ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
ĐỒNG THỊ HUỆ
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
Ở TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
ĐỒNG THỊ HUỆ
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
Ở TỈNH QUẢNG NINH
CChhuuyyêênn nnggàànnhh:: DDuu llịịcchh
((CChhưươơnngg ttrrììnnhh đđààoo ttạạoo tthhíí đđiiểểmm))
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
NNGGƯƯỜỜII HHƯƯỚỚNNGG DDẪẪNN KKHHOOAA HHỌỌCC:: GGSS.. TTSS.. LLÊÊ CCHHÍÍ QQUUẾẾ
Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................ 2
3.Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................ 3
4.Nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu ......................................................................... 3
5. Phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 4
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 5
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 5
NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .... 6
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................... 6
1.1.1.Khái niệm du lịch văn hóa ........................................................................... 6
1.1.2.. Tài nguyên du lịch văn hóa: ...................................................................... 7
1.1.3. Khái niệm về sản phẩm du lịch: ................................................................. 8
1.1.5. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của du lịch: ........................................................ 10
1.1.6. Nguồn nhân lực du lịch: ........................................................................... 11
1.1.7. Điểm đến du lịch văn hóa: ........................................................................ 11
1.1.8. Thị trường du lịch văn hóa: ...................................................................... 12
1.1.9. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa ............................................................. 13
1.2. Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch văn hóa ..... 15
1.2.1. Những bài học kinh nghiệm trong nước ................................................... 15
1.2.2. Những bài học kinh nghiệm nước ngoài .................................................. 18
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................ 23
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA Ở TỈNH
QUẢNG NINH ........................................................................................................ 24
2.1.Giới thiệu tổng quan về tỉnh Quảng Ninh. .................................................. 24
2.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................ 25
2.1.2. Địa hình. ................................................................................................... 25
2.1.3. Khí hậu ..................................................................................................... 26
2.1.4. Sông ngòi và chế độ thủy văn ................................................................... 26
2.1.8. Tiềm năng phát triển du lịch .................................................................... 29
2.2. Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh ...................... 43
2.2.1. Khái quát hoạt động du lịch ở Quảng Ninh ............................................. 43
2.2.2.Sản phẩm du lịch ....................................................................................... 46
2.2.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật .............................................................................. 71
2.2.4.Cơ sở hạ tầng ............................................................................................ 79
2.2.5. Nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch .................................................... 83
2.2.6.Hoạt động quản lý du lịch ......................................................................... 86
2.2.7. Đánh giá hoạt động du lịch lịch văn hóa của tỉnh Quảng Ninh .............. 91
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 93
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA Ở
TỈNH QUẢNG NINH ............................................................................................. 95
3.1. Những căn cứ đề xuất giải pháp .................................................................. 95
3.1.1 Chủ trương chính sách nhà nước .............................................................. 95
3.1.2 Định hướng, chiến lược phát triển của tỉnh .............................................. 96
3.2.Giải pháp về sản phẩm du lịch ..................................................................... 97
3.2.1. Xây dựng sản phẩm đặc trưng ................................................................. 97
3.2.2. Giải pháp chung ..................................................................................... 100
3.3.Lập bản đồ địa chỉ khu du lịch đƣa khách tham quan đến ..................... 101
3.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch .......................... 101
3.4.1. Hệ thống giao thông ............................................................................... 101
3.4.2. Hệ thống cơ sở ăn uống, lưu trú ............................................................. 102
3.4.3. Đầu tư các cơ sở vui chơi, giải trí .......................................................... 103
3.5. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lƣợng cao cho du lịch ........ 104
3.5.1. Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về du lịch văn hóa ........................... 104
3.5.2. Nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du lịch ............................. 105
3.5.3. Nguồn nhân lực ở địa phương ................................................................ 105
3.5.4. Các cơ sở đào tạo du lịch ....................................................................... 106
3.6. Xúc tiến, quảng bá và quản lý nhà nƣớc cho hoạt động du lịch ............ 108
3.6.1. Hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch ............................................... 108
3.6.2. Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch ................................................. 110
3.7. Thu hút, tìm kiếm nguồn vốn đầu tƣ ở trong nƣớc và nƣớc ngoài cho các
dự án phát triển du lịch. .................................................................................... 115
Tiểu kết chƣơng 3. ............................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 120
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 131
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
EU European Union
(Liên minh Châu Âu)
ICOMOS International Council on Monuments & Sites
(Hội đồng Quốc tế các di chỉ và di tích)
KDT Khu di tích
NXB Nhà xuất bản
UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization
(Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc)
UNWTO United Nation World Tourism Organization
(Tổ chức du lịch thế giới)
UBND Ủy ban nhân dân
VHTTDL Văn hóa, Thể thao và Du lịch
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê hiện tại về các cơ sở khách sạn theo cấp hạng sao ................... 73
Bảng 2.2. Hệ thống cấp thoát nước tại tỉnh Quảng Ninh .......................................... 81
Bảng 2.3. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013 .......................................... 83
Bảng 2.4. Trình độ học vấn của nhân viên khách sạn tại Hạ Long .......................... 84
Bảng 2.5. Trình độ kỹ năng cần thiết tính đến năm 2020 ......................................... 85
Bảng 2.6. Số lượng khách du lịch tham quan Yên Tử trong 5 năm qua ................... 59
Bảng 2.7. Mức tăng doanh thu du lịch, hiện tại và đến năm 2020............................ 44
Bảng 2.8. Thu nhập từ khách du lịch trong 5 năm qua ............................................. 45
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển vì đem lại giá trị
lớn cho cộng đồng xã hội. Du lịch văn hóa đang là sự lựa chọn của các nước đang
phát triển. Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám
chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... gần đây du lịch văn hóa được xem
là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch
quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội
truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với
khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích
nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là
cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với
địa phương - nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo.
Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để
tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia
du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân
địa phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển
phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà
thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những
nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng
kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. "Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều
nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt
động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của
ngành du lịch Việt Nam".
Tỉnh Quảng Ninh là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển các loại hình
du lịch nói chung và phát triển hoạt động du lịch văn hóa nói riêng, nhưng hiện tại
hoạt động khai thác, sử dụng và phát triển du lịch văn hóa ở tỉnh này chưa được đầu
tư, chú trọng và chưa thực sự phát triển, chưa khai thác hết nguồn tài nguyên du lịch
văn hóa để phục vụ cho sự phát triển loại hình du lịch văn hóa gây lãng phí nguồn
1
tài nguyên, làm lãng phí nguồn nhân lực lao động, làm giảm nguồn thu ngân sách
cho tỉnh nói riêng và cho ngành du lịch nói chung. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài này
để nghiên cứu nhằm đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa cho tỉnh
Quảng Ninh.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Giáo trình “du lịch văn hóa những vấn đề lý luận và nghiệp vụ” do PGS.TS
Trần Thúy Anh chủ biên, là nguồn tài liệu cung cấp những vấn đề lý luận quan
trọng và thực tiễn được đúc rút từ kinh nghiệm của hoạt động văn hóa. Tài liệu này
giúp tác giả luận văn có cách nhìn từ góc độ du lịch văn hóa để tiếp cận hướng
nghiên cứu của mình [1].
Bộ “Địa chí Quảng Ninh” của Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
xuất bản năm 2003 đã cung cấp một cách tổng hợp, khái quát về vị trí địa lý – lịch
sử, kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Tài liệu này giúp tác
giả có cái nhìn khái quát về địa phương mà mình nghiên cứu [43].
Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam là tài liệu cung cấp cách nhìn
tổng quát về văn hóa Việt Nam, địa bàn khu trú các bản sắc văn hóa đặc trưng của
từng dân tộc, từng địa phương cụ thể và tác giả luận văn dựa vào đó để bổ sung,
hoàn thành cũng như có những lý giải cụ thể về các vấn đề trong luận văn của
mình[36].
Một số luận văn thạc sĩ du lịch có nghiên cứu về một số tiềm năng, thế mạnh
và thực trạng cụ thể của từng loại hình du lịch cụ thể, điểm du lịch cụ thể và đặc
trưng như: đề tài nghiên cứu “Phát triển các loại hình du lịch ở Hạ Long, Quảng
Ninh” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy đề tài này đã mang lại cho tác giả một
cách tổng quát về cái loại hình du lịch ở Hạ Long mà trong đó có loại hình du lịch
văn hóa lễ hội Carnaval để tham khảo cho bài viết của mình. Luận văn “Phát triển
du lịch văn hoá tại huyện Đông Triều” của tác giả Phạm Minh Thắng giúp tác giả có
cái nhìn toàn diện về sản phẩm du lịch văn hóa tại Đông Triều và đặc biệt đó là tài
nguyên du lịch văn hóa tâm linh gắn với vương triều nhà Trần tại địa bàn này. Luận
văn “Một số giải pháp phát huy văn hoá ẩm thực Quảng Ninh nhằm phát triển du
2
lịch” của tác giả Mạc Thị Mận là tài liệu giúp tác giả có cái nhìn khái quát về sản
phẩm du lịch văn hóa ẩm thực trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, qua đó là nguồn tài
liệu tham khảo quý báu cho phần viết về sản phẩm du lịch văn hóa ẩm thực của đề
tài. Luận văn “Khai thác tiềm năng của loại hình du lịch văn hoá ở huyện Yên Hưng
- tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Trương Thị Thu Hương là tài liệu tham khảo hữu ích
về sản phẩm du lịch văn hóa tại điểm đến là thị xã Quảng Yên. Đề tài “Nghiên cứu
giá trị các di tích lịch sử - văn hóa trọng điểm triều Trần tại Quảng Ninh phục vụ
phát triển du lịch” của tác giả Bùi Thị Huế giúp tác giả có góc nhìn cụ thể hơn về
triều đại nhà Trần trên khắp địa bàn tỉnh, có cách nhìn khái quắt hơn, cụ thể hơn về
triều Trần khi viết luận văn của mình.
Qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy, nghiên cứu về từng thành tố
hoặc một số địa phương của du lịch Quảng Ninh không phải là đề tài mới, nhưng
nghiên cứu tổng thể về Hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh là đề tài hoàn
toàn mới và cần thiết. Hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng
quát về Hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh được công bố.
3.Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu.
3.1.Mục đích nghiên cứu
Đưa ra các dữ liệu khoa học làm cơ sở để phát triển loại hình du lịch văn hóa
ở tỉnh Quảng Ninh.
3.2.Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh. Trong đó bao gồm
các điểm du lịch văn hóa, điểm tham quan văn hóa, di tích văn hóa - lịch sử tiêu
biểu như Chùa Yên Tử, Miếu vua Bà, Đền Cửa Ông, Đền Trần Hưng Đạo, các Lăng
mộ nhà Trần, cụm di tích Bãi Cọc Bạch Đằng... đây cũng chính là đối tượng nghiên
cứu cụ thể nhất của luận văn.
4.Nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch, du lịch văn hóa, điều
kiện phát triển du lịch văn hóa.
3
- Đánh giá về tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh
Quảng Ninh từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn đọng và
tìm ra những nguyên nhân.
- Xây dựng các đề xuất, giải pháp phù hợp với thực trạng phát triển của du
lịch văn hóa tỉnh Quảng Ninh, đồng thời đảm bảo tính bền vững, bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa.
5. Phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động du lịch văn hóa về mặt không gian là nghiên cứu
những điểm du lịch hấp dẫn nhất ở tỉnh Quảng Ninh như Chùa Yên Tử, Đền Cửa
Ông, Khu Lăng mộ nhà Trần... Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là nghiên cứu
trong khoảng 5 năm gần đây.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tế và phương pháp điều tra thực tế: điểm đến
du lịch văn hóa cụ thể như Chùa Yên Tử, Chùa Yên Tử, Đền Cửa Ông, Khu Lăng
mộ nhà Trần… tác giả đã thực hiện khảo sát thực tế, qua đó thu thập thông tin, hình
ảnh, quan sát, ghi chép các thông tin thực trạng tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh qua hai
lần khảo sát vào năm 2013, 2014 và đầu năm 2015.
- Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu: Tác giả tiến hành thu thập
các thông tin, dữ liệu từ các nguồn như tham luận, đề tài khoa học, công trình
nghiên cứu, các trang báo mạng về chuyên ngành uy tín, sách báo, tạp chí chuyên
ngành và các ngành liên quan, các dự án, các đề án, các quy hoạch du lịch, các
thông tư, nghị quyết, báo cáo của các cơ quan quản lý cấp Trung Ương và Địa
phương như: Tổng cục Du lịch Việt Nam, Tổng cục thống kê, Viện Nghiên cứu
phát triển du lịch, Sở Văn hóa Thể Thao du lịch tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Ninh, Cục thống kê tỉnh…
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn các quan chức, lãnh
đạo và chính quyền địa phương: Đối với từng vấn đề cụ thể, điểm đến cụ thể, tác
giả đã đi thực tế và xin phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch, du
4
lịch văn hóa, du lịch tâm linh, Phật giáo cho các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu
để từ đó có các kiến thức, cách nhìn đúng nhất, khách quan nhất cho đề tài của mình.
- Phương pháp thống kê, phân tích: Thông qua các số liệu thống kê về các
hoạt động du lịch, tài nguyên, sản phẩm…của tỉnh Quảng Ninh, tác giả xử lý số liệu
và hệ thống hóa các số liệu, các bảng phân tích nhằm làm rõ thực trạng phát triển
của du lịch và du lịch văn hóa tỉnh Quảng Ninh.
6. Đóng góp của luận văn
Hệ thống một cách khái quát nhất những lý luận về phát triển du lịch văn
hóa, phân tích thực trạng phát triển của du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh . Đề xuất
một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh. Kết
quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho các công ty du lịch ở Quảng
Ninh, các cơ quan chức năng trong việc hoạch định chính sách phát triển du lịch
văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh trong tương lai.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về các vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2. Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh
Chương 3. Một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh
5
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.Khái niệm du lịch văn hóa
Với sự phát triển phong phú của đời sống, nhu cầu của con người cũng phát
triển đa dạng hơn. Người ta đi du lịch không chỉ với mục đích nghỉ dưỡng, nâng cao
thể chất đơn thuần. Ngày càng cho thấy nhu cầu giao lưu, khám phá thế giới của
con người là vô cùng lớn, trong đó có khám phá thiên nhiên, con người, văn hóa và
chính bản thân họ. Nếu như du lịch sinh thái là một loại hình du lịch ở đó con người
được thỏa mãn nhu cầu khám phá tự nhiên đồng thời với việc được hòa mình vào tự
nhiên thì du lịch văn hóa cho người ta những hiểu biết về con người và những nền
văn hóa đi kèm theo, để từ đó con người xích lại gần nhau hơn, có cái nhìn về cuộc
đời nhân văn hơn và thế giới vì thế sẽ trở thành nhỏ bé hơn, thân ái hơn.Trong quá
trình đi du lịch nghỉ dưỡng hay chữa bệnh, hành hương đi chăng nữa người ta vẫn
cần được đáp ứng về nhu cầu khám phá văn hóa, đó là lý do cho loại hình du lịch
văn hóa có cơ sở phát triển, lồng ghép hầu hết vào các loại hình du lịch khác. Khi
nói đến du lịch văn hóa tức tiếp cận văn hóa từ du lịch, thông qua du lịch, thực chất
là việc khai thác và biến sản phẩm văn hóa thành sản phẩm du lịch, thuộc sản phẩm
du lịch. Là một sản phẩm kinh doanh nên đó là sản phẩm hàng hóa hay gọi đúng
hơn là sản phẩm hàng hóa văn hóa, một loại sản phẩm hàng hóa đặc biệt, qua tiêu
thụ không hề mất đi như những sản phẩm hàng hóa thông thường khác mà còn được
nhân lên về mặt giá trị tinh thần và hiệu quả xã hội.
Theo Luật Du lịch: “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc
văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá truyền thống”.[23, Tr. 3]
Theo Tổ chức du lịch thế giới (tên tiếng Anh là World Tourism Organization
- UNWTO, tên tiếng Pháp là Organization Mondiale du Tourisme - OMT) “Du lịch
văn hóa bao gồm hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là nghiên cứu,
khám phá về văn hóa như các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật biểu
6
diễn, về các lễ hội và các sự kiện văn hóa khác nhau, thăm các di tích và đến đài,
du lịch ngiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương”.
Theo Hội đồng Quốc tế các di chỉ và di tích (International Coucil On
Monuments & Sites – ICOMOS) “Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu
là khám phá những di tích và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng
việc đóng góp vào việc duy tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng
cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng vì những lợi
ích văn hóa – kinh tế - xã hội”. Khái niệm trên được đưa ra theo khía cạnh nghiên
cứu chỉ về di chỉ và di tích.
1.1.2.. Tài nguyên du lịch văn hóa:
Có thể coi văn hóa đã sinh ra du lịch, nuôi sống du lịch, và ngành du lịch
đang thụ hưởng những giá trị văn hóa
Tài nguyên du lịch văn hóa là một dạng đặc sắc của tài nguyên du lịch nói
chung. Tài nguyên du lịch văn hóa chia làm hai loại là “tài nguyên văn hóa phi vật
thể” và “tài nguyên văn hóa vật thể”.
Nhắc đến việc phân loại tài nguyên du lịch, hiện nay hầu hết các tài liệu đều
phân chia rõ hai loại chính là tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Trong
Luật du lịch Việt Nam định nghĩa như sau: “Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm
các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan
thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch” và “Tài nguyên du lịch
nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích
lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con
người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ
mục đích du lịch” [23, Tr.8].
Như vậy với góc nhìn trên, các thành tố của văn hóa được liệt kê thành các
dạng tài nguyên du lịch văn hóa như: truyền thống văn hóa, văn nghệ dân gian, kiến
trúc, cách mạng, khảo cổ…và đây thực chất là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá
đối với ngành du lịch. Tuy nhiên không phải mọi sản phẩm văn hóa đều là sản
phẩm du lịch và mọi sản phẩm văn hóa là sản phẩm du lịch, bởi vì có rất nhiều sản
7
phẩm văn hóa không thể hoặc không nên đưa vào khai thác kinh doanh du lịch mà
phải được bảo tồn và gìn giữ phát các giá trị cốt lõi của văn hóa đó. Ta chỉ khai thác
sử dụng những tài nguyên văn hóa này khi chúng được đặt trong một hoàn cảnh cụ
thể (thuộc vùng du lịch, trung tâm du lịch hoặc khu vực gần với các trung tâm du
lịch). Khai thác một cách có định hướng, có chiến lược gắn liền với bảo tồn, giữ gìn
và phát huy giá trị to lớn của tài nguyên này.
1.1.3. Khái niệm về sản phẩm du lịch:
Như chúng ta đã biết bất cứ hoạt động kinh doanh nào, cũng sẽ cho ra sản
phẩm của hoạt động kinh doanh đó. Vì vậy, khi tìm hiểu các khái niệm chung về du
lịch chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm du lịch và những nét đặc
trưng cơ bản của nó.
Theo Luật du lịch Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả
mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
Theo tổng cục Du lịch: Sản phẩm là một trong những dịch vụ và tiện nghi
dịch vụ hỗn hợp mà công ty khách sạn, lữ hành cung cấp cho khách hàng.
Theo PGS-TS Trần Thị Minh Hòa: Sản phẩm du lịch = Dịch vụ du lịch +
hàng hóa du lịch + Tài nguyên du lịch.
Từ thực tế hoạt động du lịch, chúng ta có thể đưa ra khái niệm “Sản phẩm du
lịch là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch và dịch vụ du lịch”.
Sản phẩm du lịch trước hết là một loại hàng hóa nhưng là một loại hàng hóa
đặc biệt, nó cũng cần có quá trình nghiên cứu, đầu tư, có người sản xuất, có người
tiêu dùng... như mọi hàng hóa khác. Sản phẩm du lịch thường mang những đặc
trưng văn hóa cao, thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng du khách. Đó có thể là một
chương trình du lịch với thời gian và địa điểm khác nhau. Sản phẩm du lịch thể hiện
trong các tour du lịch này chính là việc khai thác các tiềm năng, nguồn lực sẵn có
trên một địa bàn hoặc được tạo ra khi biết kết hợp những tiềm năng, nguồn lực này
theo những thể thức riêng của từng cá nhân hay một công ty nào đó. Đó chính là
việc khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các địa phương vào hoạt
động du lịch như việc đưa các loại hình nghệ thuật, dân ca, dân vũ, văn hóa ẩm thực
8
hay các hình thức hoạt động thể thao, các hoạt động lễ hội truyền thống, trình diễn,
diễn xướng dân gian… vào phục vụ du khách. Những hoạt động như vậy giúp cho
du khách trực tiếp thẩm nhận và hưởng thụ, trải nghiệm văn hóa mà họ vốn có nhu
cầu nhưng không biết tiếp cận như thế nào, ở đâu, thời gian nào…? Sản phẩm du
lịch còn là những dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ làm đẹp, các dịch vụ thông tin
liên lạc, bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng… tiện lợi, đem lại nhiều
lợi ích to lớn cho du khách.
Sản phẩm du lịch thường được cụ thể hóa bằng các sản phẩm vật chất cung
cấp cho du khách ở những nơi du khách dừng chân, nghỉ ngơi hay tham quan du
lịch. Đó có thể là các vật phẩm, đồ lưu niệm; các chủng loại hàng hóa với mẫu mã,
chất liệu, phương pháp chế tác đem đến nhiều công năng tiện ích khác nhau cho
người sử dụng. Tổng hợp lại, giá trị của tất cả các sản phẩm du lịch khác nhau được
đánh giá bằng số lượng khách đến và đi du lịch trên một địa bàn cụ thể. Chất lượng
sản phẩm du lịch sẽ làm tăng hay giảm lượng khách trên địa bàn đó. Giá trị của sản
phẩm du lịch được “đo” bằng mức chi tiêu của du khách trong một chuyến du lịch
và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, tổng các nguồn thu cho ngân
sách địa phương từ hoạt động du lịch và thu nhập của cư dân bản địa tham gia kinh
doanh các dịch vụ phục vụ du khách. Giá trị của các sản phẩm du lịch cũng được
thể hiện qua những ảnh hưởng, tác động của hệ thống sản phẩm du lịch đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của một địa phương, đất nước.
1.1.4. Khái niệm sản phẩm du lịch văn hóa: là một sản phẩm du lịch mà cũng là
sản phẩm văn hóa, nó mang đầy đủ tính đặc trưng của một sản phẩm du lịch.
“Sản phẩm du lịch văn hóa phải là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch văn
hóa và các dịch vụ du lịch văn hóa thích hợp phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám
phá, trải nghiệm của du khách về những điều khác biệt, mới lạ của các nền văn hóa
khác nhau” [13, Tr.12]. Vậy có thể hiểu sản phẩm du lịch văn hóa phải là sự kết
hợp giữa toàn bộ các loại tài nguyên du lịch văn hóa và toàn bộ các loại dịch vụ du
lịch thích hợp nhằm phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám phá, trải nghiệm về những
điều khác biệt, mới lạ về từng nền văn hóa bản địa của du khách.
9
Tiếp cận theo hướng kinh tế, sản phẩm du lịch được định nghĩa là “các dịch
vụ hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác
các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật
và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó” [8, Tr.27]
Xét riêng sản phẩm du lịch văn hóa thì trước hết đó là một sản phẩm văn hóa
sau đó được đưa vào hoạt động kinh doanh du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu học hỏi,
tìm hiểu của du khách. Do đó sản phẩm du lịch văn hóa là tập hợp các dịch vụ cần
thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn hóa trong chuyến đi du lịch.
Theo Luật du lịch Việt Nam “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để
thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến đi du lịch” [23, Tr.2]
1.1.5. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của du lịch:
Cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển
du lịch của mỗi địa phương , mỗi quốc gia.
Hiểu theo nghĩa rộng, Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ
các phương tiện kỹ thuật được huy động than gia vào việc khai thác các tài nguyên
di lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ hàng hóa thảo mãn nhu cầu của du
khách trong các chuyến hành trình của họ. [13, Tr. 168 ]
Hiểu theo nghĩa hẹp, thì cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch là toàn bộ
những cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật được các nhà làm du lịch đầu tư xây dựng để
phục vụ cho hoạt động du lịch như nhà hàng, khách sạn, đường giao thông nội bộ
trong khu, điểm du lịch, công trình điện nước tại khu điểm du lịch, các khu vui chơi
giải trí, phương tiện giao thông, camping, và các công trình bổ trợ khác gắn liền với
hoạt động du lịch. [13, Tr 168 ]
Tóm lại, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa là toàn bộ các cơ sở vật
chất kỹ thuật tại điểm du lịch văn hóa và cơ sở hạ tầng của ngành nghề khác tham
gia vào hoạt động du lịch văn hóa như: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, các
công trình cung cấp điện, nước, cơ sở phục vụ ăn, uống, lưu trú, các cửa hàng, khu
giải trí, thể thao, cơ sở y tế, trạm xăng dầu, nhà ga, bến cảng, bãi đỗ xe… phục vụ
trực tiếp cho du khách đến tham quan tìm hiểu du lịch văn hóa. Cơ sở vật chất kỹ
10
thuật của du lịch văn hóa góp phần quyết định đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả
kinh tế của điểm đến du lịch văn hóa.
1.1.6. Nguồn nhân lực du lịch:
Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực vừa có tính cấp bách, vừa mang ý nghĩa
chiến lược và cũng là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, phải đặt lên vị trí hàng
đầu trong quá trình phát triển của du lịch Việt Nam. nguồn nhân lực du lịch bao
gồm: lao động thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các đơn vị sự
nghiệp trong ngành từ trung ương đến địa phương, lao động trong các doanh nghiệp
du lịch gồm đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ lao động nghiệp vụ trong
các khách sạn - nhà hàng, công ty lữ hành, vận chuyển du lịch..., lao động làm công
tác đào tạo du lịch trong các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học và Sau đại học.
Nguồn nhân lực du lịch có chất lượng cao là yếu tố cực kỳ quan trọng để đạt năng
lực cạnh tranh cao của điểm đến du lịch nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng
Do vậy, nguồn nhân lực trong du lịch văn hóa là toàn bộ những người trực
tiếp và gián tiếp làm việc có liên quan đến du lịch văn hóa. Bao gồm quản lý nhà
nước, quản trị doanh nghiệp và kinh doanh du lịch văn hóa. Đây chính là đội ngũ
quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh và sự tồn tại của du lịch văn hóa.
Muốn phát triển du lịch văn hóa bền vững bắt buộc phải có đội ngũ nhân lực giỏi
chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về lĩnh vực văn hóa, có khả năng đáp ứng vai trò
truyền tải về hình ảnh đất nước và con người Việt Nam đến với du khách.
1.1.7. Điểm đến du lịch văn hóa:
Theo điều 4 của Luật Du lịch Việt Nam (2005) thì “Điểm du lịch là nơi có
tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”, tuy
nhiên, khái niệm điểm đến du lịch không chỉ dùng cho một địa bàn nhỏ hẹp mà còn
được dùng cho một vùng du lịch, vùng du lịch hay tiểu vùng du lịch tùy theo quy
mô. Điểm đến du lịch trước hết phải là một điểm hấp dẫn du lịch song không phải
điểm hấp dẫn du lịch nào cũng trở thành một điểm đến du lịch bởi còn tùy thuộc
11
vào các yếu tố bổ sung như cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật…Theo cách hiểu trên
thì điểm du lịch được xem là có quy mô nhỏ “là nơi tập trung một loại tài nguyên
nào đó (tự nhiên, văn hóa - lịch sử hoặc kinh tế xã hội) hay một loại công trình
riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ.
Điều 24, Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định điểm du lịch có đủ các điều
kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch cấp quốc gia:
+ Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du
lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít
nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.
Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch địa
phương:
+ Có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít
nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.
Như vậy, điểm đến du lịch văn hóa là nơi có tài nguyên du lịch văn hóa hấp
dẫn, có khả năng thu hút du khách về nhu cầu khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu về
văn hóa như: những di tích văn hóa lịch sử, những danh thắng, các công trình kiến
trúc, các cổ vật, những giá trị văn hóa phi vật thể, các lễ hội, làng nghề, nghệ thuật
ẩm thực…Kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật của du lịch văn
hóa có khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn hóa.
1.1.8. Thị trường du lịch văn hóa:
Thị trường du lịch là bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản
xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa
người mua và người bán, giữa cung và cầu và toán bộ các mối quan hệ, thông tin
kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch [16.Tr 34]. Như vậy,
thị trường du lịch văn hóa là nơi diễn ra sự trao đổi mua bán giữa người mua là
khách du lịch có nhu cầu thỏa mãn về sản phẩm văn hóa và người bán là những
nhà cung cấp các dịch vụ có liên quan đến du lịch văn hóa trong một thời gian và
12
không gian xác định. Thị trường du lịch văn hóa chịu sự tác động chung của thị
trường du lịch về yếu tố địa lý, yếu tố cung cầu, về tính chất hoạt động và thành
phần sản phẩm. Đồng thời, thị trường du lịch văn hóa đảm nhiệm các chức năng
như: chức năng thực hiện, chức năng thừa nhận, chức năng thông tin và chức năng
điều tiết.
1.1.9. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa
Việc tổ, quản lý du lịch văn hóa nhằm mục đích khai thác, phát huy và bảo
tồn các giá trị văn hóa trong hoạt động du lịch thông qua các kế hoạch, chiến lược,
chính sách và hoạt động cụ thể. Đây là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch
văn hóa đảm bảo tính hiệu quả và bền vững.
- Trách nhiệm của ngành du lịch trong công tác bảo tồn di sản văn hóa: Di
sản văn hoá và hoạt động phát triển du lịch có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Du
lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt. Nói một cách
khác, du lịch chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch.
Đứng từ góc độ này, các giá trị văn hóa được xem là dạng tài nguyên du lịch để
khai thác tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt và có khả năng cạnh tranh
không chỉ giữa các vùng miền, các địa phương trong nước mà còn giữa Việt Nam
với các nước trong khu vực và quốc tế. Trên cơ sở những giá trị di sản văn hoá, du
lịch khai thác để hình thành nên những sản phẩm bán cho khách. Luật Di sản của
Việt Nam đã khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai
trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [22, Tr.107].
Như vậy, có thể thấy mối quan hệ tương hỗ mật thiết giữa di sản văn hóa với hoạt
động phát triển du lịch. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được nhìn nhận một
cách khách quan và đầy đủ để xây dựng định hướng khai thác có hiệu quả các gía trị
di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch và xây dựng các chính sách phù hợp để du
lịch có thể có những đóng góp tích cực và trách nhiệm nhất cho hoạt động bảo tồn,
phát huy các giá trị di sản văn hóa.Như vậy, việc tổ chức, quản lý du lịch văn hóa
dựa trên cơ sở nội dung quản lý nhà nước về du lịch như sau:
13
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch văn hóa:Sự phát triển nhanh
của du lịch toàn cầu và những xu hướng du lịch mới xuất hiện trong thời gian gần
đây như du lịch bền vững, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm, du lịch cộng đồng,
du lịch hướng về nguồn, hướng về thiên nhiên,… đã và đang thúc đẩy cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các quốc gia trên thế giới trong việc phát triển du lịch. Điều đó đòi
hỏi vai trò quản lý nhà nước về du lịch văn hóa cần phải được thích ứng, hoàn thiện,
phù hợp với tình hình trong nước và thế giới.Nhằm góp phần vào hiệu quả kinh
doanh của ngành du lịch và định hướng phát triển bền vững của ngành.
- Đối với chính quyền địa phương:Các cơ quan ban ngành có liên quan trong
toàn tỉnh cần thực hiện đúng và tốt nhiệm vụ được phân công trong công tác quản lý
nhà nước về du lịch văn hóa ở từng địa phương. Mọi chiến lược, chính sách phải
được cụ thể hóa trong công tác quy hoạch, ban hành quy chế, các chính sách phát triển
du lịch văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
- Đối với các tổ chức, cá nhân, các cơ sở kinh doanh du lịch văn hóa: Phải
chấp hành mọi quy định của nhà nước về tổ chức, quản lý các hoạt động có liên
quan đến du lịch văn hóa. Hoạt động khai thác kinh doanh du lịch phải đi đôi với
giữ gìn và tôn tạo nguồn tài nguyên du lịch văn hóa trên cơ sở phát triển bền vững.
- Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá hoạt động du lịch văn hóa: Hoạt động
tuyên truyền, quảng bá - xúc tiến du lịch là một trong những khâu quan trọng góp
phần thúc đẩy phát triển ngành du lịch, đặc biệt là các điểm đến hấp dẫn. Quảng bá,
xúc tiến, tuyên truyền hoạt động du lịch có thể được hiểu là những hoạt động giới
thiệu, tiếp thị các điều kiện, tiềm năng đến nhà đầu tư; tiếp thị các sản phẩm Du lịch
văn hóa đến với du khách nhằm thu hút vốn đầu tư cũng như thu hút khách đến du
lịch. Để biết đến một địa danh, một vùng đất, một dân tộc ngoài những thông tin
qua lịch sử văn hóa, địa lý, kinh tế…còn có một cánh tiếp cận luôn tạo nên những
ấn tượng khó quên đó là qua Du lịch văn hóa. Một trong những yếu tố giúp du
khách tiếp cận và giới thiệu nhanh nhất các giá trị đó là các hình thức thông tin,
quảng bá, tuyên truyền. Đó là những thông tin được giới thiệu trên hệ thống truyền
thông đại chúng, các kênh quảng bá uy tín, hệ thống Internet và các hình thức khác.
14
Đối với du khách, các thông tin về giá trị điểm đến, điều kiện đi lại, ăn ở nơi mình
sẽ đến luôn được quan tâm. Chính vì vậy, công tác xúc tiến, quảng bá, tuyên truyền
để du khách biết đến một điểm đến, một vùng đất hay một dân tộc có vai trò vô
cùng quan trọng trong phát triển du lịch.Thực tế cũng đã cho thấy công tác tuyên
truyền quảng bá điểm đến rất quan trọng trong thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa.
1.2. Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch văn hóa
1.2.1. Những bài học kinh nghiệm trong nước
Du lịch văn hóa là xu thế mới của du lịch Việt Nam, tiêu biểu là Lễ tế đàn
Nam Giao vào đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được
tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương
Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ
hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên
Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di
sản văn hóa được UNESCO công nhận)... là những hoạt động của du lịch văn hóa,
thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong số đó, Festival Huế được
xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức
thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế là
dịp để Việt Nam có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung,
đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế - một di sản phi vật thể vừa được UNESCO
cộng nhận; và Lễ tế đàn Nam Giao - một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục
năm nay.
Thừa thiên Huế là tỉnh có nhiều tài nguyên đặc sắc để phát triển sản phẩm du
lịch văn hóa. Là tỉnh làm tốt trong hoạt động phát triển du lịch văn hóa. Đến với
Huế du khách biết đến Huế là vùng đất của những lễ hội dân gian tiêu biểu như
Nam ở điện Hòn Chén theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng nhớ các vị
khai canh thành lập làng, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền
thống… Huế là địa điểm du lịch lý tưởng không thể bỏ qua đối với những ai yêu
thích tìm hiểu, khám phá những di tích lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Các tour du
lịch Huế ngày một tăng vì thành phố Huế luôn lưu giữ và bảo tồn được những lăng
15
tẩm, đền đài vài trăm năm tuổi của các vị vua chúa. Ngoài ra, đến với du lịch lễ
hội ở Huế du khách còn biết đến Huế là vùng đất của những lễ hội dân gian tiêu
biểu như ở điện Hòn Chén theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng nhớ
các vị khai canh thành lập làng, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề
truyền thống… Với di sản văn hoá thế giới, cảnh quan thiên nhiên, nhiều di tích lịch
sử, các sản phẩm đặc sản, nhất là nhà vườn là một nét độc đáo tiêu biểu của như:
nhà vườn An Hiên, Lạc Tịnh Viên, nhà vườn Ngọc Sơn Công Chúa, Tỳ Bà Trang,
Tịnh Gia Viên... cùng với hệ thống khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ phục vụ khác,
thành phố đã và đang trở thành một trung tâm du lịch rất hấp dẫn khách du lịch đến
Huế. Khách đến Huế không những được đến với hình ảnh đẹp thơ mộng của Sông
Hương, nét truyền thống cổ kính của Lăng Tẩm, di tích lịch sử văn hóa, lễ hội dân
gian tiêu biểu.... mà còn bị mê hoặc bởi con người nơi đây, sự nhẹ nhàng thuẩn
khiết với tà áo dài, giọng nói nhẹ nhàng đi vào lòng người. Vì vậy mà du lịch
Huế luôn là nơi thu hút đông du khách cả trong và ngoài nước. Đến Huế du khách
đến những điểm du lịch Huế như: khu văn hoá du lịch Kim Long, Nam Châu Hội
Quán, phố cổ Gia Hội - Chi Lăng, phố đêm Bạch Đằng, Hàn Thuyên; nghe ca Huế
trên sông Hương, đi thuyền dọc sông Hương, sông Ngự Hà. Thưởng thức các món
ăn đặc sản truyền thống rất phong phú, đa dạng, mang đậm đặc trưng của Huế như
bánh bèo, nậm lọc, bánh khoái, thanh trà, tôm chua, mè xửng, cùng với các sản
phẩm mỹ nghệ lưu niệm theo dấu ấn của lịch sử. Du lịch Huế quả là một một địa
điểm du lịch không thể bỏ qua. Bài học rút ra cho Quảng Ninh chính là việc Phát
triển phong phú, đa dạng các sả phẩm du lịch văn hóa. Phát triển đi đôi với định
hướng, quảng bá cho sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh, tạo ra sản phẩm du lịch
văn hóa đặc trưng, sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, phong cách phục vụ du
khách phải khác biệt để du khách chỉ một lần đặt chân đến đất Quảng Ninh là phải
ấn tượng và nhớ tới con người Quảng Ninh.
Quảng Nam là một trong những tỉnh hàng đầu ở Việt Nam làm tốt về hoạt
động phát triển du lịch văn hóa. QuảngNam là nơi giao thoa của các nền văn hóa
Việt, Hoa, Ấn Độ, Sa Huỳnh, Chăm Pa …có tiềm năng du lịch nhân văn đặc sắc
16
mang đậm tính dân tộc với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Với những
ưu thế về bề dày lịch sử, văn hóa, con người, danh thắng.Quảng Nam vẫn lưu giữ
được những tài nguyên văn hóa vô cùng độc đáo, có giá trị nhân văn sâu sắc, tiêu
biểu là 2 Di sản văn hoá thế giới: phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, kinh đô cổ
Trà Kiệu, các tháp chàm Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bàng An, Phật viện Đồng
Dương...ghi lại dấu ấn rực rỡ của nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa, Đại Việt. Đến
với Quảng Nam du khách sẽ được khám phá tinh hoa văn hóa của cộng đồng các
dân tộc anh em như Kinh, Hoa, Cơ Tu, Xê Đăng, Giẻ Triêng, góp phần tạo nên sự
đa dạng, phong phú và hấp dẫn của du lịch Quảng Nam hấp dẫn du khách nơi đây.
Đến với du lịch văn hóa Quảng Nam du khách sẽ được chiêm ngưỡng, tham quan
các di sản văn hóa, truyền thống lịch sử của Quảng Nam. Và ở đó, trên mảnh đất và
con người xứ quảng hiền hòa, thân thiện và hiếu khách, luôn mong được chào đón
du khách từ mọi phương trời đến với Quảng Nam. Nhắc đến ẩm thực Quảng Nam,
không ai không biết tới mì Quảng. Đây là món ăn dân dã, vô cùng quen thuộc của
người dân đất Quảng. Dù có thể nấu chưa thật ngon nhưng hiếm người Quảng Nam
nào lại chưa từng tự tay nấu mì Quảng một lần. Đi du lịch Quảng Nam du khách
còn được thưởng thức nhiều món ăn ngon hấp dẫn khác tại vùng đất nổi tiếng với
nền ẩm thực phong phú này. Đến khu Mua sắm ở Quảng Nam đặc biệt là thành phố
Hội An hấp dẫn du khách khi đi du lịch Quảng Nam bởi phong cách bán hàng rất
đặc biệt. Người Hội An không nặng về sự đua tranh, họ bán đấy mà có cảm giác
như không bán thứ gì; khách có thể đến, mặc sức lựa chọn, hỏi han và nhìn ngắm
hàng giờ… Nếu bạn không mua, chủ cửa hàng vẫn tươi cười và cảm ơn khi bạn
bước chân ra khỏi cửa. Đó là chất riêng rất thượng lưu của người phố Hội mà không
phải vùng nào cũng có. Bài học rút ra cho Quảng Ninh chính là việc tạo ra sản
phẩm du lịch đặc trưng, phong cách phục vụ du khách phải khác biệt để du khách
chỉ một lần đặt chân đến đất Quảng Ninh là phải ấn tượng và nhớ tới con người
Quảng Ninh. Du lịch Quảng Ninh, Cần có định hướng, chiến lược trước mắt và lâu
dài để tất những người dân, các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch
đều trở thành một hướng dẫn viên du lịch thực thụ, yêu nghề và có tâm với nghề.
17
1.2.2. Những bài học kinh nghiệm nước ngoài
Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Trung Quốc và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ..."Du lịch văn hóa là
xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt
Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là
hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
Singapore là một quốc đảo nhỏ, tài nguyên hạn chế, nhưng đã biết phát huy
triệt để tiềm năng, thế mạnh về vị trí địa lý và nguồn lực con người để có những
bước phát triển vượt bậc. Trong các thành công của Singapore thời gian qua phải kể
đến sự thành công của chính sách phát triển du lịch. Kết quả và kinh nghiệm phát
triển du lịch của Singapore sẽ là bài học rất tốt cho quá trình hoạch định, xây dựng,
triển khai thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch của Việt Nam nói chung
và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Quảng Ninh là địa phương có nhiều lợi thế để
phát triển du lịch với danh thắng nổi tiếng Vịnh Hạ Long – kỳ quan thiên nhiên của
thế giới, với các lễ hội truyền thống, địa điểm du lịch tâm linh, với các điều kiện
thuận lợi để phát triển du lịch biển đảo. Năm 2012, tỉnh Quảng Ninh chọn chủ đề là
“Năm xây dựng chiến lược và quy hoạch”. Bên cạnh việc xây dựng Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Quảng Ninh đang triển
khai xây dựng hàng loạt các quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch phát triển các
địa phương, trong đó có Quy hoạch phát triển du lịch.
Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có và để du lịch đóng góp nhiều
hơn cho sự phát triển của Quảng Ninh, chúng ta cần có tầm nhìn dài hạn, lựa chọn
được những ý tưởng, phương án quy hoạch phù hợp, lựa chọn được các nhà tư vấn
thực sự có kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển du lịch và phải đúc kết, học tập
kinh nghiệm từ sự thành công cũng như thất bại trong xây dựng, thực thi chính sách
phát triển du lịch của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Quảng Ninh cần
phải chú ý quy hoạch, xây dựng các cơ sở hạ tầng du lịch phù hợp với quy hoạch
tổng thể, thống nhất với quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực
khác; giải quyết tốt mâu thuẫn giữa phát triển công nghiệp với du lịch, giữa phát
18
triển du lịch với bảo vệ môi trường sinh thái; tăng cường bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa, các lễ hội truyền thống; phát triển các sản phẩm du lịch mới, tăng cường
tổ chức các sự kiện du lịch, các giải thể thao, văn hóa, nhất là trong mùa thu, mùa
đông để thu hút khách du lịch; có chiến lược quảng bá phù hợp đối với từng khu
vực, từng đối tượng khách du lịch trong và ngoài nước; tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực phục vụ du lịch; tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của người dân về tầm quan trọng, sự đóng góp của du lịch, trách nhiệm của người
dân đối với việc phát triển du lịch đi đôi với việc tăng cường công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực du lịch để tránh tình trạng lộn xộn, tăng giá dịch vụ, “chặt
chém” khách du lịch ở một số khu du lịch như hiện nay.
Tỉnh Quảng Ninh nên nghiên cứu, triển khai việc đấu thầu quản lý và phát
triển các hoạt động dịch vụ trên vịnh Hạ Long. Ban quản lý Vịnh chỉ thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước, bảo tồn, phát huy giá trị ngoại hạng của Vịnh Hạ Long,
còn việc phát triển dịch vụ thì để cho các doanh nghiệp. Thực tế chứng minh việc
quản lý, tổ chức hoạt động của lễ hội Yên Tử có sự tham gia của doanh nghiệp
trong những năm gần đây rất hiệu quả. Đó chính là kết quả của quá trình tập trung
quảng bá, chuẩn bị cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường du lịch, vận động sự tham
gia của người dân đối với hoạt động phát triển du lịch. Kinh nghiệm phát triển du
lịch của Singapore sẽ là bài học rất quý giá cho Quảng Ninh trong việc xây dựng,
thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch và càng có giá trị hơn đối với các
địa phương có tiềm năng phát triển du lịch.
- Nhắc tới du lịch Châu Á, không thể không nhắc tới Thái Lan và Chiang
Mai, Chiang Rai đang là điểm đến hấp dẫn từ năm 2013 đến nay. Điểm đến du lịch
này nổi lên là một điểm đến du lịch văn hóa, thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, khám phá
và nghiên cứu về văn hóa của du khách thập phương. Để phát triển du lịch văn hóa
tỉnh Quảng Ninh còn nhiều việc cần làm. Cùng với nỗ lực trong xây dựng hình ảnh,
tạo nếp sống văn minh thì việc học hỏi kinh nghiệm của những quốc gia khác, nhất
là trong khu vực như Thái Lan - quốc gia có thương hiệu về dịch vụ du lịch là điều
đáng suy ngẫm.
19
Thực tế, nước ta có tiềm năng to lớn nhưng ngành du lịch vẫn đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trong khi đó, Thái Lan biết tận dụng thế mạnh có
sẵn về vị trí địa lý, cảnh quan thiên nhiên để phát triển "ngành công nghiệp không
khói" này. Bên cạnh đó là chiến lược quảng bá du lịch rộng rãi, hiệu quả, lâu dài
cùng với sự đầu tư hợp lý. Ngoài ra, giá thành rẻ, dịch vụ chuyên nghiệp cũng là lý
do để khách du lịch lựa chọn Thái Lan là điểm đến trong các kỳ nghỉ. Thái Lan vẫn
Du lịch Thái Lan có lẽ đã trở thành món ăn tinh thần của nhiều người trên thế
giới, đồng thời Thái Lan cũng là một trong những điểm du lịch “Must – travel”
của những người đam mê du lịch. Đây là một bài học kinh nghiệm hữu ích đối với
là quốc gia được khách du lịch yêu mến gọi bằng cái tên “Đất nước của nụ cười”.
phát triển du lịch văn hóa tỉnh Quảng Ninh góp phần giới thiệu sản phẩm du lịch
văn hóa và bản sắc văn hóa của mình một cách quy mô và khoa học.
- Bali, Indonesia là một ví dụ tốt về việc làm du lịch văn hóa tốt, du lịch văn
hóa đem lại những thành quả tích cực cho Bali. Indonesia có chủ trương phát triển
du lịch dựa vào cộng đồng. Chính phủ hỗ trợ phát triển bằng việc cho thuê đất với
giá rẻ để cộng động làm du lịch, đồng thời hướng dẫn và đào tạo cộng đồng về
nghiệp vụ du lịch. Các sản phẩm chính được định hướng: du lịch di sản, du lịch sinh
thái, du lịch đánh golf, du lịch lặn biển, du lịch MICE. Ở Indonesia, Vụ Thị trường
của Cục Xúc tiến Indonesia có nhiệm vụ theo dõi diễn biến thị trường, định hướng
và tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng bà du lịch ở cấp quốc gia. Từ việc theo dõi
thị trường và đánh giá tình hình, xu hướng phát triển kinh tế - xã hội và du lịch,
Indonesia chuyển hướng thu hút thị trường khách du lịch ASEAN. Ngân sách xúc
tiến quảng bá du lịch năm 2010 của Indonesia vào khoảng 40 triệu USD.
Đối với việc phát triển sản phẩm du lịch, đặc biệt tại địa bàn đảo Bali – một
trong những điểm du lịch nổi bật của Indonesia thì những thành công chính nằm ở
vấn đề như tôn trọng ý kiến, tập tục và tư duy của người bản địa; nâng cao nhận
thức về phát triển du lịch theo một quá trình; ban hành các quy định chặt chẽ và rõ
ràng về kiến thức, có quan điểm bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống.
20
Quảng Ninh rút ra bài học kinh nghiệm từ Bali là việc xây dựng hệ thống
quảng bá, cung cấp thông tin về điểm đến cho khách du lịch một cách có hệ thống,
hoàn thiện, phong phú và sinh động hơn. Đây là điểm còn yếu của Quảng Ninh bởi
hệ thống thông tin của Quảng Ninh về điểm đến còn sơ sài, kém sinh động, chưa có
tính quảng bá rộng rãi nên du khách ít biết đến tính hấp dẫn của các điểm thăm quan
ở Quảng Ninh. Thông qua những phân tích kinh nghiệm về quy hoạch phát triển du
lịch có thể rút ra cho Quảng Ninh trong phát triển du lịch văn hóa một số bài học
trong quá trình quy hoạch và phát triển du lịch văn hóa Quảng Ninh như sau:
Đối với nội dung quy hoạch, kế hoạch du lịch cần tập trung những vấn đề
thực tế hơn cho giai đoạn trung hạn nhằm đảm bảo tính khả thi của các mục tiêu
quy hoạch đặt ra.Tổ chức không gian du lịch cần xác định rõ các địa bàn, không
gian trọng điểm du lịch với chức năng du lịch chính. Ví dụ Kinabalu được xác định
là địa bàn trọng điểm về du lịch sinh thái của Malaysia, trong khi Kuala Lumpur
được xác định là địa bàn phát triển du lịch MICE, du lịch vui chơi giải trí, du lịch
mua sắm. Tổ chức không gian du lịch ở phạm vi quốc gia hầu như không có sự thay
đổi trong thời gian dài (thực tế ở Malaysia và Indonesia các địa bàn trọng điểm du
lịch như Kinabalu, Bali…đã hình thành và không đổi cách đây hàng chục năm).
Quy trình thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của một điểm điều có sự tham
gia của cộng đồng ngay từ giai đoạn đầu nhằm bảo đảm các nội dung quy hoạch, kế
hoạch có thể thực thi. Chính quyền tôn trọng ý kiến cộng đồng trong quá trình xây dựng
cũng như trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch du lịch. Một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến thành công của du lịch Bali chính là kinh nghiệm này.
Để có thể thực hiện thành công các quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch,
ngoài sự hỗ trợ của tỉnh về hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, cần có sự đầu tư thỏa
đáng cho công tác xúc tiến, quảng bá du lịch (hiện nay Malaysia đầu tư cho hoạt
động này khoảng 150 triệu USD/năm và Indonesia khoảng 40 triệu USD/năm).
21
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch văn hóa cần chú
trọng việc nghiên cứu đề xuất những trọng tâm phát triển cho từng giai đoạn, chú
trọng đề xuất những loại hình du lịch văn hóa mới phù hợp với nhu cầu thị trường.
Phải hết sức coi trọng công tác thống kê du lịch phục vụ xây dựng và điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch.
Bài học kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và quản lý phát triển du lịch có thể
vận dụng ở tỉnh Quảng Ninh. Có thể thấy rằng, ngành Du lịch Quảng Ninh rất cần
tham khảo và học tập các nước trong phát triển du lịch và quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch về năm vấn đề chủ yếu: Một là, xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và đề ra các chính sách, giải pháp để thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa.
Hai là, mạnh dạn đầu tư hạ tầng kỹ thuật và cơ sở vật chất nhằm phát triển du lịch
văn hóa. Ba là, tạo ra những sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo, đa dạng, hấp dẫn
lôi cuốn sự chú ý của du khách. Bốn là, tăng cường tuyên truyền, quảng bá về du
lịch văn hóa, điểm đến văn hóa, sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng. Năm là, đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch văn hóa.
22
Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, ở chương 1, tác giả tập trung vào việc hệ thống lại cơ sở lý luận về
du lịch văn hóa trên cơ sở những khái niệm, định nghĩa ở những khía cạnh khác
nhau, các góc nhìn khác nhau có liên quan đến đề tài để tập trung trọng tâm vào vấn
đề du lịch văn hóa, sản phẩm du lịch văn hóa. Qua đó tác giả xác định lại các nhân
tố liên quan và có ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu như: vị trí địa lý, lịch sử phát
triển, yếu tố con người, yếu tối tài nguyên, nền văn hóa bản địa,…và từ đó sắp xếp,
hệ thống hóa lại các giá trị của các tài liệu tham khảo mà tác giả đã có những kế
thừa khoa học từ các đề tài nghiên cứu liên quan. Tác giả cũng chỉ ra những tài
nguyên du lịch văn hóa, là yếu tố hình thành nên sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh.
Đồng thời đề cập tới những điều kiện hỗ trợ phát triển du lịch cho tỉnh như hạ tầng
cơ sở, vật chất, nguồn nhân lực…
Cuối cùng tác giả tổng hợp và phân tích một số bài học kinh nghiệm về phát
triển du lịch văn hóa của trong và ngoài nước nhằm làm rõ xu hướng du lịch văn
hóa trên toàn cầu đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tác giả mong muốn rút ra
được những bài học kinh nghiệm quý báu về việc xây dựng sản phẩm du lịch văn
hóa đặc thù, về công tác quản lý du lịch và định hướng phát triển du lịch văn hóa
theo hướng bền vững trong quá trình phát triển du lịch văn hóa sao cho nguồn tài
nguyên văn hóa được sử dụng như nguồn tài nguyên du lịch văn hóa một cách tối
ưu nhất đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực gây ảnh hưởng tới du lịch
văn hóa và các di sản.
Cũng trong chương này, tác giả đã đưa ra những bài học kinh nghiện trong
nước và quốc tế trong việc phát triển du lịch văn hóa, từ đó áp dụng vào thực tế rút
ra bài học kinh nghiệm và học hỏi kinh nghiệp cho phát triển du lịch văn hóa của
tỉnh Quảng Ninh.
23
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA
Ở TỈNH QUẢNG NINH
2.1.Giới thiệu tổng quan về tỉnh Quảng Ninh.
Tỉnh Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc Bộ. Phía Bắc giáp Trung Quốc với
118,8 km đường biên giới; phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ; phía Tây giáp các tỉnh
Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía Nam giáp thành phố Hải Phòng. Có vị trí
địa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự và đối ngoại; nằm trong khu vực hợp
tác “Hai hành lang, một vành đai” kinh tế Việt-Trung; hợp tác liên vùng Vịnh Bắc
Bộ mở rộng, cầu nối ASEAN-Trung Quốc, Hành lang kinh tế Nam Ninh-
Singapore…
Tỉnh có 14 huyện, thị, thành phố và 186 xã, phường, thị trấn. Trong đó, là
tỉnh duy nhất cả nước có 04 thành phố trực thuộc. Dân số hiện nay là 1,185 triệu
người, trong đó dân số thành thị chiếm tỷ lệ 50,3%. Có tổng diện tích trên 12.200
km2, trong đó có trên 6.100 km2 diện tích đất liền và trên 6.100 km2 diện tích mặt
nước biển. Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo.
Hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước, trải dài theo đường ven biển
hơn 250 km.
Quảng Ninh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, có nhiều
loại đặc thù, trữ lượng lớn, chất lượng cao mà nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước
không có được như: than đá, cao lanh tấn mài, đất sét, cát thủy tinh, đá vôi…
Tỉnh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào bậc nhất của cả nước với nhiều bãi
biển đẹp nổi tiếng. Đặc biệt có Vịnh Hạ Long 2 lần được UNESCO công nhận là Di
sản thiên nhiên thế giới, là Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới; quần thể Vịnh Bái
Tử Long với khoảng 600 hòn đảo đất và đảo đá, biệt lập với đất liền có cảnh quan
đặc sắc, đa dạng. Đây là những tiềm năng khác biệt và cơ hội nổi trội để phát triển
các loại hình du lịch, hướng đến phát triển dịch vụ văn hóa-giải trí.
Con người và xã hội Quảng Ninh là nơi hội tụ, giao thoa, sự thống nhất trong
đa dạng của nền văn minh sông Hồng, có truyền thống cách mạng của giai cấp công
nhân Vùng Mỏ với “di sản” tinh thần vô giá “kỷ luật và đồng tâm”. Đây là điều kiện
24
thuận lợi xây dựng khối đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp để vượt qua mọi khó
khăn, thách thức; góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
2.1.1. Vị trí địa lý
Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, có dáng một con cá sấu
nằm chếch theo hướng đông bắc - tây nam. Phía đôngnghiêng xuống nửa phần đầu
vịnh Bắc bộ, Phía tây tựa lưng vào núi rừng trùng điệp. Toạ độ địa lý khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ 20o40' đến 21o40' vĩ độ bắc. Bề ngang từ
đông sang tây, nơi rộng nhất là 195 km. Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng
102 km. Phía đông bắc của tỉnh giáp với Trung Quốc, phía nam giáp vịnh Bắc Bộ,
có chiều dài bờ biển 250 km, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải
Phòng, đồng thời phía tây bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương
Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông bắc phường Trà Cổ, thành
phố Móng Cái, ngoài khơi là mũi Sa Vĩ. Điểm cực tây thuộc xã Bình Dương và
xã Nguyễn Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc
Vừng, huyện Vân Đồn.Điểm cực bắc thuộc thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô,
huyện Bình Liêu.
2.1.2. Địa hình.
Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải. Hơn 80% đất đai là đồi núi. Hơn
hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi.
Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua Bình
Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn
Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi
chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507 m) và Cao Xiêm (1.330 m) chiếm phần lớn
diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166 m)
ở phía bắc huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ,
phía bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi
này là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông
Triều với đỉnh Yên Tử (1.068 m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094 m) trên
đất Hoành Bồ.
25
Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá
và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền
sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên,
Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa
tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên
Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Đầm Hà, đông
nam Hải Hà, nam Móng Cái. Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa
hình độc đáo. Hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779),
đảo trải dài theo đường ven biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp. Có những đảo
rất lớn như đảo Cái Bầu, Bản Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện
hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên vịnh Hạ Long và Bái Tử
Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng địa hình karst bị nước bào mòn tạo
nên muôn nghìn hình dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú.
2.1.3. Khí hậu
Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam vừa
có nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Các quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân
Đồn ... có đặc trưng của khí hậu đại dương.
Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có một mùa hạ nóng ẩm, mưa
nhiều; một mùa đông lạnh, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất.
Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên hàng năm có hai lần mặt trời qua thiên
đỉnh, tiềm năng về bức xạ và nhiệt độ rất phong phú.
2.1.4. Sông ngòi và chế độ thủy văn
Quảng Ninh có đến 30 sông, suối dài trên 10 km nhưng phần nhiều đều nhỏ.
Diện tích lưu vực thông thường không quá 300 km2, trong đó có 4 con sông lớn là
hạ lưu sông Thái Bình, sông Ka Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ. Nước ngập
mặn xâm nhập vào vùng cửa sông khá xa. Lớp thực vật che phủ chiếm tỷ lệ thấp ở
các lưu vực nên thường hay bị xói lở, bào mòn và rửa trôi làm tăng lượng phù sa và
đất đá trôi xuống khi có lũ lớn do vậy nhiều nơi sông suối bị bồi lấp rất nhanh, nhất
là ở những vùng có các hoạt động khai khoáng như ở các đoạn suối Vàng Danh,
26
sông Mông Dương. Về phía biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn
nhưng kín lại có nhiều lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển
Trung Bộ. Chế độ thuỷ triều ở đây là nhật triều điển hình, biên độ tới 3-4 m. Nét
riêng biệt ở đây là hiện tượng sinh "con nước" và thuỷ triều lên cao nhất vào các
buổi chiều các tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con
nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ có dòng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo
nước lạnh lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 130C.
2.1.5. Dân số
Theo kết quả điều tra sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân
số Quảng Ninh hiện nay có 1.144.381 người, trong đó nữ có 558.793 người. Tỷ lệ dân số
sống ở khu vực thành thị của Quảng Ninh. Kết cấu dân số ở Quảng Ninh có mấy nét
đáng chú ý. Trước hết là "dân số trẻ", tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tới 37,6%.
Người già trên 60 tuổi (với nam) và trên 55 tuổi (với nữ) là 7,1%. Các huyện miền
núi tỉ lệ trẻ em dưới tuổi lao động còn lên tới 45%. Nét đáng chú ý thứ hai là ở
Quảng Ninh, nam giới đông hơn nữ giới (nam chiếm 50,9 %, nữ chiếm 49,1%).
Ngược với tỷ lệ toàn quốc. Ở các địa phương có ngành công nghiệp mỏ, tỷ lệ này
còn cao hơn, ví dụ: Cẩm Phả, nam 53,2%, nữ 46,8%.
Mật độ dân số của Quảng Ninh hiện là 188 người/km vuông (năm 1999 là
196 người/ km vuông), nhưng phân bố không đều. Vùng đô thị và các huyện miền
tây rất đông dân, thành phố Hạ Long 739 người/km2, huyện Yên Hưng 415
người/km2, huyện Ðông Triều 390 người/km2. Trong khi đó, huyện Ba Chẽ 30
người/km2, Cô Tô 110 người/km2, Vân Ðồn 74 người/km2. Tính đến năm 2012,
dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt gần 1.177.200 người, mật độ dân số đạt 193
người/km²
2.1.6. Dân tộc
Dân tộc, Quảng Ninh có 22 thành phần dân tộc, song chỉ có 6 dân tộc có
hàng nghìn người trở lên, cư trú thành những cộng đồng và có ngôn ngữ, có bản sắc
dân tộc rõ nét. Ðó là các dân tộc Việt (Kinh), Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa.
27
Trong các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, người Việt (Kinh)
chiếm 89,23% tổng số dân. Họ có gốc bản địa và nguồn gốc từ các tỉnh, đông nhất
là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Họ sống đông đảo nhất ở các đô thị, các khu công
nghiệp và vùng đồng bằng ven sông, ven biển. Do có số người chuyển cư đến từ rất
nhiều đời, nhiều đợt nên Quảng Ninh thực sự là nơi "góp người". Sau người Việt
(Kinh) là các dân tộc thiểu số có nguồn gốc từ lâu đời. Người Dao (4, 45%) có hai
nhánh chính là Thanh Y, Thanh Phán, thường cư trú ở vùng núi cao. Họ còn giữ
được bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ, y phục, lễ hội và phong tục, một bộ phận vẫn
giữ tập quán du canh du cư làm cho kinh tế văn hoá chậm phát triển.Người Hoa (0,
43%), người Sán Dìu (1,80%), Sán chỉ (1,11%) ở vùng núi thấp và chủ yếu sống
bằng nông nghiệp với nghề trồng cấy lúa nước.
2.1.7. Tôn giáo, tín ngưỡng
Quảng Ninh là một vùng đất có nền văn hoá lâu đời. Văn hoá Hạ Long đã
được ghi vào lịch sử như một mốc tiến hoá của người Việt. Cũng như các địa phương
khác, cư dân sống ở Quảng Ninh cũng có những tôn giáo, tín ngưỡng để tôn thờ
Ðạo Phật đến với vùng đất này rất sớm. Trước khi vua Trần Thái Tông
(1225-1258) đến với đạo Phật ở núi Yên Tử thì đã có nhiều các bậc chân tu nối tiếp
tu hành ở đó. Vua Trần Nhân Tông (1279-1293) chọn Yên Tử là nơi xuất gia tu
hành và lập nên dòng Thiền trúc Lâm ở Việt Nam. Thế kỷ 14, khu Yên Tử và
Quỳnh Lâm (Ðông Triều) là trung tâm của Phật giáo Việt Nam, đào tạo tăng ni cho
cả nước. Nhiều thế kỷ sau đó, Ðạo Phật vẫn tiếp tục duy trì với hàng trăm ngôi chùa
ở Quảng Ninh, trong đó có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Lôi Âm, chùa Long
Tiên (Hạ Long), Linh Khánh (Trà Cổ), Hồ Thiên (Ðông Triều), Linh Quang (Quan
Lạn)...Những người tôn thờ các tôn giáo khác cũng có nhưng không đông như tín
đồ Ðạo Phật. Hiện có 27 nhà thờ Ky Tô giáo của 9 xứ thuộc 41 họ đạo nằm ở 8
huyện, thị xã, thành phố. Số giáo dân khoảng hơn một vạn người. Tín đồ đạo Cao
Ðài hiện có khoảng vài chục người. Tín ngưỡng phổ biến nhất đối với cư dân sống
ở Quảng Ninh là thờ cúng tổ tiên, thờ các vị tướng lĩnh nhà Trần có công với dân
28
với nước, các vị Thành Hoàng, các vị thần (sơn thần, thuỷ thần), thờ các mẫu (Mẫu
Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải)...
2.1.8. Tiềm năng phát triển du lịch
Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh của tam giác
tăng trưởng du lịch miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh thắng nổi tiếng
là vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và di
sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Vịnh Hạ Long là địa điêm du lịch lý tưởng
của Quảng Ninh cũng như miền bắc Việt Nam. Tiềm năng du lịch Quảng Ninh nổi
bật.Quảng Ninh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại nhất của cả nước, có nhiều
bãi biển đẹp, có cảnh quan nổi tiếng của vịnh Hạ Long, Bái Tử Long cùng các hải
đảo đã được tổ chức UNESCO công nhận là “di sản văn hoá thế giới” cùng hàng
trăm di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật tập trung dọc ven biển với mật độ cao vào
loại nhất của cả nước.
2.1.8.1.Thắng cảnh
Quảng Ninh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại nhất của cả nước, có
nhiều bãi biển đẹp, có cảnh quan nổi tiếng như vịnh Hạ Long – 2 lần được Unesco
xếp hạng di sản thiên nhiên thế giới và trở thành 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới
của thế giới. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: Đá, nước và bầu trời.
Hệ thống đảo đá Hạ Long muôn hình vạn trạng. Đường nét, họa tiết, màu sắc của
đảo núi, hòa quyện với trời biển tạo ra một bức tranh thủy mặc. Hòn Đỉnh Hương
toát lên ý nghĩa tâm linh. Hòn Gà Chọi có một chiều sâu triết học. Hòn Con Cóc
ngàn năm vẫn đứng đó kiện trời. “Những tảng khối xù xì lạnh xám dường như
muốn lưu giữ và gợi nhớ cuộc sống biến chuyển không ngừng đã hóa thân thành
hình mái nhà, mẹ bồng con, ông cụ, mặt người...”. Hạ Long đẹp như “một lẵng hoa
nổi bềnh trên sóng biển mẹ hiền” (Lời của nhà văn Nguyễn Tuân).
2.1.8.2. Tài nguyên du lịch Văn hoá – Tâm linh
Khu Di tích nhà Trần ở Đông Triều : Hiện nay, trên địa bàn Thị xã Đông
Triều có 121 Di tích lịch sử văn hóa và nơi thờ tự, là một trong những địa phương
có số lượng di tích lớn nhất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh với 01 khu Di tích lịch sử
29
Quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều; 04 di tích Quốc gia, 17 Di tích cấp tỉnh.
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh,
nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát Vị Hoàng Đế"
thời Trần. Khu di tích gồm có đền thờ và lăng mộ của các vua Trần (1225-1400 )
Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam
và đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử. Đền và lăng mộ nhà
Trần được xây dựng thời nhà Trần, được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, quần
thể di tích gồm một đền và 8 lăng mộ.
Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng
nặng. Ngày nay với ý thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng mộ
nhà Trần đang dần được quan tâm khôi phục đúng với tầm cỡ của nó để bảo tồn và
phát huy một di sản văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục truyền thống
cho các thế hệ mai sau, tạo thành một khu di tích thu hút du khách bốn phương.
Khu đền Sinh thuộc thôn Nghĩa Hưng là nơi thờ chung 8 vị vua Nhà Trần và lăng
mộ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Giản Định Đế. Lăng mộ Trần Anh
Tông ở khu trại Lốc, lăng Trần Minh Tông ở khu Khe Gạch, lăng Trần Hiến Tông ở
khu Ao Bèo, lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn, lăng Trần Nghệ Tông ở khu
Khe Nghệ. Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều đình
còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều toà điện miếu lớn để làm nơi tế lễ bái yết và
cắt cử các quan về trông coi cẩn thận. Toàn bộ khu vực này trở thành thánh địa tôn
nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Ngoài hệ thống Di tích, Đông Triều còn được biết đến là vùng đất của làng
nghề gốm sứ truyền thống và thắng cảnh hồ, đập, vườn rừng, cảnh quan thiên nhiên
đã hình thành chuỗi du lịch văn hóa tâm linh, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, trải
nghiệm hấp dẫn khách du lịch. Thị xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và xác định
phát triển văn hóa – du lịch là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển
kinh tế - xã hội của Thị xã với 03 định hướng đó là: du lịch văn hóa tâm linh, du
lịch làng nghề truyền thống và du lịch sinh thái đồng quê, trên cơ sở khai thác và
30
phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, từng bước đưa Đông Triều
trở thành 01 trong 04 trung tâm du lịch trọng điểm của tỉnh.
Cụm Di tích chiến thắng Bạch Đằng
Di tích bãi cọc Bạch Đằng: Bãi cọc Bạch Ðằng nằm trong khu đầm nước
của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc xã Yên Giang, thị xã Quảng Yên, tỉnh
Quảng Ninh. Ðã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử
(số191 VH/QÐ ngày 22 tháng 3 năm 1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng
Bạch Ðằng. Bãi cọc Bạch Ðằng tồn tại cùng thời gian là nhân chứng trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng
dân tộc Trần Quốc Tuấn ở thế kỷ XIII. Vào thế kỷ XIII, sau 2 lần tiến quân xâm
lược Việt Nam bị thất bại thảm hại (1258, 1285) năm 1288 quân Nguyên Mông quyết
tâm xâm lược nước ta một lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc
lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đuờng bộ và đường thuỷ.
Đền Trần Hưng Đạo: Đền Trần Hưng Đạo toạ lạc trên đôi đất bên bờ sông
Bạch Đằng thuộc địa phận xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Đền được
Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng với miếu Vua Bà
(số 100 VH/QĐ ngày 21/ 1/ 1990) bổ sung cho di tích Bãi cọc Bạch Đằng.
Đền Trần Hưng Đạo trước đây được xây dựng ở khu hậu đồng, cách đền ngày nay
gần 1.000 m về hướng đông, năm 1936 mới chuyển về cạnh miếu Vua Bà ở vị trí
hiện nay. Đền được xây dựng ngay trên mảnh đất diễn ra trận đại thắng Bạch Đằng
năm 1288 mà những cọc gỗ dưới đầm Yên Giang là một minh chứng
Đền kiến trúc theo kiểu chữ “đinh” (J), gồm ba gian tiền đường, hai gian bái đường
và một gian hậu cung. Hiện vật quý còn giữ lại trong đền là một số câu đối ca ngợi
công lao to lớn của Trần Hưng Đạo đối với giang sơn đất Việt, một bộ kiệu bát
cống được chạm trổ, điêu khắc tỉ mỉ và bốn đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong
cho các chủ nhân đền Trần Hưng Đạo. Lễ hội đền Trần Hưng Đạo - Miếu Vua Bà
diễn ra vào ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm.
31
Miếu Vua Bà: Miếu Vua Bà thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh
Quảng Ninh, được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng
với đền Trần Hưng Đạo.
Miếu được xây dựng từ thời Trần trên doi đất cổ, cạnh bến đò cũ ngày xưa
và đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Đây là một trong số di tích nằm trong quần
thể bãi cọc Bạch Đằng, đình Yên Giang, đền Trung Cốc và đình Trung Bản, những
dấu ấn của Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử 1288. Lễ hội đền Trần Hưng Đạo, miếu
Vua Bà cùng diễn ra ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm. Tương truyền rằng trong
chuyến đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần Hưng Đạo qua bến đò gặp
một cụ bà bán nước đã hỏi thăm vùng đất này. Bà cụ đã cung cấp cho Trần Hưng
Đạo lịch triều con nước, địa thế dòng sông và còn bày cho chiến thuật hoả công để
đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Đạo đã quay lại bến đò tìm bà cụ bán
hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là “Vua Bà”
và lập đền thờ tại đây.
Cây lim Giếng Rừng (Cây lim cổ thụ): Hai cây lim Giếng Rừng nằm dưới
chân núi Tiên Sơn thuộc phố Ðoàn Kết, thị trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh
Quảng Ninh. Hai cây lim này có tuổi thọ trên 700 năm cùng với các địa danh cổ còn
lưu lại đến ngày nay như Sông Rừng, Bến Rừng, Chợ Rừng, Giếng Rừng... chứng
tỏ xưa kia là vùng đất ven sông Bạch Ðằng là những cánh rừng cổ mà dấu vết còn
lại đến nay có liên quan mật thiết với các trận địa cọc trên sông Bạch Ðằng năm
xưa. Mặc cho thời gian và khí hậu khắc nghiệt nhưng cây vẫn xanh tươi, như một
tượng đài chiến thắng giản dị, đơn sơ và đầy sinh lực. Hai cây lim Giếng Rừng đã
được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử số 191 VH/QÐ ngày
23/3/1998 bổ sung cho di tích bãi cọc Bạch Ðằng.
Ðình Yên Giang (An Hưng đền): Ðình Yên Giang nằm trên một gò đất cao ở
trung tâm xã Yên Giang, huyện Yên Hưng. Ðình thờ Thành Hoàng làng là vị anh
hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo. Ðình Yên Giang và đền Trần Hưng Ðạo có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Ðền thờ Trần Hưng Ðạo là nơi thờ thường xuyên thành
Hoàng của Làng. Do vậy vào các ngày sinh, ngày hoá của Trần Hưng Ðạo vào ngày
32
giỗ trận (ngày 8/3 âm lịch, ngày chiến thắng Bạch Ðằng 1288) và các dịp làng có sự
như cầu mưa, cầu phước...dân làng đều rước tượng Trần Hưng Ðạo từ đền về đình
để tế lễ, cầu xin Thành Hoàng làng che chở. Ðình kiến trúc theo kiểu chữ Ðinh (J)
gồm 5 gian tiền đường, 3 gian bái đường và 1 gian hậu cung. Hiện nay đình còn lưu
giữ được một bát hương sứ thời Lê, 2 bia đá chạm nổi trên trán và diềm hình rồng
thời Nguyễn, câu đối, đại tự và 6 đạo sắc của các vua triều nguyễn phong cho
Thành Hoàng làng Trần Hưng Ðạo, 5 long ngai, 1 bộ kiệu Bát Cống và long đình
được chạm trổ kênh bong sắc nét hình rồng và hoa văn hoa lá sơn son thiếp vàng
thời Nguyễn. Lễ hội đình Yên Giang gắn bó mật thiết với đền Trần Hưng Ðạo -
miếu Vua Bà và bãi cọc Bạch Ðằng vào ngày 8/3 âm lịch, kỷ niệm ngày chiến thắng
Bạch Ðằng năm 1288.
Ðền Trung Cốc: Ðền Trung Cốc nằm trên gò đất cao ở giữa thôn Ðông Cốc,
xã Nam Hoà, huyện Yên Hưng. Ðền thờ anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và
Phạm Ngũ Lão. Tương truyền, để chuẩn bị cho xây dựng bãi cọc .đồng Vạn Muối ở
cửa Sông Kênh, 2 ông đã bị cạn thuyền gò đất thôn Ðông Cốc (ngày nay) và phải huy
động dân binh, thuyền chài tới kéo thuyền ra. Ðể ghi nhớ sự kiện này, sau chiến thắng
Bạch Ðằng, nhân dân đã lập đền thờ ngay tại chỗ thuyền bị mắc cạn trước đây
Đình Trung Bản:Đình Trung Bản nằm trên gò đất thuộc xóm Thượng, thông
Trung Bản, xã Liên Hòa, thị xã Quảng Yên. Đình thờ Thành Hoàng làng là vị anh
hung dân tộc Trần Hưng Đạo. Đình Trung bản kết cấu theo kiểu chữ đinh (J) gồm 5
gian tiền đường, 3 gian bái đường và 2 gian hậu cung. Hiện nay đình còn lưu giữ
được một số hiện vật quý từ thời hậu Lê, thời Nguyễn là những tác phẩm khéo léo
của các nghệ nhân thể hiện mang đậm phong cách cổ truyền Việt Nam như hai tấm
bia đá (1460-1497), kiệu bát cống, sập chân quỳ, quán tẩy, hoành phi, câu đối và 6
đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho thành hoàng làng là Trần Hưng Đạo.
Đặc biệt là tượng Trần Hưng Đạo ngồi long ngai với mái tóc để xõa sau lương,
quần áo, mũ, cân đai được chạm trổ công phu, tỉ mỉ, son son thiếp vàng. Bức tượng
được các nhà điêu khắc, mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao và coi như một trong
những tượng mẫu chuẩn về Trần Hưng Đạo. Hội đình Trung Bản diễn ra vào ngày
33
8/3 âm lịch cùng với hội đình Yên Giang, đền Trần Hưng Đạo – miếu Vua Bà, đền
Trung Cốc và bãi cọc Bạch Đằng, đó cũng là ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng
năm 1288.
Di tích thương cảng Vân Đồn: Vân Đồn là cảng ngoại thương đầu tiên ở
nước ta. Vân Đồn thuộc quẩn đảo Vân Hải, ngày nay thuộc huyện Vân Đồn, nằm ở
phía đông nam vịnh Hạ Long. Quy mô lớn của thương cảng Vân Đồn một thời sầm
uất đã được các nhà khào cổ ghi nhận qua việc phát hiện nhiều bến bãi với đồ gốm
và tiền đồng nhiều triều đại, trên suốt một dải đảo từ Cống Đông, Cống Hẹp, Cống
Yên, Ngọc Vừng đến Minh Châu, Quan Lạn.....
Trên hết, Vân Đồn là thương cảng lớn, vật phẩm trao đổi với thuyền buôn
ngoại quốc tại đây có mặt hàng lâm sản, hải sản, hương liệu, lụa là, gấm vóc.
Nhưng mặt hàng chủ đạo từ đời Lý đến đời Trần vẫn là đồ sành sứ mà những mảnh
vỡ trong khi bốc xếp kết thành từng tầng trên các bến thuyền là một minh chứng.
Cụm di tích và danh thắng Núi Bài Thơ
Núi Bài Thơ :Một ngọn núi đá vôi cao 106 m nằm ở trung tâm thành phố
Hạ Long, kề ngay bên vịnh Hạ Long, nhìn xa trông như một toà lâu đài khổng lồ
với ba ngọn tháp nhấp nhô trên những bức tường thành kiên cố. Đó là núi Bài Thơ.
Xưa kia núi còn có tên là núi Truyền Đăng (Rọi Đèn). Ngọn núi này đã làm xúc
cảm bao tâm hồn thi sĩ. Năm 1468, Hoàng đế - thi sĩ Lê Thánh Tông, trong chuyến
đi kinh lý ở phía đông đã dừng chân tại đây. Xúc động trước vẻ đẹp thần tiên của
mây trời non nước Hạ Long, nhà vua đã làm một bài thơ và cho khắc vào phía nam
của vách núi đá, cái tên núi Bài Thơ có từ đó. Năm 1729, chúa Trịnh Cương đã làm
một bài thơ họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tông và cho khắc vào ngay gần đấy.
Cũng tại đây còn có bài thơ của Nguyễn Cẩn (1790) và một số bài thơ khác.Leo núi
Bài Thơ là một thú vui hấp dẫn. Đứng trên đỉnh núi Bài Thơ, du khách không khỏi
ngỡ ngàng trước quanh cảnh kỳ vĩ của vịnh Hạ Long, xa xa là biển nước xanh mênh
mông, đảo đá nhấp nhô điểm xuyến những con thuyền, con tàu nhỏ xíu. Nhìn lên
cao là trời mây lồng lộng, xung quanh là cỏ cây hoa lá với tiếng chim hót ríu rít thật
thanh bình. Núi Bài Thơ - một di tích danh thắng nổi tiếng của Hạ Long.
34
Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn: Ngôi đền toạ lạc tại chân núi Bài Thơ
thuộc khu vực Bến Đoan - Hòn Gai, thành phố Hạ Long. Đền được xây dựng trên
một nền đất cao, lưng tựa vào vách núi, mặt hướng ra vịnh.
Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn, (Đền Đức Ông ) con thứ của Trần
Hưng Đạo và là vị tướng tài ba dũng mãnh trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên. Ông còn là một người con tận hiếu, là người tôi tận trung. Để tưởng nhớ
công lao to lớn của ông, một ngôi đền thờ do các chủ thuyền thường hay qua lại
dựng tại chân núi Bài Thơ. Đền có từ rất lâu đời gồm có ba gian bái đường, một hậu
cung. Đền thờ Mẫu nằm ở bên phải đền chính. Ban chính thờ Trần Quốc Nghiễn,
ban bên phải thờ Đệ Nhất Vương Cô, ban trái thờ Đệ Nhị Vương Cô. Trong đền có
đầy đủ nghi trượng, bát bửu, các đồ tế khí.
Chùa Long Tiên: Chùa Long Tiên được xây dựng vào năm 1941, là ngôi
chùa lớn nhất và là một di tích lịch sử danh thắng nổi tiếng ở thành phố Hạ Long.
Chùa toạ lạc dưới chân núi Bài Thơ, gần chợ Hạ Long, tại phố cũng mang tên "Phố
Long Tiên”. Chùa có phong cách kiến trúc độc đáo hiếm thấy, mang phong cách
kiến trúc và điêu khắc của các ngôi chùa thời nhà Nguyễn, kiểu chồng giường giá
chiêng và những hoạ tiết hoa văn trang trí rồng phượng, hoa lá cách điệu. Trên đỉnh
tam quan là tượng phật A di đà với tư thế ngồi, dưới là gác chuông, nổi bật ba chữ
“Long Tiên Tự”. Hai bên là hai câu đối. Chính điện thờ Phật, bên phải thờ các
tướng lĩnh nhà Trần, bên trái là cung Tam Phủ Thánh Mẫu.Chùa nằmở trung tâm
thành phố nên rất thuận tiện cho khách đến viếng thăm. Trước kia, chùa Long Tiên
mở hội chính vào ngày 24/3 (âm lịch). Còn hiện nay ngày nào cũng là hội. Khách du
lịch Việt Nam và nước ngoài đến vãn cảnh chùa, các tín đồ dâng hương cúng Phật,
tụng kinh... nhưng đông nhất là ngày rằm và mồng một hàng tháng và đặc biệt vào dịp
Tết Nguyên đán.
Đền Cửa ông: Đến với Đền cửa ông du khách sẽ được tìm hiểu về gia tộc họ
trần, người có công trấn ải vùng cửa Suốt, kiên quyết giữa hải đảo.Tất cả điều đó
nói ý chí nhà Trần chống quân xâm lăng, đến để chiêm ngưỡng định hướng bảo vệ
35
tổ quốc, bảo vệ hải phận, cửa biển. Đó chính là mã ẩn sâu của văn hóa mà điển hình
là Trần Nhật Duật và Trần Khánh Dư đã trở thành huyền thoại.
Đền Cửa Ông tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra vịnh Bái Tử Long, có
cảnh quan tuyệt đẹp, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.Đền
được xây dựng từ đầu thế kỷ 19, gồm ba khu vực chính: đền Hạ, đền Trung và đền
Thượng, được phân bố ở ba vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần. Đền Hạ thờ
Mẫu, khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng, lăng Trần Quốc Tảng,
đền Quan Châu, đền Quan Chánh và chùa. Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu, người
anh hùng của địa phương, sau thờ Trần Quốc Tảng, thờ gia tộc họ trần với nguyên
vẹn là tướng thủy binh, khẳng định một việc đó là nhà Trần tiên quyết giữ cửa biến
đó không cho Trung Quốc xâm phạm,quân Nguyên Mông xâm phạm.
Sau khi Trần Quốc Tảng mất (năm 1313) nhân dân địa phương truyền lại
thấy ông hiển thánh tại khu Vườn Nhãn (phường Cửa Ông ngày nay) nên đã lập
biểu tâu lên vua Trần Anh Tông, được chấp thuận và chu cấp tiền bạc để lập miếu tế
lễ. Khu vực Cửa Ông (xưa gọi là Cửa Suốt) là nơi Trần Quốc Tảng đóng quân đồn trú bảo vệ tuyến biên giới và lãnh hải phía đông bắc Việt Nam lập nhiều công trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên.
Trước khi thờ Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông gọi là Miếu Hoàng tiết chế, thờ
Hoàng Cần, người địa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều
vua phong "Khâm sai Đông Đạo Tiết chế"
Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ “công” (I) gồm ba gian tiền đường, hai
gian ống muống và ba gian hậu cung. Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần
Hưng Đạo và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay. Với 34 pho tượng lớn nhỏ
đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét với tư thế ngồi trong ngai,
khám, long đình rất cân đối, mang giá trị nghệ thuật cao. Đó là tượng Trần Hưng
Đạo, tượng Thánh Mẫu (phu nhân Trần Hưng Đạo), hai công chúa (con gái Trần
Hưng Đạo), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã
Tượng, Phạm Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Đỗ Khắc Chung... và một số câu đối, đồ thờ
tự khác.Từ lâu, đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân
36
Quảng Ninh, mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng tìm đến dâng hương, trẩy hội.
Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng 1 âm lịch và kéo dài đến hết xuân Lễ
hội Đền Cửa Ông tổ chức ngày 3 tháng 2 âm lịch. Nhân dân theo truyền thống
thường đi lễ đền Cửa Ông từ đầu năm mới âm lịch, theo tuyến du lịch lễ hội Côn
Sơn - Kiếp Bạc - Yên Tử - Cửa Ông.
Miếu Tiên Công: Miếu Tiên Công nằm cạnh trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Cẩm
La, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công
nhận là di tích lịch sửMiếu được xây dựng từ lâu, đến năm Gia Long thứ 3 (1804)
thì xây dựng lại và được trùng tu, sửa chữa nhiều lần về sau. Miếu thờ 19 vị Tiên
Công có công đầu tiên trong việc quai đê lấn biển, lập nên đảo Hà Nam với xóm
làng trù phú gồm 7 xã như ngày nay Miếu kiến trúc theo kiểu chữ “nhị” (=) gồm ba
gian, hai chái tiền đường và ba gian hậu cung, khám thờ bài vị, bia đá, câu đối, đại
tự được chạm trổ điêu khắc mang dấu ấn thời Nguyễn. Lễ hội “Miếu Tiên Công”
vào ngày 7 tháng giêng âm lịch hàng năm.Xưa kia đảo Hà Nam là một bãi bồi ngập
nước ở cửa sông Bạch Đằng. Năm 1434 khi vua Lê Thái Tông lên ngôi, cho mở
mang kinh thành, 19 chàng trai quê ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành
Thăng Long (trong đó có bốn người là Quốc tử giám sinh và ba người là hiệu sinh)
đã rủ nhau xuống đây khai phá vùng đất mới. Các chàng trai đã dựa vào các doi đất
cao ở bãi bồi này cùng với dân vạn chài ở đây quai đê lấn biển, lập nên phường
Bông Lưu (sau thành xã Phong Lưu, gồm Cẩm La, Yên Đông)
Các Lễ hội tiêu biểu của tỉnh Quảng Ninh
Lễ hội Yên Tử: Địa điểm:Diễn ra ở vùng núi Yên Tử thuộc xã Thượng Yên
Công, thị xã Uông Bí.
Thời gian: Hàng năm được tổ chức bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng và kéo dài
hết tháng 3 (âm lịch) .Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt thuở trước,
nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Du khách đến lễ hội chùa Yên Tử để được
tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương tôn giáo giữa thiên
nhiên hùng vĩ.
37
Trong quần thể di tích Yên Tử rộng lớn hiện có 11 chùa và hàng trăm am
tháp. Chùa Đồng ở trên đỉnh cao nhất 1.068 m (so với mặt nước biển). Lên chùa
Đồng du khách cảm tưởng như đi trong mây (”nói cười ở giữa mây xanh” - Nguyễn
Trãi). ở Yên Tử có ngọn tháp cổ cao ba tầng bằng đá, niên đại ”Cảnh Hưng thập
cửu niên - 1758”. Cũng không đâu có rừng tháp như khu Tháp Tổ ở Yên Tử gắn
liền với những sự tích huyền thoại về ông vua nhà Trần và phái Thiền Trúc Lâm.
Thú vui ”như hội” là leo núi, lên đỉnh cao nơi có chùa Đồng. Trên đường đi chốc
chốc lại gặp ngôi chùa, ngọn tháp, con suối, rừng cây mỗi nơi là một truyện cổ tích
sâu lắng tình người. Lên đến đỉnh cao sau khi thắp nén nhang, ai nấy đều cảm thấy
như mình đang đứng giữa trời, lòng lâng lângthoát tục. Khi trời quang mây tạnh, từ
nơi đây có thể phóng tầm mắt dõi nhìn khắp vùng Đông Bắc.
Lễ hội Bạch Đằng:
Dòng sông Bạch Đằng đời đời còn ghi chiến tích của những người anh hùng
dân tộc chống giặc ngoại xâm. Đó là: Ngô Quyền với trận địa cọc gỗ đánh tan quân
Nam Hán (năm 938); Lê Hoàn (năm 981) chống quân Tống; Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần (năm 1288) chống quân Nguyên Mông.
Lễ hội Bạch Đằng diễn ra trên vùng đất cổ với bao chứng tích hào hùng, thu hút
hàng vạn người khắp vùng châu thổ Phần lễ, có dâng hương tại đền thờ Trần Hưng
Đạo, miếu Vua Bà. Dân làng rước kiệu dọc bờ sông và giống như nghi lễ của cư
dân sông nước, tục bơi trải là một nghi lễ quan trọng. Trên dòng sông lớn, cuộc đua
tài của nhiều thuyền đua hình lá tre lao vun vút, tiếng hò reo của người dự hội trên
bờ sông như làm sống dậy âm hưởng của trận chiến năm xưa. Phần hội, cùng với
bơi trải, các trò chơi cũng được tổ chức ở nhiều nơi như đấu vật, đánh cờ người,
chọi gà... Trước kia hội còn tổ chức trò diễn sông Hồng về dự., tái hiện cuộc tập
trận của quân dân đời nhà Trần.
Lễ hội đền Cửa Ông:
Đền Cửa Ông là một trong những di tích nhà Trần nổi tiếng ở vùng Đông
Bắc. Đền có ba khu: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng tạo thành quần thể kiến trúc
hình chân vạc trông ra vịnh Bái Tử Long hùng vĩ. Trong chiến tranh, đền Trung và
38
đền Hạ đã bị phá hủy, ngày nay đền Hạ đã được phục hồi Đền Cửa Ông có tiếng
linh thiêng từ khi mới chỉ là một thảo am dưới gốc cây cổ thụ bên bờ cửa Suốt.
Vào mùa lễ hội, đền Cửa Ông nườm nượp du khách từ khắp mọi miền đất nước.
Khách đến dự lễ hội có thể đi bằng đường bộ qua thành phố Hạ Long, cũng có thể
đi bằng đường thủy ven vịnh Hạ Long, qua vịnh Bái Tử Long đến sát cửa đền Hạ.
Trước kia nhân dân ở địa phương có tổ chức ngày hội chính vào ngày mùng 2 tháng
3 âm lịch. Lễ hội được tổ chức linh đình gồm phần tế lễ và rước kiệu bài vị Trần
Quốc Tảng. Kiệu được rước từ đền ra miếu ở xã Trác Chân, tên tục là Vườn Nhãn
(theo truyền thuyết là nơi Đức Ông hoá trôi dạt vào...) và quay trở về đền tượng
trưng cho cuộc tuần du của Đức Ông·
Lễ hội chùa Long Tiên:Diễn ra tại chùa Long Tiên dưới chân núi Bài Thơ,
thành phố Hạ Long.Chính hội vào ngày 24 tháng 3 âm lịch hàng năm. Chùa Long
Tiên được xây dựng cách đây không lâu (năm 1941) nhưng là ngôi chùa lớn nhất ở
thành phố Hạ Long. Lễ hội chùa Long Tiên không chỉ dành riêng cho các tín đồ đạo
Phật, nó mang ý nghĩa tâm linh cao cả cho tất cả mọi người. Chùa Long Tiên tọa lạc
ngay dưới chân núi Bài Thơ. Đây là một di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng.
Có thể nói chùa Long Tiên ngày nào cũng là hội. Khách du lịch Việt Nam và
nước ngoài vào vãn cảnh chùa, các tín đồ dâng hương cúng Phật, tụng kinh... nhưng
đông nhất là ngày rằm và mồng một hàng tháng và đặc biệt vào dịp Tết Nguyên đán.
Lễ hội Thập Cửu Tiên Công: Diễn ra ở đền Thập Cửu Tiên Công, thuộc xã
Cẩm La, đảo Hà Nam, huyện Yên Hưng. Hàng năm dân làng mở hội vào ngày 7
tháng giêng (âm lịch). Đền Thập Cửu Tiên Công (còn gọi là miếu Tiên Công) thờ
19 vị Tiên Công - những người có công đầu tiên quai đê lấn biển lập nên khu đảo
Hà Nam trù phú, làng xóm đông vui như ngày nay. Lễ hội được tổ chức để tưởng
nhớ công lao của các vị Tiên Công.
Truyền thuyết kể lại rằng ngày mở hội chính là ngày các vị Tiên Công tìm ra
mạch nước ngọt trên đảo cách đây trên 500 năm.
Tại đền Tiên Công các vị chức sắc làm lễ cáo yết Tiên Ngày mồng 7, các cụ
thượng thọ từ 70 tuổi trở lên cùng con cháu ra đền lễ Tiên Công. Con cháu đội các
39
mâm lễ vật đi trước. Mâm lễ có trầu cau, rượu, xôi, gà hoặc thủ lợn, đặc biệt là các
hương án trên có con long mã kết Công và bình chọn bốn cụ thượng thọ khoẻ mạnh,
gia đình hoà thuận, con cái chăm ngoan để làm lễ động thổbằng hoa quả. Các cụ
thượng thọ đi sau. Các cụ già yếu thì được con cháu khiêng bằng võng, che bằng
lọng. Mỗi gia đình, dòng họ tạo thành một đám rước.
Lễ hội Trà Cổ:
Trà Cổ nằm ở nơi “đặt nét bút đầu tiên để vẽ hình chữ S của bản đồ đất nước”. Trà
Cổ có bãi biển đẹp lý tưởng cho du khách. Cư dân Trà Cổ vốn gốc ở Đồ Sơn. Đình Trà Cổ
cũng là nơi thờ Quận He (Nguyễn Hữu Cầu), một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa thời
Lê - Trịnh. Ngôi đình lớn đại diện cho kiến trúc đình làng của người Việt hiện nay
vẫn được bảo tồn.
Lễ hội Quan Lạn: Diễn ra ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn. Được tổ
chức vào ngày 18 tháng 6 (âm lịch) hàng năm nhưng lễ hội kéo dài từ ngày 10 đến hết ngày
20 tháng 6. Lễ hội Quan Lạn vừa kỷ niệm chiến thắng giặc Nguyên Mông năm 1288 và
chiến công của Trần Khánh Dư, một danh tướng của nhà Trần vừa là ngày hội cầu được
mùa của cư dân vùng biển. Lễ hội Quan Lạn (còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), là hội làng của
người dân xã đảo Quan Lạn, một hòn đảo nằm ở khu trung tâm thương cảng cổ Vân Đồn
2.1.8.3. Ấm thực.
Nói đến ẩm thực Quảng Ninh là nói đến một sản phẩm du lịch văn hóa đặc
biệt vì nền ẩm thực gắn liền với văn hóa biển, ẩm thực biển, văn hóa ẩm thực “vùng
đông bắc” Việt Nam. Từ rất sớn trong lịch sử, cư dân đông đúc nên kinh tế biển
được khai thác mạnh mẽ. Là vùng biên giới nên việc khai thác cung cấp xuyên biên
giới. Từ khi mở cửa Quảng Ninh đã trở thành vùng biển du lịch, sức tiêu thụ ẩm
thực vô cùng lớn.
Quảng Ninh là vùng biển nông, nhiều vũng vịnh nên có một nền ẩm thực vô
cùng phong phú, đang dạng và đặc sắc làm mê mẩn du khách thập phương đến
thưởng thức ẩm thực của nền văn hóa dân gian vùng biển, nền văn hóa Hạ Long.
Người ta đã tìm ra có tới hàng trăm món ăn dân gian từ xa xưa ở vùng biển Quảng
Ninh. Có thể kể đến các đặc sản nổi tiếng như: Chả mực giã tay Hạ Long, Ruốc Lỗ -
40
Hạ Long, Bún xào ngán - Hạ Long, Sam biển Hạ Long, Sam Quảng yên, Canh Hà
Quảng Yên, Nem chua, Nem Chạo Quảng Yên, Sò Huyết – Hạ Long, Mực hấp ổi -
Hạ Long, Con Sá Sùng - Hạ Long. Con Bề Bề - Hạ Long, Con Cù Kỳ - Hạ Long…Và
tất nhiên, đã là món ăn dân gian thì thường đơn giản, dễ kiếm, dễ làm, dễ ăn.
Quảng Ninh nổi bật với các món chế biến từ hải sản như tôm, cua, ghẹ, cù
kỳ, tu hài, hầu, sò, sam, ruốc, bánh gio, bánh giầy, ngán, sâu đất, sá sùng, gà đồi
Tiên Yên. Nhưng đặc biệt không thể không kể đến Chả mực giã tay của Hạ Long,
chả cá thu. Ngoài ra còn có miến rong Bình Liêu, rượu Ba Kích, rượu ngán, rượu
mơ Yên Tử, nem chạo, Nem Chua, Canh Hà Quảng Yên…
2.1.8.4. Nghệ thuật
Dân ca: Làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh, Chèo và Cải lương là 3 loại
hình dân ca Việt Nam thường được các đoàn nghệ thuật Quảng Ninh biểu diễn để
phục vụ các hoạt động du lịch.
Nghệ thuật rối nước: Có nguồn gốc ở những làng quê thuộc đồng bằng châu
thổ sông Hồng, đây là một hình thức nghệ thuật độc đáo của miền Bắc Việt
Nam, hiện rối nước được biểu diễn ở làng quê Yên Đức và thành phố Hạ Long.
Loại hình nghệ thuật này có sức hấp dẫn đối với nhiều thị trường du lịch.
Một số hoạt động văn hóa nghệ thuật dân gian khác: Cũng giống như các tỉnh,
thành phố Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phổ biến một số loại hình văn
hóa nghệ thuật dân gian truyền thống như thi đấu vật, đấu cờ, kéo co, đẩy gậy, chọi
gà…Tại một số địa phương có thêm một số loại hình riêng như thi cấy lúa của phụ
nữ ở đảo Hà Nam - thị xã Quảng Yên; nghi lễ văn hóa của dân tộc Sán Dìu, hát
“Then" của người Tày, hát “Soóng cọ” của người Sán Chỉ, hát “Sán Cố” của người
Dao, thi ném “Còn”, thi bắn “Nỏ” của người Dao ở các huyện miền núi, biên giới;
hát Đối, hát Giao duyên, hát Chèo đường của dân cư vùng biển…
Hoạt động văn hóa văn nghệ của Dân tộc Dao:
Trong đó, một số loại hình tiêu biểu đã được Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
và các địa phương phục dựng, tổ chức biểu diễn trong các lễ hội và lễ hội đường
41
phố. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ và chưa được chuyên nghiệp hóa nên giá trị
phục vụ du lịch chưa nhiều.
Tóm lại, về tổng thể, Quảng Ninh có những lợi thế độc đáo về các sản phẩm
du lịch văn hóa, với điểm đến thu hút tầm cỡ thế giới như Vịnh Hạ Long, sự công
nhận của UNESCO và cơ sởvững mạnh về lượng khách du lịch nội địa. Điều cực kỳ
quan trọng đối với tỉnh là cần nắm bắt được xu hướng của thế giới về du lịch sinh
thái và thị trường du lịch láng giềng Trung Quốc hiện phát triển nhanh chóng. Tỉnh
có thế mạnh về lực lượng dân số trẻ và đa dạng những điểm thu hút du lịch khác nơi
có tiềm năng du lịch cao như Yên Tử. Tuy nhiên, tỉnh cần phải nâng cao khả năng
tiếp cận, thu hút khách sạn nhà hàng tầm cỡ quốc tế, giải quyết những thách thức
mùa vụ và thời tiết, tuyển dụng các chuyên gia về ngành khách sạn được huấn
luyện kỹ càng và đảo ngược xu thế gây xuống cấp của môi trường và những mâu
thuẫn với các ngành công nghiệp địa phương. Các quốc gia khác đang đi trước
trong kinh doanh du lịch, họ thu hút khách du lịch quốc tế nhờ có khả năng tiếp
cận và cơ sở vật chất tốt hơn nên tỉnh cần phải phát triển nhanh nhằm đạt được
đẳng cấp thế giới.
Hiện nay, rất nhiều khách du lịch quốc tế đặt tour tham quan Quảng Ninh,
đặc biệt là tour tham quan Vịnh Hạ Long thông qua những đại lý du lịch ở các địa
phương khác trong cả nước. Theo đó, các đại lý du lịch nằm ngoài Quảng Ninh
sẽ hưởng một phần tổng thu từ du lịch Quảng Ninh. Tuy nhiên, chúng tôi nhận
thấy rằng những lợi nhuận các đại lý du lịch thu được là rất nhỏ - đại lý du lịch
phải trả phần lớn trong giá tour cho các dịch vụ sử dụng ở Quảng Ninh. Ví dụ,
một công ty du lịch ở Hà Nội bán các tour trọn gói đi tham quan Vịnh Hạ Long
sẽ phải chi phần lớn trong giá tour để thanh toán tiền ăn, vận chuyển và lưu trú
cho khách du lịch ở Quảng Ninh. Như vậy, mặc dù các công ty du lịch nằm ở
địa bàn các tỉnh khác, Quảng Ninh vẫn thu được hầu hết doanh thu của các công
ty đó.
Lý tưởng nhất là Quảng Ninh cần có thêm nhiều công ty du lịch, như vậy các
công ty đó sẽ có doanh thu và đóng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, hiện tại Quảng
Ninh chưa phải là trung tâm khách du lịch quốc tế - hầu hết số lượng khách du
lịch quốc tế đều đi Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hay tới các tâm điểm du lịch
42
khác và đặt tour từ các đại lý của những tỉnh thành đó. Lý do chính mà khách du
lịch chọn cách đặt tour như vậy là vì họ thấy thuận tiện khi đặt tour trực tiếp mà đơn
vị đại lý du lịch giao tiếp được bằng ngoại ngữ với khách đặt tour và những tour
đó bao gồm cả vận chuyển đến và rời thành phố Hạ Long. Mấu chốt giải quyết vấn
đề này liên quan tới việc phát triển Quảng Ninh thành trung tâm du lịch bao gồm cả
việc xây dựng sân bay quốc tế, các cơ sở hạ tầng giao thông và xây dựng thêm
nhiều sản phẩm du lịch. Quảng Ninh sẽ phát triển ngành du lịch mà theo đó các đại
lý du lịch sẽ sẵn lòng thiết lập hoạt động ở Quảng Ninh.
2.2. Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Khái quát hoạt động du lịch ở Quảng Ninh
2.2.1.1. Thị trường khách du lịch
* Khách nội địa: Thị trường khách nội địa của ngành du lịch Quảng Ninh
chiếm từ 55 – 60% tổng lượng khách du lịch. Khách nội địa đến đây chủ yếu là
nguồn khách từ thành phố Hà Nội, các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh đến từ phía
nam và thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường khách du lịch nội địa bao gồm khách
du lịch ở các độ tuổi và mức thu nhập khác nhau và cả những doanh nhân từ những
tỉnh thànhlân cận đến để tham gia hội họp. Họ có thể đi du lịch một mình hoặc theo
nhóm và ưa chọn những di tích lịch sử, văn hóa và thường đi du lịch vào mùa hè và
những kỳ nghỉ lễ, đặc biệt là vào mùa xuân.
* Khách quốc tế: Theo thống kế của sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh, Về
thị trường khách quốc tế năm 2013: Khu vực đông bắc Á (Trung quốc, Đài Loan,
Hàn Quốc, Nhật) chiếm 55%; Tây âu chiếm 16 %; Bắc Mỹ chiếm 6% số khách
quốc tế lưu trú tại Quảng Ninh. Trong số khách lưu trú tại Quảng Ninh phần lớn
khách từ thị trường Tây âu, Bắc Mỹ, Úc lưu trú trên các tàu du lịch. [25]
2.2.1.2. Doanh thu từ hoạt động du lịch
Năm 2012, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh ước đạt 7 triệu lượt khách
tăng 8% so với cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 2,4 triệu lượt khách tăng 5% so
với cùng kỳ. Khách lưu trú đạt 2,8 triệu lượt tăng 9% so với cùng kỳ, trong đó
khách lưu trú quốc tế đạt 1,3 triệu lượt tăng 11% so với cùng kỳ. Thời gian lưu trú
bình quân đạt 1,5 ngày/khách, chỉ tiêu này thực hiện còn thấp do một số nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ du
43
lịch Quảng Ninh vẫn chưa đủ sức hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Tổng
doanh thu ước đạt 4.100 tỷ đồng tăng 16% so với cùng kỳ. Thị trường khách du lịch
chủ yếu: Trung Quốc (tăng 19% so với cùng kỳ), Nhật (tăng 3% so với cùng kỳ),
Hàn Quốc (tăng 6% so với cùng kỳ),... Các sản phẩm du lịch như: tàu thuyền phục
vụ khách nghỉ đêm trên Vịnh, các cơ sở lưu trú du lịch loại 4-5 sao, dịch vụ vui chơi
giải trí tại các khu du lịch Hoàng Gia, Tuần Châu... ngày càng thu hút được nhiều
khách du lịch có khả năng chi tiêu cao tạo ra nguồn thu lớn.[16]
Cùng với sự tăng trưởng về doanh thu, các khoản thu nộp ngân sách từ các
hoạt động du lịch như thuế, lệ phí tham quan Vịnh Hạ Long…đều tăng trưởng khá,
hoạt động du lịch đã có đóng góp quan trọng trong cơ cấu thu ngân sách của Tỉnh.
Ước tính năm 2014, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 7.500.000
lượt, trong đó khách quốc tế đạt 2.550.000 lượt, Khách lưu trú đạt 3.600.000 lượt,
trong đó khách quốc tế đạt 1.270.600 lượt. Tổng doanh thu du lịch đạt 5.500 tỷ
đồng. [26]
Bảng 2.7: Mức tăng doanh thu du lịch, hiện tại và đến năm 2020
Mức
Mức chi Thời gian chi tiêu Doanh Lƣợng tiêu lƣu trú cho thu hàng khách theo trung mỗi năm hàng năm ngày bình chuyến (triệu (Triệu) (USD) (ngày) du lịch USD)
(USD)
Khách quốc tế 55 1,1 55 2,6 144
khách nội địa 30 0,5 14 4,4 60 2012
39 0,7 29 7,0 205 Tổng số
Khách quốc tế 100 1,7 17 7,5 1.262
Khách nội địa 35 1,0 35 8,0 281 2020
1,3 1.543 66 100 15,5 Tổng số
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Quảng Ninh)
44
* So sánh thu nhập từ du lịch trong 5 năm qua của Quảng Ninh với Khánh
Hòa, Quảng Nam và Quảng Bình
Du lịch đã, đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu GDP của
mỗi tỉnh, phù hợp với quyết định chuyển dịch nền kinh tế của tỉnh với sự đóng góp
lớn hơn của lĩnh vực dịch vụ và du lịch. Quảng Nam là tỉnh có mức tăng trưởng
cao nhất về thu nhập từ khách du lịch trong số các tỉnh trong so sánh, đạt 3.965 tỷ
đồng vào năm 2012 từ mức 1.438 tỷ đồng vào năm 2008 nhờ sức hút từ địa điểm du
lịch Hội An và Mỹ Sơn (nguồn: quangnamtourism.com.vn). Du lịch Quảng Bình,
nổi tiếng với hệ thống hang động kỳ thú, đạt mức thu nhập từ khách du lịch là 575
tỷ đồng vào năm 2008 và tăng vọt lên mức 1.126 tỷ đồng vào năm 2012 (các nguồn
thông tin thu thập được từ Sở Văn hóa thể thao, du lịch tỉnh Quảng Bình, giai đoạn
2008 - 2012).
Tỉnh Khánh Hòa với vịnh Nha Trang nổi tiếng đạt được thu nhập từ khách
du lịch vào năm 2012 là 2.568 tỷ đồng, tăng 90% so với năm 2008. Là một điểm
đến với vịnh Hạ Long là Di sản thế giới và 3 di tích xếp hạng di tích quốc gia
đặc biệt, trong suốt những năm qua, thu nhập từ khách du lịch của tỉnh Quảng
Ninh đạt mức 4.346 tỷ đồng vào năm 2012 so với mức 2.477 tỷ đồng vào năm
2008 (nguồn: thông tin thu thập từ Sở VHTTDL tỉnh Quảng Ninh). Theo các dữ
liệu thu thập được và các tài liệu tham khảo của các tỉnh, tỉnh Quảng Nam có
mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn từ 2008 đến 2012. Về tổng thu nhập
vào năm 2012, tỉnh Quảng Ninh xếp thứ nhất với 4.346 tỷ Đồng
Bảng 2.8. Thu nhập từ khách du lịch trong 5 năm qua
Doanh thu từ hoạt Doanh thu từ hoạt Mức độ tăng
động du lịch năm động du lịch năm trưởng
2008 (Tỷ đồng) 2012 (Tỷ đồng) (%)
Quảng Ninh 2.477 4.346 75%
Khánh Hòa 1.353 2.568 90%
Quảng Nam 1.438 3.965 176%
Quảng Bình 575 1.126 96%
(Nguồn: Tác giả của luận văn)
45
2.2.2.Sản phẩm du lịch
Trong khuôn khổ phần phân tích này, tác giả tập trung vào thực trạng của
từng sản phẩm du lịch tiêu biểu nhất của Quảng Ninh để từ đó giúp người đọc hình
dung được lợi thế và hạn chế mà từng sản phẩm đang mắc phải, tạo cơ sở cho việc
đưa ra các đề xuất giải pháp hợp lý và có tính thực tế nhất có thể áp dụng cho từng
sản phẩm về sau.
2.2.2.1.Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh gắn với nhà Trần.
- Vương triều Trần ở địa danh Yên Tử: Sở dĩ nhà Trần chọn Yên Tử là nơi tu
hành bởi địa thế Yên tử rất hiểm yếu, hung vĩ, có sông, có núi, có biển. Là nơi thắng
địa hùng vĩ, sơn thủy hữu tình, có “âm” và “dương” hòa hợp.Yên Tử như một điểm
nhấn về di lịch văn hóa tâm linh, nhắc tới Yên tử túc là nhắc tới nhà Trần là đó là
nhắc tới câu truyện của Hoàng Đế hóa thành sa môn, ý nói đến Phật giáo thời Trần
lan tỏa rất mạnh sang đời sống chính trị, Phật giáo nhập thế, chi phối đời sống chính
trị, đất nước, có công với dân tộc, nhà Trần sử dụng tôn giáo như một lợi thế để thể
hiện sự nghiệp chính trị. Mà điển hình là vua Trần Nhân Tông. Nói tính thống nhất
giữa phương quyền và quyền lực tối cao và phật quyền. Nhà Trần sử dụng tôn giáo
Việt Nam như một công cụ chính trị nhằm đoàn kết tinh thần Đại Việt chống giặc
ngoài xâm. Chọn Yên Tử bởi địa thế hiểm yếu của địa danh này, từ đây có thể quan
sát giặc từ xa, nhìn cánh cửa biên giới…Nói đến Yên Tử nói đến Phật giáo “Trúc
Lâm tam tổ” lấy tinh thần dân tộc làm căn bản, lựa chọn yếu tố Phật giáo làm ái
quốc, thống nhất nhân dân hoàn thành chiến tranh vệ quốc.
Như vậy ta thấy, Sản phẩm điển hình nhất của du lịch tâm linh Quảng Ninh
là quần thể di tích danh thắng Yên Tử (thành phố Uông Bí) với hệ thống cáp và khá
nhiều dịch vụ kèm theo. Đây là một sản phẩm du lịch được tổ chức, điều hành tập
trung, thống nhất, có chất lượng và tương đối đồng bộ.Tuy nhiên, sự thành công của
Yên Tử chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tâm linh của cộng đồng người Việt Nam là
chính. Mặc dù Yên Tử có rất nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa nhưng đối tượng
khách du lịch đến với Yên Tử vì các mục đích này chưa nhiều, đặc biệt là khách
quốc tế. Quần thể di tích danh thắng Yên Tử đang là tiêu điểm thu hút các đối tượng
46
khách du lịch trong nước và quốc tế, sức hấp dẫn du lịch của các di tích còn lại chủ
yếu xuất phát từ đặc trưng văn hóa, nhu cầu tâm linh, vị trí địa điểm, cảnh quan,
điều kiện giao thông, quy mô kiến trúc xây dựng và hiệu quả quảng bá của từng di
tích cụ thể.
- Vương triều Trần ở Đền Cửa Ông (thành phố Cẩm Phả), chùa Cái Bầu
(huyện Vân Đồn), đình Quan Lạn (huyện Vân Đồn) chùa Long Tiên, đền thờ Trần
Quốc Nghiễn (thành phố Hạ Long), chùa Quỳnh Lâm (huyện Đông Triều), đền thờ
Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà (thị xã Quảng Yên)…vương triều Trần tại những địa
danh này mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi tượng trưng cho tinh thần quật khởi
chống xâm lăng bằng sức mạnh của thủy chiến, nhìn thấy sức mạnh của thủy chiến,
nhằm thống nhất sức mạnh của những mặt trận, tư tưởng văn hóa. Độc lập về tư
tưởng, văn hóa, chính trị. Nhà Trần đã cải cách Phật giáo tại bệ vững chắc cho ý chí
của dân tộc cũng như chiến lược lâu dài đối phó chống quân Nguyên Mông nói
chung và phương bắc nói riêng. Hiện nay chúng ta vẫn đối phó với Trung Quốc ở
Hải Đảo. Từ nghìn năm bắc thuộc văn hóa của người Việt ảnh hưởng một cách lô
dịch văn hóa Phật giáo. Đến thời Lý, Trần văn hóa Phật giáo là một mệnh đề đứng
riêng ngoài Trung Hoa, nhưng tiếp thu có chọn lọc phù hợp với căn bản của người
phương nam. Đó là các điểm du lịch nổi bật, thể hiện sức hấp dẫn của loại hình du
lịch văn hóa - tâm linh nhưng phần lớn các dòng khách đến đây thường mang tính
tự phát do các nhóm gia đình, người thân hoặc bạn bè tổ chức nhân dịp lễ hội mùa
Xuân hàng năm. Các công ty du lịch chưa khai thác được nhiều trong loại hình này.
Tuy nhiên, do quy mô nhỏ và không được truyền bá thường xuyên nên chưa có điều
kiện phát huy.
Trên bản đồ du lịch, Quảng Ninh sớm được biết đến bởi có Vịnh Hạ Long, thắng
cảnh đã 2 lần được Unessco công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Những năm
gần đây, Quảng Ninh còn được coi là điểm đến thú vị của du lịch văn hoá, du lịch
tâm linh. Các điểm di tích của Quảng Ninh trải dài từ Đông Triều đến Móng Cái,
kết nối thành các tuyến du lịch nhiều ý nghĩa. Đặc biệt, từ thời nhà Trần - một triều
đại phong kiến huy hoàng thịnh trị ở Việt Nam đã đầu tư xây dựng Yên Tử thành
47
khu quần thể kiến trúc chùa, tháp có qui mô lớn. Khởi đầu là Vua Trần Thái Tông
(Trần Cảnh) đến Yên Tử tháng 4 năm Bính Thân (1236). Từ xa xưa, Yên Tử là nơi
thuhút các tín đồ đạo Phật Việt Nam đến dựng am cầu kinh niệm Phật. Nhiều thế hệ
tăng ni phật tử Việt Nam liên tục tìm đến Yên Tử tu hành, xây dựng chùa, tháp và
nhiều công trình khác. Yên Tử là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Ninh, nơi gắn liền
với tín ngưỡng Phật Giáo Việt Nam. Các vị tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là
Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang đều đã về tu ở chùa. Ngày nay chùa đã
được xây dựng lại, là nơi thu hút các tăng ni, phật tử và khách thập phương về lễ
Phật và vãn cảnh chùa.
Nói đến Yên Tử người ta nghĩ ngay đến lễ hội đầu năm từ mùng 10 tháng
Giêng đến tháng 3 âm lịch. Cứ mỗi dịp lễ hội, Yên Tử lại thu hút hàng vạn người từ
khắp nơi trong cả nước. Nếu các bạn đến Yên Tử để tham gia lễ hội thì không thể
tránh khỏi cảnh đông đúc bởi dòng người đổ xô về đây trẩy hội Yên Tử đầu năm.
Còn nếu đi để vãn cảnh thì du khách có thể đi bất kỳ thời điểm nào trong năm.
Hoạt động du lịch tín ngưỡng tại Quảng Ninh nhìn chung phát triển khá
phong phú và đang dạng. Hoạt động du lịch tín ngưỡng diễn ra hầu hết trên địa bàn
của tỉnh. Song hoạt động du lịch tín ngưỡng này lại tập trung nhiều nhất và phát
triển mạnh nhất tại các điểm du lịch có các tài nguyên du lịch văn hóa như có di tích
lịch sử, các chùa, đền, miếu, lăng mộ.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn rất nhiều di tích có giá trị như chùa Quỳnh
Lâm (huyện Đông Triều), đền thờ Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, đình Phong Cốc
(thị xã Quảng Yên), đình Trà Cổ, nhà thờ Trà Cổ, chùa Xuân Lan, đền Xã Tắc
(thành phố Móng Cái), nhà thờ Hòn Gai (thành phố Hạ Long), đình Quan Lạn
(huyện Vân Đồn)…nhưng hoạt động du lịch tín ngưỡng tại khu vực này chưa thực
sự thu hút được nhiều khách tham quan đặc biệt là du khách quốc tế..
Tuy nhiên, để biến chương trình du lịch nói trên trở thành hiện thực, ngành
du lịch và các doanh nghiệp Quảng Ninh cần phải đầu tư nhiều hơn cho sản phẩm,
giao thông, dịch vụ và con người.
48
Theo đó, một xu hướng chung dễ nhận thấy là: Những di tích lịch sử - văn
hóa có cảnh quan đẹp, điều kiện giao thông thuận lợi, được đầu tư quy mô lớn và
được quảng bá giới thiệu tốt thì khả năng thu hút khách du lịch tín ngưỡng sẽ tốt
hơn. Điển hình là đền Cửa Ông (thành phố Cẩm Phả), chùa Cái Bầu (huyện Vân
Đồn), chùa Long Tiên, đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn (thành phố Hạ Long),
chùa Ba Vàng (thành phố Uông Bí)…Gắn liền với những di tích này là các Lễ
hội truyền thống, các tín ngưỡng được tổ chức chủ yếu vào mùa Xuân. Đây là một
nét đặc trưng văn hóa truyền thống của Việt Nam. Tiêu biểu cho xu hướng nói trên
là chùa Cái Bầu, chùa Ba Vàng và đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn. Mặc dù
mới được đầu tư tôn tạo trong thời gian gần đây, nhưng 3 di tích nói trên đã nổi lên
như những điểm thu hút khách tâm linh văn hóa sôi động.
Một số Tour du lịch tiêu biểu:
-Hà Nội – Cửa Ông – Thiền viện giác tâm (Chùa Cái Bầu) – Đền Trần Quốc
Nghiễn – Chùa Long Tiên – Yên Tử ( 2 ngày 1 đêm)
Quý khách tham quan tháp Phật Hoàng và chùa Hoa Yên- Chùa Hoa Yên -
Chùa Đồng, - quảng trường Phật Hoàng Trần Nhân Tông - dâng hương trước tượng
Phật Hoàng - Quảng trường Phật Hoàng, thưởng ngoạn phong cảnh hùng vĩ của núi
rừng Yên Tử - Chùa Đồng - Chùa Một Mái -
Ngày 01 : Hà Nội – Thiền viện Giác Tâm – Đền Cửa Ông – Đền Trần Quốc
Nghiễn – Chùa Long Tiên.
Ngày 02: Hạ Long – Yên Tử – Hà Nội
Du khách tham quan tháp Phật Hoàng và chùa Hoa Yên- Chùa Hoa Yên - Chùa
Đồng, - quảng trường Phật Hoàng Trần Nhân Tông - dâng hương trước tượng Phật
Hoàng - Quảng trường Phật Hoàng, thưởng ngoạn phong cảnh hùng vĩ của núi rừng
Yên Tử - Chùa Đồng - Chùa Một Mái.
- Tuyến du lịch tâm linh tiêu biểu: Chùa Lôi Âm – Đền Cái Lân – Chùa Long
Tiên – Bài thơ cổ trên vách đá núi Bài Thơ - đền thờ đức ông Trần Quốc Nghiễn –
Trung tâm văn hóa núi Bài Thơ.
- Tuyến trải nghiệm du lịch thiền tại Yên Tử (2 ngày 1 đêm)
49
Du khách thăm Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. - Bảo Hùng Điện, Tương phật
Quan Thế Âm, Hồ Tĩnh Tâm Quý khách sẽ được tham gia một số hoạt động tại
Thiền viện - nghe Quý Đại Đức thuyết giảng phật pháp và giúp chúng ta hiểu về “ý
nghĩa của Thiền trong cuộc sống” - hướng dẫn các pháp môn Thiền - thực hành
Thiền tọa tại Thiền Đường. - nhận quà may mắn của Thầy trụ trì - thưởng thức bữa
cơm chay tại Thiền Viện cùng các tăng ni, phật tử của Thiền Viện - lên viếng thăm
Huệ Quang Kim Tháp - chùa Hoa Yên – hướng dẫn và thực hành Yoga 60 phút tại
sân khuôn viên Công ty Tùng Lâm - nghe Lương y nhiều kinh nghiệm tư vấn về
cách ăn uống, chăm sóc sức khỏe. Hướng dẫn những bài thuốc đơn giản từ những
cây thuốc xung quanh ta để chữa những bệnh đơn giản thường mắc phải hàng ngày
- đi thực tế tại Vườn Thuốc Tùng Lâm.
- Tour hành hương lễ phật Hà Nội – Chùa Ba Vàng – Yên Tử.
Du khách sẽ Tham quan chùa Ba Vàng, Quý khách đi cáp treo hoặc tự mình
leo bộ lên Chùa Hoa Yên, điểm đầu tiên trong quần thể Núi Chùa Yên Tử, làm thủ
tục Qúy khách tiếp tục cuộc hành trình du lịch Yên Tử bằng cáp treo lên Chùa
Đồng, với điểm dừng chân tiếp theo là Quảng trường Phật Hoàng Trần Nhân Tông,
nơi đặt pho tượng Phật Hoàng bằng đồng. Quý khách dâng hương trước tượng Phật
Hoàng và nghỉ ngơi thư giãn tại quảng trường Phật Hoàng, thưởng ngoạn phong
cảnh hùng vĩ của núi rừng Yên Tử. Quý khách tiếp tục lên Chùa Đồng, còn có tên
gọi khác là chùa Thiên Trúc. Chùa Đồng tọa lạc trên đỉnh núi Yên Tử, với độ cao
1068m. Vào Năm 2007, chùa Đồng đã được xác lập kỷ lục là ngôi chùa bằng đồng
lớn nhất Việt Nam. Sau khi dâng hương qúy khách quay trở về. Trên đường xuống
núi, quý khách có thể ghé thăm, thắp hương ở chùa Một Mái - là ngôi chùa có kiến
trúc độc đáo nhất khu Yên Tử (cùng với chùa Đồng), ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử
hoặc quý khách có thể tham quan suối Giải Oan – nơi mà các cung tần mỹ nữ xưa
kia đã trẫm mình để bày tỏ lòng trung với nhà vua khi người về Yên Tử tu hành.
Tuyến du lịch tâm linh được hình thành, gồm:
- Tuyến Hà Nội - Côn Sơn - Kiếp Bạc - Yên Tử - Bái Đính; tuyến Hà Nội - Chùa
Hương - Tam Chúc - Ba Sao - Bái Đính - Đền Trần (Nam Định);
50
- Tuyến kinh đô Việt cổ Đền Hùng (Phú Thọ) - Thăng Long (Hà Nội) - Hoa Lư
(Ninh Bình) - Lam Sơn (Thanh Hóa) - Cố đô Huế (TT-Huế).
Đây là những tuyến du lịch sẽ tập trung quảng bá, không chỉ thu hút khách
nội địa mà hướng tới cả khách quốc tế. Có một thực tế là, ngoại trừ danh lam thắng
cảnh Vịnh Hạ Long, phần lớn các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh mới chỉ có sức hấp dẫn đối với khách du lịch nội địa, trong đó chủ yếu là dòng
khách tâm linh. Sức hút đối với khách du lịch nước ngoài chưa đáng kể.
2.2.2.2. Hoạt động tham quan các di tích lịch sử - văn hóa gắn với vương triều Trần
*)Các di tích lịch sử - văn hóa gắn với vương triều Trần.
Theo thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, toàn tỉnh Quảng Ninh
có trên 600 di tích lịch sử, văn hoá và thắng cảnh, trong đó có 4 di tích quốc gia đặc
biệt (Vịnh Hạ Long, Yên Tử, khu di tích (KDT) lịch sử chiến thắng Bạch Đằng,
KDT lịch sử nhà Trần), hơn 100 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh.
Các điểm di tích trọng điểm của tỉnh đều nằm ở những địa phương gần hoặc có trục
quốc lộ đi qua. Huyện cửa ngõ Đông Triều của tỉnh có 133 di tích, trong đó, 8 di
tích cấp quốc gia và 15 di tích cấp tỉnh. Các KDT trải rộng trên địa bàn 4 xã (Thuỷ
An, An Sinh, Tràng An, Bình Khê), trong đó nổi bật là KDT lịch sử nhà Trần (xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt đợt 4, tháng 12-2013).
+)Khu di tích các lăng mộ vua Trần:
Quần thể di tích lăng mộ, đền, chùa của Triều Trần - một triều đại huy hoàng thịnh
trị ở Việt Nam trên vùng đất An Sinh (địa danh cổ), hiện nay là huyện Đông Triều.
Theo lịch sử, những công trình tại đây có quy mô lớn, có giá trị tinh thần, tư
tưởng, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc đặc sắc, được đánh giá là trung tâm Phật
giáo của Việt Nam, là trung tâm văn hóa, nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc,
duy nhất, lớn nhất của triều đại nhà Trần.
Đây là một quần thể gồm 14 điểm di tích bao gồm hệ thống lăng mộ, đền,
chùa và các công trình tôn giáo thời nhà Trần, như: Chùa Hồ Thiên, chùa Ngoạ
Vân, chùa Quỳnh Lâm, đền Sinh…Mỗi di tích đều có tính chất và giá trị đặc biệt
với ý nghĩa lịch sử to lớn. Hiện nay, thị xã Đông Triều đã và đang phối hợp với Ban
51
Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh huy động sự tham gia tích cực
của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và nhân dân phát tâm công đức xây dựng,
trùng tu, tôn tạo chùa Ngọa Vân, Đền Thái; chùa Non Đông và mở tuyến đường lên
di tích chùa Ngọa Vân; xây dựng nâng cấp khu di tích Bắc Mã, hoàn thành cụm
tượng đài văn hóa, triển khai xây dựng công trình cổng tỉnh và khu dịch vụ cổng tỉnh;
Cổng tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều, tuyến
cáp treo lên chùa Ngọa Vân và một số công trình khác với tổng mức đầu tư trên 1.000
tỷ đồng. Khu lăng mộ nhà Trần là niềm tự hào của người dân Quảng Ninh, là nguồn
tài nguyên vô giá để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương.
+) Khu di tích lịch sử - danh thắng Yên Tử:
Khu di tích danh thắng Yên Tử là nơi gắn liền với sự nghiệp tu hành của
Tam tổ Trúc Lâm, đánh dấu sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm. Đức vua Trần
Nhân Tông là người sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm đã
hội tụ đầy đủ những tinh thần của Phật giáo, nhưng chứa đựng được những nét độc
đáo của Việt Nam.
Khu di tích danh thắng Yên Tử là nơi gắn liền với sự nghiệp tu hành của
Tam tổ Trúc Lâm, đánh dấu sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm. Đức vua Trần
Nhân Tông là người sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm đã
hội tụ đầy đủ những tinh thần của Phật giáo, nhưng chứa đựng được những nét độc
đáo của Việt Nam. Vì vậy Yên Tử cũng được xem là kinh đô Phật giáo Việt Nam.
Từ thời nhà Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân đến thời kỳ nhà
Trần Yên Tử được tiếp tục kế thừa phát triển đặc biệt dưới thời vua Trần Nhân
Tông, một ông vua có công lớn trong sự nghiệp giữ nước và có động cơ tu hành cao
thượng. Từ Yên Tử giáo lý Trúc Lâm phát triển rộng ra khắp vùng Đông Bắc, dựng
lên 800 ngôi chùa lớn nhỏ, trong đó có những chùa nổi tiếng như: Quỳnh Lâm, Côn
Sơn, Thanh Mai với 15.000 chúng tăng độ trì. Khu di tích danh thắng Yên Tử đã
được xếp hạng đặc cách là di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 15 VH/QĐ ngày
13/3/1974, bao gồm hệ thống các chùa trên khu danh thắng Yên Tử như Chùa Bí
Thượng, Chùa Suối Tắm,chùa Cầm Thực, Chùa Lân, Tháp Huệ Quang, Chùa Hoa
52
Yên,Am Thiền Định, Chùa Một Mái, Am Dược và Am Hoa, Chùa Bảo Sái, Chùa
Vân Tiêu, Chùa Đồng, Bia Phật, Cổng Trời, Tượng An Kỳ Sinh.
+)Bãi cọc Bạch Đằng
Di tích lịch sử Bạch Đằng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, có sức hấp
dẫn mạnh đối với mọi đối tượng khách du lịch, rất đáng đưa vào chương trình du
lịch tín ngưỡng kết nối với quần thể di tích danh thắng Yên Tử và khu di tích lịch sử
văn hóa nhà Trần tại Đông Triều.Tuy nhiên, hiện nay bãi cọc Bạch Đằng chưa được
đầu tư bảo vệ xứng đáng nên chưa thể hiện được tầm vóc hiện thực của sự kiện.
Cụm di tích bãi cọc Bạch Đằng hiện đã được chính quyền địa phương có những chính
sách trong công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị lịch sử hào hùng của bãi cọc
Bạch đằng bằng việc cho xây kè, đắp bờ nhưng nhìn tổng thể về mặt thẩm mĩ bãi
cọc Bạch Đằng rất đơn sơ, buồn tẻ và không mấy hấp dẫn du khách mặc dù ý nghĩa
lịch sử thì rất lớn lao.
+) Thương cảng Vân Đồn
Đến với Thương cảng Vân Đồn thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn du khách sẽ
thấy Qua các dấu tích nền nhà cổ thường bắt gặp những hũ sành đựng tiền đồng cổ
thuộc các thời đại phong kiến Trung Quốc từ nhà Đường tới nhà Thanh; tiền Việt
Nam từ nhà Lý tới nhà Nguyễn. Tại khu cảng cổ còn có một khẩu giếng có tên gọi
nôm na là giếng Hiệu, hay còn gọi là giếng Nàng tiên nằm sát bên bờ vụng, quanh
năm đầy nước. Đó là một trong những yếu tố góp phần khẳng định thêm rằng Cái
Làng là một bến thuyền buôn cổ của bến thuyền cổ của cảng Vân Đồn.
Ngoài việc phát hiện những dấu vết hoạt động thương nghiệp ở Vân Đồn,
các nhà khảo cổ học còn tìm thấy kiến trúc tôn giáo, các chùa, tháp. Chỉ riêng trên
hòn đảo Cống Đông có tới bốn ngôi chùa và một bảo tháp. Trong số đó có khu di
tích chùa Lấm rất rộng xây dựng từ thời nhà Trần. Ngôi chùa này được xây dựng ở
sườn núi phía Tây đảo Cống Đông, đối diện với bến thuyền ở sườn núi phía đông.
Những di tích của khu chùa tam quan, chùa Hộ, chùa Phật, Thượng diện, nhà Tổ, bệ
đá, toà sen, lan can chạm sóc, chạm rồng... nói lên rằng khu di tích chùa Lấm là
trung tâm Phật giáo quan trọng của vung hải đảo. Cách chùa Lấm 3 km về phía
53
đông bắc đảo, trên ngọn đồi cao cùa đảo Cống Đông còn phế tích của một ngọn bảo
tháp xây bằng gạch nung. Mặt ngoài gạch được trang trí hình rồng giun, khuôn
trong hình lá đề. Trong khu đựng hộp xá lị còn có 13 mảnh vỡ của một bình sứ màu
men ngà. Bình sứ này đựng tro thi hài vị cao tăng mà cuộc đời gắn liền với khu
trung tâm Phật giáo chùa Lấm. Căn cứ vào kích thước của ngăn đựng hộp xá lị, ta
có thể đoán được quy mô của ngọn bảo tháp khá đồ sộ, ít ra là tương đương với tháp
Phổ Minh xây dựng từ đời Trần ở Nam Định.
+)Miếu Vua Bà - Đền thờ Trần Hưng Đạo
Đến thăm Miếu Vua Bà - Đền Trần Hưng Đạo, du khách được biết về lịch sử
di tích, những chiến công hiển hách của Hưng Đạo Vương trên dòng sông Bạch
Đằng, qua đó trầm trồ thán phục về bề dày lịch sử, truyền thống yêu nước, giữ nước
hào hùng của dân tộc ta. Đến thăm làng nghề Hưng Học (phường Nam Hoà), du
khách lại bất ngờ, thích thú khi được tận mắt chứng kiến quy trình sản xuất thủ
công các sản phẩm ngư cụ là chiếc lờ, chiếc đó, thuyền nan...
Tính từ khi khởi động tour du lịch đến nay, thị xã đã đón trên 25.000 lượt
khách nội địa; 1.630 lượt khách du lịch quốc tế (18 đoàn với 505 khách tàu biển cao
cấp của Công ty Dịch vụ lữ hành Saigontourist, 25 đoàn khách quốc tế với 1.125
khách). Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch ở địa phương chưa đồng bộ, nên
việc duy trì tổ chức tour du lịch văn hoá còn nhiều khó khăn. Khi phỏng vấn Ông
Hoàng Xuân Phong, Phó Chủ tịch UBND phường Nam Hoà, Ông cho biết: Phường
chưa có điểm quy hoạch sản xuất tập trung, điểm trưng bày sản phẩm làng nghề,
chưa có bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng phục vụ du khách. Khắc phục được những
hạn chế này mới đảm bảo phát triển du lịch bền vững…
+) Cụm di tích danh thắng núi Bài Thơ, đền Trần Quốc Nghiễn, chùa Long Tiên.
Đặc biệt, di tích núi Bài Thơ lưu giữ nhiều bài thơ khắc trên đá của một số vị
vua đi kinh lý, cảm hứng trước vẻ đẹp thần tiên của Vịnh Hạ Long. Đứng trên ngọn
núi đá vôi cao 106m này, du khách sẽ thu vào tầm mắt cả một thành phố năng động,
hiện đại và khung cảnh Vịnh Hạ Long đẹp như tranh thuỷ mạc.
54
+)Đền Cửa Ông
Rời Hạ Long, du khách đi chừng 30km về phía Đông là tới đền Cửa Ông
(thành phố Cẩm Phả). Đền thờ danh tướng Trần Quốc Tảng cùng gia thất của ông
và nhiều danh tướng thời Trần với nguyen vẹn là tướng thủy binh. Từ đền Cửa Ông
đến huyện Vân Đồn chỉ thêm khoảng 10km là có thể tới thăm di tích chùa Cái Bầu,
Thương cảng cổ Vân Đồn, cụm di tích đình, chùa miếu trên đảo Quan Lạn. Còn ở
mảnh đất địa đầu Tổ quốc – thành phố Móng Cái có những di tích nổi tiếng là đình
Trà Cổ, chùa Xuân Lan, chùa Nam Thọ, đều là những di tích có kiến trúc nghệ thuật
với những nét độc đáo riêng…
+) Đền – Đình – Chùa Quan Lạn
Đình Quan Lạn nằm trong cụm di tích Đình, Chùa, Miếu, Nghè thuộc xã đảo
Quang Lạn, huyện Vân Đồn. Lễ hội Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải.
Dân làng chia làm hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ
ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị thuyền đua. Thuyền đua thường là thuyền đi biển
trọng tải 5 đến 6 tấn, rộng và sâu lòng, được hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi
thuyền. Ngày 16 làm lễ nghinh thần. Dâng lễ rước bài vị của Trần Khánh Dư từ
nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dưới bến, đôi thuyền đua tập luyện tạo một không
khí tưng bừng náo nhiệt.
Ngày 18 tháng 6 vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thường lúc này nước
triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên văn áo trắng quần
xanh, chân quấn xà cạp xanh, lính bên võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng
trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình,
quân lính cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tướng múa những đường
đao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tượng trưng cho ba lần đánh thắng quân
Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập hợp trước miếu, hai vị tướng vào tế,
khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu.
+) Chùa Quỳnh Lâm
Chùa Quỳnh Lâm ở xã Tràng An, xưa kia là ngôi chùa lớn trăm gian, có tượng Di
lặc, là một trong “tứ đại khí” của nước ta, có tháp cao treo khánh đá, chuông đồng.
55
Chùa Quỳnh Lâm còn được gọi là Quỳnh Lâm viện, nơi in, dịch sách Kinh và các
sách giáo lý đạo Phật, nơi luôn có hàng trăm nhà như nghiên cứu về đạo phật. gắn
liền với Quỳnh Lâm viện xưa còn có Bích Động thi xã, nơi tụ hội các nhà thơ lớn
thời Trần.
*).Một số tuyến du lịch tiêu biểu.
-Tour trải nghiệm khám phá Yên Tử ( 2 ngày 1 đêm ).
Ngày 1: Tìm hiểu văn hóa lịch sử - Thăm tháp Tổ - Khám phá thiên nhiên –
Tập làm bác nông dân.
Ngày 2: Tìm hiểu nhạc cụ dân tộc - Thử tài họa sĩ - Thăm quan Vườn cây
thuốc Yên Tử.
- Du lịch Hà Nội – Đền Chu Văn An - Đền An Sinh – Chùa Quỳnh Lâm –
Chùa Ba Vàng (1 ngày)
Thăm quan đền thờ Chu Văn An – Một nhà nho ưu tú và cũng là một người
thầy giáo được thăm khu di tích Đền An Sinh và Lăng Mộ 8 vị vua Trần. Chùa
Quỳnh Lâm được coi là trường đại học đầu tiên về phật giáo của Việt Nam - chùa
Ba Vàng
- Hà Nội – Đền Cửa Ông – Đền Cô bé Cửa Suốt - Chùa Cái Bầu - đền Trần
Quốc Nghiễn - chùa Long Tiên – Đền An Sinh ( 2 ngày 1 đêm)
Ngày 01 : Hà Nội - Đền Cửa Ông - đền Cô Bé Cửa Suốt - Chùa Cái Bầu.
Ngày 02: Hạ Long - Đên Trần Quốc Nghiễn - Chùa Long Tiên - chợ Hạ
Long - Đền An Sinh - Hà Nội.
- Hà Nội - Đền Cửa Ông - Cô Bé Cửa Suốt - Thiền viện Cái Bầu (1 ngày )
Đền Cửa Ông thăm các khu Đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, Tiền đường,
nhà Bái Đường: Hậu cung - cầu Vân Đồn đoàn thăm quan và thắp hương tại đền Cô
bé Cửa Suốt.- Chùa Cái Bầu - Thiền Viện Giác Tâm. Thiền Viện Giác Tâm - Hạ
Long.Tham quan và mua sắm tại chợ Hạ Long – trung tâm buôn bán của người dân
Hạ Long.
Quảng Ninh được ưu đãi có tiềm năng du lịch dồi dào cả về tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên văn hoá tâm linh. Những năm gần đây, Quảng Ninh nói chung,
56
các địa phương trong tỉnh nói riêng đã có nhiều hoạt động để kết nối các điểm di
tích thành những tuyến du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách. Như thành phố Uông Bí
đã đăng ký với tỉnh 4 tuyến du lịch gắn với di tích Yên Tử. Trong đó đáng chú ý là
tuyến du lịch kết nối các địa phương có các điểm di tích nhà Trần trên địa bàn tỉnh
là khu lăng mộ vua Trần, Ngoạ Vân, Hồ Thiên (Đông Triều), Yên Tử (Uông Bí),
cụm di tích Bạch Đằng (Quảng Yên) và Thương cảng Vân Đồn (huyện Vân Đồn).
Các chùa trên địa bàn thành phố Uông Bí cũng dành nhiều nguồn lực, huy động xã
hội hoá trùng tu, tôn tạo nhiều hạng mục công trình, như KDT Yên Tử dựng tượng
Phật hoàng Trần Nhân Tông, chùa Ba Vàng xây dựng, mở rộng khu đại điện. Nhiều
di tích lịch sử trên địa bàn thị xã Đông Triều được quan tâm đầu tư bằng nguồn vốn
xã hội hoá do doanh nghiệp và nhân dân đóng góp; nhiều tuyến đường đã và đang
được bê tông hoá, mở rộng, như đường từ thị trấn Đông Triều đến KDT đền thờ và
lăng mộ vua Trần, dự án tuyến đường hành hương từ hồ Trại Lốc vào di tích chùa
Ngoạ Vân, chùa Hồ Thiên chiều dài 20,1km.
Hiện Quy hoạch tổng thể 3 KDT trọng điểm của tỉnh đã được Trung ương
phê duyệt, trong đó Yên Tử vốn đầu tư khoảng 1.800 tỷ đồng, Đông Triều khoảng
1.400 tỷ đồng, Bạch Đằng hơn 800 tỷ đồng. Số vốn này sẽ lấy từ nhiều nguồn khác
nhau, trong đó nguồn vốn nhà nước chủ yếu tập trung cho việc tu bổ, tôn tạo các
điểm di tích. Bộ VH,TT & DL, Hội đồng Di sản văn hoá quốc gia cũng đã đồng
thuận với tỉnh và trình Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc lập hồ sơ di sản
thế giới đối với quần thể di sản văn hoá và danh thắng Yên Tử (gồm Yên Tử và
KDT nhà Trần của tỉnh Quảng Ninh, KDT Tây Yên Tử của tỉnh Bắc Giang).
Quần thể di tích, danh thắng Yên Tử - Một trung tâm Văn hóa tâm linh, tín
ngưỡng hàng đầu Việt Nam, là vùng đất phát tích Thiền phái Trúc Lâm của Phật
giáo Việt Nam, là một trong những nơi có lễ hội lớn nhất Việt Nam, mỗi năm
thu hút hàng triệu lượt khách hành hương.
Hệ thống di tích lịch sử, văn hóa đồ sộ với hơn 600 di tích lịch sử, văn hóa
các loại, trong đó có nhiều di tích có quy mô lớn và giá trị nổi bật như quần thể di
tích lịch sử Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên), khu di tích lịch sử, văn hoá Nhà
57
Trần (huyện Đông Triều), đền Cửa Ông (thành phố Cẩm Phả), chùa Cái Bầu
(huyện Vân Đồn)…
Tóm lại, các di tích lịch sử - văn hóa gắn với vương triều Trần là các di tích
đặc biệt và mang đặc trưng của yếu tố văn hóa vương triều Trần , tạo thành lịch sử
văn hóa ở Quảng Ninh có gương mặt đặc biệt. Dấu ấn của vương triều Trần ở
Quảng Ninh là đậm đặc hơn cả bởi thông qua hệ thống các di tích lịch sử của nhà
Trần, các khu lăng mộ Trần, Đền Trần, các chiến thắng chống quân xăm lăng…là
các tài nguyên vô giá để xây dựng các sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng của tỉnh.
Sở hữu nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng, cùng với những cố gắng trong bảo tồn,
gìn giữ, phát huy giá trị các di sản, nhiều nỗ lực trong kết nối các di tích, Quảng
Ninh đang là điểm đến thu hút đông đảo du khách thập phương.
2.2.2.3. Hoạt động du lịch lễ hội
*)Các lễ hội truyền thống:
Các hoạt động du lịch văn hóa lễ hội tại tỉnh khá phong phú và đang
dạng,điều đặc biệt là các lễ hội tại địa phương đều chứa đựng văn hóa bản địa gắn
với đời sống cư dân biển, gấn với phật giáo và gắn với vương Triều Trần.
- Lễ hội Yên tử: Yên Tử thực sự nổi tiếng khi Vua Trần Nhân Tông - một ông Vua
đang thời thịnh trị (cuối thế kỷ 13) từ bỏ ngai vàng đến đây tu hành, để tâm nghiên
cứu đạo Phật và lập nên phái Thiền Trúc Lâm (1299), một phái Phật đặc trưng của
Việt Nam bằng hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Từ đó, Yên Tử
trở thành kinh đô tư tưởng của Phật giáo Việt Nam, đánh dấu sự phát triển triết
học và tư tưởng của dân tộc Việt Nam đương thời.Gắn liền với quá trình phát triển
dòng thiền Trúc Lâm tại Yên Tử là việc xây dựng và hình thành một quần thể các
công trình kiến trúc gồm 11 chùa và hàng trăm am, tháp, bia, tượng...
Hàng năm Lễ hội Yên Tử (Hội xuân Yên Tử) được tổ chức từ ngày mùng 10
tháng giêng âm lịch và kéo dài trong 3 tháng mùa xuân. Quần thể di tích danh thắng
Yên Tử là một không gian đặc biệt hấp dẫn dành cho du lịch văn hóa.
Đặc biệt từ khi Yên Tử có tượng đồng Phật Hoàng Trần Nhân Tông lớn nhất
tại Việt Nam được khánh thành ngày 03/12/2013 Tượng được đúc bằng đồng
58
nguyên khối, cao 15m, nặng 138 tấn, tọa lạc trên đỉnh An Kỳ Sinh (Yên Tử, Quảng
Ninh) có độ cao 900m so với mặt nước biển. Hiện Đức Vua - Phật hoàng Trần
Nhân Tông; Khu di tích lịch sử văn hoá nhà Trần tại Đông Triều và Khu di tích lịch
sử, văn hoá và danh thắng Yên Tử đang được Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt
Nam đang phối hợp với các ban, ngành liên quan lập hồ sơ đề nghị UNESCO công
nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và Di sản văn hoá thế giới. Đây sẽ là điều kiện
rất thuận lợi để quảng bá rộng hơn khu du lịch của Yên Tử, di tích lịch sử nhà Trần
với du khách trong và ngoài nước.
Bảng 2.6. Số lượng khách du lịch tham quan Yên Tử trong 5 năm qua
Tổng số khách 2010 2011 2012 2013 2014 du lịch
2.296.00 2.514.00 Yên Tử 2.125.000 2.700.0000 3.000.000 0 0
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Quảng Ninh)
Qua bảng số liệu ta thấy Yên Tử đã trở thành một địa danh nổi tiếng thế giới
trong lĩnh vực du lịch Phật giáo và đã có những phát triển nhanh chóng vượt bậc về
lượng khách du lịch và chỉ đứng thứ hai sau vịnh Hạ Long. Lượng khách hành
hương về Yên Tử ngày cao điểm Yên Tử đón đến hàng vạn lượt khách. KDT quốc
gia đặc biệt này có rất nhiều điểm tham quan gắn với những câu chuyện mang màu
sắc huyền thoại như: Suối Giải Oan, chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, tượng đá An Kỳ
Sinh, chùa Đồng. Đến với Yên Tử, du khách còn được chiêm bái tượng đồng Phật
hoàng Trần Nhân Tông lớn nhất Việt Nam được đúc nguyên khối theo phương pháp
thủ công của các làng nghề Đại Bái (Bắc Ninh), Ý Yên (Nam Định), cao 15m, nặng
150 tấn. Cũng ở Uông Bí, chùa Ba Vàng gần đây là điểm đến thu hút nhiều tín đồ
phật giáo gần xa. Vừa qua, chùa đã hoàn thành đầu tư giai đoạn 1 với việc khánh
thành ngôi tam bảo và đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao tặng danh hiệu “Ngôi
chùa trên núi có chính điện lớn nhất”.
- Lễ hội Bạch Đằng: Diễn ra tại xã Yên Giang, huyện Yên Hưng. Được tổ chức
vào ngày mùng 8 tháng 3 (âm lịch) hàng năm, có năm kéo dài tới bốn ngày đêm. Lễ
59
hội kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng của những người anh hùng dân tộc chống giặc
ngoại xâm: Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 981), Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần (năm 1288).
- Lễ hội đền Cửa Ông: Diễn ra tại đền Cửa Ông, phường Cửa Ông, thị xã Cẩm
Phả. Được tổ chức từ ngày mùng hai tháng giêng cho đến hết tháng 3 (âm lịch). Đền
Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng, con thứ ba của Trần Hưng Đạo cùng nhiều tướng
lĩnh nhà Trần có công đánh giặc và trấn ải vùng Đông Bắc. Đền còn thờ Hoàng
Cầu, một tướng lĩnh người địa phương có công dẹp giặc. Lễ hội tưởng niệm công
ơn tướng Trần Quốc Tảng và các tướng lĩnh.
-Lễ hội chùa Long Tiên: Khi xuân đến, vào mùa trẩy hội của cả vùng Quảng Ninh,
người ta gọi chùa Long Tiên là chùa Trình. Ai cũng muốn đến chùa Long Tiên dâng
hương trước rồi mới tiếp tục cuộc hành hương tới Yên Tử, tới hội đền Cửa Ông...
Lễ hội tổ chức rước kiệu qua đền Đức Ông (đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn là
con cả Trần Hưng Đạo) đến đền thờ An Dương Vương ở Vụng Đâng qua Loong
Toòng rồi quay lại chùa. Các cụ già vẫn thường kể lại các cuộc thi kiệu của nhiều
đám rước, nhiều kiệu chạy nhanh đã bay qua các con ngòi như trong chuyện cổ
tích...
- Lễ hội Trà Cổ: Diễn ra tại làng Trà Cổ, thị xã Móng Cái.
Được tổ chức bắt đầu từ ngày 30 tháng 5 đến ngày mùng 6 tháng 6 (âm lịch) hàng
năm. Cách đây gần 600 năm, người Trà Cổ đã xây dựng được ngôi đình làng để thờ
các vị tổ (Thành Hoàng làng). Lễ hội tưởng nhớ đến công ơn của Thành Hoàng làng và
cầu mong trời đất thần linh mang lại những điều tốt lành cho dân làng.
-Lễ hội Quan Lạn: . Lễ hội được tổ chức trên bến Đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi
đình cổ trong số ít những ngôi đình còn giữ được cho đến ngày nay. Ngày 10 tháng 6 khoá
làng (một tục làm trong lễ hội của người Việt), dân trong làng không được đi bất cứ
đâu nhưng những người làm ăn ở xa và khách thập phương lại có thể về làng dự
hội. Lễ hội Quan Lạn mang dấu ấn của một hội làng truyền thống nhưng rất hoành
tráng thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ
quyền đất nước của những người dân vùng biển.
60
Như vậy, ta từ thực trạng trên ta thấy rằng để thực hiện việc liên kết du lịch
vùng, liên kết tour du lịch, một số dự án của tỉnh cũng đã được triển khai, đầu tư
nâng cấp đường giao thông phục vụ phát triển du lịch như: các tuyến hành hương
chạy theo thung lũng và trên triển núi từ Kinh đô Phật giáo Thiền phái Trúc lâm
Yên Tử (TP Uông Bí) sang chùa Hồ Thiên, Ngọa Vân, Quỳnh Lâm kéo dài lên Chí
Linh (tỉnh Hải Dương) và con đường Tây Yên Tử đi sang chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc
Giang) cũng được tiến hành, nhằm tạo các tuyến liên kết không gian văn hóa giữa
các điểm di tích lịch sử, văn hóa, tâm linh liên quan đến lịch sử thời Trần…
Với tiềm năng, lợi thế của thị xã, trên cơ sở quy hoạch chung, quy hoạch
vùng của tỉnh, tỉnh đã thực hiện việc định hướng về không gian du lịch gắn với liên
kết vùng giữa các di tích lịch sử, văn hóa ở các địa phương, vùng miền trong tỉnh và
khu vực như: Khu di tích Quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều kết nối với Di
tích Côn Sơn, Kiếp Bạc của tỉnh Hải Dương, di tích Tây Yên Tử - chùa Vĩnh
Nghiêm của tỉnh Bắc Giang và di tích – danh thắng Yên tử, Bạch Đằng, Cửa Ông,
Vân Đồn và tâm điểm là Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long tạo nên chuỗi
Di sản văn hóa, tâm linh của tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời thực hiện Quy hoạch về
kiến trúc, tiếp tục thực hiện công tác khảo cổ, trùng tu, tôn tạo, phục dựng các Di
tích Quốc gia Đặc biệt nhà Trần ở Đông Triều gắn với những quần thể Di tích để
đảm bảo cho việc phát huy các giá trị nguyên gốc của Di tích; tiếp tục thực hiện
Quy hoạch các hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật của Khu Di tích Quốc gia đặc
biệt nhà Trần ở Đông Triều với hệ thống các Di tích ở Hạ Long, Uông Bí, Quảng
Yên, Côn Sơn, Kiếp Bạc và các địa phương khác trong tỉnh.
Một số tour du lịch văn hóa truyền thống tiêu biểu:
- Tour du lịch: - Hà Nội – Đền Chu Văn An – Đền An Sinh – chùa Quỳnh
Lâm – chùa Ba Vàng (1 ngày).
Chùa Ba Vàng nằm trên núi Ba Vàng, phường Quang Trung, TP. Uông Bí.
Đây là ngôi chùa có tòa chính điện lớn nhất Việt Nam.Vào ngày 9/3/2014, chùa Ba
Vàng đã chính thức được khánh thành. Chùa Ba Vàng tên chữ là Bảo Quang Tự
được xây dựng từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII ) nằm tọa lạc trên núi Thành Đẳng
61
thuộc Quần thể của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - một phái thiền lớn nhất và độc
tôn của nước ta do Phật hoàng Trần Nhân Tông đắc pháp ý chỉ thiền sáng lập. Việc
tôn tạo chùa Ba Vàng làm sống động hơn cho cuộc sống tâm linh của người con
Phật. Tạo cơ sở vật chất, quang cảnh cho chư Tăng và Phật tử tu học giúp nhân sinh
trở về Chân – Thiện – Mỹ. Đền thờ Chu Văn An - Đền An Sinh và Lăng Mộ 8 vị
vua Trần. chùa Quỳnh Lâm – một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất của
Việt Nam. Chùa Quỳnh Lâm được coi là trường đại học đầu tiên về phật giáo của
Việt Nam.
-Tour du lịch Hành hương theo dấu chân Phật Hoàng: Hành trình: Chùa Suối Tắm
– Chùa Cầm Thực – Chùa Lân (Thiền Viện Trúc Lâm) – Suối Giải Oan – Vườn
Tháp Huệ Quang, chùa Hoa Yên – Chùa Một Mái – Chùa Đồng (1 ngày).
- Tour Thiền với tác dụng khơi mạch tiềm năng, cân bằng năng lượng tinh thần, tái
tạo sức mạnh tinh thần và thanh tĩnh cơ thể được phối hợp thực hiện giữa Tùng Lâm
và Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử (2 ngày một đêm).
- Tour sinh hoạt hè – Khai sáng tâm hồn: khóa sinh hoạt giúp các em hiểu biết về
các triết lý Phật Giáo và Thiền học ứng dụng trong đời sống hàng ngày, có lòng
hiếu thảo, yêu thương mọi người và phát huy trí tuệ, ý thức tổ chức kỷ luật làm nền
tảng cho cuộc sống sau này.Hiểu biết về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên Khu di tích -
danh thắng Yên Tử thông qua chương trình các dã ngoại.
*) Các lễ hội hiện đại
Nói đến các lễ hội hiện đại tại tỉnh, không thể không nhắc tới lễ hội Carnaval
ở Hạ Long, Carnaval ở Hạ Long như một điểm sáng của du lịch văn hóa Quảng
Ninh. Carnaval Hạ Long xếp ngang hàng với Festival hoa Đà Lạt, Festival pháo hoa
Đà Nẵng, Festival Huế, Carnaval Nha Trang… thông qua lễ hội góp phần tích cực
vào quảng bá hình ảnh về con người và vùng đất Quảng Ninh. Từ năm 1986 đến
nay, hàng năm tỉnh đều tổ chức Lễ hội Du lịch vào mùa hè nhân dịp các ngày lễ lớn
(30/4 -1/5) nhằm thu hút khách đến với Hạ Long - Quảng Ninh. Đặc biệt, năm 2007
trong khuôn khổ tuần lễ du lịch tỉnh đã lần đầu tiên tổ chức một lễ hội du lịch
đường phố sôi động, tràn ngập màu sắc mang tên “Carnaval Hạ Long 2007” với
62
nhiều nội dung đặc sắc, không gian rực rỡ cùng sự tham gia của các nghệ sĩ nổi
tiếng, các đoàn nghệ thuật quốc tế và đông đảo người dân Quảng Ninh. Sự kiện này
đã thật sự trở thành điểm nhấn cho du lịch Hạ Long, tạo nên thương hiệu cho du
lịch Quảng Ninh, phát huy mặt tích cực của các Lễ hội văn hóa truyền thống, đồng
thời tạo ra nhiều nét mới lạ và đặc trưng riêng của ngành du lịch.
- Carnaval Hạ Long 2015
Với chủ đề “Hội tụ tinh hoa - Lan toả nụ cười”, Carnaval Hạ Long 2015 tiếp
tục duy trì mô hình biểu diễn ca - múa - nhạc trên sân khấu kết hợp trình diễn
Carnaval với các xe hoa, vũ điệu và trình diễn dân gian của các dân tộc, vùng, miền
văn hoá của tỉnh trên đường phố.
Carnaval Hạ Long 2015 lần này là tuy vẫn tách rời hai phần biểu diễn trên
sân khấu và dưới đường phố nhưng cả hai phần sẽ diễn ra song hành trong suốt thời
gian diễn ra lễ hội. Sự kết hợp này nhằm tạo cho người xem một không khí lễ hội
đầy đặn và rực rỡ hơn. Theo kịch bản, chương trình nghệ thuật trên sân khấu
Carnaval Hạ Long 2015 sẽ có chủ đề “Nơi tinh hoa hội tụ” và phần diễu hành mang
chủ đề “Nụ cười Hạ Long” diễn ra trên đường sôi động. Trong đó, với phần “Nơi
tinh hoa hội tụ” thông qua các ca khúc sẽ giới thiệu giá trị về cảnh quan, nếp sinh
hoạt của con người thành phố biển Hạ Long trong những không gian khác nhau, các
vùng di sản vật thể và phi vật thể giàu có của Quảng Ninh như Yên Tử, Bạch Đằng,
Đông Triều, Vân Đồn, Móng Cái... với hệ thống di tích, lễ hội phong phú, sinh động, đặc
sắc. Sắc màu văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh cũng được thể
hiện qua phần trình diễn của đồng bào Tày ở Bình Liêu với nghi lễ Lẩu then đặc sắc,
điệu múa chuông trong nghi lễ cấp sắc của đồng bào Dao Thanh Y.
Phần diễu hành mang chủ đề “Nụ cười Hạ Long” năm nay có khoảng 10 xe
hoa, mô hình tham gia, với các phần trình diễn mang tiết tấu sôi động, sẽ có sự góp
mặt của trên 50 hoa hậu, á hậu, người mẫu chuyên nghiệp và hơn 2.000 diễn viên
quần chúng của Quảng Ninh. Đặc biệt, thể hiện ý tưởng “Hạ Long nối vòng tay bè
bạn”, Carnaval Hạ Long sẽ thể hiện sắc màu văn hoá của các nước bè bạn như Thái
Lan, Lào, Trung Quốc qua các vũ khúc, trang phục truyền thống...
63
Về nội dung, Carnaval Hạ Long 2015 vẫn được thực hiện theo hướng chú
trọng tôn vinh bản sắc văn hoá địa phương kết hợp hài hoà với các vùng miền và
giao lưu văn hoá quốc tế, tôn vinh di sản Vịnh Hạ Long..Cùng với Carnaval Hạ
Long, các chương trình khác như biểu diễn nghệ thuật, các giải thể thao, hội chợ
OCOP…đã được thực hiện theo đúng kế hoạch, thu hút nhiều tổ chức, cá nhân tham
gia, được dư luận đồng tình, đánh giá cao. Trong dịp diễn ra Tuần Du lịch Hạ Long
– Quảng Ninh 2015, lượng khách du lịch đến Quảng Ninh đạt ở mức cao nhất từ
trước đến nay, đạt gần 500.000 lượt khách du lịch và nhân dân đến dự Carnaval Hạ
Long, tăng 12% so với năm trước. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ tại các địa phương
Hạ Long, Uông Bí, Cẩm Phả, Vân Đồn trong dịp này đạt 100% .
- Carnaval Hạ Long 2014
Với chủ đề “Quảng Ninh-Hội tụ và Lan tỏa,” Carnaval Hạ Long 2014 đã
khai mạc tối 30/4, tại đường Hoàng Quốc Việt, phường Hùng Thắng, thành phố Hạ
Long trong không khí tưng bừng với muôn sắc màu lung linh, rực rỡ.
Chương trình Carnaval Hạ Long 2014 gồm hai phần: Lễ khai mạc và trình
diễn nghệ thuật trên sân khấu với chủ đề “Ấn tượng Hạ Long.” Đây là chương trình
nghệ thuật ca-múa-nhạc đặc biệt có thời lượng khoảng 45 phút với sự trình diễn của
các ca sỹ thành danh người Quảng Ninh cùng gần 300 diễn viên múa, người mẫu và
sự phối diễn của các nghệ sỹ đến từ Trung Quốc, Lào và Thái Lan. Phần hai của lễ
hội có chủ đề "Hội tụ sắc màu-lan tỏa lợi ích" là một màn đại trình diễn trên một
sân khấu khổng lồ (gần 1.000m đường phố) của 28 khối diễn với trên 3.800 diễn
viên chuyên nghiệp và diễn viên không chuyên các dân tộc của các địa phương
trong tỉnh cùng 7 xe hoa, hàng chục mô hình, sàn diễn di động được trang trí ấn
tượng theo các chủ đề “Hạ Long-Thành phố khát vọng Rồng bay,” “Miền đất hội tụ
những kiệt tác tự nhiên,” “Miền đất hội tụ những sắc màu văn hóa” và “Miền đất
lan tỏa giá trị và lợi ích.” Mỗi chủ đề đều gắn với một trung tâm du lịch, các điểm
du lịch trong tỉnh, đặc biệt là trung tâm du lịch Hạ Long, Yên Tử, Vân Đồn, Móng
Cái.
64
Thông qua lễ hội, hàng vạn người dân địa phương và du khách đã có mặt ở khu vực
diễn ra lễ hội. Chia sẻ cảm xúc trong đêm hội tưng bừng. thông qua Carnaval nhằm
giới thiệu, mời gọi bạn bè, du khách trong nước và quốc tế đến chiêm ngưỡng,
khám phá Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và những di sản văn hóa đa sắc
màu của tỉnh Quảng Ninh.
- Carnaval Hạ Long 2013
Lễ hội Carnaval Hạ Long 2013 với chủ đề “Sắc màu Quảng Ninh-Hội tụ và
lan tỏa” sẽ chính thức diễn ra vào 20 giờ ngày 27/4, tại đường Hoàng Quốc Việt,
phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long.
Carnaval Hạ Long 2013 cho thấy, lễ hội đã thực sự là của Quảng Ninh, do
người Quảng Ninh làm và thể hiện đậm chất văn hoá Quảng Ninh. Chương trình có
sự tham gia của người dân hầu hết các địa phương với tổng số diễn viên Quảng
Ninh chiếm tới hơn 90%. Đó là lực lượng diễn viên tham gia các khối diễn đông
đảo của người dân biển; tầng lớp công nhân vùng mỏ; đội ngũ trí thức, người lao
động các ngành nghề; các tăng ni, phật tử cho đến những nghệ nhân, đồng bào các
dân tộc thiểu số của Quảng Ninh ... Các giá trị văn hoá đặc sắc của Quảng Ninh
cũng được chọn lọc, được cách điệu và nghệ thuật hoá với 24 khối diễn, 12 xe hoa,
mô hình thể hiện tiềm năng du lịch văn hoá giàu có của các vùng, miền trong tỉnh.
Toàn bộ Carnaval từ chương trình nghệ thuật trên sân khấu đến phần diễu hành
đường phố đã tạo thành một bức tranh tổng thể hoành tráng, có sự kết nối, đan xen
hài hoà giữa những giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại. Bên những khối diễn
sinh động đầy sắc màu, các hoa hậu, người mẫu, vũ công xinh đẹp, duyên dáng với
phục trang đặc biệt là sự điểm xuyết rực rỡ, gây ấn tượng mạnh cho du khách. Còn
những diễn viên địa phương lại cuốn hút người xem bởi sự rạng rỡ, tự nhiên, thể
hiện nét văn hoá đặc sắc, vừa giới thiệu vừa là sự mời gọi du khách hãy đến và
khám phá sự giàu có, đa dạng của đất và người Quảng Ninh...
Sức quyến rũ của Carnaval Hạ Long quả là khó cưỡng. Vì vậy mà đông đảo
người dân và du khách gần xa đã đổ về cung đường Hoàng Quốc Việt trong đêm
hội. Khán đài 10.000 chỗ ngồi đông kín, người dân nhiệt tình đứng xem suốt cung
65
đường hàng trăm mét kéo dài đến khách sạn Lotus. Đúng như lời hứa, chiều lòng
người xem, Carnaval đường phố đã diễn cho đến hết dòng người xem mới thôi...
Carnaval Hạ Long mỗi năm một chủ đề, chuyển tải những thông điệp riêng, ứng
dụng nhiều thay đổi về nội dung trên một hình thức thể hiện thống nhất – lễ hội
đường phố. Với sự tham gia của các người dân địa phương và du khách, yếu tố văn
hóa bản địa ngày càng được phô diễn rõ nét hơn trong các kỳ tổ chức lễ hội. Cùng
với kho báu tuyệt bích của những đảo đá nghìn năm bồng bềnh trên biển, Hạ Long
đã được cả thế giới ca ngợi trên mọi mặt báo nổi tiếng nhất về du lịch. Thêm vào
đó, Carnaval Hạ Long trở thành một “bữa tiệc”, một điểm hẹn cho du khách yêu
mến thành phố biển Quảng Ninh.
Một số tour tiêu biểu:
• Lịch trình Tour: Hà Nội-Yên Tử-Hạ Long-Hang Sửng Sốt-Titốp-Bái Đính-Tràng An.
- Thời gian: 4 ngày
- Phương tiện di chuyển: Ô tô
• Lịch trình Tour :Hà Nội-Lào Cai-Sapa-Yên Tử-Hạ Long-Bái Đính-Tràng An
- Thời gian: 6 ngày
- Phương tiện di chuyển:Trải nghiệm cung đường cao tốc iGO
• Lịch trình Tour :Liên Tuyến Trung Bắc:Nha Trang-Đà Nẵng-Huế-Động Thiên
Đường-Bà Nà-Hội An-Hà Nội-Hạ Long-Sapa-Bái Đính-Tràng An
- Thời gian: 14 ngày
- Phươn tiện di chuyển: Ô tô
• Lịch trình Tour :Liên Tuyến Trung Bắc:Nha Trang-Đà Nẵng-Huế-Động Thiên
Đường-Bà Nà-Hội An-Hà Nội-Hạ Long
- Thời gian: 10 ngày
- Phương tiện di chuyển: Ô tô
• Lịch trình Tour :Liên Tuyến Bắc Trung:Hà Nội-Hạ Long-Bái Đính-Tràng An-
Huế-Động Thiên Đường-Đà Nẵng-Bà Nà-Hội An
- Thời gian: 9 ngày
- Phương tiện di chuyển: Ô tô
66
• Lịch trình Tour :Liên Tuyến Bắc Trung:Hà Nội-Hạ Long-Sapa-Bái Đính-Tràng
An-Đà Nẵng-Huế-Động Thiên Đường-Bà Nà-Hội An
- Thời gian: 11 ngày
Phương tiện di chuyển: Ô tô
Qua các lần tổ chức Carnaval, có thể nhận thấy rằng với nhiều ý nghĩa, giàu
màu sắc nghệ thuật, Carnaval Hạ Long đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng
người dân địa phương cũng như bạn bè, du khách trong và ngoài nước.Đặc biệt hiện
nay, đã có rất nhiều công ty du lịch chọn tour sản phẩm Carnaval Hạ Long để chào
bán cho du khách. Qua đó, thu hút du khách trong và ngoài nước đến chiêm
ngưỡng, khám phá Kỳ quan Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và những di sản
văn hóa đa sắc màu trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, thông qua các năm đã tổ chức Carnaval Hạ Long vẫn được thực
hiện theo hướng chú trọng tôn vinh bản sắc văn hoá địa phương kết hợp hài hoà với
các vùng miền và giao lưu văn hoá quốc tế, tôn vinh di sản Vịnh Hạ Long. Công tác
thông tin tuyên truyền, đảm bảo an ninh trật tự, giao thông, y tế, vệ sinh môi trường
được triển khai kịp thời, hiệu quả. Công tác vận động tài trợ cho chương trình được
thực hiện tốt, đạt yêu cầu theo tinh thần huy động tối đa các nguồn lực xã hội hoá.
Tuy nhiên, hoạt động Carnaval Hạ Long cũng có những tồn tại, hạn chế trong công
tác tổ chức Carnaval Hạ Long, như: Phần biểu diễn nghệ thuật mới tập trung chủ
yếu ở khu vực sân khấu, không xuyên suốt trên cả tuyến đường; một vài phần biểu
diễn của lực lượng diễn viên không chuyên chưa đồng đều, sự liên kết giữa các khối
diễn còn có khoảng trống, việc kiểm soát về khách mời, vé vào xem Carnaval còn
thiếu sót, một số xe mô hình, đạo cụ, trang phục biểu diễn chất lượng chưa đạt yêu
cầu. Lượng khách quốc tế đến với Carnaval Hạ Long chưa nhiều, chủ yếu là khách
nội địa. Hơn nữa sức chứa của Carnaval Hạ Long vẫn còn nhỏ nên xảy ra tình trạng
tren lẫn, xô đẩy, móc túi, cướp giật khi du khách tham gia lễ hội…
2.2.2.4. Hoạt động ẩm thực
Hồng Gai có núi Bài Thơ
Có hang Đầu Gỗ, có chùa Long Tiên
67
Đồn Cẩm Phả sơn hà Bát Ngát
Huyện Hoành Bồ đồi cát mênh mông
Ta đi ta nhớ quê nhà
Nhớ rượu Mã Kích, nhớ gà đồi Tiên Yên
Có thể nói Quảng Ninh có một nền ẩm thực vô cùng phong phú, đang dạng
và đặc sắc làm mê mẩn du khách thập phương đến thưởng thức ẩm thực của nền văn
hóa dân gian vùng biển, nền văn hóa Hạ Long. Người ta đã tìm ra có tới hàng trăm
món ăn dân gian từ xa xưa ở vùng biển Quảng Ninh. Có thể kể đến các đặc sản nổi
tiếng như: Chả mực giã tay Hạ Long, Ruốc Lỗ - Hạ Long, Bún xào ngán - Hạ Long,
Sam biển Hạ Long, Sam Quảng yên, Canh Hà Quảng Yên, Nem chua, Nem Chạo
Quảng Yên, Sò Huyết – Hạ Long, Mực hấp ổi - Hạ Long, Con Sá Sùng - Hạ Long.
Con Bề Bề - Hạ Long, Con Cù Kỳ - Hạ Long…Và tất nhiên, đã là món ăn dân gian
thì thường đơn giản, dễ kiếm, dễ làm, dễ ăn.
Văn hoá ẩm thực ở vùng biển Quảng Ninh có đặc điểm là cùng một món ăn
nhưng lại có nét riêng biệt, mang đặc trưng của vùng mình. Ví dụ như vùng huyện
đảo Vân Đồn, Cô Tô, Quảng Yên đều có mực ống, hà, tù hài... Nhưng mực ống ở
Cô Tô mới là loại mực ngon nhất, càng nhai càng ngọt; trong khi với con hà thì chỉ
ở Quảng Yên ăn mới ngon; cũng như vậy, các món ăn chế biến từ con ngán có ở
Quảng Yên, Vân Đồn, Hạ Long, Hoành Bồ, Hải Hà, Đầm Hà, Móng Cái v.v..
nhưng xuất xứ của nó lại từ Quảng Yên. Người Vân Hải (Vân Đồn) trước đây chưa
biết cách đánh bắt con ngán, về sau mới biết do người Quảng Yên đến đánh bắt, có
người ở lại lấy chồng, lấy vợ, sinh cơ lập nghiệp tại đây, rồi truyền lại cho...
Ngoài ra, ở Quảng Yên còn có một loại thức ăn đặc sản, đó là nem chua,
bánh gio, nem chạo, rau câu (còn gọi là rong biển). Ở Hạ Long có bánh cuốn nhân
tôm, ăn với chả mực mà nổi tiếng nhất là ở khu phố Hàng Nồi (phường Hòn Gai).
Đặc biệt ở đây có một thứ đồ uống khó quên, đó là rượu ngán, khi uống ta thấy nó
vừa thơm, vừa mát, lại vừa bổ, tăng sức khoẻ cho người già, sức cường tráng cho
nam giới. Loại đồ uống này hiện đang khá phổ biến ở TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, thị
68
trấn Cái Rồng (huyện Vân Đồn), Quảng Yên, huyện Hải Hà, thị trấn Tiên Yên
(huyện Tiên Yên), phường Trà Cổ và một số cửa hàng ăn uống ở TP Móng Cái …
Ở Vân Đồn, Hạ Long còn có món bánh đa nướng tráng bằng bột gạo tẻ.
Huyện Vân Đồn có làng chè Trà Bản, sau này khi xã Vân Hải được chia tách thành
4 xã, thì làng chè Trà Bản có tên mới là trà Bản Sen. Ở làng Vân, có một loại chè
gọi là chè Vân, cây chè ở làng Vân đã tồn tại hàng nghìn năm nay, từ trước khi
người ta đến đây cư trú… Đây là loại chè trên vùng đảo, một đặc sản quý.
Ngày 5/7/2014 Khu phố ẩm thực đêm Hạ Long vừa được khai trương ở phố
Bến Đoan, phường Hồng Gai, TP Hạ Long, hứa hẹn trở thành sản phẩm du lịch độc
đáo, quảng bá và nâng tầm thương hiệu ẩm thực Hạ Long. Khu phố ẩm thực Hạ
Long có diện tích hơn 11.000 m2 chạy dài trên con đường ven biển của thành phố,
bên bờ vịnh Hạ Long thơ mộng. Trong 87 gian hàng hoạt động tại khu phố, 27 gian
có mái che cố định bán hàng từ 5h - 24h, 60 gian ngoài trời sẽ mở cửa từ 16h30 -
24h. "Trong phố ẩm thực, chúng tôi ưu tiên các gian hàng kinh doanh thực phẩm đặc
trưng của Quảng Ninh nhằm quảng bá, giới thiệu các món đặc sản của địa phương tới du
khách. Các món đặc sản có thương hiệu Quảng Ninh như xôi chả mực, bánh cuốn chả
mực, mực Cô Tô... đều được bày bán giới thiệu tại phố ẩm thực đêm".
Qua điều tra thực tế, ta thấy Quảng Ninh, một vùng đất giàu tính nhân văn
mang đậm nét văn hoá Việt.Trong những năm gần đây, tour du lịch ẩm thực đang
được đông đảo thực khách quan tâm và hưởng ứng nhiệt tình, trong đó có cả khách
nước ngoài. Nhưng hầu như ở Hạ Long các nhà hàng dạy cấu các món ăn thường
không có. Với Hạ long ẩm thực là một trong những thế mạnh của du lịch biển. Thế
nhưng người ta mới chỉ nhận ra điền đó thôi chứ vẫn chua có thật nhiều sự kiện tổ
chức thường xuyên mang tầm cỡ lớn để thu hút khách du lịch, qua đó quảng bá ẩm
thực, hình ảnh của một hạ Long. Du lịch Quảng Ninh vẫn chưa đưa văn hoá ẩm
thực biển vào du lịch bởi sự do dự, thiếu quyết tâm của mình.
Qua khảo sát các chương trình tour dành cho khách khi đến với biển Hạ
Long mới thấy, phần lớn các công ty lữ hành khi chào bán các tour du lịch thì chỉ
nhấn mạnh đến các điểm du lịch, lịch trình tour chứ hầu như không giới thiệu tới
69
các món ăn biển Hạ Long. Việc quảng bá món ăn biển Hạ Long một cách có tổ
chức là một vấn đề còn bị bỏ ngỏ.
Đối với khách du lịch, việc đi tìm hiểu ẩm thực nơi mình tới thăm là sở thích
của hầu hết mọi người. Khách du lịch tới không chỉ là việc thưởng thức mà họ còn
muốn học, muốn đem phong cách ẩm thực bỉên Hạ Long về quê hương của họ.
Bên cạnh việc đi thăm di sản thiên nhiên thế giới , du khách còn được khám
phá những giá trị phi vật thể của địa phương được lưu giữ theo thời gian–Văn hoá
ẩm thực. Khi nhắc tới “chả mực Hạ Long”, “rượu ngán”…thì du khách tỏ ra rất
thích thú và yêu mến. Đã đến được với Hạ Long thì phải thưởng thức.
Chính vì thế, điều cần thiết là xây dựng các tour du lịch kết hợp với du lịch
ẩm thực dành cho khách du lịch. Đây không chỉ là vấn đề mới của du lịch Quảng
Ninh mà nó đã trở thành vấn đề quan tâm của cả ngành du lịch Việt Nam. Khi xây
dựng các tour du lịch kết hợp với du lịch ẩm thực giúp cho du khách có cảm giác
yên tâm và thoải mái hơn, có điều kiện thưởng thức đặc sản Hạ Long.
Như vậy, qua thực trạng về sản phẩm du lịch văn hóa tại tỉnh ta thấy, Sản
phẩm du lịch còn dựa nhiều vào tài nguyên. Sản phẩm du lịch còn ở mức quy mô
nhỏ, hoạt động phân tán, phát triển còn có chiều hướng tự phát, dịch vụ không đồng
đều, thiếu tính liên kết; Chưa khai thác được nhiều yếu tố văn hóa để đưa vào sản
phẩm. Các loại hình sản phẩm du lịch văn hóa của Quảng Ninh chưa được quy
hoạch, định hướng phát triển chuyên nghiệp, công tác tổ chức, quản lý chưa theo
kịp tốc độ phát triển của thị trường, hiệu quả thu hút đầu tư chưa cao, nguồn nhân
lực chất lượng cao ít, hoạt động kinh doanh còn tồn tại một số hành vi chưa văn
minh, chưa lịch sự, chưa thể hiện được tình cảm mến khách. Ngay tại trung tâm du
lịch Hạ Long, đôi khi vẫn xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, lừa dối, ép
buộc khách, ứng xử thiếu văn hoá....
Những vấn đề nêu trên là nguyên nhân làm giảm giá trị các sản phẩm du lịch
văn hóa, dịch vụ du lịch, làm giảm chất lượng các chương trình du lịch, giảm thời
gian lưu trú của khách du lịch, tác động tiêu cực đến tình cảm của khách du lịch
70
trong nước và quốc tế, làm giảm uy tín du lịch Hạ Long - Quảng Ninh và thương
hiệu Di sản Kỳ quan thế giới.
2.2.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật
Công tác đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất về du lịch được tăng cường và phát
huy hiệu quả. Việc thu hút đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của ngành có
những chuyển biến tích cực, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch, góp phần nâng cao chất
lượng các dịch vụ, tạo nên các sản phẩm du lịch mới hấp dẫn, thu hút khác du lịch.
2.2.3.1. Cơ sở lưu trú
Có hai dạng cơ sở lưu trú tại Quảng Ninh: khách sạn trên
đất liền và tàu nghỉ đêm trên vịnh.
Khách sạn trên đất liền: Tính trên toàn địa bàn tỉnh, đối với các khách sạn
trên đất liền, Quảng Ninh hiện có nguồn cung dư thừa các khách sạn từ mức trung
đến mức thấp nhưng lại rất hạn chế các khách sạn hạng sang. Các khách sạn nói
chung đều nằm ở các khu vực trọng điểm như khu vực Vịnh Hạ Long và Móng Cái,
nhưng vẫn còn thiếu khách sạn cao cấp ở một số điểm tham quan du lịch như ở khu
vực Yên Tử. Công suất sử dụng buồng của các khách sạn khá ổn
định nhưng vẫn còn ở mức thấp là 58% năm 2011, thấp hơn mức trung bình
68% của khu vực Đông Nam Á mặc dù có số lượng khách rất lớn. Hiện nay, chỉ
có 11 khách sạn hạng 4 sao và 2 khách sạn 5 sao trong số 86 khách sạn trên toàn
tỉnh. Phần lớn các khách sạn chỉ ở mức 1 sao, 2 sao phục vụ cho nhu cầu của
khách du lịch nội địa. Nhiều cơ sở lưu trú là các nhà nghỉ không xếp hạng, có
chất lượng dưới mức tiêu chuẩn xếp hạng sao.
Theo số liệu thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, tính đến nay,
trên địa bàn tỉnh có khoảng trên 1.000 cơ sở lưu trú, trong đó 145 khách sạn từ 1-5
sao. Hệ thống khách sạn từ 2-4 sao phần lớn tập trung ở thành phố Hạ Long, trung
tâm du lịch của tỉnh. Tính đến nay, thành phố Hạ Long có khoảng 60 khách sạn xếp
hạng từ 2-4 sao. Nếu như cách đây khoảng hơn chục năm trở về trước, khách sạn
mi-ni là mô hình hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, thì đến nay với điều kiện
kinh tế ngày càng phát triển, khách du lịch có nhu cầu phục vụ cao hơn, hệ thống
71
khách sạn mi ni không còn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất cũng như
chất lượng phục vụ cho những đoàn khách cao cấp. Thực tế cho thấy, những năm
gần đây, du lịch Quảng Ninh đã có sự biến đổi về chất lượng theo hướng tăng cao tỷ
trọng các cơ sở dịch vụ du lịch cao cấp, số lượng khách hạng sang ngày càng tăng,
kéo theo đó là việc đầu tư hệ thống khách sạn lưu trú để phục vụ nguồn khách này.
Thời điểm gần đây nhất, cuối năm 2013, đầu năm 2014, thành phố Hạ Long đã đưa
thêm 2 khách sạn cao cấp vào phục vụ du khách; đó là: Khách sạn Royal Hạ Long
và khách sạn Mường Thanh Quảng Ninh. Trong đó, khách sạn Mường Thanh
Quảng Ninh mới được khánh thành và đưa vào hoạt động cuối tháng 12-2013. Khách
sạn được đầu tư với tổng số vốn lên đến 500 tỷ đồng, với 34 tầng, 508 phòng nghỉ.
Khách sạn có hệ thống phòng hội nghị, hội thảo sức chứa lên đến 1.200 người và các
nhà hàng Âu - Á sang trọng, tạo thêm một điểm nhấn mới cho du lịch Quảng Ninh.
Trong hoạt động cung cấp dịch vụ và bảo trì, chất lượng của khách sạn giảm
đi sau vài năm hoạt động đầu tiên. Trang trí nội thất trong nhiều khách sạn đã trở
nên rất lỗi thời cùng với sự phục vụ của những nhân viên chưa được đào tạo đầy
đủ đã dẫn tình trạng chất lượng dịch vụ yếu kém.
Về những cơ sở lưu trú trên vịnh: nguồn cung về tàu nghỉ đêm là rất lớn.
Trong những năm qua có sự tăng trưởng rất nhanh về số lượng tàu nghỉ đêm, nhưng
lại hạn chế về nguồn cung của tàu được xếp hạng cao. Tương tự như nguồn
cung trên đất liền, nguồn cung cơ sở lưu trú cao cấp rất hãn hữu, với chỉ 3 trên
189 tàu trong năm 2013 nằm trong hạng mục cao cấp, như vậy thị trường tàu
nghỉ đêm cao cấp trên Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long vẫn còn có tiềm
năng phát triển.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, các khách sạn cao cấp vẫn chủ yếu tập trung
ở Hạ Long, các trung tâm du lịch khác trong tỉnh như: Vân Đồn, Uông Bí, Móng
Cái vẫn còn thiếu các khách sạn từ 2-4 sao. Thêm nữa, vẫn còn việc lợi dụng mùa
cao điểm du lịch, lễ hội để tăng giá phòng lưu trú ở một số khách sạn, nhà nghỉ, đi
ngược lại những định hướng và chủ trương của ngành Du lịch trong việc thu hút
ngày càng nhiều khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế...
72
Tuy nhiên chất lượng cảnh quan vịnh hiện đang bị tác động bởi quá nhiều số
lượng tàu đang hoạt động trên vịnh. Khách du lịch có thể dễ dàng tiếp cận những
thông tin về các cơ sở lưu trú nhờ nhiều khách sạn lớn ngày nay đã có dịch vụ đặt
phòng trực tuyến thông qua các trang web lớn như expedia.com, booking.com,
agoda.com và trên Trip Advisor có sẵn những thông tin về những thứ tự xếp hạng
cơ sở lưu trú hàng đầu. Tỉnh Quảng Ninh vẫn cần hỗ trợ cho các khách sạn quy mô
vừa và nhỏ để họ có mặt trực tuyến và tiếp cận với khách du lịch quốc tế.
2.2.3.2. Cơ sở kinh doanh Dịch vụ ăn uống
Về cơ sở kinh doanh ăn uống trên địa bàn tỉnh khá phong phú và đa dạng.
Các nhà hàng chuyên phục vụ đồ ăn Âu, Á …Các nhà hàng từ sang trọng đến bình
dân không ngừng tăng cao về số lượng và chất lượng nhằm phục vụ tối đa nhu cầu
ăn uống của khách du lịch trên địa bàn tỉnh
Bảng 2.1. Thống kê hiện tại về các cơ sở khách sạn theo cấp hạng sao
Tp Hạ Long Móng Cái Vân Đồn Uông Bí
0 2 0 0 5- sao
13 0 0 0 4- sao
16 0 0 0 3- sao
27 6 4 0 2- sao
14 10 0 1 1- sao
(Ngồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch)
Tuy nhiên các nhà hàng chất lượng lại tập trung chủ yếu ở khu vực thành phố
Hạ Long , Khu vực Bãi Cháy…Còn các cụm du lịch, khu du lịch rất thiếu vắng các
nhà hàng chất lượng để phục vụ nhu cầu của khách du lịch như khu du lịch Thị Xã
Quảng yên, Thành phố Uông Bí …Quảng Ninh rất thiếu các cơ sở ăn uống quy mô
lớn. Các nhà hàng có quy mô lớn nhất cũng chỉ có năng lực phục vụ 1000 - 1200
thực khách và thường nằm trong các khách sạn. Một số ít nhà hàng tư nhân có quy
mô lớn chỉ chuyên doanh phục vụ các đám cưới theo phong tục Việt Nam. Tính
chuyên nghiệp và thương hiệu đặc trưng của hệ thống nhà hàng tại Quảng Ninh
dường như chưa được định hướng phát triển một cách rõ ràng. Lực lượng lao động
73
tại các nhà hàng phần lớn chưa có năng lực chuyên nghiệp và thường xuyên thay
đổi. Một số nhà hàng nổi ven bờ Vịnh Hạ Long đang là một trong những yếu tố tác
động tiêu cực đối với môi trường biển của Di sản thiên nhiên thế giới.
2.2.3.3. Các trung tâm thương mại và dịch vụ
*Halong Marine Plaza – Điểm đến lý thú cho mùa Carnaval Quảng Ninh
Carnaval là một trong những sự kiện lớn nhất trong năm tại TP Hạ Long thu
hút hàng trăm nghìn lượt khách tham dự. Ngoài sự kiện chính diễn ra tại đường
Hoàng Quốc Việt thì các hoạt động sôi nổi khác diễn ra tại Tổ hợp thương mại và
giải trí Halong Marine Plaza trong cũng rất được chờ đợi.
Mỗi năm một lần, vào dịp hè, không chỉ du khách trong và ngoài nước mà
người dân TP Hạ Long cũng luôn mong ngóng và chờ đợi đến dịp lễ hội Carnaval –
một sự kiện lớn nhất trong năm. Lễ hội này không chỉ khẳng định vị trí và tầm quan
trọng của một trong những thành phố du lịch biển thu hút nhất miền Bắc mà còn mang đến
không khí sôi động, rực rỡ, báo hiệu một mùa hè, một mùa du lịch đã đến.
Bảo tàng truyền thống, Trung tâm Thương mại Bãi Cháy, Trung tâm thương
mại Vincom Centrer Hạ Long…, Sân golf quốc tế Móng Cá (Mongcai International
Golf Club)
Là sân golf bên bờ biển đầu tiên của Việt Nam . Sân golf quốc tế Móng Cái
tạo thêm cho du lịch Móng Cái cũng như du lịch Quảng Ninh một sản phẩm hấp
dẫn, góp phần thúc đẩy kinh tế.
Sân golf 18 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế, nằm trên những bãi cát được trồng cỏ
công phu chạy dọc theo bờ biển dài 3km, bên cạnh bãi tắm Trà Cổ nổi tiếng. Ðây là
sân golf bờ biển đầu tiên ở nước ta với hai sân riêng biệt: một sân tập luyện và một
sân thi đấu. Tuy nhiên, Các khu vui chơi giải trí, mua sắm trên địa bàn tỉnh tuy nhiều
nhưng thiếu các trung tâm vui chơi giải trí thú vị, thu hút khách du lịch, thiếu các
trung mua sắm các mặt hàng thời trang cao cấp, các khu vui chơi giải trí chất lượng
cao, các Sòng bạc, các sân goft mảng đẳng cấp quốc tế. Trong vòng vài năm tới,
Quảng Ninh sẽ triển khai mạnh mẽ rất nhiều các chiến lược để tăng lượng khách du
74
lịch đến tỉnh. Tỉnh đã đề ra mục tiêu đạt ít nhất 10,5 triệu lượt khách du lịch vào
năm 2020.
2.2.3.4.Dịch vụ vận chuyển.
Hiện nay, khách du lịch có thể đến Quảng Ninh và các điểm du lịch trọng
điểm trong tỉnh bằng cả đường bộ và đường biển. Tỉnh kết nối với các các tỉnh lân
cận thông qua mạng lưới các quốc lộ và đường giao thông, nhưng hiện nay nhiều
con đường đang trong tình trạng xuống cấp, làm tăng đáng kể thời gian lưu thông
trên đường đến Quảng Ninh. Hiện có 3 tuyến quốc lộ chính với tuyến có lưu lượng
xe cộ lớn nhất là tuyến thành phố Hà Nội đi thành phố Hạ Long
(khoảng cách 160 km), thành phố Hải Phòng đi thành phố Hạ Long (khoảng 30
cách 70 km) và thành phố Móng Cái đi thành phố Hạ Long (khoảng cách 170
km). Do tình trạng đường xuống cấp, tốc độ giao thông trung bình thường chỉ
đạt 50km/h, khiến cho việc giao thông đi lại tốn nhiều thời gian hơn dù chỉ trên
một đoạn đường ngắn. Hiện chưa có tuyến tàu lửa tốc hành đến Quảng Ninh (mặc
dù hiện nay có một tuyến đường sắt cho tàu chở hàng). Khách du lịch cũng có thể
đến Quảng Ninh bằng đường biển qua nhiều cảng tàu khác nhau trên địa bàn tỉnh,
chẳng hạn như cảng Hồng Gai, Bãi Cháy, Tuần Châu và Cái Rồng, v.v.. trong đó,
Bãi Cháy là cảng tàu du lịch phổ biến nhất, còn Hồng Gai và Tuần Châu chỉ là các
cảng phụ. Trong số đó có cảng Bãi Cháy và Tuần Châu là có cơ sở hạ tầng tốt, các
cảng khác hiện vẫn còn thiếu về cơ sở vật chất, chưa đủ và không có các loại biển
báo và các thông tin cần thiết thường bằng tiếng nước ngoài cho khách du lịch quốc
tế. Do không có sân bay nên tất cả khách du lịch sử dụng đường hàng không đến
sân bay quốc tế Nội Bài – Hà Nội và sân bay Cát Bi - Hải Phòng, rồi sau đó đến
Quảng Ninh bằng đường bộ. Về phương tiện đi lại, khách du lịch có thể đến thành
phố Hạ Long bằng xe taxi, xe tuyến, xe thuê hoặc tàu biển. Để đi thăm vịnh, khách
du lịch có thể sử dụng tàu nghỉ đêm hoặc tàu tham quan du lịch thông thường. Về
chất lượng phục vụ khách du lịch, tàu nghỉ đêm trên vịnh thường cung cấp được
những dịch vụ chất lượng cao, tuy nhiên xe khách và các phương tiện giao thông
khác thì lại chưa đáp ứng được đầy đủ tiện nghi và dịch vụ còn yếu kém. Mặc dù có
75
các tuyến xe khách đi từ Hà Nội đến Hạ Long và các thành phố khác trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh nhưng tại các bến xe không có đầy đủ biển báo và bảng tin ở
những khu du lịch có khách du lịch quốc tế nhằm cung cấp các thông tin cần thiết
và hướng dẫn tuyến đường bằng tiếng nước ngoài. Hầu hết lái xe khách và lái xe
taxi không biết nói tiếng Anh, đó cũng chính là một rào cản trong việc thu hút
khách quốc tế đến với Quảng Ninh.
Đường bộ: Xe ô tô du lịch có khoảng 250 xe ô tô với 7.500 chỗ ngồi. [26, Tr.
13]. Hệ thống các tuyến xe khách vận chuyển khách liên tỉnh, các tuyến xe khách
nội tỉnh, các hãng taxi ngày càng gia tăng về số lượng và chất lượng phục vụ đảm
bảo tốt công tác phục vụ nhu cầu của khách du lịch và nhân dân toàn tỉnh. Ngoài ra
tại địa điểm du lịch còn có xe đạp, xe xích lô, xe ba bánh phục vụ nhu cầu của
khách tham quan du lịch.
Đường thủy nội địa: theo thống kê hiện tại, Tàu du lịch có gần 500 tàu với
14.000 ghế ngồi; trong đó tàu có cơ sở lưu trú có 169 tàu, với 1.870 phòng, 3.800
giường, số tàu du lịch trên của 130 doanh nghiệp. [26, Tr. 13]
Hiện trên Vịnh Hạ Long có gần 500 tàu khách tham quan Vịnh. Cùng với sự
cạnh tranh gay gắt, nhiều doanh nghiệp vận tải đã mạnh dạn đổi mới phương tiện,
đầu tư nhiều tàu chở khách đạt tới độ sang trọng. Trên địa bàn tỉnh còn có các cảng lớn
như Cảng Cái Lân, Cảng Cửa Ông, Cảng Hòn Nét, Cảng Mũi Chùa, Cảng Vạn Gia,
Càng Tuần Châu. Tuy nhiên các cảng này chủ yếu phục vụ việc vận chuyển, vùng neo
đậu chuyển tải hàng hoá chưa phục vụ nhiều cho hoạt động kinh doanh du lịch.
Đường thủy quốc tế: Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu được đi vào hoạt
động theo Quyết định số 3465/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải. Cảng có
tổng diện tích 1.728.133m2 (bao gồm cả vùng nước neo đậu và vùng nước cửa
cảng), diện tích mặt nước 661.197m2, chiều dài neo đậu 6.030m, độ sâu tối thiểu
10m và tối đa là 17m, sức chứa trên 2.000 tàu.
Cảng hàng không: Sân bay trực thăng Bãi Cháy đang khai thác và sân bay
trực thăng Tuần Châu phục vụ du lịch. Ngoài ra, Dự án sân bay trên đảo Vân
Đồn, Quảng Ninh.(Cảng hàng không quốc tế Quảng Ninh hay Sân bay quốc tế Vân
76
Đồn) Sân bay này được xây dựng với mục đích phục vụ du lịch, đưa du khách đến
thăm quan di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và tỉnh Quảng Ninh,
đồng thời phục vụ nhu cầu đi lại chất lượng cao của người dân Quảng Ninh. Sân
bay sẽ được xây dựng trên diện tích khoảng 400ha, tại xã Đoàn Kết, huyện Vân
Đồn. Tổng vốn đầu tư cho dự án gần 2 tỷ USD, được chia làm 3 giai đoạn, dự kiến
sân bay được khởi công trong năm 2015.
Chất lượng cơ sở hạ tầng đủ để tạo trải nghiệm tốt cho khách du lịch. Phạm
vi các phương thức vận chuyển bao gồm xe khách, xe buýt, taxi, xe lửa, tàu thuyền, xe
cho thuê. Chất lượng vận tải bao gồm chất lượng xe và dịch vụ. Khả năng tiếp cận và
truyền thông về lịch trình, phí và bố trí đầy đủ các biển chỉ dẫn ở các khu vực. Quốc tế
hóa với biển chỉ dẫn bằng tiếng nước ngoài và trình độ ngoại ngữ
của nhân viên phục vụ.
Trong số ba tuyến quốc lộ chính nối Quảng Ninh với các tỉnh khác, tuyến Hà
Nội đi Hạ Long là tuyến có lưu lượng giao thông cao nhất. Do chất lượng đường xá
kém, tốc độ giao thông trung bình chỉ đạt 50km/giờ khiến cho thời gian đi Quảng
Ninh phải mất bình quân từ 3 đến 6 giờ đồng hồ. Việc đi xe cũng không tạo điều
kiện thoải mái cho khách du lịch, có những xe khách không có hệ thống
điều hòa, rất nhiều đoạn đường xấu và chỉ có ít đoạn đường đẹp. An toàn là một
mối quan tâm khác của nhiều khách du lịch bởi nhiều xe khi vượt nhau toàn
chạy vượt lấn sang phần đường của xe chạy ngược chiều do bề rộng của quốc lộ
không đủ để cho phép xe vượt nhau ở cả hai chiều. Điều này làm nản lòng nhiều
khách du lịch nước ngoài vì phần lớn họ đến Hà Nội và không muốn một 66
chuyến đi kéo dài 3 giờ đồng hồ để đến với Hạ Long. Tuyến quốc lộ lớn thứ hai
là tuyến cao tốc nội tỉnh nối Móng Cái và Hạ Long, đi qua nhiều thành phố lớn
của tỉnh. Tuyến đường này dài 170km, tốc độ di chuyển đạt trung bình là
60km/giờ, có điều kiện lưu hành tương tự như trên quốc lộ Hà Nội – Hạ Long.
Tuyến quốc lộ chính thứ 3 là tuyến giữa thành phố Hạ Long và thành phố Hải
Phòng. Khoảng cách tương đối ngắn, khoảng 60km với lưu lượng giao thông thấp
hơn nhưng tình trạng đường cũng rất kém.
77
Về hệ thống xe buýt công cộng, tỉnh còn thiếu nhiều bến xe buýt và đó là
thách thức đối với những khách đi du lịch một mình, không theo tour. Nhiều trạm
xe buýt lại đặt ở những vị trí không thuận lợi, cách xa bờ biển hoặc những điểm du
lịch chính và không phù hợp cho khách du lịch quốc tế do không có lịch trình và
vé in bằng tiếng nước ngoài, không có biển chỉ dẫn và nhân viên biết ngoại ngữ.
Các khu vực quan trọng như Bãi Cháy và đảo Tuần Châu có bố trí hợp lý số
lượng bến tàu du lịch nhưng ở những nơi khác chưa phát triển thì chưa có bến
cảng phù hợp. Ở cảng khách du lịch Tuần Châu, khu nhà chờ có chất lượng tốt,
chỗ ngồi trong nhà và ngoài trời thoải mái và có đủ tiện nghi cho khách du lịch,
nhưng còn thiếu các biển chỉ dẫn ra tàu và xung quanh khu vực bến, nhân viên
phục vụ không được đào tạo về các kỹ năng tiếng Anh để trợ giúp khách du lịch.
Cảng tàu du lịch Bãi Cháy là cảng đón nhiều khách du lịch nhất, có nhà chờ rất
tốt, tiện nghi và nhân viên được đào tạo bài bản. Chất lượng tổng thể là tốt
nhưng vẫn còn một số điều cần cải thiện hơn nữa như bố trí biển chỉ dẫn bằng
tiếng Anh và có sẵn những lựa chọn vé khác nhau trong cùng ngày. Những cảng
nhỏ hơn như Hồng Gai và Cái Rồng với lượng khách trung bình, không có cơ sở hạ
tầng và dịch vụ phù hợp với phát triển du lịch quốc tế. Những thiếu sót lớn ở
những nơi này là cơ sở vật chất đã rất cũ và chất lượng bảo trì nhà chờ kém, hầu
như không có hỗ trợ và dịch vụ bằng tiếng Anh. Cảng Cái Rồng không có khu
nhà chờ và hoạt động lên, xuống tàu cũng khó khăn do không có lối lên tàu.
Hiện nay đã có một số quy hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng dự kiến thực hiện trong
khu vực vào những năm tới đây, điều đó sẽ giúp gỡ bỏ rào cản về giao thông vận tải
trên địa bàn tỉnh. Dự án nâng cấp đường cao tốc từ Hà Nội và Hải Phòng đi Hạ
Long dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2015 và sẽ giảm đáng kể thời gian di chuyển
của khách du lịch đến Vịnh Hạ Long. Theo ước tính, thay vì mất 2 giờ đi từ Hạ
Long đến Hải Phòng thì tới đây sẽ chỉ còn khoảng 40 phút và thay vì mất 3 giờ hoặc
hơn để đến Hà Nội, thì thời gian chuyến đi sẽ rút lại còn khoảng 2 giờ. Tháng 9 vừa qua,
trong khuôn khổ Triển lãm xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản 2013, dự án cầu.
78
Như vậy, về Phương tiện vận chuyển phục vụ Khách du lịch tại địa phương
ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng phục vụ, các loại hình vận
chuyển…đáp ứng rất tốt nhu cầu sử dụng của khách du lịch, mang lại sự lựa chọn
phong phú đa dạng cho nhu cầu sử dụng phương tiện của du khách đồng thời tăng
thêm hiệu quả kinh doanh du lịch cho địa phương. Tuy nhiên, về phương tiện vận
chuyển vẫn còn tồn đọng một số vấn đề như phương tiện vận chuyển đường thủy
chưa an toàn, Sức chứa của tài, thuyền chính quyền địa phương vẫn chưa kiểm tra
giám sát sát sao, tàu thuyền chưa đảm bảo chất lượng vẫn lưu hành và phục vụ
khách du lịch, vẫn còn tai nạn đáng tiếc xảy ra như chìm tàu làm thiệt hại về người
và của.
2.2.4.Cơ sở hạ tầng
Phát triển hạ tầng cơ sở du lịch được coi là Chìa khóa quan trọng đưa Quảng
Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế. Xác định du lịch là ngành
kinh tế mũi nhọn, trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, được sự quan tâm chỉ đạo của các
cấp, các ngành từ Trung ương đến tỉnh, diện mạo du lịch Quảng Ninh đang thay đổi
từng ngày theo hướng tích cực. Trong đó, công tác đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất
du lịch không ngừng được tăng cường và phát huy hiệu quả
2.2.4.1.Mạng lưới giao thông
Hệ thống giao thông tỉnh Quảng Ninh bao gồm: giao thông đường bộ, đường
thuỷ nội địa, giao thông đường biển, giao thông đường sắt và các cảng hàng không.
Dụ vụ vận chuyển trên địa bàn tỉnh bao gồm vận chuyển đường bộ, đường
thuỷ nội địa, đường biển, đường sắt và các cảng hàng không.
Đường bộ:
- Quốc lộ: có 5 tuyến với 381 km; trong đó chủ yếu đường đạt cấp IV, cấp
III, còn lại 32 km đường Quốc lộ 279 (84%) đạt cấp V mặt đường đá dăm nhựa;
- Đường tỉnh: có 12 tuyến với 301 km, trong đó đường đạt cấp IV, cấp III là
154 km (chiếm 51%), còn lại là cấp thấp, chủ yếu là mặt đường đá dăm nhựa.
- Đường huyện: tổng số 764 km; đã cứng hoá mặt đường 455 km, đạt 60%;
khối lượng còn lại cần đầu tư 309 km, chiếm 40%.
79
- Đường xã: tổng số 2.233 km đường xã; đã cứng hoá mặt đường 527 km, đạt
24%; khối lượng còn lại cần đầu tư 1,706 km, chiếm 76%.
Bến, tuyến vận tải khách
- Bến xe khách: toàn tỉnh có 16 bến xe trong đó 6 bến xe liên tỉnh hỗn hợp;
- Tuyến vận tải khách: toàn tỉnh có 125 tuyến vận tải khách cố định liên tỉnh
và liên tỉnh liền kề; 18 tuyến vận tải khách nội tỉnh và 11 tuyến xe buýt.
Đường thuỷ nội địa:
- Bến: toàn tỉnh có 96 bến thuỷ nội địa;
- Luồng: đã đưa vào cấp quản lý 642 km đường thuỷ nội địa.
Đường biển phục vụ công tác vận tải thuỷ bao gồm các bến cảng và hệ thống
luồng, lạch. Ở Quảng Ninh, trong 14 huyện, thị xã, thành phố chỉ duy nhất Bình
Liêu là huyện không có vận tải thuỷ, 13 huyện, thị xã, thành phố còn lại đều có
sông, suối hoặc ở ven biển nên thuận lợi trong vận tải thuỷ. Toàn tỉnh có 5 cảng
biển (Cảng Cái Lân, Cảng Vạn Gia,Cảng Cửa Ông, Cảng Hòn Nét, Cảng Mũi
Chùa) và (9 khu bến) thuộc Danh mục cảng biển trong Quy hoạch phát triển cảng
biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Đường sắt: Toàn tỉnh có 65 km đường sắt quốc gia thuộc tuyến Kép-Hạ
Long (hiện nay đang cải tạo tuyến Yên Viên – Cái Lân khổ đôi 1,0m và 1,435m).
Ngoài ra còn có hệ thống đường sắt chuyên dùng ngành than.
Các cảng hàng không: Trong thời kỳ chiến tranh, có một số sân bay trực
thăng phục vụ quân sự; đến nay, chỉ còn sân bay trực thăng Bãi Cháy đang khai thác
và sân bay trực thăng Tuần Châu phục vụ du lịch.
2.2.4.2. Hệ thống cấp thoát nước
Quảng Ninh đã xây dựng được hệ thống các nhà máy nước có công suất lớn,
đáp ứng đủ nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất.Toàn tỉnh còn có 69 công trình hồ,
đập các loại. Hệ thống hồ, đập chính tập trung tại các vùng nông nghiệp như huyện
Đông Triều, Yên Hưng và các huyện miền Đông. Hệ thống này gồm 7 công trình
với tổng trữ lượng 222 triệu m3, có khả năng cung cấp nước tưới cho 28.500 ha;
trong đó công trình lớn nhất là hồ Yên Lập (thuộc dịa phận huyện Yên Hưng) với
80
trữ lượng 118 triệu m3, có khả năng cung cấp nước tưới cho 10.000 ha và cung cấp
nước sinh hoạt cho 100.000 dân.
Bảng 2.2. Hệ thống cấp thoát nước tại tỉnh Quảng Ninh
STT Tên nhà máy Công suất thiết kế
Nhà máy nước Diễn Vọng 60.000 m3/ngày đêm 1
Nhà máy nước Đồng Ho 20.000 m3/ngày đêm 2
Nhà máy nước Mạo Khê 12.000 m3/ngày đêm 3
Nhà máy nước Uông Bí 8.000 m3/ngày đêm 4
Nhà máy nước Móng Cái 5.000 m3/ngày đêm 5
Nhà máy nước Quảng Yên 5.000 m3/ngày đêm 6
(Nguồn: Tác giả của luận văn)
2.2.4.3.Hệ thống doanh nghiệp.
Tính đến ngày 30/06/ 2010, trên địa bàn Quảng Ninh hiện có khoảng 12.852
doanh nghiệp đăng ký hoạt động, kinh doanh với tổng số vốn đăng ký 98.778 tỷ đồng.
Trong đó có 2042 Công ty cổ phần (vốn 29.136 tỷ); 2513 Công ty Trách
nhiệm hữu hạn 2 thành viên (vốn 5.714 tỷ); 235 Công ty Trách nhiệm hữu hạn một
thành viên (vốn 13.459 tỷ); 1102 DNTN (vốn 1.078 tỷ). Các doanh nghiệp này phân
bổ theo lĩnh vực: Công nghiệp; Thương mại, du lịch, dịch vụ; Nhà hàng, khách
sạn; Nông - lâm- ngư nghiệp và các lĩnh vực khác.
2.2.4.4. Hệ thống thông tin liên lạc- Bưu chính viễn thông
Hệ thống bưu chính viễn thông đã đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ điều kiện đáp
ứng được các nhu cầu và hình thức thông tin. Mạng viễn thông được trang bị các
thiết bị kỹ thuật số với công nghệ tiên tiến, hiện đại, đa dịch vụ. Đặc biệt Vinaphone
đã lắp đặt trạm BTS trên đảo Ti Tốp (Vịnh Hạ Long) nên đã phủ sóng di động cơ
bản trên Vịnh Hạ Long, góp phần phục vụ tốt nhu cầu du lịch trên Vịnh. Mạng BTS
đang được triển khai ở khu vực di tích danh thắng Yên Tử (thị xã Uông Bí) và Núi
Bài Thơ (thành phố Hạ Long). Mạng thông tin di động của mạng Vinaphone,
Viettel, Mobiphone và mạng S-phone đã phủ sóng 14/14 huyện, thị xã, thành phố
cùng nhiều đảo xa của tỉnh.
81
2.2.4.5.Hệ thống cung cấp điện
Tính đến ngày 30/6/2010 Quảng Ninh đang vận hành 03 nhà máy điện với
tổng công suất 1.010MW trong đó bao gồm: Nhiệt điện Uông Bí (110MW+
300MW); Nhiệt điện Quảng Ninh I#1 (300MW); Nhiệt điện Cẩm Phả I (300MW).
2.2.4.6. Hệ thống giáo dục, y tế, ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ khẩn cấp
Giáo dục: Hệ thống các cơ sở đạo tạo ở Quảng Ninh bao gồm: các trường
đại học, cao đẳng chuyên nghiệp, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề và trung
cấp nghề.
Y tế: Quảng Ninh có hệ thống cơ sở vật chất của ngành y tế được đầu tư đáp
ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân và các du khách trong và ngoài nước.
Hiện nay, Quảng Ninh có 15 bệnh viện, 09 phòng khám đa khoa khu vực, 10 trung
tâm y tế tuyến tỉnh, 14 trung tâm y tế tuyến huyện, 186 trạm y tế xã, phường. Đội
ngũ y sỹ, bác sỹ chuyên nghiệp, chuyên môn cao.
Tuy nhiên, Về mặt dịch vụ y tế cho khách du lịch, các cơ sở hạ tầng hiện nay
còn thiếu và chưa đáp ứng đủ những điều kiện phục vụ cho khách du lịch. Ở thành
phố Hạ Long có hai bệnh viện có thể phục vụ được khách du lịch là Bệnh viện đa
khoa Bãi Cháy và Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh. Bệnh viện cung cấp chăm
sóc y tế cơ bản nhưng khả năng ngoại ngữ còn hạn chế để có thể giao tiếp với khách
du lịch. Trừ khu vực thành phố, nguồn lực y tế còn rất hạn chế trên toàn tỉnh với
chất lượng dịch vụ thấp và nhân viên không biết nói ngoại ngữ.Nhu cầu chăm sóc
sức khỏe trên quy mô toàn tỉnh cần được cải thiện để phục vụ được cả ngành công
nghiệp du lịch trên toàn địa bàn tỉnh và cần phải tăng cường
Dịch vụ khẩn cấp: Trong tình huống khẩn cấp, cảnh sát, dịch vụ phòng cháy
chữa cháy và y tế đã có thể đáp ứng được các sự cố theo báo cáo, nhưng các dịch vụ
này vẫn còn bị hạn chế ở khu vực ngoại vi thành phố. Cho đến nay thành phố Hạ
Long đã có thể kiểm soát một cách hiệu quả các tình huống khẩn cấp với sự hỗ trợ
đắc lực của đường dây nóng du lịch. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội, tỉnh sẽ giao đất bổ sung cho các các công trình phòng chữa cháy, cứu hộ và các
đồn cảnh sát trong tất cả các huyện đến năm 2020. Tuy nhiên, những thông tin về
82
các dịch vụ khẩn cấp như đường dây nóng chưa được công bố một cách hệ thống và
có rất ít hỗ trợ bằng ngôn ngữ nước ngoài phục vụ cho khách du lịch quốc tế. Dịch
vụ phòng chữa cháy và cứu hộ làm việc hàng ngày, bảy ngày mỗi tuần. Tuy nhiên,
năng lực cấp cứu khẩn cấp bằng trực thăng là rất cần thiết nếu trong tương lai tỉnh
phát triển loại hình du lịch mạo hiểm.
2.2.5. Nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch
Bảng 2.3. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013
Dân số trung bình Mật độ dân số Diện tích (Km2) (Nghìn ngƣời) (Ngƣời/Km2)
Tổng số 6.102,3 1.196,2 197
Thành phố Hạ Long 272 229,3 843
Thành phố Móng 518,4 93,8 181 Cái
Thành phố Cẩm Phả 343,2 183,4 534
Thành phố Uông Bí 256,3 111,9 436
Thị xã Quảng Yên 314,2 134 427
Huyện Bình Liêu 475,1 29,5 62
Huyện Tiên Yên 647,9 47,4 73
Huyện Đầm Hà 310,3 35,9 116
Huyện Hải Hà 513,9 55,6 108
Huyện Ba Chẽ 608,6 20,3 33
Huyện Vân Đồn 553,2 42,1 76
Huyện Hoành Bồ 844,6 49,4 58
Huyện Đông Triều 397,2 164,8 415
Huyện Cô Tô 47,5 5,5 115
(Nguồn: Sở Văn hóa thể thao và Du Lịch Quảng Ninh)
Quan bảng số liệu ta thấy Mật độ dân số của Quảng Ninh phân bố không
đều. Vùng đô thị và các huyện miền tây rất đông dân, thành phố Hạ Long 843
người/km2, thị xã Quảng Yên 427 người/km2, huyện Ðông Triều 415 người/km2.
83
Trong khi đó, huyện Ba Chẽ 33 người/km2, Cô Tô 115người/km2, Vân Ðồn 76
người/km2.
Qua phân tích về dân số cơ cấu theo độ tuổi lao động cho thấy Quảng Ninh
có nguồn lao động khá dồi dào, đặc biệt số người trong độ tuổi lao động khá cao.
Đây là điều kiện thuận lợi đứng từ góc độ nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế
- xã hội trong đó có du lịch.
Bên cạnh nguồn lực lao động tại chỗ, Quảng Ninh còn là điểm đến hấp dẫn
của lao động thời vụ, đăc biệt là từ các địa phương phụ cận đối với một số ngành
như xây dựng, công nghiệp và dịch vụ trong đó có du lịch. Như vậy, với sức
“hấp dẫn” của một địa phương năng động và phát triển, nguồn lao động “thứ
cấp” khá dồi dào cũng là nguồn lực quan trong cho phát triển kinh tế - xã hội.
Những thách thức chính của nguồn nhân lực trong phân khúc khách sạn là
lượng nhân lực được đào tạo chưa đủ cả về số lượng và chất lượng. Hiện tại,
Quảng Ninh có 25 nghìn nhân viên du lịch, bao gồm tất cả nhân viên làm việc
trong các khách sạn, các hãng tàu du lịch, các công ty du lịch, các đơn vị kinh
doanh dịch vụ ăn uống. Xét về tổng thể, lực lượng lao động nói chung là đủ,
do Việt Nam có một lực lượng lao động trẻ và đông đảo.
Bảng 2.4.Trình độ học vấn của nhân viên khách sạn tại Hạ Long
Hệ dạy Hệ đại học (4 Hệ cao đẳng Hệ PTTH hoặc Hạng sao nghề/kỹ năm) (2-3 năm) thấp hơn thuật
4 34% 9% 27% 30%
3 30% 3% 54% 13%
1-2 31% 6% 33% 30%
(Nguồn: Sở Văn hóa thể thao và Du lịch Quảng Ninh)
Qua bảng số liệu trên ta thấy Có tới một phần ba số lao động du lịch không
tiếp tục học lên sau phổ thông trung học và hầu hết không được đào tạo chính quy
về nghiệp vụ du lịch. Đây là tình trạng chung ở các khách sạn, không phân biệt
hạng, loại khách sạn. Ở các khách sạn đã được xếp hạng sao, phần lớn các nhân
84
viên vẫn chưa có bằng đại học hoặc cao đẳng, chỉ khoảng 40% người lao động được
đào tạo chính quy về du lịch sau khi học xong phổ thông trung học. Ta thấy lượng
lao động du lịch được đào tạo yếu kém trầm trọng
Bảng 2.5. Trình độ kỹ năng cần thiết tính đến năm 2020
Số lượng lao động cần thiết tính đến năm Trình độ kỹ năng 2020
Tay nghề thấp 30%
Tay nghề trung bình 42%
Có kỹ năng 23%
Tay nghề Cao 5%
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể Kinh tế - Xã hội tỉnh Quảng Ninh)
Căn cứ theo nhiệm vụ nhà nước giao cho, Quảng Ninh phải mở rộng các
chương trình đào tạo có sẵn. "Quy hoạch Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020" đã đề ra nhiệm vụ đến năm 2015,
đảm bảo 60% lực lượng lao động được đào tạo dạy nghề hoặc đại học và 70 % vào
năm 2020 . Tăng cường năng lực đào tạo du lịch sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong việc đạt được chỉ tiêu này.
Những hạn chế về mặt thủ tục cũng là một yếu tố cản trở giáo viên nước
ngoài vào Việt Nam nhưng so với các vấn đề về tiền lương thì điều đó không phải
là lý do chính gây trở ngại khi họ muốn vào làm việc. Những sinh viên du lịch có kỹ
năng tiếng Anh tốt lại không muốn ở lại phục vụ cho du lịch Quảng Ninh. Các
khách sạn và nhà hàng ở Quảng Ninh không đưa ra mức lương cạnh tranh so với
các ngành công nghiệp và các thành phố khác. Ở Quảng Ninh, mức lương khách sạn
trung bình là khoảng 3 triệu VNĐ/tháng (bao gồm cả tiền boa), so với trung bình 5-
6 triệu VNĐ/tháng làm việc trong ngành khai thác than hoặc dịch vụ chuyên nghiệp
khác. Sinh viên có kinh nghiệm quản trị đặc biệt có thể kiếm được việc làm trong
các dịch vụ chuyên nghiệp khác có mức lương cao hơn. Sinh viên du lịch thường
chọn học chuyên ngành quản trị du lịch để phát triển linh hoạt kỹ năng kinh doanh,
rồi sau này tìm kiếm việc làm được trả lương cao hơn so với làm du lịch. Thủ đô Hà
85
Nội cũng chiêu mời được sinh viên bởi mức lương làm ở Hà Nội thường cao hơn
khoảng 50% so với cùng cùng một loại hình công việc. Hiện tại, Quảng Ninh chưa
thể phát triển và giữ chân được nhân tài cần thiết đủ để cung cấp nhân lực cho
ngành du lịch.
2.2.6.Hoạt động quản lý du lịch
2.2.6.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch
Công tác quản lý nhà nước về du lịch tại Quảng Ninh trong những năm qua
đã được quan tâm hơn, đi và nề nếp, hoạt động quy củ và đạt hiệu quả hơn. Trong
nhiều năm qua hoạt động quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh đã có nhiều chuyển
biến tích cực và đạt hiệu điều này giúp cho hoạt động quản lý về du lịch đạt kết quả
đáng khích lệ và là điều kiện giúp cho hoạt động kinh doanh du lịch trên toàn tỉnh
đạt chất lượng và dịch vụ tốt hơn. Một số văn bản cụ thể đã được cơ quan chức
năm, quản lý của tỉnh ban hành như: Quyết định số 5257/YBND-DL2 “Về việc
quản lý môi trường kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh” ngày 23/10/2012; Công
văn số 2484/UBND-DL1 “Về việc tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn
cho khách du lịch”; Công văn số 4893/UBND-DL2 “Về việc xử lý hiện tượng tàu
du lịch cặp kè bán hải sản không theo quy định trên Vịnh Hạ Long” ngày
13/9/2013…
- Công tác kết nối, mở các tour, tuyến điểm du lịch: Đã phối hợp với một số
địa phương như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang... thống nhất ký kết về
hợp tác phát triển du lịch, trong đó có xây dựng các tuyến du lịch liên vùng, kết nối
các khu điểm du lịch trong khu vực theo không gian du lịch và lãnh thổ đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011
về phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020 tầm nhìn đến 2030;
Quyết định số 2163/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 như: Con đường du lịch tâm linh vùng duyên hải
Đông Bắc gắn với triều đại nhà Trần; Chương trình du lịch về với Biển đảo... Đã
chủ động phối hợp với UBND một số địa phương như: Đông Triều, Quảng Yên,
86
Tiên Yên, Vân Đồn, Cô Tô, Bình Liêu, Móng Cái xây dựng các tuyến du lịch, sản
phẩm du lịch.
- Chủ động mở rộng thị trường khách du lịch quốc tế: sau khi có sự kiện biển
Đông để bù đắp và hạn chế sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Đã cùng các
ngành, địa phương có liên quan chủ động và tích cực xây dựng chiến lược phát triển
thị trường, chú trọng phát triển các thị trường khách quốc tế gồm: Đông Bắc Á,
ASEAN, Châu Âu, Nga, Bắc Mỹ, Nam Á, Trung Đông và hướng đến các dòng
khách có khả năng chi trả cao, đồng thời quan tâm đến thị trường khách trong nước.
Mở rộng liên doanh, liên kết với các đối tác trong nước và nước ngoài, tích cực hỗ
trợ các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động phát triển thị trường, liên kết các tour,
tuyến và sản phẩm du lịch.
- Phát triển các sản phẩm du lịch mới, chất lượng, hấp dẫn: để kéo dài thời
gian lưu trú và tăng chi tiêu của khách du lịch, đồng thời tăng cường quản lý về giá
dịch vụ và văn minh thương mại trong kinh doanh để phát triển bền vững: Tích cực
triển khai Đề án phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định
hướng đến năm, đặc biệt là công tác thu hút các nhà đầu tư đến đầu tư phát triển các
sản phẩm du lịch. Theo đó, trên địa bàn tỉnh đã và sẽ có một số sản phẩm du lịch
chất lượng cao để phục vụ du khách.
- Tích cực triển khai công tác thanh tra du lịch: Đã phối hợp với các ngành
chức năng triển khai thực hiện Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 11
của UBND tỉnh về quản lý môi trường kinh doanh du lịch. Tập trung tuyên truyền
vận động và hướng dẫn nhân dân về công tác môi trường du lịch. Đã mở hàng chục
khóa học cho hơn 5000 lượt người trên địa bàn để tập huấn các kiến thức cơ bản về
nghiệp vụ du lịch, tuyên truyền hơn 2000 tin, bài về du lịch. Mặt khác, các ngành,
địa phương đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về môi trường kinh
doanh du lịch, trong đó tập trung vào một số nội dung như: việc quản lý giá, quản lý
đô thị, quản lý về chất lượng phục vụ …
- Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, hợp tác quốc tế và phát triển sản
phẩm: Được triển khai với các hình thức phong phú, đạt hiệu quả cao, đã giới thiệu
87
Hạ Long, Quảng Ninh đến với nhiều nước trên thế giới thông qua việc tham gia hội
chợ, các chương trình famtrip… Hợp tác với các tổ chức quốc tế về du lịch được
đẩy mạnh như với câu lạc bộ vịnh đẹp nhất thế giới, Diễn đàn du lịch Đông Bắc Á
(EATOP), đặt văn phòng về du lịch và xúc tiến đầu tư tại Jeju, Hàn Quốc, Nhật
Bản… Tiếp tục mở rộng không gian du lịch và phát triển sản phẩm đến các khu vực
biển đảo và các địa phương phụ cận như Uông Bí, Quảng Yên, Vân Đồn, Cô Tô…
- Công tác tham mưu, phối hợp tổ chức các sự kiện: Phối hợp tham mưu xây
dựng chương trình, kế hoạch, kịch bản và tổ chức Lễ hội du lịch Hạ Long năm
2014, Lễ hội hoa Anh Đào và các hoạt động đón Tết Nguyên Đán cho khách du lịch
đến với Quảng Ninh nhân dịp đầu năm mới…
- Công tác quản lý lữ hành: Đã dần đi vào nền nếp, chất lượng dịch vụ lữ
hành đã được nâng cao, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp được đảm bảo, nâng cao
hình ảnh và uy tín của ngành Du lịch Quảng Ninh.
- Ước năm 2014, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 7.500.000 lượt,
trong đó khách quốc tế đạt 2.550.000 lượt, Khách lưu trú đạt 3.600.000 lượt, trong
đó khách quốc tế đạt 1.270.600 lượt. Tổng doanh thu du lịch đạt 5.500 tỷ đồng. [26]
- Về công tác An ninh trật tự có liên quan đến hoạt động du lịch: các cơ quan
chức năng đã tổ chức kiểm tra 916 lượt doanh nghiệp, kịp thời ngăn chặn và xử lý
733 trường hợp vi phạm; phát hiện và xử lý 14 trường hợp vi phạm về môi trường;
thu gom 112 đối tượng ăn xin, tâm thần bàn giao về Trung tâm bảo trợ xã hội Tỉnh
[26, Tr. 13]
Hạn chế:
-Công tác phối kết hợp giữa các ngành, địa phương trong việc quản lý du lịch
còn hạn chế, nhiều lĩnh vực còn chồng chéo. Tình trạng ép giá vào các ngày cao
điểm, cạnh tranh không lành mạnh vẫn tiếp tục diễn ra. Công tác quản lý chưa có
được các biện pháp quản lý phù hợp. Ý thức chấp hành các quy định của nhà nước
và tham gia các phong trào chung của ngành của một số doanh nghiệp chưa cao.
Công tác xúc tiến quảng bá đã có bước chuyển biến, đặc biệt về công tác
quảng bá điểm đến đã được tập trung nhiều nguồn lực và đạt được kết quả tốt. Tuy
88
nhiên, công tác quảng bá còn chưa chủ động và tập trung vào các thị trường trọng
điểm. Kính phí dành cho quảng bá còn hạn chế. Nguồn nhân lực hiện chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển. Hệ thống đào tạo phân tán, quy mô nhỏ, thiếu tính chuyên
nghiệp. Ý thức tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn của một số cán bộ
nhân viên trong ngành còn chưa cao. Chất lượng học, dạy còn có điểm bất cập, chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển. Công tác quản lý nhà nước của các địa phương
chưa được quan tâm đúng mức, Sản phẩm và không gian du lịch còn phân tán và
đơn điệu, chất lượng dịch vụ du lịch thấp, dẫn đến mất kiểm soát giá dịch vụ du
lịch, nhất là giá phòng, giá tour… chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Việc đảm bảo an ninh an toàn cho khách du lịch, bao gồm cả hoạt động tham
quan trên vịnh Hạ Long còn nhiều hạn chế, thể hiện ở tình trạng đeo bám khách;
cháy tàu, chìm tàu trên vịnh gây tổn hại về người cho khách du lịch. Đây là vấn
đề rất cần được cải thiện đứng từ góc độ quản lý nhà nước về du lịch ở Quảng
Ninh. Hoạt động liên kết phát triển du lịch giữa Quảng Ninh với các địa phương,
đặc biệt với Hà Nội và Hải Phòng trong quan hệ “Tam giác tăng trưởng du lịch”
vùng đồng bằng sông Hồng, trên tuyến hành lang kinh tế - du lịch Vân Nam - Lào
Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội
- Hải Phòng - Quảng Ninh; với Lạng Sơn và Cao Bằng trong mối quan hệ du
lịch giữa vùng duyên hải Đông Bắc với vùng núi Đông Bắc còn rất hạn chế. Đây
là một điểm yếu của quản lý nhà nước về du lịch của Quảng Ninh rất cần được
khắc phục trong thời gian tới.
2.2.6.2. Công tác quản lý điểm đến:
Quản lý điểm đến không chỉ đòi hỏi một thương hiệu mạnh mà còn đòi hỏi
một cơ sở hạ tầng tốt phục vụ du lịch. Một hệ thống cơ sở hạ tầng công cộng tiện
ích tốt là rất quan trọng để phát triển mạnh ngành du lịch. Chất lượng và dịch vụ đòi
hỏi phải mang tính chức năng, tiêu chuẩn quốc tế và tính phản ứng nhanh. Ở các
khu vực du lịch thuộc thành phố Hạ Long và những nơi khác thường xuyên đón
khách du lịch đều có nguồn cấp điện và cấp nước ổn định. Ở Quảng Ninh, 97% dân
89
số được sử dụng điện lới, cao hơn mức trung bình 69% của khu vực Đông Nam Á.
Ở một số làng mạc vùng sâu vùng xa và khu vực huyện đảo Vân Đồn và Hải Hà
hiện chưa có điện lưới. Bệnh viện ở thành phố Hạ Long cung cấp các dịch vụ chăm
sóc cơ bản nhưng với khả năng ngoại ngữ rất yếu, các khu vực ngoài thành phố có
chất lượng dịch vụ thấp và nhân viên cũng không biết ngoại ngữ. Dịch vụ phòng
cháy chữa cháy và cứu hộ có sẵn hàng ngày và bảy ngày hàng tuần. Tuy nhiên, khả
năng ngoại ngữ hạn chế của các đơn vị liên quan vẫn là một nhược điểm lớn trong
việc thu hút khách du lịch về một điểm đến an toàn. Gần đây, một đường dây nóng
về du lịch được thiết lập phục vụ khách du lịch đã hoạt động rất hữu ích nhưng
thông tin về đường dây nóng này còn chưa được nhiều người biết đến và nhiều
khách du lịch vẫn chưa biết đến dịch vụ này. Năng lực cấp cứu khẩn cấp bằng trực
thăng là rất cần thiết nếu triển khai sản phẩm du lịch mạo hiểm.
2.2.6.3. Các cơ sở, đơn vị du lịch.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh, các cơ sở kinh doanh hoạt động du lịch, Các tàu
lưu trú, các công ty lữ hành, tàu tham quan trên vịnh, các nhà hàng, khách sạn phát
triển rất mạnh, ngày càng gia tăng về số lượng cũng như chất lượng nhằm phục vụ
tối đa cho hoạt động kinh doanh du lịch tại địa phương. So với các trung tâm du lịch
trong cả nước, Quảng Ninh được đánh giá là địa phương có hệ thống khách sạn, nhà
nghỉ phục vụ khách du lịch vào loại khá. Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với sự
tăng trưởng về số lượng khách, sự ra đời của các khách sạn, resort cao cấp. Thời
điểm gần đây nhất, cuối năm 2013, đầu năm 2014, TP Hạ Long đã đưa thêm 2
khách sạn cao cấp vào phục vụ du khách đó là: Khách sạn Royal Hạ Long và khách
sạn Mường Thanh Quảng Ninh, khu khách sạn nghỉ dưỡng cao cấp đảo Rều.. Trong
đó, khách sạn Mường Thanh Quảng Ninh mới được khánh thành và đưa vào hoạt
động cuối tháng 12-2013. Khách sạn được đầu tư với tổng số vốn lên đến 500 tỷ
đồng, với 34 tầng, 508 phòng nghỉ. Khách sạn có hệ thống phòng hội nghị, hội thảo
sức chứa lên đến 1.200 người và các nhà hàng Âu - Á sang trọng, tạo thêm một
điểm nhấn mới cho du lịch Quảng Ninh...
90
Tại các điểm du lịch, các doanh nghiệp cũng thực hiện đúng các quy định
của nhà nước văn hóa kinh doanh, đạo đức nghề ngiệp trong kinh doanh, về bảo vệ
môi trường, tài nguyên du lịch..góp phần giới thiệu, quảng bá những sản phẩm du
lịch đặc trưng của các điểm đến du lịch với bạn bè trong nước và quốc tế nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh, mang lại lợi nhuận cho kinh tế địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh có ý thức cao
trong việc chấp hành pháp luật vẫn còn những đơn vị kinh doanh không chấp hành
đúng các quy định của nhà nước, của địa phương trong hoạt động kinh doanh du
lịch như: Bảo vệ môi trường du lịch, đảm bảo an toàn cho khách du lịch khi đi tham
quan trên tàu (không mặc áo phao, ngồi trên mạn tàu), các phương tiện đi lại, tự ý
tăng dịch vụ, giá phòng vào các mùa du lịch cao điểm.
Như vậy, hoạt động quản lý du lịch tại Quảng Ninh có vai trò đặc biệt trong
quản lý nhà nước về du lịch, đặc biệt hơn các dơn vị, cơ sở kinh doanh du lịch lại có
vai trò trực tiếp đến sự phát triển, chất lượng sản phẩm du lịch, y tín ..và góp phần
tạo nên thương hiệu du lịch Quảng Ninh.
2.2.7. Đánh giá hoạt động du lịch lịch văn hóa của tỉnh Quảng Ninh
2.2.7.1. Điểm mạnh
Tỉnh Quảng Ninh có thế mạnh về sự đa dạng phong phú của tài nguyên du
lịch, trong đó có nhiều tài nguyên độc đáo có đẳng cấp khu vực và thế giới như
Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long, di tích thắng cảnh Yên Tử… Sự công nhận của
UNESCO đã mang lại nhận thức toàn cầu và thú vị về các đến điểm đến, cũng như
một cơ sở vững mạnh của ngành du lịch nội địa, đó là nền tảng giúp tỉnh phát triển
du lịch mạnh hơn và trở thành một trung tâm du lịch của Việt Nam và tiến tới là của
khu vực.
2.2.7.2. Điểm yếu
Do còn thiếu kinh nghiệm trong ngành du lịch, hiện nay tỉnh gặp phải rất
nhiều thách thức cần vượt qua. Sự suy thoái môi trường cần phải được giải quyết
một cách nhanh chóng, với tình trạng quá tải và ô nhiễm từ các khách sạn và các
hoạt động công nghiệp đã làm giảm hoặc có thể có nguy cơ làm mất dần vị thế danh
91
hiệu của UNESCO. Các xung đột với các ngành công nghiệp nâu khác của địa
phương như ngành công nghiệp khai thác than cũng cần phải được giải quyết và
phối hợp chặt chẽ cho quy hoạch trong tương lai. Những điểm yếu mà tỉnh cần chú
trọng giải quyết càng sớm càng tốt bao gồm: khả năng tiếp cận từ các địa phương
phụ cận, đặc biệt từ Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Cao Bằng bằng đường bộ và
đường không đến Quảng Ninh và từ thành phố Hạ Long đến những điểm du lịch
chính quan trọng của tỉnh; hạn chế về hệ thống khách sạn và nhà hàng chất lượng
cao, có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị phần khách du lịch cao cấp, có khả năng
chi trả cao; ảnh hưởng sâu sắc của “tính mùa” trong hoạt động du lịch và hạn chế về
nguồn lao động chất lượng cao có khả năng đáp ứng dịch vụ đẳng cấp thế giới và
trải nghiệm cho khách du lịch.
2.2.7.3. Cơ hội
Cầu du lịch ở Việt nam, trong khu vực và trên thế giới tiếp tục tăng; du lịch
được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam được quan tâm phát
triển. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 tiếp tục xác định Quảng Ninh là địa phương có vị trí quan trọng đặc biệt
đối với phát triển du lịch Việt Nam. Trong bối cảnh thay đổi của ngành công nghiệp
du lịch toàn cầu hiện nay, tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển và trở thành một
điểm đến mang tính khu vực và toàn cầu. Với xu thế du lịch sinh thái trở thành nhu
cầu lớn của du lịch, tỉnh có tiềm năng rất lớn để tận dụng lợi thế từ những tài sản tự
nhiên và văn hóa của mình nhưng điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng.
Quốc gia phát triển thị trường du lịch nhanh nhất trên thế giới là Trung Quốc, nằm
liền kề với Quảng Ninh, tạo sự dễ dàng tiếp cận với một phân khúc khách du lịch
tiềm năng. Xu thế phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, du lịch tâm linh cũng đang
ngày càng trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam và Quảng Ninh cũng trong xu thế đó,
đó là cơ hội rất lớn cho ngành du lịch của tỉnh.
2.2.7.4. Thách thức (đe dọa)
Do còn thiếu kinh nghiệm trong ngành du lịch, hiện nay tỉnh gặp phải rất
nhiều thách thức cần vượt qua. Sự suy thoái môi trường cần phải được giải quyết
92
một cách nhanh chóng, với tình trạng quá tải và ô nhiễm từ các khách sạn và các
hoạt động công nghiệp đã làm giảm hoặc có thể có nguy cơ làm mất dần vị thế danh
hiệu của UNESCO. Năng lực cạnh tranh của du lịch chưa cao, đặc biệt trong bối
cảnh hội nhập của Việt Nam với khu vực và quốc tế; Quảng Ninh đã và đang phải
đối mặt với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Mặc dù vấn đề này
không được đề cập đến trong khuôn khổ quy hoạch này, tuy nhiên đây là thách
thức rất lớn với du lịch Quảng Ninh cần được nhận thức đầy đủ. Bên cạnh đó các
xung đột về chủ quyền trên biển Đông cũng là thách thức không nhỏ đối với du lịch
Biển của Việt Nam nói chung và du lịch biển của Quảng Ninh nói riêng trong khu
du lịch đường biển là một trong những lợi thế so sánh của du lịch Quảng Ninh. Một
vấn đề nữa cũng cần đề cập đến như một thách thức đối du lịch Quảng Ninh là việc
cân bằng giữa phát triển với bảo tồn, đặc biệt khi tài nguyên du lịch cốt lõi của
Quảng Ninh là Di sản thiên nhiên thế giới. Điều này càng trở nên lớn hơn khi năng
lực tạo sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển của các cấp quản lý, lãnh đạo ngành
du lịch tỉnh còn hạn chế.
Tiểu kết chƣơng 2.
Trong khuôn khổ chương 2, tác giả đã phân tích tổng quan chung về tỉnh
Quảng Ninh, phân tích tiềm năng, tài nguyên có giá trị đặc biệt để phát triển sản
phẩm du lịch văn hóa và thực trạng các hoạt động du lịch văn hóa tại Tỉnh Quảng
Ninh dựa trên từng nhóm cụ thể. Bằng việc phân loại này, tác giả đồng thời đưa ra
được thông tin và nhận định chi tiết của từng hạng mục trong từng nhóm nhằm làm
nổi bật thực trạng hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Quảng Ninh.Tác giả tập trung
vào phân tích các sản phẩm du lịch văn hóa được xem là đặc trưng nhất, tiêu biểu
nhất của tỉnh, phân tích những cái được, cái chưa được trong từng sản phẩm du lịch
tiêu biểu. Thông qua việc phân tích số liệu thống kê trong vòng 5 năm từ 2010 -
2014, tác giả tiếp cận được với quá trình phát triển và các kết quả đạt được của hoạt
động du lịch văn hóa tại đây, Qua đó chỉ ra những thế mạnh từng sản phẩm du lịch,
những đặc trưng riêng… chỉ ra được những hạn chế còn tồn đọng trong quá trình
khai thác sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh.
93
Tác giả tập trung phân tích thực trạng các điểm du lịch văn hóa, điểm tham
quan văn hóa, di tích lịch sử văn hóa, lịch sử tiêu biểu như Chùa Yên tử, Miếu vua
Bà, Đền Cửa Ông, Đền Trần Hưng đạo, Bảo tàng Bạch Đằng… nhằm tìm ra các
điểm đã làm tốt, điểm chưa làm tốt của từng điểm đến cụ thể, thông qua đó có cái
nhìn tổng quan hơn, khái quát hơn về thực trạng các sản phẩm du lịch văn hóa trên
địa bàn tỉnh. Thông qua đó đưa ra các đề xuất giải pháp cụ thể nhát, thực tiễn nhất
trong chương tiếp theo.
94
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
Ở TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Những căn cứ đề xuất giải pháp
3.1.1 Chủ trương chính sách nhà nước
Luật di sản văn hóa và luật sửa đổi bổ sung một số điều khoản của Luật di
sản văn hóa; Công ước di sản thế giới (đã được thông qua tại kỳ họp thứ 17 của đại
hội đồng UNESCO tại Paris ngày 16-11 -1972)
Luật du lịch năm 2005
Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập, phê
duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội
Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ
Thông tư số 05/2013/TT-BKHĐT ngày 31/10/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
hướng dẫn tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và công bố quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu;
Quyết định số 786/2006/QĐ-TTg ngày 31/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”
Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 về việc Phê duyệt “Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Quyết định số 201/QĐ - TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt "Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030"
Quyết định số 321/QĐ - TTg ngày 18/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ:
Phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2013 – 2020
Quyết định số 795/QĐ – TTg, ngày 23/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông
Hồng đến năm 2020
Quyết định số 175/QĐ – TTg ngày 27/02/2011 về việc phê duyệt Chiến lược
tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020
95
Quyết định số 432/QĐ – TTg ngày 12/04/2012 về việc phê duyệt chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020
Quyết định số 2782/QĐ-BVHTTDL ngày 27-07-2013của Bộ Văn hóa – Thể
thao và Du lịch về việc Phê duyệt Đề án "Phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven
biển Việt Nam đến năm 2020"
Quyết định số 2163/QĐ-Ttg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải
Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030
3.1.2 Định hướng, chiến lược phát triển của tỉnh
Quyết định số 1154/QĐ-UBND ngày 03/5/2013 của Ủy ban Nhân dân
tỉnh Quảng Ninh về việc ủy quyền cho các Sở, Ban, Ngành của tỉnh và Ủy ban
Nhân dân các địa phương liên quan triển khai lập Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, Quy hoạch xây dựng và các Quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu của
tỉnh Quảng Ninh;
Quyết định số 1279/QĐ-UBND ngày 20/5/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Kết luận số 29-KL/TU ngày 25/3/2013 về Kết luận của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn
2013-2015; Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 25/5/2013 của Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh Quảng Ninh về phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh, Giai đoạn 2013-
2020, tầm nhìn 2030; Quyết định số 2622/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Đặc biệt, “Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 25/5/2013 của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh, Giai đoạn 2013-
2020, tầm nhìn 2030” và “Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của
Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội” là hai
96
căn cứ quan trọng để nghiên cứu liên quan tới tầm nhìn của quy hoạch và
những ảnh hưởng đối với chiến lược sau này.
3.2.Giải pháp về sản phẩm du lịch
3.2.1. Xây dựng sản phẩm đặc trưng
Tập trung xây dựng 04 sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng của tỉnh Quảng Ninh
gồm:
- Tour du lịch văn hóa tâm linh gắn với nhà Trần.
Thông qua Tour du lịch tâm linh gắn với vương triều Trần tại Chùa Yên Tử giúp
cho du khách khám phá câu chuyện Hoàng Đế hóa thành sa môn, khám phá hệ
thống Phật giáo “Trúc lâm tam tổ” Phật giáo nhập thế, chi phối đời sống chính trị,
đất nước, có công với dân tộc. Đến với Phật giáo đời Trần rất đặc biệt vì tính nhập
thế, Phật giáo quan tâm đến việc đạo cụ thể là các vị thiền sư đồng thời là Vua, là vị
anh hùng, những bậc trí thức cao trong xã hội tiêu biểu là phật hoàng Trần Nhân
Tông, Trần Thái Tông…họ đều là những vị vua sáng nghiệp, vị anh hùng đánh giặc
cứu nước, anh hùng của triều Trần.
Đối với khu di tích danh thắng Yên Tử (Uông Bí) kết hợp tuyến Đông-Tây
Yên Tử là một con đường văn hóa tâm linh ý nghĩa. Đó là các tuyến du lịch văn hoá
tín ngưỡng Phật giáo - Trúc Lâm được hình thành từ các di tích thuộc thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Từng bước xây dựng và phục hồi di tích ở cả ba cụm di tích nằm
ở sườn Tây, Tây Bắc Yên Tử. Mở các tuyến đường đi giao thông giữa trung tâm
Vĩnh Nghiêm đi đến các cụm di tích Trúc Lâm nằm trên địa bàn của ba tỉnh Bắc
Giang, Quảng Ninh và Hải Dương nhằm nối liên hoàn các đường giao thông - du
lịch giữa các trung tâm văn hoá Trúc Lâm với các cụm di tích Trúc Lâm.
Phát triển du lịch văn hoá tín ngưỡng Phật giáo Trúc Lâm, điều không thể thiếu đó
là ẩm thực Trúc Lâm. Cần tổ chức tốt, phục vụ du khách thưởng thức ẩm thực Trúc
Lâm, làm sống lại tinh thần văn hoá ẩm thực của Trúc Lâm ở thế kỉ 13 và 14 trong
xã hội hiện đại ngày nay. Cần Bảo tồn sinh cảnh của di tích, cụm di tích và toàn bộ
khu vực thuộc núi Yên Tử và các vùng phụ cận. Cần có một lộ trình khai thác, phát
97
huy, giữ gìn văn hoá Trúc Lâm Yên Tử. Trên cơ sở đó kéo dài tour du lịch tâm linh
Yên Tử cho du khách khi đến khám phá trải nghiệm du lịch tại nơi đây.
Như vậy, văn hóa Phật giáo gắn với nhà Trần trở thành một sản phẩm du lịch văn
hóa đặc biệt của Quảng Ninh.
- Hoạt động tham quan các di tích lịch sử - văn hóa gắn với vương triều Trần
Trong đó đáng chú ý là tuyến du lịch kết nối các địa phương có các điểm di tích nhà
Trần trên địa bàn tỉnh là khu lăng mộ vua Trần. Khôi phục lăng mộ nhà Trần, khai
thác giá trị lịch sử của các khu lăng mộ đó cho phát triển du lịch. Khai thác các giá
trị văn hóa, khám phá văn hóa triều Trần qua đó hiểu hơn về triều Trần làm phong
phú tour du lịch tìm hiểu triều đại nhà Trần. Muốn hiểu về triều đại nhà Trần không
chỉ đến Nam Định, Thái Bình mà còn phải đến Quảng Ninh, bởi Quảng Ninh là nơi
phát tích đầu tiên của triều đại nhà Trần sau đó mới về Nam Định và một bộ phận
có qua Thái Bình. Như vậy, ta có thể mở tour du lịch khám phá triều đại nhà Trần,
kết nối và mở rộng Tour du lịch khám phá qua 3 tỉnh Nam Định – Thái Bình –
Quảng Ninh để khám phá văn hóa triều Trần.
Các chùa trên địa bàn thành phố Uông Bí cũng dành nhiều nguồn lực, huy động xã
hội hoá trùng tu, tôn tạo nhiều hạng mục công trình, chùa Ba Vàng xây dựng, mở
rộng khu đại điện. Đầu tư bằng nguồn vốn xã hội hoá do doanh nghiệp và nhân dân
đóng góp di tích lịch sử trên địa bàn tại Đông Triều, mở rộng tuyến đường, như
đường từ thị trấn Đông Triều đến KDT đền thờ và lăng mộ vua Trần, dự án tuyến
đường hành hương từ hồ Trại Lốc vào di tích chùa Ngoạ Vân, chùa Hồ Thiên …
- Hoạt động văn hóa lễ hội
Đối với các lễ hội truyền thống như Lễ hội Đền Cửa Ông, Chù Yên Tử, Đền Quan
Lạn, như Cụm di tích Bạch Đằng (Quảng Yên) đẩy mạnh và phát huy giá trị của các
lễ hội khá nổi tiếng như lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Tiên Công, hội Chùa
Đồng…nhiều phong tục tập quán, truyền thống văn hoá cổ truyền của người Việt ở
đồng bằng Bắc Bộ, cùng với nhiều món ăn độc đáo. Các lễ hội đều chứa đựng các
nội dung như gắn với đời sống cư dân biển, gắn với Phật giáo và gắn với triều Trần.
Các lễ hội đều chứa đựng các nội dung và đan xen nhau bổ trợ cho nhau làm phong
98
phú, đậm đà bản sắc địa phương và trở lên đặc biệt. Đặc biệt lễ hội Yên Tử là một
sản phẩm du lịch đặc biệt sơ với các địa phương trong cả nước.
Đới với lễ hội Carnaval Hạ Long. Carnaval Hạ Long đã trở thành một sản phẩm văn
hóa du lịch đặc sắc, một thương hiệu riêng biệt của du lịch văn hóa Quảng Ninh,
góp phần to lớn vào sự quảng bá, khai thác phát huy những giá trị văn hóa, các danh
lam thắng cảnh của tỉnh. Carnaval Hạ Long đã trở thành một sản phẩm du lịch có ý
nghĩa đối với hoạt động du lịch của Quảng Ninh. Điều đó, được thể hiện rất rõ, qua
mỗi kỳ tổ chức, Carnaval đã thu hút hàng vạn du khách đến với Hạ Long.
Carnaval Hạ Long không chỉ là một điểm nhấn quan trọng trong công tác tuyên
truyền quảng bá hình ảnh và các giá trị văn hóa của danh lam thắng cảnh trên vùng
đất Quảng Ninh mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch
Quảng Ninh trong xu thế hội nhập quốc tế. Đồng thời là nơi hội tụ và giao lưu của
các đoàn nghệ thuật, các vận động viên thể thao trong và ngoài nước. Cần có cơ chế
phát vé co khách du lịch khi tham gia vào Carnaval Hạ Long vì nhiều du khách
muốn mua vé xem Carnaval cũng không được. Đối với khách quốc tế cần thông tin
cho họ về thời gian, địa điểm diễn ra lễ hộ Carnaval, có lịch trình tour kết hợp với
việc tham qia vào lễ hội Carnaval cho hợp lý.
- Hoạt động ẩm thực
Ẩm thực Quảng Ninh trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đặc biệt vì gắn với
văn hóa biển, ẩm thực biển. Từ rất sớm trong lịch sử, cư dân đông đúc tạo điều kiện
cho kinh tế biển được khai thác mạnh mẽ và có một nền ẩm thực vô cùng phong
phú măng đậm chất của nền ẩm thực biển vùng phí Đông Bắc.
Xây dựng tuyến du lịch kết hợp với khám phá nền ẩm thực trên địa bàn tỉnh,
kết hợp cho du khách tham gia vào quá trình khai thác, đánh bắt, chế biến và thưởng
thức món ăn, học cách chế biến các món ăn đặc trưng của cư dân địa phương, của
từng điểm đến cụ thể, kéo dài thời gian tham quan, lưu trú của du khách.
Nâng cao và tôn vinh giá trị nền ẩm thực của tỉnh thành sản phẩm đặc biệt,
hấp dẫn lên một tầm cao mới thành nghệ thuật ẩm thực biển Hạ Long, nền văn hóa
ẩm thực Hạ Long.
99
3.2.2. Giải pháp chung
Tích cực mời gọi các nhà đầu tư tham gia phát triển du lịch trên địa bàn;
thành lập các đơn vị quảng bá xúc tiến du lịch; xây dựng các khách sạn, nhà hàng
ẩm thực; hình thành các điểm giới thiệu sản phẩm du lịch. Tăng cường công tác
tuyên truyền giáo dục cho nhân dân, nhất là nhân dân ở các vùng có điểm tham
quan làm tốt công tác vệ sinh môi trường và ứng xử văn hoá du lịch cộng đồng.
Cần Đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, giao thông, thông tin liên lạc, đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động du lịch, công tác quảng bá du lịch phục vụ
cho hoạt động du lịch tại điểm du lịch
Đang dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Đa dạng hoá sản
phẩm du lịch cần tuân thủ nguyên tắc của phát triển bền vững. Tiến hành điều tra
thăm dò nhu cầu của khách, nhằm xây dựng sản phẩm du lịch thích hợp. Khai thác
có hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn, phục dựng các nét đẹp văn hoá của đời
sống nhân dân địa phương,
Làm mới sản phẩm du lịch, đẩy mạnh, tiến hành hoàn thiện phát triển không
gian du lịch theo 4 địa bàn du lịch trọng điểm: Hạ Long; Uông Bí - Đông Triều -
Quảng Yên; Vân Đồn - Cô Tô và Móng Cái - Trà Cổ với hệ thống sản phẩm du lịch
đặc trưng và sản phẩm du lịch của các địa phương. Một số sản phẩm và loại hình du
lịch mới như: Tham quan bảo tàng, biểu diễn văn hóa, nghệ thuật tại Cung Văn hóa
Lao động Việt - Nhật; các sản phẩm du lịch cộng đồng đưa vào phục vụ khách du
lịch tàu biển đến thị xã Quảng Yên, khu du lịch làng quê Yên Đức (Đông Triều),
khu di tích Yên Tử (Uông Bí)...
Đầu tư xây dựng các tuyến điểm du lịch mới như Quảng Ninh cần thu hút
một nhà đầu tư, tư vấn casino cấp khu vực để đầu tư xây dựng một khu phức
hợp nghỉ dưỡng có casino (casino, khách sạn, khu nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái) và
xây dựng một tổ hợp khu mua sắm hàng xa xỉ, hàng hiệu giảm giá (ví dụ như các
đại lý của những tên tuổi danh tiếng) trên địa bàn tỉnh.
100
3.3.Lập bản đồ địa chỉ khu du lịch đƣa khách tham quan đến
Trên cơ sở xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa của các tuyến, điểm, khu du
lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh qua đó lập bản đồ quy hoạch ghi rõ địa chỉ của từng
sản phẩm du lịch đặc trưng, tuyến du lịch, điểm du lịch để qua đó du khách có được
bản đồ các sản phẩm du lịch trong tay, du khách biết đến sản phẩm du lịch văn hóa
tiêu biểu, sản phẩm đặc trưng và tham gia các hoạt động du lịch du lịch văn hóa đó.
Lập bản đồ chi tiết từng khu du lịch, sản phẩm du lịch văn hóa của điểm đến
như khu du lịch văn hóa tâm linh gắn với vương triều Trần, du lịch văn hóa tham
quan di tích lịch sử văn hóa triều Tràn, văn hóa ẩm thực, văn hóa lễ hội
(Carnaval)…
Ở bản đồ địa chỉ khu du lịch có dịch sang các thứ tiếng cơ bản như tiếng
Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật, tiếng Nga…để khách tham quan nắm được địa
chỉ khu du lịch nhanh nhất.
3.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch
3.4.1. Hệ thống giao thông
Quảng Ninh cần phấn đấu đảm bảo rằng các tuyến đường quốc lộ
chính được đầu tư cải tạo; và xây dựng sân bay Vân Đồn. Có sự phối hợp chặt chẽ
với các ngành khác như Giao thông, Thông tin liên lạc để cập nhật các thay đổi, các
chính sách hỗ trợ có ảnh hưởng tới ngành Du lịch. Đặc biệt việc phối hợp với ngành
giao thông để nâng cấp các tuyến đường, mở các tuyến đường liên huyện, liên xã
cho các vùng chưa phát triển như Đảo Hoàng Tân, Xã Hưng Học (Thị xã Quảng
Yên) và một số xã, phường của thị xã Đông Triều… là hoạt động thiết thực nhất
trong chuỗi hỗ trợ phát triển du lịch.
Đẩy nhanh tiến độ những dự án quan trọng như: xây dựng sân bay Vân Đồn.
xây dựng một cảng biển hiện đại, chuyên đón tàu du lịch có trọng tải lớn. Xây dựng
mạng lưới điện đồng bộ, Xây dựng hệ thống cấp thoát nước đồng bộ, hiện đại trên
toàn tỉnh. Phát triển hạ tầng thông tin - truyền thông với công nghệ hiện đại đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế, tăng cường đầu tư cho khu vực Vân Đồn, có chính sách
ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này, đặc biệt là đầu tư đồng bộ. Khu
101
vực Tuần Châu – Bãi Cháy chỉ cho phép xây dựng nhà hàng, khách sạn có quy mô
lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
3.4.2. Hệ thống cơ sở ăn uống, lưu trú
Phát triển các cơ sở lưu trú, ăn uống đảm bảo về mặt số lượng và chất lượng nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch theo quy hoạch tổng thể về phát triển du lịch của
tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Gia tăng nguồn cung các cơ sở ăn uống, lưu trú khách sạn, lưu trú tàu trên
vịnh Hạ Long. Khuyến khích các doanh nghiệp địa phương đầu tư vào lĩnh vực xây
dựng khách sạn tại Quảng Ninh như thành phố Hạ Long, thành phố Móng Cái, khu
vực Yên Tử và huyện Vân Đồn. Tích cực quảng bá về quy hoạch tổng thể du lịch,
các chính sách tạo thuận lợi cho nhà đầu tư (ví dụ: hạ thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp tại Vân Đồn) và một số khu vực mục tiêu đã được xác định.. Phối hợp
với Ban Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư tỉnh Quảng Ninh để xây dựng các tài liệu quảng
bá về các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Hỗ trợ lựa chọn tư vấn quốc tế để giúp Ban
xúc tiến và Đầu tư tỉnh với các tài liệu quảng bá, đưa ra tư vấn về nội dung quảng
cáo (ví dụ như khu vực mục tiêu cho đầu tư, chính sách đầu tư, chất lượng khách
sạn mục tiêu) Tổ chức một hội thảo nhà đầu tư với các chủ khách sạn hiện tại để
kích thích sự quan tâm của họ đối với lĩnh vực này; Kết nối các nhà đầu tư quan tâm
để thúc đẩy quan hệ đối tác với nhà đầu tư địa phương để giảm thiểu rủi ro, khuyến
khích các nguồn đầu tư lớn hơn.
Tìm kiếm mối quan hệ đối tác với những khách sạn có thương hiệu
quốc tế Mô tả dự án Làm việc với các nhà đầu tư, phát triển khách sạn địa phương
để ký kết hợp đồng với các công ty quản lý điều hành khách sạn quốc tế.
Xác định các công ty quản lý điều hành khách sạn mục tiêu để kêu gọi họ
đến Quảng Ninh (ưu tiên tập trung vào các tên tuổi như Starwood, Accor và
Wyndham bởi trọng tâm của họ đặt ở châu Á). Tổ chức hội thảo đầu tư cho các nhà
đầu tư, phát triển địa phương nhằm xác định các đơn vị sẵn sàng lập quan hệ đối tác
với các công ty quản lý điều hành quốc tế.. Xây dựng gói quảng cáo dành cho công
ty quản lý điều hành quốc tế, bao gồm các mẫu điều khoản hợp đồng quản lý,
102
phương án hỗ trợ cơ sở hạ tầng quanh khu vực xây dựng khách sạn, cam kết thúc
đẩy hợp tác tiếp thị thông qua các tài liệu, các sự kiện của Sở VHTTDL. Hợp tác
với các nhà đầu tư, phát triển địa phương này, tiếp cận với các công ty quản lý điều
hành quốc tế giới thiệu về gói quảng cáo này, tận dụng sự kết nối thông qua các
khách sạn thương hiệu khác tại Hà Nội và vùng lân cận (ví dụ như Metropole, Hà
Nội). Tham dự hội nghị đầu tư trong khu vực và toàn cầu với các công ty quản lý,
điều hành quốc tế, xây dựng tài liệu đầu tư, tích cực thúc đẩy công tác xây dựng
khách sạn tại Quảng Ninh. Tích cực hỗ trợ công tác đàm phán, thương thảo giữa các
công ty quản
Nâng cao chất lượng và tính thống nhất của cơ sở lưu trú bằng cách
hoàn thiện hệ thống xếp hạng sao khách sạn Để đảm bảo rằng khách du lịch có thể
phân biệt được sự khác nhau giữa các khách sạn, cần tính đến một chương trình
hoàn thiện hệ thống đánh giá khách sạn. Về ngắn hạn, tập trung tăng cường thực thi
các tiêu chuẩn xếp hạng sao khách sạn hiện có và xem xét hoàn thiện các tiêu chí áp
dụng để đánh giá chất lượng dịch vụ. Về dài hạn, cần xem xét thuê đơn vị bên ngoài để
tiến hành xếp hạng khách sạn nhằm đảm bảo chất lượng, tính nhất quán và khách quan.
3.4.3. Đầu tư các cơ sở vui chơi, giải trí
Đầu tư xây dựng một số khu vui chơi, giải trí tổng hợp với nhiều loại hình kế hợp
giữa dân tộc và hiện đại, với các loại hình vui chơi giải trí độc đáo, hấp dẫn, khai
tách được yếu tố đặc trưng của du lịch văn hóa biển đảo.
Đầu tư xây dựng các loại hình vui chơi gải trí hiện đại, các hoạt động thể thao như
lướt ván, lặn biển, leo núi…
Xây dựng chuỗi sân gôn đẳng cấp quốc tế tại Quảng Ninh mô tả dự án hợp
tác với các tổ chức tư vấn, các nhà đầu tư và các nhà phát triển xây dựng chuỗi sân
gôn đẳng cấp quốc tế tại Quảng Ninh nhằm phát triển tỉnh thành điểm đến cho
ngành du lịch chơi golf.
Xây dựng khu phức hợp nghỉ dưỡng có casino ở huyện Vân Đồn
Xây dựng các khu vui chơi, giải trí tại khu du lịch mới thị xã Uông Bí và thị
xã Quảng Yên
103
3.5. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lƣợng cao cho du lịch
3.5.1. Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về du lịch văn hóa
- Tiếp tục nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng cán ộ quản lý ngành Du lịch,
cán bộ, công chức quản lý nhà nước, cán bộ, viên chức đơn vị sự nghiệp, cán bộ
chính quyền địa phươg liên quan đến du lịch và cán bộ quản lý doanh nghiệp du
lịch thuộc thành phần kinh tế. Ưu tiên bồi dưỡng cán bộ chính quyền và công chức
quản lý nhà nước về du lịch cấp huyện, cán ộ quản lý doanh nghiệp. Thực hiện chế
độ bồi dưỡng luân phiên đối với công chức, viên chức và cán ộ quản lý kinh doanh
du lịch toàn tỉnh.
- Phổ biến, cập nhật những nội dung của Luật Du lịch nói chung và những
nội dung quy định về quy hoạch phát triển du lịch, tài nguyên du lịch của Luật Du
lịch nói riêng cho các cấp các ngành, quần chúng nhân dân trên địa bàn tỉnh. Nâng
cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ chuyên gia làm công tác quy hoạch phát triển
du lịch để tăng cường hiệu quả và tính khả thi của công tác lập quy hoạch du lịch.
Sở văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh cần có kế hoạch cụ thể trong
việc phối hợp với Bộ văn hóa thể thao và Du lịch, các trường đào tạo về chuyên
ngành du lịch uy tín của cả nước mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý trong ngành
du lịch
Tổ chức các cuội thi cán bộ quản lý giỏi của ngành du lịch nhầm nâng cao ý
thức trách nhiệm, cũng như tầm quan trọng của công tác quản lý của ngành.
Cử cán bộ đầu ngành về du lịch của tỉnh đi tham gia các lớp tập huấn, quản
lý nhà nước về ngành du lịch tại Việt Nam và Các nước có nền Du lịch phát triển để
học hỏi kinh nghiệm, áp dụng vào thực tế của ngành du lịch tỉnh.
Nghiên cứu các cơ chế, xây dựng các chính sách nhằm thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao, những nhân tố tài năng trong lĩnh vực du lịch.
Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong nước và nước
ngoài trong việc trao đổi các chuyên gia, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, tranh thủ
sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa
học công nghệ du lịch áp dụng vào địa phương
104
3.5.2. Nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du lịch
- Đào tạo nhân lực bao gồm đào tạo mới và đào tạo lại cho nguồn nhân lực
hiện có, từ cán bộ quản lý cho đến nhân viên phục vụ, coi trọng việc đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp.
Thực hiện đào tạo nghiệp vụ tại chỗ cho lực lượng lao động có tay nghề
thấp, lao động phổ thông, lao động đơn giản thông qua hình thức tổ chức tập
trung ngắn ngày của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, các lớp truyền nghề do
các doanh nghiệp tự tổ chức.
3.5.3. Nguồn nhân lực ở địa phương
+ Tiếp tục thúc đẩy hợp tác với EU trong công tác đào tạo;
+ Tập trung vào triển khai đào tạo cho nghề cho một số trung tâm du lịch
mới như Cô Tô, Vân Đồn, Quảng Yên.
Mở rộng các chương trình đào tạo phổ thông, đơn giản có sẵn cho dân cư tại
các làng chài trên vịnh Hạ Long, các làng quê du lịch sinh thái, cộng đồng và dân
cư trên các đảo du lịch.
- Xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực ngành du
lịch không chỉ ở cấp tỉnh mà cả các cấp địa phương.
- Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về du lịch đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về lực lượng lao động ngành.
- Xây dựng các chương trình riêng đào tạo người dân làm du lịch theo đúng
định hướng của tỉnh và đảm bảo du lịch bền vững.
- Kiểm tra đánh giá lại chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên, từ đó có các
chương trình đào tạo cụ thể riêng với đội ngũ này, bởi đây là yếu tố quan trọng
được khách đánh giá cao và yêu cầu về chất lượng khi đánh giá mức độ hài lòng về
dịch vụ tại điểm du lịch.
Phối hợp tốt với các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành du lịch xây
dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch cho tỉnh
(bao gồm đào tạo trực tiếp, đào tạo gián tiếp, bồi dưỡng nâng cao...)
Có cơ chế, chính sách hấp dẫn, minh bạch để khuyến khích, thu hút lực lượng
105
sinh viên được đào tạo tại các trường này về làm việc đúng ngành nghề tại
Quảng Ninh, đồng thời thu hút thêm một số sinh viên tốt nghiệp các trường đại
học, cao đẳng khác có kỹ năng liên quan (thương mại, tài chính, kế toán, ngoại
ngữ, công nghệ thông tin, kỹ thuật điện…) Nhanh chóng đầu tư phát triển cơ sở đào
tạo đại học chuyên ngành du lịch tại Quảng Ninh để cung ứng nhân lực lâu dài.
Du lịch Quảng Ninh cần phải có một đội ngũ thuyết minh viên được đào tạo
bài bản, chuyên nghiệp để hướng dẫn du khách. Đối với các điểm du lịch, di tích
v.v.. việc thuyết minh, cung cấp và truyền đạt những thông tin đầy đủ, chính xác
đến với khách tham quan sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chất lượng sản
phẩm du lịch nói chung. Nếu công tác thuyết minh, giới thiệu không tốt sẽ không
chuyển tải được các thông tin về di tích một cách đầy đủ tới du khách, như vậy các
giá trị, ý nghĩa, nội dung của di tích sẽ không được hiểu hết, có những trường hợp
còn bị hiểu sai lệch, méo mó, ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy những giá trị
của từng điểm di tích.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, khắc phục tình trạng bỏ trống thuyết
minh viên tại các điểm di tích lịch sử văn hoá quốc gia, được biết, ngành Du lịch
Quảng Ninh đang xây dựng các đề án, phối hợp với Dự án EU để đào tạo hướng
dẫn viên trên cơ sở chuẩn mực của EU, dựa trên các giá trị truyền thống, văn hoá,
lịch sử nhân văn của địa phương.
Đối với Khu danh thắng Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí xây dựng và triển
khai kế hoạch đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, ưu tiên sử dụng người địa
phương để có đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp về Khu di tích lịch sử quốc
gia đặc biệt này. Sở Văn hóa thể thao và du lịch Tiếp tục đào tạo đội ngũ thuyết
minh viên du lịch tại một số điểm di tích, văn hoá lịch sử quốc gia trên địa bàn
tỉnh...
3.5.4. Các cơ sở đào tạo du lịch
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao kiến thức, công
nghệ về đào tạo, bồi dưỡng du lịch. Xây dựng mạng lưới các chuyên gia có khả
năng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực du lịch.
106
Thực hiện đào tạo trong và ngoài nướcc đội ngũ cán bộ nghiên cứu có năng
lực và trình độ cao, nhằm tăng nhanh chất lượng nghiên cứu, sản phẩm khoa học và
công nghệ đạt trình độ và chuẩn mực quốc tế; chuyển giao và ứng dụng nhanh các
kết quả nghiên cứu vào thực tiễn nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm du lịch của tỉnh.
Tiếp tục đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng
viên, Cán bộ, chuyên gia ngành du lịch trong lĩnh vực đào tạo của các trường đào
tạo liên quan đến lĩnh vực du lịch của tỉnh và của cả nước. Chú trọng đầu tư chiều
sâu cả về nhân lực và trang thiết bị nghiên cứu để hình thành tổ chức nghiên cứu
năng lực và chuyên môn cao trong lĩnh vực du lịch . Sử dụng và phát huy tiềm năng
chất xám, tri thức của người dân Quảng Ninh ở trong nước và nước ngoài phục vụ
phát triển du lịch. Con người là nguồn lực quan trọng trong việc phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực du lịch.
Phối hợp với các trường Đại học cao đẳng, trung cấp, dạy nghề khác trong
cả nước để đào tạo, bồi dưỡng, thu hút lực lượng lao động có tay nghề trung bình
chuyên ngành du lịch và các ngành, nghề khác có liên quan. Tăng cường mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn, ngoại
ngữ và đào tạo nghề. Phối hợp với các viện nghiên cứu, trường cao đẳng, đại học
chuyên về du lịch tham gia vào công tác đào tạo nhân lực Mời các chuyên gia giỏi
về chuyên môn, có kinh nghiệm thực tế tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn cho
hướng dẫn viên du lịch trên toàn tỉnh.
Thành lập trung tâm đào tạo ngoại ngữ tại Quảng Ninh Một trong những kỹ
năng cần có nhất của lao động ngành du lịch là kỹ năng ngoại ngữ. Hiện đã có dự án
được phê duyệt về việc xây dựng trung tâm ngoại ngữ liên kết với Trường Đại học
Hạ Long vào năm 2014 như Trung tâm Apollo và học viện Anh ngữ AMA hiện
đang có các khóa học tại Hải Phòng, Trung tâm Language Link và Hội đồng
Anh (British Council) tại Hà Nội. Quảng Ninh cũng có thể mời các tổ chức điều
hành khách sạn quốc tế (ví dụ: Accor) có bề dày kinh nghiệm về đào tạo ngoại
ngữ và du lịch để tư vấn xây dựng chương trình. Tỉnh Quảng Ninh nên xây dựng
107
quan hệ hợp tác với các công ty, cơ sở tư nhân nói trên nhằm tận dụng kinh nghiệm
và kiến thức chuyên môn sẵn họ trong quá trình vận hành trung tâm đào
tạo ngoại ngữ.
Bên cạnh đó, Quảng Ninh cần xem xét khả năng kêu gọi các nhà tài trợ quốc
tế tài trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí cho giáo viên của Trung tâm đào tạo ngoại
ngữ. Sự hợp tác gần đây giữa Quảng Ninh và Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật
Bản tại Việt Nam chính là một mô hình tiêu biểu cho đề xuất này. Trung tâm
giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam đang hoạt động tại Quảng Ninh nhằm
hỗ trợ phát triển lực lượng lao động ngành du lịch. Trung tâm đã tuyển dụng,
đào tạo và bố trí giáo viên tiếng Nhật đến dạy tiếng Nhật tại Quảng Ninh. Ban
xúc tiến và hỗ trợ đầu tư tỉnh Quảng Ninh (IPA) và Trung tâm giao lưu văn hóa
Nhật Bản tại Việt Nam đã hợp tác trong công tác đào tạo ngoại ngữ cũng như
nhiều công tác khác nhằm chuẩn bị năng lực cho lực lượng lao động tỉnh Quảng
Ninh trong việc đón tiếp khách du lịch Nhật Bản.
Tỉnh Quảng Ninh cũng cần tích cực khuyến khích học viên tại Trung tâm
tham gia các chương trình tài trợ quốc tế để có cơ hội thực hành ngôn ngữ, ví dụ,
như chương trình "Du lịch và làm việc tại Hoa Kỳ" (Work and Travel USA) của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ đem đến cơ hội việc làm tại Mỹ (trong đó có cả việc làm
ngành du lịch ) cho sinh viên. Do thiếu thông tin về chương trình này, rất ít
người dân Quảng Ninh tận dụng được lợi ích mà chương trình này mang lại.
Tỉnh Quảng Ninh nên khuyến khích học viên của trung tâm đăng ký tham gia
chương trình. Trong tương lai, Quảng Ninh có thể xem xét tài trợ một số sinh
viên tài năng tham gia “Du lịch và làm việc tại Hoa Kỳ”.
3.6. Xúc tiến, quảng bá và quản lý nhà nƣớc cho hoạt động du lịch
3.6.1. Hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch
- Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, hợp tác quốc tế và phát triển sản phẩm:
Được triển khai với các hình thức phong phú, đạt hiệu quả cao, đã giới thiệu Hạ
Long, Quảng Ninh đến với nhiều nước trên thế giới thông qua việc tham gia hội
chợ, các chương trình famtrip… Hợp tác với các tổ chức quốc tế về du lịch được
108
đẩy mạnh như với câu lạc bộ vịnh đẹp nhất thế giới, Diễn đàn du lịch Đông Bắc Á
(EATOP), đặt văn phòng về du lịch và xúc tiến đầu tư tại Jeju, Hàn Quốc, Nhật
Bản… Tiếp tục mở rộng không gian du lịch và phát triển sản phẩm đến các khu vực
biển đảo và các địa phương phụ cận như Uông Bí, Quảng Yên, Vân Đồn, Cô Tô
- Các hoạt động xúc tiến quảng bá chủ yếu thông qua các hội chợ du lịch, các
chiến dịch phát động thị trường, các chuyến khảo sát, Famtrips, presstrips; phát
hành các ấn phẩm, tờ gấp, bản đồ du lịch, quảng cáo trên kênh truyền hình các
phương tiện truyền thông đại chúng , Báo Du lịch, Tạp chí Du lịch, Trung tâm
Thông tin Du lịch, Truyền hình Du lịch...
Tăng cường đẩy mạnh công tác hợp tác, xúc tiến du lịch với nhiều hình thức
phong phú, hiệu quả. Các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được
đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hoá, thông tin về du lịch Quảng Ninh đến với du
khách bằng nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn. Việc quảng bá du lịch được thực
hiện qua các ấn phẩm, hướng dẫn du lịch theo chuyên đề phù hợp với từng thị
trường và từng đối tượng khách; thông qua các lễ hội, hội chợ, liên hoan văn hoá
ẩm thực để chuyển tải những nét văn hoá truyền thống độc đáo của địa phương đến
với du khách. Các chương trình quảng bá, xúc tiến được thực hiện theo nguyên tắc
Nhà nước quảng bá điểm đến, doanh nghiệp quảng bá các sản phẩm du lịch
Liên kết với với một số doanh nghiệp địa phương trong nước với doanh
nghiệp du du lịch của Quảng Ninh như: Bảo tàng Quảng Ninh, Khu di tích danh
thắng Yên Tử, Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều v.v.. để xây dựng thêm
những sản phẩm du lịch hấp dẫn hơn, níu chân được du khách Nhật ở lại lâu hơn
với Hạ Long. Bên cạnh việc đẩy mạnh các chương trình hợp tác, quảng bá xúc tiến
du lịch trong nước, những tháng đầu năm nay ngành du lịch Quảng Ninh nên chú
trọng đến công tác quảng bá, xúc tiến đến thị trường du lịch quốc tế. Trong đó tiếp
tục thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác, xúc tiến du lịch với nhiều trung tâm du
lịch của các quốc gia, các nước thành viên trong Diễn đàn Du lịch Đông Nam Á
(EATOF) như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào... Đồng thời, tích cực gửi các
109
tài liệu, ấn phẩm quảng bá du lịch để giới thiệu hình ảnh du lịch Quảng Ninh thông
qua việc tổ chức các sự kiện văn hoá, thể thao và du lịch trong và ngoài nước.
Cùng với các giải pháp phát triển du lịch, Quảng Ninh tiếp tục đẩy mạnh các
hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch đến thị trường du lịch trong và ngoài nước.
Đặc biệt, để thu hút các nhà đầu tư đến với Quảng Ninh, nhất là thị trường khách du
lịch châu Âu, Thông qua đó Quảng Ninh sẽ tham gia giới thiệu, quảng bá hình ảnh
du lịch Quảng Ninh và một số sản phẩm ẩm thực đặc sắc của Quảng Ninh đến bạn
bè quốc tế…
3.6.2. Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch
3.6.2.1. Công tác quản lý nhà nước:
- Triển khai thực hiện các công tác, giải pháp đã được đề cập trong Quy
hoạch tổng thể phát triển Du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030
theo lộ trình và kế hoạch đã định; Đề án phát triển sản phẩm du lịch, tạo nên các sản
phẩm du lịch hấp dẫn, đặc sắc thu hút khách du lịch đến với Quảng Ninh; Phối hợp
xây dựng và triển khai Đề án "Nụ cười Hạ Long" tạo sự thân thiện, cởi mở, hiếu
khách đối với khách du lịch và các nhà đầu tư đến Hạ Long. Tham mưu xây dựng
Quy hoạch Bãi tắm Du lịch trên địa bàn tỉnh.
- Tiếp tục công tác quản lý về môi trường kinh doanh du lịch, trong đó tập
trung tại một số địa bàn, khu vực như: Thành phố Hạ Long, khu vực trên vịnh, khu
vực Móng Cái. Tăng cường công tác quản lý khách du lịch tàu biển; kiểm tra lữ
hành du lịch, hướng dẫn viên du lịch, bãi tắm
- Tập trung vào một số thị trường trọng điểm để tổ chức các công tác có liên
quan như: quảng bá xúc tiến; phát triển sản phẩm du lịch, tuyến du lịch; đào tạo
nhân lực; xây dựng chính sách;
3.6.2.2. Các công tác nghiệp vụ cụ thể:
- Công tác thị trường: Xây dựng chiến lược về phát triển thị trường, trong đó
trong năm 2015 tập trung vào một số thị trường như:
+ Thị trường quốc tế: Tập trung vào thị trường gần, phù hợp với khả năng
của các doanh nghiệp lữ hành trong tỉnh như: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,
110
Indonexia, Philippin. Đối với một số thị trường xa như châu Âu, Bắc Mỹ: Tập trung
vào thị trường Anh, Bắc Ai Len; một số thị trường khác, tận dụng và khai thác tối
đa việc hợp tác với các công ty du lịch lữ hành lớn của VN tại thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Quan tâm đặc biệt đến thị trường khách du lịch tàu biển đến Hạ
Long, đây là một đối tượng khách cao cấp. Lấy hình mẫu của tiêu chuẩn phục vụ
đối tượng khách này làm cơ sở về tiêu chuẩn dịch vụ, loại hình sản phẩm, hình ảnh
để thu hút các đối tượng khách khác.
+ Thị trường nội địa: Tập trung vào thị trường của 03 trung tâm du lịch lớn:
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Trong đó, thực hiện ngay với thị
trường của thành phố Hồ Chí Minh.
- Công tác phát triển sản phẩm và kết nối không gian du lịch: Tiếp tục hoàn
thiện các sản phẩm hiện có. Trong năm 2015 tập trung xây dựng một số sản phẩm:
+ Cụm trung tâm thành phố Hạ Long (Trên bờ): Cụm bảo tàng - thư viện, kết
nối với nhóm sản phẩm city tour; Sản phẩm biểu diễn nghệ thuật phục vụ khách du
lịch; Sản phẩm thủ công mỹ nghệ;
+ Trên vịnh Hạ Long: Khôi phục nhóm sản phẩm du lịch cộng đồng, văn hóa
tại một số làng chài;
+ Cụm Vân Đồn: Sản phẩm Thiền tại chùa Cái Bầu, Homestay tại xã Hạ Long;
+ Cụm phường Phong Cốc, Quảng Yên: Sản phẩm Homestay, cộng đồng,
làng nghề ngư cụ Nam Hòa.
+ Kết nối không gian: Lấy Hạ Long là trung tâm kết nối các nhóm sản phẩm,
tuyến du lịch đến các vùng khu vực phụ cận để kéo dài thêm thời gian khách lưu trú
tại Hạ Long từ 4 – 6 giờ.
- Công tác quảng bá xúc tiến và xây dựng thương hiệu: Trên cơ sở chiến lược
phát triển thị trường, nhóm sản phẩm để hình thành kế hoạch quảng bá xúc tiến,
trong đó tập trung vào một số hình thức quảng bá như:
+ Đối với thị trường nội địa: Tập trung quảng bá qua các phương tiện thông tin
đại chúng và lấy chương trình quảng bá trong giờ Vàng trên VTV là trọng tâm. Cùng
với chương trình này là việc tổ chức các sự kiện lớn như: Carnaval Hạ Long..; tiếp
111
tục thúc đẩy chương trình famtrip đối với nhóm lữ hành trong nước; thực hiện một số
chương trình Roadshow tại thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đối với thị trường quốc tế: Tổ chức các chương trình Famtrips, Presstrips;
quảng bá trên tạp chí đặt trên các chuyến bay. Trong đó tập trung thực hiện một
chương trình đối thị trường Anh và Bắc Ai Len; một chương trình với thị trường
Đông Bắc Á (Trung Quốc, Đài Loan); một chương trình với khu vực Asean (
Philippin và Indonexia)
+ Xây dựng thương hiệu chung và một số thương hiệu điểm hình cho nhóm
sản phẩm đặc trưng; Tạo slogan cho giai đoạn 2015 – 2016; Tổ chức triển khai các
bước của chương trình Nụ cười Hạ Long;
- Công tác hợp tác quốc tế:
+ Trên cơ sở chiến lược phát triển thị trường, thúc đẩy công tác hợp tác quốc
tế. Trong đó, tập trung cho công tác hợp tác với Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam -
Trung Quốc; Đài Loan; Hàn Quốc, Philippin, Inddoonexia…
+ Tiếp tục chương trình hợp tác với các tổ chức khác mà tỉnh đang tham gia;
- Công tác đào tạo:
+ Tiếp tục thúc đẩy hợp tác với EU trong công tác đào tạo;
+ Tập trung vào triển khai đào tạo cho nghề cho một số trung tâm du lịch
mới như Cô Tô, Vân Đồn, Quảng Yên.
- Công tác xây dựng các mối liên kết hợp tác:
+ Thúc đẩy công tác liên kết với các địa phương trong nước như : Hà Nội,
TP Hồ Chi Minh, Đà Nẵng, một số địa phương giáp với Quảng Ninh. Trong đó, tập
trung và ưu tiên thực hiện chương trình với thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tổ chức một số chương trình hợp tác với một số công ty du lịch lớn có uy
tín như: Saigontourism; Fiditour, Viettrave.. một số hãng hàng không như Việt Nam
Airline, Pasific Airlines..
- Công tác triển khai từ 2015 - 2020: Triển khai các công việc theo Kế hoạch
số 5828 của UBND tỉnh; các dự án, chương trình trong quy hoạch du lịch đến 2020,
tầm nhìn đến 2030 đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định 1419
112
Giải pháp thực hiện cụ thể:
1. Tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật
của Nhà nước, tăng cường công tác thông tin hướng dẫn thực hiện các văn bản quản
lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, công tác giáo dục tư tưởng
đạo đức chính trị, triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, triển khai công tác
phòng chống tham nhũng, tạo sự đoàn kết và đồng thuận của cán bộ công chức
trong việc triển khai nhiệm vụ chính trị của cơ quan.
2. Đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt
công tác tổ chức cán bộ. Thường xuyên bổi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực của
cán bộ công chức, bố trí, bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp với trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và sở trường của họ.
3. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, phân cấp quản lý, đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu đơn vị, chú trọng và tăng cường công tác đào tạo bồi
dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tính kỷ luật và chuyên
nghiệp cho cán bộ, công chức, đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đầu tư ngày càng đầy đủ và tốt hơn cơ sở vật chất của ngành văn hoá, thể
thao và du lịch. Đầu tư thỏa đáng cho công tác quản lý môi trường kinh doanh du
lịch về tổ chức, biên chế và kinh phí.
5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các dịch vụ kinh doanh trong lĩnh
vực văn hóa, thể thao và du lịch, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm những trường
hợp vi phạm môi trường du lịch.
Đề xuất kiến nghị cụ thể: Đề nghị Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh Quảng Ninh
- Chỉ đạo xây dựng và phê duyệt quy hoạch thiết chế văn hóa thể thao trên
địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo Văn bản số
2564/BVHTTDL-VHCS ngày 05/8/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch "V/v
triển khai thực hiện Quy hoạch thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở theo Quyết định số
2164/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ"
113
- Quân tâm đầu tư xây dựng các thiết chế Văn hoá - Thể thao cấp tỉnh: Nhà
thi đấu đa năng, sân vận động tại Trung tâm thể thao tỉnh, Trung tâm Văn hóa tỉnh,
Nhà hát Hạ Long. Trước mắt đề nghị giao cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng
phương án quản lý Cung triển lãm và quy hoạch khi hoàn thành đưa vào sử dụng
kết hợp với công năng của Trung tâm Văn hóa cấp tỉnh
- Tiếp tục kiến nghị Bộ VHTTDL ủng hộ Quảng Ninh có một số cơ chế đặc thù
trong việc quản lý hoạt động lữ hành tại Móng Cái; quản lý khai thác vịnh Hạ Long;
- Đề xuất các Bộ, ngành trung ương tháo gỡ khó khăn về cơ chế chính sách
cho các doanh nghiệp du lịch.
- Có chủ trương và dành nguồn lực phù hợp cho công tác quảng bá xúc tiến,
mở rộng thị trường và phát triển sản phẩm du lịch.
- Quan tâm chỉ đạo hỗ trợ về cảng, bến cho các doanh nghiệp đón khách tàu
biển, vấn đề về chợ bán hàng lưu niệm; phương án quản lý dịch vụ trên vịnh Hạ
Long....
- Thúc đẩy hợp tác ở cấp tỉnh với các địa phương của Trung Quốc tiếp giáp
với Việt Nam; nghiên cứu, đề nghị Bộ Ngoại giao xem xét đưa Hạ Long, Quảng
Ninh là một điểm để tổ chức các chương trình hội nghị quốc tế.
- Quan tâm bố trí kinh phí tạo điều kiện cho Ban chỉ đạo "Phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" hoạt động.
- Nghiên cứu ban hành cơ chế đặc thù hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp
phối hợp với các đoàn Nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh xây dựng và biểu diễn
các chương trình nghệ thuật truyền thống phục vụ khách du lịch.
- Tích cực triển khai công tác thanh tra du lịch: Đã phối hợp với các ngành
chức năng triển khai thực hiện Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 11
của UBND tỉnh về quản lý môi trường kinh doanh du lịch. Tập trung tuyên truyền
vận động và hướng dẫn nhân dân về công tác môi trường du lịch. Đã mở hàng chục
khóa học cho hơn 5000 lượt người trên địa bàn để tập huấn các kiến thức cơ bản về
nghiệp vụ du lịch, tuyên truyền hơn 2000 tin, bài về du lịch. Mặt khác, các ngành,
địa phương đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về môi trường kinh
114
doanh du lịch, trong đó tập trung vào một số nội dung như: việc quản lý giá, quản lý
đô thị, quản lý về chất lượng phục vụ…
3.7. Thu hút, tìm kiếm nguồn vốn đầu tƣ ở trong nƣớc và nƣớc ngoài cho các
dự án phát triển du lịch.
Trong khi các chính sách tạo thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh là rất quan
trọng để tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, sự tham gia chủ động của chính
phủ trong ngành du lịch cũng không kém phần quan trọng trong việc phát triển
một ngành du lịch thịnh vượng. Điều này bao gồm ba thành tố chính.
Đầu tiên, Quảng Ninh phải xây dựng những tài liệu rõ ràng và hấp dẫn cung cấp
cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp tập trung vào du lịch, phản ánh rõ ràng
những điều tỉnh phải đáp ứng và nêu rõ những vấn đề tỉnh có thể tạo thuận lợi
đầu tư. Việc làm này bao gồm hình thành một trang web rõ ràng và toàn diện,
cũng như những dữ liệu toàn diện, chính xác và dễ truy cập về tình trạng du lịch
của tỉnh, những dữ liệu có liên quan trực tiếp đến các nhà đầu tư và doanh
nghiệp.
Thứ hai, Quảng Ninh phải tích cực thúc đẩy, tìm kiếm và tạo điều kiện cho
đầu tư trong lĩnh vực có liên quan đến du lịch kể cả việc tham dự các hội nghị du
lịch lớn như Hội nghị Đầu tư Du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (Asian-Pacific
Tourism Destination Investment Conference), phát triển các buổi tiếp xúc nhà
đầu tư và tham gia tích cực với các nhà đầu tư và doanh nghiệp. Ngoài ra,
Quảng Ninh phải chủ động tạo thuận lợi cho quy trình thành lập một doanh
nghiệp của các nhà đầu tư và các doanh nghiệp.Thứ ba, Quảng Ninh phải làm việc
với các doanh nghiệp để đảm bảo rằng các doanh nghiệp và sự kiện liên quan trong
lĩnh vực du lịch được hỗ trợ bởi các cơ quan nhà nước, bao gồm nâng cấp cơ sở hạ
tầng tỉnh, thành phố, các ấn phẩm du lịch và việc các cơ quan cùng phối hợp tổ
chức sự kiện. Chính quyền phải đảm bảo rằng đó không chỉ là vấn đề cơ chế phê
duyệt, mà phải là sự tham gia tích cực cho phát triển du lịch. Ví dụ, khi một điểm du
lịch được phát triển bởi một nhà đầu tư hoặc doanh nhân, chính phủ phải đảm bảo
có đầy đủ các biển hiệu công cộng hướng dẫn khách du lịch đến điểm du lịch đó và
các điểm du lịch được đưa vào các tuyến giao thông công cộng. Nếu một doanh
115
nghiệp có ý tưởng về một sự kiện về du lịch. Đây là một trong những yếu điểm của
Quảng Ninh. Quảng Ninh kém chủ động hơn rất nhiều so với các tỉnh khác ở Việt
Nam - trong đó có Phú Quốc và Đà Nẵng - trong việc thu hút các nhà đầu tư. Quảng
Ninh không tham dự các sự kiện đầu tư du lịch quan trọng, không tích cực trong
việc theo đuổi các nhà đầu tư tiềm năng và không tích cực tìm cách để xây dựng
hoặc xúc tiến một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư.
Các giải pháp cụ thể:
- Đưa Quảng Ninh vào website Quy định Điện tử của Việt Nam hoặc phát
triển một website độc lập tương tự Internet cung cấp một cửa ngõ kêu gọi đầu tư
đầu tiên cho các doanh nghiệp nước ngoài đang muốn tìm hiểu các thủ tục cần thiết
để thiết lập doanh nghiệp. Một số tỉnh và thành phố đã phát triển tốt các trang web
cung cấp những thông tin toàn diện về các yêu cầu này, bao gồm các đầu mối liên
lạc chính, thời gian cấp thủ tục, lệ phí, giấy tờ cần thiết, cũng như các mẫu tải sẵn
được yêu cầu. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng sử dụng trang web
http://vietnam.eregulations.org để giới thiệu những thông tin như vậy. Quảng Ninh nên
đưa những thông tin đó vào trang web này hoặc phát triển trang web riêng của mình.
- Xây dựng „Bộ phận một cửa‟ để cấp phép cho các doanh nghiệp du lịch nhỏ
Có một số thủ tục cần thiết để thành lập một doanh nghiệp, trong đó có đăng ký nộp
thuế, mua và đăng ký con dấu công ty, hợp pháp hóa và dịch tài liệu cũng như xin
giấy phép chứng nhận đầu tư. Người nước ngoài cho rằng những thủ tục này làm ất
thời gian và phức tạp, khiến nhiều người không muốn tham gia kinh doanh. Để giải
quyết vấn đề này Quảng Ninh cần phát triển 'Bộ phận một cửa', nơi các doanh nhân
có thể làm tất cả các thủ tục cần thiết bằng tiếng Anh để khởi sự một doanh nghiệp
trong thời gian ngắn nhất có thể.
- Khuyến khích chính sách visa mở đối với tất cả các loại lao động du lịch
Xét đến tầm quan trọng của việc thuê lao động nước ngoài đối với sự thành công
của một số doanh nghiệp du lịch, trong đó có các khách sạn và công ty tàu du lịch,
Quảng Ninh cần tạo điều kiện cho loại hình thuê lao động này. Điều đó liên quan tới
cả việc vận động hành lang chính phủ nới lỏng luật lao động ở những điểm có thể,
116
đảm bảo các thủ tục thuê lao động không phức tạp và đảm bảo các nhà đầu tư nắm
bắt được các thủ tục thuê lao động nước ngoài.
- Phát triển một cách tiếp cận chủ động, có tổ chức để làm việc với
các nhà đầu tư và doanh nhân Đầu tư vào du lịch là đầu tư vào một „thị trường của
người mua‟. Chính quyền tại các điểm đến du lịch trên toàn châu Á hiện đang tích
cực mời gọi và tìm cách thu hút các nhà đầu tư. Điều tất yếu là những nơi không
chủ động trong cách tiếp cận nhà đầu tư sẽ không đạt được kết quả như mong đợi.
Tỉnh Quảng Ninh cần phải xây dựng một cách tiếp cận toàn diện và chủ động nhằm
thu hút các nhà đầu tư, bao gồm: Xây dựng trang web được thiết kế tốt và có nội
dung toàn diện; Xây dựng những dữ liệu toàn diện và chính xác về du lịch Quảng
Ninh; Đưa ra những đề xuất hấp dẫn nhà đầu tư, Tham dự các hội nghị du lịch, Phát
triển các buổi tiếp xúc nhà đầu tư để xúc tiến đầu tư về du lịch
Tiểu kết chƣơng 3.
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát tiển du lịch của tỉnh, qua khảo sát
thực tiễn thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tại tỉnh, tác giả đã đưa ra một số giả
pháp nhằm góp phần phát triển du lịch văn hóa tại tỉnh Quảng Ninh, gồm các giải:
Giải pháp về sản phẩm du lịch, xây dựng tập trung vào 4 sản phẩm du lịch đặcthù,
Lập bản đồ địa chỉ khu du lịch đưa khách tham quan đến, Xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ cho hoạt động du lịch , Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho du lịch, Xúc tiến, quảng bá cho hoạt động du lịch, Thu hút, tìm kiếm nguồn
vốn đầu tư ở trong nước và nước ngoài cho các dự án phát triển du lịch.
Trong khuôn khổ chương 3, tác giả được thể hiện với những định hướng phát
triển cho từng nội dung, không chỉ dừng lại ở những định hướng hoạt động mà tác
giả đã mạnh dạn đề xuất các hành động thực tiễn cho từng hạng mục để làm rõ tính
cấp bách và thiết thực của từng vấn đề nghiên cứu. Các giải pháp nhằm mục tiêu
xây dựng và khai thác sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù của tỉnh một cách hiệu quả
nhất, nhằm đáp ứng chủ trương, chính sách của tỉnh trong việc định hướng phát triển du
lịch Quảng Ninh trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn đứng đầu Việt Nam và mang tầm
vóc quốc tế.
117
KẾT LUẬN
Các đối tượng văn hoá (tài nguyên du lịch nhân văn) chính là tiền đề để tạo
nên các loại hình du lịch văn hoá đặc sắc, các sản phẩm du lịch độc đáo đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Bên cạnh những loại hình du lịch như du
lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục…gần đây
du lịch văn hoá được xem là sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút
nhiều khách quốc tế Ngoài lợi ích về kinh tế, du lịch văn hoá cho quốc gia, cho
vùng, cho nhà kinh doanh du lịch rất nhiều lợi ích khác mà không phải bất kỳ loại
hình du lịch nào cũng có thể mang lại, đó là việc nâng cao hiệu quả về mặt xã hội.
Chỉ có du lịch văn hoá mới có thể nâng cao “chất” trong du lịch, nâng cao nét đẹp,
giữ gìn văn hoá đối với cả khách du lịch, với nhân dân địa phương và với các nhà
kinh doanh du lịch. Chính vì thế, qua du lịch văn hoá, nhà nước có thể điều chỉnh,
giữ gìn và phát huy một cách tốt nhất nền văn hoá của quốc gia mình.
Du lịch hiện nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến của hầu hết tất
cả các nước, trong đó có Việt Nam. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đời
sống con người ngày càng nâng cao. Du lịch đã trở thành một nhu cầu trong đời
sống văn hóa của con người. Hoạt động du lịch đã khai thác rất nhiều các yếu tố văn
hóa có liên quan đến các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống, những môn nghệ
thuật dân gian và những giá trị văn hóa phi vật thể khác luôn là những chủ đề
nghiên cứu, xây dựng sao cho những tài nguyên du lịch văn hóa đó trở thành những
sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc. Mục đích của việc khai thác các yếu tố cấu thành
nên sản phẩm du lịch văn hóa nhằm giúp cho du khách có thể hiểu được lịch sử của
mỗi vùng miền, mỗi địa danh và cảm nhận được những nét văn hóa đặc trưng của
mỗi vùng miền. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch văn hóa còn mang ý nghĩa giáo dục
sâu sắc, nó giúp cho thế hệ trẻ hình thành nhân cách và thế giới quan trên nền tảng
truyền thống đồng thời có ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống ấy.
Hiện nay, sự phát triển của sản phẩm du lịch văn hóa đang là bước đi đúng đắn
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành du lịch Việt Nam: “ du lịch Việt Nam
muốn phát triển, tất yếu phải khai thác và sử dụng các giá trị truyền thống, cách tân
118
và hiện đại hóa sao cho phù hợp, hiệu quả”. Trên cơ sở phân tích, hệ thống, tổng
hợp, vận dụng và phân tích các khái niệm có liên quan, luận văn đã hệ thống rõ cơ
sở lý luận liên quan đến hoạt động du lịch văn hóa,sản phẩm du lịch văn hóa…tác
giả đi sâu vào phât tích thực trạng hoạt động du lịch văn hóa, tập trung vào phân
tích thực trạng của 4 sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng của tỉnh là Hoạt động du
lịch văn hóa tâm linh gắn với nhà Trần, Hoạt động văn hóa lễ hội, Hoạt động tham
quan các di tích lịch sử - văn hóa gắn với vương triều Trần, Hoạt động ẩm thực.
Thông qua thực trạng hoạt động du lịch văn hóa, sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh,
tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch
văn hóa đặc trưng của tỉnh Quảng Ninh.
. Toàn bộ những nội dung trên đã đáp ứng mục tiêu của chương một là xây
dựng cơ sở lý luận và định hướng cho việc tiếp cận phân tích các tiềm năng và đề
xuất giải pháp phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nƣớc
1. Trần Thúy Anh, Triệu Thế Việt, Nguyễn Thu Thủy, Phạm Thị Bích Thủy,
Phạm Quang Anh (2014), Giáo trình du lịch văn hóa, những vấn đề lý luận và
nghiệp vụ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. Trần Thúy Anh, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Thị Anh Hoa, Văn hóa ứng xử
trong du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Bảo tàng Du lịch Việt Nam (2013), Văn hóa Hạ Long trên vùng đất Quảng
Ninh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ninh (1998), Quảng Ninh đất và người, Nxb
Lao động xã hội, Hà Nội.
5. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí mĩ thuật truyền thống của người Việt, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
6. Phan Kế Bính( 2011), Phong tục Việt Nam,Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Chiến (2004), Văn hóa trong phát triển du lịch bền vững ở Việt
Nam,Nxb Trẻ, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2009),Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Đính, Phạm Hồng Chương, Giáo trình quản trị kinh doanh lữ
hành, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Hà Nam Khánh Giao, Nguyễn Văn Bình (2011), Giáo trình nghiệp vụ nhà
hàng,Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
11. Hội đồng quốc tế các di chỉ và di tích (ICOMOS, 1999), Công ước quốc tế về
du lịch văn hóa.
12. Nguyễn Đình Hòe,Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững,Nxb ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội.
13. Trần Thị Minh Hòa, Nguyễn Văn Đính (2004), Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb
Lao động-xã hội, Hà Nội.
120
14. Vũ Ngọc Khánh (2013), Làng Văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
15. Đinh Trung Kiên (2000), Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội
16. Nguyễn Văn Lưu (1998), Thị trường du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Vũ Đức Minh, Tổng quan về du lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phạm Xuân Nam, Văn hóa và kinh doanh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Phan Ngọc ( 2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học,Hà Nội.
20. Trần Nhoãn, Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh du lịch lữ hành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.21. Đỗ Quỳnh Phương (1993), Quảng Ninh-Hạ Long miền đất
hứa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Di sản Văn
hóa, Nxb Lao Động.
23. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Du lịch,
Nxb Lao động.
24. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh (2014), Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
25. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh (2012), Báo cáo công tác quản lý
hoạt động du lịch năm 2012 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2013.
26. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh (2012), Báo cáo công tác quản lý
hoạt động du lịch năm 2013 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
27. Tổng cục Du lịch Việt Nam Trung tâm Công nghệ thông tin du lịch(2004), Non
nước Việt Nam, Nxb XN in Thống Kê thành phố Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí
Minh
28. Tổng cục Du lịch Việt Nam (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
29. Nguyễn Minh Tuệ, Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Phạm Xuân Hậu,Nguyễn Kim
Hồng, Địa lý du lịch (1999), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
121
30. Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông, Vũ Đình Hòa, Lê Mỹ Dung, Nguyễn Trọng Đức,
Lê Văn Tin, Trần Ngọc Điệp (2010), Địa lí du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
31. Trần Đức Thanh (2005),Nhập môn khoa học Du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
32. Ngô Kim Thanh (2011), Giáo trình Quản trị chiến lược, Nxb Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
33. Trần Diễm Thúy, Văn hóa du lịch, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
34. UBND tỉnh Quảng Ninh (2003),Địa chí Quảng Ninh ( tập I, II, III),Nxb Thế
giới, Hà Nội.
35. Khái Vinh (1993), Tìm hiểu di sản văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
37. Viện nghiên cứu văn hóa (1999), Văn hóa dân gian làng biển Quan Lạn,Hà Nội.
38. Bùi Thị Hải Yến (2010), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
39.Bùi Thị Hải Yến, Phạm Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Lê THị Hiền
Thanh, Phạm Bích Thủy (2012), Du lịch cộng đồng, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
40. Bùi Thị Hải Yến (2009), Quy hoạch du lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long, Tài nguyên du lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tài liệu nƣớc ngoài
42. Baud–Boovy Manuel & Fred Lauson (1997), Tourism and recreation
development, The architectural Press LTD – London.
43. Boniface B and Cooper C. (1993), Geography of Travel and Tourism,
Heinemann London.
44. Bob McKercher and Hilary du Cros (2002), Cultural tourism - the partnership
between tourism and cultural heritage management, Routledge.
122
45. Borowiecki, K.J. and C. Castiglione (2014), Cultural participation and tourism
flow: An empirical investigation of. Italian provinces, Tourism Economics,
forthcoming.
46. Dallen J.Timothy, Stephen W. Boyd (2003), Heritage tourism, Prentice Hall,
Page 107.
47. John Akama & Patricia Sterry (2002), Cultural tourism in Africa - strategies for
the new millennium, ISBN 90-75775-12-1 - Mombasa Kenya.
48. Richards, G. (1996) Cultural Tourism in Europe. CABI, Wallingford.
123
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY KINH DOANH, VẬN CHUYỂN KHÁCH,
LƢU TRÚ TRÊN VỊNH HẠ LONG
Tính đến ngày 04 tháng 8 năm 2015. Cập nhật bởi phòng Nghiệp vụ Du Lịch
- Sở Văn Hóa Thể thao & Du lịch Quảng Ninh.
Stt Công ty SĐT
1 Cty TNHH Du thuyền Bhaya +84 33 3515 199
2 Cty TNHH PT DL Hải Long +84 33 3846 099
3 Cty CP Du thuyền Đông Dƣơng +84 33 6250 475
4 CTY TNHH DL CÔNG NGHĨA +84 33 3827 764
5 CTY TNHH VCK BÀI THƠ (84 33) 3826 898 – 3525 998
6 CTY TNHH HẠ LONG BIỂN NGỌC 033.384.9681
7 CTY TNHH TM DL KIM HẰNG 33.3846809
8 Cty TNHH DL&Cảm xúc Hạ Long 033 247 0975
9 DNTN DL THÁI BÌNH DƢƠNG II 913268456
10 CTY TNHH PHÁT TRIỂN HẠ LONG +84 33 3858 328
11 DNTN Du lịch Vịnh Xanh 0333 858 739 / 0333 858 739
12 CTY TNHH HẢI ÂU (033) 6579 799
13 CTY TNHH DL THỊNH PHÁT 0333.848.149
14 CTY TNHH DL MINH QUANG 033.3627 524
15 Cty CP ĐT TM&DVDL Bài Thơ 033 3620 086
16 CTY TNHH CÁNH BUỒM HẠ LONG 333.875783
17 Cty TNHH Ánh Dƣơng (+84 33) 3511 168 - 3512 186
Cty TNHH Bái Tử Long - Hƣng
18 Nguyên 0333.655.859
19 Cty TNHH Hƣơng Hải 333.511168
Cty TNHH TM và DV Dòng di sản Hạ
20 Long 333.515499
21 Cty TNHH Hải Phong 333511575
Cty TNHH Du thuyền hình ảnh Hạ
22 Long +84 33 6253 577
23 Cty CP Du thuyền 5 sao tuần châu (033)384-2368
24 DNTN Thành Hƣng +84 33 3824 670
25 Cty TNHH PT DL Hoà Bình 333.655859
26 Cty CP Hồng Phong 333829934
27 CN Cty TNHH Đƣờng Xanh +84 33 3515 064
28 Cty TNHH DL TM Bình Minh 336276227
CN Cty CP TM DL Những du thuyền
29 Hạng A 33.6286099
30 Cty TNHH Phƣơng Đông Bắc 033 3843305
31 CN Cty TNHH Đăng Tâm 033 3276106
32 DNTN Khách sạn Yến Ngọc (033)3846945
33 Cty Du thuyền Bảo Ngọc +84 33 3849 266
34 Cty TNHH 1TV TM&DL Thăng Long 33.3845916
35 Cty CP bất động sản Syrena Hạ Long 333847043
36 Cty CP DV Thiên Cung 982425366
37 Cty CP DVDL QT Minh Hằng 333640858
38 Cty TNHH VIT Hạ Long 336281888
39 Cty TNHH Hƣơng Hải Hạ Long 903229445
40 Cty TNHH TM DL Hƣng Khải 033 3846186
Cty TNHH MTV Du thuyền Thiên
41 Minh 0903 239595
42 Cty CP DL quốc tế kỳ quan Hạ Long 033 3840699
CTY CP DV DU THUYỀN NAM THÁI
43 BÌNH DƢƠNG (033) 3511592
CTY CP DU THUYỀN 5 SAO HỒNG
44 PHONG 913265476
CTY CP DU LỊCH THUYỀN VÀNG
45 9999 1222556668
46 CTY CP du lịch Sen Á Đông 336250475
CTY CP VẬN TẢI SÔNG BIỂN SINH
47 ĐÔI 333683293
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU VỀ QUẢNG NINH VÀ VỀ DU LỊCH
QUẢNG NINH
Ảnh số 1: Địa hình Quảng Ninh
(Nguồn:://www.quangninh.gov.vn/viVN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongqu
anid=92)
Ảnh số 2: Bản đồ Quảng Ninh
(Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi-
VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp:
17/08/2008 4:31:48
Ảnh số 3: Hòn Trống Mái – Vịnh Hạ Long
(Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi-
VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp:
17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 4: Rẽ sóng trên vịnh Hạ Long
(Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi-
VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp:
17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 5: Ẩm thực Hạ Long
(Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 6: Ẩm thực Hạ Long (Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 7: Đƣờng đến Yên Tử (Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 8: Hệ thống cáp treo Yên Tử (Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 17/08/2008 4:31:48)
Ảnh số 9: Tƣợng Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tƣ thế ngồi thiền mở mắt, mặc áo hở vai, đặt tại tháp tổ Huệ quang, Yên Tử. (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 10: Tôn tƣợng Phật hoàng trên Yên Tử (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 11: Chùa Ba Vàng (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 12: Chùa Đồng Yên Tử (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 13: Đền Cửa Ông (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 14: Chùa Cái Bầu (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 15: Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt nhà Trần (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 16: Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt nhà Trần (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Ảnh số 17: Bãi Cọc Bạch Đằng – Thị xã Quảng Yên (Nguồn: Tác giả luận văn, năm chụp: 2014)
Hình 18: Carnaval Hạ Long 2015 Nguồn: (Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 2015)
Hình 19: Carnaval Hạ Long 2014 (Nguồn: http://www.quangninh.gov.vn/vi- VN/Trang/tong%20quan%20chi%20tiet.aspx?tongquanid=92, Năm chụp: 2014)