu tiên ở

nước ta được hình thành tại TP. HCM, đó là KCX Tân Thuận. Kể từ khi đổi mới mở

cửa, TP. HCM luôn là thành phố năng động đi đầu trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã

hội, trong đó có phát triển sản xuất CN, đặc biệt là xây dựng và phát triển KCX, KCN.

Sau 15 năm xây dựng và phát triển (1991 - 2006), TP. HCM đã có 23 KCN (trong đó

có 4 KCN đang xây dựng), với hơn 188 ngàn lao động trên tổng số hơn 1 triệu lao

động CN của Thành phố. GTSXCN của Thành phố chiếm gần 23,55% của cả

nưđc(năm 2005), GDP đầu người cũng cao gần 2,7 lần mức bình quân cả nước

(27.170.000đ/ 10.080.000đ), cơ sở vật chất kĩ thuật không ngừng được nâng cấp và

phát triển, tạo ra môi trường đầu tư khá hấp dẫn và an toàn. Tuy nhiên, quá trình phát

triển nói trên có sự thăng trầm không đều, có dấu hiệu tăng chậm hơn so với tốc độ

tăng của VKTTĐPN và của toàn quốc.

TP. HCM có tỉ lệ dân số chiếm 7,08% và GDP chiếm 20,24% so với cả nước

trong năm 2005. Điều đó chứng tỏ vị trí kinh tế của TP. HCM rất quan trọng đối với

40

cả nước.

2.2.Công nghiệp TP. HCM trong bối cảnh phát triển công nghiệp cả nước

Đối với nền sản xuất CN, KCN, KCX ra đời cùng với chính sách đổi mới, mở

cửa từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 là bước ngoặt đột phá lớn trong tể chức và

phát triển CN để đẩy nhanh quá trinh CNH, HĐH. Tại các kì Đại hội Đảng lần thứ VI,

vu, VUI, IX và X của Đảng, vấn đề xây dựng, phát triển các KCN, KCX, KCNC đã

được đưa ra và chỉ đạo thực hiện ngày càng quyết liệt. Cuối năm 2005, cả nước đã có

131 KCN ở 47 tỉnh thành, riêng TP. HCM có 19 KCN và 4 khu đang hình thành với

tổng diện tích đất quy hoạch hơn 7000 ha, trong đó đã đưa vào hoạt động gần 3300 ha.

KCN (theo nghĩa rộng bao gồm cả KCX, KCNC) là một trong các hình thức

TCLTCN đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa phát triển rút ngắn đối với tiến trình CNH,

HĐH. Trong 15 năm ( 1991 - 2006), tình hình phát triển và phân bố các KCN theo các

vùng trên cả nước có sự chuyển biến lớn (bảng 2.1)

41

This image cannot currently be displayed.

Vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ chiếm

73% số lượng KCN, KCX cả nước (96/131 KCN, KCX). Quy mô trung bình của

KCN, KCX là 206 ha, ương đó : vùng Tây Nguyên 115,75 ha ; vùng Đông Bắc Bắc

Bộ 144,5 ha ; vùng Đông Nam Bộ 253,34 ha (trong đó TP. HCM 330 ha), đồng bằng

sông Hồng 173,65 ha. Năm 1991, cả nước mới chỉ có 1 KCN, đến năm 2003 có 76

KCN và tính đến cuối năm 2005 đã có đến 131 KCN được Thủ tướng Chính phủ ra

quyết định thành lập, phân bố khắp 47 tỉnh, thành với tổng diện tích đất tự nhiên

chiếm gần 27000 ha, trong đó diện tích đất trong các KCN có thể cho thuê hơn 18000

ha.

Sau 15 năm xây dựng và phát triển với những chính sách ưu đãi, các KCN, KCX

ở Việt Nam đã thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, các thành

phần kinh tế tham gia. Đầu tư vào KCN, KCX bao gồm các lĩnh vực như: xây dựng cơ

sở hạ tầng KCN, KCX, sản xuất CN (như hoa chất, dệt may, điện tử,...) và dịch vụ sản

xuất CN. Đến cuối năm 2005 đã thu hút được 2120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài

còn hiệu lực, tổng vốn đăng kí đạt 16,843 tỉ USD và 2367 dự án trong nước còn hiệu

lực với tổng vốn đầu tư hơn 113 nghìn tỉ đồng. Trong tổng số 50 quốc gia, vùng lãnh

thổ đầu tư vào KCN, KCX ở Việt Nam, các nước có vốn đầu tư lớn là Đài Loan (3,7 tỉ

42

USD), Nhật Bản (3,2 tỉ USD), Hàn Quốc (2,1 tỉ USD) Singapore (Ì tỉ ƯSD),... Doanh

nghiệp các nước kinh tế phát triển khác trong tổ chức OECD như Hoa Kì, Anh, Pháp,

Đức, Italia,... đều có mặt, song các tập tập đoàn CN đầu tư lổn theo chiều sâu chưa

vào cuộc.

Các KCN, KCX trên cả nước đã đóng góp rất quan ương vào chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng CNH - HĐH, đa dạng hoá ngành nghề, chuyển giao công nghệ,

góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế cả nước, mở rộng quan hệ hợp tác

quốc tế (đã có quan hệ kinh tế với 118 nước và vùng lãnh thổ của 5 châu lục).

GTSXCN của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX so với tổng GTSXCN cả nước

đã tăng từ 8% (1996) lên 14% (2000) và 28% (2005). Kim ngạch xuất khẩu của các

doanh nghiệp ương KCN, KCX từ 1996 đến 2005 ước đạt khoảng 28,5 tỉ USD (trong

đó, thời kì 2001 - 2006 đạt 22,3 tỉ ƯSD). Các doanh nghiệp này đã đóng góp tích cực

vào ngân sách Nhà nước ; thời kì 2001 - 2005, tổng giá trị nộp ngân sách đạt khoảng 2

tỉ USD, tăng 45%/năm và gấp 6 lần thời kì 1996-2000.

Các KCN, KCX ngày càng sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh hợp tác

sản xuất và góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực

hiện chính sách xã hội. Cụ thể, tính đến cuối năm 2005, 1 ha đất CN ở KCN, KCX đã

vận hành thu hút 1,93 triệu USD vốn đầu tư, đạt giá trị sản xuất CN từ 0,54 triệu USD

(năm 2001) lên 0,76 triệu USD (năm 2005) và xuất khẩu bình quân là 0,33 triệu

USD/ha/năm. Nếu GTSX nông nghiệp của Ì ha trung bình tạo ra lo triệu đồng thì 1 ha

đất CN tạo ra hơn 12 tỉ đồng. Đến tháng 6/2006, các KCN, KCX đã thu hút 865 000

lao động trực tiếp (trong đó TP. HCM chiếm hơn 188 ngàn) và ước khoảng 1,2 - 1,5

triệu lao động gián tiếp.

Tuy nhiên, việc phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua cũng đã bộc lộ

một số hạn chế như: chất lượng quy hoạch còn thấp, tể chức thực hiện quy hoạch chưa

triệt để; hiệu quả sử dụng đất chưa cao ; chất lượng lao động còn kém (mới có 4 - 5%

lao động có trình độ đại học và trên đại học ; 30% công nhân kĩ thuật có qua đào tạo ;

còn lại hơn 60% là lao động giản đơn); đời sông của người lao động còn nhiều vấn đề

phải quan tâm (mới có 33 KCN, KCX xây dựng được công trình xử lí nước thải tập

trung).

43

Dự kiến đến năm 2015 sẽ tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới có chọn lọc

khoảng 23 000 đến 26 000 ha đất KCN, KCX, phấn đấu lấp đầy diện tích sử dụng đất

trong các KCN, KCX bình quân cả nước trên 60% diện tích, thu hút mới 6500 - 6800

dự án với vốn đăng kí 36 - 39 tỉ USD.

Đến năm 2020 sẽ hoàn thành cơ bản mạng lưới KCN, KCX trên toàn lãnh thổ,

với tổng diện tích từ 60 000 đến 80.000 ha (Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo). Nhưng

sau khi Việt Nam gia nhập WTO và Hội nghị APEC 14 diễn ra tại Hà Nội thành công

tốt đẹp (2006), các dự báo có thể thay đổi theo hướng khả quan về cơ hội tăng cao vốn

đầu tư FDI.

TP. HCM không nằm ngoài bối cảnh chung của cả nước, đồng thời có nhiều ưu

thế của một thành phố lớn - trung tâm của VKTTĐPN phát triển nhất cả nước. Tốc độ

tăng trưởng GTSXCN của TP. HCM ương những năm gần đây có xu hướng chững lại

và liên tục giảm sút so với cả nước. Nếu như 1995 GTSXCN TP. HCM chiếm 28,55%

của cả nước thì năm 2000 GTSXCN của TP. HCM là 25,48% (giảm 3,07%), đến năm

2005 đã giảm xuống còn 23,55% (giảm 1,93%).

44

2.3.Thực trạng tổ chức lãnh thổ CN TP. Hồ Chí Minh

2.3.1.Sự chuyển dịch cơ cấu CN

Trong 10 năm từ 1995 đến 2005, CN TP. HCM có sự phát triển khá mạnh mẽ về

số lượng GTSX. Năm 1995 có 32.660 cơ sở SXCN, năm 2001 có 28.698, năm 2005

có 37.878 cơ sở. Năm 1995, Thành phố có 2 KCX (Tân Thuận và Linh Trung I) với

diện tích 362 ha, năm 2001 có 12 KCN (các khu được xây dựng thêm là : KCX Linh

Trung II, KCN Bình Chiểu, Tân Tạo, Vĩnh Lộc, Hiệp Phước, Tân Bình, Tân Thới

Hiệp, Lê Minh Xuân, Tây Bắc Củ Chi, Cát Lái IV) với tổng diện tích là 3.647 ha,

trong đó diện tích thực hiện là 3.170 ha. Đến năm 2005, sốKCN là 19 (các khu mới:

KCNC TP. HCM, KCN Cát Lái II, Phong Phú, Tân Quy, Phú Mỹ, Pouchen, Tân Phú

Trung), với tổng diện tích quy hoạch 7017 ha, trong đó đã đưa vào hoạt động 3289,2

ha, chiếm tỉ lệ 46,8%, nếu không tính 2000 ha KCN Hiệp Phước thì tỉ lệ đưa diện tích

vào hoạt động chiếm trên 59%. Năm 2005, bên cạnh 19 KCN còn có 4 khu mới đang

hình thành (là An Hạ, Xuân Thới Thượng, Đông Thạnh, Nhị Xuân). Phần lớn các

KCN, KCX phân bố ở các quận ven và các huyện ngoại thành, một số KCN nằm ở

khu vực dân cư đông đúc như KCN Tân Bình, KCX Tân Thuận. CN TP. HCM phát

triển mạnh cả số lượng, chất lượng, các cơ sở doanh nghiệp ở Thành phố có quy mô

This image cannot currently be displayed.

trung bình về lao động và giá trị SXCN cao hơn mức trung bình của cả nước.

Như vậy, khu vực II chuyển dịch cơ cấu theo chiều hướng tăng tỉ lệ % GDP

chậm lại trong giai đoạn 2000 - 2005 (bảng 2.3 và biểu đồ 2.5).

45

Căn cứ vào các số liệu bảng 2.3, ta thấy khu vực I giảm mạnh tỉ trọng, khu vực II

tăng khá nhanh, khu vực III giảm dần đến mức gần 50% như đã thể hiện trong biểu đồ

2.5. Cơ cấu kinh tế như trên là cơ cấu chuyển dịch theo hướng tiến tiến, tuy nhiên, cơ

cấu đó cần phải gắn liền với tổng GDP lớn mới đánh giá hết ỷ nghĩa của nó. Thông

thường trong nền kinh tế đang phát triển, khu vực li đạt đến cực đại khi hoàn thành

CNH, HĐH và sau đó giảm dần, nhường chỗ cho tỉ trọng khu vực III tăng cao nhờ

dựa vào cơ sở vững mạnh của nền SXCN.

Qua bảng số liệu 2.3 với bảng 2.4, có thể nhận thấy sự phù hợp giữa cơ cấu tỉ

trọng GDP và tốc độ tăng trưởng của khu vực n. Giai đoạn 1995 - 2000, tốc độ tăng

theo chiều hướng giảm ; giai đoạn 2000 - 2005, tốc độ tăng theo chiều hướng tăng

chậm. Nếu tính theo giá so sánh năm 1994 thì năm 2000 so với năm 1995 có tổng

GDP tăng hơn 1,62 lần, tương tự năm 2005 so với năm 2000 GDP tăng 1,68 lần, và

nếu so năm 2005 với năm 1995 thì GDP tăng 2,72 lần. Đó là những con số tăng

trưởng đáng khích lệ nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, bởi nó chứa đựng yếu tố

tụt hậu trong tốc độ tăng trưởng.

Bên cạnh đó dân số gia tăng nhanh, bình quân gia tăng trên 3% mỗi năm. Năm

1995 dân sốTP. HCM 4764671 người, năm 2005 lên đến 6239938 người, tăng thêm

1475267 người. Nếu tính theo giá so sánh năm 1994, GDP/người năm 1995 là 6841

ngàn đồng, năm 2005 là 14242 ngàn đồng, tăng 2,08 lần trong vòng 10 năm.

46

Trong năm 2005, GDP đầu người của TP. HCM theo giá thực tế là 1713

USD/người, cao hơn mức trung bình của cả nước gần 2,7 lần, nhưng thấp hơn mức

trung bình so với Thái Lan là 1,5 lần, so với Malaysia là 2,7 lần, so với Brunây là 8,1

lần và so với thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) thì thấp hơn 3,5 lần.

Qua phân tích, ta thấy rằng tốc độ tăng trưởng khu vực II của thành phố đang

theo xu hướng giảm so với tốc độ tăng trưởng GDP của cả 3 khu vực. Năm 1995 khu

vực li tăng trưởng là 17,6%, năm 2000 là 11,9%, năm 2005 là 12,2%.

Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng chung GDP của 3 khu vực tương ứng với các

năm nói trên làl5,3%, 9,0% và 12,2% (bảng 2.4). Như vậy, tốc độ tăng trưởng của khu

vực li từ chỗ luôn cao hơn so với tổng chung GDP (17,6% so với 15,3%, và 11,9% so

với 9%) đã giảm xuống ngang bằng 12,2% trong năm 2005. cần chú ý thêm rằng, đến

năm 2005, tốc độ tăng trưởng của khu vực ni đã vượt lên cao hơn khu vực II (12,5%

so với 12,2%). Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong những năm tới.

Nếu đơn thuần xem xét qua các số liệu thì ta có nhận xét như trên, song để nhìn

nhận đầy đủ sự phát triển kinh tế cả giai đoạn 10 năm (1995 - 2005) với đầy đủ những

thuận lợi và khó khăn thì cần xem xét các tác động khách quan, chủ quan trong nước,

trong vùng, trong Thành phố và các ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp của các thị trường

xuất nhập khẩu đối với TP. HCM, đặc biệt là sự biến động giá cả dầu mỏ và các rào

cản về thuế quan. Tổng thể, từ 1995 đến 2005, GDP của Thành phố tăng gấp 2,72 lần,

47

riêng CN và xây dựng tăng gấp 3,3 lần.

2.3.2.Tổ chức LTSXCN theo ngành

Cơ cấu CN theo ngành của TP. HCM phát triển đa dạng từ sau đổi mới (1986),

nhất là từ năm 1991 khi có thêm một hình thức tổ chức sản xuất mới mẻ, tiên tiến, đó

là KCN (KCX đầu tiên tại Việt Nam là KCX Tân Thuận), các ngành CN của Thành

phố không ngừng phát triển trong bối cảnh có nhiều khó khăn như khủng hoảng tiền tệ

1997 - 1998, dịch cúm gia cầm, dầu mỏ tăng giá liên lục, khủng bố quốc tế, xung đột

khu vực, sắc tộc, kinh tế thế giới bị ảnh hưởng lớn và phát triển chậm lại. GTSXCN

của Thành phố tuy tốc độ tăng trưởng có chững lại theo hướng giảm dần nhưng vẫn ở

mức trên hai con số. Những ngành chủ lực chiếm GTSXCN cao là chế biến thực

phẩm, đồ uống, may mặc, da giày, hoa chất, nhựa cao su, sản xuất kim loại và sản

phẩm từ kim loại. Qua các số liệu xử lí các tài liệu thống kê, vấn đề dễ nhận thấy tốc

độ tăng trưởng chung của toàn ngành CN so với năm 2000 diễn ra theo chiều hướng

tăng, nhưng các giữa các ngành lại có tốc độ tăng trưởng không đều, và không đều

giữa các năm, giữa các thành phần kinh tế.

Qua biểu đồ 2.6, tốc độ tăng trưởng GTSXCN theo giá thực tế (tỉ đồng), so với

48

năm 2000 (tính theo giá so sánh năm 1994) cửa 3 nhóm thành phần kinh tế: thành

phần kinh tế Nhà nước tăng trưởng thấp nhất, thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng

trưởng cao nhất, thành phần kinh tế cố vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng cao sau thành

phần kinh tế ngoài nhà nước.

Với những tác động ảnh hưởng từ nhiều phía ương nước và quốc tế, tốc độ tăng

trưởng CN có thể tiếp tục giảm chút ít trong năm 2006. Nhưng bối cảnh thế giới đã có

những chuyển biến mới tích cực đối với nước ta, tốc độ tăng trưởng CN được dự đoán

sẽ khởi sắc tăng dần từ năm 2007 và đạt đến tốc độ tăng cực đại vào những năm 2015

- 2020 khi cơ bản đã hiện đại hoá được nền CN.

• U Sự phát triển SXCN theo ngành

Nếu xem xét từng ngành CN cụ thể, có thể nhận thấy các ngành chiếm tỉ trọng

cao hàng đầu trong thời gian qua cũng tăng trưởng không đều, thể hiện tính phát triển

bền vững không cao và ngầm phản ánh những hạn chế, yếu kém ngay trong bản thân

ngành CN, có thể là năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh giảm dần trong

49

xuất khẩu và trong tiêu thụ nội địa,... Trước hết, xem xét tốc độ tăng trưởng năm sau

so với năm trước của một số ngành (được tính theo giá so sánh năm 1994) qua biểu đồ

2.7a. Qua đó có thể thấy sự tăng trưởng không đều của các ngành không phải tập

trung vào cùng một năm. Như vậy, có nghĩa là cùng trong bối cảnh, các khó khăn trở

ngại đối với ngành này nhưng không trở ngại đối với ngành kia.

Giá trị sản xuất của ngành chế biến thực phẩm, đồ uống tăng cao nhất năm 2001

(17,2%), thấp nhất năm 2003 (3,9%) và đang chững lại ở năm 2005 (1,3%) ; trong khi

đó, ngành hoá chất tăng cao nhất trong năm 2005 (22,6%), thấp nhất năm 2003

(8,5%). Tương tự, ngành nhựa cao su tăng cao nhất năm 2004 (32,4%), tăng thấp nhất

năm 2002 (17,8%). Nếu như ngành chế biến thực phẩm, đồ uống và ngành hoá chất có

tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong năm 2003 (3,9% và 8,5%) thì ngược lại, trong cùng

năm đó có những ngành tăng cao nhất như ngành may mặc (25,8%), ngành da giày túi

xách vali (22,7%).

Rõ ràng rằng, tốc độ tăng trưởng của các ngành CN không đều, ở mỗi ngành

thay đổi thất thường, biểu hiện tính bền vững không cao do tác động từ nhiều phía,

như yếu tố thị trường, chính sách áp thuế chống bán phá giá của các thị trường nhập

khẩu hàng hoa Việt Nam như Hoa Kì, EU trong thời gian vừa qua.

50

51

Vì vậy, thành phố cần phải có những giải pháp đồng bộ, chiến lược phát triển

phù hợp đảm bảo sự phát triển bền vững.

Tổng hợp sự chuyển dịch cơ cấu GTSXCN của các ngành CN Thành phố trong

giai đoạn 2001 - 2005 được thể hiện ở hai biểu đồ 2.8 và 2.9 dưới đây, qua đó thấy rõ

hơn tổng thể sự chuyển dịch của các ngành, nhất là 7 ngành chiếm tỉ trọng lớn.

GTSXCN của TP. HCM năm 2001 là 114.887 tỉ đồng, đến năm 2005 : 249.503 tỉ

đồng tăng 217%.

52

53

This image cannot currently be displayed.

Kết quả phân tích GTSXCN các ngành CN chủ lực ở Thành phố đoạn 2001 -

2005 cho thấy sự thay đổi về tỉ trọng và thứ hạng như sau :

Ngành thực phẩm, đồ uống đứng đầu và chiếm tỉ trọng GTSXCN cao nhất,

chiếm 21,5% năm 2001, giảm xuống còn 17% năm 2005 (giảm tới 4,5% trong 5 năm

2001-2005).

Nét tổng quát của CN TP. HCM là CN chế biến chiếm tỉ lệ gần tuyệt đối với

97,7% GTSXCN và 98,78% lao động (năm 2005), trong đó chủ yếu là các ngành thực

phẩm, đồ uống và hàng tiêu dùng, thuộc các ngành sử dụng nhiều lao động và cũng

đồng nghĩa với CN phát triển theo chiều rộng.

Tính riêng tổng 7 ngành CN chủ lực, trong năm 2001 : chiếm 65,7% GTSXCN

và sử dụng 73,81% lao động CN, trong năm 2005 : GTSXCN chiếm 67% GTSXCN

và 77,15% lao động. Do vậy, đây là những ngành sử dụng nhiều lao động, năng suất

còn rất tháp, chủ yếu là những ngành có trình độ công nghệ không cao, thậm chí còn

rất lạc hậu, do vậy khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thấp về số lương, chất

lượng, mẫu mã và giá thành. Bảng 2.7 chỉ rõ một số ngành CN chủ lực của TP. HCM

trong các năm 2001 - 2005.

Thông qua thống kê, phân tích sự tăng, giảm sản lượng một số sản phẩm CN chủ

54

yếu của TP. HCM giai đoạn 2001 - 2005, ta tìm thấy sự phù hợp với tốc độ tăng

trưởng của các ngành CN. Trong số 22 sản phẩm: có 4 sản phẩm tăng gấp hơn 3 lần là

thúy sản chế biến, rượu các loại, quần áo may sẩn, trang in; có 7 sản phẩm tăng hơn

1,5 lần là thuốc lá, xút, phân bón, xà phòng, xi măng, thép, tivi ; Các ngành giảm so

với năm 2001: vải thành phẩm, thuốc ống, sx điện.

• PUhân công lao động SXCN theo ngành

Lao động trong các ngành CN TP. HCM năm 2001 là 717.297, đến năm 2005

lao động trong các ngành CN tăng lên 1091299 lao động, trong đó lao động tập trung

chủ yếu vào nhóm ngành CN chủ lực như : CN thực phẩm, đồ uống, dệt may, giày da,

túi xách, hóa chất, nhựa - cao su, điện tử, các sản phẩm từ kim loại.

o UNhóm ngành thực phẩm, đồ uốngU năm 2001 có 70819 lao động chiếm 9,87%

tổng số lao động của toàn ngành. So sánh số lao động và GTSX của các ngành CN

TP. HCM có thể nhận thấy có ngành sx đạt hiệu quả kinh tế cao, ngược lại có ngành

CN thuộc nhóm ngành CN chủ lực tuy chiếm tỉ trọng GTSX cao nhưng hiệu quả sx

bình quân trên 1 lao động lại thấp. Qua tính toán cho thấy, bình quân 1% lao động

55

ngành thực phẩm đề uống làm ra 2,18% GTSXCN toàn Thành phố năm 2001; Đến

năm 2005 lao động của ngành thực phẩm tuy tăng lên với 91456 người, chiếm 8,38%

trong tổng số 1091299 lao động CN toàn Thành phố. Nhưng bình quân 1% lao động

ngành này làm ra 2,03% GTSXCN. Rõ ràng đây là ngành giảm tỉ trọng nhiều nhất và

giảm tốc độ tăng trưởng đáng kể. Song điều đáng chú ý là mỗi lao động ở ngành này

làm ra GTSXCN cao hơn 2 lần mức trung bình toàn ngành CN. Điều này chứng tỏ

mức độ hiện đại hoa cao hơn nhiều ngành khác.

o UNgành dệt mayU, vẫn giữ được vị trí thứ 2, xếp sau ngành chế biến thực phẩm,

đồ uống, năm 2001 chiếm 11,1% GTSXCN và chiếm tới 28,6% lao động (205099 /

tổng số 717297), nghĩa là 1% lao động của ngành này làm ra 0,39% GTSXCN. Năm

2005, các chỉ số tương tự như trên là : 13,3% GTSXCN, 31,68% lao động (345734 lao

động). Như vậy, 1% lao động ngành dệt may làm ra tương ứng 0,42% GTSXCN. Do

vậy, cần nhìn nhận và cân nhắc hiệu quả, năng suất và thâm dụng lao động của ngành

này ( Tính trung bình 1% lao động CN Thành phố làm ra 1% GTSXCN, nếu 1 % lao

động của ngành nào làm ra > 1% GTSXCN nghĩa là ngành đó có năng suất và hiệu

quả cao, ngược lại 1 % lao động của ngành khác làm ra < 1% GTSXCN thì ngành đó

có năng suất và hiệu quả thấp).

o UNgành da giày, vali túi xáchU từ thứ 4 tụt xuống thứ 6 về GTSXCN do ảnh

hưởng của thị trường.

o UNgành nhựa và cao suU này có tốc độ chuyển dịch cơ cấu GTSXCN nhanh thứ

hai (sau ngành may). Giai đoạn 2001 - 2005 tăng từ 6,8% lên 8,9% (tăng 2,1%), lao

động cũng tăng từ 48 332 (chiếm 6,73%) lên 69 332 lao động (giảm còn 6,35%).

Trung bình 1% lao động làm ra 1,01% GTSXCN (năm 2001) và 1,4% GTSXCN

(năm 2005). Đây là ngành có tốc độ tăng GTSXCN cao, tổ chức sản xuất kinh doanh

có hiệu quả, trung bình GTSXCN của mỗi lao động làm ra tăng từ 101% (năm 2001)

lên 140% (năm 2005) so với mức bình quân toàn ngành CN Thành phố.

56

Các ngành tiếp theo, qua phân tích, kết hợp các bảng 2.7, 2.8, ta thấy các ngành

hoa chất, sản phẩm từ kim loại cũng tăng khá. Các ngành còn lại như điện tử, cơ khí

chính xác chiếm tỉ lệ nhỏ nên chưa thể hiện được vai trò mũi nhọn.

o UVề phân công lao động theo ngành trong CNU, cho thấy năm 2005, lao động

CN chế biến tăng lên, chiếm tới 98,78% lao động toàn ngành CN, trong khi CN khai

thác giảm mạnh từ 0,74% (năm 2001) xuống còn 0,23% (2005), ngành SX và phân

phối điện nước cũng giảm từ 1,05% (năm 2001) xuống còn 0,99% (năm 2005).

Tổng số lao động trong 7 ngành CN chủ lực chiếm tới 74,2% (năm 2001) lên

76,8% (năm 2005). Đáng chú ý là lao động trong ngành dệt may, da giày túi xách vali

năm 2001 chiếm 48,1% và năm 2005 tăng lên tới 52,2%. Tổng số lao động CN năm

2005 so với năm 2001 tăng hơn 374 000 lao động, bình quân mỗi năm gia tăng thêm

93 500 lao động.

2.3.3.Tổ chức LTSXCN theo thành phần kinh tế

Công cuộc đổi mới (từ 1986) đã mở đường cho nhiều thành phần kinh tế phát

triển theo cơ chế thị trường, theo đó nhiều hình thức sở hữu cũng được pháp luật công

nhận và bảo vệ và khuyến khích phát triển. Sự nghiệp đổi mới đã thúc đẩy sự chuyển

57

dịch cơ cấu CN quốc doanh và ngoài quốc doanh. Chính sách mở cửa, đặc biệt sau khi

ban hành Luật đầu tư nước ngoài, tốc độ phát triển CN có vốn đầu tư nước ngoài tăng

lên nhanh chóng, đóng vai trò rất quan trọng trong thời kì CNH, HĐH. Trước hết ta

thấy rằng, về mặt số lượng, số cơ sở CN tăng lên rất nhanh chóng. Trong đó, doanh

nghiệp nhà nước giảm dần, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng cao chưa từng có,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Điều đó thể hiện tổ chức vận hành

nền sản xuất CN theo cơ chế thị trường và nhiều thành phần kinh tế đã thúc đẩy sự

phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.

Giai đoạn 2001 - 2005, số cơ sở SXCN không ngừng gia tăng, trung bình mỗi

năm tăng thêm 2236 cơ sở, trong đó, năm 2003 tăng thêm nhiều nhất với 4183 cơ sở,

năm 2004 tụt giảm nhiều nhất với 719 cơ sở do gặp nhiều khó khăn và làm ăn thua lỗ.

Sự đóng góp vào tổng GTSXCN của các thành phần kinh tế có sự chuyển dịch

mạnh mẽ theo xu hướng tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà nước giảm mạnh, thành

phần ngoài nhà nước tăng nhanh, và tăng nhanh nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu

tư nước ngoài, chứng tỏ trình độ tổ chức sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước

58

ngoài cao hơn khu vực Nhà nước. Các số liệu ở bảng 2.10 cho thấy GTSXCN của

thành phần này cao nhất, chiếm đến 35,8% trong năm 2005. Tiếp theo là các thành

phần kinh tế ngoài nhà nước chiếm 34,9% (tập thể 0,2%, tư nhân 24,3%, cá thể

10,4%).

Có thể thấy sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu GTSXCN theo các thành

phần kinh tế, qua phân tích các số liệu đã được xử lí trong bảng 2.11.

Trong 10 năm (1995 - 2005) tỉ trọng GTSXCN khu vực nhà nước giảm mạnh

( giảm từ 60,7% năm 1995 xuống còn 29,3% năm 2005), chứng tỏ sản xuất trì trệ,

chậm đổi mới, không theo kịp cơ chế thị trường; khu vực CN ngoài nhà nước năng

động, tăng nhanh (tăng từ 23,4% năm 1995 lên 34,9% năm 2005), khu vực CN có vốn

đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất (từ 16% năm 1995 lên 35,8% năm 2005).

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động CN cũng diễn ra mạnh mẽ theo ngành và theo

thành phần kinh tế. Phân tích kết quả cả quá trình chuyển dịch lao động, cho thấy khu

vực Nhà nước giảm mạnh còn 15,4%, khu vực ngoài nhà nước tăng cao đến 52,9%,

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng mạnh chiếm tới 31,7% trong tổng số

1.091.299 lao động CN. Năm 2005, khu vực CN ngoài nhà nước và khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài đóng vai trò chủ yếu trong sử dụng lao động và giải quyết việc làm

(hai khu vực này sử dụng tới 84,6% lao động CN).

59

Qua số liệu cũng cho thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển các

ngành nghề sử dụng nhiều lao động: chỉ tính riêng ngành dệt may, da giày, túi xách

vali đã chiếm đến 63,9% lao động ở khu vực này.

Điều đáng chú ý khác là cơ cấu sử dụng lao động nam, nữ rất chênh lệch giữa

các thành phần kinh tế. Nếu năm 2001, lao động nữ trong doanh nghiệp nhà nước,

ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài theo thứ tự chiếm tỉ lệ 40,65%,

45,22%, 67,45% thì đến năm 2004, con số tương ứng là 41,15%, 42,60% và 70,18%.

Như vậy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút lao động nữ rất cao, chiếm trên

60

70% lao động của khu vực này. Đây là đặc điểm nổi bật về sử dụng lao động nữ ương

thời gian qua ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành nghề sử dụng nhiều

lao động nữ như may mặc, vali, túi xách, gia công sản xuất giày dép với chi phí vốn

không cao nhưng lại thu hồi vốn nhanh. Lao động ở các ngành công nghệ cao chiếm tỉ

lệ không đáng kể. Từ đó cần suy ngẫm, chiến lược phát triển CNH, HĐH của TP.

HCM không phải là phát triển CN theo chiều rộng, mà phải phát triển CN theo chiều

sâu gắn với kinh tế tri thức để đi tắt, đón đầu đuổi kịp các nước khác.

61

2.3.4.Các hình thức tổ chức lãnh thổ SXCN ở TP. HCM

Trước đổi mới, TP. HCM chứa có KCN, KCX, sau đổi mới, bắt đầu từ năm 1991

đã xuất hiện một hình thức TCSXCN tiên tiến, đó là KCN. Trên địa bàn TP. HCM

62

đang tồn tại và phát triển các hình thức: Điểm CN - Cụm CN - KCN (bao gồm cả

This image cannot currently be displayed.

KCX, KCNC) - Trang tâm CN (toàn Thành phố).

Điểm CN phân bố hầu khắp Thành phố, xen kẽ trong địa bàn dân cư, một phần

tồn tại từ quá khứ, phần còn lại được cấp phép thành lập và hoạt động trong bối cảnh

nền CN đa ngành nhưng còn nhỏ bé, chưa có tiền lệ tổ chức theo quy hoạch, mới

chuyển sang vận hành theo kinh tế thị trường nên không tránh khỏi những bất cập và

hạn chế về phân bố, trình độ tổ chức quản lí, khả năng cạnh tranh của sản phẩm,

63

thương hiệu, các mối liên hệ kinh tế tương tác, xuất nhập khẩu ra thị trường thế giới,...

trên địa bàn Thành phố đã tiến hành rà soát và tổ chức di dời trong các năm 2003 -

2005 là 996/1398 cơ sở CN gây ô nhiễm trong tổng số 37 878 cơ sở hiện có trong năm

2005, chiếm 3,7% số cơ sở. Tỉ lệ này mới chỉ là bước đầu, trong quá trình CNH, HĐH

gắn với kinh tế tri thức từ nay đến 2020, sự di dời, sắp xếp lại và tổ chức sản xuất hợp

lí sẽ còn diễn ra mạnh mẽ, nhất là giai đoạn đến 2010.

GTSXCN trên địa bàn quận huyện thuộc khu vực ngoài nhà nước vẫn còn nhỏ

bé, thu ngân sách của quận huyện không đủ chi phải trông chờ vào ngân sách cấp trên.

CN trực thuộc quận huyện quản lí chủ yếu là điểm CN, GTSXCN và tốc độ phát triển

được thể hiện trong bảng 2.13.

GTSXCN của các quận huyện đạt trên 2000 tỉ năm 2005 chỉ có 7 quận, trong khi

đó có tới 10 quận huyện đạt dưới 1000 tỉ đồng, thậm chí có quận chỉ đạt gần 60 tỉ, 90

tỉ như Nhà Bè, Cần Giờ. Số cơ sở CN gây ô nhiễm môi trường phải di dời cũng rất

64

nhiều trong các quận huyện, nhiều nhất là quận Tân Bình (410 cơ sở), quận 11 (208

cơ sở), quận 6 (120 cơ sở).

Quy mô doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chủ yếu là nhỏ và vừa, doanh nghiệp

lớn chiếm tỉ lệ nhỏ. Theo Cục Thống kê TP. HCM, tính đến 31/12/2004 (trong tổng số

thống kê được) về quy mô vốn và lao động như sau :

* Theo quy mô vốn :

- Doanh nghiệp có vốn < 1 tỉ đồng : lo 519, trong đó ĐTNN có 63.

- Doanh nghiệp có vốn 1 tỉ đến < 5 tỉ đồng : 7860, trong đó ĐTNN có 166.

- Doanh nghiệp có vốn 5 tỉ đến < lo tỉ đồng : 1958, trong đó ĐTNN có 132.

- Doanh nghiệp có vốn lo tỉ đến < 50 tỉ đồng : 2238, trong đó ĐTNN có 334.

- Doanh nghiệp có vốn 50 tỉ đến < 200 tỉ đồng : 748, trong đó ĐTNN có 166.

- Doanh nghiệp có vốn 200 tỉ đến < 500 tỉ đồng : 209, trong đó ĐTNN có 62.

- Doanh nghiệp có vốn > 500 tỉ đồng : 73, trong đó ĐTNN có 47.

* UTheo quy mô lao độngU :

- Doanh nghiệp có lao động < 10 người: 12 860, trong đó ĐTNN có 42.

- Doanh nghiệp có lao động từ lo đến 49 người: 7404, trong đó ĐTNN có 289.

- Doanh nghiệp có từ 50 đến 199 người: 2248, trong đó ĐTNN có 162.

- Doanh nghiệp có lao động từ 200 đến 499 người: 681, trong đó ĐTNN có 42.

- Doanh nghiệp có lao động từ 500 đến 999 người: 282, trong đó ĐTNN có 87.

- Doanh nghiệp có từ 1000 đến 4999 người: 191, trong đó ĐTNN có 52.

- Doanh nghiệp có lao động từ 5000 người trở lên : 9, trong đó ĐTNN có 4.

65

Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi hoặc bị lỗ cũng là vấn đề rất đáng

quan tâm, bởi nó phản ánh nhiều mặt tác động của cơ chế thị trường và thực trạng môi

trường đầu tư phát triển sản xuất. số doanh nghiệp thua lỗ còn rất lớn. Tỉ lệ doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi theo chiều hướng tăng chậm và tỉ lệ thua lỗ theo

chiều hướng giảm chậm. Các số liệu sau đây cho thấy tính hấp dẫn của môi trường

đầu tư còn hạn chế, các doanh nghiệp mới thành lập không dễ gì làm ăn có lãi ngay,

và vấn đề đầu tư sản xuất cái gì thị trường cần và cạnh tranh được trên thị trường là rất

quan trọng. Thông thường, các doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế hơn doanh nghiệp

trong nước về thị trường thế giới, họ tận dụng lợi thế nguồn lao động giá thấp để sản

xuất kinh doanh. Song trong số đó không phải là ít các doanh nghiệp nước ngoài làm

ăn thua lỗ. Qua đó, cần xem xét các vấn đề công nghệ mới hay cũ liên quan đến thẩm

định, cấp giấy phép.

Giai đoạn 2001 - 2004, tỉ lệ số doanh nghiệp có lãi giảm dần từ 65,4% năm 2001

66

xuống 56,7% năm 2004, nhưng số lãi trung bình của mỗi doanh nghiệp lại tăng lên, từ

1358 triệu đồng lên 1615 triệu đồng. Ngược lại, số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh

thua lỗ lại có chiều hướng gia tăng, từ 34,6% năm 2001 lên 43,3% năm 2004, nhưng

trung bình lỗ của mỗi doanh nghiệp lại giảm dần, từ 853 triệu đồng xuống còn 412

triệu đồng. Từ đó, ta có thể thấy rằng, năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của

các doanh nghiệp vẫn còn non yếu, nhưng đang có chiều hướng cải thiện tốt hơn (căn

cứ vào tỉ lệ lỗ và số tiền lãi).

Điều bất ngờ là, tỉ lệ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thua lỗ còn rất cao,

cao hơn so với doanh nghiệp khu vực trong nước, nhưng lại có chuyển biến chậm theo

chiều hướng giảm dần. Cụ thể, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ là 54,2% năm 2001 giảm xuống

còn 46,9% năm 2004.

Các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước ( gồm các thành phần tập thể hợp tác

xã, tư nhân, cá thể ) có tỉ lệ thua lỗ lớn và theo chiều hướng gia tăng rất đáng báo

động, đành rằng, đó là những doanh nghiệp non yếu. Tỉ lệ doanh nghiệp thua lỗ cụ

thể : 35,1% năm 2001, tăng lên 44,1% năm 2004.

Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, tồn tại lâu năm, đã

qua sàng lọc nhưng cũng sản xuất kinh doanh thua lỗ đang kể. Tỉ lệ thua lỗ năm 2001

là 9,2%, năm 2004 là 11,7%.

Thực trạng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lỗ, lãi như trình bày ở trên là

vấn đề rất lớn, rất cấp bách cần được nghiên cứu và tháo gỡ.

Cụm CN ở TP. HCM trên thực tế đã và đang được hình thành trong quá trình tổ

chức sắp xếp lại SXCN. Viện kinh tế Thành phố đang đề xuất chuyển các KCN Phú

Mỹ, Tân Quy, Bắc Thủ Đức, Phong Phú, Đông Thạnh, Phú Hữu thành cụm CN. Mục

tiêu chính nhằm tổ chức, sắp xếp và chuyển các điểm CN hiện tại không phù hợp vào

CCN, đương nhiên là không thể chuyển hết hàng chục ngàn cơ sở CN phân bố rải rác

vào CCN, đồng thời cũng không phải không phát triển các dự án đầu tư mới phù hợp

và khả thi.

67

Như vậy, theo địa bàn chọn lựa và tình hình thực tế, CCN Thành phố Hồ Chí

Minh sẽ có các quy mô lớn nhỏ khác nhau, phân bố chủ yếu ở các quận ven trở ra

ngoại thành. KCN, KCX, KCNC là một hình thức TCSXCN tiên tiến nhất, được thành

lập đầu tiên là KCX Tân Thuận.

68

Sau 15 năm (1991 - 2005) có tổng cộng 19 KCN và 4 KCN đang hình thành với

tổng diện tích đưa vào sử dụng 3289,2 ha, tổng diện tích quy hoạch 7017 ha, sự phân

bố rộng khắp ở nhiều quận huyện, chủ yếu ở khu vực ngoại thành, theo dải vòng cung

từ phía đông bắc sang phía tây bắc và vòng xuống phía tây nam của Thành phố. Phía

đông nam chỉ có KCX Tân Thuận ở sát ngay nội thành, KCN Phú Mỹ và KCN Hiệp

Phước ở huyện Nhà Bè, nằm trên vùng đất hạ lưu của hệ thống sông Đồng Nai và

sông Sài Gòn. (xem thêm bản đồ 2 - Hiện trạng CN TP. HCM). Phân tích số liệu tổng

hợp về 2 KCX ở bảng 2.17 và 2.18 để thây sự phát triển khả quan và bước đầu có hiệu

quả của KCX ở TP. HCM.

69

This image cannot currently be displayed.

Qua số liệu thống kê tình hình hoạt động của 2 KCX Tân Thuận và Linh Trung,

có thể nhận thấy sự gia tăng nhanh chóng giá trị xuất khẩu của KCX Tân Thuận tăng

từ 30,34 triệu USD năm 1995 lên 870 triệu USD năm 2004, tăng gấp 28,5 lần, nếu so

giá trị xuất khẩu năm 2004 với năm 2000 thì cũng tăng gấp tới 1,6 lần.

KCX Linh Trung cũng có tốc độ tăng trưởng GTXK nhanh từ 137,898 triệu

ƯSD năm 1995 lên 430 triệu năm 2004, tăng 3,1 lần. Nếu so sánh GTXK năm 2004

với năm 2000 cũng tăng 2,2 lần. Xét GTXK của 2 KCX, thì KCX Tân Thuận có

GTXK cao gấp hơn 2 lần so với GTXK của KCX Linh Trung, nhưng xét về mức gia

tăng tốc độ tăng trưởng GTXK của 2 KCX trong 4 năm gần đây, thì KCX Linh Trung

có tốc độ tăng 2,2 lần, còn KCX Tân Thuận chỉ tăng 1,6 lần.

70

Các KCN, KCX đang hoạt động ở TP. HCM được đánh giá là có hiệu quả cao

nhất trong các KCN và KCX trong cả nước. TP. HCM cũng là Thành phố có sức thu

hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI ( bảng 2.19),

nhờ các lợi thế về vị trí địa lí, về các nguồn lực dân cư, lao động và các thế mạnh

khác.

Trong đó vốn đầu tư vào CN chiếm tới 46% với gần 5,7 tỉ USD. Cho nên năm

2005, vốn đầu tư vào CN TP. HCM tăng cao, góp phần cho việc tăng cường mở rộng,

thành lập các KCN, KCX, KCNC ở TP. HCM, tăng khả năng thu hút lao động vào

trong các KCN và KCX. Năm 2005, số lao động CN ở TP. HCM tập trung vào KCX

cao gấp 1,55 lần so với lao động trong các KCN của TP.HCM ; GTXK của KCX cao

hơn KCN gần 2,3 lần. Như vậy KCX hoạt động có hiệu quả xuất khẩu cao hơn các

KCN. Cán cân thương mại của KCN và KCX TP.HCM cũng đạt 395,13 triệu USD,

trong đó KCX là 350,85 triệu ƯSD và KCN 44,28 triệu USD.

71

Nhìn chung sự tăng ữưởng của KCX, KCN ở TP. HCM đạt được những con số

bước đầu đáng khích lệ, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, tháo gỡ các

khó khăn và rào cản.

Trung tâm CN Thành phố Hồ Chí Minh thực sự là một trung tâm CN lớn nhất cả

nước và đầu tàu của VKTTĐPN trong hiện tại cũng như tương lai. Sức hút và ảnh

hưởng lan toa của nó rất lớn đối với sự phát triển CN của vùng phụ cận như Bình

Dương, Đồng Nai, Long An. Giới hạn ranh giới hành chính đã bắt đầu trở nên chật

hẹp gò bó sự phát triển của nó và sự mở rộng là điều cần thiết.

So hiện tại, TP.HCM cần có chiến lược HĐH CN gắn với kinh tế tri thức và gắn

với phát triển bền vững, nhằm đồng thời chống tụt hậu về tốc độ phát triển GTSXCN

ngay trên sân nhà khi mà công công cuộc HĐH mới bắt đầu và chặng đường kết thúc

còn dài phía trước. Biểu hiện cụ thể sự giảm sút, tụt hậu về GTSXCN ngay trên sân

nhà bao gồm :

- Về GTSXCN bình quân đầu người năm 2004 so với các tỉnh trong VKTTĐPN,

Thành phốHCM đã xếp sau Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai (bảng 2.22),

trong đó Bà Rịa - Vũng Tàu cao gấp 3,4 lần, Bình Dương cao hơn 2 lần và Đồng Nai

cao hơn 1,1 lần. Đây là điều đảo ngược trong vòng 15 năm qua, xu hướng tụt hậu sẽ

72

còn gia tăng nếu như không có các giải pháp phát triển hữu hiệu.

- Điều đảo ngược nói trên cũng được thể hiện rõ nét trong xu hướng giảm tỉ lệ %

GTSXCN so với các tỉnh thành hàng đầu của cả nước. Từ năm 2000 đến năm 2005,

riêng TP. HCM giảm sút từ 25,48% xuống 23,55%, còn các tình VKTTĐPN thì tăng

từ 25,19% lên 25,31%, và các tỉnh còn lại của cả nước tăng từ 49,33% lên 51,14%.

Điều đó cũng có nghĩa là tốc độ tăng trưởng GTSXCN của TP. HCM giảm sút xuống

so với phần còn lại của cả nước. Có lẽ đây chính là những điều còn ít được nhìn nhận,

quan tâm trong những năm qua.

2.4.Những vấn đề rút ra từ nghiên cứu thực trạng TCLTCN TP. HCM

• Tốc độ tăng trưởng GTSXCN đang có xu hướng giảm sút so với VKTTĐN và

73

cả nước (do tỉ trọng GTSXCN Thành phố giảm so với cả nước giai đoạn 2000 – 2004,

từ 25,48% giảm còn 23,55% ).

• GTSXCN từ cao hơn đã giảm xuống thấp hơn các tỉnh còn lại của VKTTĐN

(GTSXCN của các tỉnh còn lại thuộc VKTTĐN giai đoạn 2000-2004: từ 25,19% tăng

lên 25,31%, nghĩa là đã cao hơn 1,76%).

• GTSXCN bình quân đầu người tăng chậm và tụt hạng, cách biệt lớn dần, xếp

hạng thứ 4, đứng sau Ba Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai (năm 2004: Bà Rịa

– Vũng Tàu cao hơn TP.HCM 3,4 lần, Bình dương cao gấp 2 lần, Đồng Nai cao gấp

hơn 1,1 lần).

• Về cơ bản, CNH đã xong, cần thúc đẩy HĐH gắn với kinh tế tri thức và gắn

với xử lí chất thải để phát triển bền vững.

• CN chế biến chiếm 97,7% (năm 2005) nhưng tập trung chủ yếu vào các ngành

thực phẩm, dệt may, da giày và ngành hàng tiêu dùng khác (biểu đồ 2.9: 9 ngành

chiếm 67% GTSXCN, trong đó 3 ngành thực phẩm, dệt may, da giày chiếm 37,5%).

• CN đang phát triển theo chiều rộng, GTSXCN của các ngành tăng trưởng

không đều, sử dụng nhiều lao động giản đơn, năng suất lao động thấp, tính cạnh tranh

của hàng hoá thấp (dệt may, da giày chiếm 20,5%GTSXCN va2su73 dụng 47,4% lao

động sản xuất ra 0,43% GTSXCN toàn thành, tương ứng thấp hơn mức bình quân 2,3

lần) (xử lí từ biểu đồ 2.9 và bảng 2.12). Đó chình là vấn đề thâm dụng lao động cao

trong ngành dệt may, da giày.

• Khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng

nhanh, nhưng bất ngờ là tỉ lệ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ trong hai khư

74

vực này rất cao và đáng báo động đỏ.

• Tốc độ tăng trưởng GTSXCN năm sau so với năm trước của cả 3 khu vực

kinh tế diễn ra không đều qua các năm, trong đó thấp nhất là khu vực kinh tế nhà

nước.

• Diện tích KCN, KCX, KCNC theo quy hoạch đến năm 2020 là 7017 ha, chiếm

3,34% đất tự nhiên của TP. HCM (2095,01 km2). Hiện tại đã đưa vào sử dụng gần

3300 ha, chiếm 1,57% đất tự nhiên, cần phải cân nhắc thêm tỉ lệ đất phát triển KCN.

• Cân nhắc chiến lược phát triển CN về phía đông nam khi nền kinh tế nói

chung và nền CN nói riêng chưa thực sự vững mạnh (GDP toàn ngành CN đang ở

mức đạt dưới 5 tỉ USD/ năm).

• Tổ chức, sắp xếp lại SXCN một cách khoa học là thách thức lớn. Các KCN,

CCN được phân bố trên nhiều quận huyện dường như theo kiểu phân phối, thiếu

thống nhất về mục tiêu, nhiệm vụ của cả hệ thống, nên hiệu quả hoạt động của phần

lớn các khu CN còn thấp. Có nhiều KCN tập trung phân bố trong khu vực nội thành.

Trong tương lai không xa phải điều chỉnh, hoặc di dời ra khỏi thành phố để tránh ô

nhiễm và quá tải hệ thống hạ tầng, gây lãng phí trong xây dựng cơ sở hạ tầng, dẫn đến

giá thành thuê đất cao, làm giảm sức hút đầu tư so với các địa phương lân cận.

• Cùng với gia tăng dân số trên 3% mỗi năm, CN Thành phố đã vấp phải rào cản

của hệ thống hạ tầng cơ sở yếu kém, nhất là hệ thống giao thông. Ô nhiễm môi trường

đã trở nên trầm trọng và báo động, đòi hỏi phải có những giải pháp triệt để xử lí chất

thải, chuyển dịch, di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi nội thành. Nhìn tổng thể,

CN thành phố vẫn còn mang nặng tính chất của nền CN nhỏ, công nghệ lạc hậu, tính

cạnh tranh thấp.

• Tính tự phát trong phát triển CN vẫn còn đè nặng.

Công tác quản lí nhà nước về hoạt động sản xuất CN thiếu tập trung, thống nhất,

thiếu kinh nghiệm và trình độ thẩm định chính xác dự án, dẫn tới việc chậm đổi mới

công nghệ, chậm tiến trình HĐH. Bên cạnh, thiếu tổ chức tư vấn trình độ cao, thiếu

tập trung các nguồn lực một cách cao độ để phát triển, đầu tư còn dàn trải, gây lãng

phí, chồng chéo và manh mún. Đó chính là rào cản. Khu vực kinh tế trong nước phát

75

triển kiểu tự tự phát, chưa quản lí xuể, nhất là khu vực kinh tế tư nhân.

• Đã đến lúc quan tâm đến việc đầu tư và mở rộng sản xuất ra bên ngoài. Giới

hạn địa phận hành chính là một thách thức lớn của Thành phố. Dự báo đến năm 2020,

dân số sẽ lên đến 12 triệu (theo dự báo của Bộ xây dựng). Nếu như gia tăng dân số

vẫn giữ mức trung bình 3,14% như hiện nay thì đến 2020 dân số Thành phố sẽ là 9,3

triệu, kèm theo đó là đất ở, đất CN, đất giao thông... Vấn đề đặt ra là phát triển ra

vùng phụ cận các đô thị vệ tinh cũng như lan toa CN hiện đại đi kèm. Mặt khác, việc

đầu tư ra nước ngoài là một tất yếu khách quan, kể cả đầu tư vào các nước phát triển

những ngành nghề mà Thành phố có lợi thế.

76

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC LÃNH

THỔ CÔNG NGHIỆP TP. HCM THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP

HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

3.1.Những cơ sở chính để định hướng

3.1.1.Nhận thức bối cảnh quốc tế và các xu hướng phát triển

Trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng

gay gắt, nhưng cơ hội thị trường ngày càng mở rộng đối với Việt Nam nói chung và

TP. HCM nói riêng, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ

150 của WTO tháng 11 năm 2006. Thách thức và cơ hội to lớn đã và đang đặt ra đối

với nền KTXH, trong đó, vấn đề cạnh tranh để hội nhập của hàng hoá Việt Nam trên

thị trường quốc tế là vấn đề sống còn, nó liên quan đến sự vận động và phát triển của

cả nền kinh tế. Để tăng sức cạnh tranh, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng các loại sản

phẩm công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ, tăng tính đa dạng về chủng loại

sản phẩm, tăng số lượng sản phẩm, tăng nhanh quy mô hàng hoa xuất khẩu mà ta có

lợi thế so sánh.

Có thể tham khảo công thức tính lợi thế so sánh của D. Ricardo để vận dụng linh

hoạt vào cách xác định lợi thế so sánh của một vùng miền hay một thành phố so với

các vùng miền và quốc gia khác trên thế giới mà ta có giao dịch xuất nhập khẩu, hoặc

nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại.

Công thức tính lợi thế so sánh của D. Ricardo :

RCA = (ER1R/ERcR) + (ER2R/ERwR)

Trong đó : RCA (Rate of Comparative Advantage): Hệ số lợi thế so sánh.

ER1R: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của quốc gia trong 1 năm.

ERcR: Tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia trong 1 năm.

ER2R: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới trong một năm. ERwR: Tổng kim

ngạch xuất khẩu của thế giới trong 1 năm.

77

Nếu : RCA <=1 : sản phẩm không có lợi thế so sánh.

1 < RCA < 2,5 : Sản phẩm cổ lợi thế so sánh.

RCA > 2,5 : sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao.

Việc tính toán chi tiết mọi mặt để sản xuất các sản phẩm mà nhu cầu thị trường

cần và ta có lợi thế so sánh là cực kì cấp thiết, trong đó, không loại trừ cả trường hợp

sản phẩm tái xuất với nguyên liệu nhập khẩu nhưng nhờ chế biến bằng công nghệ cao,

giá nhân công thấp nên sẽ tạo ra sức cạnh tranh cao.

Xu thế bùng nổ của CNTT, công nghệ sinh học và khoa học - công nghệ cao

ngày càng gia tăng giá trị đóng góp vào cấu thành sản phẩm. Đó chính là các dấu hiệu

của nền kinh tế tri thức mà thế giới đang bước vào. Trước xu thế đó, chúng ta cần đẩy

nhanh HĐH cái ta đang có, sử dụng các dây chuyền công nghệ mới gọn nhẹ, tạo ra sự

biến đổi nhanh về chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Để không bị tụt hậu, ngành công

nghiệp TP. HCM nói riêng và công nghiệp cả nước nói chung cần dự báo những đổi

mới công nghệ của thế giới, cần phát triển các dự án đầu tư theo chiều sâu, hợp lí về

quy mô, năng động thích ứng với sự biến đổi nhanh của khoa học - công nghệ (cần

quy mô vừa và nhỏ nhưng có năng lực sản xuất lớn, đầu tư quy trình công nghệ cao).

Với xu thế chuyển mạnh từ SXCN theo chiều rộng sang SXCN theo chiều sâu,

sản xuất theo công nghệ sạch và tiết kiệm nguyên nhiên liệu, sử dụng nguyên nhiên

liệu mới thay thế, nguồn năng lượng mới. Từ đó, xác định ngành mũi nhọn, trước hết

là ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, có lợi thế so sánh và khả

năng phát triển bền vững. Do đó, cần tính toán chi tiết, có cơ sở để xác định chính xác

các ngành cần tập trung phát triển.

Dựa vào tình hình thực tế và xu thế mới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội,

ngành công nghiệp TP. HCM cần phát triển phù hợp với các xu hướng của thế giới:

- Xu thế chuyển dần từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức,

trong đó, hàm lượng tri thức, chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hoá ngày càng

cao, thông thường từ 60% trở lên. Đây là cơ sở nhận thức để có hướng nghiên cứu,

xác định chuyển các bộ phận SXCN ở TP. HCM theo hướng có khả năng đột phá, đi

tắt, đón đầu.

78

- Xu thế quốc tế hoá các tiêu chuẩn quốc tế, luật lệ, định chế trong thị trường

thương mại thế giới về sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm công nghiệp.

- Thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá đối với một số vấn đề liên quan chiến lược

phát triển sản xuất công nghiệp mà trước đây đã thịnh hành :

+ Thứ nhất, chủ trương thay thế hàng nhập khẩu ở các nước NIC trong những

thập kỉ trước, nay tỏ ra không còn nguyên giá trị, bởi lẽ nguồn hàng hoá lưu thông

trong khuôn khổ WTO theo nguyên lí nước chảy về chỗ trũng. Vì vậy, nếu sản phẩm

công nghiệp của TP. HCM không có lợi thế so sánh hữu hiệu thì không thể thay thế

được hàng nhập khẩu nước ngoài.

+ Thứ hai, nền kinh tế hướng ra xuất khẩu, trong những thập kỉ trước, rào cản

thuế quan nhằm tăng xuất, hạn chế nhập đã tạo ra giá trị xuất siêu cao. Ngày nay, sức

mạnh của thị trường trong khuôn khổ WTO đã tháo bỏ hầu như mọi rào cản thuế

quan, làm thông thoáng xa lộ thị trường, dẫn đến hàng hoa lưu thông cạnh tranh ở

trong nước và ở nước ngoài ngày càng xích lại gần nhau và hợp thành một bậc thang

cạnh ữanh không phân biệt. Do vậy, sản xuất công nghiệp TP. HCM cũng cần nghiên

cứu đến những điều này, xem đâu là lợi thế, để không bị thua ngay trên thị trường sân

nhà.

+ Thứ ba, bạn hàng, thị trường truyền thống trước đây chỉ giới hạn trong phạm

vi nhất định, ngày nay, thi trường thương mại trong hệ thống WTO lan tỏa toàn cầu.

Do vậy, nguồn thông tin để biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng là cực kì cần thiết

và không thể thiếu. Điều này cần sức mạnh của hệ thống thông tin theo ngành, theo

lĩnh vực, của các cơ quan dự báo chính xác, cần biết nhu cầu thị trường thế giới, nhu

cầu cụ thể của từng nước, sức mua, sức tiêu thụ, cần biết những thay đổi trong xu

hướng, cần biết những gì mới nhất của thế giới trong các lĩnh vực sản xuất có liên

quan đến cơ cấu các mặt hàng sản xuất của TP. HCM. Qua đó, cần có sự điều chỉnh,

bể sung thích hợp để phát triển.

- Xu thế giảm dần lợi thế về nguồn lao động giá rẻ, tăng dần nhu cầu và lợi thế

về nguồn lao động trình độ cao. Do vậy, tể chức và đào tạo nguồn nhân lực này cho

nhu cầu hiện tại và nhu cầu trong tương lai cũng là đòi hỏi cấp thiết.

79

3.1.2.Nhân thức các nguồn lực

Nguồn lực quan trọng hàng đầu có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển công

nghiệp TP. HCM, đó là đường lối đổi mới, mở cửa, cải cách hành chính, minh bạch

hoa, vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham

gia được khuyến khích.

Nước ta là thành viên WTO, thành viên của APEC, AFTA,... đã tạo nên hành

lang thông thoáng cho việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo nhiều cơ hội và thách thức

rất mới cho sự phát triển công nghiệp TP. HCM. Môi trường xã hội ổn định, an toàn là

một lợi thế so sánh rất lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh thế

giới còn nhiều nơi bất ổn, tồn tại nạn khủng bố, xung đột, thì môi trường ổn định, an

toàn của Việt Nam nói chung và TP. HCM nói riêng là lợi thế, là nguồn lực quan

trọng, cần khai thác triệt để.

Lực lượng lao động đông, trẻ, năng động, thông minh, giá nhân công thấp vẫn là

lợi thế rất lớn đối với sự phát triển CN TP. HCM. Bên cạnh đó, khả năng đào tạo và

cung cấp lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cũng rất lớn. Thành phố hiện có 50

trường Đại học và Cao đẳng, hằng năm có tới 300 ngàn sinh viên theo học và có

khoảng 1/5 trong số đó tốt nghiệp ra trường. Lực lượng kế cận từ học sinh lớp 9, lớp

12 cũng rất lớn.

Với vị trí rất thuận lợi về giao thông thúy bộ và hàng không thuận lợi cho sự

phát triển phân bố sản xuất công nghiệp TP. HCM. Ngoài ra, Quá trình đổi mới mạnh

mẽ, chống tham nhũng quyết liệt, minh bạch và công khai hoá, cải cách hành chính,

80

và nước ta đã có quan hệ kinh tế với 118 nước và vùng lãnh thể ( châu Á 34, châu Âu

32, châu Mĩ 28, châu Phi 21 và châu Đại Dương 3) đã tạo điều kiện cho nền kinh tế

nước ta liên tục tăng trưởng cao so với thế giới trong nhiều năm liền.

Khả năng đầu tư và huy động nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

còn rất lớn. Cái chính là phải tạo ra được môi trường đầu tư an toàn, hấp dẫn, thông

thoáng và luôn vận động hấp dẫn hơn môi trường đầu tư của các nước khác. Chính

sách, luật phù hợp với WTO, biện pháp huy động thích hợp, hình thức huy động

phong phú, khả năng sử dụng nguồn vốn có hiệu quả cao, minh bạch hoá, trệt để

chống tham nhũng, lãng phí. Phát huy cao độ lợi thế người đi sau, không lặp lại vết xe

đỗ của người đi trước.

Bên cạnh những thuận lợi, TP. HCM cũng còn không ít hạn chế, yếu kém. Đó là

chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghệ lạc hậu, nguy cơ tụt hậu cao.

Công nghệ thấp, quy mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, điều này có thể thấy

được qua số liệu các cơ sở công nghiệp trên địa bàn về hiệu quả sản xuất thấp kém

(như chương 2 đã trình bày). Xu hướng GTSXCN của Thành phố tăng trưởng chậm

hơn so với VKTTĐPN và phần còn lại của cả nước, chứng tỏ việc xem xét và tính

toán lại cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp và việc phân bố các nhà máy, xí

nghiệp, KCN, KCX cần được nghiên cứu kĩ, thẩm định theo chiều sâu trước khi cấp

giấy phép hoạt động.

Hiện nay GTSXCN của nhóm ngành sử dụng nhiều lao động đang chiếm tỉ lệ rất

cao (chế biến thực phẩm, đồ uống, may mặc, da giày, dệt, đồ gỗ...), chứng tỏ trình độ

công nghệ còn thấp và thậm chí lạc hậu. Nhiều nhà máy xí nghiệp, các KCN, KCX

phát triển chưa bền vững, phát triển sản xuất chưa đi đôi với xử lí chất thải, bảo vệ

môi trường. Hệ thống giao thông chật hẹp, ùn tắc, quá tải là rào cản lưu thông ; tình

cảnh công nhân thuê mướn nhà ở "tạm bợ" là dấu hiệu không bền vững, ảnh hưởng

lớn đến năng suất lao động.

Tỉ lệ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ chiếm tỉ lệ rất cao ở các thành

phần kinh tế, đặc biệt là thành phần có vốn đầu tư nước ngoài - lẽ ra chỉ chiếm tỉ lệ

nhỏ và thường xảy ra đối với các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, nhưng ở đây

hoàn toàn ngược lại. Điều đó cho thấy nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

81

cũng yếu kém. Do vậy cần tìm nguyên nhân, không loại trừ trong số đó có các trường

hợp tiêu cực, trốn thuế, không minh bạch, báo cáo không trung thực. Dù có trừ hao đi

nữa thì tỉ lệ doanh doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn rất đáng báo động đỏ. Phải chăng,

khâu kêu gọi đầu tư và thẩm định dự án đầu tư có vấn đề bất cẩn và yếu kém. Nên

chăng, cần sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài có trình độ cao, có nhiều kinh

nghiện tư vấn trong lĩnh vực này !

Trong chiến lược phát triển về phía đông nam cần sự cân nhắc thận trọng trên cơ

sở đánh giá kĩ lưỡng một cách khoa học về mọi mặt. Bởi lẽ, phía đông nam là vùng

đất hứa đối với nền kinh tế giàu tiềm lực, nhưng khi chưa đủ lực thì nên phát triển khu

vực thuận lợi nhiều hơn trước để tích lũy vốn. Mặt khác, phía đông nam là vùng cửa

sông, đất phù sa mới, lầy lội, nơi thoát và tiêu nước của 2 con sông lớn bao đời nay,

do vậy phát triển về phía đông đồng nghĩa với san lấp mặt nước và rất dễ dẫn đến hiện

tượng ứ nước phía trên khi có mưa lũ, triều cường, gây ngập lụt. Điều đó dẫn đến thiệt

hại khôn lường về nhiều mặt, kể cả gây ô nhiễm môi trường,...

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố còn nặng về gia công, sản xuất

theo đơn đặt hàng, nhất là gia công hàng xuất khẩu, công nghệ lại chậm đổi mới, sử

dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hoá thấp.

Vai trò quản lí nhà nước của ngành công nghiệp trên địa bàn còn yếu, chưa đồng

bộ, chưa thực sự hấp dẫn thu hút được nguồn vốn đầu tư, nhân tài, công nghệ.

3.1.3.Hiện trạng phát triển công nghiệp TP. HCM

- Trên cơ sở nhìn nhận, đánh giá những hạn chế qua nghiên cứu thực trạng

TCLTCN TP. HCM chúng ta thấy:

+ Chất lượng quy hoạch các KCN, KCX còn thấp, việc tổ chức thực hiện quy

hoạch chưa triệt để. Một số KCN, KCX chưa thực sự gắn quy hoạch ngành, quy hoạch

tổng thể với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của TP. HCM.

+ Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX theo quy hoạch được duyệt chưa được

giám sát chặt chẽ, dẫn tới việc các địa phương và chủ đầu tư xây dựng KCN, KCX

không tuân thủ đúng quy hoạch, không thực hiện hạng mục công trình theo quy hoạch

(như hệ thống xử lí nước thải). Do vậy, các KCN, KCX còn bộc lộ nhiều yếu kém, thể

82

hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lí có năng lực, thiếu đội ngũ lao động

lành nghề phù hợp với yêu cầu xây dựng kinh doanh KCN, KCX, thiếu sự chuẩn bị

chu đáo về nội dung mời gọi các nhà đầu tư.

+ Vấn đề ô nhiễm môi trường còn nặng nề ở hầu hết các KCN và KCX.

+ Vấn đề hệ thống giao thông còn yếu kém, nạn kẹt xe, ùn tắc ngày càng tăng

sức ép.

+ Hiện trạng phân bố các xí nghiệp, nhà máy hiện nay còn tập trung nhiều ở

những khu hành chính, dân cư đông đúc gây ảnh hưởng lớn đến môi trường. Vì vậy,

cần phân bố lại ra các vùng ngoại thành, chẳng hạn: Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè...

3.1.4.Định hướng phát triển KTXH TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020

Trong điều kiện hội nhập và đẩy nhanh CNH - HĐH đất nước, TP. Hồ Chí Minh

cần tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu của một trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học

quan trọng của cả nước, hạt nhân của VKTTĐPN. Định hướng phát triển đến năm

2020, TP. HCM vẫn là thành phố lớn nhất cả nước về quy mô dân số, GTSXCN, giá

trị hàng hoá xuất nhập khẩu, giá trị thương nghiệp, quy mô GDP và GDP tính theo

đầu người. Để thực hiện được mục tiêu kinh tế - xã hội đó, TP. HCM cần có những

định hướng đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong điều kiện đã

là thành viên WTO. TP. Hồ Chí Minh cần phát huy những lợi thế so sánh để nhanh

chóng trở thành một trung tâm kinh tế phát triển năng động của khu vực Đông Nam Á

và thế giới, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Căn cứ vào tiềm lực, thực trạng phát triển công nghiệp TP. HCM và xu hướng

phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kì kinh tế thế giới đang chuyển sang

nền kinh tế tri thức và sự kết tinh chất xám trong hàng hoá ngày càng cao. Ngành công

nghiệp TP. Hồ Chí Minh cần chú trọng phát triển những ngành công nghiệp công

nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị

trường trong và ngoài nước.

Đáp ứng nhu cầu đòi hỏi đổi mới hàng hoá ngày càng cao ở trong nước và thế

giới. Do vậy, cần phải gắn liền giữa nghiên cứu khoa học với triển khai ứng dụng trực

tiếp vào SXCN. Trong những năm gần đây, các quan niệm về xuất nhập khẩu về vấn

83

đề thị trường cũng cần phải thay đổi khi Việt Nam đã gia nhập WTO, nghĩa là các sản

phẩm hàng hoa khó cạnh tranh thì cần thay đổi công nghệ hoặc hoặc chuyển mục đích

sản xuất để có khả năng cạnh tranh cao hơn. Trước sự cạnh tranh gay gắt do nhu cầu,

chủng loại mẫu mã hàng hoa luôn thay đổi, cần phải chú ý cải tiến công nghệ và tổ

chức hợp lí lãnh thổ sản xuất công nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm

giá thành, tăng tính cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam, cũng

như đối với TP. HCM - thành phố đầu tàu trong phát triển CN.

Vấn đề phát huy vai trò hạt nhân của Thành phố trong VKTTĐPN, TP. HCM

cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó vấn đề hàng đầu là đẩy nhanh HĐH nền

công nghệ mà hiện trạng còn ở mức rất thấp và lạc hậu ; đồng thời ưu tiên phát triển

các ngành công nghệ cao, có khả năng đột phá, nhằm tạo tiền đề thúc đẩy nhanh nền

kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp cao và tạo tốc độ tăng trưởng GDP

cao hơn mức trung bình của cả nước ( biểu đồ 3.1 và bảng 3.3, bảng 3.4).

TP. HCM còn là hạt nhân tạo sức hút mạnh mẽ đối với các tỉnh xung quanh và

có sức lan tỏa lớn đến vùng phụ cận (bản đồ số 3 và số 4). Do đó, các tỉnh lân cận

Thành phố đều có tốc độ phát triển cao, tạo nên thế lãnh thổ công nghiệp gắn kết liền

nhau trong hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật liên hoàn.

84

Theo định hướng phát triển công nghiệp TP. HCM của sở Công nghiệp được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 11/2004 về mục tiêu phát triển sản xuất công

nghiệp nhằm nâng cao giá trị công nghiệp TP. HCM trong cơ cấu kinh tế của Thành

phố và tăng tỉ trọng giá trị công nghiệp trên địa bàn so với cả nước.

Trên thực tế, có các chỉ số phát triển đến năm 2010 thì ngay trong năm 2005 đã

85

đạt được mức tương ứng. Thí dụ năm 2005, chỉ tiêu lao động công nghiệp của TP.

HCM đã đạt 1,091 triệu lao động, mỗi năm đang gia tăng 100 ngàn lao động CN,

trong khi kế hoạch phê duyệt 2010 là 1,2 triệu lao động CN. Một số chỉ tiêu khác có

sự chênh lệch lớn và khả năng đạt được mục tiêu là khá khó khăn, nếu không có các

giải pháp thích hợp hữu hiệu đẩy nhanh tốc độ tăng trương công nghiệp TP. HCM so

với các tỉnh lân cận và so với mức tăng trưởng chung của cả nước. Thí dụ tỉ trọng

GDP của TP. HCM so với cả nước qua các năm 1990, 1995, 2000 và 2005 theo thứ tự

là 16,1%, 16,1%, 17,17%, 20,14%. Như vậy theo kế hoạch phê duyệt năm 2010 phấn

đấu đạt 29,1% là điều khó khăn, khi tỉ trọng GTSXCN của Thành phố so với cả nước

cũng đang sút giảm mạnh, năm 2000 chiếm 25,48%, năm 2005 giảm còn 23,55%

This image cannot currently be displayed.

(biểu đồ 2.3 và2.4).

Các chỉ tiêu đầu tư cho công nghiệp Thành phố cũng được đầu tư tăng tỉ trọng

trong tổng đầu tư xã hội, nhằm mục đích tạo vốn cho công nghiệp hoa và hiện đại hoa

công nghiệp TP. HCM (bảng 3.3).

Dự báo cơ cấu kinh tế năm 2020 của TP. Hồ Chí Minh : Công nghiệp -xây dựng

47,5%, dịch vụ 51,7%, nông nghiệp 0,8% giá trị sản xuất. Trong đó tốc độ tăng trương

ngành công nghiệp - xây dựng là 12,7%.

3.2.Định hướng tổ chức lãnh thổ CN TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020

3.2.1.Định hướng phát triển các ngành công nghiệp

• Định hướng chung

86

Gần đây, tình hình trong nước và thế giới có nhiều sự biến động gây ảnh hưởng

bất lợi đến các ngành sản xuất trong nước. Sản xuất công nghiệp TP. HCM cũng gặp

rất nhiều khó khăn. Hầu hết nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất công nghiệp phải

nhập khẩu điều tăng giá, xăng dầu tăng giá cao đột biến. Thị trường thế giới có nhiều

tác động bất lợi : cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, sự kiện chống bán phá giá của

Ủy ban châu Âu (EU), của Hoa Kì,... đã ảnh hưởng lớn, làm thu hẹp thị trường xuất

khẩu của một số ngành công nghiệp chủ lực của thành phố như : dệt, may, da giày,

thủy sản.

Tuy nhiên, GTSXCN năm 2005 của thành phố cũng đã đạt 269.503 tỉ đồng, tăng

14,5% so với năm 2004. Tốc độ tăng GTSXCN của Thành phố có xu hướng chậm lại

và tụt hậu so với các tỉnh trong vùng KTTĐPN và cả nước. Vì vậy, định hướng nâng

cao tỉ trọng CN TP. HCM trong tổng giá trị sản xuất CN của cả nước là vấn đề không

đơn giản, khi nhiều tỉnh thành khác trong thời gian gần đây có tốc độ tăng trưởng rất

cao như Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Hơn nữa, trong xu hướng phát triển chung

của Thành phố vẫn còn nhiều doanh nghiệp bị lỗ, đáng báo động đỏ như chương 2 đã

trình bày. Mặc dù vậy, khu vực đầu tư nước ngoài ở TP. HCM vẫn tăng, đặc biệt ở

những ngành mà công nghiệp trong nước đang gặp khó khăn, nhờ có lợi thế về thị

trường tiêu thụ ổn định, lợi thế thương hiệu sản phẩm.

Hiện tại và tương lai đều cần tăng khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp TP.

HCM để đứng vững trên thị trường trong nước và tăng cường xuất khẩu, góp phần

tăng khả năng hội nhập nhanh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam trên thị trường

quốc tế. Tránh những rủi ro và ảnh hưởng bất lợi của thị ứường gây ra.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu CN TP. HCM theo hướng đẩy mạnh đầu tư theo

chiều sâu, ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và

kinh doanh, tăng cường xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại, đẩy

mạnh thị trường để tăng cường xuất khẩu. Ưu tiên và tập trung vào các ngành có hàm

lượng tri thức và công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh như công nghệ điện tử, tin học,

viễn thông, CN hoa chất, CN cơ khí và chế tạo máy.

Tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực nhằm thu hút đầu tư

vốn và khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất công nghiệp, đồng thời phát triển đào

87

tạo nguồn nhân lực có trình độ cao ương sản xuất và quản lí kinh doanh nhằm tham

gia có hiệu quả vào thị trường thế giới.

Quy hoạch, bố trí sắp xếp, điều chỉnh các KCN, KCX, KCNC nhằm tạo ra sự

liên kết chặt chẽ giữa các xí nghiệp chuyên ngành và phân bố hợp lí công nghiệp trong

không gian nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường giữ vững an ninh

quốc phòng. TP. HCM sẽ chủ động di dời các xí nghiệp sử dụng nhiều nguyên nhiên

liệu, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường ra khỏi trung tâm thành phố, gắn với

việc phát triển hệ thống xử lí nước thải, khí thải, rác thải của các nhà máy, xí nghiệp

công nghiệp.

• Định hướng cụ thể

o UTriển khai xây dựng quy hoạch chỉ tiết các ngành công nghiệp trọng yếu

trên địa bàn thành phốU:

+ CN chế tạo máy : tập trung cho các ngành sản xuất và nội địa hoa lắp ráp ô tô,

sản xuất các phương tiện vận tải thúy, máy móc nông nghiệp, máy CN chế biến, máy

công cụ thế hệ mới, sx trang thiết bị điện tử, robot công nghiệp.

+ CN Điện tử - công nghệ thông tin : tập trung sản xuất các linh kiện, phụ kiện

sản phẩm điện tử công nghiệp, điện tử viễn thông, máy tính thương hiệu Việt Nam,...

+ Hoá chất: tập trung ưu tiên SX các sản phẩm hoá dược và các loại hạt nhựa,

các sản phẩm cao su cao cấp,...

- Ứng dụng công nghệ sinh học và công nghệ nanô vào SXCN.

- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu công nghiệp bao gồm các hoạt động :

+ Đánh giá tình hình thực hiện chuyển dịch cơ câu công nghiệp.

+ Đánh giá chất lượng HĐH công nghệ và tăng trưởng công nghiệp.

+ Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiêu thụ sản phẩm.

+ Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và hội nhập

bằng nhiều hình thức thiết thực: hỗ trợ thông tin, tư vân, lập hiệp hội.

+ Hỗ trợ doanh nghiệp hướng tới xử lí chất thải, sản xuất sạch.

88

+ Xây dựng chính sách ưu đãi cho các ngành công nghiệp trọng yếu.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ

phần hoa, bán hoặc cho thuê, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng

nguồn vốn đầu tư, phát triển các ngành CN trọng yếu.

o UTriển khai xây dưng quy hoạch phát triển phân bố các KCNU:

- TP. HCM có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các KCN

và KCX, KCNC, nhưng do quá trình phát triển đô thị, sự mở rộng đô thị, nhiều KCN

đã nằm trong khu vực nội thành có dân cư đông đúc, gây cản trở cho sự phát triển đô

thị. Do vậy, cần nghiên cứu điều chỉnh, bên cạnh việc quy hoạch mở rộng các KCN

mới CCN mới, TP. HCM cần phải quy hoạch di dời các nhà máy xí nghiệp công

nghiệp gây ô nhiễm ra ngoại thành theo hướng sắp xếp vào các CCN.

Phương hướng phát triển KCN của Thành phố là cải tạo nâng cấp, sắp xếp lại

các KCN hiện có và quy hoạch thêm các khu, cụm công nghiệp theo định hướng quy

89

hoạch phát triển CN TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010 tầm nhìn đến năm 2020 theo

Quyết định 188/2004/QĐ-TTg ngày 01/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng

một số khu, CCN địa phương có quy mô nhỏ, công nghiệp sạch gắn với các khu dân

cư. Hướng phát triển chính của CN Thành phố phải đảm bảo phát huy thế mạnh, tạo

động lực phát triển vùng trọng điểm phía Nam, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho cả

khu vực và cả nước. Tăng cường phát triển công nghiệp sạch không gây ô nhiễm môi

trường, có công nghệ hiện đại, với hàm lương khoa học cao, giá trị gia tăng lớn.

3.2.2.Định hướng đầu tư phát triển công nghiệp TP. Hồ Chí Minh

Theo con số tính toán của Viện kinh tế TP. Hồ Chí Minh cho biết, để duy trì tốc

độ tăng trưởng công nghiệp cao khoảng 12,0% /năm đến năm 2010 thì TP. Hồ Chí

Minh cần phải tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư lổn hơn giai đoạn 2001 -2005 và

đạt trung bình 4,5 tỉ USD/năm, cao hơn gần 1 tỉ ƯSD vốn đầu tư mỗi năm. Để tăng

vốn đầu tư, Thành phố cần tổ chức thu hút các nguồn vốn từ khu vực Nhà nước, tư

nhân trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Trong các nguồn vốn, xét về cơ cấu tỉ trọng đầu tư từ ngân sách, vốn ODA và

vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước sẽ giảm đi, ngược lại tỉ trọng đầu tư của khu

90

vực tư nhân (đặc biệt là đầu tư vào sản xuất kinh doanh) và đầu tư trực tiếp cũng như

gián tiếp từ nước ngoài sẽ tăng mạnh nhờ lợi thế thành viên WTO.

Tuy nhiên, cũng theo dự báo của Viện Kinh tế, tỉ trọng nguồn vốn đầu tư vào

ngành công nghiệp Thành phố có xu hướng giảm tỉ trọng từ 45% xuống còn 40% do

các hoạt động dịch vụ của TP. Hồ Chí Minh đã tăng tốc phát triển và cần nhiều vốn

đầu tư hơn. Nhưng, cũng theo tính toán này thì tỉ trọng đầu tư của toàn thành phố so

với GDP tăng nhanh (tỉ lệ đầu tư so với GDP từ 41% giai đoạn năm 2001 -2005 lên

48% giai đoạn 2006 -2010) và so với quy mô ngày càng tăng của GDP thì tổng vốn

đầu tư vào công nghiệp của Thành phố, xét về giá trị tuyệt đối vẫn tăng nhanh. Công

nghiệp thành phố đến năm 2010 và năm 2020 sẽ vẫn là ngành kinh tế trọng yếu nhất

của Thành phô".

3.2.3.Hướng TCLTCN TP. Hồ Chí Minh

Định hướng TCLTCN của Thành phố trong thời gian tới cần chú trọng phát triển

cơ sở hạ tầng, quy hoạch tổng thể mặt bằng diện tích sử dụng trong các KCN, KCX.

Dự kiến đến 2010, đất KCN là 7500 - 7700 ha (chiếm khoảng 3,6% đất tự nhiên), đến

năm 2020: với phương án phát triển bình thường thì đất KCN khoảng 10.000 ha, với

phương án phát triển tăng tốc thì đất KCN sẽ vào khoảng 15.000 ha (chiếm 7,15% đất

tự nhiên), cần đề ra phương hướng đầu tư vốn cho các ngành CN trọng điểm. Di dời

các KCN, Các XN, nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi khu vực nội thành và khu dân cư,

xác định các KCN tiếp nhận các xí nghiệp CN di dời trên cơ sở tạo mối liên hệ kinh tế

kĩ thuật, tạo điều kiện cho các xí nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi cho phát

triển sản xuất. Xây dựng hệ thống giao thông hiện đại xuyên tâm và nối liền với hệ

thống các vành đai đến các cảng nội địa và quốc tế. Thuê chuyên gia trình độ cao,

nhiều kinh nghiệm (kể cả nước ngoài) tham gia tư vấn, thẩm định quy hoạch, dự án.

• Thực hiện di dời:

- Sau 03 năm từ 2003 đến 2005, đã thực hiện di dời 996 cơ sở CN trên tổng số

1398 phải di dời (đạt 71,16 %), và 186 cơ sở xử lí ô nhiễm tại chỗ theo Quyết định

44/2005/QĐ-UB (bảng 2.14). Còn 402 cơ sở tiếp tục di dời, xử lí.

- Hướng đầu tư để tiếp nhận các cơ sở di dời là các KCN có khả năng tiếp nhận :

91

KCN Lê Minh Xuân (17 ha), CCN Lê Minh Xuân của Tổng công ty Nông nghiệp Sài

Gòn (96ha), KCN Tân Phú Trung, KCN An Hạ - huyện Bình Chánh (150 ha). Nghiên

cứu đầu tư mở rộng các KCN để có thể sắp xếp bô" trí lại tất cả các cơ sở CN phải di

dời.

• Các cơ sở SXCN đang hoạt động được đề nghị giữ lại

Theo điều chỉnh quy hoạch của Sở CN TP. HCM là giữ lại là các cơ sở CN,

CCN sạch, ít gây ô nhiễm môi trường. Theo thống kê có 12 CCN ở các quận được đề

nghị giữ lại với 413,93 ha. Với các ngành nghề hoạt động chính là dệt may, cơ khí,

điện tử, Sx giày dép, bao bì...

92

93

• Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN, KCX

o UĐối với KCN mới

- Tăng cường đảm bảo cơ sở hạ tầng KCN, KCX bằng cách thực hiện đấu thầu

dự thay cơ chế xin - cho, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả cao trong xây dựng cơ

sở hạ tầng.

94

- Tăng cường đảm bảo cơ sở hạ tầng KCN, KCX bằng cách thực hiện đấu thầu

dự thay cơ chế xin - cho, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả cao trong xây dựng cơ

sở hạ tầng.

- Xây dựng giá cho thuê đất hợp lí tạo điều kiện cho việc xây dựng các KCN

mới, cũng như khu mở rộng các KCN hiện có, UBND TP. HCM nên ban hành : "hạn

mức giá cho thuê đất các dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN trên

địa bàn Thành phố" để thực hiện chủ trương không thu lợi nhiều từ tiền cho thuê đất,

nhằm khuyến khích thu hút nhiều nhà đầu tư vào KCN làm ăn, phát triển kinh tế rồi

sau đó thu lại bằng thuế, bằng công ăn việc làm của người lao động, bằng sự phát triển

của xuất khẩu...

- Quy định trách nhiệm đối với chủ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các KCN, KCX

đảm bảo không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái của Thành phố. Đảm bảo

điện nước cho sx và sinh hoạt phục vụ cho việc phát triển sản xuất.

- Hướng phân bố các KCN mới tập trung ở các quận, huyện hướng bắc - đông

bắc thành phố như Quận 9, Quận Thủ Đức và tây - tây nam là các huyện Bình Chánh,

Củ Chi, là những quận vừa có diện tích đất rộng có khả năng bố trí các KCN, KCX

mới, vừa có nền địa chất tốt thuận lợi cho việc bố trí nhà máy, xí nghiệp. Ngoài ra,

một hướng phát triển phân bố khá nhiều KCN theo hướng đông nam, nhưng hướng

này rất cần nghiên cứu kĩ lưỡng.

o UĐối với KCN hiện có

- Nâng cấp cơ sở hạ tầng, kĩ thuật nhằm hiện đại hóa trong sản xuất. Tạo điều

kiện thuận lợi cho các KCN có thể mở rộng mặt bằng SXCN theo nhu cầu phát triển

hợp lí.

- Tăng khả năng liên kết kinh tế, kĩ thuật với các KCN, KCX trong Thành phố và

các vùng phụ cận nhằm tăng hiệu quả sx của KCN và sức lan tỏa ảnh hưởng đối với

các KCN khác tạo sức phát triển mạnh cho CN Thành phố.

• Xây dựng cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN, KCX

- Việc tăng cường phát triển sản xuất CN, hình thành các KCN, KCX đồng nghĩa

với việc tăng nhanh nhu cầu vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, tăng nhu cầu điện,

95

nước cho sản xuất công nghiệp. Đặc biệt cần chú trọng phát triển hệ thống giao thông

vận tải cho không chỉ tăng mạng lưới giao thông vận tải cho nội bộ KCN, KCX mà

còn phải tăng cường hệ thống GTVT cho cả bên ngoài KCN, KCX để tạo mối liên kết

giữa các KCN, KCX với nhau, đồng thời tăng cường hệ thống GTVT đối ngoại nhằm

kết nối nền kinh tế Thành phố với các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Phía Nam.

Việc tăng cường cơ sở hạ tầng, đặc biệt chú trọng việc phát triển GTVT nhằm :

- Hoàn thiện mạng lưới đường bộ phục vụ kết nối các đô thị vệ tinh, các KCN,

KCX với nhau và với sân bay, hải cảng.

- Tăng cường vai trò mạng lưới đường sắt, gắn với các tuyến đường sắt quốc gia,

đường sắt đô thị (đường sắt nối nội - ngoại ô, các KCN, KCX, CCN), đặc biệt trong

những năm tới sẽ xây dựng đường tàu điện ngầm).

- Tăng hiệu suất vận tải đường thủy: cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái, cảng Hiệp

Phước, cảng Nhà Bè để tăng khả năng vận chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu cho SX

của TP. HCM và các tỉnh lân cận. Như vậy, vấn đề quy hoạch cơ sở hạ tầng cần chú ý

tạo sự nối kết với hệ thống hạ tầng kĩ thuật với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình

Dương, Đồng Nai của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Chú ý tăng cường cơ sở hạ tầng cho các vùng phía đông bắc (Quận 9 và Thủ

Đức), phía tây - tây bắc (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh) nhằm đảm bảo cho sự phát

triển và thực hiện dự án xây dựng các KCN, KCX, CCN, KCNC trên địa bàn TP. Hồ

Chí Minh.

- Cần phải có quy hoạch triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu vực bên

ngoài các KCN, KCX trong mối liên kết với hạ tầng các CCN, khu dân cư để tạo nên

cơ sở hạ tầng hiện đại cho các đô thị vệ tinh.

• Dự báo nhu cầu sử dụng đất KCN, KCX dựa trên cơ sở xác định :

96

- Xác định vai trò vị trí các KCN, KCX trong phát triển đô thị của TP. Hồ Chí

Minh trong tương lai để có quy hoạch sử dụng đất hợp lí cho các KCN, KCX.

- Tăng khả năng đền bù giải tỏa của doanh nghiệp. Cho phép người dân đóng

góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất giải tỏa để giảm bớt khó khăn thiếu vốn

của các KCN, KCX.

- Xác định điều kiện phân bố có tính đến ảnh hưởng ô nhiễm nguồn nước, hướng

gió, tiếng ồn và bắt buộc phải tính đến hệ thống xử lí chất thải đạt tiêu chuẩn.

- Khả năng kết nối với vùng phụ cận và các tỉnh trong việc hình thành các tiểu

vùng công nghiệp trên cơ sở điều kiện giao thông nối liền mạch, tạo sự hình thành

vùng công nghiệp tầm cỡ khu vực và châu Á. Khoảng sau năm 2020, ước tính nhu cầu

đất cho KCN lên đến 15000 ha, chiếm 7,15% đất tự nhiên và chủ yếu hướng vào công

nghiệp sạch.

97

3.3.Giải pháp phát triển KCN, KCX, KCNC, CCN

3.3.1.Các giải pháp

• Giải pháp vĩ mô

o UTổ chức quản lí

Trên cơ sở xác định rõ vai trò, vị trí chiến lược của KCN, KCX trong công cuộc

CNH, HĐH nền kinh tế TP. HCM, cần xem việc xây dựng và phát triển hệ thống các

KCN, KCX trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh là rường cột của nền kinh tế, một trong

những nhiệm vụ trọng điểm chiến lược, có tính cấp thiết và lâu dài. Nền kinh tế phát

triển không thể dựa vào cơ sở của nền công nghiệp yếu kém, và cũng không thể chỉ

dựa vào các dịch vụ du lịch để phát triển bền vững. Vì vậy, KCN, KCX sẽ là mô hình

tiên tiến nhất trong TCSXCN, góp phần quan trọng vào công cuộc CNH, HĐH của

Thành phố. Đây chính là nơi tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất và lượng, tiến tiến

về công nghệ, trực tiếp tác động hỗ trợ và thúc đẩy phát triển SXCN, đồng thời thúc

đẩy các lĩnh vực khác của kinh tế - xã hội Thành phố phát triển, thúc đẩy sự mở rộng

thị trường và hợp tác kinh tế giữa TP. HCM với các vùng trong nước và với quốc tế,

góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chỉnh trang và phát triển đô thị công nghiệp -

dịch vụ, đô thị mới hiện đại trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

Chính phủ đã ban hành Quy chế KCN, Quy chế khu công nghệ kĩ thuật cao kèm

theo Nghị định 36/CP, Nghị định 51/CP về đầu tư xây dựng... các luật lệ và chính

sách sẽ được điều chỉnh ngay để phù hợp với những quy định, ràng buộc của WTO.

Những điều đó đều có những ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống KCN, KCX trên địa

bàn TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn đến năm 2010 - 2020.

o UThực hiện cụ thể

+ Thực hiện và chỉnh sửa Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư,

Luật đất đai, Luật đầu tư xây dựng ... Để đảm bảo cho hệ thống các KCN, KCX,

KCNC, CCN, phát triển mạnh.

+ Tiếp tục triển khai nhanh các chương trình mục tiêu phát triển các ngành công

nghiệp chủ lực và phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố. Tập

trung vốn Nhà nước và kêu gọi đầu tư từ các thành phần kinh tế tham gia vào các dự

98

án công nghiệp trọng điểm, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao. Chú trọng

tạo chính sách và cơ chế để phát triển các ngành công nghiệp sạch và công nghiệp tiêu

thụ ít năng lượng

+ Đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch các ngành cơ khí, điện tử - công nghệ

thông tin, hoá chất để sớm đưa vào thực hiện thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp

thành phố theo đúng định hướng đã quy hoạch, tránh tình trạng phát triển các ngành

theo hướng tự phát.

+ Tiến hành xây dựng chính sách tài chính đặc thù cho ngành công nghiệp thành

phố Hồ Chí Minh. Rà soát chính sách và cơ chế hoạt động, về quỹ đất và giá cho thuê

đất của các KCN, KCX để nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút mạnh mẽ đầu tư trong

nước và nước ngoài.

Đẩy mạnh chương trình di dời kết hợp với hiện đại hoá trang thiết bị công nghệ

lạc hậu gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy xí nghiệp và di dời vào nơi quy

hoạch. Nhanh chóng khắc phục những trở ngại trong việc di dời các doanh nghiệp gây

ô nhiễm, bố trí đủ mặt bằng (các KCN, CCN) và thực hiện chính sách khuyến khích

các doanh nghiệp di dời.

Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để đáp ứng nhu cầu

trong nước, đặc biệt là sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Đối

với các ngành chủ yếu như: dệt may, cơ khí, điện - điện tử, hoá chất. Phát triển các sản

phẩm công nghệ cao sử dụng năng lượng Mặt Trời vào đời sống hàng ngày như thiết

bị pin mặt trời, điện mặt trời, nhiệt mặt trời. Để làm những điều đó đòi hỏi môi trường

đầu tư hấp dẫn, thuận lợi, đặc biệt là chính sách kêu gọi đầu tư và hình thức, phương

pháp tổ chức kêu gọi đầu tư rộng khắp.

Thành phố cần thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm để khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tư vào các ngành nghề có độ rủi ro cao nhưng đồng thời cũng mang lại lợi

ít lớn.

Thực hiện các chương trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, nâng cao chất

lượng tăng trưởng theo hướng ưu tiên và tập trung phát triển các ngành công nghiệp

có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh, bao gồm các giải pháp :

99

+ Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công nghiệp.

+ Đánh giá chất lương tăng trưởng công nghiệp.

+ Tổng hợp nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực theo nhu

cầu, tổ chức nhiều hình thức đào tạo trong và ngoài nước.

+ Khảo sát, đánh giá năng lực cạnh tranh, tiếp thị, quảng cáo sản phẩm, xúc tiến

thương mại, duy trì và mở rộng thị trường.

+ Phổ biến và giám sát về pháp luật cho doanh nghiệp, nhất là luật lệ WTO.

+ Cung cấp thông tin theo chuyên đề sản phẩm về giá, nhu cầu, thị trường, dự

báo,...

+ Thực hiện công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại.

+ Khảo sát thực trạng quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu, chính sách ưu đãi phát

triển công nghiệp của một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,

Singapore, Malaysia... để luôn điều chỉnh môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch,

hấp dẫn hơn các nước khác.

o UGiải pháp hỗ trợ doanh nghiệpU :

Tiếp tục triển khai Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực

của thành phố và Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tăng năng suất, chất lượng và hội

nhập, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển sản

xuất - kinh doanh, hỗ trợ xây dựng chất lượng, thương hiệu và tăng năng lực cạnh

tranh.

Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, có kế hoạch đào tạo nhân

tài. Mặt khác, cần nghiên cứu để sớm hình thành các trung tâm đào tạo nghề nghiệp

cao cấp nhằm đào tạo những ngành nghề cần phải đầu tư lớn, yêu cầu kĩ thuật cao,

ngành nghề mang tính đặc thù của nền kinh tế tri thức.

Thực hiện chương trình cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, các doanh nghiệp

công nghiệp về ngành như hiệu quả hoạt động, tình hình biến động, khó khăn, thuận

lợi, chính sách líu đãi...

o UGiải pháp tổ chức quy hoạch lãnh thổU:

100

Quy hoạch phát triển KCN, KCX của TP. HCM phải phù hợp với chiến lược

phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, phát triển công nghiệp, phân bố dân cư thành

phố, của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời kì công nghiệp hoa, hiện đại

hoá ; có mối quan hệ hợp tác và phân công hài hoa với các KCN của các tỉnh lân cận

trong một thể thống nhất. Từng bước di dời các cơ sở công nghiệp không còn thích

hợp với nội thành ra các KCN tập trung ở ngoại vi TP. HCM hoặc KCN của các tỉnh

trong vùng kinh tế trọng điểm trong sự phối hợp phân công phát triển các ngành công

nghiệp giữa các tỉnh trong vùng. Phát triển công nghiệp phải đảm bảo môi trường bền

vững.

Quy hoạch các KCN, CCN nhằm di dời hoặc phát triển các loại xí nghiệp, cơ sở

sản xuất gây ô nhiễm của TP. HCM đến hạ lưu sông Sài Gòn, không để khu vực dân

cư bị ô nhiễm nguồn nước và không khí. cần phối hợp với các tỉnh trong vùng kinh tế

trọng điểm trong việc quy hoạch các KCN có mức độ ô nhiễm chung cho toàn vùng.

Việc quy hoạch các KCN mới hoặc mở rộng các KCN hiện hữu phải có sự tham

gia ý kiến của nhân dân địa phương tại khu vực quy hoạch (nhất là dân đã qua nhiều

thế hệ, sống định cư) để bảo đảm hài hoa lợi ích xã hội của người dân, của doanh

nghiệp đầu tư phát triển, kinh doanh hạ tầng KCN. Khắc phục tình trạng coi trọng lợi

ích của doanh nghiệp hơn lợi ích của người dân trong quy hoạch KCN, có thể động

viên người dân tham cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất.

Xây dựng quan điểm, nhận thức thống nhất từ lãnh đạo Thành phố đến các Sở

ngành, quận huyện về vị trí chiến lược của KCN, KCX trong công cuộc CNH, HĐH

nền kinh tế Thành phố đến năm 2020, góp phần quan trọng trong hội nhập quốc tế.

Đánh giá mức độ thực hiện quy hoạch KCN, KCX đã được Chính phủ phê

duyệt. Trên cơ sở đó, điều chỉnh lại công tác tổ chức quy hoạch, phát triển KCN, KCX

trên địa bàn một cách căn bản, nhằm phát huy được những kết quả và khắc phục được

những yếu kém của công tác quy hoạch trong thời gian qua, tiến tới khắc phục tình

trạng chia cắt địa giới hành chính trong quy hoạch phát triển KCN, KCX và gắn kết

được với quy hoạch phát triển KCN các tỉnh trong VKTTĐPN trong sự phân công,

hợp tác chung, đảm bảo được lợi ích hài hoà của cả vùng kinh tế trọng điểm và lợi ích

của từng địa phương trong vùng.

101

Điều chỉnh quy hoạch KCN còn nhằm tạo điều kiện nâng chất lượng của từng

KCN, KCX của cả hệ thống các KCN, KCX, tạo tiền đề hình thành những tiểu vùng

công nghiệp, những đô thị mới trên địa bàn TP. và cả trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam ; điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng nâng chất lượng công nghệ, sản phẩm

và chất lượng lao động trong các KCN của Thành phố. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện

cơ sở hạ tầng trong và ngoài các KCN, KCX và những vấn đề liên quan để cải thiện

mội trường đầu tư vào các KCN, KCX.

Khắc phục tình trạng "quy hoạch treo" KCN và phát triển tự phát của cơ sở sản

xuất công nghiệp ở Thành phố trong thời gian qua. Nhằm xây dựng và phát triển các

KCN, KCX ngày càng hoàn thiện hơn, thì Ưỷ ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh không

những chủ động đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn vai trò chủ đạo của

mình, mà còn chú ý hơn đền quyền lợi và trách nhiệm của những quận, huyện có

KCN, KCX trên địa bàn của mình. Phân bổ lại các nguồn thu ngân sách từ KCN cho

quận, huyện có KCN, KCX để các địa phương này đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ

thống hạ tầng KT- XH bên ngoài các KCN, KCX.

• Giải pháp vi mô về TCLTCN

Chấn chỉnh, xem xét tổ chức phối hợp, điều hành giữa Thành phố, quận, huyện

trong đền bù, giải tỏa mặt bằng. Thực hiện vận động quần chúng trong diện di dời,

động viên nhằm nâng cao trách nhiệm trong công tác giải toa đền bù.

Đối với các KCN mới thành lập, để lại toàn bộ nguồn thu từ tiền thuê đất của các

công ti phát triển hạ tầng KCN cho Ngân sách quận, huyện có KCN, KCX.

Để lại 100% các nguồn thu ngân sách từ KCN trong vòng 5 năm đầu và 50%

trong 5 năm tiếp theo (các loại thuế, lệ phí) cho địa phương có KCN.

Bố trí nguồn kinh phí về đào tạo lao động, về giãn dân, về nhập cư để xây dựng

các tiểu đô thị mới cho các địa phương có KCN, KCX trên cơ sở được quy hoạch.

Đối với những KCN, KCX đã có quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ,

nhưng chủ đầu tư không triển khai, để tình trạng "quy hoạch treo", UBND Thành phố

cũng cần kiên quyết phạt công ti chủ đầu tư hạ tầng KCN, KCX và đề nghị Chính phủ

thu hồi giấy phép đầu tư để đâu thầu giao cho đơn vị khác thực hiện dự án.

102

Sau khi đã ban hành các điều kiện tiêu chuẩn KCN tương đương tiêu chuẩn

KCN khư vực châu Á, nếu trong thời hạn quy định mà chủ đầu tư phát triển hạ tầng

KCN không thực hiện đạt các tiêu chuẩn của dự án thì phải có biện pháp chế tài đối

với công ti chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN.

3.3.2.Đề xuất và kiến nghị

Thực hiện cơ chế "một giá", "một khung chính sách ưu đãi" cho doanh nghiệp

trong nước, ngoài nước đầu tư vào KCN, KCX.

Tăng thời gian miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp

đầu tư xây nhà ở cho công nhân ở bên ngoài KCN.

Kiến nghị UBND TP. Hồ Chí Minh ban hành bổ sung các chính sách ưu đãi cụ

thể đối với doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đầu tư các ngành sản xuất mà Thành

phố khuyến khích phát triển ương giai đoạn 2010 và 2020 vào các KCN. Công bố

rộng rãi danh sách các ngành khuyến khích đầu tư phát triển.

Kiến nghị UBND TP. Hồ Chí Minh ban hành các chính sách líu đãi, hỗ trợ cụ

thể đối với doanh nghiệp đầu tư ra các tỉnh trong VKTTĐPN và các tỉnh khác đến

năm 2010 và 2020.

Áp dụng chương trình AICO - là chương trình hợp tác giữa các nhà công nghiệp

các nước ASEAN không đánh thuế linh kiện để hoàn chỉnh sản phẩm nhằm hạ giá

thành để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới - Chủ yếu áp dụng đối với các

dự án đầu tư vào KCN để sản xuất sản phẩm phụ trợ cho sản xuất công nghiệp nhằm

thay thế hàng nhập khẩu.

Đề nghị Chính phủ cho các KCN TP. Hồ Chí Minh thí điểm cấp giấy phép đầu

tư cho một số dự án đầu tư nước ngoài chuyên làm Thương mại quốc tế để cung ứng

thiết bị máy móc, nguyên, phụ liệu cho các doanh nghiệp trong và ngoài KCN, đồng

thời mua bán các sản phẩm của các xí nghiệp trong KCN.

Kiến nghị Chính phủ chủ trì, để các địa phương trong VKTTĐPN thống nhất

xoá bỏ chính sách ưu đãi khác nhau đối với các KCN có điều kiện tương ứng như

nhau trong cùng một khu vực nhưng nằm trên hai địa phương khác nhau như các KCN

tại khu vực : Thủ Đức (TP. Hồ Chí Minh) với các KCN Sóng Thần, Đồng An...(Bình

103

Dương); các KCN tại khu vực Bình Chánh (TP. Hồ Chí Minh) với Đức Hoà (Long

An); tại khu vực Hiệp Phước (TP. Hồ Chí Minh) với Cần Giuộc (Long An).

Cần có chính sách khuyến khích những tập đoàn lớn đa quốc gia đầu tư các vào

KCN hoặc tự xây dựng những KCN mới trong phần đất quy hoạch dự trữ.

Mở rộng phạm vi thực hiện quản lí Nhà nước các KCN, KCX theo cơ chế "một

cửa tại chỗ" với các nội dung sau :

Giao Ban quản lí HEPZA làm đầu mối giúp UBND TP. HCM chủ trì tổ chức

thực hiện và quản lí Nhà nước về quy hoạch hệ thống KCN, KCX đã được phê duyệt

trên địa bàn Thành phố : về quỹ đất; về tổ chức triển khai các KCN, KCX; về xây

dựng hạ tầng đồng bộ ngoài KCN, KCX ...

Hình thành một công ty công ích xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX trực thuộc

Ban quản lí KCN để hoạt động tích cực trong việc xây dựng hạ tầng trong và ngoài

KCN, KCX, đồng thời tác động bình ổn thị trường giá cả các KCN, KCX trên địa bàn

TP. Hồ Chí Minh.

Kiến nghị Ban quản lí các KCN, KCX hoàn thiện hệ thông email, westsite của

từng khu. Giúp các nhà đầu tư và các cấp ngành dễ dàng tìm hiểu, quản lí, thông tin.

Kiện toàn tổ chức của Ban quản lí KCN theo hướng : bổ sung một số Sở ngành

có liên quan làm Uỷ viên của Ban quản lí thay thế các ưỷ viên do các Sở ngành đã cử

trước đây - nay đã nghỉ hoặc hầu như không còn hoạt động, để đảm bảo tính chặt chẽ

trong việc phối hợp thực hiện quản lí Nhà nước hoạt động của các KCN, KCX trên địa

bàn (thay vì Ban quản lí thoa thuận quy chế phối hợp với từng Sở ngành chức năng).

Các Uỷ viên Ban quản lí có thể là đại diện của các Sở ngành sau : kế hoạch - đầu tư,

tài chính, thương mại, lao động, ngân hàng Nhà nước Thành phố, công an, hải quan

Thành phố, tài nguyên - môi trường, khoa học - công nghệ, chuyên gia tư vấn chuyên

nghiệp trình độ cao có nhiều kinh nghiệm.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sớm ban hành quy chế về tiền vay, tiền nợ theo

hướng tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau :

- Việc bảo đảm tiền vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được

thực hiện theo những quy định hiện hành như đối với các doanh nghiệp trong nước.

104

- Việc đăng kí giao dịch bảo đảm có yếu tố nước ngoài cần được quy định cụ thể

về điều kiện của cá nhân, pháp nhân, về tài sản, về trình tự, thủ tục đăng kí.

- Về các hình thức bảo lãnh của cá nhân, pháp nhân nước ngoài trước hết có thể

bằng hình thức bảo lãnh của Ngân hàng ở nước ngoài, công ty mẹ ở nước ngoài.

- Mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ đối với các công ty đầu tư xây dựng hạ

tầng trong KCN - KCX trên cơ sở nguồn thu ngoại tệ của các công ty này là tiền thuê

đất, nhà xưởng của các công yi 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh.

- Trong giải pháp mở rộng và tăng cường tín dụng có hiệu quả, các Ngân hàng

thương mại có thể áp dụng mô hình cho công ti xây dựng hạ tầng vay vốn xây dựng

nhà xưởng theo yêu cầu của doanh nghiệp theo phương thức cho thuê - trả chậm.

105

KẾT LUẬN

Về lí luận

Trên cơ sở lí luận về TCLTCN, điều cần nhấn mạnh là tổ chức không gian lãnh

thổ 3 chiều và chiều thứ thứ chính là chiều biến thiên của thời gian. Nếu TCLTCN

không chú ý đến chiều biến thiên của thời gian thì TCLT sẽ dễ bị lạc hậu nhanh, hiệu

quả kinh tế - xã hội và môi trường không đồng bộ và nguy cơ phát triển, phân bố công

nghiệp bất hợp lí cao, dẫn đến phát triển không bền vững. Quy hoạch phát triển CN và

TCLTCN lẽ ra phải tiên phong đi trước thời gian, thì ngược lại phải chạy theo đuôi cái

hiện hữu nên thường phải điều chỉnh, chắp vá, đôi khi bắt buộc phải xây dựng lại hoặc

di dời gây lãng phí tốn kém. Như vậy, việc nhấn mạnh chiều thời gian trong TCLTCN

chính là một phần của chiếc cầu đi tắt, đón đầu trong chiến lược phát triển và phân bố

nền công nghiệp HĐH gắn với kinh tế tri thức, gắn với phát triển bền vững, không

xem nhẹ lợi ích nào trong cả 3 lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường.

Lí luận TCLTCN trước đây chỉ chú ý đến vấn đề lợi ích kinh tế theo hướng cực

tiểu hoa chi phí và cực đại hoa hiệu quả, thường xem nhẹ hiệu quả xã hội và môi

trường, nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng, khó có thuốc chữa tận

gốc. Ngày nay, trên quan điểm phát triển bền vững, không làm thiệt hại ảnh hưởng

đến các thế hệ tương lai, người ta rất quan tâm đến chiều biến thiên thời gian ương

TCLTCN. Mặt khác, khi người ta tiến hành TCLTCN ở vùng này thì cũng rất quan

tâm đến các vùng khác kế cận, nhằm đảm bảo tính đồng bộ, liên thông nhau bằng các

mối liên kết cùng phát triển, không ngăn cản, vùi dập nhau. TCLTCN mà không đi

trước một bước, không chú ý đúng mức chiều thời gian thì thông thường dẫn đến

nhiều hậu quả tai hại như mới hình thành đã thấy lạc hậu, mới hình thành đã thấy bất

hợp lí cần phải thay đổi,... nhiều KCN, KCX gây ô nhiễm môi trường mà sau đó khó

lòng khắc phục, xử lí triệt để những ô nhiễm đó.

Về thực trạng TCLTCN TP. HCM

Tổ chức lãnh thổ công nghiệp non trẻ, mới bước đầu phát triển, còn thể hiện

nhiều vấn đề bất cập trong tiến trình tổ chức sắp xếp, phân bố lại SXCN theo các định

106

hướng và quy hoạch, hướng tới sự hợp lí và hiệu quả. Song, thực trạng còn thể hiện

nhiều bất cập rất đáng quan tâm. Những điều quan tâm sâu sắc có thể rút ra sau đây :

• Tốc độ tăng trưởng GTSXCN của Thành phố thấp hơn cả nước và phần còn lại

của VKTTĐPN. Tốc độ phát triển đang theo chiều hướng giảm .

• CN tập trung chủ yếu vào các ngành sử dụng nhiều lao động (như thực phẩm,

dệt, may, da giày), chứng tỏ công nghiệp đang phát triển theo chiều rộng là chủ yếu.

• Tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp chủ lực không ổn định và cũng

theo chiều hướng giảm tốc độ tăng trưởng.

• Các ngành sử dụng nhiều lao động có năng suất lao động rất thấp so với mức

bình quân toàn toàn ngành của Thành phố ( như dệt, may chỉ bằng 0,42% so với mức

bình quân là 100%).

• Tỉ lệ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ cao nhất là khu vực ngoài Nhà nước và khu

vực có vốn đầu tư nước ngoài rất đáng báo động. Điều này cần nghiên cứu đánh giá

một cách kĩ lưỡng để làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Trong xu thế hội

nhập, vấn đề cấp thiết phải tiến hành HĐH công nghiệp để tăng sức cạnh tranh của

CN TP. HCM. Do đó, cần định hướng tập trung vào các ngành công nghiệp có hàm

lượng khoa học cao.

• TCLTCN TP. HCM mới hình thành, đang trên đà hoàn thiện. Hướng phát triển

lan tỏa theo vành đai hướng đông bắc, bắc, tây bắc và tây nam cùng với hệ thống giao

thông quy hoạch hiện đại. Mặt khác, phải hết sức thận trọng khi phát triển xuống phía

đông nam của Thành phố vì đây là vùng cửa sông đất thấp có nguy cơ ảnh hưởng lớn

đến môi trường và những khó khăn trong đầu tư xây dựng...

• TCLTCN TP. HCM cần phát triển lan tỏa, kết nối tạo thế liên hoàn với vùng

phụ cận của các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tây Ninh, tạo thành lãnh thổ

công nghiệp và tạo nên nhiều đô thị vệ tinh.

• Trong tương lai CN TP. HCM phát triển mạnh mẽ, nhưng với không gian hạn

hẹp của Thành phố sẽ là yếu tố cản trở khả năng phát triển CN TP. HCM. Do đó,

SXCN TP. HCM sẽ phát triển lan tỏa vượt khỏi giới hạn hành chính, nên cần có sự tổ

chức phối hợp nhịp nhàng trong TCLTSXCN giữa TP. HCM với các tỉnh thành lân

107

cận để trở thành vùng CN phát triển năng động, hiệu quả cao.

TP. Hồ Chí Minh cần thực hiện chiến lược "đi tắt đón đầu" trong TCLTCN, trên

cơ sở tạo sự chuyển dịch cơ cấu CN từ hướng phát triển theo chiều rộng, sang chiều

sâu. Qua 15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX và KCNC TP.HCM đã tạo ra

các sản phẩm có chất lượng thay thế hàng nhập khẩu, tăng hàng hoa xuất khẩu, nâng

cao đời sống nhân dân, góp phần tăng trưởng nền kinh tế, ổn định xã hội. TP.HCM

cần TCLTCN khoa học, hợp lí, nhằm phát huy có hiệu quả cao trên cả 3 phương diện

kinh tế - xã hội và môi trường để đưa TP. Hồ Chí Minh phát triển thành một trong

những thành phố lớn có sức mạnh về CN, về thương mại dịch vụ của khu vực và thế

giới, đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản thành quốc gia CN có trình độ tiên tiến.

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Ban quản lí các khu công nghiệp - khu chế xuất Thành phố Hồ Chí Minh -

HEPZA, (2002), Kỷ yếu 10 năm phát triển và quản lý các KCN, KCX thành phố Hồ

Chí Minh 1992 - 2002, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.UKS. Lê Văn Be,U (1995), Phát triển công nghiệp nhỏ và vừa ở ngoại thành

TP.HCM, Viện Kinh tế, Ủy ban ND TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM 1995.

3.Bộ Kế hoạch và đầu tư (7/2006), Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát

triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.

4.Bộ Kế hoạch và đầu tư, Kỉ yếu hội nghị - hội thảo quốc gia (7/2006), 15 năm

xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.

5.Bộ Kế hoạch và đầu tư, Trung tâm nghiên cứu miền Nam, (2002), Dự án phát

triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, TP. Hồ Chí Minh.

6.Bộ Kế hoạch và đầu tư, Trung tâm nghiên cứu miền Nam, (2002), Khu công

nghiệp và khu chế xuất ở các tỉnh phía Nam, TP. Hồ Chí Minh.

7.Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX 02 (2003), báo cáo

khoa học tại hội thảo "Chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu vùng kinh tế, thực trạng

và vấn đề phương hướng", Hà Nội, ngày 8/6/2003.

8.Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh

năm 2002, 2004, 2005. NXB Thống kê, TP. Hồ Chí Minh.

9.Mai Ngọc Cường, (1993), Các khu chế xuất châu Ả - Thái Bình Dương và Việt

Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

10.TS.Trần Du Lịch, UBND TP.Hồ Chí Minh : Viện Kinh tế - Ban QL các

KCN và KCX- Viện Quy hoạch xây dựng TP. HCM (2- 2004), Báo cáo tổng hợp :

các KCN tập trung, các cụm CN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, thực trạng và kiến

nghị điều chỉnh, UBND TP. Hồ Chí Minh : Viện kinh tế - Ban QL các KCN và KCX -

Viện Quy hoạch xây dưng TP. HCM tháng 2/2004.

11.TS. Trần Du Lịch, PGS. TS Đặng Văn Phan (2004) chủ nhiệm đề tài, Định

hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía

109

Nam, UBND TP. Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế.

12.PGS.TS. Phạm Xuân Hậu, (2004), Địa lý kinh tế- xã hội Việt Nam, tập 2 -

NXB ĐHSP, TP. Hồ Chí Minh.

13.PGS. TS. Phạm Xuân Hậu, (9/2006), Tạp chí khoa học - ĐHSP-TP. Hồ Chí

Minh, Hiện trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp Việt

Nam thời kì công nghiệp hoá và hiện đại hoá.

14.PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng, PGS. TS. Phạm Xuân Hậu, TS. Phạm Thị

Xuân Thọ (1997), Địa lý kinh tế- xã hội đại cương - NXB ĐHSP, TP. Hồ Chí Minh.

15.ThS. Lê Thị Hường, (tháng 5/2004), "Các khu công nghiệp, khu chế xuất

Việt Nam - Hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển", đề tài nghiên cứu cấp Bộ.

16.PGS. TS. Đặng Văn Phan, PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng, (2002), Tổ chức

lãnh thổ, ĐHSP TP. HCM.

17.PGS. TS. Đặng Văn Phan, PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng, (2006), Địa lí kinh

tế- xã hội Việt Nam thời kì hội nhập, NXBGD.

18.PGS. TS. Lê Thông, PGS. TS. Nguyễn Minh Tuệ, (2000), Tổ chức lãnh thổ

cổng nghiệp Việt Nam, NXBGD.

19.TS. Trần Văn Thông,(10/2003), Địa lý kinh tế Việt Nam, NXB Thống kê, Hà

Nội.

20.GS. TS. Nguyễn Viết Thịnh - PGS. TS. Đỗ Thị Minh Đức, (năm 2003),

Giáo trình Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam, NXBGD.

21.Nguyễn Minh Tuệ - Nguyễn Viết Thịnh - Lê Thông (2005), Địa lí Kinh tế

xã hội đại cương, NXB ĐHSP Hà Nội.

22.TS. Nguyễn Đức Tuấn (2000), Địa lí kinh tế học, NXB Thống kê, 2000.

23.Sở Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (2006), Báo cáo tổng kết năm 2005 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2006 ngành công nghiệp TP. HCM

24.UBND TP. Hồ Chí Minh (10/1996), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã

hội TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010.

110

25.UBND TP. Hồ Chí Minh (3/2000), Điều chỉnh quy hoạch kinh tế xã hội TP.

Hồ Chí Minh đến năm 2010.

26.UBND TP. Hồ Chí Minh (2004), "Những giải pháp và biện pháp để xây

dựng và phát triển TP. Hồ Chí Minh theo quy hoạch", Tạp chí Sài Gòn đầu tư và xây

dựng, số tháng 6/2004.

27.Các WEBSITE :

- www.geogle.com

- www.vinaseek.com

- www.tantaocitv. com.vn

- www.HEPZA.com.vn

- www.tuoitre.com.vn.

- www.congnghiephochiminh.gov.vn

111

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: CÁC CCN, KCN ĐANG HOẠT ĐỘNG ĐỀ NGHỊ GIỮ LẠI

112

PHỤ LỤC 2: CÁC KCN ĐỀ NGHỊ PHÁT TRIỂN ĐẾN 2020

PHỤ LỤC 3 : DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ TP. HỒ CHÍ MINH

113

PHỤ LỤC 4 : THÔNG KÊ LAO ĐỘNG

This image cannot currently be displayed.

114

PHỤ LỤC 5 : DÂN SỐ VÀ BIÊN ĐỘNG DÂN SỐ NAM, NỮ TP. HCM

115

This image cannot currently be displayed.

116

117

118

This image cannot currently be displayed.

119