BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ   

ĐẶNG THỊ HỒNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

2

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ   

ĐẶNG THỊ HỒNG

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHẠM ĐỨC NHUẤN

HÀ NỘI - 2014

3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hiện đại hoá Khoa học công nghệ Doanh nghiệp Kinh tế - xã hội Xã hội chủ nghĩa Cao đẳng, Đại học, Trung cấp chuyên nghiệp CNH, HĐH HĐH KHCN DN KT-XH XHCN CĐ, ĐH, TCCN&DN

và dạy nghề

4

MỤC LỤC

Tran

g

MỞ ĐẦU 3

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,

12 12

1.1. 1.2. THÀNH PHỐ HÀ NỘI Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm Quan niệm nội dung, sự cần thiết và nhân tố ảnh hưởng đến

giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông 22

Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO

THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ

41

HÀ NỘI Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến giải 2.1

quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, TP Hà

41

Nội hiện nay Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà 2.2

Đông những năm qua 43

Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN

65

HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận 3.1

65

Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho thanh 3.2

niên ở quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội thời gian tới

KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 69 84 86 91

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việc làm nói chung và việc làm cho thanh niên nói riêng không chỉ là

vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm

hàng đầu của các quốc gia, dân tộc và của toàn nhân loại nói chung. Có thể nói,

hiệu quả của việc giải quyết việc làm gắn liền với sự tồn tại bền vững của mọi

quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề giải quyết việc làm cũng không nằm ngoài

quỹ đạo đó, văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: “giải quyết việc làm

là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh

tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc

của nhân dân”.

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi

quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc

làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không

thể giúp thanh niên bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Giải quyết việc

làm cho thanh niên Thành phố là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động đang chiếm tỷ lệ cao và là nguồn lao động trẻ, có trình độ,

nhiệt huyết và khả năng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, góp phần to lớn trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban

Chấp hành Trung ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã chỉ rõ

nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu

nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên” [15].

Thanh niên Việt Nam là một lực lượng lao động đông đảo chiếm 26,9%

dân số Việt Nam và chiếm trên 68% trong lực lượng lao động chính của xã hội,

họ là những người lao động có sức khỏe, sức trẻ có trình độ kiến thức là “rường

cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước”. Là nguồn nhân lực chủ

6

yếu cho mọi quốc gia. Thanh niên có vai trò hết sức to lớn trong xây dựng và

phát triển đất nước trong mọi thời kỳ, mọi lĩnh vực, thanh niên luôn là lực

lượng xung kích đi đầu. Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta luôn luôn

quan tâm đến thế hệ trẻ, có nhiều quyết sách hỗ trợ, thúc đẩy thanh niên phấn

đấu học tập ra sức tu dưỡng rèn luyện về trình độ cũng như chuyên môn, đặc

biệt sự đòi hỏi về việc làm và thu nhập.

Hà Đông là một Quận thuộc thủ đô Hà Nội, vốn là một vùng đất giàu

truyền thống văn hóa và hiện nay là một trong những địa phương có tốc độ

phát triển nhanh nhất của Hà Nội. Đội ngũ thanh niên xung kích của Quận,

luôn thể hiện tinh thần hăng hái, xung phong tiến quân vào hoạt động xóa đói

giảm nghèo của địa phương được xác định trong Đề án 103, đề án hướng

nghiệp và giải quyết việc làm cho đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố

Hà Nội. Tuy nhiên, các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn Quận thiếu khả

năng tạo việc làm cho người lao động, thu hút rất ít lực lượng là thanh niên;

công tác đào tạo, tư vấn hỗ trợ nghề nghiệp và việc làm chưa chú trọng nâng

cao chất lượng tư vấn hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; tổ chức hội chợ việc làm,

trung tâm giới thiệu việc làm cho thanh niên chưa đáp ứng kịp nhu cầu lập

nghiệp của thanh niên; quỹ vốn vay giải quyết việc làm cho thanh niên còn rất

hạn hẹp; cơ chế chính sách về giải quyết việc làm cho người lao động ở Quận

Hà Đông còn nhiều vấn đề phải bổ sung, hoàn thiện… những vấn đề trên đã

ảnh hưởng không nhỏ đến giải quyết việc làm cho Thanh niên. Tình trạng thiếu

việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến

tới sự phát triển KT-XH của Quận. Góp phần giải quyết các vấn đề bất cập

trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận

Hà Đông, thành phố Hà Nội" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trong cả nước nói chung và ở

Thành phố Hà Nội nói riêng đã thu hút rộng rãi sự quan tâm của nhiều tác giả,

7

nhiều nhà khoa học nghiên cứu thuộc các lĩnh vực, dưới các hình thức như: đề

tài khoa học các cấp, sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí v.v… và đã

đạt được những kết quả nhất định. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:

* Các sách tham khảo và chuyên khảo viết về thị trường lao động và

giải quyết việc làm.

Tác giả Nguyễn Quang Hiền với sách: “Thị trường sức lao động - Thực

trạng và giải pháp” (1995) đã đưa ra những khái quát về thực trạng và giải

pháp thị trường sức lao động ở Việt Nam. Tác giả đưa ra khái niệm thị trường

sức lao động, những biểu hiện của thị trường sức lao động; các yếu tố tác động

dến thị trường sức lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những

đặc thù riêng cho từng loại sức lao động, trong đó có sức lao động ở độ tuổi

thanh niên [19].

Các tác giả Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân với sách

tham khảo: “Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam” đã

trình bày những vấn đề lý luận về thị trường lao động và một số kinh nghiệm

quốc tế, bài học cho Việt Nam. Các tác giả trình bày khá kỹ thực trạng phát

triển thị trường lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; về cung cầu lao

động, tỷ lệ lao động tham gia vào quan hệ thị trường, vấn đề giá cả sức lao

động; việc di chuyển lao động giữa các vùng của Việt Nam, các hình thức và

kênh giao dịch trên thị trường lao động; làm sáng tỏ những vấn đề về thể chế,

hệ thống chính sách thị trường lao động. Đặc biệt, các tác giả đã nêu bật thành

tựu ban đầu và những hạn chế, thách thức, nguyên nhân, hậu quả trong phát

triển thị trường lao động ở nước ta. Sách dành dung lượng khá lớn để trình bày

một số giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường lao động ở nước ta [1].

Tác giả Đinh Công Tuấn với sách tham khảo “Giải quyết việc làm - Hệ

thống an sinh xã hội của một số nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính

– kinh tế toàn cầu”(2013) đã đưa ra những vấn đề tác động đến việc làm và

8

giải quyết việc làm ở một số nước trên thế giới. Đây là một công trình khá toàn

diện khái quát về lý luận giải quyết việc làm và thực trạng giải quyết việc làm

cho người lao động ở các nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính - kinh

tế toàn cầu. Tác giả đã chỉ ra những tác động của giai đoạn hậu khủng hoảng

như: Thất nghiệp, đói nghèo, tệ nạn xã hội và ảnh hưởng của những tác động

đó đến giải quyết việc làm ở Việt Nam [46].

* Đề tài, luận án, luận văn nghiên cứu về thị trường lao động và giải

quyết việc làm.

Đề tài cấp Nhà nước 70A – 02 – 02 “Sử dụng nguồn lao động và giải

quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần” (1994) của Bộ Lao động – Thương Binh và xã hội đã đưa ra những vấn

đề khó khăn trong giải quyết việc làm, đặc biệt là thanh niên thành thị. Đề tài

đã định hướng những vấn đề lớn về giải quyết việc làm cho người lao động khi

nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đề tài đã đánh giá

sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ chế ảnh hưởng đến cơ cấu lao

động cả về vùng miền, độ tuổi, thành phần. Đề tài đã đề xuất những nhóm giải

pháp để sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm cho người lao động, trong

đó có thanh niên. Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên cứu những biện pháp cụ

thể để giải quyết việc làm cho thanh niên - lực lượng lao động chủ yếu của nền

kinh tế [5].

Đề tài cấp Nhà nước KX – 07.05.05 “Những đặc trưng và xu hướng

biến đổi của cơ cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự

báo và kiến nghị” (1995) do Nguyễn Đình Tấn làm chủ nhiệm đã phân tích khá

kỹ về cơ cấu việc làm và tác động của nó đến cơ cấu vùng, lãnh thổ, tạo ra sự

khó khăn cho các vùng thành thị. Đề tài khái quát khá kỹ về cơ cấu vùng miền,

cơ cấu độ tuổi. Chỉ rõ những đặc điểm tâm lý – sinh lý của các loại cơ cấu này

ảnh hưởng đến chính sách an sinh xã hội của đất nước [41].

9

Tác giả Trần Văn Tuấn với nghiên cứu: “ Quản lý nhà nước về việc làm

ở Hà Nội” (1995), luận án tiến sĩ kinh tế đã luận cứ và đưa ra cơ sở đề xuất chủ

trương, chính sách, cơ chế quản lý việc làm cho người lao động di cư từ các

vùng về Thủ đô Hà Nội. Tác giả đã làm rõ cấu trúc thành phần về việc làm ở

Hà Nội bao gồm cả việc làm đã được đào tạo và việc làm phổ thông để từ đó có

những đánh giá cụ thể về các vấn đề việc làm, giải quyết việc làm ở cả cơ cấu

nông thôn – thành thị, độ tuổi, trình độ… [47].

Tác giả Đỗ Thị Xuân Phượng với đề tài: “Phát triển thị trường sức lao

động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội” (2005), luận án tiến sĩ kinh tế

đã đi từ thực trạng việc làm của lao động ở Hà Nội, các vấn đề nảy sinh để khái

quát thành giải pháp, biện pháp khắc phục. Tác giả đã khái quát thực tế từ thị

trường sức lao động và việc làm ở Hà Nội để đánh giá về vấn đề giải quyết việc

làm cho người lao động ở Hà Nội, bởi lẽ thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa -

kinh tế - chính trị của cả nước, nơi tập trung nhiều lao động từ các tỉnh, thành

phố khác nên thị trường sức lao động ở Hà Nội có diễn biến khá phức tạp về số

lượng, chất lượng, cơ cấu, thành phần. Tuy nhiên, cơ cấu lao động ở độ tuổi

thanh niên chưa được tác giả bàn sâu [32].

Tác giả Nguyễn Hòa Bình với luận văn thạc sĩ kinh tế “Phát triển nguồn

nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” (2002) đã đưa ra

một số vấn đề về lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho người lao động

trên địa bàn tỉnh giáp danh Thủ đô Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm

cơ bản, những mục tiêu cụ thể, nội dung giải quyết việc làm trên cơ sở đánh giá

thực trạng việc làm của Vĩnh Phúc. Luận văn cũng đã đề xuất một số biện pháp

cụ thể để giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện

nay. Đề tài là cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó có

lực lượng thanh niên trên một địa bàn giáp ranh với Thủ đô Hà Nội nên có

nhiều đặc điểm truyền thống, tâm lý giống với Thủ đô Hà Nội [3].

10

Tác giả Hoàng Thanh Nga với luận văn thạc sĩ: “Giải pháp hỗ trợ giải

quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội” (2010) đã đưa ra những

đặc điểm của thanh niên Thủ đô Hà Nội, đặc biệt vùng ngoại thành tác động

đến sức hút của việc làm và cơ chế tạo việc làm cho thanh niên. Đây là luận

văn chỉ rõ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, gần với đối

tượng thanh niên quận Hà Đông. Tuy nhiên, tác giả chỉ bàn đến thanh niên

ngoại thành, không đa dạng, phức tạp, không có sự biến đổi nhiều. Vùng ngoại

thành chủ yếu là các huyện nghèo của Hà Nội và các huyện của Hà Tây (cũ).

Vì vậy, luận văn chưa chỉ rõ đặc điểm, tính chất, cách thức giải quyết việc làm

cho thanh niên thuộc các quận nội thành [27].

* Các bài báo khoa học, tham luận khoa học đề cập đến thị trường lao

động và giải quyết việc là:

Tác giả Nguyễn Hữu Dũng với bài báo: “Chiến lược việc làm và đào tạo

nghề thời kỳ 2001 – 2010”, Tạp chí Lao động xã hội, số (5), 2011 đã đưa ra

những kết quả điều tra cụ thể về lao động và việc làm trong cả nước. Tác giả đã

đưa ra phương hướng và các nhóm nhiệm vụ giải pháp để giải quyết việc làm và

đào tạo nghề trong cả nước hiện nay. Trong các nhóm giải pháp đó, tác giả đã đưa

một giải pháp quan trọng về cân đối cơ cấu độ tuổi trong giải quyết việc làm. Tác

giả cũng bàn đến cơ cấu độ tuổi thanh niên, cho rằng đó là lực lượng quan trọng.

Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích nội dung, cách thức giải quyết cụ thể [11].

Tác giả Trần Mai Trang với bài báo: “Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh –

Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số (2) năm 2013 đã

khái quát những vấn đề về việc làm và giải quyết việc làm. Bài báo đã tập trung

làm rõ những vấn đề cơ bản về giải quyết việc làm cho người lao động như:

Mục tiêu, chủ thể, biện pháp giải quyết việc làm. Tuy nhiên, tác giả chưa phân

định rõ giữa nội dung và biện pháp nên nhiều vấn đề chưa được xác định cụ thể

những cách thức cần phải thực hiện [45].

11

Tác giả Trần Thị Thu Hà với nghiên cứu: “Đào tạo nghề và giải quyết

việc làm cho lao động trẻ”, Tạp chí Thanh niên, số (4) năm 2012 đã đưa ra

những nhu cầu, nguyện vọng và khát khao trong giải quyết việc làm của thanh

niên cả nước hiện nay. Tác giả chỉ ra những đặc điểm về tâm lý, sinh lý, đặc

điểm nhu cầu của lao động trẻ để xác định nội dung, yêu cầu, biện pháp giải

quyết việc làm cho đối tượng này. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ rõ những cách

thức cụ thể trong giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ, một bộ phận

đang chiếm tỷ lệ cao trong thị trường lao động hiện nay [17].

Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với

những cách tiếp cận khác nhau… Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công

trình khoa học nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm

cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội. Tuy vậy, nghiên cứu các

công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực

tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những

vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát

thực tế ở địa bàn quận Hà Đông - thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến

nghị những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên ở quận Hà Đông -

thành phố Hà Nội.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn về giải quyết việc làm, đánh giá

thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông - thành phố Hà

Nội, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm giải quyết

việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận

Hà Đông - thành phố Hà Nội.

12

- Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông

thành phố Hà Nội những năm qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm

cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu

Giải quyết việc làm cho thanh niên.

* Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu giải quyết việc làm cho thanh

niên (độ tuổi từ 18 đến 35) ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội dưới góc độ

kinh tế chính trị.

- Phạm vi không gian: Địa bàn quận Hà Đông, TP. Hà

- Phạm vi thời gian: Các số liệu khảo sát, đánh giá, các văn bản báo cáo

tổng kết của quận Hà Đông từ năm 2009 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

* Phương pháp luận nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê

Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp

luận của nhà nước, các văn kiện của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội và

Quận ủy, UBND quận Hà Đông về lao động, việc làm và giải quyết việc làm.

* Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tác giả luận văn sử dụng các

phương pháp của chuyên ngành kinh tế chính trị học để nghiên cứu như: Trừu

tượng hóa khoa học, lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,

nghiên cứu các công trình, đề tài có liên quan đã được công bố.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đề tài sử dụng các phương pháp

điều tra, khảo sát, tọa đàm với thanh niên và các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ

chức và cá nhân sử dụng lao động.

13

- Phương pháp chuyên gia: Tác giả luận văn xin ý kiến các nhà khoa học

chuyên ngành kinh tế chính trị trong Học viện và các nhà lãnh đạo, quản lý

quận Hà Đông.

- Phương pháp toán học: Xử lý số liệu điều tra, các văn kiện, báo cáo,

tổng kết của các cơ quan lãnh đạo, quản lý trên địa bàn quận Hà Đông.

6. Ý nghĩa của đề tài

Kết quả nghiên cứu của công trình sẽ góp phần luận giải, phân tích và

làm rõ hơn tính khoa học và thực tiễn giải quyết việc làm cho thanh niên, đề

xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt hơn việc làm

cho thanh niên ở quận Hà Đông - thành phố Hà Nội.

Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, nghiên cứu

hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn của quận Hà Đông và cho những ai

quan tâm tới vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông –

Thành phố Hà Nội.

7. Kết cấu của đề tài

Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, 6 tiết, kết luận và kiến nghị, danh

mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

14

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN

Ở QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm

1.1.1. Vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm

* Quan niệm về việc làm

Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã hội

loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới xung

quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi phân công lao

động xã hội phát triển, thì mỗi người tham gia lao động sản xuất với một việc làm

cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội.

Việc làm trước hết là hoạt động lao động sản xuất của con người, là hoạt

động lao động cụ thể của mỗi người lao động cụ thể trong quá trình lao động

sản xuất của xã hội. Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối quan hệ

giữa người lao động với giới tự nhiên, vì vậy việc làm cũng chịu tác động bởi

những qui luật và điều kiện tự nhiên.

Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến tính chủ động, sáng tạo của lao

động. Người lao động với kỹ năng của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất, hoạt

động trong một lĩnh vực nhất định của cơ cấu KT-XH, để tạo ra của cải vật

chất (tức là đang làm việc) - họ còn có quan hệ với nhau, quan hệ xã hội. Vì

vậy, việc làm cũng chịu tác động của các qui luật kinh tế, xã hội.

Như vậy, việc làm và lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm là

cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động diễn ra. Nếu lao động là

phạm trù vĩnh viễn, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có những

nơi, những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong khi hoạt

động lao động sản xuất của con người không bao giờ ngừng lại. Việc làm nói lên

mối quan hệ của con người với không gian, trung gian, quan hệ và những giới hạn

15

xã hội cần thiết mà trong đó một quá trình lao động cụ thể được diễn ra. Nói đến

việc làm là nói đến công việc của người lao động với những ngành nghề, công

việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao động, đáp ứng nhu cầu xã

hội, nhu cầu cá nhân của người lao động nó có tính cụ thể, tường minh.

Như vâ ̣y, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc

làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình KT-XH. Trên khía cạnh xã hội,

việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong những giới

hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là cơ sở để các mối quan

hệ xã hội tồn tại, đan xen, liên kết với nhau phát triển theo hướng lành mạnh.

Là một vấn đề KT-XH phức tạp, việc làm gắn cá nhân với xã hội - nó

không những đem lại thu nhập cho người lao động để nuôi sống bản thân họ

mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội. C.Mác đã nói: “Với những điều

kiện khác không thay đổi thì khối lượng và giá trị của sản phẩm tăng lên tỷ lệ

thuận với số lượng lao động được sử dụng” [20, tr.75].

Việc làm là một vần đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội và chính trị quan trọng

của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong những yếu

tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ

động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang tạo ra những cơ hội và

thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Chính vì vậy nhận thức

đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa ra những

giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động của xã hội.

Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của

một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã

hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là

định hướng chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm về việc làm cũng

biến đổi. Trong lịch sử cho thấy việc thay đổi những quan điểm về tương lai

trực tiếp ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm.

16

Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,

là vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 của Tổ

chức Lao động Thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái niệm

người có việc làm: “Người có việc làm là những người làm việc gì đó có được

trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người tham

gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập

gia đình không được trả tiền công hoặc hiện vật” [8, tr.15].

Về bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm

với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ

thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề,

đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm.

Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội

và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội.

Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và

“thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc

làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng với tính chất của nó, còn

thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và

khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn

giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa

con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người

lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt

động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ

thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về

giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu

sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.

Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao

động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy

17

định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị

pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu

nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.

Theo nhà khoa học nổi tiếng về kinh tế lao động người Nga A.Kotlia, đã

đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình

thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể

đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số

hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa

con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội.

Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng

là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan

hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu

chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan

điểm này thì tất cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có

được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.

Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là

sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích

trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ,

trong kinh tế phụ của các nông trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì

những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ

trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên

Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của dân cư

Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn

những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị

pháp luật Liên bang ngăn cấm”.

Theo Điều 9 Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 quy định: “Việc làm là hoạt động lao

18

động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [34]. Theo đó, một hoạt

động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện: Một là, việc làm là

những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Hai là,

người lao động được tự do hành nghề, mà hoạt động hành nghề đó không bị

pháp luật cấm – điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hai điều kiện trên có

quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa

nhận là việc làm.

Hiện nay quan niệm phổ biến cho rằng, người có việc làm không nhất

thiết phải thuộc biên chế Nhà nước như cách hiểu trong thời kỳ bao cấp trước

đổi mới năm 1986. Đồng thời, chỉ rõ: trong nền kinh tế thị trường thì việc làm

tồn tại trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực, các tổ chức, cá nhân thuộc các

thành phần kinh tế mà pháp luật không cấm và đem lại cho người lao động thu

nhập nhất định. Việc làm tồn tại trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; có việc

làm thuộc lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp; việc làm thuộc lao động

chân tay hoặc lao động trí óc… Việc làm là “sự cụ thể hóa” nền sản xuất xã hội

– đó chính là quá trình lao động, đặc trưng bản chất của con người. Lao động là

cơ sở của đời sống xã hội, là điều kiện để con người và xã hội loài người tồn tại

và phát triển không ngừng, không có nền sản xuất xã hội nào là không có việc

làm. Tuy nhiên, quy mô, cơ cấu và giá trị việc làm trong một nền sản xuất xã

hội cụ thể lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phụ

thuộc vào bản chất của quan hệ sản xuất và phụ thuộc vào quan điểm, chính

sách của Nhà nước mà nền sản xuất đó tồn tại.

Việc đổi mới nhận thức về việc làm như trên, là cơ sở của sự đổi mới về

chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, nhằm phát huy mọi nguồn lực nhất là nguồn lực con người để

giải phóng sức sản xuất. Điều đáng chú ý trong quan niệm mới hiện nay là đã

đặc biệt coi trọng khả năng tự tạo việc làm của người lao động, đã không chỉ

19

chú ý công tác quản lý và quan tâm tạo nhiều việc làm cho người lao động; mà

còn coi trọng nâng cao chất lượng, giá trị việc làm, tiến tới việc làm có năng

suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn. Chất lượng và giá trị việc làm

được đánh giá dựa trên các tiêu chí chủ yếu như: chỉ tiêu về năng suất lao động,

về hiệu quả sản xuất, về tiền lương (tiền công) và tính ổn định, lâu dài về thu

nhập của người lao động… các chỉ tiêu trên càng cao thì chất lượng và giá trị

việc làm càng cao.

Từ sự phân tích trên, tác giả luận văn quan niệm: “Việc làm là những

hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, tuân thủ các qui

định của pháp luật được trả hoặc không được trả công, lợi nhuận (tiền mặt

hoặc hiện vật)”.

Thực chất việc làm được thể hiện dưới các dạng: (1) Việc làm năng

suất hữu ích có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch vụ hữu ích cả

cho xã hội và cho từng người lao động. (2) Việc làm hợp lý dự đoán sự phân

chia một cách tối ưu người đang làm việc theo các ngành sản xuất và các khu

vực lãnh thổ của đất nước với mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng

những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu. (3) Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản

xuất sinh lợi nhuận được trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng

suất lao động cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nó dự đoán sự hiện có

những cán bộ và đội ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên nghiệp cao và

hướng tới công việc có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường

hướng vào sự phát triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được,

nhưng nó khá rộng và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy

nhiên có thể đưa ra tính chất định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như:

Mô ̣t là, mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng

dân số, thể hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho

thấy sự phụ thuộc mức độ việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số

20

sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số, được tính toán trên các con số thống

kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự phồn vinh của xã hội. Hai

là, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế - xã hội.

Về quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động

thể hiện, một mặt là đòi hỏi của KT-XH đối với người lao động, mặt khác là

đòi hỏi của người lao động về chỗ làm việc. Nó được tính theo hệ số phần trăm

giữa tổng số dân cư đang hoạt động chuyên nghiệp với số lượng toàn bộ dân số

có khả năng lao động (nguồn nhân lực). Ba là, tỉ lệ phân chia nguồn lao động

xã hội theo lĩnh vực công ích xã hội. Khi tính được hệ số việc làm bằng lao

động chuyên nghiệp ta có thể xác định được hệ số việc làm bởi việc học hành

cũng như các dạng hoạt động công ích xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ

những tỉ lệ cần thiết. Bốn là, cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo

ngành và theo khu vực kinh tế. Chỉ tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý,

tỉ lệ phân chia tiềm năng lao động theo dạng việc làm, ngành, khu vực kinh

tế...Năm là, chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hoá cấu trúc chuyên môn nghề nghiệp

của người lao động, cho phép làm rõ ràng sự phù hợp cấu trúc chuyên môn

nghiệp vụ của dân số lao động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác

định hệ thống đào tạo cán bộ là phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. (3) Việc

làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả năng lao động

trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện vọng của họ.

* Quan niệm về giải quyết việc làm

Vấn đề lao động và việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến

lược phát triển KT-XH của các địa phương cũng như cả nước. Những năm

qua, các cấp bô ̣ Đảng, chính quyền đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách thiết

thực nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ,

đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Việc làm cho người lao

đô ̣ng là một quá trình thể hiện nhiều mối quan hệ, bao gồm:

21

Mô ̣t là: Việc làm trong hiện tại, trước mắt phụ thuộc vào các yếu tố: vấn đề

tạo việc làm, đưa việc làm đến với người lao động, đưa người lao động đến với

việc làm, tạo môi trường đến với người lao động, cách thức giới thiệu việc làm...

Hai là: Tạo việc làm tiềm năng cho thanh niên: việc làm của thanh niên

không chỉ phụ thuộc vào hiện tại, trước mắt mà phải tạo ra nhu cầu việc làm.

Việc làm tiềm năng phụ thuộc vào các yếu tố: công tác quy hoạch phát triển

nền kinh tế, ngành nghề, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo ngành; theo

lĩnh vực; theo vùng, theo thành phần kinh tế, công tác đầu tư, đặc biệt là các dự

án kinh tế - xã hội của đất nước, công tác hướng nghiệp, dạy nghề, xu hướng và

nhu cầu việc làm của thanh niên...

Ba là: Thực hiện liên kết theo vùng kinh tế và tham gia vào quá trình

phân công lao động xã hội và phân công lao động khu vực và quốc tế. Việc tạo

việc làm cho thanh niên phải hướng tới quá trình liên kết, cả về quy mô, tốc độ

giữa các địa phương trong vùng mà phải mở rộng liên kết trong phạm vi rộng

trong nước và quốc tế nhằm thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội theo

hướng CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Trong thực tế, liên quan đến việc làm thì vấn đề thường được đề cập đến

là thất nghiệp - đó được coi là một vấn đề trung tâm của xã hội hiện đại. Khi

mức thất nghiệp cao, tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của người dân bị giảm

sút và rơi vào tình trạng nghèo, đói, nền kinh tế sẽ gặp khó khăn, ảnh hưởng

đến cuộc sống của các gia đình trong cộng đồng dân cư. Thất nghiệp là một

vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm thường xuyên của tất cả các quốc

gia trên thế giới, kể cả các nước phát triển.

Hiện nay có rất nhiều quan niệm về thất nghiệp, nhưng nội dung chủ yếu

của thất nghiệp vẫn xoay quanh về người lao động có khả năng làm việc, muốn

làm việc đang tích cực tìm kiếm việc làm nhưng chưa có việc làm.

P.Samuelson khẳng định: “Thất nghiệp là những người không có việc làm,

22

những người đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực tìm việc làm”

[25, tr.271]. Như vậy, thất nghiệp là hiện tượng người lao động bị mất việc làm

hoặc chưa có việc làm.

Văn phòng tổ chức lao động thế giới phân thất nghiệp thành 3 loại: (1)

Thất nghiệp do mức cầu lao động không dư (Thiếu tổng cầu của nền kinh tế).

(2) Thất nghiệp do thiếu thiết bị, hoặc thiếu những nguồn lực bổ sung. (3) Thất

nghiệp do cung - cầu lao động không ăn khớp nhau.

Ở nước ta, người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm tuổi

hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có

nhu cầu tìm việc làm: (1) Có nỗ lực đi tìm việc làm trong 4 tuần qua hoặc

không có hoạt động tìm việc làm vì các lý do không biết tìm việc làm ở đâu

hoặc tìm mãi không có việc làm. (2) Trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra

có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, và sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm

được việc làm.

Tuy nhiên những người đủ 15 tuổi trở lên nhưng thuộc các đối tượng sau

đây thì không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng

lao động: Người đang đi học; người đang làm việc nội trợ cho bản thân và gia

đình; người tàn tật, ốm đau, không có khả năng lao động hoặc bị tước quyền

lao động; người già cả hết tuổi lao động; hoặc tình trạng khác (về hưu hưởng

chế độ, chưa có nhu cầu hoạt động kinh tế).

Xác định người có việc làm, người thất nghiệp và người thiếu việc làm

là cơ sở để xây dựng chính sách giải quyết việc làm, xây dựng những luận cứ

khoa học trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

1.1.2. Thanh niên và đă ̣c điểm tâm lý – xã hô ̣i của thanh niên

* Quan niệm về thanh niên

Thanh niên là một khái niệm được sử dụng nhiều trong cuộc sống hàng

ngày với nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy trong từng trường hợp, thanh niên có

23

thể hiểu là một con người cụ thể, có khi lại được hiểu theo tính cách trẻ trung,

sôi nổi của cá nhân nhưng cũng có khi được hiểu là một nhóm người trẻ tuổi.

Đối với vấn đề việc làm, thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội

và là nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ở Việt Nam

hiện nay, hằng năm có khoảng 1,2 - 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao

động. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm toàn quốc của Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội, số lượng và tỷ lệ thanh niên tham gia hoạt động kinh tế

tăng đều từ năm 2008 đến nay.

Về mặt xã hội, thanh niên là một bộ phận đông đảo trong dân cư, những

người trong độ tuổi thanh niên (ở Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới

đều tính độ tuổi thanh niên từ 15 đến 35) chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu dân

số. Đặc điểm cơ cấu xã hội của thanh niên là: Họ là một bộ phận của tất cả các

giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo…Vì thế, thanh niên là một

nhóm nhân khẩu – xã hội, nhưng là một nhóm nhân khẩu – xã hội đặc thù.

Trong những năm qua, công tác phát triển các loại hình thanh niên hỗ trợ

nhau lập thân, lập nghiệp để phát triển sản xuất do Đoàn Thanh niên phát động

cũng được tiến hành khá mạnh mẽ. Có khoảng 67,9% số người được hỏi cho

rằng hoạt động này đã được quan tâm triển khai và 52,1% cho rằng đã được

thực hiện với kết quả tốt.

* Đặc điểm tâm lý – xã hội của thanh niên

Mô ̣t là, thanh niên có sự biến đổi nhanh về tâm lý. Thanh niên là những

người có khả năng phân tích, suy luận, ưa cái mới, có khả năng sáng tạo, thích

công bằng, mong muốn được tin cậy và có nhu cầu được khẳng định mình. Đặc

điểm này làm cho thanh niên trở thành những người nhạy bén, năng động; không

chấp nhận trì trệ, bảo thủ; sắn sàng đấu tranh cho cái mới. Song nó có thể dẫn đến

những hành động quá khích, phiêu lưu nếu không được định hướng đúng đắn.

Hai là, thanh niên là lớp người sung sức nhất, có khả năng chịu đựng

24

khó khăn gian khổ. Xã hội đã văn minh, hiện đại, nhưng dù ở thế hệ nào, thanh

niên cũng là những người có sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai.

Ba là, thanh niên là lớp người nhanh chóng trưởng thành. Đặc điểm này cũng

chỉ rõ, về mặt xã hội, thanh niên trưởng thành thường chậm hơn về mặt sinh học.

Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh

cách mạng, Đoàn Thanh nhiên đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ

nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân

tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới,

Đoàn tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt

đẹp của mình, kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng;

tổ chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bởi thế, giải quyết viê ̣c

làm cho thanh niên Viê ̣t Nam là trách nhiê ̣m của toàn xã hô ̣i.

1.2. Nội dung, sự cần thiết và nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc

làm cho thanh niên

1.2.1. Quan niệm và nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên

* Quan niê ̣m về giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên

Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc làm.

Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về giải quyết việc làm, có người có rằng:

Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm

cho người lao động, nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao động

mà còn đưa lại năng suất lao động ngày càng cao cho xã hội. Việc làm được tự

do lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.

Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất, cũng

như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển

phong phú đời sống tinh thần.

25

Quan niệm trên cho rằng: Mục tiêu của giải quyết việc làm là phải tạo ra

việc làm đầy đủ cho người lao động và phải cao hơn, đó là tạo ra tự do trong

lựa chọn việc làm để triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn lực của xã

hội. Quan niệm khác lại cho rằng: giải quyết việc làm là trách nhiệm của toàn

xã hội và người lao động nhằm cân bằng thị trường lao động, giúp người lao

động có việc làm, có thu nhập ổn định đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển

của người lao động, gia đình và xã hội. Quan niệm này cũng có sự đồng nhất

giữa những quan điểm trên về vai trò, mục tiêu giải quyết việc làm, nhưng nó

chỉ ra rõ hơn chủ thể giải quyết việc làm và mục tiêu cụ thể của giải quyết việc

làm không chỉ là lợi ích của người lao động mà là cả lợi ích xã hội.

Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là một quá trình tác động có chủ

đích của chủ thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc

làm, việc làm đầy đủ có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao chất

lượng việc làm, thu nhập ngày càng cao, ổn định để người lao động có cuộc

sống vật chất và tinh thần ngày càng cao.

Giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội vì

đây là vấn đề có liên quan đến công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; nó không chỉ

là sự quan tâm của người lao động, gia đình, mỗi quốc gia mà là vấn đề có tính

chất toàn cầu. Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu và thước đo

quan trọng nhất để đánh giá tính ưu việt của một chế độ xã hội, trình độ văn

minh của nhân loại.

Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm, vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, vấn đề giải

quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động thanh niên luôn là một

trong những định hướng cơ bản phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chính

sách lao động và giải quyết việc làm của Đảng ta là hướng vào giải phóng sức

sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm

26

năng của mọi người và toàn xã hội, coi trọng giá trị sức lao động, mở rộng cơ

hội cho mọi người đều phát triển.

Theo lý thuyết việc làm của J.M.Keynes dựa trên cơ sở tổng cầu cho

rằng: để tăng quy mô việc làm, cần mở rộng đầu tư, khối lượng đầu tư quyết

định quy mô việc làm. Để tăng khối lượng đầu tư Nhà nước cần có những

chương trình đầu tư quy mô lớn. Đồng thời, cần có những chính sách kích thích

đầu tư của tư nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính

sách thuế…). Việc mở rộng chi tiêu của Nhà nước, tăng tiêu dùng của những

người giàu, chính sách “ướp lạnh tiền công”, “tín dụng tiêu dùng” cũng được

coi là những giải pháp để tăng tổng cầu nhằm mở rộng quy mô việc làm.

Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư và tăng trưởng kinh tế cho

rằng: đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng

chậm, tỷ lệ tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng

trưởng kinh tế, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài

nguyên và nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ… để thu hút vốn đầu tư từ bên

ngoài (bao gồm cả vốn bằng ngoại tệ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, tri

thức quản lý kinh tế hiện đại…). Điều này đòi hỏi các chính sách vĩ mô của

Nhà nước vào làm tăng tổng cầu về lao động và thực hiện chính sách giá nhân

công thấp để thu hút đầu tư và tạo nhiều việc làm.

Theo C.Mác, quá trình lao động là sự kết hợp của ba yếu tố gồm: sức lao

động, đối tượng lao động và tư liệu lao động; thiếu một trong ba yếu tố đó thì

không thể diễn ra quá trình lao động được. Nói cách khác, những khách thể bao

gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung là tư liệu sản xuất) là

điều kiện tiên quyết để người lao động có việc làm. Đồng thời, tạo việc làm cho

người lao động đòi hỏi phải có hệ thống cơ chế, chính sách, biện pháp KT-XH

nhằm tạo ra và kết hợp các yếu tố cơ bản của quá trình lao động gồm tư liệu

sản xuất và sức lao động.

27

Từ sự phân tích trên, luâ ̣n văn khái quát quan niê ̣m về giải quyết viê ̣c làm

như sau: Giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách KT-XH tầm

vĩ mô và vi mô nhằm tạo ra số và chất lượng tư liệu sản xuất, số và chất lượng

sức lao động, cũng như các điều kiện KT-XH khác để kết hợp sức lao động và

tư liệu sản xuất tạo ra của cải vâ ̣t chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hô ̣i.

Khái niê ̣m Giải quyết việc làm thể hiê ̣n các vấn đề sau:

Việc giải quyết việc làm không chỉ có nhiệm vụ chức năng của Nhà nước

mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và ngay bản

thân người lao động. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm

chú trọng đến tạo công ăn việc làm cho người lao động thông qua các văn bản

quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các

cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính sách nhà nước là một trong

những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm của người lao động như

khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế tiền sử dụng

đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng điện đường, trường

trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất... Chính sách nhà nước tác

động toàn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương trình,

chiến lược phát triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực

tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động như đào tạo nguồn lao động,

tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao động phù hợp năng lực và yêu cầu...

Các biê ̣n pháp, chính sách KT-XH tầm vĩ mô và vi mô vừa phải bảo đảm

không ngừng làm tăng số và chất lượng tư liệu sản xuất; vừa phải bảo đảm cả

về số lượng và nâng cao chất lượng sức lao động. Số và chất lượng tư liệu sản

xuất phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư, sự tiến bộ của khoa học công nghê ̣

(KHCN) được áp dụng trong quá trình sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng

các tư liệu sản xuất đó. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng

dân số, quy định về độ tuổi lao động. Chất lượng sức lao động phụ thuộc vào

28

chất lượng giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao và công tác y tế chăm sóc sức

khỏe cộng đồng… Mặt khác, các biện pháp, chính sách KT-XH phải tạo ra

trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất thì mới bảo đảm tạo

nhiều việc làm cho người lao động và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về

vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động. Theo đó, hiệu quả giải quyết việc làm phụ

thuộc vào nhiều nhân tố như: quy mô việc làm; độ mở cửa nền kinh tế; quy mô

chất lượng dân số và lao động; sự phát triển các loại thị trường nhất là thị

trường hàng hóa sức lao động, các trung tâm, dịch vụ thông tin tư vấn, giới

thiệu lao động và giới thiệu việc làm.

* Quan niê ̣m về giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông

Giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông là những nỗ lực

của cả hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, hiê ̣p hội nghề nghiệp,

các doanh nghiệp, các chủ thể sử dụng lao động cùng chính nỗ lực của thanh

niên nhằm tạo ra những điều kiện thúc đẩy việc kết hợp sức lao động thanh

niên với tư liệu sản xuất tạo ra của cải vâ ̣t chất cho xã hô ̣i, mang lại thu nhập

hợp pháp cho thanh niên, cho người sử dụng lao động và cho quận Hà Đông”.

Quan niệm trên chỉ rõ một số vấn đề sau:

Thực chất giải quyết việc làm: Là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng

tư liệu sản xuất và số, chất lượng sức lao động của thanh niên; tạo ra các điều

kiện kinh tế - xã hội khác; kết hợp sức lao động của thanh niên với tư liệu lao

động tạo ra của cải vâ ̣t chất cho xã hô ̣i trên địa bàn quận Hà Đông.

Mục tiêu giải quyết việc làm: Là tạo ra thu nhập chính đáng, hợp pháp

cho thanh niên, cho người sử dụng lao động và tạo GDP cho quận Hà Đông.

Chủ thể giải quyết việc làm: Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận Hà Đông;

Phòng Lao động Thương binh xã hội quận Hà Đông; hệ thống chính trị, Trung

tâm Giới thiệu Việc làm quận Hà Đông; Tổ chức Đoàn thanh niên các cấp;

Doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động…

29

Đối tượng giải quyết việc làm: Thanh niên trên địa bàn quận Hà Đông

(cả thanh niên đã được đào tạo và thanh niên lao động phổ thông).

* Nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên

Mô ̣t là, định hướng nghề nghiê ̣p cho thanh niên

Thanh niên bước vào cuô ̣c sống tự lâ ̣p thường lúng túng khi tìm kiếm

việc làm. Họ không xác định được con đường rõ ràng, đâu là thiên hướng của

mình để có thể phát huy. Cần việc làm và ý chí tự lập luôn thôi thúc nên họ dễ

dàng chấp nhận các công việc không phù hợp, thậm chí không liên quan đến

chuyên môn, sở trường của mình. Do đó, việc giúp thanh niên xác định rõ các

ngành nghề, và tạo cơ hô ̣i cho họ thấy mình có khả năng phát triển trong một

lĩnh vực nào phù hợp với thiên hướng vươn lên được dù là trái ngành...là rất

quan trọng để định hướng nghề nghiệp.

Trong định hướng nghề nghiê ̣p, viê ̣c giúp thanh niên thiết lập các mục

tiêu trở nên rất quan trọng. Mục tiêu của thanh niên là lựa chọn công viê ̣c phù

hợp phát huy được thế mạnh của mình, hơn nữa là bảo đảm lợi ích tài chính

giúp họ giải quyết được những nhu cầu căn cơ nhất của đời sống và kích thích

khả năng làm việc của họ. Vấn đề nữa là mục tiêu về khả năng thành công

trong công viê ̣c tức là làm được và làm tốt công việc, công viê ̣c có hiê ̣u quả.

Bởi vâ ̣y, chính quyền và tổ chức quần chúng giúp thanh niên để họ có thể xác

định được mục tiêu ngắn hạn và dài hạn đúng đắn; làm tốt vấn đề này sẽ tránh

được sự thất vọng vốn dễ dàng bộc phát ở thanh niên.

Mọi việc làm đều đòi hỏi ở thanh niên sự kiên nhẫn và nhất quán với

mục tiêu đã đặt ra. Chính quyền, đoàn thể, nhà trường cần giúp thanh niên và

bản thân thanh niên phải tránh tình trạng nhảy cóc trong công việc. Việc “nhảy

cóc” trước tiên không tạo được ấn tượng tốt trong mắt nhà tuyển dụng. Hơn

nữa, các công việc khác nhau không tạo được sự liên hệ chặt chẽ bổ sung nghề

nghiệp chuyên môn và ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp tương lai.

30

Chính quyền đoàn thể và nhà trường tích cực thực hiện các hình thức hỗ

trợ học tập, khuyến học, khuyến tài trong quá trình định hướng nghề nghiệp

cho thanh niên.

Hai là, mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm thu hút lực lượng thanh niên.

Theo lý thuyết kinh tế, người sử dụng lao đô ̣ng chỉ tăng tuyển dụng lao

động khi tiền công thực tế giảm; mà muốn thế thì tiền công danh nghĩa phải

giảm nhiều hơn mức giá chung của nền kinh tế. Song nếu vậy, thì cầu tiêu

dùng sẽ giảm, kéo theo tổng cầu giảm. Đến lượt nó, tổng cầu giảm lại làm

tổng doanh số giảm, lợi nhuận giảm làm triệt tiêu động lực đầu tư mở rộng

sản xuất...do đó người lao đô ̣ng ít có cơ hô ̣i viê ̣c làm.

Theo đó, mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm chính là đẩy mạnh phát triển kinh tế ở

địa phương, trong đó nhấn mạnh phát triển các khu, cụm công nghiệp, thu hút

số lượng lớn doanh nghiệp vào đầu tư, phát triển các doanh nghiê ̣p thu hút

nhiều lao đô ̣ng như doanh nghiê ̣p vừa và nhỏ, doanh nghiê ̣p tư nhân; trong

nông nghiê ̣p là các trang trại, các cơ sở làng nghề, kinh tế hô ̣ gia đình và các

hoạt đô ̣ng kinh tế dịch vụ ở địa phương... để từ đó tạo ra nhiều viê ̣c làm cho

người lao đô ̣ng nói chung và cho thanh niên nói riêng.

Ba là, cung ứng đủ số lượng, nâng về chất lượng lao đô ̣ng thanh niên.

Để bảo đảm cung ứng lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh của

các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tại các địa phương, cần phải xây dựng và

ban hành đề án về cung ứng lao động cho nền kinh tế địa phương trong từng

giai đoạn phát triển. Muốn vâ ̣y, phải chủ đô ̣ng khắc phục trở ngại thiếu hụt lao

động đối với sự phát triển của kinh tế địa phương, của nhiều doanh nghiệp,

nhất là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có nhu cầu tuyển dụng lớn.

Bảo đảm tăng cầu viê ̣c làm đi đôi với nâng cao số, chất lượng lao đô ̣ng

cung ứng, đòi hỏi chính quyền, đoàn thể, mô ̣t mă ̣t phải khai thác tối đa nguồn

lao động của địa phương, mặt khác phải nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

31

và điều kiện làm việc cho người lao động, nhằm bảo đảm cho lao động làm

việc ổn định lâu dài trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh và

dịch vụ. Cấp bách là phải nâng cao chất lượng đào tạo bằng việc tăng cường

cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập.

Tiếp tục xã hội hóa công tác dạy nghề và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ

sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch

vụ để nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng đúng nhu cầu tuyển dụng.

Tăng cường kinh phí hỗ trợ các dơn vị tuyển dụng lao động thông qua các

kênh như Sàn giao dịch việc làm ở địa phương, trên phương tiện thông tin đại

chúng và tuyển dụng trực tiếp tại địa phương, kết hợp liên kết với các địa

phương lân câ ̣n để bảo đảm viê ̣c làm cho lao đô ̣ng.

Các đơn vị sử dụng lao đô ̣ng có trách nhiệm trong việc trả lương, các

khoản phụ cấp xứng đáng cho người lao động. Thực hiện nghiêm túc các quy

định của pháp luật về quyền lợi, môi trường làm việc, điều kiện làm việc, sức

khỏe người lao động... Quan trọng nhất, người lao đô ̣ng nói chung, thanh niên

nói riêng phải tích cực nỗ lực nâng cao trình đô ̣ về mọi mă ̣t để đáp ứng đầy đủ

các tiêu chuẩn đă ̣t ra của người tuyển dụng lao đô ̣ng.

Bốn là, phát triển các trung tâm và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm.

Trung tâm giới thiệu việc làm của các địa phương và đoàn thể xã hô ̣i

nhằm tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ người lao đô ̣ng có việc làm, có kỹ

năng, tay nghề và tư vấn, nuôi dưỡng, phát triển ý tưởng kinh doanh nhỏ và

vừa nếu có điều kiện và nhu cầu; đồng thời, làm cầu nối giữa người lao động

với đơn vị sản xuất kinh doanh, cung cấp các dịch vụ cần thiết để người lao

động tìm đến doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và hướng đến mục tiêu

cung cấp lao động có chất lượng cho xã hội. Tổ chức các Sàn giao dịch việc

làm nhằm tạo cơ hội giao lưu, tiếp xúc tìm hiểu nhu cầu việc làm, tuyển dụng

và giới thiệu người lao động dự tuyển theo tiêu chuẩn, nhu cầu của các nhà

tuyển dụng.

32

Yêu cầu đă ̣t ra là tăng cường xây dựng các trung tâm đủ về số lượng và

nâng lên về chất lượng. Các trung tâm giới thiê ̣u viê ̣c làm phải làm tốt khai

thác các thông tin về lao động, việc làm, dạy nghề từ cơ quan Nhà nước, các

tổ chức, doanh nghiệp; phân tích và cung cấp thông tin thị trường lao động về

nhu cầu tuyển dụng, nhu cầu cần việc làm, tiêu chuẩn lao động; tổ chức dạy

các nghề có trình độ sơ cấp; liên kết dạy nghề và ký kết hợp đồng cung ứng

lao động, giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật.

Năm là, phối hợp các lực lượng, các chương trình trong giải quyết viê ̣c

làm cho thanh niên.

Giải quyết viê ̣c làm cho người lao đô ̣ng, trong có có thanh niên chỉ có

thể tiến hành tốt khi có sự phối hợp giữa cấp bô ̣ đảng, chính quyền địa phương,

các đoàn thể với nhà trường trên địa bàn, gia đình và cộng đồng xã hô ̣i. Điều

đó cho thấy tầm quan trọng cần phải phối hợp giữa các lực lượng trên.

Để làm tốt vấn đề trên, trước tiên phải xây dựng cơ chế phối hợp trên cơ

sở Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và Dạy nghề. Trong chương

trình, đề án giải quyết việc làm của chính quyền địa phương phải thể hiê ̣n rõ

phương thức phối hợp các lực lượng trên địa bàn mô ̣t cách thiết thực, tranh sa

vào hình thức, phối hợp lỏng lẻo nhằm thực hiê ̣n tốt các mục tiêu chương trình

dự án viê ̣c làm của địa phượng.

1.2.2. Sự cần thiết giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông

Việc làm cho người lao động nói chung, trong đó có một phần lớn là

thanh niên luôn là vấn đề KT-XH phức tạp, bức thiết trong các chế độ xã hội có

nền kinh tế thị trường do tính chu kì của nó gây ra. Tuy nhiên, mức độ giải

quyết vấn đề này thế nào phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế và thái độ, năng

lực của các chủ thể quản lý nhà nước. Theo đó, sự cần thiết giải quyết việc làm

ở quận Hà Đông hiện nay xuất phát từ những lý do sau:

Một là, từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội về giải quyết việc làm ở

quận Hà Đông

33

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi

quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Chính sách việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt

chính trị xã hội cũng như giáo dục con người. Việc hoạch định và thực thi

không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực

tiếp cả về kinh tế, chính trị và xã hội cho đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Quận ủy – HĐND – UBND quận Hà

Đông luôn đánh giá cao vai trò của Thanh niên, xây dựng chiến lược, giáo dục,

bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng xứng đáng kế tục sự nghiệp

cách mạng. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng,

phát triển nguồn nhân lực con người. Chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát

triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và

phát triển bền vững của Quận.

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của quận

Hà Đông nói riêng, của Thủ đô Hà Nội và của đất nước nói chung. Thiếu việc

làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không

thể giúp thanh niên bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Đối với thanh

niên, việc làm liên quan đến yếu tố đất đai, tư liệu lao động, công cụ lao động và

kỹ năng nghề nghiệp và vốn sản xuất. Các yếu tố trên kết hợp thành một chỉnh

thể tác động mạnh đến đời sống của thanh niên. Giải quyết việc làm cho thanh

niên là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động này. Nghị

quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã nêu rõ vấn đề "Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã chỉ rõ nhiệm vụ: "Nâng cao chất lượng lao động

trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên".

Muốn vậy, trước hết giải quyết việc làm đảm bảo việc làm cho thanh niên

tham gia hoạt động kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo

34

khả năng cho họ nhận được những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức

lao động của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Tạo

nhiều việc làm tạo điều kiện cho thanh niên dễ dàng lựa chọn công việc phù

hợp, tạo năng suất cao hơn và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.

Thông qua giải quyết việc làm cho thanh niên, các doanh nghiệp, công ty,

người sử dụng lao động được lựa chọn sức lao động trẻ cần thiết theo khối

lượng và chất lượng đòi hỏi của doanh nghiệp. Nhưng không phải lúc nào cũng

sẵn có lực lượng thanh niên cần thiết trong một khu vực, chính vì vậy nhờ việc

giải quyết việc làm sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin về ngành nghề, nơi nào

đang dư thừa lao động thanh niên và nơi nào thì khan hiếm lao động trẻ, cũng

như việc thanh niên cần phải trang bị những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp

gì để có thể kiếm được việc làm.

Giải quyết việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch sẽ giúp cho

cả cho người sử dụng lao động trẻ cũng như bản thân thanh niên có những kế

hoạch hoạt động trong tương lai của họ. Trong thực tế, những năm vừa qua đã

cho chúng ta thấy rằng, lao động trẻ có tay nghề cao, có óc sáng tạo, năng

động, biết thích ứng nhanh với môi trường mới thì sẽ không bao giờ thiếu việc

làm. Mặt khác, giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo ra môi trường làm

việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn cần thiết và đảm

bảo quan hệ qua lại trong tập thể lao động, cũng như giữa chủ doanh nghiệp

với lao động trẻ và các tệ nạn xã hội, đảm bảo an toàn, thoát nghèo, vươn lên

lập nghiệp.

Giải quyết việc làm cho thanh niên còn đảm bảo việc phân chia, sắp xếp

lại lao động trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường hợp cải cách, sắp

xếp lại các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, vẫn đang cổ phẩn hoá, sắp xếp lại các

doanh nghiệp đã làm cho lao động trẻ mất việc. Nhưng bên cạnh đó, cũng cho

phép thành lập nhiều doanh nghiệp mới đã giải quyết nhiều chỗ việc làm mới

35

cho lao động trẻ. Tỷ trọng lao động trẻ trong các thành phần kinh tế, các ngành

nghề, các khu vực dần thay đổi theo hướng hợp lý, thích ứng và phù hợp.

Hai là, từ nhu cầu của bản thân thanh niên

Thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn lực quan

trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hằng năm có khoảng 1,2 - 1,6

triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Theo kết quả điều tra lao động và

việc làm toàn quốc của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, số lượng và tỷ

lệ thanh niên tham gia hoạt động kinh tế tăng đều từ năm 2008 đến nay. Năm

2008, số thanh niên hoạt động kinh tế của cả nước là hơn 16 triệu người,

chiếm 67,2% tổng số thanh niên (38,7% lực lượng lao động xã hội); năm

2009, số thanh niên hoạt động kinh tế tăng thành gần 18 triệu người, chiếm

75,4% tổng số thanh niên (36,6% lực lượng lao động xã hội); năm 2010 con

số đó là 17,1 triệu người, chiếm 75,9% tổng số thanh niên (33,7% lực lượng

lao động xã hội) [10].

Thanh niên tham gia lao động trong các thành phần kinh tế đã có sự thay

đổi đáng kể, phù hợp với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang

phát triển của đất nước. Hiện nay thanh niên tham gia lao động trong khu vực

kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ là 87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài là 4% [2] (riêng tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp 4 lần so

với năm 2000). Trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ, kỹ năng lao động

của thanh niên tham gia hoạt động kinh tế ngày càng tăng cao. Lực lượng lao

động là thanh niên có trình độ trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 4,1% (năm

2008) lên 6,2% (năm 2009) và 6,5% (năm 2010); có trình độ cao đẳng, đại học

tăng nhanh từ 5,5% (năm 2008) lên 7,8% (năm 2009) và 8,7% (năm 2010).

Mỗi năm có từ 70.000 - 80.000 sinh viên hệ cao đẳng và 143.000 - 160.000

sinh viên đại học tốt nghiệp, bổ sung cho lực lượng lao động xã hội.

36

Những con số thống kê trên đây cho thấy lực lượng lao động là thanh

niên ngày càng có vị trí to lớn trong các hoạt động sản xuất, nghề nghiệp, đóng

góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thực trạng việc

làm của thanh niên trong thời gian gần đây diễn biến khá phức tạp. Tình trạng

thất nghiệp, thiếu việc làm trong thanh niên vẫn gia tăng. Theo thống kê của Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động

thiếu việc làm tăng từ 3% (năm 2008) lên 5,6% (năm 2009) và 4,1% (năm

2010), trong đó tính trên địa bàn Quận Hà Đông tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mỗi

năm từ 3-4%.

Ba là, giải quyết việc làm cho thanh niên là thực hiện phát triển kinh

tế gắn với công bằng xã hội

Vấn đề việc làm luôn có quan hệ nhân quả, tỉ lệ thuận với mức độ tăng trưởng

kinh tế. Khi kinh tế tăng trưởng sẽ góp phần hạn chế thất nghiệp, tạo nhiều việc

làm. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải mở rộng đầu tư, mở

mang ngành nghề tạo nhiều việc làm mới. Thanh niên là nguồn nhân lực hiện

có và tiềm năng của nền kinh tế. Nếu giải quyết được vấn đề việc làm cho

thanh niên thì đây sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển

kinh tế. Tuy nhiên, giải quyết việc làm cho thanh niên không chỉ góp phần thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn liên quan đến vấn đề công bằng xã hội theo

nghĩa, người lao động có đủ những tố chất và điều kiện cần thiết cần phải được

lao động (nghĩa là phải có việc làm) để có thu nhập tương ứng, phù hợp với

những đóng góp của họ. Nếu người lao động (nhất lại là thanh niên) không có

việc làm, thiếu việc làm hoặc làm những công việc nhưng được trả công không

tương xứng với giá trị sức lao động đã đóng góp, những người thiếu khả năng

nhưng được thụ hưởng thu nhập cao hơn so với đóng góp của họ cho xã hội…

đều được coi là bất công xã hội cần được giải quyết trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

37

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc

làm cho thanh niên

Giải quyết việc làm cho thanh niên là trách nhiệm chung của xã hội và là

trách nhiệm của chính bản thân lực lượng thanh niên gắn với tổ chức Đoàn

Thanh niên. Bởi vậy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho

đội ngũ này. Ở đây tập trung nghiên cứu các nhân tố: Quy mô đầu tư phát triển

sản xuất kinh doanh của địa phương; số lượng, chất lượng lao đô ̣ng thanh niên;

thị trường đầu ra; cơ chế, chính sách của Nhà nước về giải quyết viê ̣c làm cho

thanh niên; sự nỗ lực của các chủ thể trong giải quyết việc làm.

Từng nhân tố nêu trên được phân tích với các nội dung căn bản như sau:

* Quy mô đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của địa phương

Sự phát triển sản xuất kinh doanh xét về qui mô đầu tư phụ thuộc rất

lớn vào các điều kiện tự nhiên cũng như kế hoạch, chính sách phát triển kinh

tế - xã hội ở các địa phương. Nhiệm vụ của mỗi địa phương là sử dụng và

phát huy tối đa các điều kiện tự nhiên chi phối sản xuất kinh doanh, trên cơ sở

đó xây dựng kế hoạch chính sách phát triển đúng đắn, bền vững nhằm mục

tiêu quan trọng là phát triển con người – chủ thể và động lực chủ yếu của nền

sản xuất và mọi hoạt động xã hội. Đến lượt nó, hoạt động đầu tư cho phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương sẽ chi phối đến cầu về lao động của các

đơn vị sản xuất kinh doanh và do đó thanh niên sẽ có cơ hội làm việc, nếu đáp

ứng được các tiêu chí tuyển dụng. Giả định các nhân tố khác không đổi, khi

qui mô đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của địa phương càng lớn thì khả

năng giải quyết việc làm cũng lớn. Đó chính là cơ hội thuận lợi tạo việc làm

cho lao động thanh niên trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở các

địa phương. Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Chính phủ đã ban hành và

hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các

38

hình thức kinh tế các vùng phát triển, tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng từng

bước nhu cầu việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nói chung,

lao động thanh niên nói riêng.

* Số lượng, chất lượng lao đô ̣ng thanh niên

Số lượng lao đô ̣ng thanh niên là yếu tố đầu tiên để chính quyền địa

phương và doanh nghiệp dự báo có thể giải quyết được bao nhiêu viê ̣c làm

trong tổng lực lượng thanh niên đến độ tuổi lao động. Số lượng lao động

thanh niên chi phối đến giải quyết việc làm còn phải tính đến tỷ lệ thất nghiệp

ở thành phố và nông thôn. Theo tính toán của Bộ Lao động, Thương binh và

xã hội thì tình trạng thất nghiệp của thanh niên ở khu vực thành thị trong

những năm gần đây dao động từ 5-8%; trong đó, một số tỉnh, thành phố

thường có tỉ lệ thất nghiệp cao là Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Cần

Thơ… Tình trạng thất nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào cấp độ đào tạo và nhóm

ngành nghề đào tạo. Tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, số lượng sinh viên qua

đào tạo được tuyển dụng rất ít, trong khi số lượng đã tốt nghiệp ngày càng gia

tăng. Nhiều ngành đào tạo khó kiếm việc làm như nông, lâm, thuỷ sản …Điều

đó, cho thấy chất lượng lao động thanh niên là yếu tố chi phối mạnh nhất đến

khả năng giải quyết việc làm của xã hội.

Chất lượng lao đô ̣ng thanh niên là yếu tố then chốt mà người sử dụng

lao đô ̣ng dựa vào đó để tuyển dụng lao đô ̣ng. Do đó, phải nâng cao chất lượng

giáo dục hướng nghiê ̣p, bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động

thanh niên để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lao động

than niên, đáp ứng tốt hơn cầu về lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh

ở địa phương. Theo kết quả tổng hợp gần đây của Viện Nghiên cứu Thanh

niên, có tới 88,6% doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng công nhân kĩ thuật,

nhưng số người đáp ứng các tiêu chuẩn lại thấp, nơi tuyển được cao nhất cũng

chỉ đạt 56,7% nhu cầu. Qua khảo sát 50 doanh nghiệp tại Hà Nội với 33.115

39

lao động thì 7 doanh nghiệp cho biết số thanh niên được đào tạo từ các trường

nghề về chất lượng kém nhiều so với yêu cầu thực tế; 43 doanh nghiệp cho

biết họ phải đào tạo lại từ 3 tháng đến 1 năm. Với chất lượng nguồn nhân lực

thấp như vậy, khó có thể cạnh tranh trong thị trường lao động trong nước

chưa nói đến sự hội nhập quốc tế. Đây chính là mặt tiêu cực tạo nên những

khó khăn lớn của thị trường lao động, đang là những lực cản rất lớn trong vấn

đề việc làm và giải quyết việc làm.

Ngoài các yếu tố trên, còn các yếu tố khác ảnh hưởng đến vấn đề giải

quyết việc làm như: trình độ kỹ năng, phẩm chất, tính kỷ luật lao động, sức

khoẻ, thể chất... của lao động thanh niên. Phong tục, tập quán, thói quen, trình

độ dân trí, ý thức chấp hành pháp luật, trình độ văn minh của xã hội...

* Thị trường đầu ra

Thị trường đầu ra của sản xuất hàng hóa ở các địa phương trong nước

ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giải quyết việc làm cho thanh niên. Một

khi hàng hóa ứ đọng không bán được là sự phản ánh rõ nét hạn chế về trình

độ tổ chức sản xuất, kinh doanh, trình độ tay nghề của các lực lượng lao động;

từ đó dẫn đến phá sản doanh nghiệp và thất nghiệp tất yếu sẽ xảy ra. Theo đó,

nâng cao trình độ quản lý, tổ chức sản xuất của chủ thể sử dụng lao động và

nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ là nhân tố quyết định

sức sống vững bền của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Thị trường đầu ra của giáo dục đào tạo không chỉ ảnh hưởng đến trước

mắt cung cấp nhân lực chất lượng thấp cho đơn vị kinh tế, mà còn ảnh hưởng

lâu dài đến việc cung ứng nhân lực trên thị trường sức lao động. Điều đó

* Cơ chế, chính sách giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên

Để giải quyết việc làm cho thanh niên, vấn đề quan trọng hàng đầu là

Chính phủ phải tạo ra môi trường thuận lợi một mặt, để người sử dụng lao

động có thể tạo ra nhiều chỗ làm việc thu hút đáng kể lao động thanh niên, mặt

khác để bản thân lao động thanh niên có thể tự tạo việc làm…thông qua cơ chế,

40

chính sách cụ thể của Chính phủ.

Cơ chế về giải quyết việc làm cho lao động nói chung, thanh niên nói riêng

đều dựa trên sự đánh giá khách quan tình trạng thất nghiệp trên thực tế của lực

lượng lao động, trong đó đa phần ở lứa tuổi thanh niên hiện nay. Đồng thời đánh

giá rất rõ khả năng của nền kinh tế thị trường có thể thu hút số lượng lao động là

bao nhiêu trong từng thời kỳ. Việc từng bước hình thành cơ chế phân bố lao

động theo các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế chính sách xuất

khẩu lao động…sẽ tạo ra các điều kiện cho giải quyết việc làm tốt hơn.

Các chính sách về giải quyết việc làm là những chính sách chi phối trực

tiếp và gián tiếp đến cung và cầu về lao động, làm cho cung và cầu về lao động

xích lại gần nhau, phù hợp với nhau thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu

lao động với cơ cấu kinh tế. Các chính sách chủ yếu thường được đề cập đến là

chính sách phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế; chính sách về lao động, việc

làm, tiền lương, thu nhập; chính sách về đất đai; chính sách về thuế; chính sách

về giáo dục và đào tạo; chính sách về xuất khẩu lao động...

Chủ trương về tạo việc làm đã được Đảng ta nêu rõ: “Khuyến khích mọi

thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo

nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề,

thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục

phân bổ lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư các địa bàn

có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại,

đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc

làm ở nông thôn”.

* Sự nỗ lực của các chủ thể trong giải quyết việc làm

Đối với lực lượng lao động thanh niên: Cơ hội lựa chọn việc làm ngày

càng được mở rộng. Từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc của

Nhà nước, người lao động đã trở lên năng động hơn, chủ động tự tìm việc làm

trong các các sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các quan hệ

lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng

41

lực của mình và tự chủ hơn trong tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung

– cầu lao động trên thị trường.

Đối với người sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế: Họ được

khuyến khích làm giàu hợp pháp cho nên một khi các thành phần kinh tế được

quan tâm phát triển, nghĩa là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có điều kiện

đẩy mạnh đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ tạo nhiều việc làm cho người lao động.

Các chủ thể của thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,

được tự do tổ chức sản xuất kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không

cấm, mở ra khả năng to lớn giải quyết việc làm cho lao động thanh niên.

Đối với Nhà nước: Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước chi phối mạnh mẽ

đến giải quyết việc làm, nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường. Hiện nay,

thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ

chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành

chính tạo điều kiện môi trường kinh tế, pháp luật đảm bảo cho mọi người được

tự do đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và

thuê mướn lao động, cơ hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các

nguyên tắc hành chính và ý chí chủ quan của Nhà nước.

Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của

Đảng và Nhà nước. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương

trình trọng điểm của Nhà nước hiện nay được thực hiện theo phương châm:

Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn

định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính

đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân, trong đó có lực lượng thanh niên.

Tóm lại, giải quyết việc làm cho thanh niên chịu sự chi phối của các

nhân tố kinh tế - xã hội, số lượng và chất lượng lực lượng lao động thanh niên,

cơ chế và chính sách giải quyết việc làm, thị trường đầu ra, sự nỗ lực của các

chủ thể trong giải quyết việc làm. Bởi vây, để giải quyết tốt việc làm cho thanh

niên phải chú trọng phát triển mặt tích cực của các nhân tố ảnh hưởng đến việc

làm và chất lượng lao động, mặt khác, phải có những biện pháp hữu hiệu chủ

42

động nhằm triệt tiêu những mặt tiêu cực của các nhân tố đó.

* *

*

Việc làm và giải quyết việc làm là những phạm trù lý luận vừa mang

tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Việc làm là những hoạt động lao động có

ích cho bản thân, gia đình và xã hội, tuân thủ các qui định của pháp luật được

trả hoặc không được trả công, lợi nhuận (tiền mặt hoặc hiện vật). Giải quyết

việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách KT-XH tầm vĩ mô và vi mô

nhằm tạo ra số và chất lượng tư liệu sản xuất, số và chất lượng sức lao động,

cũng như các điều kiện KT-XH khác để kết hợp sức lao động và tư liệu sản

xuất tạo ra của cải vâ ̣t chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hô ̣i. Giải quyết

viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông là những nỗ lực của cả hệ thống chính

trị, các tổ chức chính trị xã hội, hiê ̣p hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các

chủ thể sử dụng lao động cùng chính nỗ lực của thanh niên nhằm tạo ra những

điều kiện thúc đẩy việc kết hợp sức lao động thanh niên với tư liệu sản xuất tạo

ra của cải vâ ̣t chất cho xã hô ̣i, mang lại thu nhập hợp pháp cho thanh niên, cho

người sử dụng lao động và cho quận Hà Đông. Luận văn đã phân tích nội dung

giải quyết việc làm cho thanh niên trên 5 vấn đề: Định hướng nghề nghiê ̣p cho

thanh niên. Mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm thu hút lực lượng thanh niên. Cung ứng

thích đáng số lượng, nâng về chất lượng lao đô ̣ng thanh niên. Phát triển các

trung tâm và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm. Phối hợp các lực lượng, các chương

trình trong giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên. Giải quyết việc làm cho thanh

niên chịu sự chi phối của các nhân tố như quy mô đầu tư phát triển sản xuất

kinh doanh của địa phương, số lượng và chất lượng lao động thanh niên, cơ chế

và chính sách giải quyết việc làm, thị trường đầu ra, sự nỗ lực của các chủ thể

trong giải quyết việc làm. Bởi vậy, để giải quyết tốt việc làm cho thanh niên

phải chú trọng phát triển mặt tích cực của các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm

và chất lượng lao động, mặt khác, phải có những biện pháp hữu hiệu chủ động

nhằm triệt tiêu những mặt tiêu cực của các nhân tố đó.

43

Chương 2

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN

Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến giải quyết việc

làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội hiện nay

* Vị trí địa lý của quận Hà Đông

Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ, cách

trung tâm Hà Nội 11km về phía Tây. Quận Hà Đông nằm dọc theo Quốc lộ 6

đi Hoà Bình và trên ngã ba sông Nhuệ, sông La Khê. Phía Đông giáp huyện

Thanh Trì, quận Thanh Xuân; phía Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ

Liêm, huyện Hoài Đức; phía Tây giáp các huyện ở Quốc Oai, Hoài Đức,

Chương Mỹ; phía Nam giáp các huyện Thanh Oai, Chương Mỹ.

Năm 1888, tỉnh Hà Đông được thành lập, tỉnh lỵ đóng ở làng Cầu Đơ,

nên lúc đó được gọi là tỉnh Cầu Đơ. Năm 1904, tỉnh Cầu Đơ đổi tên là tỉnh Hà

Đông, tỉnh lỵ là thị xã Hà Đông. Năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được sáp

nhập lại thành tỉnh Hà Tây và thị xã Hà Đông trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây.

Qua 10 lần điều chỉnh địa giới hành chính, quận Hà Đông – thành phố Hà

Nội hiện nay có 17 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 17 phường, với 4.791,74

ha diện tích tự nhiên và 198.678 nhân khẩu. Nhưng quận Hà Đông là Quận nội

thành mới của Thủ đô Hà Nội nên tốc độ đô thị hóa nhanh, hiện toàn Quận diện

tích đất nông nghiệp đã bị thu hẹp nhường chỗ cho các dự án trọng điểm của

Quận và Thành phố. Nhu cầu lao động, cần việc làm ổn định của thanh niên

nói riêng và của người dân lao động nói chung là rất lớn.

* Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội

Về kinh tế: Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn ưlcj

quan trọng, là đầu vào không thể thay thế, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng

trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân. Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nằm

44

ở phía Tây Nam Hà Nội, đầu mối của nhiều tuyến đường giao thông quan

trọng, Hà Đông có vị trí chiến lược cả về chính trị, kinh tế và quân sự. Quận

Hà Đông có cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH, với tỷ

trọng công nghiệp xây dựng chiếm 53,5%, thương mại-dịch vụ-du lịch chiếm

45,5%, nông nghiệp chỉ còn 1,0%. Sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp

đã tiến những bước dài về quy mô, sản lượng, có tốc độ tăng trưởng GDP

bình quân 3 năm (2011-2013) đạt 17,7%. Từ tháng 8/2013 đến tháng 8/2014,

Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh của

quận Hà Đông đạt gần 1.821 tỷ đồng; tổng thu ngân sách nhà nước đạt

1.964,5 tỷ đồng. Chính vì vậy mà tác động đến việc giải quyết việc làm cho

Thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Về đầu tư-xây dựng: Hà Đông đã và đang triển khai xây dựng nhiều khu

đô thị mới: Văn Quán, Mỗ Lao, Văn Phú, Lê Trọng Tấn, trục đô thị phía

Bắc…, các trường đại học, các bệnh viện quốc tế với số vốn huy động đầu tư

hàng chục tỷ đôla. Từ đầu năm đến nay, quận đã có 32 công trình được duyệt

quyết toán, 44 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, 108 công trình đang thi

công, 39 công trình đã được phê duyệt đầu tư, 161 công trình đang thực hiện

thủ tục chuẩn bị đầu tư để trình duyệt.

Về làng nghề: Hà Đông có nghề dệt lụa từ lâu với làng lụa Vạn Phúc nổi

tiếng. Đây là một thế mạnh của việc phát triển dịch vụ du lịch kết hợp với tham

quan các làng nghề của vùng. Ngoài ra còn có làng the La Khê, làng rèn Đa Sỹ…

Về giáo dục: Hiện quận Hà Đông có 65 trường mầm non, tiểu học, trung

học cơ sở, trung học phổ thông cả công lập và tư thục, trong đó có 15 trường

học đạt chuẩn quốc gia; 11 trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghịêp

đóng trên địa bàn quận.

Về văn hóa-xã hội: Từ năm 1990, Hà Đông là địa bàn điển hình của tỉnh

Hà Tây về phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, khu phố, cơ quan, đơn

45

vị văn hóa. Năm 2013, có 88% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa; 27

khu phố, 82 cơ quan đạt danh hiệu văn hóa.

* Quan hệ cung - cầu về lao đô ̣ng

Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu KT-XH đáng

phấn khởi. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong những năm trước đây

quá nhanh, nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo

việc làm không tăng kịp so với tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Trên thực

tế số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm vẫn lớn hơn nhiều so với chỗ

làm việc có thể tạo ra, đó là một sức ép lớn.

Ở quận Hà Đông hiện nay, quan hệ cung – cầu về lao động trên thị trường

có những biểu hiện sau:

Một là, trên phạm vi toàn Quận, cung lớn hơn cầu về lao động và tình

trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn đến sức ép rất lớn về việc

làm, vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược lựa chọn công nghệ

chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch,

nhưng diễn ra chậm chạp và khó khăn. Cung lớn hơn cầu về lao động do lao

động còn tăng với tỷ lệ cao.

Hai là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu, dẫn

đến tình trạng “thất nghiệp kết cấu”. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành

tiềm năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra

được nhiều điều kiện để biến khả năng thành hiện thực.

2.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên quận Hà Đông

những năm qua

2.2.1. Thành tựu giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên và nguyên nhân

* Thành tựu giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông

Mô ̣t là, định hướng nghề nghiê ̣p cho thanh niên đã được chính quyền các

cấp, các đơn vị kinh tế - xã hô ̣i - nghề nghiê ̣p trên địa bàn quâ ̣n quan tâm chú ý

46

Từ năm 2009 đến nay, nhờ có sự quan tâm chỉ đạo của Quận ủy - Ủy ban

nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể của quận Hà Đông, vấn đề định hướng

nghề nghiê ̣p cho thanh niên đã thu được những kết quả khả quan bước đầu.

Định hướng đúng đắn về nhâ ̣n thức để các cấp các ngành phát huy vai trò

của mình trong tạo việc làm cho thanh niên. Theo đó, quận Hà Đông xác định

viê ̣c làm cho thanh niên, không chỉ là nhiệm vụ của các thành phần kinh tế, các

ngành, mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Nhâ ̣n thức đi liền với điều kiê ̣n, vì

thế thông qua Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hàng năm đã và đang góp phần

làm thay đổi nhận thức của Thanh niên. Từ chỗ trông chờ hoàn toàn vào Nhà

nước, đến nay thanh niên đã xác định mục tiêu tự tạo việc làm và có viê ̣c làm

ổn định cho mình là chính và cho người khác thông qua xây dựng các cơ sở sản

xuất, chế biến, làm thủ công mỹ nghê ̣, làm đẹp, bán hàng...

Chính quyền Thành phố và Quâ ̣n có trách nhiệm tạo ra môi trường pháp

luật, kinh tế thuận lợi, hỗ trợ một phần về vốn để thanh niên lâ ̣p thân, lâ ̣p

nghiê ̣p. Với nguồn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm (xem bảng 2.1),

trong năm 2011 quận Hà Đông đã xét duyệt cho toàn quận 04 dự án với tổng

vốn là 1.762 triệu đồng đã tạo việc làm cho 881 lao động mà phần lớn là thanh

niên, năm 2012 tổng vốn là 2.587 triệu đồng đã tạo việc làm cho 1.293 lao

động, năm 2013 tổng vốn là 3.246 triệu đồng đã tạo việc làm cho 1.623 lao

động. Đây có thể coi là sự định hướng rất đúng đắn của Đảng bô ̣, chính quyền,

các đoàn thể, đơn vị kinh tế – xã hô ̣i – nghề nghiê ̣p trên địa bàn quâ ̣n.

Bảng 2.1: Số dự án và tổng vốn hỗ trợ việc làm từ 2011 – 2013

ĐVT: Triệu đồng

Các tiêu chí

Số dự án Tổng vốn (triệu đồng) Lao động

Năm 2011 04 1.762 881

Năm 2012 05 2.587 1.293

Năm 2013 06 3.246 1.623

Nguồn: Ngân hàng chính sách Quận Hà Đông

47

Gần đây, định hướng cho thanh niên cơ hô ̣i tiếp câ ̣n nguồn vốn để tạo

viê ̣c làm cho mình và cho xã hô ̣i có tác dụng to lớn. Theo thống kê, từ đầu năm

đến tháng 6-2014, quận Hà Đông có khoảng 1.700 thanh niên được vay vốn

với hơn 3.5 tỷ đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội và vốn vay giải quyết việc

làm (qua kênh Trung ương Đoàn). Như vậy, với nguồn vốn vay này đã góp

phần tăng số lao động thanh niên quận Hà Đông có việc làm, giảm tỷ lệ thất

nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế của Quận. Trong

sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch khá rõ nét với xu hướng từ trồng

trọt sang chăn nuôi, phát triển các ngành nghề truyền thống địa phương.

Nguồn vốn này đã tận dụng và khai thác nội lực của mỗi gia đình, mỗi

doanh nghiệp góp phần vào sự định hướng đầu tư đúng đắn trong phát triển sản

xuất kinh doanh của các hộ gia đình, doanh nghiệp, phát triển ngành nghề

truyền thống và nâng cao mức sống của người dân quận Hà Đông.

Bên cạnh những kết quả đạt được từ việc vay vốn Quỹ quốc gia giải

quyết việc làm và ngân hàng chính sách xã hội Quận, vẫn tồn tại hạn chế như

cơ hội tiếp cận với nguồn vốn của thanh niên còn thấp. So với yêu cầu thực tế

thì số lượng trên còn nhiều hạn chế, nguyên nhân không phải là nguồn vốn ít,

mà do ngân hàng chưa tin vào thanh niên, bởi họ phần lớn còn trẻ, sống phụ

thuộc vào gia đình. Một số thanh niên đã xây dựng gia đình, muốn làm ăn lớn,

nhu cầu vốn vay nhiều, trong khi Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ cho hộ

nghèo và cận nghèo vay nhiều, nên việc vay vốn khó khăn...

Hai là, chính quyền Quâ ̣n, các đơn vị kinh tế - xã hô ̣i, các doanh nghiê ̣p,

hô ̣i nghề nghiê ̣p trên địa bàn đã có mô ̣t số biê ̣n pháp mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm

cho thanh niên.

Trong tình hình hiện nay trên địa bàn quận Hà Đông đang mở ra nhiều

doanh nghiệp tư nhân, mô hình chuyên canh sản xuất rau an toàn, thực phẩm

sạch… gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ ở địa bàn để tạo việc làm tại

48

chỗ cho thanh niên. Theo báo cáo của Phòng Lao động thương binh và xã hội

Quận cho thấy đã triển khai được 05 điểm trồng rau an toàn là phường Đồng

Mai và Yên Nghĩa, giải quyết được việc làm cho trên 300 lao động mỗi năm;

riêng những trang trại nuôi lợn lấy thực phẩm sạch cũng được UBND quận Hà

Đông quan tâm, chú trọng, bình quân mỗi trang trại đảm bảo việc làm thường

xuyên từ 10 – 15 lao động; với 9 trang trại trên đã tạo được trên 100 chỗ làm

cho người lao động; những khu phát triển nông nghiệp về nghề trồng cây cảnh

như: Đào, Hoa… ở phường Dương Nội hàng năm cũng tạo việc làm cho gần

1000 lao động.

Ngoài ra, quận Hà Đông còn tạo việc làm thông qua phát triển ngành

nghề truyền thống. Được sự giúp đỡ về cơ chế chính sách, vốn, KHCN, các

ngành nghề gia truyền ở địa phương luôn có sự phát triển cả về số lượng và

chất lượng; thông qua đó tạo việc làm tại chỗ cho thanh niên. Thực tiễn cho

thấy, các làng nghề truyền thống như: dao kéo Đa sỹ, lụa Vạn Phúc… không

chỉ được khôi phục, phát triển mà còn du nhập nhiều nghề mới: thêu khăn lụa,

dệt may gia công, nhuô ̣m…tạo cho thanh niên viê ̣c làm mới.

Đă ̣c biê ̣t, Hà Nô ̣i triển khai dự án gần 600 tỷ đồng để xây dựng Trung

tâm Nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp công

nghệ cao và xúc tiến thương mại nông nghiệp tại khu đất bãi sông Đáy thuộc

địa bàn phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Dự kiến, sau 5 năm (2015-2019)

triển khai thực hiện, dự án sẽ hình thành một trung tâm nghiên cứu ứng dụng,

chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và triển

khai các hoạt động giới thiệu, trình diễn, quảng bá mô hình điểm về nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, dịch vụ hỗ trợ, bảo quản, tiêu

thụ sản phẩm. Từ đó, tạo tiền đề, tiềm lực cho việc ứng dụng công nghệ cao

vào sản xuất nông nghiệp của Thủ đô, thu hút các nhà đầu tư, hình thành khu

sản xuất, dịch vụ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, là đầu mối giao dịch,

49

liên kết các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đó là nơi tạo cầu lớn về lao

đô ̣ng, thu hút đáng kể lao đô ̣ng thanh niên có trình đô ̣ cao đáp ứng nhiê ̣m vụ

phát triển nông nghiê ̣p công nghê ̣ cao trên địa bàn quâ ̣n Hà Đông và thành phố

Hà Nô ̣i nói chung. Đây là trung tâm mới được hình thành nên luâ ̣n văn chỉ có

thể phân tích định tính, chưa có nhiều số liê ̣u để phân tích mă ̣t định lượng.

Ba là, nâng cao chất lượng lao đô ̣ng cung ứng từng bước đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hô ̣i

Chất lượng là yếu tố cực kỳ quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh

của lao động thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trên thị trường

lao động. Chất lượng lao động thanh niên biểu hiện chủ yếu ở trình độ học

vấn và chuyên môn kỹ thuật. Từng là một trung tâm kinh tế -văn hóa-chính trị

của tỉnh Hà Tây cũ, nay là một Quận nội thành của Thủ đô Hà Nội, Hà Đông

đã rất chú trọng đến đầu tư phát triển hệ thống giáo dục phổ thông nhằm bảo

đảm dân số có trình độ văn hóa cao coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng

phát triển kinh tế – xã hô ̣i của quâ ̣n. Tuy nhiên, hiện nay trong lực lượng

thanh niên của Quận vẫn có một bộ phận không biết chữ (0,3%), trong đó đa

số là khu vực xã cũ mới lên phường. Trước tình đó, với mục tiêu xây dựng

quận Hà Đông trở thành đô thị với tốc độ phát triển nhanh, mạnh, toàn diện

và bền vững…Những ngày cuối tháng 9 năm 2014, quâ ̣n Hà Đông đã tiếp tục

phát đô ̣ng phong trào “Học cho bản thân và những người xung quanh hạnh

phúc”. Qua đó, đẩy mạnh các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu của Đề

án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” và các đề án thành phần

đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Đề án “Xóa mù chữ đến năm

2020”; Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện,

bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ”; Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt

đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020.” Các hoạt đô ̣ng thiết

thực của quâ ̣n nhằm tạo chất lượng cung lao động mà đa phần là thanh niên để

đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao đô ̣ng trên địa bàn quâ ̣n và Thành phố.

50

Bảng 2.2: Số lượng thanh niên ở quận Hà Đông chia theo

nhóm tuổi và trình độ văn hóa

Cấp I

Cấp II

Cấp III

Không biết chữ

Chia theo

Tổng

Tổng

Tổng

Tổng

Tổng số

nhóm tuổi

số

số

số

số

(người)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

(người)

(người)

(người)

(người)

44476

623

1,4

7516

16,9

36204

81,4

133

0,3

Từ 15 đến 24 tuổi

42704

2263

5,3

11872

27,8

28441

66,6

0,3

128

Từ 25 đến 34 tuổi

Tổng

87180

2886

3.35

19388

22.35

64645

74

0.3

261

Nguồn: Kết quả điều tra lao động, việc làm năm 2013 - Chi cục Thống

kê quận Hà Đông.

Từ bảng trên ta thấy: Người lao động có trình độ trung học phổ thông

chiếm tỷ lệ 74% trên tổng số người trong độ tuổi lao động từ 15-35 tuổi. Số lao

động cần chuyển đổi, đào tạo nghề tập trung chủ yếu vào lao động ở độ tuổi

từ từ 15 đến 35 tuổi, là lứa tuổi có sức khỏe, kỹ năng tiếp thu trình độ KHCN

nhanh và hiệu quả. Đây vừa là cơ hội, cũng là thách thức đặt ra đối với đào

tạo nghề của quận Hà Đông nhằm khai thác nguồn lao động trẻ, phục vụ cho

quá trình phát triển kinh tế của quận.

Chất lượng cán bộ công chức, viên chức trong đô ̣ tuổi thanh niên cấp

Quận được đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu công việc, số liệu năm 2013 cho

thấy: Đối với khối hành chính có 149 người, trong đó trình độ thạc sỹ 11

người, đại học 123 người, cao đẳng 2 người, trung cấp 7 người, đào tạo khác 7

người; Đối với khối sự nghiệp có 1790 người, trong đó: trình độ thạc sỹ 17

người, đại học 1.124 người, trung cấp 176 người, đào tạo khác 34 người.

Bên cạnh trình độ văn hóa, một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh giá chất

lượng lao động chính là trình độ chuyên môn, kỹ thuật. Đây cũng là căn cứ để

Quận xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo nghề, đưa ra các phương hướng

51

đào tạo, hỗ trợ cho người lao động tham gia học nghề.

Đồ thị 2.1: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên chia theo nhóm tuổi

và trình độ chuyên môn

Error! Objects cannot be created from editing field codes.

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 - Chi cục Thống kê quận Hà Đông.

Theo kết quả điều tra có 62.727 người đã qua đào tạo chiếm 35,4 % trên

tổng số 177.194 người từ 15 tuổi trở lên. Trong đó có 46.601 người đã qua đào

tạo từ trung học chuyên nghiệp trở lên chiếm 74,3%, có 11.872 người học nghề

hoặc có trình độ tương đương chiếm 18,9%, có 4.254 người qua đào tạo dạy

nghề dài hạn chiếm 6,8% trong tổng số người có chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ

lao động có trình độ công nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học trở lên có xu hướng

tăng, thể hiện sự vận động tích cực của phát triển nguồn nhân lực. Đây là thành

tựu rất quan trọng của Quâ ̣n về chất lương cung lao đô ̣ng thanh niên.

Bốn là, phát triển các trung tâm dạy nghề và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm

cho thanh niên quận Hà Đông thông qua hoạt động của Trung tâm giới thiệu

việc làm quận Hà Đông và Trung tâm giới thiệu việc làm số 2 Hà Nội có nhiều

tiến bô ̣.

Tư vấn đào tạo nghề nghiệp là một trong các nhiệm vụ của các Tổ chức

giới thiệu việc làm, được thể hiện trong Bộ Luật lao động, Nghị định số 72/CP

ngày 31/10/1995 và Thông tư số 08/LĐTBXH-TT ngày 10/3/1997 của Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội. Các trung tâm giới thiê ̣u việc làm đã tư vấn

việc làm và tư vấn học nghề, kết hợp tư vấn nghề với giới thiệu việc làm cho

người lao động đặc biệt là Thanh niên. Quận ủy - HĐND - UBND đã ban hành

nhiều văn bản chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể của Quận phối hợp với Phòng

Lao động TB&XH và Trung tâm Giới thiệu thiệu việc làm của Quận tổ chức

tuyên truyền, mở nhiều lớp học nghề ngắn hạn miễn phí cho thanh niên và

nhân dân lao động không có việc làm ở quận Hà Đông. Điều đó thể hiê ̣n ở bảng

52

2.2 dưới đây:

Bảng 2.3: Kết quả đào tạo cho người lao động ở quận Hà Đông

theo loại hình đào tạo

Số lượng

Tỷ lệ(%)

Chỉ tiêu

2011

2012

2013 2012/2011 2013/2011 2013/2012

Dưới 3 tháng

325

418

405

128.6

124.6

96.9

Sơ cấp nghề

500

2350

2500

490.00

520.00

106.12

Trung cấp nghề

171

205

265

119.88

154.97

129.27

Cao đẳng nghề

50

135

116

270.00

232.00

85.93

Tổng số

1046

3108

3286

297.13

314.15

105.72

Nguồn: Báo cáo tình hình đào tạo nghề 2011-2013. Phòng Lao động,

Thương binh và xã hô ̣i quận Hà Đông.

Chính sách đối với người học nghề cũng có vai trò gián tiếp tích cực để

giúp thanh niên tìm được việc làm. Thông qua các chính sách ưu đãi có định

hướng trong giáo dục đã góp phần thu hút thanh niên vào học nghề có nhiều

ưu đãi hơn thay cho việc phải vào được đại học khó khăn và tốn kém hơn.

Nghị định số 02/2001/NĐ-CP ngày 09/01/2001, Nghị định số 73/1999/NĐ-

CP, Quyết định 1956/QĐ-TTg đã khẳng định, Nhà nước khuyến khích các tổ

chức và cá nhân huy động nguồn lực trong nhân dân và trong các tổ chức

thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động dạy nghề. Các quy

định này tạo nên sự đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề, góp phần giúp

người lao động nói chung và thanh niên Hà Đông nói riêng dễ dàng tiếp cận

với đào tạo nghề.

Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 quy định chi tiết việc thi

hành một số điều của Luật Giáo dục, trong đó cụ thể hoá chính sách đối với

người học nghề như quy định đối tượng hưởng chính sách ưu tiên trong tuyển

53

sinh, xét tốt nghiệp, cấp học bổng, miễn giảm học phí... nhằm thu hút ngày

càng nhiều học sinh tốt nghiệp PTTH vào học các trường nghề, hạn chế tình

trạng đổ xô vào các trường ĐH, CĐ như trước đây. Chương trình cho vay học

sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ (những năm trước 300.000/tháng, nay được vay tối đa 800.000 đồng cho

học ĐH, CĐ); Ngoài ra còn một số văn bản đã hướng dẫn thực hiện chế độ

học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh các cơ sở đào tạo nghề nghiệp...

Các chính sách ưu đãi trong giáo dục, đào tạo dạy nghề nói trên giúp

những thanh niên gặp khó khăn không thể học nghề nay có điều kiện được

học nghề. Đây mà một trong những chính sách hỗ trợ một cách gián tiếp đến

tạo việc làm cho thanh niên.

Ở quân Hà Đông, chỉ tính riêng số quân nhân xuất ngũ mà hầu hết số

quân nhân này cơ bản xuất phát điểm từ nông thôn, trình độ học vấn còn hạn

chế, tuổi đời còn trẻ, do vâ ̣y việc hỗ trợ đào tạo nghề ngay sau khi rời quân

ngũ được quâ ̣n Hà Đông quan tâm, tạo điều kiê ̣n. Tính từ năm 2011 đến tháng

7 năm 2014 quâ ̣n Hà Đông đã tổ chức đón 529 quân nhân xuất ngũ trở về và

có 299 quân nhân đăng ký tham gia đào tạo nghề, số còn lại tự tạo việc làm.

Căn cứ vào nguyê ̣n vọng, sở thích, lứa tuổi, sức khỏe và điều kiện, hoàn cảnh

của từng người, Phòng Lao đô ̣ng, Thương binh và Xã hô ̣i quâ ̣n đã phối hợp

với Trung tâm Giới thiê ̣u việc làm của Quận, đã tư vấn, hỗ trợ học nghề cho

số quân nhân trên; đa số đều có nguyện vọng đăng ký học nghề lái xe ô tô,

đào tạo vệ sỹ, bảo vệ. Sau đào tạo, cơ bản số quân nhân này đã được các

doanh nghiê ̣p, cơ sở sản xuất kinh doanh tuyển dụng nhâ ̣n vào làm viê ̣c và có

thu nhâ ̣p, mức sống tương đối ổn định.

Đạt được thành tựu trên, Thành phố Hà Nô ̣i đã chủ trương thực hiê ̣n đa

dạng hóa hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm, khuyến khích mở nhiều Trung tâm

dạy nghề, mở các trường trung cấp nghề trên địa bàn Thành phố. Toàn thành

54

phố hiện có 276 cơ sở dạy nghề, trong đó cơ sở tư nhân chiếm gần 67%. Tổng

cộng đã có 20 trường trung cấp nghề công lập trên 29 quận, huyện; 7 huyện

đã có trung tâm dạy nghề và 4 huyện khác (Mỹ Đức, Ba Vì, Phúc Thọ, Quốc

Oai) đang tiến hành xây dựng trung tâm dạy nghề. Trong 3 năm (từ 2010 đến

2012), thành phố đã đầu tư 39 tỷ đồng cho các cơ sở mua sắm trang thiết bị

phục vụ công tác dạy nghề… Ở quâ ̣n Hà Đông, hiê ̣n có 8 cơ sở dạy nghề và

nhiều cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Những cơ sở này, hàng năm tham gia

đào tạo nghề cho lao đô ̣ng thanh niên của Quâ ̣n khá lớn, góp phần bảo đảm tỷ

lệ lao động qua đào tạo năm 2015 của Quâ ̣n Hà Đông sẽ là 65%.

Năm là, hoạt đô ̣ng phối hợp các lực lượng, các chương trình trong giải

quyết viê ̣c làm cho thanh niên bước đầu đạt được hiê ̣u quả nhất định

Quận ủy, HĐND và UBND Quâ ̣n Hà Đông đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ

quan, ban ngành, cụ thể là Phòng Lao đô ̣ng - Thương binh và xã hô ̣i, các Trung

tâm đào tạo nghề, Trung tâm giới thiê ̣u viê ̣c làm của Quâ ̣n, các trường CĐ, ĐH

trên địa bàn và Đoàn Thanh niên Quâ ̣n...trong việc phối hợp tổ chức triển khai

thực hiện chương trình đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao đô ̣ng thanh

niên. Tâ ̣p trung mọi nguồn lực để hỗ trợ và tạo điều kiện cho lao đô ̣ng thanh

niên sau khi học nghề tham gia vào tổ chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ giúp

người lao động tăng thu nhập, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động

từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế tại địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Chỉ thị số 37-CT/

TW của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào

tạo nhân lực có tay nghề cao”, từng bước đáp ứng yêu cầu về nhân lực, góp

phần vào sự phát triển của đất nước và của địa phương.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Quận Hà Đông đã thực hiê ̣n một số giải pháp

lớn về việc Đoàn tham gia phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm cho

thanh niên. Hàng năm, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quận Hà Đông đã có nhiều

55

chương trình tuyên truyền, hướng nghiệp, hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh

niên, một số chương trình, mô hình điểm như: Câu lạc Bộ lập thân - lập nghiệp

của thanh niên nông thôn được bắt đầu từ năm 2008. Dưới sự chỉ đạo của Đảng

ủy, chính quyền Quâ ̣n, Câu lạc Bộ này ra đời do sự phối hợp chặt chẽ giữa Đoàn

Thanh niên với Trung tâm Giới thiệu việc làm Quận. Phong trào xung kích phát

triển KT-XH và phong trào thanh niên lập thân lập nghiệp xung phong xây dựng

kinh tế đảm nhận các dự án, công trình trọng điểm của địa phương. Mô hình trí

thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển kinh tế. Hoạt động của thanh niên tập

trung chủ yếu vào việc tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng và Nhà

nước, tham gia khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư tạo việc làm, tổ chức các

lớp học xoá mù chữ, phổ cập giáo dục, như: Dự án phổ cập tin học, nối mạng tri

thức cho thanh niên thiếu niên nông thôn do TW Đoàn TNCS HCM xây dựng và

thực hiện, trong đó có Hà Nội là thành phố được chọn thí điểm. Đó cũng là một

chương trình nhằm nâng cao chất lượng cho thanh niên, tạo điều kiện cho họ tìm

được việc làm trong khu vực phi nông nghiệp. Quận đoàn Hà Đông đã đặt ra và

thực hiê ̣n mục tiêu của chương trình phổ cập tin học căn bản, bồi dưỡng kiến

thức cơ bản về sử dụng và khai thác mạng Internet cho 500 thanh niên; hướng

dẫn 200 thiếu nhi làm quen với máy vi tính; tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề

tin học căn bản cho 1.000 thanh niên... Quận đoàn Hà Đông đã đưa 04 đội hình

phổ cập tin học - Internet về hoạt động tại 17 phường trên địa bàn Quận vào dịp

hè mỗi năm và tổ chức hội thi tin học trẻ khối Tiểu học và THCS mỗi năm. Mô

hình này được đánh giá là thành công vì đã đáp ứng lợi ích chính đáng của thanh

niên. Chương trình “Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát triển kinh

tế-xã hội”. Chương trình động viên, tổ chức và hướng dẫn đoàn viên, thanh niên

tham gia thực hiện các chương trình phát triển KT-XH của Quận, góp phần giải

quyết việc làm và nâng cao thu nhập. BCH Đoàn thanh niên phường Yên

Nghĩa phối hợp với trường Cao đẳng nghề kỹ thuật – công nghệ – kinh tế

56

SIMCO Sông Đà tổ chức các lớp đào tạo nghề cho các bạn Đoàn viên, thanh

niên trên địa bàn phường.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, HĐND-UBND và Phòng Lao

đô ̣ng, Thương binh và Xã hô ̣i quâ ̣n, Trung tâm Giới thiê ̣u viê ̣c làm quâ ̣n Hà

Đông đã phối hợp với các đơn vị, doanh nghiê ̣p tham gia tuyển dụng, tuyển

sinh tại phiên giao dịch việc làm hàng tuần mở tại Sàn giao dịch việc làm số

144 Trần Phú - Hà Đông - Hà Nội.

* Nguyên nhân thành tựu giải quyết việc làm cho thanh niên

ở quận Hà Đông

Một là, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy - HĐND - UBND Quâ ̣n

được tăng cường

Trên cơ sở chủ trương buộc các doanh nghiệp phải cam kết tuyển dụng ít

nhất 40% trở lên lao động là người địa phương vào làm việc khi các doanh

nghiệp đi vào hoạt động. Một mặt Quận ủy - HĐND - UBND quận Hà Đông

đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể phối hợp với các doanh nghiệp, các chủ dự

án đầu tư ưu tiên tuyển dụng người địa phương, nhất là thanh niên trên địa bàn.

Đối với những thanh niên không có đào tạo nghề được bố trí các công việc dịch

vụ, phục vụ, bảo vệ… những người được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu sử

dụng của doanh nghiệp thì được tuyển dụng vào đúng vị trí cần tuyển. Ngoài

ra, quận Hà Đông đã tổ chức dạy nghề miễn phí cho trên 5.000 thanh niên ở

quận Hà Đông từ năm 2009 – nay thực hiện theo quyết định số 1956 của Thủ

tướng Chính phủ về hỗ trợ chi phí đào tạo nghề và chi phí học nghề cho lao

động nông thôn, theo đó UBND Quận đã ban hành kế hoạch số 55/KH-UBND

ngày 26/02/2013 về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm

và Dạy nghề trên địa bàn quận Hà Đông giai đoạn 2013 – 2015; Công văn số

31/CV-UBND-LĐTBXH ngày 21/4/2013 của UBND quận Hà Đông về việc

dạy nghề ngắn hạn cho lao động trên địa bàn Quận… Đồng thời đã đề ra nhiều

57

biện pháp, chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho thanh niên có việc làm.

Quan trong nữa là sự định hướng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm

dài hạn, quy hoạch phát triển ngành nghề sản xuất kinh doanh có nhiều tiến

bô ̣ cho nên sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng tiến bô ̣ theo, lao động làm

viê ̣c trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức bước đầu đạt

được năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.

Hai là, các tổ chức, doanh nghiê ̣p trên địa bàn quâ ̣n và các hô ̣i nghề

nghiê ̣p đã phối hợp mô ̣t cách chủ đô ̣ng hơn trong tuyển dụng, tổ chức hoạt

động dịch vụ việc làm và đào tạo nghề tại cơ sở

Các tổ chức, doanh nghiê ̣p trên địa bàn quâ ̣n và các hô ̣i nghề nghiê ̣p

đóng vai trò quan trọng trong giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên. Ở quâ ̣n Hà

Đông, viê ̣c tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm đã mang dáng dấp chuyên

nghiệp, khoa học. Hoạt động của các trung tâm, doanh nghiệp giới thiệu việc

làm bước đầu giải quyết yêu cầu giữa đào tạo nghề với hoạt động tư vấn, giới

thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động. Sự phối hợp hoạt động giữa các

trung tâm giới thiệu việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử

dụng lao động đã được cải tiến, nhất là lĩnh vực cung cấp thông tin thị trường

lao động, do vậy thông tin thị trường lao động bước đầu tạo sự kết nối giữa

các phường trong quâ ̣n và giữa quâ ̣n với các vùng, các địa phương lân câ ̣n.

Ba là, bản thân lao đô ̣ng thanh niên có nhiều cố gắng tích cực và chủ

đô ̣ng nâng cao chất lượng lao đô ̣ng cung ứng

Bản thân Thanh niên trên cơ sở nhận thức đúng về vấn đề việc làm trong

nền kinh tế thị trường và được sự hỗ trợ tích cực có hiệu quả từ phía chính

quyền và các tổ chức xã hội khác; một bộ phận thanh niên đã tích cực tự tìm và

tạo việc làm mới cho bản thân và cho người khác có hiệu quả. Thực tế cho

thấy, mặc dù nhiều thanh niên không có khả năng học nghề, khó khăn về vốn

và các điều kiện, hoàn cảnh khác để có công việc ổn định và thu nhập cao,

58

nhưng họ đã biết tận dụng các cơ hội để tự tạo việc làm cho bản thân như: xây

dựng và phục vụ xây dựng, chở xe ôm, giúp việc gia đình, lau dọn nhà theo

giờ, phục vụ… và làm các công việc thuộc về lao động phổ thông khác. Thông

qua đó, đã có hàng trăm thanh niên có việc làm để có thu nhập. Tuy những công

việc đó không có tính ổn định và đây cũng không phải là giải pháp cơ bản, lâu dài,

song trước mắt cũng là hướng đi có hiệu quả giúp cho một bộ phận thanh niên dôi

dư có thu nhập để ổn định đời sống.

Cùng với sự nỗ lực cố gắng của cấp ủy, chính quyền các cấp từ Quận tới

cơ sở và chính bản thân thanh niên đã tạo được sự tin tưởng, tạo nguồn cho

những doanh nghiệp - người sử dụng lao động trên địa bàn Quận, vùng lân câ ̣n.

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân

Một là, định hướng nghề nghiê ̣p cho thanh niên còn chưa chi tiết cụ

thể và chưa chuyển biến tích cực trong thực tế

Đồng thời với những thành tựu khá toàn diện và to lớn về giải quyết

việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông trong thời gian qua, quá trình này

vẫn còn nhiều vấn đề đă ̣t ra cần được giải quyết đó là:

Định hướng nghề nghiê ̣p cho lao đô ̣ng thanh niên phụ thuô ̣c trước tiên

vào định hướng qui hoạch phát triển kinh tế - xã hô ̣i của Quâ ̣n. Theo đó, đánh

giá chung là quy hoạch phát triển đô thị của Quận chưa thâ ̣t gắn chặt với quy

hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiê ̣p; chưa thâ ̣t gắn với quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành ở quâ ̣n. Thực tế đó xả ra không

chỉ ở quận Hà Đông, mà ở hầu hết các Quận của thành phố Hà Nội. Điều đáng

bàn là diện tích đất nông nghiệp ở quâ ̣n bị thu hồi không phải lúc nào cũng

được sử dụng có hiệu quả, nhiều khu đô thị mặc dù đã nằm trong quy hoạch

nhưng thời gian hoàn thành đưa vào sử dụng quá dài, chính vì thế diện tích đất

để lãng phí, trong khi lao động nông nghiệp không có đất để sản xuất kinh

doanh. Kéo theo đó là sự tác động mạnh đến công ăn, việc làm, thu nhập của

59

lao động nông nghiệp. Điều này, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây

lãng phí tài nguyên đất đai và làm giảm lòng tin của người dân đối với nhà

nước và chính quyền địa phương. Nghĩa là, quá trình đô thị hóa phát triển tất

yếu nâng cao chất lượng cuộc sống trên tất cả các mặt của đời sống xã hội,

trước hết của chính người dân trong khu vực đô thị, nhưng khi vấn đề quy

hoạch không được thực hiện triệt để, hệ lụy của nó là người dân không có việc

làm, thậm chí mất việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn hơn. Con số thất

nghiê ̣p ở lứa tuổi thanh niên đã nêu ở trên là minh chứng rõ cho đánh giá này.

Từ vấn đề trên, hê ̣ quả của định hướng phát triển kinh tế - xã hô ̣i kéo

theo định hướng về đào tạo nghề, xác định mục tiêu giải quyết việc làm cho

người lao động, nhất là thanh niên chưa theo kịp thực tế. Định hướng cho thanh

niên tiếp câ ̣n các nguồn vốn để lâ ̣p nghiê ̣p tạo viê ̣c làm cho mình, giải quyết

viê ̣c làm cho người khác gă ̣p rất nhiều khó khăn.

Hai là, mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm còn gặp nhiều khó khăn chưa đủ sức

giải quyết sự mất cân đối cung - cầu việc làm của lao động thanh niên

Là một quận lớn từng là trung tâm đầu não về kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội của tỉnh Hà Tây cũ, Hà Đông đang trong quá trình chuyển dịch mạnh cơ

cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng hợp lý. Trên địa bàn Quận

đang có sự hình thành các trung tâm công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp

công nghệ cao điển hình như Khu sản xuất, dịch vụ nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao tại khu đồng Bãi thuộc phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông; đã

hình thành Khu dịch vụ cao cấp và trung tâm thương mại khá lớn như Plaza

Hà Đông. Điều đó dẫn đến nhu cầu sử dụng số lượng lớn lao động thanh niên

được đào tạo chuyên môn sâu, chất lượng tốt, trong khi đa phần thanh niên và

người lao động địa phương lại không đáp ứng được về mặt chất lượng. Bởi

vậy, hiện có rất nhiều doanh nghiệp đang khó khăn trong tuyển dụng lao động.

Hơn nữa sự phát triển kinh tế trên địa bàn Quận đang gặp khó khăn, nhiều

60

doanh nghiệp đóng cửa sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng dẫn đến cầu lao

động giảm sâu. Đó thực sự là bài toán cần lời giải của Đảng bộ, chính quyền,

đoàn thể và nhân dân quận Hà Đông.

Ba là, chất lượng lao đô ̣ng cung ứng chưa bảo đảm“hàng hóa”cho thị

trường sức lao động

Ở quận Hà Đông hiện còn một bộ phận không nhỏ thanh niên có nhận

thức rất hạn chế, chưa có khả năng tự tạo việc làm và việc làm ổn định bảo

đảm thu nhập, từng bước cải thiện đời sống. Chính do ngại lao động, ỷ lại vào

người khác, tầm nhìn hạn chế cho nên không tự khắc phục được những khó

khăn, thiếu ý chí vươn lên trong học tập nâng cao trình độ về mọi mặt dẫn đến

bản thân không thể bắt nhịp với yêu cầu phát triển việc làm hiện tại.

Năng lực chuyên môn để thực hiện công việc của lao động qua đào tạo

nghề đáp ứng một phần theo yêu cầu của doanh nghiệp, có 12,44% doanh

nghiệp nhận định lao động đáp ứng hoàn toàn được yêu cầu và 68,89% doanh

nghiệp tạm chấp nhận được chất lượng của lao động. Tuy nhiên, ngoài kỹ

năng chuyên môn thì các kỹ năng mềm khác của lao động trẻ để đáp ứng

được công việc lại rất hạn chế. Trình độ ngoại ngữ/tin học của lao động trẻ

đáp ứng công việc theo cầu của doanh nghiệp chỉ đạt 28,44%, kỹ năng giao

tiếp và làm việc nhóm, tính kỷ luật và tác phong công nghiệp, khả năng sáng

tạo và tính chủ động đáp ứng được công việc chưa đến 60%.

Cũng theo ý kiến của các doanh nghiệp, việc tuyển dụng lao động

thanh niên qua đào tạo nghề còn gặp nhiều khó khăn. Khi tuyển dụng vào

doanh nghiệp, lao động thanh niên qua đào tạo nghề còn phải đào tạo thêm về

kỹ năng tay nghề cũng như những kỹ năng mềm khác (ngoại ngữ/tin học, kỹ

năng giao tiếp và làm việc nhóm, tính kỷ luật và tác phong công nghiệp, hiểu

biết về pháp luật có liên quan), trong đó, nâng cao kỹ năng tay nghề là điều

các doanh nghiệp chú trọng. Chính những kỹ năng này quyết định trực tiếp

đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra cũng như đảm bảo tiến độ trong sản

61

xuất. Sự phân tích trên đây cho thấy, chất lượng “hàng hóa” cung cấp cho thị

trường nhìn chung chưa bảo đảm và tất yếu làm cho mâu thuẫn giữa cung và

cầu việc làm cho thanh niên ngày càng khó giải quyết.

Bốn là, phát triển các trung tâm dạy nghề còn ít về số lượng, hạn chế về

chất lượng và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c còn chưa đa dạng

Hà Đông là mô ̣t trong số ít quâ ̣n, huyê ̣n của Thành phố Hà Nô ̣i có từ 8

trung tâm dạy nghề công lâ ̣p trở lên. Đây có thể coi là con số thấp, mă ̣c dù còn

có hàng trăm cơ sở trên địa bàn quâ ̣n tham gia trực tiếp hoă ̣c gián tiếp đào tạo

nghề. Bên cạnh đó chất lượng đào tạo dạy nghề còn hạn chế thể hiê ̣n ở chỗ

chương trình dạy nghề còn cơ sở vâ ̣t chất thiếu, giáo viên chưa thâ ̣t đáp ứng

yêu cầu đào tạo. Hiện nay trên địa bàn Quận và vùng xung quanh Quận có đến

46,67% trường Trung cấp nghề không đạt chuẩn, 25,45% Trung tâm dạy nghề

chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định. Phần lớn các trường chưa đạt tiêu chuẩn về

diện tích phòng học, giảng đường theo quy định (1,3 m2/học sinh). Số lượng và

chất lượng các Trung tâm dạy nghề, các Trường trung cấp nghề trên địa bàn

quận và vùng lân cận đã ảnh hưởng không tốt đến đầu ra và tất nhiên khả năng

có việc làm của lao động thanh niên qua đào tạo nghề là khá bấp bênh.

Tại Trung tâm giới thiệu việc làm quận Hà Đông, hoạt động của Sàn

giao dịch việc làm chưa đa dạng hóa hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm. Cụ thể là

chưa đa dạng hóa các hình thức thu thập thông tin, thiết lập mối quan hệ với

các doanh nghiệp chưa chặt chẽ cho nên chưa khai thác được chỗ làm việc

trống, tìm hiểu chưa sâu về kế hoạch và nhu cầu tuyển dụng của doanh

nghiệp. Hình thức tư vấn về việc làm, học nghề, học chính sách, chế độ lao

động…chất lượng không cao. Có tình trạng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh

doanh đến sàn giao dịch chủ yếu để quảng cáo, quảng bá thương hiệu mà

không gắn nội dung chính là tuyển dụng lao động. Hàng tuần Sàn giao dịch

trên địa bàn quận đều mở phiên, tuy nhiên thu hút số lượng lao động thanh

niên đến tìm việc thì đông, nhưng tuyển dụng được không nhiều như kỳ vọng.

Năm là, phối hợp các lực lượng, các chương trình trong giải quyết viê ̣c

62

làm cho thanh niên còn thiếu chặt chẽ

Quận chưa có văn bản chỉ đạo việc phối hợp giữa Phòng Lao động Thương

binh và Xã hội Quận, Trung tâm giới thiệu việc làm Quận, các ban, ngành, đoàn

thể trong Quận với các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn có nhu cầu tuyển

dụng lao động, đào tạo nghề và cung ứng lao động đã qua đào tạo chuyên môn

cần tuyển dụng đối với các doanh nghiệp, dẫn đến việc mỗi cơ quan, đơn vị

trong Quận việc ai người đấy làm, mỗi người có một cơ chế, chính sách riêng về

vấn đề giải quyết việc làm gắn với nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị, ví dụ Đoàn

Thanh niên tuyên truyền, vận động thanh niên chưa có việc làm đăng ký nhu cầu

tuyển dụng và gửi lên Phòng Lao động Thương binh và xã hội để đào tạo, không

có sự thống nhất với đơn vị tuyển dụng lao động gây nên sự không thống nhất,

lãng phí và không hợp lý trong công tác tư vấn, đào tạo và tuyển dụng. Bên cạnh

đó, sự phối hợp chưa nhịp nhàng về nội dung và chưa có thông tin đầy đủ giữa

Trung tâm giới thiệu việc làm với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cho nên người

lao động là thanh niênchưa có nhiều cơ hội tìm việc.

* Nguyên nhân hạn chế về giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông.

Thứ nhất: Chính quyền, ban ngành các cấp chưa vào cuộc một cách quyết

liệt, thực hiện hỗ trợ đào tạo dạy nghề và hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh

niên còn khá nhiều mối lo.

Chính quyền Quận chưa dành nhiều công sức để định hướng nghề

nghiệp cho thanh niên trong Quận, đặc biệt là các vùng có nguy cơ như khu

vực quy hoạch, khu vực bị thu hồi đất... Chưa có quy hoạch ưu tiên đầu tư phát

triển một số ngành thu hút nhiều lao động, chưa có chính sách cụ thể cho phát

triển trang trại, phát huy thế mạnh của các ngành nghề truyền thống ở Quận…

vì thế rất khó khăn cho hỗ trợ giải quyết việc làm trong đó phần lớn là Thanh

niên. Chậm cải cách thủ tục hành chính cũng là vấn đề cản trở đối với hỗ trợ

giải quyết việc làm cho thanh niên.

Mặc dù đã có chủ trương, chính sách của Trung ương về hỗ trợ đào tạo dạy

nghề và hỗ trợ giải quyết việc làm, song sự vào cuộc của các ban, ngành, đoàn thể

63

của chính quyền Quận còn thiếu đồng bộ, nên đào tạo nghề còn hạn chế về số

lượng và giải quyết việc làm cho thanh niên về số lượng còn chưa được như kỳ

vọng, tuy rằng tỷ lệ năm sau so với năm trước có tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu

phát triển kinh tế - xã hội [Phụ lục 7]. Vấn đề hỗ trợ đào tạo, dạy nghề còn nhiều bất

cập, thể hiện trên nhiều khía cạnh như: Quy mô đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho

thanh niên còn nhỏ, thiếu tập trung; đa số các trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ

việc làm có dạy nghề, cơ sở dạy nghề tư nhân, cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước

trong tình trạng cơ sở vật chất nghèo nàn, không theo kịp công nghệ hiện đại. Đầu

tư tài chính cho đào tạo nghề đối với lực lượng thanh niên còn ít và phân tán. Do

đó, các cơ sở đào tạo nghề cho thanh niên chưa đáp ứng về quy mô, chất lượng theo

nhu cầu của người sử dụng lao động và thị trường lao động; chương trình dạy nghề

còn hạn chế về cập nhật kiến thức mới, công nghệ mới; các chương trình thực tập,

rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh chưa được đổi mới nhanh và hiện đại hoá

phù hợp với xu thế đào tạo của các nước có hệ thống đào tạo hiện đại trong khu

vực; việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên các cơ sở đào

tạo, dạy nghề chưa được quan tâm đúng mức. Hàng năm, trong tổng số giáo viên,

số được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của hệ thống

các trường đào tạo nghề trên địa bàn Quận chỉ chiếm 3%. Đào tạo nghề ngắn hạn

còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động được đào tạo nghề hàng năm của

Quận. Các nghề này chỉ đáp ứng cho nhu cầu trước mắt, nhưng về lâu dài, việc phát

triển của các khu vực kinh tế hiện đại, các ngành nghề mới, ngành nghề có công

nghệ hiện đại... thì lao động qua đào tạo ngắn hạn phải tiếp tục được đào tạo dài hạn

để đáp ứng cho quá trình phát triển này.

Nhu cầu học nghề để có việc làm của thanh niên nhiều, nhưng nguồn

lực cho việc hỗ trợ dạy nghề cho thanh niên còn eo hẹp, tuy rằng một số nơi

như Yên Nghĩa, Đồng Mai, Kiến Hưng có tổ chức dạy nghề miễn phí, nhưng

còn mới chỉ dừng ở cấp Phường, chưa có nhiều lớp được mở ở cấp Quận.

Thứ hai: Người lao động là thanh niên số đô ̣ng còn thụ đô ̣ng, chưa tích

cực học hỏi nâng cao trình độ về mọi mă ̣t.

64

Từ phía bản thân người lao động là những thanh niên chưa tự nhận thức

phấn đấu vươn lên, tu dưỡng rèn luyện về chuyên môn, thường hay bằng lòng

với những gì mình đã có, chủ yếu dựa vào truyền thống, kinh nghiệm lâu năm

của mình, suy nghĩ thiếu sự sáng tạo, ít thay đổi để nắm bắt cái mới và đặc biệt

là về trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề của họ không đáp ứng yêu cầu sử

dụng lao động của các doanh nghiệp và trên thị trường hàng hóa sức lao động.

Ý thức kỷ luật của người lao động kém, lề lối tác phong còn mang nặng tâm lý

tiểu nông của sản xuất nhỏ... cũng là nguyên nhân không kém phần quan trọng

làm cho người lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm càng trở nên trầm trọng

như hiện nay. Một số doanh nghiệp cũng đã “ưu tiên” tuyển dụng lao động là

thanh niên tại địa bàn hoạt động nhưng chỉ một thời gian sau dã bị các doanh

nghiệp sa thải do ý thức chấp hành kỷ luật lao động của họ không đáp ứng

được yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp. Nhiều thanh niên mặc dù được các

doanh nghiệp cho đi đào tạo nghề sau đó nhận vào làm việc, nhưng chỉ một

thời gian sau họ cũng tự ý bỏ việc. Một bộ phận thanh niên nhận thức còn hạn

chế, thiếu tính hợp tác, dựa dẫm ỷ nại vào chính quyền địa phương, cũng như

sử dụng số tiền đền bù, hỗ trợ giải phóng mạt bằng chưa hợp lý... Từ đó, đã gây

ra rất nhiều khó khăn trong việc thu hút, sử dụng lao động của các doanh

nghiệp và chính sách tạo việc làm của chính quyền địa phương. Thực tiễn cho

thấy, đa số thanh niên sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng và hỗ trợ tạo

việc làm vào các mục đích tiêu dùng sinh hoạt xa xỉ đắt tiền; mà không sử dụng

đúng mục đích số tiền đó để học nghề, tạo việc làm mới bảo đảm cuộc sống lâu

dài... Do nhận thức còn hạn chế, mà một bộ phận thanh niên đang làm việc

trong các doanh nghiệp bị những phần tử xấu lôi kéo kích động tham gia đình

công, lãn công... gây cản trở khó khăn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của

doanh nghiệp; đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho doanh

nghiệp không muốn tiếp nhận lao động địa phương vào làm việc.

Thứ ba: Các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế còn nặng về lợi ích kinh tế

đơn thuần, coi nhẹ vấn đề xã hội, giải quyết việc làm cho thanh niên.

65

Có thể thấy, lợi nhuận tối đa là mục tiêu cơ bản, mang tính khách quan

trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Để đạt được mục đích

lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp không muốn tuyển dụng thanh niên có tay

nghề kỹ thuật vào làm việc. Tuy vậy, cũng phải khẳng định: các doanh nghiệp

đã quá tuyệt đối hóa mục tiêu lợi nhuận, chưa thật sự thực hiện nghiêm những

cam kết và quy định của pháp luật về sử dụng lao động là một trong những

nguyên nhân chủ quan cơ bản của những hạn chế nêu trên. Xu thế hội nhập và

mở cửa, nhận thức của con người có bước tiến đáng kể, nhu cầu tiều dùng sản

phẩm phải có chất lượng, trong khi nền kinh tế thiếu vắng những lao động có

chuyên môn kỹ thuật bậc cao, không có sự đào tạo bài bản thì không thể cho ra

những sản phẩm có chất lượng tốt. Do vậy, trình độ năng lực của lao động

thanh niên là rất quan trọng đáp ứng cho quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo

được giá trị đích thực khi đánh giá môi trường đầu tư có thuận lợi hay không.

* *

*

Luận văn tập trung phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho thanh

niên ở quận Hà Đông thời gian qua, với đánh giá chung là: Định hướng nghề

nghiê ̣p cho thanh niên đã được chính quyền các cấp, các đơn vị kinh tế - xã hô ̣i -

nghề nghiê ̣p trên địa bàn quâ ̣n quan tâm chú ý. Chính quyền quâ ̣n, các đơn vị

kinh tế - xã hô ̣i, các doanh nghiê ̣p, hô ̣i nghề nghiê ̣p trên địa bàn đã có mô ̣t số

biê ̣n pháp mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm cho thanh niên. Nâng cao chất lượng lao

đô ̣ng cung ứng từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hô ̣i. Phát

triển các trung tâm dạy nghề và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm cho thanh niên

quận Hà Đông thông qua hoạt động của Trung tâm giới thiệu việc làm quận

Hà Đông và Trung tâm giới thiệu việc làm số 2 Hà Nội có nhiều tiến bô ̣. Hoạt

đô ̣ng phối hợp các lực lượng, các chương trình trong giải quyết viê ̣c làm cho

thanh niên bước đầu đạt được hiê ̣u quả nhất định.

Bên cạnh đó, giải quyết việc làm cho thanh niên còn một số hạn chế:

Định hướng nghề nghiê ̣p cho thanh niên còn chưa chi tiết cụ thể. Chính

66

quyền, ban ngành các cấp thực hiện hỗ trợ đào tạo dạy nghề và hỗ trợ giải

quyết việc làm cho thanh niên còn khá nhiều mối lo. Lao đô ̣ng cung ứng chưa

đủ sức giải quyết mâu thuẫn cung cầu về việc làm cho thanh niên. Chất lượng

lao đô ̣ng cung ứng chưa bảo đảm“hàng hóa”cho thị trường sức lao động. Trung

tâm dạy nghề số lượng còn ít và chưa đa dạng hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm.

Hoạt đô ̣ng phối hợp các lực lượng, các chương trình trong giải quyết viê ̣c làm

còn biểu hiện chưa chặt chẽ.

Tỷ lệ lao động thanh niên qua đào tạo được tăng lên qua từng năm, song

nhìn chung chất lượng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu lao động hiện nay

trên thị trường. Đây là một trong những khó khăn khi đất nước mở cửa hội

nhập nền kinh tế thế giới; tỷ lệ gia tăng tự nhiên cao nên hàng năm số người

bước vào độ tuổi lao động ngày càng tăng, thêm vào đó là số lao động chưa có

việc làm từ năm trước chuyển sang làm cho vấn đề giải quyết việc làm trở lên

cấp thiết và khó khăn. Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành,

đoàn thể các cấp là nhân tố quyết định cho việc thành công mục tiêu về giải

quyết việc làm đã đề ra. Xuất khẩu lao động là việc làm có hiệu quả do đó đòi

hỏi, tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, đồng thời chú ý nâng cao

chất lượng đội ngũ lao động, phải xác định cơ chế, chính sách phù hợp giúp đỡ

các doanh nghiệp, hỗ trợ người lao động có điều kiện đi xuất khẩu lao động.

67

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG

THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI

3.1. Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà

Đông, thành phố Hà Nội thời gian tới

3.1.1. Phương hướng chung

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với

mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao

động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho thanh niên nói chung và sự

phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị

trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, chính quyền các cấp thành phố

Hà Nội, quận Hà Đông đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực, hiệu

quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển

đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, tạo nhiều việc

làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng tỷ

lệ sử dụng thời gian lao động, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống

nhân dân quận Hà Đông. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn chưa tương

xứng với những nỗ lực và nguồn lực bỏ ra cũng như sự kỳ vọng. Do đó, để đẩy

mạnh giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn Hà Đông trong thời gian

tới, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện quan điểm của Chiến lược phát triển

KT-XH Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015 đã được thông qua tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “Phát triển thị trường lao động trong mọi

khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của

người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”; các Nghị quyết, kế

68

hoạch, chương trình hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, Đoàn thanh

niên… Thành phố và Quận, tập trung trên một số phương hướng cơ bản sau:

- Tập trung hướng dẫn, hỗ trợ thanh niên vay vốn học nghề, lập nghiệp;

phối hợp hỗ trợ thanh niên vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh từ nguồn

vốn 120 và nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội; định hướng, tư vấn,

hỗ trợ thanh niên đi xuất khẩu lao động tại các thị trường có tiềm năng. Tiếp

tục tổ chức tốt hoạt động tư vấn, hướng nghiệp, hỗ trợ nghề nghiệp việc làm

cho học sinh trung học phổ thông, bộ đội xuất ngũ, sinh viên, học sinh trung

cấp chuyên nghiệp và các đối tượng khác.

- Các hoạt động hỗ trợ đoàn viên, thanh niên trong học tập nâng cao

trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng, nghề nghiệp và việc làm cần tiếp tục

được quan tâm và triển khai đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức như:

phối hợp tổ chức lớp phổ cập tin học, ngoại ngữ ...; tổ chức tư vấn giới thiệu

việc làm cho hơn 2000 đoàn viên thanh niên mỗi năm.

- Chỉ đạo 100% Đoàn thanh niên các cơ sở Đoàn tổ chức các hoạt động

tư vấn, hướng nghiệp cho đoàn viên thanh niên bằng nhiều hình thức phong

phú: Đội thoại trực tiếp với lãnh đạo đơn vị có nhu cầu tuyển dụng lao động để

từ đó đưa ra phương hướng đào tạo nghề cho phù hợp với các vị trí cần tuyển

dụng, tạo đàm.

- Tổ chức hội thi “Thanh niên công nhân khéo” đối với đoàn viên thanh

niên khối công nhân viên chức trực thuộc, nhằm khích lệ tinh thần, sự ham học

hỏi, trau dồi kiến thức của Thanh niên công nhân trong các doanh nghiệp tạo sự

ổn định dài lâu cho người lao động, và sự bền vững của doanh nghiệp.

- Chủ động liên hệ với các doanh nghiệp đóng chân trên địa bàn Quận để

đưa Thanh niên vào nghiên cứu thực tế, từ đó tuyên truyền đoàn viên, thanh

niên tích cực tham gia học tập, nâng cao trình độ, tay nghề phù hợp với bước

phát triển hiện nay.

69

3.1.2. Yêu cầu

Trên cơ sở những phương hướng trên, để giải quyết việc làm cho người

lao động là thanh niên quận Hà Đông đạt hiệu quả cao, cần thống nhất những

yêu cầu như sau:

Một là, cần phải có quan niệm, nhận thức đúng đắn về việc làm

Nhằm sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động, tạo mở được nhiều việc

làm, trước hết, phải có quan niệm, nhận thức đúng đắn về việc làm. Điều 13,

chương II của Bộ Luật lao động Nước cộng hòa XHCN Việt Nam xác định:

“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều

được thừa nhận là việc làm” [47, tr.42]. Với quy định trên thì tất cả những

người làm việc ở các thành phần kinh tế đều được coi là việc làm. Xóa bỏ tâm

lý nặng nề coi trọng lao động làm việc khu vực Nhà nước, coi thường và xem

nhẹ lao động việc làm trong khu vực ngoài Nhà nước.

Hai là, phải đa dạng hóa giải quyết việc làm cho thanh niên và người lao

động; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi

thành phần kinh tế cùng tạo việc làm cho người lao động

Nhà nước đã hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH, xây

dựng chương trình giải quyết việc làm. Có hệ thống chính sách ưu đãi, tạo ra

môi trường và các điều kiện để người lao động tự do làm ăn, tự do tạo việc làm

cho mình và cho người khác đúng pháp luật, phát huy mức cao nhất nhân tố

con người và khả năng sáng tạo của con người.

Thực hiện phương châm tự do lo việc làm trong các thành phần kinh tế

là chính, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Người lao động cần

chủ động sáng tạo, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác trong các thành

phần kinh tế phù hợp với pháp luật và điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp và tạo điều kiện môi trường thuận lợi của hệ thống

chính quyền các cấp, cần phát huy vai trò và huy động sự tham gia rộng rãi của

70

các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp

và mọi người dân tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên và người lao

động nói chung…

Ba là, giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển KT-XH gắn với bảo vệ

môi trường

Tạo việc làm phải gắn chặt với các chương trình phát triển KT-XH. Việc

sử dụng lao động hướng vào các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và trở thành yếu

tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Để đảm bảo tốc độ phát triển kinh tế, cần

thiết phải định hướng, lựa chọn công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao, sử dụng

lao động có kỹ thuật tạo đà cho phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng phải

tính đến phương án kết hợp lựa chọn và áp dụng công nghệ vừa sử dụng nhiều

lao động kỹ thuật thấp thích ứng với điều kiện cụ thể từng ngành, từng lĩnh vực

vừa tiết kiệm chi phí.

Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, với những hình

thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, phong phú, đan xen, hỗ trợ lẫn

nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, hình thành thị trường lao động thống nhất

và linh hoạt, tự do hóa lao động là quan điểm cơ bản nhất để hình thành chính

sách việc làm. Giải quyết việc làm phải hướng vào mục tiêu chống thất nghiệp,

khắc phục tình trạng thiếu việc làm và nâng cao hiệu quả việc làm, tăng thu

nhập. Về kinh tế giảm thất nghiệp có nghĩa là giảm sự lãng phí nguồn nhân lực,

về mặt xã hội góp phần làm ổn định xã hội.

Giải quyết việc làm và phát triển kinh tế là hai nội dung gắn chặt với

nhau đan xen vào nhau và hướng vào mục tiêu hàng đầu là sử dụng tối đa tiềm

năng lao động xã hội, cần lưu ý tới mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển kinh tế

và sự lựa chọn công nghệ. Sử dụng công nghệ tiên tiến đòi hỏi lực lượng lao

động có trình độ chuyên môn cao, có chất lượng, điều đó có thể chẳng những

không thu hút thêm được lao động – xã hội mà còn đầy một lực lượng lao động

71

không có tay nghề, hoặc tay nghề thấp ra khỏi dây chuyền sản xuất làm cho

tình trạng thất nghiệp gia tăng. Nhưng nếu chỉ lựa chọn công nghệ thấp và áp

dụng kỹ thuật thủ công có khả năng thu hút nhiều lao động giúp giải quyết việc

làm sẽ dẫn tới nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Do đó, việc lựa chọn công nghệ đòi

hỏi cần phải quan tâm đồng thời cả hai vấn đề trên.

Bốn là, giải quyết việc làm phải đảm bảo sự kết hợp thống nhất giữa

kinh tế với xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội

Giải quyết việc làm vừa là một vấn đề kinh tế, vừa là một vấn đề xã hội.

Vì vậy, giải quyết việc làm cần có sự liên kết hữu cơ các tác động kinh tế với

các tác động xã hội. Cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đều khẳng định:

không có một giải pháp kinh tế hay có một chính sách kinh tế nào lại không

mang tính chất và ý nghĩa hợp đối tượng của nó là xã hội và con người.

Việc làm không thể giải quyết được bằng quan điểm không tưởng, duy ý

chí. Muốn giải quyết được việc làm, phải tạo ra những điều kiện cần thiết như:

Vay vốn, nâng cao kiến thức làm ăn, tiêu thụ hàng hóa… để người lao động

vươn lên và tự giải quyết việc làm.

3.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho thanh niên ở

quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội thời gian tới

3.2.1. Khai thác tốt các nguồn vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát

triển kinh tế địa phương nhằm giải quyết việc làm, tạo việc làm mới cho

thanh niên

Vấn đề việc làm có liên quan trực tiếp đến thị trường sức lao động và sự

phát triển KT-XH trong điều kiện, môi trường kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Môi trường kinh tế thị trường, dưới sự tác động của các quy luật khách

quan đã tự tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, qua đó thúc đẩy giải

quyết vấn đề việc làm. Tuy nhiên, chính những khuyết tật của kinh tế thị

trường lại dẫn đến nhiều hệ lụy KT-XH khác nhau, trong đó có vấn đề việc làm

72

– thất nghiệp, đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách vĩ

mô nhằm thực hiện các mục tiêu KT-XH như mong muốn. Do đó, trong quá

trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tất yếu phải bổ sung,

hoàn thiện hệ thống chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy

giải quyết vấn đề việc làm nói chung và cho thanh niên nói riêng. Đây là yếu tố

quan trọng có tính chất quyết định để ổn định và tạo nhiều việc làm cho thanh

niên, đặc biệt là cho số lao động mới. Đó là hệ thống chính sách bảo đảm ổn

định kinh tế vĩ mô để duy trì tăng trưởng kinh tế cao và trên diện rộng, nâng

cao chất lượng tăng trưởng; đảm bảo quy mô và điều chỉnh cơ cấu đầu tư toàn

xã hội trong GDP; giảm thiểu tác động tiêu cực và rủi ro của thể chế, khủng

hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát và thiên tai; bảo vệ môi trường; nâng cao

năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước…

Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách vĩ mô có ý nghĩa hỗ trợ, thúc

đẩy giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn quận Hà Đông, cần tập

trung vào một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương Sáu (khóa

IX) về xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

Đây là một chủ trương, giải pháp lớn có ý nghĩa đột phá trong thực hiện

chiến lượng phát triển KT-XH, đòi hỏi mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức quán

triệt và tổ chức thực hiện tùy theo chức, năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên,

việc xây dựng, hoàn thiện thể chế là chức năng chủ yếu của nhà nước và hệ

thống chính quyền các cấp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự giám sát, phản

biện của Mặt trạn Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và nhân dân. Do đó, các cơ

quan quản lý nhà nước các cấp cần thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của

mình trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi thể chế, trong đó có thể chế,

chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên và người lao động. Các tổ chức

giữ vai trò giám sát, phản biện, trong đó có tổ chức Đoàn Thanh niên cũng có ý

73

nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách. Tổ

chức đoàn các cấp bên cạnh việc phải làm tốt công tác tổ chức giáo dục, tập

hợp vận động thanh niên trong các chương trình hành động, công tác của mình,

cần làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp về các vấn đề

liên quan đến việc làm cho thanh niên và thực hiện việc giám sát, phản biện

chính sách có liên quan đến vấn đề này…

Hai là, đổi mới các chính sách tài chính như hỗ trợ vốn, tín dụng ưu đãi,

miễn giảm thuế, bảo hiểm… đối với các hoạt động đào tạo nghề và giải quyết

việc làm cho thanh niên

Trên cơ sở chính sách chung, các cơ quan quản lý nhà nước của thành

phố và quận cần cụ thể hóa thành những quy định ưu đãi, thúc đẩy đối với các

chương trình, dự án đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa

bàn. Các ưu đãi này phải bảo đảm tháo gỡ được những khó khăn lớn nhất hiện

nay của thanh niên là khả năng huy động vốn và các nguồn lực cho các mục

tiêu tạo việc làm. Trên cơ sở các chương trình, dự án tạo việc làm cho thanh

niên khả thi được các tổ chức Đoàn hoặc thanh niên đề xuất, xây dựng kết hợp

sự thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, có thể tìm kiếm

sự hỗ trợ nguồn lực từ ngân sách, chỉ đạo các tổ chức tín dụng cho vay ưu đãi

dưới hình thức tín chấp, miễn giảm thuế… trực tiếp tháo gỡ các khó khăn để

bảo đảm cho các chương trình, dự án đó được triển khai thực hiện một cách

hiệu quả.

Ba là, bổ sung, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ thị trường tiêu thụ các

sản phẩm của địa phương

Bốn là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH để

tạo việc làm tại chỗ cho Thanh niên. Theo đó phát triển mạnh công nghiệp, tiểu

thủ CN trên địa bàn quận, nhất là hình thành và phát triển các khu cụm công

nghiệp, khu nông nghiệp công nghệ cao. Phát triển mạnh các hình thức kinh tế

74

dịch vụ, nhất là dịch vụ cho sản xuất và cho tiêu dùng xã hội. Đồng thời khai

thác thế mạnh của quận bảo tồn và phát huy vai trò của các nghề truyền thống

như lụa Vạn Phúc, dao kéo Đa Sỹ, Mây tre đan xuất khẩu, phát triển cơ sở sản

xuất, loại hình kinh doanh vừa và nhỏ…chuyển dịch cơ cấu kinh tế như trên

chính là bảo đảm chất lượng tăng trưởng kinh tế, từ đó tạo ra cơ hội việc làm

cho người lao động, trong đó đa số là lao động thanh niên.

Năm là, thông qua các hoạt động phối hợp của Đoàn thanh niên với các

doanh nghiệp để tổ chức Đoàn thanh niên các cấp tăng cường thu hút, tập hợp

đoàn viên, thanh niên các đơn vị doanh nghiệp ngoài Nhà nước tham gia vào

hoạt động Đoàn theo tinh thần Nghị quyết 09 của Thành uỷ Hà Nội về việc

thành lập các tổ chức Đoàn - Hội ngoài quốc doanh. Đây là một biện pháp quan

trọng nhằm đa dạng hóa hình thức hoạt động Đoàn góp phần giải quyết việc làm.

3.2.2. Xã hội hóa vấn đề giải quyết việc làm, tăng cường sự lãnh đạo

của Nhà nước, chính quyền địa phương về việc làm của thanh niên

Chính phủ và chính quyền các cấp của quận với vai trò chủ yếu là tạo

khung khổ pháp luật; tổ chức, kiểm tra thực hiện, giám sát và cũng là người tổ

chức, là “bà đỡ” tạo điều kiện cho thanh niên tự tạo việc làm hoặc tham gia thị

trường lao động. Nhà nước không bao cấp, nhưng đầu tư của Nhà nước vào

lĩnh vực dạy nghề, việc làm, giao dịch lao động là rất quan trọng, được coi là

đầu tư cho phát triển. Đồng thời, mở rộng sự tham gia của cả hệ thống chính

trị, các đối tác xã hội nhằm tăng thêm nguồn lực cùng Nhà nước giải quyết vấn

đề xã hội bức xúc nhất hiện nay là giải quyết việc làm cho thanh niên.

Nhà nước, chính quyền các cấp của quận có vai trò quan trọng trong việc

mở rộng cầu và nâng cao chất lượng cung lao động; là cầu nối giữa người lao

đông với doanh nghiệp trong việc kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối

với người lao động, Nhà nước ban hành các luật lệ, biện pháp, chính sách tạo

môi trường KT-XH thuận lợi để không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống

75

cho họ; tạo điều kiện cho họ tiếp cận với hệ thống giáo dục tiên tiến nhằm nâng

cao trình độ văn hoá, sự hiểu biết về pháp luật, ý thức chấp hành kỷ luật tác

phong lao động công nghiệp. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các cơ sở

dạy nghề, đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại nghề để nâng cao trình độ

chuyên môn, kỹ thuật tay nghề lao động và tạo cơ hội cho họ chuyển đổi nghề

hoặc tìm kiếm nghề mới thông qua đẩy mạnh phát triển kinh doanh – dịch vụ.

Phát triển mạnh thị trường hàng hoá sức lao động, các trung tâm tư vấn giới

thiệu lao động và việc làm… để làm cầu nối giữa doanh nghiệp và nông dân

trong việc kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Nhà nước tăng cường đầu

tư, thúc đẩy việc học nghề, chuyển đổi ngành nghề, phát triển kinh doanh dịch

vụ bằng cách tạo điều kiện hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm cho Thanh niên.

Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, chính quyền các cấp

của quận trong việc tạo ra môi trường hành lang pháp lý và môi trường KT-XH

cần thiết khác nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực

lượng tạo lên sức mạnh tổng hợp để bảo đảm việc làm cho Thanh niên.

Như vậy, giải quyết việc làm cho thanh niên là việc hết sức quan trọng,

là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và cộng đồng; trực tiếp là Nhà nước,

chính quyền các cấp của quận, các doanh nghiệp và chính người lao động trong

việc mở rộng cầu và nâng cao chất lượng cung lao động; đồng thời, tạo ra môi

trường KT-XH thuận lợi để cung, cầu về lao động gặp gỡ nhằm tạo nhiều việc

làm cho thanh niên.

3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm

Trong thời kì đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thị trường

xuất khẩu lao động ngày càng được đa dạng hóa và là một kênh hoạt động kinh

tế đối ngoại quan trọng. Có thể nói, đối tượng xuất khẩu lao động ở nước ta chủ

yếu là thanh niên (nước ta hầu như chưa xuất khẩu được chuyên gia và lao

động trình độ cao tuổi đời lớn). Đây được coi là một trong những biện pháp tạo

76

việc làm hiệu quả và thiết thực được nhắc tới rất nhiều trong những năm gần

đây. Các cơ quan chức năng và các công ty, tổ chức xuất khẩu lao động trên địa

bàn quận Hà Đông và thành phố cần có sự liên kết với nhau trong tổ chức, sao

cho người lao động bị thu hồi đất hoặc lao động ở các làng nghề sẽ được ưu

tiên đi trước, số còn lại mới dành cho các đối tượng khác. Tuy nhiên, để việc

xuất khẩu lao động được thuận lợi, người lao động cũng cần phải được đào tạo

cả về tiếng và về ý thức tổ chức kỷ luật cũng như về kĩ năng nghề nghiệp, kỹ

thuật công nghệ.

Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để người lao

động đi làm việc ở nước ngoài theo Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày

17/07/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động về người

lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Đây là một hướng đi mới giúp

thanh niên quận Hà Đông có điều kiện tăng thu nhập cho gia đình và tích luỹ

kinh nghiệm lao động tiên tiến ở nước ngoài.

Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động là thanh niên trên địa bàn quận, cần

thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, có chính sách khuyến khích gián tiếp qua hỗ trợ người lao động

để các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động trên địa bàn tuyển chọn

lao động Hà Đông như: tăng mức hỗ trợ kinh phí đào tạo giáo dục định hướng

cho người lao động, hỗ trợ khám sức khoẻ, làm hộ chiếu cho lao động nghèo,

chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp dành hợp đồng và

thị trường hợp đồng lao động phù hợp cho lao động Hà Đông, chính sách

thưởng cho các doanh nghiệp đưa được nhiều lao động thanh niên quận Hà

Đông đi lao động ở nước ngoài.

Hai là, để giúp người lao động là thanh niên về các khoản kinh phí đóng

góp, tiền đặt cọc trước khi đi lao động ở nước ngoài, chính quyền quận cần

trích một phần ngân sách trong nguồn thu từ đất, phối hợp với quỹ tín dụng

77

nhân dân, ngân hàng chính sách cho người lao động vay với lãi xuất ưu đãi tạo

điều kiện cho nhiều người có cơ hội đi xuất khẩu lao động. Nguồn này sau khi

thu về lại tiếp tục quay vòng cho người lao động khác có nhu cầu vay tiếp theo.

Ba là, thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động từ quận đến phường, có

lãnh đạo Đảng, chính quyền cùng các ngành đoàn thể tham gia làm nhiệm vụ

hỗ trợ, tuyên truyền vận đông người lao động nắm được chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước về vấn đề lao động việc làm, quyền lợi và nghĩa vụ của

người lao động, từ đó nâng cao nhận thức cho người dân.

Bốn là, tìm hiểu, phối hợp với các đơn vị đào tạo người đi lao động nước

ngoài để tuyên truyền, vận động thanh niên của đơn vị mình tham gia, nhằm

tạo việc làm ổn định, lâu dài.

Năm là, xúc tiến Chương trình thanh niên tham gia xuất khẩu lao động.

Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để người lao động

đi làm việc ở nước ngoài theo Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/07/2003

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động về người lao động

Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Đây là một hướng đi mới giúp thanh niên

quận Hà Đông có điều kiện tăng thu nhập cho gia đình và tích luỹ kinh nghiệm

lao động tiên tiến ở nước ngoài.

Để lao động thanh niên có thể đi ra nuóc ngoài làm việc, đòi hỏi chính

quyền các cấp trong Quận phải tthực hiện tốt các hoạt động khác như: Đầu tư

xúc tiến mở rộng thị trường mới và tăng thị phần xuất khẩu lao động ở thị

trường truyền thống; sắp xếp, đổi mới và đầu tư xây dựng các doanh nghiệp

xuất khẩu lao động mạnh, tăng doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu lao

động; đào tạo nghề, giáo dục định hướng chuẩn bị nguồn xuất khẩu lao động là

thanh niên quận Hà Đông chưa có việc làm; đổi mới tổ chức, quản lý lao động

ngoài nước đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng, chống trốn, phá hợp đồng; tạo

việc làm cho lao động xuất khẩu trở về.

78

Riêng thanh niên ở lĩnh vực nông nghiệp trong các phường tham gia vào

chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia theo các hướng sau:

Ưu tiên cho thanh niên chưa có việc làm và thất nghiệp, bộ đội xuất

ngũ...đi xuất khẩu lao động.

3.2.4. Tăng cường hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho

thanh niên

* Tăng cường hướng nghiệp, dạy nghề

Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên có vai trò quan trọng

đối với việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, hiện

nay, một số chính sách đào tạo nghề của Nhà nước còn hạn chế gây khó khăn

cho công tác đào tạo nghề của các địa phương, trong đó có quận Hà Đông, do

đó Các cơ quan quản lý vĩ mô về đào tạo nghề cần phải tiến hành rà soát, sửa

đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp tình hình thực tế các địa phương.

Một số biện pháp được đề xuất thực hiện nhóm giải pháp này là:

Một là, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng cục Dạy nghề phải

phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan khác ban hành

chương trình khung quốc gia thống nhất trong toàn quốc. Đồng thời, cho phép

và hướng dẫn các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình chi tiết trên cơ sở

chương trình khung với một tỷ lệ điều chỉnh nhất định cho phù hợp với yêu

cầu thực tế. Qui định bắt buộc khi thông qua chương trình đào tạo nghề phải có

ý kiến của đại diện cơ quan sử dụng lao động (doanh nghiệp). Có như vậy, chất

lượng đào tạo nghề mới được nâng cao. Tránh lãng phí do phải đào tạo lại, cơ

hội tìm việc làm và thu nhập của người lao động cũng được nâng lên.

Hai là, ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà

xưởng, trang thiết bị vào việc đào tạo nghề dưới nhiều hình thức như cho học

sinh thực tập sản xuất tại xưởng, tặng trang thiết bị cho cơ sở đào tạo… Trong

trường hợp đó, một phần khấu hao máy móc thiết bị, chi phí bù lỗ các sản

79

phẩm hư hỏng được tính vào chi phí đóng góp cho đào tạo nghề và doanh

nghiệp sẽ được giảm một lượng thuế phù hợp tương ứng với khoản tiền trên.

Ba là, phát triển các cơ sở dạy nghề, nhất là trong các doanh nghiệp. Các

cơ sở dạy nghề này được đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển các cơ sở dạy

nghề và được đối xử bình đẳng với các cơ sở dạy nghề công lập.

Các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp được hỗ trợ vay vốn ưu đãi để

xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị dạy nghề. Chi phí xây dựng cơ sở dạy

nghề được tính vào chi phí sản xuất và trừ vào lãi trước thuế của doanh nghiệp.

Mua sắm máy móc, trang thiết bị cho dạy nghề trong các cơ sở dạy nghề của

doanh nghiệp được miễn, giảm thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp tổ chức dạy

nghề được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Hỗ trợ đào tạo giáo viên dạy

nghề cho các cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp, nhất là chuyển từ công nhân

trình độ cao đi bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn sư phạm để làm giáo viên

dạy nghề…

Hà Đông là quận có khá nhiều doanh nghiệp đóng trên địa bàn, do đó

nếu Nhà nước có các quy định hỗ trợ về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp

thì sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đăng ký tham gia dạy nghề. Như vậy, lao

động thanh niên trên địa bàn quận Hà Đông sẽ có nhiều cơ hội tham gia học

nghề, chất lượng lao động sẽ được nâng cao.

Bốn là, hình thành sự kết nối giữa hệ thống tư vấn, hướng nghiệp – dạy

nghề – tư vấn giới thiệu việc làm – doanh nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ

thống thông tin thị trường lao động nói chung và thị trường lao động qua đào

tạo nghề nói riêng. Trong hệ thống này cần có phân tích, dự báo về nhu cầu

đào tạo nghề. Cơ sở dữ liệu của hệ thống thông tin này sẽ giúp cho các trường

chuyển dần sang đào tạo hướng cầu, các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong

tuyển dụng lao động.

Để các chủ trương, chính sách và hoạt động đào tạo nghề cho lao động

80

thật sự đi vào cuộc sống, cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở

địa phương, đồng thời huy động các doanh nghiệp ngoài cơ sở dạy nghề trên

toàn quận quan tâm đến việc tuyển dụng đội ngũ lao động thanh niên để tạo

việc làm cho thanh niên sau khi được đào tạo nghề; tất cả đều hướng tới mục

tiêu nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho

người dân, xây dựng quận Hà Đông phát triển bền vững.

* Tăng cường giới thiệu việc làm cho thanh niên

Thanh niên chưa có việc làm ở đây được chia thành ba nhóm đối tượng

chủ yếu: là các sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học, dạy nghề;

thanh niên, học sinh cuối cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông; thanh

niên thất nghiệp. Mỗi nhóm có đặc điểm, điều kiện và khả năng tiếp cận cơ hội

nghề nghiệp khác nhau nên cần có cách tiếp cận và giải quyết việc làm khác

nhau với từng nhóm. Trong đó, nhóm thanh niên thất nghiệp do thiếu những

điều kiện, khả năng cần thiết nên khó có cơ hội tự giải quyết việc làm, cần phải

có chính sách và nguồn lực hỗ trợ tạo việc làm nhiều hơn so với các đối tượng

còn lại. Nhóm thanh niên, học sinh tốt nghiệp phổ thông các cấp nhưng không

đủ điều kiện theo học đại học, cao đẳng hoặc đào tạo nghề có thể sẽ trở thành

lực lượng thất nghiệp tiềm tàng, do đó cần coi trọng công tác hướng nghiệp và

đào tạo nghề cũng như tạo cơ hội tiếp cần việc làm đối với những ngành nghề

không đòi hỏi chuyên môn cao, sử dụng nhiều lao động. Còn đối với nhóm

thanh niên đã qua đào tạo các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề… thì tập

trung tạo cơ hội tiếp cận những việc làm thông qua các hoạt động thông tin xúc

tiến việc làm gắn liền với các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…

Để thực hiện giải pháp này, cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, các cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị, các cơ sở nghiên cứu,

đào tạo…trên địa bàn quận cần xác định rõ những điều kiện, tiêu chuẩn một cách

rõ rang, minh bạch để có thể tuyển dụng được đối với những thanh niên đã qua

81

đào tạo, nhất là công nhân kĩ thuật có trình độ cao, các kĩ sư, cử nhân, doanh

nhân giỏi… bổ sung vào đội ngũ (dưới hình thức cạnh tranh thi tuyển). Số còn

lại có thể giới thiệu cung ứng cho các lĩnh vực kinh tế đòi hỏi chất lượng lao

động cao. Có chính sách ưu đãi, trọng dụng nhân tài trong thanh niên…

Hai là, đối với nhóm thanh niên sau khi học hết phổ thông mà không

tiếp tục học trung học chuyên nghiệp hoặc cao đẳng, đại học tập trung ở các

vùng nông thôn, là nhóm lao động có sức cạnh tranh yếu do không có trình độ

chuyên môn kĩ thuật, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, khuyến khích phát

triển kinh tế trang trại, phát triển các khu công nghiệp thu hút nhiều lao động

không đòi hỏi quá cao về tay nghề, ưu tiên đưa thanh niên đi xuất khẩu lao

động theo hướng mở rộng thị trường, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia

đình, tự tạo việc làm trong thanh niên…

Ba là, đối với nhóm đối tượng thanh niên thất nghiệp, mất việc làm, hiện

nay tập trung chủ yếu ở thành thị, có đặc thù là khả năng cạnh tranh trên thị

trường lao động kém, do chưa có nghề lại không có tư liệu sản xuất, khó có thể

tự tạo việc làm. Do vậy, cần phát triển mạnh hơn nữa các thành phần kinh tế tư

nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp hộ gia đình, hộ kinh doanh cá

thể, tiểu thương bằng các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ người sử dụng lao

động phát triển sản xuất – kinh doanh. Có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề phù

hợp những nghề mà thị trường đang cần; đặc biệt là cho thanh niên ven đô thị,

nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho công nghiệp và đô thị hoá. Tạo điều

kiện thuận lợi cho thanh niên thất nghiệp, mất việc làm tiếp cận được các

nguồn vốn vay giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để tự tạo việc làm.

Tăng cường hoạt động thông tin giới thiệu việc làm, hội chợ việc làm…

3.2.5. Phát huy vai trò xung kích của Đoàn thanh niên

Là tổ chức chính trị nòng cốt của tuổi trẻ, Đoàn Thanh niên cần phải

được tạo điều kiện và chủ động tham gia với Nhà nước hoàn thiện chính sách,

82

thực hiện các hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên; đẩy mạnh

phong trào thi đua “Tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; trực tiếp quản

lý và triển khai các chương trình, dự án cụ thể về dạy nghề, tạo việc làm, dịch

vụ việc làm cho thanh niên,… theo hướng dẫn của Nhà nước.

Một số biện pháp được đề xuất thực hiện giải pháp này là:

Một là, chú trọng nâng cao chất lượng lao động của thanh niên. Mặc dù,

số lượng lao động càng nhiều thì càng có điều kiện để mở rộng cung về lao

động; tuy nhiên, sự bảo đảm về chất lượng lao động của thanh niên lại có ý

nghĩa quyết định đến hậu quả giải quyết việc làm cho họ. Chất lượng lao động

được thể hiện ở trạng thái sức khỏe, trình độ văn hóa, sự hiểu biết về pháp luật,

phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tính kỷ luật tác phong lao động và

đặc biệt là trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề lao động, khả năng thích

ứng linh hoạt, sáng tạo cao trong công việc của mỗi người…

Hai là, thực hiện Chương trình thanh niên tình nguyện tham gia xây

dựng các công trình trọng điểm hoặc các dự án lớn của Quận. Trong thời gian

tới, quận Hà Đông có các công trình trọng điểm, dự án lớn sau: các chương

trình phi nông nghiệp tạo, xây dựng sân chơi thiếu nhi; xây dựng cơ sở hạ tầng

đô thị (các công trình văn hoá, vệ sinh môi trường...)

Ba là, cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức thanh niên tham gia các

hoạt động làm kinh tế.

Quận Đoàn và Đoàn Phường phối hợp với các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp bảo đảm cho thanh niên tham gia các hoạt động phát triển kinh tế ở địa

phương, tạo việc làm cho thanh niên, nhưng phải đảm bảo tính hiệu quả, phù

hợp với cơ chế thị trường, tránh tổ chức theo kiểu phong trào có tính chất hình

thức, ít hiệu quả. Có thể thành lập các câu lạc bộ thanh niên tình nguyện; thành

lập các đơn vị kinh tế ưu tiên tuyển lao động là thanh niên; hình thành các làng

nghề truyền thống thanh niên; hoặc giao cho Đoàn thanh niên làm nòng cốt huy

83

động lực lượng thanh niên tham gia...

Bốn là, đẩy mạnh thực hiện Chương trình thanh niên lập thân, lập

nghiệp. Đây là chương trình hỗ trợ thanh niên tự tạo việc làm, nhất là ở khu

vực nông thôn, bao gồm:

Hỗ trợ đối với thanh niên là bộ đội xuất ngũ: Mỗi năm khu vực quận Hà

Đông có hơn 130 thanh niên nhập ngũ và hơn 130 thanh niên hoàn thành nghĩa

vụ trở về địa phương. Việc quan tâm, hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên

xuất ngũ được Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền Quận đặc biệt quan

tâm. Đối với thanh niên trước khi xuất ngũ đã được tuyên truyền hướng nghiệp,

sau khi xuất ngũ thì được miễn giảm học phí, được hỗ trợ để tham gia học

nghề. Quyết định số 595/TTg ngày 15/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ về

chế độ đối với quân nhân xuất ngũ “Được giới thiệu việc làm tại các trung tâm

xúc tiến việc làm của Bộ, ngành, đoàn thể”. Chính sách này đã giúp cho những

thanh niên xuất ngũ chưa có tiến đề vững chắc được lựa chọn việc làm, được

định hướng nghề nghiệp của mình. Cần thực hiện đúng Chỉ thị số 646/CT-QP

ngày 25/10/1994 của Bộ Quốc phòng về việc dạy nghề và giải quyết việc làm

cho bộ đội xuất ngũ. Thông qua đó, hoạt động tư vấn việc làm, tư vấn nghề, hỗ

trợ tìm việc làm được Quận triển khai tại ngay các cơ sở của quân đội.

Hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế hộ gia đình: Trên cơ sở sự hỗ trợ của

chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các ban, ngành, đoàn thể từ

Quận tới cơ sở như: được hướng dẫn và hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vốn

giải quyết việc làm… Với trình độ và điều kiện của từng hộ gia đình, cá nhân

Thanh niên đã tự phát triển kinh doanh dịch vụ hộ gia đình như: mở cửa hàng

tạp hóa, cắt tóc, gội đầu, dịch vụ cưới hỏi…

Hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp nhỏ và vừa: Tổ chức Đoàn Thanh

niên từ Quận đến cơ sở cần tổ chức các chuyến đi thăm, học tập, nghiên cứu

thực tế các mô hình kinh tế của đơn vị bạn như mô hình trồng nấm tại huyện Ba

84

Vì, mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình của huyện Thạch Thất…ngoài ra, mỗi

năm Quận đoàn Hà Đông nên tổ chức từ hai đến ba chương trình khởi sự doanh

nghiệp cho đoàn viên thanh niên trên địa bàn, tại chương trình có mời các

chuyên gia và giám đốc của một số doanh nghiệp đóng chân trên địa bàn Quận

nói chuyện, chia sẻ về kinh nghiệm và cách thức khởi nghiệp.

Hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế trang trại: Ngoài những chính sách

hỗ trợ khác, hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại cũng là một trong những mô

hình cơ bản, phát huy thế mạnh của các ngành nghề truyền thống từ đó hỗ trợ

giải quyết việc làm trong đó phần lớn là thanh niên. Các thủ tục hành chính cần

phải được cải cách nhằm tháo gỡ những cản trở đối với hỗ trợ giải quyết việc

làm cho thanh niên.

Thực hiện phân cấp trong triển khai thực hiện Chương trình. Căn cứ vào

tình hình cụ thể chương trình hỗ trợ thanh niên có thể giao cho Đoàn thanh

niên, nhất là ở các phường chủ trì tổ chức các khóa đào tạo khởi sự doanh

nghiệp, tín chấp vay vốn ngân hàng, thuê mặt bằng...chương trình này phải là

bộ phận cấu thành trong Chương trình mục tiêu về việc làm thời kỳ 2010-2015.

Năm là, thực hiện tốt Chương trình thanh niên tham gia xoá đói giảm

nghèo. Cần hình thành một kênh riêng cho thanh niên để tập trung vào đối

tượng thanh niên nghèo, nhất là nhóm hộ gia đình trẻ, mới tách hộ, không có

ruộng đất và huy động lực lượng thanh niên tham gia xoá đói, giảm nghèo ở

các phường còn khó khăn. Nội dung của chương trình này bao gồm: Tiểu

chương trình xoá đói giảm nghèo cho các hộ gia đình thanh niên trẻ nghèo.

Hình thành các đội thanh niên tình nguyện tham gia phát triển kinh tế ở các

địa bàn khó khăn trong Quận.

Đoàn thanh niên tham gia vào chương trình đào tạo nghề, chuẩn bị

nguồn lao động cho xuất khẩu thông qua hệ thống đào tạo nghề, cung ứng lao

động của thanh niên.

Đoàn viên thanh niên tổ chức tập hợp các trí thức trẻ, có tài năng chuẩn

85

bị nguồn cho xuất khẩu chuyên gia.

Đoàn thanh niên tham gia vào thực hiện các biện pháp chống trốn, phá

hợp đồng lao động ở các nước nhận lao động.

*

* *

Luận văn đã phân tích làm rõ phương hướng chung và yêu cầu bốn

điểm, đồng thời luận văn đã đề xuất năm giải pháp nhằm giải quyết việc làm

cho thanh niên quận Hà Đông trong thời gian tới. Đó là: Khai thác tốt các

nguồn vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế địa phương nhằm giải

quyết việc làm, tạo việc làm mới cho thanh niên. Xã hội hóa vấn đề giải quyết

việc làm, tăng cường sự lãnh đạo của Nhà nước, chính quyền địa phương về

việc làm của thanh niên. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động để giải quyết

việc làm. Tăng cường hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho

thanh niên. Phát huy vai trò xung kích của Đoàn thanh niên.

Phương hướng chung, yêu cầu và giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm

cho thanh niên Quận Hà Đông, TP Hà Nội thời gian tới là một thể thống nhất,

có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi vậy, để giải quyết việc làm cho thanh

niên trong thời gian tới ở Quận Hà Đông có hiệu quả cần phải quán triệt và

thực hiện đầy đủ phương hướng và giải pháp đã nêu trong luận văn. Theo đó,

để phát huy vai trò của thanh niên, sự năng động của chính lực lượng lao động

thanh niên trong giải quyết việc làm, phải bám sát chủ trương, đường lối lãnh

đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý khoa học của chính quyền các cấp, sự

sáng tạo của tổ chức đoàn và sự phối kết hợp với cơ quan, doanh nghiệp, đơn

vị, người sử dụng lao động. Sự phối hợp đó trong thực hiện đồng bộ các giải

pháp chắc chắn sẽ tích cực giải quyết việc làm cho thanh niên và xây dựng

Quận Hà Đông phát triển bền vững.

86

KẾT LUẬN

1. Việc làm là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình

và xã hội, tuân thủ các qui định của pháp luật được trả hoặc không được trả

công, lợi nhuận (tiền mặt hoặc hiện vật). Việc làm và lao động có quan hệ chặt

chẽ với nhau, việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động

diễn ra. Lao động là cái chung và việc làm là cái riêng.

Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con

người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện

vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Thanh niên là một nhóm

nhân khẩu – xã hội, nhưng là một nhóm nhân khẩu – xã hội đặc thù, vì thế giải

quyết viê ̣c làm cho thanh niên ở quâ ̣n Hà Đông là những nỗ lực của cả hệ thống

chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, hiê ̣p hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp,

các chủ thể sử dụng lao động cùng chính nỗ lực của thanh niên nhằm tạo ra

những điều kiện thúc đẩy việc kết hợp sức lao động thanh niên với tư liệu sản

xuất tạo ra của cải vâ ̣t chất cho xã hô ̣i, mang lại thu nhập hợp pháp cho thanh

niên, cho người sử dụng lao động và cho quận Hà Đông. Nội dung giải quyết

việc làm cho thanh niên tập trung vào năm vấn đề: Định hướng nghề nghiê ̣p

cho thanh niên. Mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm thu hút lực lượng thanh niên. Cung

ứng thích đáng số lượng, nâng về chất lượng lao đô ̣ng thanh niên. Phát triển các

trung tâm và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm. Phối hợp các lực lượng, các chương

trình trong giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên. Thực tế giải quyết việc làm cho

thanh niên chịu sự tác động của các nhân tố từ chính bản thân thanh niên và

những nhân tố kinh tế - xã hội của địa phương.

2. Luận văn đã đáng giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên ở

quận Hà Đông thời gian qua. Trong đó đó nổi bật một số thành tựu bước đầu

về: Định hướng nghề nghiê ̣p cho thanh niên. Mở rô ̣ng cầu về viê ̣c làm thu hút

lực lượng thanh niên. Cung ứng thích đáng số lượng, nâng về chất lượng lao

87

đô ̣ng thanh niên. Phát triển các trung tâm và hình thức giới thiê ̣u viê ̣c làm. Phối

hợp các lực lượng, các chương trình trong giải quyết viê ̣c làm cho thanh niên.

Tuy nhiên, quá trình đó còn bộ lộ nhiều hạn chế và có nhiều nguyên nhân cả

thành tựu và hạn chế đã được đánh giá và phân tích trong luận văn.

3. Luận văn đã phân tích phương hướng chung, yêu cầu bốn điểm, đề

xuất năm giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho Thanh niên ở quận Hà Đông

trong thời gian tới. Để giải quyết tốt hơn vấn đề việc làm của thanh niên ở

quận Hà Đông thời gian tới, tổ chức đảng, chính quyền địa phương, các tổ

chức kinh tế, chính trị - xã hội có nhận thức đúng, từ đó làm tốt công tác giáo

dục, tuyên truyền làm cho thanh niên có ý thức tự tạo việc làm, không thụ

động, trông chờ ỷ lại vào chính quyền địa phương. Khai thác tốt các nguồn

vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế địa phương nhằm giải quyết

việc làm, tạo việc làm mới cho thanh niên. Xã hội hóa vấn đề giải quyết việc

làm, tăng cường sự lãnh đạo của Nhà nước, chính quyền địa phương về việc

làm của thanh niên. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động để giải quyết

việc làm. Tăng cường hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho

thanh niên. Phát huy vai trò xung kích của Đoàn thanh niên trong giải quyết

việc làm. Thực hiện được các vấn đề nêu trên thì giải quyết việc làm cho

thanh niên nói riêng và cho người lao động ở quận Hà Đông nói riêng trong

những năm tới sẽ có nhiều tiến bộ, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định đời

sống nhân dân, bảo đảm đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong toàn

Quận phát triển bền vững, hài hòa.

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân (2003), Một số vấn đề

về phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

2. Ban thường vụ Quận ủy Hà Đông (2010), Nghị quyết số 12/NQ – TW về xây

dựng phát triển khu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, Hà Đông.

3. Nguyễn Hòa Bình (2002), Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

4. Bộ Công nghiệp - Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (1996), Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Việt Nam, Hà Nội.

5. Bộ lao động – Thương binh và xã hội (1994), Sử dụng nguồn lao động và

giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần, Đề tài cấp Nhà nước 70A.02.02, Hà Nội.

6. Nguyễn Xuân Chính (2007), “Giải quyết việc làm ở các làng nghề Hà Tây

thực trạng và giải pháp phát triển bền vững”, Tạp chí Công nghiệp, số (6).

7. Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy

giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 – thực

trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế

quốc dân, Hà Nội.

8. Thủy Công (2006), “Để các làng nghề truyền thống phát triển đúng hướng”,

Tạp chí xây dựng Đảng, số (7).

9. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo kết quả tổng điều tra việc

làm của người lao động năm 2005, Hà Nội.

10. Nguyễn Trí Dĩnh (2005), Những giải pháp nhằm giải quyết việc làm ở một

số tỉnh đồng bằng Sông Hồng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện đào tạo

công nghệ và quản lý quốc tế, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật

Việt Nam, Hà Nội.

89

11. Nguyễn Hữu Dũng (2011), “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ

2010 – 2020”, Tạp chí Lao động xã hội, số (5).

12. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

13. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện lần thứ năm, Ban chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

14. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ X của Đảng, QĐND, ngày 19 tháng 4 năm 2006.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện lần thứ bảy, Ban chấp hành

Trung ương khóa X, Nxb CTQG, Hà Nội.

16. Vương Văn Điểm (2006), Thực trạng và giải pháp giải quyết việc làm ở

các làng nghề tỉnh Bắc Ninh, một số kinh nghiệm tổ chức sản xuất, đổi

mới mẫu mã và mở rộng thị trường nghề mộc mỹ nghệ, Báo cáo tham

luận, Thừa Thiên Huế.

17. Trần Thị Thu Hà (2012), “Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động

trẻ”, Tạp chí Thanh niên, số (4).

18. Nguyễn Hải, Nguyễn Hữu Thắng (2006), “Phát triển làng nghề nông thôn

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nông nghiệp và phát

triển nông thôn, kỳ (1).

19. Nguyễn Quang Hiền (1995), Thị trường sức lao động – Thực trạng và giải

pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội.

20. Đoàn Hòa (2006), “Nhân lực làng nghề, băn khoăn trước thềm hội nhập”,

Tạp chí Tài chính và cuộc sống, số (3).

21. Hoàng Ngọc Hòa (2006), “Tích cực bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát

triển bền vững”, Tạp chí Lý luận chính trị, tr.48.

22. Học viện tài chính (2004), Hoàn thiện các giải pháp kinh tế - tài chính

nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng ĐBSH, Đề tài

khoa học cấp bộ, Hà Nội.

90

23. Mai Thế Hởn (2000), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình

CNH, HĐH ở vùng ven thủ đô Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Lê (2003), “Bắc Ninh với các nhà đầu tư”, Tạp chí kinh tế và

dự báo, số (1).

25. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (2003), Thực trạng và

những giải pháp nhằm phát triển làng nghề tỉnh Bắc Ninh, Kỷ yếu hội

thảo khoa học, Hà Nội.

26. Nguyễn Hữu Loan (2007), “Thực trạng phát triển làng nghề ở Bắc Ninh

cùng những giải pháp để bảo vệ môi trường”, Tạp chí Giáo dục lý luận,

số (10).

27. Hoàng Thanh Nga (2010), Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh

niên ngoại thành Hà Nội, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

28. Hoàng Ngân (2006), Phát triển bền vững các làng nghề đồng bằng sông

Hồng: Thực trạng và giải pháp, http://www.saga.vn

29. Nguyễn Thị Ngân (2006),“Xu hướng phát triển làng nghề ở khu vực Đồng

bằng sông Hồng”, Tạp chí Lý luận chính trị, số (6).

30. Dương Bá Phượng (2000), “Làng nghề - thành tố quan trọng của công

nghiệp nông thôn cần được bảo tồn và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu

kinh tế, số (266).

31. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình

CNH, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Đỗ Thị Xuân Phượng (2005), Phát triển thị trường sức lao động, giải

quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường

Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

33. Phạm Thái Quốc (2006), “Phát triển kinh tế trong xu hướng tự do hóa và

vấn đề ô nhiễm môi trường ở Bắc Ninh”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế

91

và chính trị thế giới, số (8).

34. Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Lao Động

35. Trần Công Sách (chủ nhiệm), Tiếp tục đổi mới chính sách và các giải pháp

đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ

thời kỳ đến năm 2010, Đề tài cấp viện nghiên cứu thương mại, Bộ

Thương mại, Hà Nội.

36. Nguyễn Việt Sáng (2006), Tăng cường quản lý nhà nước nhằm giải quyết

vấn đề ô nhiễm môi trường để phát triển bền vững các làng nghề ở tỉnh

Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

37. Nguyễn Sĩ (2001), Giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

38. Sở Công thương Thành phố Hà Nội (2009), Báo cáo tình hình phát triển và

quản lý người lao động năm 2009, Hà Nội.

39. Sở Công thương Thành phố Hà Nội (2011), Quy hoạch phát triển công

nghiệp tỉnh Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà

Nội.

40. Sở Tài chính Thủ đô Hà Nội (2006), Niên giám tài chính – ngân sách thủ

đô Hà Nội 2001 – 2006, Hà Nội.

41. Nguyễn Đình Tấn (1995), Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ

cấu xã hội nghè nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến

nghị, Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX-07.05.05, Hà Nội.

42. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 132/200/QĐ-TTg, Về một số

chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.

43. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg, Về ban

hành quy chế quản lý cụm công nghiệp, Hà Nội.

92

44. Nguyễn Thị Anh Thư (2004), “Giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất của

làng nghề phục vụ phát triển bền vững”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số

(6).

45. Trần Mai Trang (2013), “Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh – Thực trạng và

giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số (2).

46. Đinh Công Tuấn (2013), Hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU giai

đoạn hậu khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

47. Trần Văn Tuấn (1995), Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội, Luận án

tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

48. Trần Văn Túy, Nguyễn Duy Hà (2007), “Phát triển sản xuất và môi trường

ở làng nghề truyền thống huyện Từ Sơn – Bắc Ninh”, Tạp chí Kinh tế

và phát triển, số (125).

49. Ủy ban nhân dân Quận Hà Đông (2011), Báo cáo tình hình thực hiện giải

quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn Hà Đông.

50. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn

Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.

51. Trần Minh Yến (2009), “Làng nghề Bắc Ninh: Xưa và nay”, Tạp chí

nghiên cứu kinh tế, tr.44.

93

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Hiện trạng sử dụng đất quận Hà Đông – thành phố Hà Nội

2012 2013

Chỉ tiêu

4832.64

-

4832.64

Diện tích Diện tích % % DT tăng, giảm trong kỳ (ha) (ha)

1964.44

40,65

3201.34

66,24

- Tổng diện tích đất tự nhiên

2815.7

58,26

1615.3

33,42

1. Đất phi nông nghiệp

52.5

1,09

16

0,34

2. Đất nông nghiệp

3. Đất chưa sử dụng

(Nguồn: Quy hoạch tổng thể quận Hà Đông đến năm 2020 – phòng

Quản lý đô thị quận Hà Đông)

94

Phụ lục 2

Số người từ 15 tuổi trở lên của quận Hà Đông

chia theo giới tính và độ tuổi năm 2013

Trong đó: Nữ

Tỷ trọng

Chia theo nhóm tuổi

Tổng số

Tổng số (người)

(%)

Tỷ trọng (%)

(người)

Từ 15 đến 24 tuổi

44476

22594

25.1

50,8

Trong đó: Hiện đang đi học

26374

13134

14.9

49,8

Từ 25 đến 34 tuổi

42704

22334

24,1

52,3

Từ 35 đến 44 tuổi

31010

15629

17,5

50,4

Từ 45 đến 54 tuổi

26048

13154

14,7

50,5

Từ 55 tuổi trở lên

32956

16658

18,6

50,6

Tổng số

177194

90369

100

51

(Nguồn: Kết quả điều tra lao động việc làm năm 2013- Chi cục Thống kê quận

Hà Đông)

95

Phụ lục 3

Số người từ 15 tuổi trở lên chia theo độ tuổi và trình độ

văn hóa

Cấp I

Cấp II

Cấp III

Không biết chữ

Chia theo

Tổng

Tổng

Tổng

Tổng số

Tổng

nhóm tuổi

số

số

số

(người)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

Tỷ trọng (%)

số (người)

(người)

(người)

(người)

44476

623

1,4

7516

16,9

36204

81,4

133

0,3

Từ 15 đến 24 tuổi

42704

2263

5,3

11872

27,8

28441

66,6

128

0,3

Từ 25 đến 34 tuổi

31010

3287

10,6

12900

41,6

14699

47,4

124

0,4

Từ 35 đến 44 tuổi

26048

8741

18,2

10445

40,1

10706

41,1

156

0,6

Từ 45 đến 54 tuổi

32956

12653

36,3

11488

30,7

7761

29,3

1054

3,7

Từ 55 tuổi trở lên

Tổng số

177194

23567

13,3

54221

30,6

97811

55,2

1595

0,9

(Nguồn: Kết quả điều tra lao động việc làm năm 2013- Chi cục Thống kê quận

Hà Đông)

96

Phụ lục 4

Mục tiêu đào tạo nghề nhằm giải quyết việc làm cho Thanh niên ở

Đơn vị tính: Người - lao động

quận Hà Đông giai đoạn 2011 - 2015; 2016 - 2020

Chia theo cấp trình độ

TT

Nhóm nghề

SCN TCN

Tổng số

CĐ N

Dưới 3 tháng

Giai đoạn 2011 – 2015

11.120

1548

620

412

I

8540

1

1.112

1034

47

19

12

Nhóm nghề nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp Trồng trọt, chăn nuôi

920

890

18

7

5

2

32 160 5.800 310 1050 460 2400 950 30 100 500

24 120 4350 233 788 344 1800 713 22 75 375

5 24 870 46 157 70 360 142 5 15 75

2 10 348 19 63 27 144 57 2 6 30

1 6 232 12 42 19 96 38 1 4 20

4.208

3156

631

253

168

3

Dịch vụ nông nghiệp Các lĩnh vực khác Nghề phi nông nghiệp Kỹ thuật Công nghệ Sản xuất và chế biến Khách sạn, du lịch Tiểu thủ công nghiệp Y tế Dịch vụ xã hội Các lĩnh vực khác Nghề phi nông nghiệp cho thanh niên chuyển sang làm việc ở khu vực đô thị, khu công nghiệp. Bán hàng trong siêu thị Máy thi công Lái xe, vận tải Các lĩnh vực khác

200 40 3040 928

150 30 2280 696

12 2 182 57

8 2 122 36

II

Giai đoạn 2016 – 2020

30 6 456 139 1.72 3

9.640

6.634

853

430

1 Nhóm nghề nông nghiệp và dịch vụ

nông nghiệp Trồng trọt Dịch vụ nông nghiệp Các lĩnh vực khác 2 Nghề phi nông nghiệp

1.256 1.096 16 144 4.304

1.184 1.069 11 104 2.798

46 17 3 26 861

15 5 1 9 430

11 5 1 5 215

97

Chia theo cấp trình độ

TT

Nhóm nghề

SCN TCN

Tổng số

CĐ N

Dưới 3 tháng

400 1040 440 200 976 96 960 192

261 676 286 130 634 62 624 125

80 208 88 40 195 20 192 38

40 104 44 20 98 9 96 19

19 52 22 10 49 5 48 10

3

4.080

2.652

816

408

204

Kỹ thuật Công nghệ Sản xuất và chế biến Khách sạn, du lịch Tiểu thủ công nghiệp Y tế Dịch vụ xã hội Các lĩnh vực khác Nghề phi nông nghiệp cho thanh niên chuyển sang làm việc ở khu vực đô thị, khu công nghiệp Bán hàng trong siêu thị

168

109

34

17

8

Máy thi công Lái xe, vận tải Các lĩnh vực khác

24 2960 928

16 1644 883

5 752 25

2 376 13

1 188 7

(Nguồn: Đề án đào tạo nghề cho thanh niên quận Hà Đông, năm 2011 )

98

Phụ lục 5

Biểu tổng hợp nguồn kinh phí từ ngân sách chi cho đào tạo nghề giải quyết việc làm quận Hà Đông qua các năm

Đơn vị tính : triệu đồng

Tỷ lệ (%)

Nội dung

năm 2009 Năm 2010 Năm 2011

2010/2009

2011/2010

72,500

108,100

214,700

149

198

I. Chi cho Công tác tuyên truyền, tư vấn:

Ngân sách quận Hà Đông

25,000

50,000

50,000

200

100

Ngân sách Thành phố

47,500

58,100

164,700

122

283

4,062,546

6,000,000

7,250,000

172

175

II. Chi cho công tác đào tạo nghề:

Ngân sách quận Hà Đông

3,562,546

5,250,000

6,200,000

175

179

Ngân sách Thành phố

500,000

750,000

1,050,000

150

140

250,000

315,268

542,325

126

172

III. Đóng góp của người học

125

Tổng

4,385,046

6,423,368

8,007,025

146

(Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo đào tạo nghề các năm 2009 - 2011, Phòng Tài chính -

Kế hoạch và phòng Lao động TBXH quận Hà Đông)

99

Phụ lục 6

Bảng 2.7: Các cơ sở dạy nghề trên địa bàn quận Hà Đông

TT

Thể loại

Số lượng

Tên đơn vị

Trường trung cấp nghề tổng hợp Hà Nội

Trường trung cấp nghề Công đoàn

1

03

Trường Trung cấp nghề

Trường trung cấp nghề đào tạo nhân lực VINACONEX.

Trung tâm dạy nghề tạo việc làm Hội Nông dân TP

Trung tâm dạy nghề tư thục Thanh Xuân

Trung tâm dạy nghề Sao Bắc Việt

06

2

Trung tâm dạy nghề

Trung tâm giới thiệu việc làm số 2 Hà Nội

Trung tâm Thông tin kinh tế - Hội sinh vật cảnh

Trung tâm Dịch vụ việc làm 20-10

Trường Đại học Đại Nam

Trường Trung cấp kỹ thuật Lê Quí Đôn

04

3

Trường Trung cấp kỹ thuật Y Dược

Các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tham gia dạy nghề

Trường Trung cấp kỹ thuật tổng hợp

Công ty TNHH dịch vụ thương mại Đức Hà

Công ty TNHH tư vấn đào tạo Công nghệ

05

Công ty TNHH Thế Anh HAIR

4

Cơ sở - Các doanh nghiệp tham gia dạy nghề

Công ty Cổ phần may An Phát

Công ty may Hà Dương

(Nguồn: Thống kê cơ sở đăng ký dạy nghề - Phòng quản lý đào tạo nghề - Sở Lao

động Thương binh & Xã hội Hà Nội)

100

Phụ lục 7

Kết quả đào tạo cho người lao động trên địa bàn quận Hà Đông

theo loại hình đào tạo

Số lượng

Tỷ lệ(%)

Chỉ tiêu

2011

2012

2013 2012/2011 2013/2011 2013/2012

Dưới 3 tháng

325

418

405

128.6

124.6

96.9

Sơ cấp nghề

500

2350

2500

490.00

520.00

106.12

Trung cấp nghề

171

205

265

119.88

154.97

129.27

Cao đẳng nghề

50

135

116

270.00

232.00

85.93

Tổng số

1046

3108

3286

297.13

314.15

105.72

(Nguồn: Các báo cáo tình hình đào tạo nghề, 2009-2011, phòng Lao động TB&XH

quận Hà Đông)

101

Phụ lục 8

Nguyện vọng tham gia đào tạo, học nghề của thanh niên quận Hà Đông

Trình độ

Hình thức

Đối tượng hỗ

TT

Nghề đào tạo

Số lượng

Sơ cấp nghề

Thường xuyên

Chính quy

Đối tượng 1

Đối tượng 3

dạy nghề dưới 3T

Trung cấp nghề

Cao đẳng nghề

Đối tượng 2

1

Thủ công mỹ nghệ

108

79

21

1

7

79

29

19

78

11

2 Trang trí nội thất

41

26

6

5

4

26

15

33

8

3 Lưu trữ, bảo tàng

29

5

7

11

6

7

22

15

14

4 Quản trị kinh doanh

51

30

2

10

9

30

21

43

8

5 Kế toán, kiểm toán

51

3

11

17

20

3

48

2

42

7

6 Quản lý đất đai

27

11

9

3

4

11

16

25

2

7 Máy tinh

26

1

18

2

5

1

25

1

24

1

315

259

8 CNTT

28

19

9

259

56

4

307

4

9 Cơ khí chế tạo

20

14

2

4

14

6

18

2

10 Công nghệ đo lường

27

27

27

27

11 Lắp ráp cơ khí

90

65

22

1

2

65

25

20

67

3

12 Sửa chữa xe máy

153

52

58

4

39

72

81

32

100

21

13 Kỹ thuật điện tử

57

28

2

1

26

28

29

1

41

15

14 Kỹ thuật điện lạnh

45

14

19

3

9

14

31

4

36

5

15

42

7

34

1

7

35

42

Chế biến thực phẩm, đồ uống

16 Sx hàng dệt may

158

83

49

7

19

83

75

9

138

11

144

11

7

8

26

17 Xây dựng dân dụng

118

118

22

109

13

18 Kỹ thuật trồng hoa

69

45

24

45

24

31

29

9

19 Kỹ thuật trồng nấm

34

34

34

4

16

14

20

33

32

1

15

18

3

27

3

Dịch vụ chăm sóc gia đinh

13

42

21 Khách sạn, nhà hàng

419

377

28

1

377

416

3

102

Trình độ

Hình thức

Đối tượng hỗ

TT

Nghề đào tạo

Số lượng

Sơ cấp nghề

Thường xuyên

Chính quy

Đối tượng 1

Đối tượng 3

dạy nghề dưới 3T

Trung cấp nghề

Cao đẳng nghề

Đối tượng 2

22 Dịch vụ thẩm mỹ

62

34

22

2

4

34

28

56

4

2

23 Vân tải đường bộ

1115

927

134

45

9

927

188

1052

15

48

24 Bảo vệ

97

94

3

80

17

90

2

5

25 Các nghề khác

21

10

5

5

1

16

5

10

5

6

Tổng

3234

2348

515

265

106

2345

889

2814

178

242

(Nguồn: Kết quả điều tra nhu cầu học nghề lao động quận Hà Đông

năm 2013 – phòng Lao đông-Thương binh & Xã hội Hà Đông)