BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ NI
SỬ DỤNG MÔ HÌNH TOULMIN ĐỂ PHÂN TÍCH QUÁ
TRÌNH LẬP LUẬN VÀ CHỨNG MINH CỦA HỌC SINH
Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học môn Toán
Mã số: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN KIÊM MINH
Huế, năm 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được
các đồng tác giả cho phép sử dụng. Kết quả nghiên cứu chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Ni
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, chân thành đến thầy Trần
Kiêm Minh, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Huế,
Phòng đào tạo sau đại học, Quý Thầy giáo, Cô giáo trong khoa Toán, đặc biệt là các
thầy cô thuộc chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học môn Toán đã tận tình
giảng dạy, truyền thụ cho tôi rất nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong hai
năm học vừa qua.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các em học sinh trường THPT chuyên Quốc
Học Huế và các em học sinh trường THPT Tố Hữu đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thực nghiệm.
Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ, động
viên và giúp đỡ tôi mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn này.
Do điều kiện thời gian và khả năng hạn chế, tôi xin chân thành biết ơn và
lắng nghe những ý kiến chỉ dẫn, đóng góp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
iii
MỤC LỤC
Trang TRANG PHỤ BÌA ..................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................ii
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... iii
MỤC LỤC.............................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................ 4
LỜI GIỚI THIỆU ................................................................................................. 5
Chƣơng 1. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 8
1.1 Khái niệm chứng minh và lập luận ................................................................ 8
1.1.1 Khái niệm chứng minh ........................................................................... 8
1.1.2 Khái niệm lập luận.................................................................................. 9
1.2 Các dạng lập luận .......................................................................................... 9
1.2.1 Suy diễn ................................................................................................. 9
1.2.2 Quy nạp ................................................................................................. 9
1.2.3. Ngoại suy ............................................................................................. 10
1.3 Ngoại suy và chứng minh trong toán học .................................................... 10
1.3.1. Các dạng ngoại suy .............................................................................. 10
1.3.2. Ngoại suy và chứng minh trong giáo dục toán ...................................... 13
1.4 Mối quan hệ giữa lập luận và chứng minh .................................................. 14
1.4.1. Các khía cạnh chung giữa lập luận và chứng minh ............................... 14
1.4.2 Mối quan hệ giữa lập luận và chứng minh trong các nghiên cứu giáo dục toán...... .......................................................................................................... 15
1.5 Kết luận chương 1 ....................................................................................... 18
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................ 20
2.1. Mô hình Toulmin ........................................................................................ 20
2.1.1 Cấu trúc của lập luận theo mô hình Toulmin ........................................ 20
2.1.2 Mô hình Toulmin trong các nghiên cứu giáo dục toán về lập luận và chứng minh .................................................................................................... 21
2.2 Phân tích quá trình lập luận và chứng minh dựa trên mô hình Toulmin ....... 22
1
2.2.1 Tính thống nhất nhận thức giữa quá trình lập luận và chứng minh ........ 22
2.2.2 Khoảng cách giữa quá trình lập luận và chứng minh ............................. 24
2.2.3 Phân tích cấu trúc giữa lập luận và chứng minh dựa trên mô hình Toulmin ......................................................................................................... 24
2.2.3.1 Cấu trúc của suy diễn, ngoại suy, quy nạp dựa trên mô hình Toulmin .................................................................................................................. 25
2.2.3.2 Phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh .................................................................................................................. 27
2.3 Mô hình Toulmin và phân tích quá trình ngoại suy ..................................... 27
2.3.1 Đối với ngoại suy đã mã hoá ................................................................. 28
2.3.2 Đối với ngoại suy chưa mã hoá ............................................................ 29
2.3.3 Đối với ngoại suy sáng tạo ................................................................... 29
2.4 Vai trò của giáo viên trong quá trình lập luận của học sinh ......................... 30
2.5 Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................... 31
2.6 Kết luận chương 2 ....................................................................................... 32
Chƣơng 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU............................................................... 33
3.1 Ngữ cảnh và mục tiêu .................................................................................. 33
3.1.1 Ngữ cảnh.............................................................................................. 33
3.1.2 Mục tiêu ................................................................................................ 33
3.2 Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 33
3.3. Nội dung phiếu học tập ............................................................................... 33
3.3.1. Phiếu học tập 1..................................................................................... 33
3.3.2. Phiếu học tập 2..................................................................................... 39
3.3.3. Phiếu học tập 3..................................................................................... 42
3.3.4. Phiếu học tập 4..................................................................................... 45
3.4 Kết luận chương 3....................................................................................... 49
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................ 50
4.1. Phân tích bài làm của học sinh .................................................................... 50
4.1.1 Mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh ................................ 50
4.1.1.1 Bài toán 1: ...................................................................................... 51
4.1.1.2 Bài toán 2: ...................................................................................... 59
4.1.1.3 Bài toán 3: ...................................................................................... 66
2
4.1.1.4 Bài toán 4: ...................................................................................... 72
4.1.2 Các dạng ngoại suy ............................................................................... 75
4.2 Kết luận chương 4 ....................................................................................... 79
Chƣơng 5. KẾT LUẬN........................................................................................ 80
5.1 Kết luận ....................................................................................................... 80
5.2 Đóng góp của nghiên cứu và hướng phát triển của đề tài ............................ 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 84
PHỤ LỤC .............................................................................................................P1
3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Góc
CM Chứng minh
HS Học sinh
LL Lập luận
4
LỜI GIỚI THIỆU
Quá trình lập luận (argumentation), suy luận (reasoning) và chứng minh
(proof) là những thuật ngữ xuất hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu gần đây
về dạy và học toán. Điều đó chứng tỏ ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
phân tích về mặt nhận thức và cấu trúc lôgic của quá trình lập luận và chứng minh.
Từ một quan điểm tri thức luận, lập luận trong toán học có thể xem như là một quá
trình thuyết phục ai đó về giá trị chân lý của một mệnh đề hay phát biểu (Chazan
1993, [9]; De Villiers 1990, [10]; Hanna, 1989, [14]; Healy và Hoyles, 2000, [16];
Lakatos, 1976, [22]). Quá trình lập luận có thể là suy diễn, ngoại suy hoặc quy nạp.
Chứng minh là một trường hợp đặc biệt của quá trình lập luận trong đó kết luận
được đưa ra từ các lập luận diễn dịch và các quy tắc suy luận đúng. Trong toán học,
chứng minh thường là quá trình lập luận suy diễn, trong khi đó quá trình lập luận
dẫn đến một giả thuyết thường là quá trình ngoại suy hoặc quy nạp.
Gần đây, có nhiều tác giả tập trung vào nghiên cứu bản chất cấu trúc của các
quá trình nhận thức liên quan đến mối quan hệ giữa lập luận và chứng minh toán
học của học sinh (Boero .v.v. 1996, [8]; Pedemonte, 2001, [27]; Pedemonte, 2005,
[29]; Pedemonte, 2007, [30]; Pedemonte và Reid, 2010, [32]; Reid và Knipping,
2010, [38]; Martinez và Pedemonte, 2014, [24]). Các nghiên cứu này chỉ ra rằng,
lập luận thường có cấu trúc ngoại suy hoặc quy nạp, trong khi đó chứng minh
thường có cấu trúc diễn dịch. Nếu từ các lập luận ngoại suy (quy nạp) hình thành
một giả thuyết, học sinh có thể chuyển đổi thành các lập luận diễn dịch để đi đến
chứng minh (quy nạp toán học) giả thuyết đó thì ta nói có một tính liên tục cấu trúc
(structural continuity) giữa quá trình lập luận và chứng minh. Ngược lại, nếu từ các
lập luận ngoại suy hay quy nạp, học sinh không thể đi đến một chứng minh diễn
dịch thì ta nói có sự gián đoạn cấu trúc (structural distance/ structural discontinuity)
giữa quá trình lập luận và chứng minh.
Các nghiên cứu ở trên đã sử dụng mô hình Toulmin (Toulmin, 1958, [40]) để
lập luận như là một công cụ có tính phương pháp luận nhằm phân tích mối quan hệ
giữa quá trình lập luận đi đến một giả thuyết và chứng minh.
5
Mô hình Toulmin đã góp phần quan trọng trong các nghiên cứu về mối quan
hệ giữa lập luận và chứng minh chẳng hạn như: phân tích tính liên tục/gián đoạn
cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh (Pedemonte, 2005, [29]; Pedemonte,
2007, [30]) phân tích vai trò và các dạng ngoại suy được học sinh sử dụng trong quá
trình chứng minh (Pedemonte và Reid, 2010, [32]).
Dựa trên các nghiên cứu đó của Pedemonte, chúng tôi chọn đề tài ― Sử dụng
mô hình Toulmin để phân tích quá trình lập luận và chứng minh của học sinh‖
với các mục tiêu như sau:
Phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh của
học sinh khi giải quyết các bài toán
Phân tích các dạng ngoại suy khác nhau được học sinh sử dụng trong quá
trình chứng minh.
Luận văn này bao gồm 5 chương:
Trong chương 1, chúng tôi bắt đầu từ việc giới thiệu khái niệm lập luận và
khái niệm chứng minh trong Toán, các dạng lập luận thường gặp, tiếp theo là mối
quan hệ giữa quá trình lập luận và chứng minh trong Toán. Từ đó chúng tôi đặt ra
một số vấn đề khởi đầu cho nghiên cứu.
Trong chương 2, chúng tôi sẽ trình bày mô hình Toulmin cơ bản, một công
cụ phương pháp luận quan trọng cho phép nghiên cứu mối quan hệ cấu trúc giữa lập
luận và chứng minh. Sau đó, dựa vào mô hình Toulmin, chúng tôi sẽ phân tích mối
liên hệ về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh trong toán học và cấu trúc của các
dạng ngoại suy mà học sinh có thể sử dụng trong chứng minh toán. Chương này
cung cấp khung lý thuyết cho phép chúng tôi thiết kế thực nghiệm và phân tích dữ
liệu thực nghiệm trong các chương sau. Cuối cùng, chúng tôi đặt ra một số câu hỏi
nghiên cứu cho đề tài.
Trong chương 3, chúng tôi trình bày ngữ cảnh và mục tiêu của thực nghiệm.
Sau đó, chúng tôi trình bày nội dung của các phiếu học tập. Cuối cùng, chúng tôi
tiến hành phân tích tiên nghiệm các bài toán trong các phiếu học tập. Các phân tích
này cung cấp cái nhìn tổng quan về các bài toán được đưa ra cho học sinh, cũng như
làm cơ sở để đối chiếu và phân tích sau thực nghiệm ở chương 4.
6
Trong chương 4, trước tiên chúng tôi mô tả lại các dữ liệu thực nghiệm thu
thập được của một số cặp học sinh điển hình. Sau đó, chúng tôi tiến hành phân tích
các kết quả chủ yếu từ dữ liệu thu thập được. Dựa trên các lý thuyết đã trình bày ở
Chương 2, chúng tôi sẽ phân tích theo các hướng: mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận
và chứng minh, các dạng ngoại suy học sinh đã sử dụng trong lập luận. Từ đó phát
hiện các khó khăn của học sinh trong việc chuyển đổi cấu trúc lập luận sang chứng
minh và xem xét dạng ngoại suy nào có thể hỗ trợ cho học sinh trong việc chuyển
đổi cấu trúc của lập luận sang chứng minh
Cuối cùng, trong chương 6, chúng tôi đưa ra kết luận cho nghiên cứu này
bằng cách phân tích các yếu tố cho phép trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Bên
cạnh việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu, chúng tôi cũng bàn luận các đóng góp của
nghiên cứu này đối với các vấn đề lớn và có tính khái quát hơn như việc dạy và học
chứng minh trong Toán học. Kết quả nghiên cứu cũng góp phần khẳng định vai trò
chủ đạo của giáo viên trong việc thúc đẩy quá trình lập luận và chứng minh Toán
của học sinh
7
Chƣơng 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Khái niệm chứng minh và lập luận
Trong những ngày đầu tiên, toán học gắn liền với những câu hỏi thực tế về
vấn đề đo đạc đất đai của người Ai Cập và người Hy Lạp. Vì vậy bản chất của toán
học thời kỳ này là xem xét các vấn đề về hình học và lượng giác. Hình học cổ đại và
các tiên đề của Euclid tập trung thảo luận cho các vấn đề này. Có thể nói, thời kỳ
này toán học mang tính hiện tượng, nếu có một người vẽ được một hình vẽ hợp lý
và đưa ra các mô tả cho nó thì đã được xem là một biện minh đối với một vấn đề
toán học. Đôi khi người ta lập luận bằng cách tương tự hoặc bằng cách gọi các vị
thần. Những suy nghĩ về việc chứng minh các phát biểu toán học hầu như không tồn
tại. Không có một khái niệm nào về chứng minh cũng như các cấu trúc lôgic và quy
tắc suy luận không hề được đưa ra. Họ đã nghĩ rằng việc quan sát thực tế hay thực
nghiệm là đủ để biện minh cho các phát biểu toán học. Nhưng sau này, người Hy
Lạp đã tìm được phương pháp để xác định tính đúng hoặc sai của một phát biểu
trong toán học. Họ thấy rằng, toán học không giống như những môn khoa học khác,
nó thường đề cập đến các thực thể vô hạn hoặc số như tập các số tự nhiện hoặc sự
trừu tượng hoá như hình tròn, hình tam giác. Vì vậy, họ là những người đầu tiên
chuyển đổi các phát biểu toán học thành những lập luận lôgic để phân biệt sự khác
nhau giữa những cái có thể và những cái không thể. Dựa vào phương pháp suy diễn,
một phát biểu được họ chứng minh bằng các tiên đề, hoặc các định lý hoặc một
nguyên tắc lôgic (Aristotle, 384 – 322, trước công nguyên). Tiên đề là các khái
niệm, các giả thiết được thừa nhận đúng nhưng không cần sự biện minh (Elements,
Euclid). Định lý bao gồm các phát biểu đã được chứng minh từ các tiên đề. Từ đó,
tất cả những gì liên quan đến toán học đều được bắt đầu từ các tiên đề và một quy
trình chứng minh chặt chẽ (Wolfram, 2002, [41]).
1.1.1 Khái niệm chứng minh
Chứng minh toán học là phương tiện thuyết phục ai đó hoặc chính bản thân
mình về một điều gì đó là đúng bằng cách sử dụng một dãy các lập luận phù hợp và
các quy tắc suy luận đúng. Chẳng hạn, theo Almeida (1994, [4]), chứng minh là một
dãy các mệnh đề, được kết nối với nhau bởi các phép suy luận, mà kết thúc là một
8
mệnh đề kết luận và khởi đầu là các dữ liệu hoặc các sự kiện được thừa nhận hoặc
các nguyên lý:
“A proof is a directed tree of statements, connected by implications, whose
end point is the conclusion and whose starting points are either in the data
or are generally agreed facts or principles” (Almeida, 1994, [4], p.661).
1.1.2 Khái niệm lập luận
Trong toán học, lập luận liên kết với chứng minh một cách chặt chẽ. Mặc dù
lập luận là hoạt động thường xuyên xảy ra trong lớp nhưng không có một khái niệm
chung nào về lập luận. Các nghiên cứu hiện nay cũng không cung cấp cái nhìn sâu
sắc về vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết các quan niệm về lập luận đều thống nhất cho
rằng lập luận trong toán học là quá trình đưa ra những bằng chứng nhằm dẫn đến
một kết luận nào đấy. Ta cũng có thể xem, quá trình lập luận (argumentation) như
một hoạt động diễn ngôn dựa trên các lí lẽ (arguments).
1.2 Các dạng lập luận
Có 3 dạng lập luận thường được đề cập trong nghiên cứu giáo dục toán học:
suy diễn, quy nạp và ngoại suy.
1.2.1 Suy diễn
Suy diễn là quá trình lập luận cho phép xây dựng một kết luận từ một số dữ
liệu và một quy tắc suy luận đã biết (Petemonte, 2007, [30]).
Lập luận suy diễn có các đặc điểm sau :
Suy diễn bắt đầu với một trường hợp tổng quát để đưa ra kết luận
cụ thể.
Suy diễn không dẫn tới một tri thức mới (chỉ dẫn tới kinh nghiệm
để tìm ra một kiến thức mới).
Thiết lập một kết luận có tính chắc chắn.
1.2.2 Quy nạp
Quy nạp là quá trình lập luận cho phép xây dựng một kết luận bằng việc khái
quát hoá một số trường hợp cụ thể (Petemonte, 2007, [30]).
9
Lập luận quy nạp có các đặc điểm sau :
Lập luận quy nạp bắt đầu từ các trường hợp cụ thể đi đến một kết
luận tổng quát.
Lập luận quy nạp sử dụng những cái đã biết để kết luận những cái
chưa biết (phát hiện quy luật chung).
Lập luận quy nạp thường đưa ra kết luận không chắc chắn và cần
được xác minh.
1.2.3. Ngoại suy
Ngoại suy là quá trình lập luận cho phép xây dựng một kết luận từ một sự
kiện quan sát được (Petemonte, 2007, [30]).
Ngoại suy thường có các đặc điểm sau:
Giải thích giả thuyết quan sát được.
Đưa ra các ý tưởng mới và giúp mở rộng tri thức.
Kết luận của một ngoại suy có vẻ hợp lý (plausible) vì kết luận của
nó không thể biết được một cách trực tiếp.
Như vậy, trong khi lập luận suy diễn tìm kiếm các kết luận từ những kết quả
đúng cho trước, lập luận quy nạp tìm kiếm kết quả tổng quát từ những kết quả đúng
của các trường hợp đặc biệt thì ngoại suy đi tìm lời giải thích tốt nhất cho giả thuyết
quan sát được trước đó (Peirce, 1960, [36]) và việc giải thích giả thuyết quan sát
được trong lập luận ngoại suy có thể dùng đến cả lập luận suy diễn và lập luận quy
nạp.
1.3 Ngoại suy và chứng minh trong toán học
1.3.1 Các dạng ngoại suy
Trong đời sống hằng ngày, ngoại suy thường xuất hiện một cách tự nhiện
trong việc giải thích các sự việc hoặc các hiện tượng của con người. Trong Toán,
ngoại suy lại thường xuất hiện trong quá trình dạy học các khái niệm mới thông
qua việc quan sát các tình huống để đưa ra các lời giải thích hoặc quá trình tìm
10
kiếm định lý, công thức mới, tìm kiếm lời giải cho một bài toán .v.v. mà đặc biệt
là trong quá trình chứng minh.
Ngoại suy lần đầu tiên được giới thiệu bởi CS. Peirce (1839 – 1914), một
nhà toán học, triết học, lôgic học người Mỹ nhằm phân biệt với lập luận suy diễn
và lập luận quy nạp. Trong những nghiên cứu đầu tiên của mình, Peirce nhấn
mạnh vào các lôgic hình thức của ngoại suy, ông gọi ngoại suy là ―hypothesis‖
(Peirce, 1867, [34]) và mô tả bằng phép tam đoạn luận :
Với M bất kỳ có đặc điểm P , P’, P‖
S có P, P’, P‖
∴ S có lẽ là M.
( Ở đây, S: là một đối tượng, một trường hợp cụ thể).
Năm 1878, Peirce chú ý đến tầm quan trọng của việc giải thích các vấn đề
ngẫu nhiên liên quan đến ngoại suy và ―hypothesis‖ trở thành phương tiện tìm quy
tắc chung để giải thích một quan sát ngẫu nhiên. Ông ấy đưa ra ví dụ sau :
“Giả sử tôi vào một cái phòng và ở đó tôi tìm thấy một vài cái túi xách có
chứa một số loại đậu. Trên bàn có một ít hạt đậu trắng. Sau một hồi tìm kiếm tôi
chỉ thấy có một túi xách chứa đậu trắng. Tôi dự đoán rằng, số đậu trắng này rơi
ra từ chiếc túi đó”.
Suy luận này được gọi là tạo ra một giả thuyết. Đó là suy luận mà từ một
―quy tắc‖ và một ―kết quả‖ dẫn tới một ―trường hợp‖ (Peirce, 1960, [36]).
Ở đây ta hiểu một trường hợp là một quan sát cụ thể mà trong đó một điều
kiện được thỏa mãn. Chẳng hạn, ―Hàm số có đạo hàm tại ‖ là một
trường hợp. Một quy tắc thường là một mệnh đề có tính khái quát phát biểu rằng
nếu một điều kiện xảy ra thì một điều kiện khác cũng sẽ xảy ra. Chẳng hạn, mệnh
đề ―Nếu một hàm số có đạo hàm tại một điểm thì liên tục tại điểm đó‖ là một quy
tắc. Một kết quả là một quan sát cụ thể, tương tự một trường hợp, nhưng đề cập
đến một điều kiện, điều kiện này phụ thuộc vào một điều kiện khác được liên kết
với nó bởi một quy tắc. Ví dụ, ―hàm số liên tục tại là một kết quả‖.
11
Ta có thể phân biệt cấu trúc dạng tam đoạn luận của các kiểu suy luận suy
diễn, quy nạp và ngoại suy dựa vào ba yếu tố đặc trưng là trường hợp, kết quả và
quy tắc như sau:
Suy diễn Quy nạp Ngoại suy
- Trường hợp - Trường hợp - Kết quả
- Quy tắc - Kết quả - Quy tắc
- Kết quả - Quy tắc - Trường hợp
Đến năm 1880, Peirce tập trung vào vai trò của ngoại suy, ông giới thiệu
thuật ngữ ―retroduction‖ với nghĩa ―tạm thời chấp nhận một giả thuyết‖ và sử
dụng ―hypothesis‖ với nghĩa ―điều gì đó có thể đúng hoặc đúng mà ta có đủ khả
năng để xác minh hoặc bác bỏ bằng cách so sánh các sự việc‖ (Peirce, 1960,
p.1.120, [36]). Đến 1901, Peirce sử dụng thuật ngữ ―abduction‖ thay thế cho
―retroduction‖. Đến 1903, Peirce lại mô tả ngoại suy bằng phép tam đoạn luận,
ngoại suy ở đây được dùng để giải thích các vấn đề quan sát ngẫu nhiên:
Vấn đề C được quan sát ngẫu nhiên
Nếu A đúng thì C là một vấn đề hiển nhiên
∴ Từ đây, có lý do để nghi ngờ C đúng (Peirce, 1960, [36])
Như vậy, đối với Peirce ngoại suy được đề cập để giải thích các quan sát
ngẫu nhiên. Từ quan sát thực tế có một quy tắc nào đó làm cho giả thiết ban đầu
trở nên hợp lý hơn. Kết luận của giả thuyết này tuy có vẻ hợp lý nhưng không
chắc chắn có thể xác minh hoặc bác bỏ. Dựa trên phát biểu của Peirce (1878, [35])
về ngoại suy, Eco (1983, [12]) chỉ ra rằng quy tắc trong phép tam đoạn luận về
ngoại suy của Peirce không nhất thiết phải luôn luôn rõ ràng và có sẵn. Eco (1983,
[12]) mô tả ngoại suy như là việc tìm kiếm một quy tắc tổng quát mà từ đó một
trường hợp cụ thể sẽ tuân theo. Eco phân biệt ba dạng ngoại suy như sau:
Ngoại suy đã mã hoá (overcoded abduction): xảy ra khi người lập
luận nhận thức được chỉ có một quy tắc cho phép giải thích kết quả
quan sát được, giống như quan niệm của Pierce (1878, [35]).
12
Ngoại suy chƣa mã hoá (undercoded abduction): xảy ra khi có nhiều
quy tắc có thể giải thích cho kết quả quan sát được, trong đó người lập
luận phải chọn ra một quy tắc phù hợp.
Ngoại suy sáng tạo (creative abdution): xảy ra khi người lập luận
chưa biết một quy tắc nào để giải thích cho kết quả quan sát được, và
người lập luận phải tìm ra một quy tắc mới để giải thích cho kết quả đó.
1.3.2 Ngoại suy và chứng minh trong giáo dục toán
Theo Pedemonte (2007, [30]), chứng minh trong toán học thường là suy
diễn, nhưng quá trình phát hiện và đưa ra các phỏng đoán thường là các lập luận
ngoại suy. Khi học sinh tham gia vào quá trình chứng minh toán học, họ thường
đến với một ý tưởng. Phân tích những gì mà học sinh thực hiện trong quá trình
chứng minh thông thường là đề cập đến các ngoại suy.
Ngoại suy đã được xem xét trong mối quan hệ với các hoạt động toán học
nói chung trong một số nghiên cứu như Krummheuer, 2007, [21]; Mason,1996,
[25]). Ngoại suy cũng được xem xét trong mối quan hệ với chứng minh toán học
trong các nghiên cứu về giáo dục toán như Arzarello et al. 1998a, [5]; Arzarello et
al. 1998b, [6]; Knipping, 2003a, [18]; Knipping, 2003b, [19]; Pedemonte, 2007,
[30]; Pedemonte, 2008, [31]). Trong các nghiên cứu này, ngoại suy đóng vai trò
quan trọng trong mối quan hệ biện chứng giữa việc phỏng đoán một giả thuyết và
chứng minh một kết quả: ngoại suy hỗ trợ việc chuyển đổi từ quá trình lập luận
sang các phương thức chứng minh. Chẳng hạn, khi giải quyết bài toán kết thúc mở
trong hình học, một số học sinh đã không xây dựng được chứng minh suy diễn vì
không thể chuyển các lập luận ngoại suy thành các lập luận suy diễn trong chứng
minh (Petemonte, 2007, [30]). Điều này cho thấy ngoại suy gây trở ngại cho các
học sinh khi họ phải xây dựng một chứng minh suy diễn. Tuy nhiên, trong các bài
toán về đại số (Pedemonte, 2008, [31]), ngoại suy lại hỗ trợ cho học sinh trong
quá trình chứng minh, học sinh không phải gặp một trở ngại nào trong quá trình
xây dựng chứng minh vì quá trình chứng minh một bài toán trong đại số bao gồm
các thao tác chuyển đổi một công thức từ các công thức đã biết trước. Một nghiên
cứu về các dạng ngoại suy khác nhau được học sinh sử dụng trong quá trình
13
chứng minh (Pedemonte và Reid, 2010, [32]) cho rằng việc xây dựng chứng minh
sẽ dễ dàng hơn đối với học sinh nếu lập luận ngoại suy được học sinh sử dụng là
dạng ngoại suy đã mã hoá. Ngược lại dạng ngoại suy chưa mã hóa hoặc ngoại suy
sáng tạo thường gây trở ngại cho học sinh trong quá trình chứng minh vì rất nhiều
dữ liệu tham gia vào quá trình lập luận, dễ gây nhầm lẫn và làm rối loạn tư duy
của học sinh. Dựa vào các dạng ngoại suy được học sinh sử dụng trong quá trình
chứng minh, nghiên cứu này cũng đã trình bày được các khó khăn của học sinh cả
trong lập luận khi có ngoại suy xảy ra và sau khi xây dựng được chứng minh.
Như vậy, lập luận ngoại suy là một lập luận quan trọng tham gia vào quá
trình phân tích giả thiết và đưa ra các ý tưởng mới nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng
chứng minh toán học. Một số dạng ngoại suy có thể giúp học sinh xây dựng chứng
minh dễ dàng bởi vì chúng hỗ trợ trong việc tìm và chọn một định lý hoặc những
lý thuyết cần thiết để đi tới chứng minh nhưng một số ngoại suy khác lại cản trở,
gây khó khăn cho học sinh trong việc xây dựng chứng minh. Điều này có ý nghĩa
thiết thực đối với việc dạy và học chứng minh. Bởi lẽ, ngoại suy cung cấp cái nhìn
sâu sắc trong việc thu hẹp khoảng cách giữa việc tạo ra giả thuyết để đi đến chứng
minh cho cả học sinh và giáo viên. Do đó, việc phát triển cho học sinh các lập
luận ngoại suy trong quá trình chứng minh toán là điều cần thiết.
1.4 Mối quan hệ giữa lập luận và chứng minh
1.4.1 Các khía cạnh chung giữa lập luận và chứng minh
Trong toán học, lập luận và chứng minh được mô tả qua bốn đặc điểm chức
năng cho phép giải thích các khía cạnh chung của hai khái niệm này:
Lập luận và chứng minh trong toán học được xem như là một sự biện minh
hợp lý. Đặc điểm biện minh này có thể nhìn thấy trong quá trình lập luận để
tạo ra một phát biểu từ một hoặc nhiều phát biểu cho trước (Duval, 1995,
[11]).
Lập luận và chứng minh trong toán học là để thuyết phục. Theo một quan
điểm nhận thức, lập luận và chứng minh trong toán học được phát triển khi
một người nào đó muốn thuyết phục bản thân mình hoặc một người khác về
14
sự thật của một phát biểu (Chazan, 1993, [9]; De Villiers, 1990, [10];
Hanna, 1989, [14]; Healy và Hoyles, 2000, [16]; Lakatos, 1976, [22]).
Lập luận và chứng minh trong toán học được giải quyết cho một đối tượng
phổ thông. Đối tượng ở đây có thể là: một cộng đồng toán học, một lớp học,
giáo viên hoặc chính bản thân mình.
Lập luận và chứng minh trong toán phụ thuộc vào lĩnh vực: đại số, hình
học, giải tích …
Ngoài các khía cạnh chung được đề cập ở trên, mối quan hệ giữa lập luận và
chứng minh đã được các nhà giáo dục toán học nghiên cứu và phân tích theo các
quan điểm khác nhau với nhiều mục đích giáo dục khác nhau.
1.4.2 Mối quan hệ giữa lập luận và chứng minh trong các nghiên cứu giáo dục
toán
Theo quan điểm xã hội và nhận thức luận (Balacheff, 1988, [7]) không thể
đồng nhất lập luận và chứng minh. Theo quan điểm nhận thức và ngôn ngữ (Duval,
1995, [11]), sự khác biệt giữa lập luận và chứng minh cũng được nhấn mạnh. Khi
nghiên cứu mối quan hệ cá nhân với chứng minh toán học như một chuỗi lôgic các
bước suy luận. Duval cho rằng có một ― khoảng cách về mặt cấu trúc‖ giữa lập luận
và chứng minh ngay cả khi chúng sử dụng các dạng kí hiệu giống nhau và cách kết
nối các mệnh đề tương tự nhau. Cấu trúc của một chứng minh có thể được mô tả bởi
một sơ đồ bậc ba: dữ liệu, phát biểu, quy tắc suy luận (tiên đề, định lý, định nghĩa)
và các bước trong chứng minh liên kết với nhau bởi một ―quá trình lặp chu kỳ‖, tức
là kết luận của một bước được xem như là điều kiện cho bước tiếp theo. Trong khi
đó, quá trình lập luận chỉ đưa ra các suy luận dựa trên nội dung. Kết quả của nghiên
cứu này hỗ trợ các quy tắc dạy học đặc biệt, dựa trên các đồ thị mệnh đề, để xây
dựng một bước suy luận.
Theo quan điểm sư phạm, chứng minh toán học là một sản phẩm phải phù
hợp với một mô hình cho trước, nhưng quan trọng là các yếu tố nội dung được học
sinh đưa vào trong quá trình xây dựng chứng minh. Mối quan hệ giữa học sinh và
chứng minh được liên kết bởi các lập luận, không phải bởi một mô hình chính thức.
Từ một quan điểm toán học, Thurston (1994, [39]) ủng hộ mô hình suy diễn trong
15
chứng minh. Theo Thurston, quá trình chứng minh dựa trên các tiêu chuẩn nội dung
chứ không phải dựa trên tiêu chuẩn hình thức. Nhiều ví dụ về tính liên tục đã được
quan sát trong mối quan hệ giữa một bên là các đối tượng phỏng đoán, xác định giả
thuyết hoặc đưa ra phỏng đoán mới, một bên là thực hiện thử nghiệm để đưa ra phát
biểu (Lakatos, 1976, [22]; Thurston, 1994, [39]).
Các nghiên cứu ở Ý (Boero, Garuti, Mariotti, 1996, [8]) tập trung nhấn mạnh
tính liên tục tồn tại giữa quá trình lập luận đi đến các giả thuyết và việc thiết lập một
chứng minh. Tính liên tục này gọi là tính thống nhất nhận thức. Trong quá trình giải
quyết bài toán, một giả thuyết cần được tạo ra trong lập luận. Theo giả thuyết về
tính thống nhất nhận thức, trong một số trường hợp, lập luận này có thể được các
học sinh sắp xếp lại thành một chuỗi lôgic để xây dựng một chứng minh. Các
nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến tính thống nhất nhận thức (Boero, Garuti
.v.v., 1996, [8]) đã chỉ ra rằng, việc chứng minh sẽ dễ dàng hơn đối với học sinh
nếu các hoạt động lập luận dẫn tới việc xây dựng một giả thuyết mà từ đó có thể xây
dựng được chứng minh từ các lập luận.
Một số nghiên cứu thực nghiệm lại chỉ ra rằng một số sinh viên không thể
xây dựng được một chứng minh, ngay cả khi họ biết các định lý để xây dựng nó.
Thực tế này không phù hợp với giả thuyết thông nhất nhận thức (học sinh có thể
thực hiện liên tiếp giữa quá trình tạo ra các giả thuyết và quá trình xây dựng chứng
minh). Phân tích này chỉ ra rằng, không phải mọi trường hợp đều phù hợp với giả
thuyết về tính thống nhất nhận thức (Pedemonte, 2001, [27]; Pedemonte, 2002,
[28]). Nghiên cứu tính thống nhất nhận thức là không đủ để giải thích cho trường
hợp một số sinh viên không có khả năng xây dựng các chứng minh. Như vậy, các
nghiên cứu về tính thống nhất nhận thức mà không liên quan đến tính liên tục giữa
lập luận và chứng minh không chỉ quan trọng để làm rõ các loại liên tục được so
sánh mà nó còn rất hữu ích trong việc tìm một công cụ để phân tích mối quan hệ
nhận thức giữa lập luận và chứng minh (Pedemonte, 2005, [29]).
Để làm rõ hơn sự khác nhau giữa các kết quả nghiên cứu, Petemonte (2002,
[28]; Pedemonte, 2008, [31]) đã so sánh lập luận và chứng minh theo hai quan
điểm: hệ thống tham chiếu và cấu trúc.
16
Hệ thống tham chiếu được tạo thành từ hệ thống biểu đạt (ngôn ngữ, hình vẽ,
heuristic…) và hệ thống các kiến thức (khái niệm, định lý) của lập luận và chứng
minh. Việc phân tích tính thống nhất nhận thức được dựa vào hệ thống tham chiếu.
Chẳng hạn, có tính liên tục trong hệ thống tham chiếu nếu một số từ ngữ, hình vẽ,
định lý được sử dụng trong chứng minh đã được sử dụng trong quá trình lập luận hỗ
trợ cho việc hình thành giả thuyết. Ngược lại nếu lập luận và chứng minh được xây
dựng từ các yếu tố trong các lĩnh vực toán học khác nhau (chẳng hạn lập luận trong
số học và chứng minh trong đại số) thì ta nói có sự gián đoạn giữa lập luận và
chứng minh theo hệ thống tham chiếu.
Cấu trúc là sự kết nối lôgic nhận thức giữa các phát biểu (ngoại suy, quy nạp
và suy diễn). Nó bao gồm các khái niệm về sự liên tục/ gián đoạn cấu trúc giữa lập
luận và chứng minh. Trong nghiên cứu của Petemonte (2007, [30]), khi giải các bài
toán kết thúc mở trong hình học, nhiều học sinh đã không xây dựng được các chứng
minh bởi vì không thể chuyển đổi cấu trúc ngoại suy trong lập luận thành cấu trúc
suy diễn trong chứng minh, một số học sinh đã xây dựng luôn chứng minh ―ngoại
suy‖ bắt đầu từ các lập luận ngoại suy.
Tuy nhiên, theo Petemonte (2008, [31]), tính liên tục/gián đoạn cấu trúc giữa
lập luận và chứng minh không phải khi nào cũng gây khó khăn cho học sinh. Thật
vậy, khi chứng minh các bài toán kết thúc mở trong đại số, mặc dù học sinh đưa ra
lập luận ngoại suy trong quá trình lập luận đi đến giả thuyết nhưng chúng không sử
dụng chúng trong quá trình xây dựng chứng minh, bởi lẽ cấu trúc suy diễn trong
chứng minh rất rõ ràng. Trong các trường hợp đặc biệt, lập luận ngoại suy hữu ích
trong xây dựng chứng minh vì chúng hỗ trợ cho tính liên tục giữa lập luận và chứng
minh trong hệ thống tham chiếu.
Nghiên cứu trong lĩnh vực hình học nhằm phân tích mối quan hệ giữa lập
luận quy nạp và chứng minh quy nạp toán học, Petemonte (2007, [30]) đã chỉ ra
rằng việc xây dựng các chứng minh quy nạp tuỳ thuộc vào dạng khái quát đã sử
dụng trong lập luận quy nạp. Một số học sinh chỉ xây dựng được chứng minh quy
nạp toán học chỉ khi chúng sử dụng quá trình khái quát để tìm ra giải pháp xây dựng
bài toán chứng minh quy nạp toán học.
17
Phân tích tính liên tục nhận thức về mối quan hệ giữa quá trình lập luận quy
nạp trong số học và chứng minh suy diễn trong đại số (Martinez và Petemonte,
2014, [24]) chỉ ra rằng học sinh gặp trở ngại trọng việc chuyển đổi từ một lập luận
trong số học thành lập luận trong đại số và chuyển một lập luận quy nạp thành
chứng minh suy diễn. Học sinh chỉ xây dựng được chứng minh quy nạp toán học
khi chúng sử dụng quá trình khái quát để tìm ra giải pháp xây dựng bài toán chứng
minh quy nạp toán học. Đặc biệt, quá trình khái quát thực hiện được cả trong số học
và đại số đã rút ngắn khoảng cách nhận thức giữa lập luận và chứng minh trong hệ
thống tham chiếu.
Như vậy, trong các nghiên cứu giáo dục toán, mối liên hệ giữa lập luận và
chứng minh đã được làm rõ hơn dựa trên nội dung của giả thuyết thống nhất nhận
thức và cấu trúc giữa lập luận và chứng minh thể hiện trên nội dung của hệ thống
tham chiếu và cấu trúc giữa chúng.
1.5 Kết luận chƣơng 1
Trong chương 1, chúng tôi đã làm rõ khái niệm lập luận (suy diễn, ngoại suy
và quy nạp) và chứng minh trong toán học, mối quan hệ giữa lập luận và chứng
minh trong các nghiên cứu giáo dục toán. Đặc biệt, chúng tôi đã phân tích làm rõ
các dạng ngoại suy khác nhau dựa trên các nghiên cứu của Peirce và Eco.
Có thể nói, quá trình lập luận và chứng minh toán học liên kết với nhau một
cách chặt chẽ. Lập luận và chứng minh trong toán học đều là phương tiện thuyết
phục một đối tượng nào đó về phát biểu đưa ra. Tuy trong quá trình lập luận, phát
biểu đưa ra có thể bị bác bỏ nhưng quá trình chứng minh trong toán không thể thiếu
sự lập luận. Đặc biệt là lập luận ngoại suy, nó không những tham gia vào quá trình
phân tích các giả thiết mà còn đưa ra các ý tưởng mới hỗ trợ cho việc xây dựng các
chứng minh trong mọi lĩnh vực toán học. Với các dạng ngoại suy khác nhau, học
sinh lại đưa ra các ý tưởng khác nhau trong quá trình lập luận. Và quan trọng hơn
nữa là giữa lập luận và chứng minh còn có mối liên hệ về mặt cấu trúc nhận thức.
Cấu trúc nhận thức ở đây được thể hiện trên các khái niệm về tính liên tục/ gián
đoạn cấu trúc giữa lập luận và chứng minh. Vậy, làm thế nào để phân tích cấu trúc
lập luận và chứng minh của học sinh? Mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận
và chứng minh của học sinh được phân tích và làm sáng tỏ như thế nào?... Trong
18
chương 2, chúng tôi sẽ trình bày mô hình Toulmin như một cơ sở lý thuyết và một
công cụ phương pháp luận cho phép phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề liên quan
đến cấu trúc lập luận của học sinh.
19
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Mô hình Toulmin
2.1.1 Cấu trúc của lập luận theo mô hình Toulmin
Lý thuyết tam đoạn luận của Aristotle là lý thuyết đầu tiên mô tả mô hình
cấu trúc của lập luận. Cấu trúc này bao gồm: tiên đề lớn, tiên đề nhỏ và kết luận.
Theo Platin, tam đoạn luận không khám phá được kiến thức mới vì kết luận của nó
chứa trong các tiên đề. Dựa trên tam đoạn luận của Aristotle, Toulmin (1958, [40])
đề xuất một mô hình cấu trúc lập luận dạng đơn giản gọi là mô hình Toulmin cơ
bản. Trong mô hình Toulmin cơ bản, một lập luận bao gồm ba yếu tố:
C (Claim): phát biểu kết luận
D (Data): dữ liệu để biện minh cho phát biểu C
W (warrant): quy tắc suy luận (nguyên lý, định lý …) cho phép
kết nối các dữ liệu D để biện minh cho phát biểu C.
Cấu trúc cơ bản của một lập luận được trình bày như hình 2.1:
Hình 2.1: Mô hình Toulmin cơ bản của một lập luận
Có thể nói, bất kì bước đầu tiên nào của một lập luận cũng được trình bày
bởi một quan điểm (một khẳng định, một ý kiến). Toulmin gọi các quan điểm đó là
các phát biểu. Hay nói cách khác đó là kết luận, là mục tiêu của lập luận. Bước thứ
hai là tìm các dữ liệu D để hỗ trợ cho phát biểu C. Các dữ liệu ở đây có thể là các
bằng chứng, sự kiện, thông tin, ví dụ… Còn W cung cấp các quy tắc hỗ trợ cho việc
thuyết phục, biện minh cho mối liên hệ giữa D và C. W ở đây có thể được trình bày
bởi một nguyên lý, hoặc một quy tắc, hoặc một định lý hoạt động như cầu nối giữa
D và C.
Tuy nhiên, các dữ liệu và quy tắc suy luận nhiều lúc không cho phép chúng
ta chắc chắn tuyệt đối về kết luận vì vậy ba yếu tố tiếp theo là B (Backing), Q
20
(qualifier), Re (rebuttal) được đề cập để đưa vào mô hình Toulmin như hình 2.2, gọi
là mô hình Toulmin dạng đầy đủ:
B (Backing): hỗ trợ thêm cho các quy tắc
Q (qualifier): bày tỏ mức độ tin cậy đối với phát biểu đưa ra. Các
trạng từ thường dùng là: ―đúng‖, ―có lẽ đúng‖, ―có khả năng‖…
Re (rebuttal): các điều kiện ngoại lệ của phát biểu hay đưa ra điều
kiện để bác bỏ phát biểu.
Tính chắc chắn của W sẽ giảm nếu có một trường hợp nào đó ngoại lệ: trong
trường hợp này điều kiện của ngoại lệ hay sự bác bỏ cần được đưa vào. Q cũng ảnh
hưởng đến tính chắc chắn của phát biểu. B là cần thiết nếu như quy tắc suy luận đưa
ra chưa đủ thuyết phục hoặc làm rõ thêm cho quy tắc suy luận được đưa ra.
Mô hình Toulmin đầy đủ của một lập luận được trình bày như hình 2.2:
Hình 2.2: Mô hình Toulmin đầy đủ của một lập luận
2.1.2 Mô hình Toulmin trong các nghiên cứu giáo dục toán về lập luận và
chứng minh
Trong các tài liệu về giáo dục, mô hình Toulmin đã được các nhà nghiên cứu
sử dụng để phân tích và so sánh nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến lập luận
và chứng minh toán học.
Mô hình Toulmin được sử dụng để phân tích và ghi lại quá trình học tập
trong lớp học của học sinh (Krummehuer, 1995, [20]). Mô hình Toulmin được dùng
như là một công cụ tạo ra ngữ cảnh cho các hoạt động lập luận trong lớp (Wood,
1999, [42]).
21
Theo lý thuyết ngôn ngữ học (Plantin, 1990, [37]) chứng minh là một tập
hợp các luận cứ hợp lý được diễn tả như lập luận, những lập luận này cũng được
phân tích và so sánh bằng mô hình Toulmin.
Mô hình Toulmin cũng được sử dụng bởi nhiều nhà nghiên cứu trong giáo
dục toán học (Inglis, Mejia-Ramos, và Simpson, 2007, [17]; Lavy, 2006, [23]) để
kiểm tra các lập luận toán học của học sinh. Mô hình Toulmin trong các nghiên cứu
của Paolo Boero, Nadia Douek, Francesca Morselli, và Bettina Pedemonte (2010,
[26])… cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc so sánh các lập luận của học sinh và
các chứng minh của họ từ quan điểm cấu trúc và nhận thức (Pedemonte 2005, [29];
Pedemonte, 2007, [30]; Pedemonte, 2008, [31]; Pedemonte, 2010, [32]; Pedemonte,
2014, [24]). So sánh này dựa trên giả thuyết chứng minh là một lập luận đặc biệt
trong toán học
Có thể nói, mô hình Toulmin là một công cụ phương pháp luận trong các
nghiên cứu về lập luận và chứng minh, đặc biệt là để phân tích mối liên hệ cấu trúc
giữa lập luận và chứng minh trong những năm gần đây. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chỉ sử dụng mô hình Toulmin cơ bản để phân tích cấu trúc của các bước
lập luận và cấu trúc của các bước chứng minh.
2.2 Phân tích quá trình lập luận và chứng minh dựa trên mô hình Toulmin
2.2.1 Tính thống nhất nhận thức giữa quá trình lập luận và chứng minh
Nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong
ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Tính thống nhất nhận thức được các nhà nghiện cứu ở Ý (Boero, Garuti, Mariotti,
1996, [8]) định nghĩa dựa trên sự liên tục tồn tại giữa quá trình tạo ra một phỏng
đoán và quá trình xây dựng một chứng minh. Đó là trong quá trình giải quyết một
bài toán, một hoạt động tranh luận thường được phát triển để tạo ra các phỏng đoán.
Giả thuyết về tính thống nhất nhận thức là học sinh có thể biện minh tính hợp lý của
các giả thuyết để tạo ra các lập luận và sau đó, sắp xếp, tổ chức các lập luận này
thành một chuỗi lôgic trong quá trình xây dựng chứng minh.
Theo Pedemonte (2002, [28]) có thể nhận ra tính thống nhất nhận thức (tính
liên tục) tồn tại giữa quá trình tạo ra phỏng đoán và quá trình xây dựng chứng minh
22
dựa trên hệ thống tham chiếu. Nó bao gồm: hệ thống biểu đạt (ngôn ngữ, hình vẽ,
heuristic …) và hệ thống kiến thức (các khái niệm và các định lý).
Đối với hệ thống biểu đạt: tính liện tục giữa quá trình tạo ra một phỏng đoán
và quá trình xây dựng một chứng minh xảy ra nếu các từ, cụm từ, câu, các
hình vẽ, các biểu thức đại số … đã sử dụng trong quá trình tạo ra phỏng đoán
được sử dụng lại trong quá trình xây dựng chứng minh.
Đối với hệ thống kiến thức: tính liên tục giữa quá trình tạo ra phỏng đoán và
quá trình xây dựng chứng minh xảy ra nếu các khái niệm, các định lý đã sử
dụng trong quá trình lập luận cho phỏng đoán đã đưa ra được sử dụng lại
trong quá trình xây dựng chứng minh.
Theo Pedemonte (2002, [28]) quá trình giải quyết một bài toán hình học (có
đưa ra các giả thuyết) thường bao gồm 4 giai đoạn:
1. Giai đoạn lập luận để tạo ra phỏng đoán (giả thuyết)
2. Giai đoạn ổn định quá trình xây dựng giả thuyết
3. Giai đoạn xây dựng chứng minh
4. Giai đoạn ổn định và trình bày chứng minh
Như vậy, tính thống nhất nhận thức được định nghĩa giữa giai đoạn 1 và giai
đoạn 3. Nhưng trong quá trình giải quyết bài toán sự tách biệt giữa các giai đoạn
không phải luôn luôn rõ ràng, bởi vì các lý do sau:
Giai đoạn tạo ra phỏng đoán nhiều khi cũng tham gia vào việc biện minh
tính hợp lý của nó .
Quá trình tạo ra phỏng đoán xảy ra nhưng không thể biện minh được tính
hợp lý của nó.
Các phỏng đoán dùng để xây dựng chứng minh có thể được lấy trực tiếp
từ các lập luận tạo ra giả thuyết.
Do đó, tính thống nhất nhận thức được nghiên cứu trực tiếp giữa quá trình
lập luận và chứng minh. Tính thống nhất nhận thức đã được phát triển để giải thích
và dự đoán những khó khăn của học sinh khi họ tiếp cận với chứng minh. Tuy nhiên
trong quá trình thực nghiệm, nhóm nghiên cứu ở Ý (Garuti, Boero và Lemut, 1998,
23
[13]) đã phát hiện một sự khác biệt khác giữa quá trình lập luận và chứng minh. Sự
khác biệt này được định nghĩa là ―khoảng cách‖ giữa lập luận và chứng minh.
2.2.2 Khoảng cách giữa quá trình lập luận và chứng minh
Khoảng cách giữa quá trình lập luận và chứng minh là khoảng cách giữa việc
tạo ra lập luận hợp lý cho giả thuyết và lập luận được xây dựng trong quá trình
chứng minh. Khoảng cách giữa lập luận và chứng minh càng lớn thì càng gây khó
khăn cho học sinh trong quá trình chứng minh (Garuti, Boero và Lemut, 1998, [13]
Pedemonte, 2002, [28]). Để xác định những thách thức mà học sinh gặp phải,
Pedemonte (2002, [28]) đã nghiên cứu các dạng khoảng cách dựa trên các khía
cạnh:
Khoảng cách về văn hoá: xác định thông qua các đối tượng không tham
gia vào quá trình chứng minh, hoặc các đối tượng không hiểu rõ sự hữu
ích, vai trò của chứng minh.
Khoảng cách trong hệ thống tham chiếu: khoảng cách này được chỉ ra khi
tính liên tục (tính thống nhất nhận thức) giữa lập luận và chứng minh
không xảy ra hay còn được gọi là ―ngắt quãng nhận thức‖
Khoảng cách về cấu trúc: thể hiện trên cấu trúc của lập luận, cấu trúc của
chứng minh, mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh.
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích khía cạnh
cấu trúc của quá trình lập luận và chứng minh của học sinh dựa trên mô hình
Toulmin.
2.2.3 Phân tích cấu trúc giữa lập luận và chứng minh dựa trên mô hình
Toulmin
Theo Pedemonte (2007, [31]), sự kết nối lôgic giữa các phát biểu trong lập
luận khác với sự kết nối trong chứng minh. Mỗi bước trong chứng minh có thể được
mô tả như là một bước suy luận suy diễn. Nhưng cấu trúc lập luận không phải chỉ
có cấu trúc suy diễn, mà nó còn bao gồm các bước khác nhau về bản chất: đó là các
bước ngoại suy hoặc các bước quy nạp. Để phân tích làm rõ cấu trúc của lập luận và
chứng minh, chúng tôi sử dụng mô hình Toulmin cơ bản cho mỗi lập luận (hình
2.1).
24
Từ mô hình Toulmin cơ bản, ta có thể phân biệt và làm rõ cấu trúc của các
kiểu suy luận suy diễn, quy nạp và ngoại suy như dưới đây.
2.2.3.1 Cấu trúc của suy diễn, ngoại suy, quy nạp dựa trên mô hình Toulmin
Việc so sánh cấu trúc của lập luận và cấu trúc của chứng minh có thể được
thực hiện trực tiếp từ mô hình Toulmin. Mô hình này cho phép chúng ta xác định
các cấu trúc đó.
Một bước suy diễn được trình bày trong mô hình Toulmin có cấu trúc như
hình 2.3:
Hình 2.3: Mô hình Toulmin của một bước LL suy diễn
Trong đó:
A ⇒ B là một quy tắc (hoặc định lý, nguyên lý…)
A: giả thiết hoặc các dữ liệu cần thiết.
B: là kết luận.
Kết luận của phát biểu được suy ra từ các dữ liệu và quy tắc suy luận cho
trước.
Một bước ngoại suy được trình bày trong mô hình Toulmin có cấu trúc
như hình 2.4:
Hình 2.4: Mô hình Toulmin của một bước LL ngoại suy
Dấu hỏi ở trên có nghĩa là dữ liệu sẽ được tìm kiếm để có thể áp dụng quy
tắc suy luận biện minh cho phát biểu B. Mũi tên luôn hướng về kết luận vì kết luận
là đối tượng mà ta cần phải đi tìm các dữ liệu và quy tắc suy luận phù hợp để biện
minh cho nó.
25
Quá trình quy nạp khác với suy diễn và ngoại suy. Nó được xây dựng bằng
việc khái quát hoá (KQH) các phát biểu hoặc bằng các lập luận đã được quan sát
hay nghiên cứu. Hai quá trình quy nạp (Harel, 2001, [15]) được phân tích trên mô
hình Toulmin là:
khái quát hoá kết quả
khái quát hoá quá trình
Khái quát hoá kết quả được trình bày trong mô hình Toulmin có cấu trúc
như hình 2.5:
Hình 2.5: Mô hình Toulmin của một LL quy nạp bằng KQH kết quả
Khái quát hoá kết quả chú ý đến tính quy tắc ở các kết quả có được trước
đó : E1, E2, …, En. Ở đây C là phát biểu khái quát từ các kết quả E1, E2, …,
En.
Khái quát hoá quá trình được trình bày trong mô hình Toulmin có cấu trúc
như hình 2.6:
Hình 2.6: Mô hình Toulmin của một LL quy nạp bằng
khái quát hoá quá trình
Khái quát hoá quá trình chú ý đến tính quy tắc ở các quá trình lập luận
Ở đây C là phát biểu khái quát các quá trước đó
trình lập luận
26
2.2.3.2 Phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh
Phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh là phân
tích sự kết nối lôgic nhận thức giữa các phát biểu (ngoại suy, quy nạp và suy diễn).
Nó bao gồm các khái niệm về tính liên tục cấu trúc và tính gián đoạn cấu trúc giữa
quá trình lập luận và chứng minh.
Ta nói rằng tính liên tục cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng
minh xảy ra nếu các bước trong quá trình lập luận có cùng cấu trúc
(suy diễn, ngoại suy hoặc quy nạp) với các bước trong chứng minh.
Ngược lại, tính gián đoạn cấu trúc giữa lập luận và chứng minh xảy ra
nếu các bước trong quá trình lập luận và các bước trong chứng minh
có cấu trúc khác nhau.
Tính liên tục và gián đoạn về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh có thể
được mô tả trong bảng 2.1
Bảng 2.1: Mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh
Cấu trúc của LL Cấu trúc của CM Liên tục/ gián đoạn cấu trúc
Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc
― Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc
Ngoại suy Suy diễn
Gián đoạn cấu trúc Kiểu khác
Quy nạp Quy nạp toán học Liên tục cấu trúc
Kiểu khác Gián đoạn cấu trúc
2.3 Mô hình Toulmin và phân tích quá trình ngoại suy
Như đã trình bày ở các phần trước, lập luận ngoại suy tham gia vào quá trình
hình thành giả thuyết và tạo ra các ý tưởng mới trong các hoạt động chứng minh
toán học của học sinh. Dựa trên các nghiên cứu của Peirce và Eco về ngoại suy,
27
Pedemonte (2010, [24]) đã phân tích và so sánh các dạng ngoại suy khác nhau được
học sinh sử dụng trong quá trình lập luận để xây dựng chứng minh. Pedemonte chỉ
ra rằng, một số dạng ngoại suy giúp học sinh xây dựng chứng minh một cách dễ
dàng nhưng cũng có một số dạng ngoại suy khác lại gây khó khăn, thách thức cho
học sinh trong quá trình xây dựng chứng minh.
Các dạng ngoại suy được Pedemonte phân tích dựa trên các nghiên cứu của
Peirce và Eco là: ngoại suy chưa mã hoá (undercoded abduction), ngoại suy đã mã
hoá (overcoded abduction) và ngoại suy sáng tạo (creative abduction). Pedemonte
quan sát các dạng ngoại suy trong các hoạt động toán học của học sinh và việc phân
tích các dạng ngoại suy được thực hiện trên mô hình Toulmin cơ bản (hình 2.1).
2.3.1 Đối với ngoại suy đã mã hoá
Trong ngoại suy đã mã hoá, quy tắc suy luận phù hợp nhất đã được lựa chọn.
Học sinh chỉ có nhiệm vụ phân tích giả thiết, tìm ra các dữ liệu phù hợp để xây
dựng chứng minh.
Mô hình Toulmin của lập luận ngoại suy đã mã hoá có cấu trúc như hình 2.7:
Hình 2.7: Mô hình Toulmin của một LL ngoại suy đã mã hoá
Như vậy, các lập luận liên quan đến ngoại suy đã mã hoá làm cho học sinh
dễ xây dựng chứng minh suy diễn hơn, vì các định lý (quy tắc) sử dụng trong lập
luận là đủ để giải quyết bài toán. Nếu quy tắc tồn tại như một định lý, tất cả các yếu
tố để xây dựng chứng minh đều có mặt. Theo nguyên lý về sự thống nhất nhận thức
các lập luận trước đó được học sinh sử dụng để xây dựng chứng minh nếu họ có thể
sắp xếp các lập luận thành một chuỗi logic.
Tuy nhiên vẫn có một hạn chế trong trường hợp này: nếu định lý không đủ
để thực hiện chứng minh, học sinh có thể thay đổi chiến lược giải quyết bài toán.
Điều này có thể gây khó khăn cho học sinh khi không biết đến các quy tắc phù hợp
28
để xây dựng chứng minh, lúc này các ngoại suy đã mã hoá có thể là một trở ngại
trong việc xây dựng chứng minh của học sinh.
2.3.2 Đối với ngoại suy chƣa mã hoá
Trong ngoại suy chưa mã hoá một vài quy tắc có vẻ hợp lý được đưa ra. Học
sinh có nhiệm vụ chọn trong số đó một quy tắc đúng và phù hợp nhất để xây dựng
chứng minh.
Mô hình Toulmin của LL ngoại suy chưa mã hoá có cấu trúc như hình 2.8 :
Hình 2.8: Mô hình Toulmin của một LL ngoại suy chưa mã hoá
Như vậy, đối với ngoại suy chưa mã hoá, học sinh phải lựa chọn một quy tắc
phù hợp và đúng nhất để xây dựng chứng minh. Điều này có khi sẽ gây khó khăn
cho học sinh nếu các dữ liệu cung cấp không đủ cho việc xây dựng chứng minh thì
học sinh có thể chọn một quy tắc khác và dẫn đến việc HS không biết quy tắc nào là
phù hợp để xây dựng chứng minh.
2.3.3 Đối với ngoại suy sáng tạo
Trong ngoại suy sáng tạo, học sinh chưa có sẵn một quy tắc nào để xây dựng
một chứng minh. Vì vậy, học sinh phải tìm kiếm và tạo ra một quy tắc mới trong
quá trình xây dựng chứng minh.
Mô hình Toulmin của lập luận ngoại suy sáng tạo có cấu trúc như hình 2.9:
Hình 2.9: Mô hình Toulmin của một LL ngoại suy sáng tạo
Như vậy, ngoại suy sáng tạo có lẽ là một dạng ngoại suy khó nhất làm cơ sở
cho một chứng minh suy diễn bởi vì cần phải kiểm tra rất nhiều để khẳng định rằng
29
quy tắc được tạo ra là một định lý đúng và hữu ích. Có thể xảy ra trường hợp quy
tắc tạo ra là sai. Từ đó, dẫn đến việc học sinh xây dựng một chứng minh sai.
Kết luận :
Trong ba dạng ngoại suy được sử dụng để phân tích các hoạt động toán học
mà học sinh sử dụng trong quá trình chứng minh, việc xây dựng một chứng minh
dường như dễ dàng hơn đối với học sinh khi ngoại suy được sử dụng trong quá trình
lập luận là ngoại suy đã mã hoá, bởi vì học sinh chỉ cần tìm kiếm và liên kết các dữ
liệu một cách phù hợp từ các dữ liệu đã có của bài toán Ngược lại, ngoại suy sáng
tạo và ngoại suy chưa mã hoá đòi hỏi học sinh phải tìm kiếm rất nhiều thông tin để
tham gia trong quá trình lập luận nên rất dễ gây nhầm lẫn và làm rối loạn tư duy của
học sinh. Đặc biệt là ngoại suy sáng tạo, quy tắc được học sinh tạo ra trong lập luận
ngoại suy sáng tạo ít nhất phải được chứng minh (hoặc hợp thức) trong quá trình lập
luận. Mặt khác nếu quy tắc được các học sinh tạo ra là sai, thì sẽ dẫn đến một chứng
minh sai. Như vậy, sự liên kết giữa việc tạo ra ngoại suy trong lập luận và xây dựng
chứng minh suy diễn không dễ dàng đối với học sinh. Một số dạng ngoại suy có thể
là ít gây khó khăn, giúp cho học sinh dễ dàng xây dựng chứng minh. Tuy nhiên một
số ngoại suy khác lại gây khó khăn cho học sinh. Điều này cho thấy phương pháp
giảng dạy và vai trò của giáo viên có liên quan đến khả năng lập luận để các ngoại
suy tạo ra không trở thành chướng ngại đối với học sinh trong quá trình xây dựng
chứng minh.
2.4 Vai trò của giáo viên trong quá trình lập luận của học sinh
Phân tích mối quan hệ về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh có vai trò
quan trọng trong việc phát hiện và đánh giá những khó khăn của học sinh trong quá
trình lập luận, cũng như các thách thức mà học sinh gặp phải trong việc chuyển đổi
cấu trúc từ quá trình lập luận (ngoại suy, quy nạp, suy diễn) sang chứng minh (suy
diễn). Như đã phân tích ở trên, ta thấy rằng nếu quá trình lập luận của học sinh chứa
cấu trúc của lập luận suy diễn thì việc xây dựng một cấu trúc suy diễn trong chứng
minh là dễ dàng, nhưng nếu quá trình lập luận của học sinh là ngoại suy hoặc quy
nạp thì việc xây dựng một cấu trúc suy diễn trong chứng minh của học sinh sẽ gặp
khó khăn. Đặc biệt là cấu trúc ngoại suy có dạng chưa mã hoá và cấu trúc ngoại suy
30
sáng tạo. Do đó, giáo viên có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, hướng dẫn, gợi ý
cho học sinh trong quá trình lập luận. Theo Pedemonte (2010, [24]):
Giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn cho học sinh tìm mối liên hệ giữa
các dữ liệu đã có và hỗ trợ cho học sinh trong việc lựa chọn một quy
tắc suy luận (định lý) phù hợp để xây dựng một lập luận có cấu trúc
suy diễn;
Giáo viên có thể gợi ý hoặc khẳng định cho học sinh một quy tắc suy
luận phù hợp nhất mà học sinh có thể lựa chọn nếu quá trình lập luận
của học sinh có cấu trúc ngoại suy chưa mã hoá;
Nếu học sinh sử dụng cấu trúc ngoại suy sáng tạo trong lập luận, giáo
viên cũng có thể gợi ý, định hướng cho học sinh lựa chọn quy tắc
đúng.
Đặc biệt, phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng có vai trò quan trọng
trong quá trình lập luận của học sinh, bởi nó có liên quan đến khả năng đưa ra các
giả thuyết ban đầu của học sinh trước khi bắt đầu giải quyết một bài toán
(Pedemonte, 2010, [24]). Đồng thời giáo viên cũng có vai trò trong việc thúc đẩy
các hoạt động tranh luận của học sinh. Như các nghiên cứu thực nghiệm của Boero,
Garuti và Mariotti (1996, [8]) đã chỉ ra rằng càng thúc đẩy và phát triển các hoạt
động tranh luận của học sinh sẽ giúp học sinh dễ tiếp cận với một chứng minh hơn.
2.5 Câu hỏi nghiên cứu
Các phân tích trong chương 1 cho phép chúng tôi đặt ra một số vấn đề cho
nguyên cứu. Cơ sở lý thuyết trình bày ở Chương 2 giúp chúng tôi định vị cách nhìn
khoa học đối với vấn đề nghiên cứu đặt ra và cho phép cụ thể hoá mục tiêu nghiên
cứu thành các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
Câu hỏi 1: Mối liên hệ về cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng
minh của học sinh được thể hiện như thế nào trong khi giải quyết các bài
toán?
Câu hỏi 2: Các dạng ngoại suy nào được học sinh sử dụng trong quá
trình lập luận? Vai trò của các lập luận ngoại suy này được thể hiện như
thế nào?
31
Câu hỏi 3: Học sinh gặp phải khó khăn như thế nào khi chuyển đổi cấu
trúc từ lập luận sang chứng minh trong quá trình giải quyết một bài toán?
2.6 Kết luận chƣơng 2
Trong chương 2, chúng tôi trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến mô hình
Toulmin và phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh dựa trên mô
hình Toulmin, phân tích các dạng ngoại suy HS có thể sử dụng trong quá trình lập
luận. Đồng thời, chúng tôi cũng nêu lên vai trò của giáo viên trong quá trình lập
luận của học sinh. Việc phân tích các yếu tố lý thuyết này cho phép chúng tôi định
vị cách tiếp cận vấn đề và xác định mục tiêu nghiên cứu, từ đó chúng tôi hình thành
các câu hỏi nghiên cứu phù hợp cho đề tài. Mô hình Toulmin cũng đóng vai trò như
công cụ phương pháp luận để chúng tôi phân tích cấu trúc lập luận và chứng minh
của học sinh thể hiện trong phần sau của luận văn.
32
Chƣơng 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1 Ngữ cảnh và mục tiêu
3.1.1 Ngữ cảnh
Thực nghiệm đã được tiến hành vào học kỳ 2 của năm học 2014 – 2015 trên
đối tượng gồm 16 học sinh của các trường THPT chuyên Quốc học Huế và trường
THPT Tố Hữu. Các học sinh được chọn phần lớn có kết quả học tập môn toán loại
khá trở lên. Nội dung thực nghiệm là quá trình lập luận và chứng minh của học sinh
khi giải quyết các bài toán đặt ra bởi nhà nghiên cứu.
3.1.2 Mục tiêu
Phần thực nghiệm có mục tiêu là thu thập dữ liệu cần thiết và phù hợp về:
Mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh của học sinh khi
giải quyết các bài toán
Các dạng ngoại suy mà học sinh sử dụng trong quá trình lập luận.
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng mô hình Toulmin như là một công cụ phương pháp luận
để phân tích quá trình lập luận và chứng minh của học sinh.
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đặt ra, chúng tôi tiến hành tổ chức thực
nghiệm như sau: 16 học sinh được phân thành 8 nhóm, mỗi nhóm 2 học sinh. Các
nhóm học sinh sẽ tiến hành thảo luận về các nhiệm vụ được giao trên mỗi phiếu học
tập. Sau đó, trình bày bài làm của mình vào các phiếu học tập.
Dữ liệu thu thập bao gồm các file ghi âm về quá trình thảo luận của học sinh
và bài làm của học sinh trên các phiếu học tập.
3.3. Nội dung phiếu học tập
3.3.1. Phiếu học tập 1
Họ và tên: ………………………..
Lớp: …………………
PHIẾU HỌC TẬP 1
33
Bài toán 1:
Cho tam giác ABC, về phía ngoải tam giác, dựng các tam giác ABD và BCE vuông
cân tại B. Hãy so sánh diện tích tam giác ABC và BDE ?
Phân tích tiên nghiệm:
Đối với bài toán này HS có thể giải quyết như sau:
Hƣớng giải Hình vẽ
1. Sử dụng công thức diện tích dạng
lƣợng giác: S = ½ absin ̂
Ta có:
2. Dựng đƣờng cao trong tam giác
Ta có:
3. Sử dụng phép quay:
Ta có:
DB là đường trung tuyến của tam giác
DEC’
Do đó:
34
4. Dựng hình bình hành:
Dựng hình bình hành ABCD’, ta có:
Do đó:
Với mỗi hướng giải quyết, một cấu trúc của lập luận suy diễn hoặc cấu trúc
của lập luận ngoại suy đều có thể được thiết lập bởi học sinh. Do đó, một cấu trúc
liên tục hoặc một cấu trúc gián đoạn giữa lập luận và chứng minh đều có thể xảy ra.
Phân tích cấu trúc của lập luận ngoại suy có thể xảy ra:
Đối với hƣớng giải 1: Quan sát hình vẽ bằng trực giác hoặc các phép đo đạc,
HS có thể khẳng định diện tích hai tam giác bằng nhau, từ đó HS đi đến tìm
kiếm dữ liệu để biện minh sin ̂ = sin ̂ .
Đối với hƣớng giải 2: Quan sát hình vẽ, bằng trực giác hoặc các phép đo
đạc, HS có thể khẳng định diện tích tam giác ABC bằng diện tích tam giác
DBE. Mà nhận thấy đáy bằng nhau nên dựng các đường cao tương ứng và so
sánh chúng. Việc so sánh hai đường cao dẫn HS đi đến tìm kiếm dữ liệu để
lập luận tam giác CHB bằng tam giác EKB
.
35
Phân tích cấu trúc của lập luận suy diễn có thể xảy ra :
Đối với hƣớng giải 1: Từ các giả thiết đã cho của bài toán, HS lập luận sin
ABC = sin DBE, sử dụng công thức diện tích dạng lượng giác, HS kết luận
diện tích hai tam giác cần so sánh bằng nhau
Đối với hƣớng giải 2: HS dựng các đường cao CH và EK. Sau đó chứng
minh tam giác BCH bằng tam giác EKB và suy ra CH = EK. Từ đó đi đến
kết luận diện tích hai tam giác bằng nhau.
36
Đối với hƣớng giải 3: Sử dụng phép quay tâm B, góc quay 900, HS có thể
suy ra diện tích tam giác ABC bằng diện tích tam giác BDC’, sử dụng tính
chất đường trung tuyến, HS suy ra diện tích tam giác BDC’ bằng diện tích
tam giác DBE. Từ đó đi đến kết luận diện tích hai tam giác cần so sánh bằng
nhau.
Đối với hƣớng giải 4: Dựng hình bình hành ABCD’, HS lập luận được diện
tích tam giác DBE bằng diện tích tam giác BAD’ và diện tích tam giác ABC
bằng diện tích tam giác BAD’ nên diện tích hai tam giác cần so sánh bằng
nhau.
Dự đoán về việc thiết lập cấu trúc giữa lập luận và chứng minh của học sinh:
Từ các lập luận suy diễn, học sinh sẽ dễ dàng xây dựng một chứng minh suy
diễn. Khi đó tính liên tục cấu trúc giữa lập luận và chứng minh được hình
thành
Từ các lập luận ngoại suy, HS có thể chuyển thành các lập luận suy diễn để
xây dựng một chứng minh suy diễn. Khi đó tính gián đoạn cấu trúc giữa lập
luận và chứng minh được hình thành.
37
Hƣớng Cấu trúc Cấu trúc của Liên tục / gián Dự đoán về khả
giải của LL CM đoạn cấu trúc năng thiết lập CM
Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh 1
Suy diễn Ngoại Gián đoạn cấu trúc Có khả năng xây dựng
suy chứng minh ―Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc
Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh 2
Suy diễn Ngoại Gián đoạn cấu trúc Có khả năng xây dựng
suy chứng minh ―Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc
3 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh
4 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh
Dự đoán về việc sử dụng các dạng ngoại suy của học sinh:
Theo hướng giải 1 (có cấu trúc ngoại suy): HS có thể chỉ sử dụng công thức
lượng giác sinx = sin(1800-x) để đi đến kết luận sin ̂ = sin ̂, tức là HS
chỉ tìm các dữ liệu để biện minh cho kết luận theo quy tắc trên. Do đó, HS có
thể hình thành nên lập luận có cấu trúc của dạng ngoại suy chƣa mã hoá.
Theo hướng giải 2 (có cấu trúc ngoại suy): HS có thể sử dụng một trong các
quy tắc sau để đi đến kết luận .
Quy tắc 1: hai tam giác bằng nhau theo trường hợp : cạnh - cạnh – cạnh
Quy tắc 2: hai tam giác bằng nhau theo trường hợp: cạnh - góc – cạnh
Quy tắc 3: hai tam giác bằng nhau theo trường hợp : góc - cạnh – góc .v.v.
Do đó, HS có thể hình thành nên lập luận có cấu trúc của dạng ngoại suy
chƣa mã hoá.
38
Đặc biệt, HS cũng có thể tạo ra một quy tắc nào đó và lập luận để đi đến kết
luận . Khi đó, ta có cấu trúc của ngoại suy sáng tạo.
3.3.2. Phiếu học tập 2
Họ và tên : ……………………………….
Lớp: …………………
PHIẾU HỌC TẬP 2
Bài toán 2: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự. Trên nửa mặt phẳng bờ
AC, dựng các hình vuông ABEF và BCDG. Gọi M, N lần lượt là trung điểm của
AG và CE. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì? Tại sao?
Phân tích tiên nghiệm
Với bài toán này, HS có thể giải quyết như sau:
Hƣớng giải Hình vẽ
1. Sử dụng phép quay
N là trung điểm của EC
M là trung điểm của AG
Do đó: tam giác NBM vuông cân tại B
2. Sử dụng các dữ liệu ban đầu của
bài toán
(1)
̂ ̂ ( )
̂ ̂ ̂ (2)
Từ (1), (2) suy ra tam giác NBM vuông
cân tại B.
39
Các hướng giải ở trên có thể được học sinh hình thành theo một quá trình lập
luận kiểu suy diễn hoặc ngoại suy.
Phân tích cấu trúc lập luận suy diễn có thể xảy ra :
Đối với hƣớng giải 1: HS lập luận được phép quay tâm B góc quay 900 biến
M thành N nên kết luận tam giác BMN vuông cân tại B.
Đối với hƣớng giải 2: Từ các giả thiết đã cho của bài toán, HS lập luận tam
giác ABG bằng tam giác EBC để suy ra BN = BM, và tìm mối liên hệ giữa
các góc và đi đến kết luận ̂ nên kết luận tam giác BMN vuông
cân.
Phân tích cấu trúc lập luận ngoại suy có thể xảy ra (theo hƣớng giải 2):
Quan sát hình vẽ hoặc bằng đo đạc, học sinh có thể khẳng định tam giác
BMN vuông cân, từ đó đi đến việc tìm kiếm dữ liệu để kết luận BM = BN và
40
Dự kiến về tính liên tục/gián đoạn về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh của
học sinh:
Từ các lập luận suy diễn, học sinh sẽ dễ dàng xây dựng một chứng minh suy
diễn. Khi đó tính liên tục cấu trúc giữa lập luận và chứng minh được hình
thành
Từ các lập luận ngoại suy, HS có thể chuyển thành các lập luận suy diễn để
xây dựng một chứng minh suy diễn. Khi đó tính gián đoạn cấu trúc giữa lập
luận và chứng minh được hình thành.
Hƣớng Cấu trúc Cấu trúc của Liên tục/ gián Dự đoán về khả
giải của LL CM đoạn cấu trúc năng thiết lập CM
1 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh
Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
chứng minh
2 Suy diễn Ngoại Gián đoạn cấu trúc Có khả năng xây dựng
suy chứng minh ―Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc
41
Dự đoán về việc sử dụng các dạng ngoại suy của HS:
Theo hƣớng giải 2 (có cấu trúc ngoại suy): HS chỉ sử dụng định nghĩa phép quay (phép quay tâm B, góc quay 900) đi đến kết luận tam giác BMN
vuông cân. Do đó, HS có thể hình thành cấu trúc của ngoại suy đã mã hoá.
Theo hƣớng giải 2 (có cấu trúc ngoại suy): HS có thể sử dụng các quy tắc
như định lý đảo của định lý Pytago; ̂ ; ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ .v.v. để
chứng minh tam giác MBN vuông và sử dụng các quy tắc như: BN = BM;
̂ ̂ ; đường trung tuyến đồng thời là đường cao (đường phân giác,
đường trung trực) hoặc ngược lại … để chứng minh tam giác MBN cân. Do
đó, HS có thể hình thành cấu trúc của lập luận ngoại suy chƣa mã hoá.
Đặc biệt, HS cũng có thể tạo ra một quy tắc nào đó để đi đến kết luận tam
giác MBN vuông cân. Khi đó, ta có cấu trúc của lập luận ngoại suy sáng
tạo.
3.3.3. Phiếu học tập 3
Họ và tên: ………………………………………
Lớp: ……………………………………………
PHIẾU HỌC TẬP 3
Bài toán 3:
Cho các hình vẽ sau:
Hỏi hình n sẽ có bao nhiêu hình tam giác? Giải thích?
Phân tích tiên nghiệm:
Hƣớng giải quyết: HS đếm số hình tam giác của các hình vẽ đã cho và tìm
quy luật về số tam giác giữa các hình để đi đến kết luận H(n) = 4n -3.
42
Số hình tam giác có trong hình 1 là H (1) = 1
Số hình tam giác có trong hình 2 là H(2) = 5 = H(1)+4 = 1+4
Số hình tam giác có trong hình 3 là H(3) = 9 = H(2)+4 = 1+4+4
Số hình tam giác có trong hình 4 là H(4) = 13= H(3)+4 = 1+4+4+4
…
Số hình tam giác có trong hình n là H(n) = 1+4(n-1) = 4n-3
Cách giải này có thể được học sinh hình thành theo một quá trình lập luận
quy nạp bằng khái quát hoá (khái quát hoá kết quả hoặc khái quát hoá quá trình).
Phân tích một lập luận quy nạp có thể xảy ra bằng khái quát hoá kết
quả
Phân tích một lập luận quy nạp có thể xảy ra bằng khái quát hoá quá
trình
Từ các kết quả có được, học sinh có thể xây dựng một chứng minh quy nạp
toán học như sau :
43
Chứng minh: H(n)= 4n-3 (*)
Với n =1 ta có : H(1) = 4.1-3 =1 nên (*) đúng
Giả sử (*) đúng với n = k tức là H(k) = 4k-3.
Ta cần chứng minh (*) đúng với n = k+1
Ta có: H(k+1) = H(k) + 4 = 4k - 3 + 4 = 4k+1 ⇒ (*) đúng với mọi n.
Phân tích cấu trúc chứng minh dựa theo mô hình Toulmin
Dự đoán về việc thiết lập một chứng minh theo hƣớng giải trên: học sinh có thể
dễ dàng xây dựng một chứng minh quy nạp toán học dựa vào lập luận quy nạp bằng
khái quát hoá quá trình, nhưng gặp khó khăn khi xây dựng một chứng minh quy nạp
dựa vào lập luận quy nạp bằng khái quát hoá kết quả. HS có thể thiết lập cấu trúc
giữa lập luận và chứng minh như sau:
Cấu trúc của Cấu trúc Liên tục/ Dự đoán khả năng thiết lập
LL của CM gián đoạn chứng minh của học sinh
cấu trúc
Quy Quy nạp Liên tục cấu Một chứng minh có thể sẽ dễ dàng
nạp toán học trúc được xây dựng Quá
bằng trình Không xây dựng được chứng minh Gián đoạn khái cấu trúc quát
hoá Kết Quy nạp Liên tục cấu Có khả năng để xây dựng chứng
quả toán học trúc minh
44
Không xây dựng được chứng minh Gián đoạn
cấu trúc
3.3.4. Phiếu học tập 4
Họ và tên: …………………………………….
Lớp: ……………………
PHIẾU HỌC TẬP 4
Bài toán 4:
Cho hình chóp S.ABCD có đáy là hình thoi tâm O, SO vuông góc với đáy. Gọi I, J
lần lượt là trung điểm của AB và BC.
Đường thẳng IJ có vuông góc mp (SBD) không? Tại sao?
Phân tích tiên nghiệm:
Đối với bài toán này HS có thể giải quyết như sau:
Hƣớng giải Hình vẽ
1. Sử dụng định nghĩa giữa đƣờng
thẳng và mặt phẳng
IJ⊥ BD và IJ⊥SO ⇒ IJ⊥(SBD)
2. Sử dụng mối liên hệ về quan hệ
song song và quan hệ vuông góc
giữa đƣờng thẳng và mặt phẳng
IJ ∥AC và AC⊥ (SBD) ⇒ IJ ⊥(SBD)
3. Sử dụng phƣơng pháp toạ độ trong
không gian
Chọn hệ trục toạ độ Oxyz như sau: Gốc
O trùng với tâm của hình thoi, trục Ox đi
qua OB, trục Oy đi qua OC, Oz đi qua
45
OS. Khi đó: B(b, 0, 0), C(0,c,0),
S(0,s,0), D(-b, 0, 0), A(0, -c, 0), I(b/2, -
c/2, 0), J(b/2, c/2 ,0).
Ta có: ⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ ⇒IJ ⊥ BD và ⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗
⇒ IJ ⊥ BS. Do đó: IJ ⊥ (SBD)
Với mỗi hướng giải quyết, cấu trúc của lập luận suy diễn hoặc cấu trúc của
lập luận ngoại suy đều có thể được thiết lập bởi học sinh.
Phân tích cấu trúc lập luận ngoại suy có thể xảy ra:
Đối với hƣớng giải 1: Quan sát hình vẽ bằng trực giác, HS có thể khẳng
định đường thẳng IJ vuông góc với mp(SBD). Mà nhận thấy IJ vuông góc
với SO. Từ đó đi đến việc tìm kiếm các dữ liệu để IJ vuông góc với BD
Đối với hƣớng giải 2: Quan sát hình vẽ bằng trực giác, HS có thể khẳng
định đường thẳng IJ vuông góc với mp(SBD). Mà nhận thấy AC vuông góc
với BD. Từ đó đi đến việc tìm kiếm các dữ liệu để lập luận AC vuông góc
với mp(SBD) và IJ song song với AC
46
Phân tích cấu trúc lập luận suy diễn có thể xảy ra:
Đối với hƣớng giải 1: HS lập luận được IJ vuông góc với BD và IJ vuông
góc với SO nên đi đến kết luận IJ vuông góc với mp( SBD)
Đối với hƣớng giải 2: HS lập luận được IJ song song với AC và AC vuông
góc với mp(SBD) nên đi đến kết luận IJ vuông góc với mp(SBD).
47
Đối với hƣớng giải 3: Chọn hệ trục toạ độ Oxyz như sau: Gốc O trùng với
tâm của hình thoi, trục Ox đi qua OB, trục Oy đi qua OC, Oz đi qua OS. HS
tìm toạ độ các điểm của hình chóp và tính tích vô hướng của ⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ , ⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗ từ
đó đi đến kết luận IJ vuông góc với mp(SBD)
Dự kiến về tính liên tục/ gián đoạn cấu trúc giữa lập luận và chứng minh của
học sinh:
Từ các lập luận suy diễn, học sinh sẽ dễ dàng xây dựng một chứng minh suy
diễn. Khi đó tính liên tục cấu trúc giữa lập luận và chứng minh được hình
thành.
Từ các lập luận ngoại suy, HS có thể chuyển thành các lập luận suy diễn để
xây dựng một chứng minh suy diễn. Khi đó tính gián đoạn cấu trúc giữa lập
luận và chứng minh được hình thành.
Hƣớng Cấu trúc Cấu trúc Liên tục/ gián đoạn Dự đoán khả năng
giải của LL của CM cấu trúc thiết lập CM
1 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
được chứng minh
Ngoại suy Suy diễn Gián đoạn cấu trúc Có khả năng xây
dựng được chứng ―Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc minh
2 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
được chứng minh
48
Ngoại suy Suy diễn Gián đoạn cấu trúc Có khả năng xây
dựng được chứng ―Ngoại suy‖ Liên tục cấu trúc minh
3 Suy diễn Suy diễn Liên tục cấu trúc Dễ dàng xây dựng
được chứng minh
Dự đoán việc sử dụng các dạng ngoại suy của HS:
Theo hƣớng giải 1 (có cấu trúc ngoại suy): HS có thể chỉ sử dụng định nghĩa
đường thằng vuông góc với mặt phẳng và tìm kiếm dữ liệu phù hợp để đi đến
kết luận. Do đó, HS có thể hình thành nên cấu trúc của ngoại suy đã mã
hoá.
Theo hƣớng giải 1, 2 (có cấu trúc ngoại suy): HS có thể sử dụng một trong
các quy tắc sau để đi đến kết luận IJ song song với AC
Quy tắc 1: tính chất đường trung bình
Quy tắc 2: cặp góc so le trong, căp góc đồng vị
Quy tắc 3: mối liên hệ giữa song song và vuông góc .v.v.
Do đó, HS có thể hình thành cấu trúc của ngoại suy chƣa mã hoá.
Đặc biệt, HS cũng có thể tạo ra một quy tắc nào đó để đi đến kết luận đường
thẳng IJ vuông góc với mp(SBD). Khi đó, cấu trúc lập luận của HS có dạng
của ngoại suy sáng tạo.
3.4 Kết luận chƣơng 3
Chương này đóng vai trò phương pháp luận của nghiên cứu. Trong chương
này, chúng tôi đã trình bày ngữ cảnh, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu của thực
nghiệm. Sau đó, chúng tôi đã tiến hành phân tích tiên nghiệm các bài toán trong các
phiếu học tập. Các phân tích này cung cấp cái nhìn tổng quan về các bài toán được
đưa ra cho học sinh, cũng như làm cơ sở để đối chiếu và phân tích sau thực nghiệm
ở chương 4.
49
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong chương này chúng tôi mô tả lại các kết quả định tính từ các đoạn trích
được ghi âm và các phiếu học tập của học sinh. Dựa trên các đoạn trích được ghi
âm và các phiếu học tập, chúng tôi sẽ phân tích theo hai hướng :
Mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh
Các kiểu ngoại suy mà học sinh đã sử dụng trong quá trình lập luận.
4.1. Phân tích bài làm của học sinh
Mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh: Chúng tôi tiến hành
phân tích tất cả các đoạn trích đã được ghi âm từ học sinh, sử dụng mô hình
Toulmin, chúng tôi xác định cấu trúc của các lập luận mà học sinh sử dụng trong
các đoạn trích. Tiếp theo, chúng tôi phân tích các bài làm của học sinh trên các
phiếu học tập mà HS đã thực hiện nhằm xem xét cấu trúc chứng minh mà học sinh
đã thể hiện. Sau đó, chúng tôi kết luận về mối quan hệ cấu trúc giữa quá trình lập
luận và chứng minh của học sinh bao gồm : tính liên tục về cấu trúc giữa lập luận
và chứng minh và tính gián đoạn về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh
Các dạng ngoại suy được HS sử dụng: Chúng tôi tiến hành lựa chọn một số
đoạn ghi âm có cấu trúc ngoại suy đã được phân tích ở trên. Dựa vào đó chúng tôi
xác định các kiểu ngoại suy mà học sinh đã sử dụng.
4.1.1 Mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh
Chúng tôi tiến hành như sau: lập bảng gồm hai cột, cột bên trái, chúng tôi
phân tích các lập luận của học sinh trong quá trình thảo luận và bài làm của học sinh
trên các phiếu học tập. Cột bên phải, sử dụng mô hình Toulmin, chúng tôi tiến hành
phân tích cấu trúc lập luận và chứng minh của học sinh. Sau đó, chúng tôi xác định
mối liên hệ về cấu trúc giữa lập luận và chứng minh như sau:
Tính liên tục cấu trúc giữa lập luận và chứng minh: tính liên tục này xảy
ra nếu các bước trong quá trình lập luận có cùng cấu trúc (suy diễn, ngoại suy hoặc
quy nạp) với các bước trong chứng minh.
50
Tính gián đoạn cấu trúc giữa lập luận và chứng minh: tính gián đoạn xảy
ra nếu các bước trong quá trình lập luận và các bước trong chứng minh có cấu trúc
khác nhau.
4.1.1.1 Bài toán 1:
Bài toán 1:
Cho tam giác ABC, về phía ngoải tam giác dựng các tam giác ABD và BCE vuông
cân tại B. Hãy so sánh diện tích tam giác ABC và BDE?
Bài làm của Thu Sƣơng – Huyền Trang: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy
diễn( tính gián đoạn cấu trúc)
HS sử dụng công thức diện tích tam giác bằng ½ tích hai cạnh kề nhau nhân
với cosin góc xen giữa hai cạnh đó. HS khẳng định để diện tích hai tam giác bằng
nhau thì phải chứng minh sin ̂ = sin ̂.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
1. S: Cho tam giác ABC, vẽ đi! Hình vẽ của học sinh
2. T: Rồi
3. S: Về phía ngoài tam giác dựng tam
giác ABD
4. T: ABD
5. S: ABD vuông cân và BCE vuông
cân, hai tam giác đều vuông cân tại
E
HS quan sát hình vẽ khẳng định diện 6. T: Tại B, vuông cân tại B
tích hai tam giác bằng nhau. HS nhận 7. S: So sánh diện tích tam giác ABC
thấy AB = BD và BC = BE nên sử dụng và BDE
công thức diện tích tam giác bằng ½ 8. T: Diện tích bằng nhau !
tích hai cạnh kề nhau nhân với cosin 9. S: Nối ABD đi! đánh dấu vuông cân.
góc xen giữa hai cạnh đó 10. T: AB bằng BD, BC bằng BE…
mình sử dụng công thức diện tích
51
bằng ½ tích hai cạnh nhân với sin C1: Diện tích tam giác ABC bằng:
góc xen giữa? Diện tích tam giác SABC = ½ AB.BC.sin ̂ ABC bằng ½ nhân với AB.BC nhân C2: Diện tích tam giác BDE bằng: sin góc ABC.
SBDE = ½ BD.BE. sin ̂ 11. S: Diện tích của tam giác BDE bằng
½ nhân BD nhân BE nhân sin DBE.
…
13. S: Cần so sánh hai sin bằng nhau là
được.
HS khẳng định diện tích tam giác ABC
bằng diện tích tam giác BDE thì sin
̂ = sin ̂.
Sau đó, HS tìm kiếm dữ liệu để biện 14. T: Có là, bên này là sin ABC, bên
minh cho khẳng định sin ̂ =
sin ̂ này là sin DBE. Có 4 góc này cộng lại là 3600 đó là ABC cộng góc ABD
C5: ̂ ̂ ̂ ̂
cộng góc DBE cộng góc EBC là bằng 3600 mà hai góc vuông. (trong đó: ̂ ̂ )
HS sử dụng công thức lượng giác của
hai góc bù nhau: để 15. S: Hai góc còn lại là ABC và DBE. 16. T: là sẽ bằng 3600 trừ 1800 là do hai góc vuông, mà có sina= sin(1800-a),
hai góc bù nhau, sin của hai góc bù suy ra sin ̂ = sin ̂
nhau bằng nhau, được chưa?
17. S: Ừ
18.T: Suy ra sinABC = sin DBE.
52
Lập luận của HS ở trên có cấu trúc ngoại suy. Bằng việc khẳng định diện tích
hai tam giác bằng nhau qua quan sát hình vẽ, dựa vào công thức tính diện tích tam
giác (S = ½ absin ̂), HS khẳng định sin ̂ = sin ̂. Sau đó, HS đã tìm kiếm
các dữ liệu để biện minh cho khẳng định sin ̂ = sin ̂.
Sau khi dữ liệu đã tìm thấy, HS đã xây dựng một chứng minh như sau:
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
Sử dụng công thức lượng giác
, HS kết luận sin
̂ = sin ̂.
Nhận thấy rằng, chứng minh của học sinh đều chứa các lập luận có cấu trúc
suy diễn (HS đưa ra các dữ liệu để kết luận sin ̂ = sin ̂, từ đó dựa vào công
thức diện tích tam giác dạng lượng giác, HS kết luận diện tích hai tam giác ABC và
BDE bằng nhau). Như vậy, từ các lập luận có cấu trúc ngoại suy, học sinh đã xây
dựng một chứng minh có cấu trúc suy diễn. Tức là, HS đã chuyển các lập luận có
cấu trúc ngoại suy thành các lập luận có cấu trúc suy diễn trong chứng minh. Do đó,
quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự gián đoạn về cấu trúc. Ở đây,
53
phép ngoại suy trong quá trình lập luận đã hỗ trợ học sinh thiết lập được một chứng
minh suy diễn.
Bài làm của Hợp - Hải Tuấn: Lập luận ngoại suy và chứng minh ―ngoại suy”
( tính liên tục cấu trúc)
Học sinh sử dụng công thức diện tích tam giác bằng một phần hai đường cao
nhân với cạnh đáy tương ứng để so sánh diện tích hai tam giác. HS nhận thấy hai
tam giác cần so sánh có hai cạnh bằng nhau nên đã dựng các đường cao tương ứng
(đường cao EH và CK). Sau đó HS tìm kiếm các dữ liệu để suy ra hai đường cao
bằng nhau và kết luận diện tích hai tam giác bằng nhau.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
10. Tuấn: Mình sử dụng diện tích tam giác HS nhận thấy hai tam giác cần so
sẽ bằng đường cao, cạnh đáy nhân với sánh có hai cạnh bằng nhau (BD =
đường cao tương ứng, mà giờ mình có BA) nên dựng hai đường cao EH
cạnh BD, BD bằng với AB rồi. và CK tương ứng.
11. Hợp: Ừ Hình vẽ của học sinh:
12. Tuấn: giờ mình chỉ cần vẽ đường cao,
hạ đường cao tương ứng với hai cạnh
đáy nữa và so sánh chúng với nhau, là
biết diện tích hai tam giác ABC và
BDE.
….
22 Hợp: là có đáy bằng nhau rồi
23. Tuấn: giờ chỉ cần so sánh hai đường
cao là biết diện tích thôi.
HS lập luận vì đáy bằng nhau nên 24. Hợp: Ừ. cần so sánh hai đường cao EH và …. CK
28. Hợp: À, giờ chứng minh EH bằng CK,
mình tìm xem có hai tam giác nào bằng
54
nhau không?
29. Tuấn: Xem tam giác BCK với BEH có
bằng nhau không?
30. Hợp: Có góc vuông này, đường cao,
góc vuông.
31. Tuấn: rồi
32. Hợp: BE bằng BC, giả thiết.
33. Tuấn: giờ mình cần chứng minh thêm
HS biện minh hai đường cao EK và một cạnh hoặc một góc nữa bằng nhau
CH bằng nhau bằng việc tìm kiếm 34. Hợp: cạnh này. Chắc không được rồi,
các dữ liệu để biện minh hai tam cạnh không có bằng nhau, góc xem ?
giác BCK và tam giác BEH bằng …
nhau. 36 Hợp: KBC
37. Tuấn: bù với góc, bù với góc DBE.
…
42. Hợp: BDE, à rồi rồi
43. Tuấn: hai góc ấy bù với nhau, trong
tam giác EBH cũng có góc EBH cũng
bù với góc DBE.
44. Hợp: DBE, à rồi
45. Tuấn: Nên mình suy ra được góc EBH
bằng góc KBC.
Ở đây, các lập luận của học sinh có cấu trúc ngoại suy. Trong các lập luận
của học sinh có ba lập luận ngoại suy được xây dựng. Để so sánh diện tích hai tam
giác ABC và BDE thì so sánh hai đường cao EH và CK (khẳng định C1). Việc so
sánh EK và CK dựa vào hai tam giác BCK và BEH. HS tìm kiếm dữ liệu để lập
luận hai hai tam giác BCK và BEH bằng nhau (khẳng định C3).
Sau khi dữ liệu đã được tìm thấy, HS đã xây dựng chứng minh, nhưng HS
xây dựng một chứng minh có cấu trúc ―ngoại suy‖ vì trong chứng minh của học
sinh còn tồn tại cấu trúc của một lập luận ngoại suy.
55
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
C1: SABC = ½ AB.CK
C2: SBDE = ½ BD.EH
Như vậy, quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự liên tục về cấu
trúc vì trong quá trình lập luận, các lập luận của học sinh có cấu trúc ngoại suy và
trong quá trình chứng minh, cấu trúc của lập luận ngoại suy vẫn còn tồn tại. Ở đây,
có thể nói, học sinh vẫn gặp khó khăn trong việc chuyến đổi một lập luận ngoại suy
thành một lập luận suy diễn.
Bài làm của Thuỳ Vân - Cẩm Tiên: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy diễn
(tính gián đoạn về cấu trúc)
Để so sánh diện tích của hai tam giác ABC và BDE, HS đã dựng đường cao
AK và DF và so sánh hai đường cao này vì HS đã thấy được hai tam giác cần so
sánh diện tích có hai cạnh đáy bằng nhau.
Lập luận của HS Phân tích bằng mô hình Toulmin
7. Vân: Có liên quan đến diện tích, HS thấy rằng hai tam giác ABC và
vuông và bằng nhau, cạnh bằng cạnh BDE có BA = BD, BC = BE nên dựng
chắc là vẽ đường cao ở đây. đường cao AK và DF tương ứng với
56
8. Tiên: Vẽ đường cao tam giác phải hai cạnh đáy BC và BE để chứng minh
không ? Hình vẽ của học sinh
…
12. Vân: BD = BA, … lạ kỳ chưa. À,
muốn tính cái này là mình vẽ đường
cao ở đây, bởi vì liên quan đến tam
giác này, mình vẽ đường cao ở đây,
thì có đường này bằng tam giác bên
này và bên này cũng có một đường
bằng tam giác bên này.
20. Tiên: À. Đúng rồi, mình thử lấy
cạnh đáy là cạnh này, hai cạnh này là
một rồi, mình thử dựng đường cao rồi
chứng minh.
Vân: Ừ 21. C1 Diện tích của tam giác BDF là:
22. Tiên: S của BDE bằng ½ DF
nhân với BE, S của ABC bằng ½ BC C2: Diện tích của tam giác ABC là: nhân với AK. Từ từ, hai cạnh này
bằng nhau, phải chứng minh thêm hai
đường.
HS khẳng định diện tích của tam giác …
ABC bằng diện tích tam giác BDE mà 30. Tiên: Mình cần hai diện tích bằng
có hai cạnh đáy bằng nhau nên đã tìm nhau, thì mình cần chứng minh cái
dữ liệu để biện minh hai đường cao AK này, chứ liên quan đến hình đó làm
và DF bằng nhau gì?
31. Vân: Vậy họ cho hai cạnh này bằng C3: Diện tích hai tam giác ABC và
DBE bằng nhau nhau làm gì?
32. Tiên: Oh, bạn nói rồi, họ cho hai cái
cạnh bằng nhau để mình tính diện
tích này, có hai cạnh bằng nhau rồi,
mình cần chứng minh hai đường cao
57
bằng nhau, là bằng nhau giờ mình có C4: Hai đường cao DF và AK bằng
BE = BC rồi này. nhau
33. Vân: À…
34. Tiên: Mình cần chứng minh DF và
AK bằng nhau nữa thôi, là xong. Bạn
Để biện minh cho khẳng định AK = DF nói chứng minh hai tam giác ABK và
HS lại tìm kiếm dữ liệu để biện minh DBF … cạnh này rồi, có góc vuông,
cho phát biểu hai tam giác ABK và cạnh này với thêm gì nữa?
DBF bằng nhau
C5: Hai tam giác ABK và DBF bằng
nhau
Học sinh khẳng định diện tích hai tam giác ABC và BDE bằng nhau, mà có
hai cạnh đáy bằng nhau, từ đó HS tìm dữ liệu và quy tắc để biện minh rằng hai
đường cao bằng nhau. Đây là một lập luận có cấu trúc ngoại suy (khẳng định C4).
Tiếp theo học sinh tìm dữ liệu để chứng minh hai tam giác ABK và DBF bằng nhau
nhằm biện minh cho khẳng định hai đường cao AK và DF bằng nhau. Ở đây, ta
cũng có cấu trúc của lập luận ngoại suy (khẳng định C5). Như vậy, các lập luận của
học sinh đều có cấu trúc ngoại suy. Sau khi đã tìm được các dữ liệu cần thiết, HS đã
xây dựng chứng minh như sau:
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
58
Ta thấy rằng, trong chứng minh của học sinh, các lập luận đều có cấu trúc
suy diễn (đưa ra các dữ liệu để chứng minh hai tam giác BDF và BAK bằng nhau,
từ đó suy ra hai đường cao AK và DF bằng nhau, mà có hai cạnh đáy bằng nhau,
HS kết luận diện tích hai tam giác cần so sánh bằng nhau). Như vậy, từ các lập luận
có cấu trúc ngoại suy, học sinh đã xây dựng một chứng minh có cấu trúc suy diễn.
Tức là, HS đã chuyển các lập luận có cấu trúc ngoại suy trong lập luận thành các lập
luận có cấu trúc suy diễn trong chứng minh. Do đó, quá trình lập luận và chứng
minh của học sinh có sự gián đoạn về cấu trúc. Phép ngoại suy ở đây đã hỗ trợ cho
học sinh thiết lập được một chứng minh suy diễn.
4.1.1.2 Bài toán 2:
Bài toán 2: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự. Trên nửa mặt phẳng bờ
AC, dựng các hình vuông ABEF và BCDG. Gọi M, N lần lượt là trung điểm của
AG và CE. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì? Tại sao?
Phân tích bài làm của Linh- Thắng: Lập luận suy diễn và chứng minh suy diễn
(Liên tục cấu trúc)
Sử dụng phép quay, học sinh dựa vào các dữ liệu đã có lập luận tam giác
BMN vuông cân và xây dựng một chứng minh suy diễn
59
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
1. Linh: Cho ba điểm A, B, C thẳng Hình vẽ của học sinh
hàng theo thứ tự
2. Thắng: Rồi
3. Linh.: Trên nửa mặt phẳng bờ AC
dựng hình vuông ABEF, BCDG
4. Thắng: BCDG…
5. Linh: Gọi M, N. M là trung điểm của
AG, N là trung điểm của CE.
…
13. Linh: bài này có thể dùng phép
quay thì phải, vì cho hai hình vuông.
À, tam giác ABG dựng lên là tam giác Sử dụng phép quay tâm B góc quay 900,
HS đã đưa ra các lập luận và kết luận
tam giác BMN vuông cân tại B BEC. Phép quay ngược chiều kim đồng hồ là 900, cùng chiều kim đồng hồ là – 900. Phải không?
14.
15. Thắng: Ừ, phép quay tâm B Linh: Tâm B góc quay 900, biến
E thành A, C thành G. Được chưa?
Thắng: ừ 16.
Linh: Mà M là trung điểm của 17.
AG, N là trung điểm của EC nên suy
ra phép quay cũng biến N thành M
Thắng: Ừ 18.
19.
Linh: Suy ra BM = BN, do phép quay góc 900 nên góc MBN cũng bằng 900. Suy ra tam giác BMN
vuông cân, vuông cân tại B
20. Thắng: ừ, đúng rồi.
60
Các bước lập luận của HS có cấu trúc suy diễn nên một chứng minh suy diễn
đã được xây dựng dễ dàng. Do đó, tính liên tục cấu trúc được hình thành.
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
Phân tích bài làm của Ngân - Trang: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy diễn
( tính gián đoạn cấu trúc)
Quan sát hình vẽ, HS khẳng định tam giác BMN vuông cân. Từ đó HS đã
tìm dữ liệu để chứng minh cho khẳng định đó. Và sau khi các dữ liệu đã được tìm
thấy, HS đã xây dựng một chứng minh suy diễn.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
1. Trang: Cho ba điểm A, B, C thẳng Hình vẽ của học sinh
hàng . Trên nửa mặt phẳng bờ AC
dựng các hình vuông ABEF và...
2. Ngân: BCDG
3. Trang: ABEF, BCDG, M, N lần lượt
là trung điểm của AG và…
4. Ngân: CE
61
HS dự đoán tính chất tam giác MBN Quan sát hình vẽ, HS khẳng định tam
dựa vào hình vẽ giác MBN vuông cân.
5. Trang: Hỏi tam giác MBN. Dễ cân
lắm, vuông nữa.
6. Ngân: Vuông cân
Trang : Ừ.
Bằng việc quan sát thực tế từ hình vẽ, HS đã đưa ra khẳng định tam giác
BMN vuông cân. Từ đó tìm kiếm các dữ liệu để lập luận tam giác BMN vuông cân.
Ở đây, lập luận của học sinh có cấu trúc ngoại suy.
Để chứng minh tam giác MBN cân, HS khẳng định BN = BM sau đó tìm
kiếm các dữ liệu để biện minh cho điều đó. Ta tiếp tục có một cấu trúc ngoại suy
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
7. Ngân: Chứng minh cân trước, chứng
minh BM bằng BN có M là trung
điểm này.
Để biện minh tam giác MBN vuông, HS khẳng định góc MBN vuông và tiếp
tục tìm kiếm dữ liệu để đưa ra kết luận cho khẳng định đó. Vì vậy ta lại có một lập
luận với cấu trúc ngoại suy
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
13 Trang: góc này bằng góc này. Suy ra
hai tam giác bằng nhau. Nên hai
cạnh AG và EC bằng nhau. Đường
trung tuyến bằng ½ cạnh huyền nên
BM bằng BN. Ta chứng minh góc
MBN vuông nữa
62
Sau khi đã tìm kiếm được các dữ liệu cần thiết, HS đã xây dựng một chứng
minh như sau:
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
63
Các bước trong chứng minh đều có cấu trúc suy diễn. Như vậy, từ các lập
luận có cấu trúc ngoại suy, học sinh đã xây dựng một chứng minh có cấu trúc suy
diễn. Tức là, HS đã chuyển các lập luận có cấu trúc ngoại suy trong lập luận thành
các lập luận có cấu trúc suy diễn trong chứng minh. Do đó, quá trình lập luận và
chứng minh của học sinh có sự gián đoạn về cấu trúc.
Bài làm của Thu Sƣơng - Huyền Trang: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy
diễn (tính gián đoạn cấu trúc)
HS quan sát hình vẽ và đưa ra khẳng định rằng tam giác BMN vuông cân.
Sau đó HS tìm kiếm các dữ liệu để biện minh cho khẳng định đó.
Lập luận của HS Phân tích bằng Toulmin
1. S: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng Hình vẽ của HS:
theo thứ tự. Trên nửa mặt phẳng bờ
AC dựng các hình vuông ABEF, và
BCDG
…
5. S: M là trung điểm của AG
6. T: Rồi, sao nữa? HS quan sát hình vẽ đưa ra khẳng định 7. S: N là trung điểm của CE. Hỏi tam tam giác BMN vuông cân giác MBN là tam giác gì?
…
9 S: Tam giác đều à?
10 T: Vuông cân
11 S: Không đều
12. T: Không đều, vuông cân
Quan sát hình vẽ, HS khẳng định tam giác MBN vuông cân. Dựa trên các dữ
liệu đã có, HS tìm kiếm các dữ liệu để biện minh cho khẳng định mà HS đã đưa ra.
HS lần lượt tìm các dữ liệu để lập luận tam giác BMN cân, tam giác BMN vuông.
Như vậy, lập luận của học sinh có cấu trúc ngoại suy. Sau khi các dữ liệu đã tìm
thấy, HS đã xây dựng chứng minh :
64
Chứng minh của HS Phân tích bằng mô hình Toulmin
Ta thấy rằng, trong chứng minh của học sinh, các bước lập luận đều có cấu
trúc suy diễn. Như vậy, từ các lập luận có cấu trúc ngoại suy, học sinh đã xây dựng
một chứng minh có cấu trúc suy diễn. Tức là, HS đã chuyển các lập luận có cấu trúc
65
ngoại suy trong lập luận thành các lập luận có cấu trúc suy diễn trong chứng minh.
Do đó, quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự gián đoạn về cấu trúc.
4.1.1.3 Bài toán 3:
Bài toán 3:
Cho các hình vẽ sau:
Hỏi hình n có bao nhiêu hình tam giác ? Giải thích?
Bài làm của Hợp - Hải Tuấn: Lập luận quy nạp và chứng minh quy nạp toán học
(tính liên tục về cấu trúc)
HS đếm số tam giác trong mỗi hình và cũng đưa ra giả thuyết về số tam giác
trong hình n. Sau đó HS thấy rằng qua mỗi hình, số tam giác tăng thêm 4. Từ đó,
HS thiết lập mối liên hệ giữa H(n) và H(n+1) để đi tới xây dựng một chứng minh
quy nạp toán học
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
27. Tuấn: số tam giác hình 1, H(1) HS đếm số tam giác trong mỗi hình,
bằng 1, số tam giác hình 2 ta có HS kết luận số tam giác trong hình n
H(2) =5, số tam giác hình 3 là H(3) là: H(n) = 4n -3
bằng 9, hình 4 là 13
28. Hợp: số tam giác ở hình n là H(n)
bằng 1 cộng 4 nhân cho hiệu n trừ
1. Cứ sau mỗi hình số tam giác
tăng 4 hình.
66
HS tìm mối liên hệ giữa H(n+1) và
H(n)
25. Hợp: Vậy là tăng 4, qua mỗi hình
thì tăng 4, bởi vì thêm một tam giác
HS nhận biết rằng, qua mỗi hình số ở giữa là thêm được 4 tam giác.
tam giác tăng thêm 4 (thêm một tam … giác ở giữa thì số tam giác tăng thêm 4)
29. Tuấn: tăng 4 hình
30. Hợp: tăng 4 tam giác, H(2)=
H(1)+4, H(3) = H(2) + 4, H(4) =
H(3) +4.
31. Tuấn: suy ra H(n+1) = H(n) +4.
32. Hợp: Rồi,chứng minh.
Như vậy, HS đã tìm được mối liên hệ về số tam giác qua mỗi hình, tức là ở
đây HS đã có đầy đủ các yếu tố để xây dựng một chứng minh quy nạp toán học.
Quá trình khái quát hoá quá trình cho phép học sinh tìm mối liên hệ giữa H(n) và
H(n+1) và đã xây dựng một chứng minh quy nạp toán học.
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
67
Vậy, trong quá trình lập luận, học sinh đã sử dụng khái quát hoá quá trình
tìm mối liên liên hệ về số tam giác qua mỗi hình, từ đó thiết lập mối liên hệ giữa
H(n) và H(n+1) để xây dựng thành công một chứng minh quy nạp toán học. Nên
quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự liên tục về cấu trúc.
Bài làm của Quốc và Ngân : Lập luận quy nạp, không xây dựng được chứng minh
(tính gián đoạn về cấu trúc)
HS dựa vào các hình vẽ đã cho, đếm số tam giác tương ứng trong các hình
vẽ và lập bảng. Dựa vào các kết quả ghi trong bảng này, học sinh đưa ra giả thuyết
rằng số hình tam giác trong hình n là 4n -3. Nhưng hai học sinh không giải thích
được tại sao lại như vậy.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
HS đếm số hình tam giác ở mỗi hình Ở đây, HS đã dựa vào các kết quả ghi
vẽ sau đó lập bảng trong bảng để đưa ra số hình tam giác
21. Quốc xây dựng bảng như sau: trong hình n
Trong đó E1 , E2 ,E3 , E4 là các phát
45. Quốc: A, 4n trừ 3, à 4n trừ … 3, biểu đã được học sinh tính toán trước
phải không? đó:
46. Ngân: 16 – 3, ừ, 13, 12 trừ 3 , 9, 8
trừ 3 là 5, ừ, 4n -3.
47. Quốc : H(n) bằng 4n -3.
Sau đó, học sinh đã chứng minh giả thuyết ở trên bằng phương pháp quy nạp
toán học nhưng học sinh không làm được vì không tìm được mối liên hệ giữa H(n)
và H(n+1).
68
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
Sau đó học sinh chứng minh giả
thuyết đúng với n =k+1nhưng HS
không tìm được quy tắc liên kết giữa
trường hợp n = k với trường hợp n =
k+1( số tam giác ở hình sau bằng số
tam giác ở hình trước đó cộng thêm
4)
Như vậy, trong quá trình lập luận, học sinh đã đưa ra giả thuyết bằng khái
quát hoá các kết quả có được trước đó. Nhưng HS không tìm được quy tắc liên kết
giữa các phát biểu nên đã không xây dựng được một chứng minh quy nạp toán học.
Tức là trong trường hợp này, học sinh không thể vượt qua khoảng cách tồn tại giữa
lập luận và chứng minh. Do đó, quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự
gián đoạn về cấu trúc.
Bài làm của Linh – Thắng: Lập luận quy nạp và chứng minh quy nạp (Tính liên
tục về cấu trúc)
Đầu tiên, HS quan sát các hình vẽ đã cho và đếm số tam giác trong mỗi hình.
HS nhận ra rằng, số tam giác ở hình sau bằng số tam giác ở hình trước cộng thêm 4.
Sau đó, tiếp tục với các kết quả có được từ các hình vẽ, HS đã tìm được số tam giác
trong hình n và xây dựng một chứng minh quy nạp cho kết quả vừa tìm được.
Lập luận của HS Phân tích bằng mô hình Toulmin
1. Linh: Tìm quy luật đi! Kết quả đếm số tam giác của HS ở các
69
2. Thắng: Hình 1 là mấy hình, hình 1 hình vẽ đã cho như sau:
là 1 hình, đúng không? h1 có 1 hình tam giác (E1)
3. Linh: Ừ, hình 2 là 4 hình h2 có 5 hình tam giác (E2) 4. Thắng: 5 hình chứ ?
h3 có 9 hình tam giác (E3) …
8. Thắng: Làm cho rồi! hình 3 là mấy h4 có 13 hình tam giác (E4)
hình? HS nhận thấy 5 = 1 +4 (tức là h2 = 9. Linh: … 9 hình. h1+4), h3= h2+ 4, h4 = h3 + 4. Như vậy, 10. Thắng: 9 hình phải không ? Rồi. bằng cách nhận biết được số tam giác 11. Linh: Một hình thêm 4 hình thì phải hình sau bằng số tam giác của hình ? trước cộng thêm 4, HS đã tìm được 12. Thắng: Ừ, là bằng 5 cộng 4, đúng mối liên hệ giữa hn và hn+1 không? Hình 4?
13. Linh: hình 4 là thêm 4 hình nữa là
..13 hình, … đúng rồi.
14. Thắng: 13 hình, rồi, là bằng 9 cộng
4
15. Linh: 5 bằng 1cộng 4.
16. Thắng: hình 3 là bằng hình 2 cộng
4, hình 4 là bằng hình 3 cộng 4,
hình sau là bằng hình trước cộng 4.
…
18. Thắng: hình 3 bằng 1 cộng 4 lần Tiếp theo HS nhận thấy: h3 = 1+4.2,
2, hình 4 là bằng h4 = 1+4.3… Từ đó, HS kết luận về số
19. Linh : bằng 1cộng 4 lần 3 tam giác của hình n là hn = 1+ 4.(n-1)
20. Thắng: suy ra hình n là bằng
mấy?
21. Linh: đáng lẽ là bằng 1 cộng 4
nhân n, n thuộc N* vì hình đầu là n
bằng 0.
22. Thắng: thì hình 1là 1, đây hình 2
70
là n bằng 1.
23. Linh: đáng lẽ đây là bằng 1 này,
nhưng nó lại bằng 0 cho nên phải n
trừ 1 ra mới đúng.
24. Thắng: Ừ, hình 4 thì n bằng 3,
hình 3 thì n bằng 2.
Linh: Ừ, thì n giảm đi 1. 25.
Thắng: Như vậy thì hình n bằng 26.
1 cộng 4 nhân n trừ 1. Giờ chứng
minh.
Qua việc quan sát và đếm số tam giác của mỗi hình đã cho, HS đã tìm được
số hình tam giác trong hình thứ n và mối liên hệ giữa hn và hn+1. Như vậy, HS đã có
đầy đủ các yếu tố để xây dựng một chứng minh quy nạp toán học. Quá trình khái
quát hoá quá trình cho phép học sinh tìm mối liên hệ giữa hn và hn+1 và đã xây dựng
một chứng minh quy nạp toán học
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
71
Vậy, trong quá trình lập luận, học sinh đã sử dụng khái quát hoá kết quả để
tìm ra công thức tính số tam giác ở hình thứ n và khái quát hoá quá trình để tìm mối
liên liên hệ về số tam giác qua mỗi hình, từ đó thiết lập mối liên hệ giữa hn và hn+1
để xây dựng thành công một chứng minh quy nạp toán học. Vì vậy, quá trình lập
luận và chứng minh của học sinh có sự liên tục về cấu trúc.
4.1.1.4 Bài toán 4:
Bài toán 4:
Cho hình chóp S.ABCD có đáy là hình thoi tâm O, SO vuông góc với đáy. Gọi I, J
lần lượt là trung điểm của AB và BC.
Đường thẳng IJ có vuông góc mp (SBD) không ? Tại sao?
Bài làm của Quốc và Ngân: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy diễn.
HS khẳng định IJ vuông góc với mp(SBD). Sử dụng định nghĩa đường thẳng
vuông góc với mặt phẳng, HS đã tìm được các dữ liệu cần thiết và xây dựng một
chứng minh suy diễn. Do đó, quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự
gián đoạn về cấu trúc.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
1. Ngân: Vẽ hình chóp S.ABCD có Hình vẽ của học sinh
đáy là hình thoi tâm O.
2. Quốc: SO vuông góc với đáy I, J
lần lượt là trung điểm của AB và
BC, AB, AB đâu rồi, BC.
HS lập luận để chứng minh IJ
vuông góc với mp(SBD). C1: IJ vuông góc với mp(SBD)
3. Ngân: muốn chứng minh IJ vuông Ở đây, HS đã khẳng định đường thẳng
góc với mp(SBD), ta chứng minh IJ vuông góc với mp(SBD).
72
IJ vuông góc với BD, chứng minh
IJ vuông góc với đường thẳng
nằm trong mp(SBD). Ta có IJ là
đường trung bình của ABC suy ra
IJ song song với AC.
HS khẳng định IJ vuông góc với mp(SBD). Sau đó, sử dụng định lý đường
thẳng vuông góc với mặt phẳng, HS nhận thấy IJ vuông góc với BD. HS phải tìm
các dữ liệu để biện minh IJ vuông góc với một đường thẳng cắt BD nằm trong
mp(SBD). Do đó, lập luận của HS có cấu trúc ngoại suy.
Sau khi đã tìm thấy các dữ liệu cần thiết HS đã xây dựng chứng minh như sau:
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
Như vậy, với việc sử dụng định lý đường thẳng vuông góc với mặt phẳng để
chứng minh, HS đã tìm được các dữ liệu để xây dựng một chứng minh suy diễn, túc
là cấu trúc của lập luận ngoại suy đã được chuyển thành cấu trúc của lập luận suy
73
diễn. Do đó, quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự gián đoạn về cấu
trúc.
Bài làm của Linh –Thắng: Lập luận ngoại suy và chứng minh suy diễn (gián đoạn
cấu trúc)
HS khẳng định đường thẳng IJ vuông góc với mp(SBD) bằng trực giác. Sau
đó sử dụng định lý đường thẳng vuông góc với mặt phẳng và tìm kiếm các dữ liệu
để biện minh cho khẳng định đó:
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
2 Linh : Cho hình chóp S.ABCD có đáy Hình vẽ của HS
là hình thoi tâm O.
3 Thắng : Đáy hình thoi thì vẽ là hình
bình hành.
4 Linh : Tâm O thì SO vuông góc với
đáy. Gọi I, J lần lượt là trung điểm của
AB,BC. Đường thẳng IJ có vuông góc
với mp (SBD) không ? Tại sao ?
5 Thắng: rồi
HS khẳng định IJ vuông góc với 6 Linh: Cho IJ vuông góc với mp(SBD),
mp(SBD) ta chứng minh IJ vuông góc với 2
đường thẳng thuộc mp(SBD).
7 Thắng : Phải chứng minh IJ vuông góc
với 2 đường thẳng cắt nhau thuộc mp
(SBD).
Lập luận trên của học sinh có cấu trúc ngoại suy, từ việc khẳng định IJ vuông
góc với mp(SBD), HS đã tìm kiếm hai đường thẳng cắt nhau thuộc mp(SBD) mà
cùng vuông góc với IJ (ở đây, HS đã sử dụng định lý đường thẳng vuông góc với
mặt phẳng).
74
Sau khi tìm kiếm được các dữ liệu cần thiết, học sinh đã xây dựng một chứng
minh như sau:
Chứng minh của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
Trong chứng minh của học sinh, vẫn tồn tại một bước có cấu trúc ngoại suy
nên quá trình lập luận và chứng minh của học sinh có sự liên tục về cấu trúc.
4.1.2 Các dạng ngoại suy
Lập luận ngoại suy có ba dạng:
Ngoại suy chưa mã hoá: một vài quy tắc có vẻ hợp lý được đưa ra. Học sinh
có nhiệm vụ chọn trong số đó một quy tắc đúng và phù hợp nhất để lập luận.
Ngoại suy đã mã hoá : quy tắc suy luận phù hợp nhất đã được lựa chọn. Học
sinh chỉ có nhiệm vụ phân tích giả thiết, tìm ra các dữ liệu phù hợp để lập
luận.
Ngoại suy sáng tạo: học sinh không tìm được quy tắc nào để xây dựng chứng
minh. Nên chúng có thể tạo ra một quy tắc mới trong quá trình lập luận.
75
Đoạn trích của Thu Sƣơng và Huyền Trang khi thực hiện bài toán 1:
Ở đây, HS khẳng định diện tích hai tam giác ABC và BDE bằng nhau, dựa
vào công thức diện tích tam giác dạng lượng giác (quy tắc đã có), HS chỉ tìm kiếm
các dữ liệu để kết luận diện tích hai tam giác ABC và BDE bằng nhau. Do đó, lập
luận của học sinh có cấu trúc của ngoại suy đã mã hoá.
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
17. T: Diện tích bằng nhau chi nữa Diện tích tam giác ABC bằng:
18. S: Nối ABD đi, đánh dấu vuông cân SABC = ½ AB.BC.sin ̂ 19. T: AB bằng BD, BC bằng BE ,…, Diện tích tam giác BDE bằng: mình sử dụng công thức diện tích bằng
SBDE = ½ BD.BE. sin ̂ ½ tích hai cạnh nhân với sin góc xen
giữa hè ? Diện tích tam giác ABC
bằng ½ nhân với AB.BC nhân sin góc
ABC
20. S: Diện tích của tam giác BDE bằng ½
nhân BD nhân BE nhân sin DBE
21. T: Ừ Dữ liệu mà HS cần tìm kiếm là
22. S: Cần so sánh hai sin bằng nhau là sin ̂ = sin ̂
được
Sau đó, học sinh đã sử dụng công thức lượng giác để đi đến lập luận sin ̂
= sin ̂ và xây dựng một chứng minh có cấu trúc suy diễn (đã phân tích ở
4.1.1.1).
Đoạn trích của Thuỳ Vân và Cẩm Tiên khi thực hiện bài toán 1:
Trong lập luận này, HS khẳng định diện tích hai tam giác bằng nhau, dựa vào
công thức tính diện tích (quy tắc đã có), HS dựng hai đường cao DF và AK (vì có
đáy bằng nhau). Như vậy, lập luận (C3) có cấu trúc của ngoại suy đã mã hoá.
76
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
31. Tiên: Mình cần hai diện tích C3: Diện tích hai tam giác ABC và DBE
bằng nhau, thì mình cần chứng bằng nhau
minh cái này, chứ liên quan đến
hình đó làm gì?
32. Vân: Vậy họ cho hai cạnh này
bằng nhau để làm gì?
33. Tiên: Ồ, bạn nói rồi, họ cho hai
cái cạnh bằng nhau để mình tính
diện tích này, có hai cạnh bằng
nhau rồi, mình cần chứng minh
hai đường cao bằng nhau, là
bằng nhau giờ mình có BE = BC
rồi này.
Để biện minh cho khẳng định AK = DF. HS lại tìm kiếm dữ liệu để biện
minh cho phát biểu hai tam giác ABK và DBF bằng nhau. Như vậy, lập luận này
của HS cũng có cấu trúc ngoại suy
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
34. Tiên: Mình cần chứng minh DF
và AK bằng nhau nữa thôi, là xong.
Bạn nói chứng minh hai tam giác
ABK và DBF … cạnh này rồi, có góc
vuông, cạnh này với thêm gì nữa hè?
Lập luận (C5) ở đây có cấu trúc của ngoại suy chưa mã hoá vì rõ ràng, HS
đã sử dụng các định lý về các trường hợp bằng nhau của hai tam giác. HS nhận
thấy, hai tam giác ABK và BDF có một cặp cạnh bằng nhau, cùng có một góc
vuông, nên tuỳ vào dữ liệu tìm được HS có thể sử dụng quy tắc W1 (hai tam giác
bằng nhau theo trường hợp: cạnh - góc - cạnh) hoặc quy tắc W2 (hai tam giác bằng
77
nhau theo trường hợp: góc – cạnh – góc). Sau khi tìm được dữ liệu HS đã xây dựng
một chứng minh ―ngoại suy‖ (đã được phân tích ở 4.1.1.1).
Đoạn trích của Hợp - Tuấn khi thực hiện bài toán 2:
Phân tích bắt đầu khi HS khẳng định tam giác BMN vuông cân bằng quan sát
hình vẽ. Sau đó, HS tìm kiếm dữ liệu để biện minh cho khẳng tam giác BMN cân,
tam giác BMN vuông. Các lập luận của HS có cấu trúc của ngoại suy chƣa mã hoá
vì rõ ràng để kết luận tam giác BMN cân học sinh có thể sử dụng các quy tắc W1
(BM = BN), W2 ( ), W3 (đường trung tuyến đồng thời là đường
cao/đường phân giác/đường trung trực)… Để kết luận tam giác BMN vuông, HS có
thể sử dụng các quy tắc W1 (định lý đảo của định lý Pytago), W2 ( ), W3
( ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ ⃗⃗⃗⃗⃗⃗ )…
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
9. Hợp: MBN, vuông cân, nhìn
giống vuông cân
10. Tuấn: giờ chứng minh thôi, vẽ
hình ra giống vuông cân, giờ
chứng minh vì sao vuông, vì sao
cân.
Sau khi tìm kiếm các dữ liệu để chứng minh tam giác BMN vuông cân, HS
đã xây dựng một chứng minh suy diễn (đã phân tích ở 4.1.1.2).
Đoạn trích của Linh - Thắng khi thực hiện bài toán 4:
Phân tích bắt đầu khi HS khẳng định đường thẳng IJ vuông góc với mặt
phẳng (SBD) (kết luận cần kiểm chứng). Sau đó, HS lập luận phải tìm hai đường
thẳng cắt nhau trong mp(SBD) mà cùng vuông góc với IJ, tức là sử dụng định lý
đường thẳng vuông góc với mặt phẳng (quy tắc đã có), HS đang tìm kiếm các dữ
liệu để biện minh cho khẳng định đó. Như vậy, lập luận ngoại suy HS sử dụng có
cấu trúc dạng ngoại suy đã mã hoá.
78
Lập luận của học sinh Phân tích bằng mô hình Toulmin
4. Linh : Tâm O thì SO vuông góc với
đáy. Gọi I, J lần lượt là trung điểm của
AB, BC. Đường thẳng IJ có vuông góc
với mặt phẳng (SBD) không ? Tại sao ?
5. Thắng: Rồi
6. Linh: Cho IJ vuông góc với mặt Dữ liệu cần tìm kiếm là: IJ vuông góc phẳng (SBD), ta chứng minh IJ vuông với 2 đường thẳng cắt nhau thuộc mặt góc với 2 đường thẳng thuộc mặt phẳng phẳng (SBD). (SBD).
7. Thắng: Phải chứng minh IJ vuông
góc với 2 đường thẳng cắt nhau thuộc
mặt phẳng (SBD).
Sau khi tìm kiếm được các dữ liệu ( ), HS đã xây dựng một
chứng minh ― ngoại suy‖ (đã phân tích ở phần 4.1.1.4).
4.2 Kết luận chƣơng 4
Trong chương 4, dựa trên mô hình Toulmin về cấu trúc lập luận, chúng tôi đã
phân tích các bài làm của học sinh theo hai hướng chính: mối liên hệ cấu trúc giữa
quá trình lập luận và chứng minh của học sinh; các dạng ngoại suy mà học sinh sử
dụng trong quá trình lập luận. Phân tích bước đầu cho thấy được khả năng lập luận
và chuyển đổi cấu trúc trong quá trình chuyển từ lập luận sang thiết lập một chứng
minh của học sinh. Kết quả phân tích bài làm và các đoạn trích trao đổi giữa các học
sinh trong nhóm cũng cho thấy có những học sinh gặp khó khăn khi chuyển từ cấu
trúc lập luận dạng ngoại suy sang chứng minh suy diễn, hoặc không thể chuyển đổi
cấu trúc lập luận để xây dựng một chứng minh suy diễn. Ngoài ra, phân tích dữ liệu
thực nghiệm dựa trên mô hình Toulmin cũng đã làm rõ vai trò của ngoại suy trong
việc hỗ trợ học sinh tìm kiếm và thiết lập một chứng minh suy diễn.
79
Chƣơng 5. KẾT LUẬN
Chương này đưa ra các kết luận ban đầu về nghiên cứu của tác giả, những
đóng góp, hạn chế và hướng phát triển của đề tài.
5.1 Kết luận
Trong phần đầu của luận văn, chúng tôi trình bày mục tiêu nghiên cứu chủ
yếu của đề tài này là phân tích hai khía cạnh sau đây:
Phân tích mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh của
học sinh khi giải quyết các bài toán
Phân tích các dạng ngoại suy khác nhau được học sinh sử dụng trong quá
trình lập luận.
Để phân tích các khía cạnh đó, chúng tôi chọn mô hình Toulmin như là nền
tảng lý thuyết và công cụ phương pháp luận. Từ đó, chúng tôi đã cụ thể hóa mục
tiêu nghiên cứu thành các câu hỏi nghiên cứu sau đây :
Câu hỏi 1: Mối liên hệ về cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng
minh của học sinh được thể hiện như thế nào trong khi giải quyết các bài
toán?
Câu hỏi 2: Các dạng ngoại suy nào được học sinh sử dụng trong quá
trình lập luận? Vai trò của các lập luận ngoại suy này được thể hiện như
thế nào?
Câu hỏi 3: Học sinh gặp phải khó khăn như thế nào khi chuyển đổi cấu
trúc từ lập luận sang chứng minh trong quá trình giải quyết một bài toán?
Sau đây chúng tôi sẽ trình bày các yếu tố cho phép trả lời cho các câu hỏi
nghiên cứu nêu trên.
Về mối liên hệ cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh:
Phân tích dữ liệu thực nghiệm trong phạm vi nghiên cứu này cho phép chúng
tôi kết luận rằng:
80
Nếu quá trình lập luận của học sinh là ngoại suy thì thường xảy ra tính
gián đoạn cấu trúc giữa quá trình lập luận và chứng minh một bài toán. Ở
đây xảy ra hai hướng: một là, HS chuyển đổi được cấu trúc từ lập luận
kiểu ngoại suy thành một chứng minh kiểu suy diễn; hai là, học sinh
hoàn toàn không thể thiết lập được một chứng minh suy diễn. Hướng thứ
nhất thường gặp ở các HS khá, giỏi. Các em đã có thể chuyển đổi cấu
trúc lập luận một cách rõ ràng để đạt được một chứng minh suy diễn.
Điều này cũng phù hợp với những dự đoán của chúng tôi trong phân tích
tiên nghiệm. Hướng thứ hai thường xảy ra với các học sinh trung bình
hoặc dưới trung bình. Các em không thể chuyển từ lập luận ngoại suy
thành một chứng minh suy diễn.
Nếu quá trình lập luận là quy nạp bằng khái quát hoá, đa số học sinh đều
sử dụng lập luận quy nạp khái quát hoá kết quả để đi đến giả thuyết về số
tam giác hình thứ n, nhưng chỉ những HS sử dụng lập luận quy nạp bằng
khái quát hoá quá trình mới xây dựng được chứng minh cho bài toán đưa
ra.
Nếu quá trình lâp luận là suy diễn thì một chứng minh suy diễn dễ dàng
được xây dựng nhưng trường hợp này rất ít (chỉ có duy nhất một lập luận
của HS thuộc trường hợp này)
Về các dạng ngoại suy mà học sinh đã sử dụng và vai trò của chúng
trong việc thiết lập một chứng minh:
Phân tích dữ liệu cho thấy phần lớn các học sinh đều sử dụng lập luận có cấu
trúc của ngoại suy chưa mã hoá, chỉ có một số HS sử dụng lập luận có cấu trúc của
ngoại suy đã mã hoá. Đối với dạng ngoại suy đã mã hoá, đa số HS đều chuyển đổi
được cấu trúc và xây dựng một chứng minh suy diễn. Đối với ngoại suy chưa mã
hoá, phần lớn là HS gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và liên kết các dữ liệu hoặc
các quy tắc nên một số HS đã không xây dựng được chứng minh. Không có HS nào
sử dụng lập luận có cấu trúc của ngoại suy sáng tạo.
Như vậy, có hai dạng ngoại suy chủ yếu được học sinh sử dụng trong quá
trình lập luận tìm kiếm một chứng minh là ngoại suy đã mã hóa và ngoại suy chưa
mã hóa. Việc thiết lập một chứng minh là khá dễ dàng đối với những học sinh sử
81
dụng lập luận ngoại suy đã mã hóa. Trong khi đó, với dạng ngoại suy chưa mã hóa,
học sinh còn gặp khó khăn trong việc lựa chọn quy tắc và liên kết các dữ liệu với
nhau để đi đến một chứng minh suy diễn. Ở đây, ngoại suy đã đóng vai trò hỗ trợ
cho quá trình tìm kiếm một chứng minh suy diễn của học sinh, đặc biệt là ngoại suy
đã mã hóa.
Về khó khăn của học sinh khi chuyển đổi cấu trúc từ lập luận sang
chứng minh:
Học sinh cũng gặp các khó khăn trong quá trình lập luận bởi vì các phát biểu
hay các khẳng định mà học sinh đưa ra chỉ dựa trên việc quan sát thực tế từ các hình
vẽ tĩnh (bằng giấy và bút). Một số học sinh thì lại đưa ra kết luận bằng trực giác. Do
đó, nếu chưa liên kết được các dữ liệu cũng như chưa tìm được các định lý để biện
minh cho các phát biểu thì học sinh dễ dàng bỏ qua hoặc thay đổi giả thuyết đã đưa
ra ban đầu. Điều này dẫn tới việc học sinh khó tìm được hướng đi cho bài toán. Hơn
nữa, bản thân của lập luận ngoại suy chưa mã hoá là có nhiều quy tắc để lựa chọn,
nên khi sử dụng dạng ngoại suy này, học sinh cũng gặp khó khăn trong việc lựa
chọn quy tắc đúng nhất để thực hiện quá trình lập luận. Những khó khăn này thường
gặp phải ở các học sinh trung bình và dưới trung bình, khi mà khả năng lựa chọn dữ
liệu, quy tắc và liên kết chúng thành một chứng minh suy diễn vẫn còn hạn chế.
Tóm lại, mô hình Toulmin đã cung cấp cho chúng tôi một khung lý thuyết
cũng như một công cụ phương pháp luận hiệu quả và phù hợp để phân tích làm rõ
khía cạnh cấu trúc về mối liên hệ giữa quá trình lập luận và chứng minh của học
sinh. Những phân tích đó đã bước đầu cho phép chúng tôi tìm kiếm các câu trả lời
và giải thích cho các vấn đề đặt ra trong câu hỏi nghiên cứu.
5.2 Đóng góp của nghiên cứu và hƣớng phát triển của đề tài
Nghiên cứu đã tổng hợp và phân tích có hệ thống các khía cạnh lý luận liên
quan đến nghiên cứu quá trình lập luận và chứng minh của học sinh. Chúng tôi đã
tập trung vào giới thiệu và phân tích mô hình Toulmin về cấu trúc lập luận như là
một khung lý thuyết và một công cụ phương pháp luận làm nền tảng cho thiết kế
nghiên cứu và phân tích kết quả thực nghiệm. Từ đó, nghiên cứu đã phân tích được
và làm sáng tỏ quá trình lập luận và xây dựng chứng minh của học sinh cũng như
82
mối liên hệ cấu trúc giữa lập luận và chứng minh của học sinh. Đồng thời kết quả
nghiên cứu cũng chỉ ra khả năng chuyển đổi cấu trúc lập luận sang chứng minh của
học sinh, những khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình lập luận và chuyển
đổi cấu trúc sang chứng minh.
Nghiên cứu một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của mô hình Toulmin
trong việc phân tích cấu trúc lập luận, đặc biệt là cách mà mô hình Toulmin cho
phép so sánh cấu trúc của các bước trong lập luận và các bước trong chứng minh
tương ứng. So sánh này cho phép xác định và phân tích tính liên tục/ gián đoạn
giữa lập luận và chứng minh, một vấn đề có ý nghĩa trong nghiên cứu về dạy học
chứng minh trong toán học từ các tiếp cận nhận thức.
Trong chương trình môn Toán phổ thông hiện nay, số lượng các bài toán liên
quan đến lập luận và chứng minh cũng xuất hiện với tần số khá nhiều. Do đó,
khuyến khích, thúc đẩy và phát triển khả năng lập luận và làm thế nào giúp cho học
sinh vượt qua các khó khăn trong quá trình lập luận đi đến giả thuyết và xây dựng
một chứng minh là một vấn đề cần thiết trong dạy học toán ở phổ thông cũng như
trong việc phát triển nghiệp vụ sư phạm của giáo viên toán.
Do thời gian có hạn và trong khả năng cho phép, nghiên cứu chưa được sâu
rộng và kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa trên các phiếu học tập được thực hiện trên
16 học sinh. Các bài toán nghiên cứu chủ yếu là các bài toán trong hình học. Nghiên
cứu xa hơn có thể hướng tới các bài toán chứng minh trong số học, đại số nhằm so
sánh với các kết quả về lập luận và chứng minh của học sinh trong các bài toán hình
học./.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Trần Văn Hạo (tổng chủ biên) – Nguyễn Mộng Hy (chủ biên) – Nguyễn Văn
Đoành – Trần Đức Huyên (2006), Sách giáo khoa Hình học 10 (Cơ bản ), Nhà
xuất bản giáo dục
2. Nguyễn Mộng Hy (chủ biên) – Khu Quốc Anh – Nguyễn Hà Thanh (2007),
Bài tập Hình học 11(Cơ bản ), Nhà xuất bản giáo dục.
3. Trần Văn Hạo (tổng chủ biên) – Nguyễn Mộng Hy (chủ biên) – Khu Quốc
Anh - Phan Văn Viện (2007), Sách giáo khoa Hình học 11(Cơ bản ), Nhà xuất
bản giáo dục.
Tài liệu nƣớc ngoài
4. Almeida, D. (1994). Variation in proof standards: Implications for mathematics
education. International Journal of Educational Science and Technology.
5. Arzarello, F., Micheletti, C., Olivero, F., & Robutti, O. (1998a). A model for
analysing the transition to formal proofs in geometry. In A. Olivier & K.
Newstead (Eds.), Proceedings of the Twentieth-second Annual Conference of the
International Group for the Psychology of Mathematics Education (Vol. 2, pp.
24–31). Stellenbosch, South Africa.
6. Arzarello, F., Micheletti, C., Olivero, F., & Robutti, O. (1998b). Dragging in
Cabri and modalities of transition from conjectures to proofs in geometry. In A.
Olivier & K. Newstead (Eds.), Proceedings of the Twentieth-second Annual
Conference of the International Group for the Psychology of Mathematics
Education (Vol. 2, pp. 32–39). Stellenbosch, South Africa
7. Balacheff, N. (1988).Une étude des processus de preuve en mathématiques chez
les élèves de Collège, Thèse d’état. Grenoble: Université Joseph Fourier
8. Boero, P., Garuti, R., Mariotti M. A. (1996). Some dynamic mental processes
underlying producing and provingconjectures. In L. Puig & A. Gutierrez (Eds.),
Proceedings of the Twentieth Conference of the InternationalGroup for the
Psychology of Mathematics Education (Vol. 2, pp. 121–128). Valencia, Spain.
84
9. Chazan, D. (1993). High school geometry students’ justification for their views
of empirical evidence and mathematical proof. Educational studies in
mathematics, 24, 359–387.
10. De Villiers, M. (1990). The role and function of proof in mathematics, adapted
version of paper proof in the mathematics curriculum. Presented at the National
Subject Didactics Symposium, University of Stellenbosh.
11. Duval, R. (1995). Sémiosis et pensée humaine. Edition: Peter Lang, Suisse
12. Eco, U. (1983). Horns, hooves, insteps: Some hypotheses on three types of
abduction. In U. Eco & T. Sebeok (Eds.), The sign of three: Dupin, Holmes,
Peirce (pp. 198–220). Bloomington, IN: Indiana University Press
13. Garuti, R., Boero, P., & Lemut, E. (1998). Cognitive unity of theorems and
difficulties of proof. In A. Olivier, &K. Newstead (Eds.), Proceedings of the
International Group for the Psychology of Mathematics Education, vol. 2 (pp.
345–352). Stellenbosch, South Africa: PME.
14. Hanna, G. (1989). Proofs that prove and proofs that explain. In G. Vergnaud, J.
Rogalski, & M. Artigue (Eds.), Proceedings of the international group for the
psychology of mathematics education, PMEXIII,vol. 2, (pp. 45–51). Paris
15. Harel, G. (2001). The development of mathematical induction as a proof
scheme: A model for DNR-based instruction. In S. Campbell, & R. Zazkis
(Eds.), Learning and teaching Number Theory. Journal of Mathematical
Behavior (pp. 185–212). New Jersey, Ablex Publishing Corporation.
16. Healy, L., & Hoyles, C. (2000). A study of proof conceptions in algebra.
Journal for Research in Mathematics Education, 31(4), 396–428
17. Inglis, M., Mejia-Ramos, J. P., & Simpson, A. (2007). Modelling mathematical
argumentation: The importance of qualification. Educational Studies in
Mathematics, 66,3–21.
18. Knipping, C. (2003a). Argumentation structures in classroom proving situations.
In M.A. Mariotti (Ed.), Proceedings of the Third Conference of the European
Society in Mathematics Education (unpaginated). Bellaria, Italy. Retrieved from
http://ermeweb.free.fr/CERME3/Groups/TG4/TG4_Knipping_cerme3.pdf.
85
19. Knipping, C. (2003b). Beweisprozesse in der Unterrichtspraxis: Vergleichende
analysen von mathemati-kunterricht in Deutschland und Frankreich [Proving
processes in teaching practices–Comparative analysis of mathematics teaching
in France and Germany]. Hildesheim: Franzbecker.
20. Krummheuer, G. (1995). The ethnography of argumentation. In P. Cobb, & H.
Bauersfeld (Eds.), The emergence of mathematical meaning: Interaction in
classroom cultures (pp. 229–269). Hillsdale, New Jersey: Lawrence Erlbaum
Associates
21. Krummheuer, G. (2007). Argumentation and participation in the primary
mathematics classroom: Two episodes and related theoretical abductions.
Journal of Mathematical Behavior, 26(1), 60–82
22. Lakatos, I. (1976). Proofs and refutations. The logic of mathematical discovery.
Cambridge University Press, Cambridge; (Italian translation Benelli D. (1979).
Dimostrazioni e confutazioni la logica della scoperta matematica. Milano:
Feltrinelli)
23. Lavy, I. (2006). A case study of different types of arguments emerging from
explorations in an interactive computerized environment. Journal of
Mathematical Behavior, 25(2), 153-169
24. Martinez, M., & Pedemonte, B. (2014). Relationship between inductive
arithmetic argumentation and deductive algebraic proof. Educational Studies in
Mathematics, 86(1), 125-149.
25. Mason, J. (1996). Abduction at the heart of mathematical being. In E. Gray
(Ed.), Thinking about mathematics & music of the spheres: Papers presented for
the inaugural lecture of Professor David Tall (pp. 34–40). Coventry:
Mathematics Education Research Centre.
26. Boero, P. Douek, N. Morselli, F. & Pedemonte, B. (2010).Argumentation and
proof : a contribution to theoretical perspectives and their classroom
implementation. In Printo, M. M. F. & Kawasaki, T. F. (Eds.). Proceedings of
the 34th Conference of the International Group for the Psychology of
Mathematics Education, Vol. 1, pp. 179-209. Belo Horizonte, Brazil: PME.
86
27. Pedemonte, B. (2001). Some cognitive aspects of the relationship between
argumentation and proof in mathematics. In M. van den Heuvel-Panhuizen
(Ed.), Proceedings of the 25th conference of the international group for the
psychology of mathematics education. PME-25, vol. 4, (pp. 33–40). Utrecht
(Olanda)
28. Pedemonte, B. (2002). Etude didactique et cognitive des rapports de
l’argumentation et de la démonstration dans l’apprentissage des
mathématiques. Thèse de doctorat. Grenoble I: Université Joseph Fourier.
29. Pedemonte, B. (2005). Quelques outils pour l’analyse cognitive du rapport entre
argumentation et démonstration. Recherche en didactique des mathématiques,
25(3), 313–348.
30. Pedemonte, B. (2007). How can the relationship between argumentation and
proof be analysed ? Educational Studies in Mathematics, 66, 23–41.
31. Pedemonte, B. (2008). Argumentation and algebraic proof. ZDM—The
International Journal on Mathematics Education, 40(3), 385–400.
32. Pedemonte, B., & Reid, D. (2010). The role of abduction in proving processes.
Educational Studies in Mathematics, Volume 76, Issue 3, pp 281-303
33. Pedemonte, B. & Buchbinder, O. (2011). Examining the role of examples in
proving processes through a cognitive lens: the case of triangular numbers.
ZDM - Mathematics Education, 43, 257–267
34. Pedemonte, B. (2013). The role of conceptions in argumentation and proof. En
P. Perry (Ed.), Memorias del 21º Encuentro de Geometría y sus Aplicaciones
(pp. 37-48). Bogotá, Colombia: Universidad Pedagógica Nacional.
35. Peirce, C. S. (1867). On the natural classification of arguments. Presented 9
April 1867 to the American academy of arts and sciences. Proceedings of the
American Academy of Arts and Sciences, 7, 261–287.
36. Peirce, C. S. (1878). Deduction, induction, and hypothesis. Popular science
monthly, 13(August), 470–82
37. Peirce, C. S. (1960). Collected papers. Cambridge, MA: Harvard University
Press.
38. Plantin, C. (1990). Essais sur l’argumentation, Kimé (Ed.), Paris.
87
39. Reid, D.A. & Knipping, C. (2010). Proof in mathematics education. Rotterdam:
Sense Publishers.
40. Thurston, W. P. (1994). On proof and progress in mathematics. Bulletin of the
American Mathematical Society, 30(2), 161–177
41. Toulmin, S. E. (1958). The uses of argument. Cambridge: Cambridge
University Press.
42. Wolfram, S. (2002). A new kind of science. Wolfram Media. Retrieved October
20, 2003, from http://wolframscience.com/reference/notes/1149b
43. Wood, T. (1999). Creating a Context for Argument in Mathematics Class
Young Children’s Concepts of Shape. Journal for Research in Mathematics
Education, 30(2), 171–191.
88
PHỤ LỤC
CÁC PHIẾU HỌC TẬP
Họ và tên: …………………………………..
Lớp: ………………….
PHIẾU HỌC TẬP 1
Bài toán 1:
Cho tam giác ABC, về phía ngoải tam giác dựng các tam giác ABD và BCE vuông
cân tại B. Hãy so sánh diện tích tam giác ABC và BDE ?
Bài làm
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
P1
Họ và tên: ………………..........................
Lớp: ………………..
PHIẾU HỌC TẬP 2
Bài toán 2: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự. Trên nửa mặt phẳng bờ
AC, dựng các hình vuông ABEF và BCDG. Gọi M, N lần lượt là trung điểm của
AG và CE. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì ? Tại sao?
Bài làm
……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………
P2
Họ và tên: ………………..........................
Lớp: ………………..
PHIẾU HỌC TẬP 3
Bài toán 3:
Cho các hình vẽ sau:
Hình n có bao nhiêu hình tam giác ? Vì sao?
Bài làm
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
P3
Họ và tên: …………………………………….
Lớp: ……………………
PHIẾU HỌC TẬP 4
Bài toán 4:
Cho hình chóp S.ABCD có đáy là hình thoi tâm O, SO vuông góc với đáy. Gọi I, J
lần lượt là trung điểm của AB và BC.
Đường thẳng IJ có vuông góc mp (SBD) không ? Tại sao?
Bài làm
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
P4
CÁC ĐOẠN TRÍCH GHI ÂM VÀ BÀI LÀM CỦA HỌC SINH
Nhóm Ngân- Quốc
Bài toán 3
1. Quốc : Hình 1 có một tam giác, hình 2 có bốn tam giác, hình 3 là … hình 3
là 8, 8 phải không?
2. Ngân: 1, 2,3,4,5,6,7. 7 tam giác mà, bạn tính tam giác to nữa à?
3. Quốc: À, Tính tam giác to nữa chứ ?
4. Ngân : Tính ?
5. Quốc: Tính chứ ? 1, 2, 3, 4, 5 .
6. Ngân: 1,2 ,3,
7. Quốc: hình 4
8. Ngân : 5, 6, 7, 8
9. Quốc: hình 4 là 1, 2,3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Ak, 1,2, 3,4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12.
Bài này là ta tìm quy luật của, …, quy luật là …
10. Ngân: Tìm hình, hình n
11. Quốc: Hình n có bao nhiêu tam giác, hình n. Ta có hình 1 là 1 tam giác,
hình 2 là có 5, 1 lên 5 lên 8, lên 12 là ta có …. 2n -1, ak, 2n + 1, 2.3 là 6 cộng 1 là 7, 2. 2 là 4 cộng 1 là 5, n2 cộng
12. Ngân: 5, 8
13. Quốc: 5, 1, 2, 3, 5, 8, 12
14. Ngân: 4 15. Quốc: 42 là 16, 2n -1, 2n+ 1, 1 lên 5 lên 8 16. Ngân : n2, n2 cộng 17. Quốc: n2 +1, 8, n2 +1, 32 là 9 cộng 1 là 10 rồi, n2 – 1 không được, 2n, 3n, 3
nhân 3 là 9, 3 nhân 4 là 12, cái này là 12 luôn à ?
18. Quốc: 1,2, 3, 4
19. Ngân và Quốc: 5, 6, 7, 8, 9, 10,
20. Ngân : 12, 13
21. Quốc : Mô mà 13.
22. Ngân: 1,2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, à
23. Quốc: 1, 2, 3, 4 là hình này, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 chứ ?
P5
24. Ngân: Ừ
25. Quốc : 13
26. Ngân : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13. 13
27. Quốc: 13, hình 4 là 13 này , 13 là ta có, à, ta có à răng quên rồi, 2n -1
28. Ngân: 2n -1
29. Quốc: à, 3n -1, 3 nhân 4 , 12, à, không được,……, à, 3 nhân 4, 12 cộng 1 là
13
30. Ngân: cộng, 3 nhân 3 là 9 31. Quốc: 2n, n2 , 2n2 ,….., 3n +1, 3 nhân 2 là 6 cộng 1 , 7, 3n -1
32. Ngân: 9 cộng..
33. Quốc : 1,2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11, 12
34. Ngân : 13, 13
35. Quốc: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, ak, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8
36. Ngân : 9, hình to nữa
37. Quốc: 1, 2, 3, 4, 5, .., 9 luôn hè,
38. Ngân: 9, hình to nữa.
39. Quốc: đếm nhầm mãi..!!! 9 1, 2, 3,4 ,
40. Ngân: đúng rồi
41. Quốc: 2n, 2n + 1 à, 3 nhân 3, 9, à, 2 nhân 3 , 6, 2 nhân 3 , 6
42. Ngân : Không
43. Quốc: 4 nhân … 4 bình phương, 16 luôn…. 2 nhân 2, 4, 2 nhân 3 là 6, 6 là
cần 4, 6 cộng 3, 2 nhân 2, là 4 cộng 1, 2 nhân 4 là 8, 4n , à, 4 nhân 2 là 8.
44. Ngân: 3n
45. Quốc: à, 4n trừ 3, à, 4n trừ … 3, phải không?
46. Ngân: 16 – 3, Ừ, 13, 12 trừ 3 , 9, 8 trừ 3 là 5, Ừ, 4n -3.
47. Quốc : H(n) bằng 4n -3.
P6
P7
P8
Bài toán 4 :
1. Ngân: Vẽ hình chóp S.ABCD có đáy là hình thoi tâm O
2. Quốc: SO vuông góc với đáy, I, J lần lượt là trung điểm của AB và BC, AB,
AB mô rồi, BC
3. Ngân: BC, chứng minh IJ vuông góc với mp (SBD)
4. Quốc: J mô rồi, IJ vuông góc với mp S, SBD à
5. Ngân: Ừ
6. Quốc: SBD
7. Ngân: muốn chứng minh IJ vuông góc với mp(SBD), ta chứng minh IJ vuông
góc với BD, chứng minh IJ vuông góc với đường thẳng nằm trong mp(SBD).
Ta có IJ là đường trung bình của ABC suy ra IJ song song với AC mà
8. Quốc: BO vuông góc với AC
9. Ngân: ta có.
10. Quốc: BO vuông góc với AC suy ra IJ vuông góc với BO
11. Ngân: lấy BD cho dễ, đang xét mp này
12. Quốc: BO tức là BD luôn
13. Ngân: IJ vuông góc với BD luôn. Có SO vuông góc với mp(ABCD)
14. Quốc: SO vuông góc với đáy, mà IJ thuộc đáy nên suy ra SO
15. Ngân: vuông góc với IJ nên suy ra
16. Quốc: Suy ra
17. Ngân: IJ vuông góc với (SBD). Được không? Được chưa? Được rồi hè ?.
18. Quốc: Ừ
P9
P10
Nhóm Thuỳ Vân - Cẩm Tiên
Bài toán 1
1. Vân: Cho tam giác ABC, vẽ to lên …
2. Tiên: Rồi, Sao nữa ?
3. Vân: Về phía ngoài tam giác dựng các tam giác ABD vuông cân tại B,
4. Tiên: Vuông cân tại B, vẽ vuông trước, lấy êke.
5. Vân: BCE vuông cân tại B luôn. So sánh diện tích ABC và BDE .
6. Tiên: So sánh diện tích ABC à..
7. Vân: Có liên quan đến diện tích, vuông và bằng nhau, cạnh bằng cạnh chắc
là vẽ đường cao ở đây
8. Tiên: Vẽ đường cao tam giác phải không ?
9. Vân: Ừ. ở đây, có ba góc luôn
10. Tiên : S của BDE là 1/2 DE cộng
11. Vân : Nhân chứ . Chiều cao mà ….
12. Tiên: S của ABC là 1/2 AC nhân BH. Không có gì đặc biệt cả
13. Vân : thử ghi diện tích của hai cái này luôn xem thử. Hay là mình có kẻ gì
đó rồi hai bên cộng lại chi đó.
14. Tiên: Đánh giá hai cái gì đó với nhau nơi a
15. Vân: ghi cái này, S của BDA bằng ½ BD nhân BA
16. Vân và Tiên: S của BCE bằng 1/2 BE nhân BC
17. Vân: BD = BA, … lạ kỳ chưa. Ak, muốn tính cái này là mình vẽ đường cao
ở đây , bởi vì liên quan đến tam giác này, mình vẽ đường cao ở đây, thì có
đường này bằng tam giác bên này và bên này cũng có một đường bằng tam
giác bên này.
18. Tiên: Chứng minh tam giác bằng nhau.
19. Vân : Chứng minh được hai cái này bằng nhau, ak hai cái này bằng nhau.
20. Tiên: Ak. Đúng rồi, mình thử lấy cạnh đáy là cạnh này, hai cạnh này là một
rồi , mình thử dựng đường cao rồi chứng minh
21. Vân: ukm
22. Tiên: S của BDE bằng ½ DF nhân với BE, S của ABC bằng ½ BC nhân với
AK. Từ từ, hai cạnh này bằng nhau, phải chứng minh thêm hai đường.
P11
23. Vân: Không, bạn nói tam giác mô ? Tam giác ABC
24. Tiên: BDE, tức là chứng minh hai đường này bằng nhau.
25. Vân: Đường này a, …, mình làm thêm hai tam giác này nữa, bởi vì có liên
quan đến mấy cạnh này.
26. Tiên: Từ từ, để bạn, .., từ từ
27. Vân: Mình kẻ răng cho có liên quan đến cái bên này, bên này có liên quan
nhưng bên kia không liên quan nơi.
28. Tiên: Răng
29. Vân: Mình làm cạnh này là cạnh đáy a
30. Tiên: Mình cần hai diện tích bằng nhau, thì mình cần chứng minh cái này,
chứ liên quan đến hình đó làm chi?
31. Vân: Rứa họ cho hai cạnh này bằng nhau làm chi
32. Tiên: Oh, bạn nói rồi, họ cho hai cái cạnh bằng nhau để mình tính diện tích
này, có hai cạnh bằng nhau rồi, mình cần chứng minh hai đường cao bằng
nhau, là bằng nhau giờ mình có BE = BC rồi này.
33. Vân: ak, …
34. Tiên: Mình cần chứng minh DF và AK bằng nhau nữa thôi, là xong. Bạn nói
chứng minh hai tam giác ABK và DBF …cạnh này rồi, có góc vuông, cạnh
này với thêm gì nữa hè?
35. Vân: cạnh, cạnh này, hay đường này song song.
36. Tiên: à, cạnh
37. Vân: a, đúng rồi, hai đường này song song.
38. Tiên : Hai đường này răng mà song song ?
39. Vân: Hai đường này song song, đây vuông, đây cũng vuông, là song song,
đây là góc vuông , suy ra là hình chữ nhật, làm răng để chứng minh đây là
hình vuông, thì hai đường này bằng nhau suy ra hai tam giác bằng nhau.
40. Tiên: Mô rồi, theo trường hợp chi.
41. Vân: theo trường hợp là cạnh huyền, góc nhọn
42. Tiên: Vân nói hai tam giác mô…
43. Vân: a, nhầm, cạnh huyền với cạnh góc vuông
44. Tiên: có trường hợp đó nữa à?
45. Vân : có, cạnh huyền với cạnh góc vuông
P12
46. Tiên: Rứa giờ mình chứng minh hai đường này bằng nhau
47. Vân: Ừ, cái này là hình chữ nhật rồi, muốn chứng minh hình vuông, hình
chữ nhật răng là hình vuông, hai cạnh kề bằng nhau à. Hình chữ nhật..
48. Tiên: hai đường chéo bằng nhau, đường chéo, chắc không được rồi, chứng
minh hai cạnh này đi.
49. Vân : Ừ, … !!!
50. Tiên: BK, BF, BF
51. Vân: hay mình chứng minh hình thoi.
52. Tiên. Kẻ thêm nữa thì rắc rối, chứng minh hai cạnh kề bằng nhau thì chứng
minh cách kia cho rồi.
53. Vân: Cũng không có liên quan chi cả.
54. Tiên: Thôi đừng chứng minh hình vuông nữa, chứng minh cách khác đi. Hai
tam giác DFB với AKB, xem góc nhọn này đi, góc này với góc này.
55. Vân : Hắn cũng không đối đỉnh
56. Tiên: Rứa chứng minh góc mô, góc này không được, góc này cũng không
liên quan chi cả
57. Vân: ukm
58. Tiên : mô hè ?…!!!. Chứng minh hai đường này song song đi
59. Vân: song song làm chi ?
60. Tiên: Chứng minh hai cái này song song, bạn có một cách.
61. Vân: Nói đã
62. Tiên: Chứng minh hai cái này song song, mà cái này vuông góc với cái này
suy ra hai đường chéo vuông góc, hình chữ nhật có hai đường chéo vuông
góc là hình vuông, ..suy ra hai cạnh bằng nhau suy ra hai tam giác bằng
nhau
63. Vân : từ từ, hai cái này song song
64. Tiên: Trời ơi, hai cái này song song, mà cái này vuông với cái này, BH
vuông với AC, suy ra BH vuông với HK luôn…
65. Vân: ak, lấy bút đỏ tô những đường này lên
66. Tiên: suy nghĩ chứng minh đi
67. Vân: đây
68. Vân và Tiên: không có chi hết ……!!!
P13
69. GV: Sao rồi, chưa được à ? Cái gì đây ?
70. Vân : em vẽ thêm đường cao này, rồi vẽ thêm đường cao này nữa?
71. GV: Vì sao vẽ thêm hai đường cao đó?
72. Vân: Bởi vì chưa có đường cao, vẽ thêm để tính diện tích.
73. GV: Vì sao không vẽ hai đường cao từ các đỉnh khác, mà vẽ hai đường cao
từ các đỉnh đó?
74. Vân: vì hai đường cao này liên quan đến các điều kiện đã cho
75. GV: Điều kiện đã cho …
76. Vân: Cạnh này bằng cạnh này, vẽ thêm đường cao từ đây, thì cạnh này nhân
cạnh này nhân thêm ½ , bên kia cũng là cạnh này nhân với cạnh này nhân 1/
2?
77. GV: Vẽ như vậy với mục đích là so sánh cái chi hè ?
78. Vân: so sánh đường cao, bọn em so sánh hai tam giác này, nhưng thiếu một
điều kiện
79. GV: À, đúng rồi, so sánh hai tam giác đó? Chú ý mối liên hệ giữa các góc
đó?
80. Vân: Chú ý mối liên hệ giữa các góc, dựa vào hai tam giác này đúng rồi.hai
cạnh này bằng nhau, góc vuông ? Tìm mối liên hệ giữa các góc? Góc này
với góc này liên quan chi mô nà ? Góc này với góc này hay góc này với góc
này,
81. Tiên: có liên quan chi mô nà? 82. Vân : Thì chúng nằm gần nhau, có góc 900 nữa. Góc này cộng góc này là bằng 900, góc này cộng góc này là bằng 900 mà góc này cộng góc này cũng bằng 900, suy ra cái này bằng cái này, ak ak,… ra hay rứa ? Chi nữa ? Phải không ?.. Cái này cộng cái này bằng 900, cái này cộng cái này bằng 900
83. Tiên: À, À … ,Ừ
84. Vân: suy ra hai cái này bằng nhau, vì cộng chung một góc mà.
85. Tiên: Ừ, đúng rồi.
P14
P15
P16
Nhóm Trang - Ngân
Bài toán 2
1. Trang: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng . Trên nửa mp bờ AC dựng các hình
vuông ABEF, và
2. Ngân: BCDG
3. Trang: ABEF, BCDG, M, N lần lượt là trung điểm của AG và
4. Ngân: CE
5. Trang: Hỏi tam giác MBN .Dễ cân lắm, vuông nữa.
6. Ngân: Vuông cân
7. Trang : Ừ
8. Ngân: Chứng minh cân trước, chứng minh BM bằng BN có M là trung điểm
này.
9. Trang: Mình phải chứng minh hai tam giác ABG và EBC bằng nhau này, phải
không?
10. Ngân: Ừ
11. Trang: cạnh này bằng cạnh này, AB bằng EB, BC bằng BG, phải không ?
12. Ngân: Ừ, BC = BG vì là hình vuông
13. Trang: góc này bằng góc này. Suy ra hai tam giác bằng nhau. Nên hai cạnh AG
và EC bằng nhau. Đường trung tuyến bằng ½ cạnh huyền nên BM bằng BN. Ta
chứng minh góc MBN vuông nữa
14. Ngân: góc ABE vuông , CBE vuông rồi
15. Trang: hai tam giác ABG và BEC bằng nhau. BM bằng BN luôn
16. Ngân: chứng minh vuông góc à
17. Tran : tam giác ABM bằng BEN vì cạnh AB bằng cạnh BE, cạnh AM bằng MB
bằng BN bằng NE nữa nên hai góc ABM, EBN bằng nhau
18. Ngân: góc này bằng góc này à
19. Trang: góc bên này bằng góc bên này, đúng không? 20. Ngân: ak, góc ABM cộng góc MBE bằng 900 21. Trang: góc ABM cộng MBE bằng 900 nên góc MBE cộng góc NBE bằng 900
luôn
22. Ngân: Suy ra góc này vuông. Rồi.
P17
P18
Nhóm Hợp –Hải Tuấn
Bài toán 1
1. Tuấn : Cho tam giác ABC.
2. Hợp: ABC rồi
3. Tuấn: Về phía ngoài tam giác dựng hai tam giác ABD vuông cân tại B
4. Hợp: Tại B hết luôn à
5. Tuấn: ABD và BCE vuông cân tại B
6. Hợp: Rồi
7. Tuấn : So sánh diện tích tam giác ABC và BDE.
8. Hợp : ABC
9. Tuấn : và BDE
10. Hợp : BDE, Rồi.
11. Tuấn: Mình sử dụng diện tích tam giác sẽ bằng đường cao, cạnh đáy nhân
với đường cao tương ứng. mà giờ chừ mình có cạnh BD, BD bằng với AB
rồi.
12. Hợp:Ừ
13. Tuấn: giờ mình chỉ cần vẽ đường cao, hạ đường cao tương ứng với hai cạnh
đáy nữa và so sánh chúng với nhau, là biết diện tích hai tam giác ABC và
BDE
14. Hợp: Ừ, Rứa là dựng đường cao từ E với từ C à.
15. Tuấn : Ừ
16. Hợp: Dựng EH đi hè
17. Tuấn : Ừ
18. Hợp: Dựng EH vuông góc với BD, dựng C
19. Tuấn: CK
20. Hợp : CK vuông góc với AB
21. Tuấn: Ừ
22. Hợp: là có đáy bằng nhau rồi
23. Tuấn: giờ chỉ cần so sánh hai đường cao là biết diện tích thôi
24. Hợp: Ừ
25. Tuấn: ukm, Mình nhìn vào tam giác BCK với BDH đi
P19
26. Hợp: BCK, BDH à, BEH chứ
27. Tuấn: A, BEH
….!!!!
28. Hợp: à, giờ chứng minh EH bằng CK, mình tìm xem có hai tam giác nào
bằng nhau không
29. Tuấn: Xem tam giác BCK với BEH có bằng nhau không?
30. Hợp: Có góc vuông này, đường cao, góc vuông
31. Tuấn : rồi
32. Hợp: BE bằng BC, giả thiết
33. Tuấn: giờ mình cần chứng minh thêm một cạnh hoặc một góc nữa bằng nhau
34. Hợp : cạnh này. Chắc không được rồi, cạnh không có bằng nhau, góc xem
35. Tuấn: ak, có một góc này, một góc phụ với góc B bên ngoài này, góc B trong
hai tam giác đều bằng nhau này. Ta có góc KBC
36. Hợp: KBC
37. Tuấn: bù với góc, bù với góc DBE
38. Hợp: BDE
39. Tuấn: và góc
40. Hợp: phụ chứ? phụ hay bù?
41. Tuấn: hai góc bù với nhau
42. Hợp: BDE, à rồi rồi
43. Tuấn: hai góc ấy bù với nhau, trong tam giác EBH cũng có góc EBH cũng
bù với góc DBE
44. Hợp: DBE, à rồi
45. Tuấn: Nên mình suy ra được góc EBH bằng góc KBC
46. Hợp :Ừ
47. Tuấn: với hai tam giác vuông của mình là có hai cạnh bằng nhau và hai góc
bằng nhau rồi nên suy ra hai tam giác bằng nhau
48. Hợp: Bằng nhau theo trường hợp cạnh huyền – góc nhọn
49. Tuấn: Cạnh huyền – góc nhọn nên mình suy ra, hai tam giác bằng nhau nên
mình có
50. Hợp: Suy ra KC bằng HE
51. Tuấn: KC mà bằng HE, mình dựa vào công thức
P20
52. Hợp: diện tích tam giác
53. Tuấn: diện tích tam giác, mình có hai đáy BD và AB bằng nhau rồi, mình
mới chứng minh hai đường cao bằng nhau nên mình suy ra diện tích hai tam
giác bằng nhau
54. Hợp: Diện tích hai tam giác bằng nhau
P21
P22
Bài toán 2
1. Hợp: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự. Trên nửa mp bờ AC dựng
hình vuông ABEF và BCDG
2. Tuấn: A gì
3. Hợp: ABEF, .., và BCDG
4. Tuấn: BC
5. Hợp: BCDG. Gọi M, N lần lượt là trung điểm của AG và CE, AG, CE
6. Tuấn: M là trung điểm của AG
7. Hợp: N là trung điểm của CE. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì. Tại sao?
8. Tuấn: MBN
9. Hợp: MBN, vuông cân, nhìn giống vuông cân
10. Tuấn: giờ chứng minh thôi, vẽ hình ra gần giống vuông cân, giờ chứng minh
vì sao vuông , vì sao cân
…!!!
11. Hợp: NBM
12. Tuấn: Ta chứng minh tam giác vuông, mình có tam giác ABG là tam giác
vuông, ta xét tam giác ABG và tam giác EBC có, hai tam giác này vuông rồi
với
13. Hợp: có cái này bằng nhau
14. Tuấn: có cạnh BG =BC với cạnh AB
15. Hợp: Có góc vuông bằng nhau nữa
16. Tuấn: thì xét hai tam giác vuông rồi, có cạnh BG bằng BC với cạnh AB bằng
cạnh BE nên suy ra hai tam giác bằng nhau
17. Hợp: hai tam giác bằng nhau
18. Tuấn: tam giác ABG bằng tam giác EBC
19. Hợp: góc, tam giác ABG là có, vuông rồi, M là trung điểm suy ra là BM
bằng một phần hai AG, bằng AM, suy ra AMB là tam giác cân, suy ra MBA
bằng MAB
20. Tuấn: đúng rồi
P23
21. Hợp: Mà MAB cộng góc AGB bằng 900. Mà góc AGB bằng góc ECB do hồi
nảy có chứng minh hai tam giác vuông bằng nhau, mà góc NCB bằng NBC
do tam giác cân
22. Tuấn: chứng minh tương tự
23. Hợp : tương tự giống bên kia
24. Tuấn: rồi
25. Hợp: rồi, suy ra MBA cộng NBC bằng 90,
26. Tuấn: rồi 27. Hợp: mà hai góc đó cộng thêm góc MBN bằng 1800 , suy ra MBN bằng 90 ta
được tam giác cần tìm là tam giác vuông
28. Tuấn: tam giác MBN là tam giác vuông mà bạn thấy ta có BM bằng AC chia
2, mà à
29. Hợp : AG
30. Tuấn: BM bằng AG chia 2 mà AG sẽ bằng EC suy ra BM sẽ bằng EC chia 2,
mà EC chia 2 là sẽ bằng BN, nên ta có BM = BN. Vậy trong tam giác vuông
BMN có BN bằng BM nên tam giác BMN vuông cân tại B
31. Hợp : Vuông cân tại B, ok
P24
P25
P26
Bài toán 3
1. Tuấn: n bằng 1 thì có 0, ak có 1 hình tam giác
2. Hợp: n bằng 2 là …, hình 1 có 1 này, hình 2 có 4 tam giác, hình 3 là có 7
3. Tuấn: hình 3 sao mà có 7 tam giác được, hình 3 có 8 tam giác
4. Hợp: 1, 2, 3, 4, 5,6,7,8,9. 9 hình to nữa
5. Tuấn: đợi tí, sai rồi. Hình 2 có mấy hình tam giác? Hình 2 có mấy hình tam
giác?
6. Hợp: 4
7. Tuấn: 5, 5 hình tam giác
8. Hợp: cộng thêm trong nữa, 4 hình nữa
9. Tuấn: là 9
10. Hợp: là 9, 9 tam giác, cộng thêm trong 4 nữa
11. Tuấn: là 13
12. Hợp: rứa là cộng 4 à, không phải
13. Tuấn: Thì nếu nhìn vào hình 3 thì thấy, nếu không tính tam giác nhỏ nằm ở
giữa, tam giác nhỏ nằm ở giữa chính là hình 2, thì trong tam giác to sẽ có
tam giác nhỏ hình ở giữa là hình 2, thì hình 2 sẽ có, nhưng nếu không tính
tam giác to của hình 2 thì trong tam giác nhỏ sẽ có 4 hình tam giác, cứ tính
tiếp tục như vậy, thì cứ sau mỗi hình là số hình tam giác sẽ tăng lên là, tăng
lên 4 hình
14. Hợp: tăng lên 4 hình nhưng kể từ hình 2 trở đi, giống hình 1 lên hình 2 là
tăng 4 hình, à, tăng 3 chứ mấy
15. Tuấn: từ 1 lên là tăng 4, 1 lên 5
16. Hợp: rứa là tăng 4, qua mỗi hình thì tăng 4, bởi vì thêm một tam giác ở giữa
là thêm được 4 tam giác
17. Tuấn: thì sẽ tăng 4, rứa thì mình sẽ có công thức…
18. Hợp: rứa là hình thứ n là
19. Tuấn: hình thứ n sẽ có 1cộng
20. Hợp: 4 nhân n
21. Tuấn: 1 cộng cho 4 nhân cho n trừ 1
22. Hợp: 4 nhân n trừ 1
P27
23. Tuấn: đúng không?
24. Hợp: Đúng rồi, thêm một tam giác ở giữa là thêm 4 tam giác
25. Tuấn: Ừ, ở chính giữa tam giác nhỏ, lại tiếp tục có hình số 2 nên mình cứ
tăng lên thôi
26. Hợp: n bằng 3 thì 2, 8 , 9 .ok
27. Tuấn: số tam giác hình 1, H(1) bằng 1, số tam giác hình 2 ta có H(2) =5, số
tam giác hình 3 là H(3) bằng 9, hình 4 là 13
28. Hợp: số tam giác ở hình n là H(n) bằng 1cộng 4 nhân cho hiệu n trừ 1. Cứ
sau mỗi hình số tam giác tăng 4 hình
29. Tuấn: tăng 4 hình
30. Hợp: tăng 4 tam giác, H(2)= H(1)+4, H(3) = H(2) + 4, H(4) = H(3) +4
31. Tuấn: suy ra H(n+1) = H(n) +4
32. Hợp: Rồi, chứng minh
P28
P29
Nhóm Thu Sƣơng - Huyền Trang
Bài toán 1
1. S: Cho tam giác ABC, vẽ đi
2. T: Rồi
3. S: Về phía ngoài tam giác dựng tam giác ABD
4. T: ABD
5. S: ABD vuông cân và BCE vuông cân, hai tam giác đều vuông cân tại E
6. T: Tại B, vuông cân tại B
7. S: So sánh diện tích tam giác ABC và BDE
8. T: Diện tích bằng nhau chi nữa
9. S: Nối ABD đi, đánh dấu vuông cân
10. T: AB bằng BD, BC bằng BE ,…, mình sử dụng công thức diện tích bằng ½
tích hai cạnh nhân với sin góc xen giữa hè ? Diện tích tam giác ABC bằng ½
nhân với AB.BC nhân sin góc ABC
11. S: Diện tích của tam giác BDE bằng ½ nhân BD nhân BE nhân sin DBE
12. T: Ừ
13. S: Cần so sánh hai sin bằng nhau là được
14. T: Có là, bên này là sin ABC hey, bên này là sin DBE hey. Có 4 góc này cộng lại là 3600 đó là ABC cộng góc ABD cộng góc DBE cộng góc EBC là bằng 3600 mà hai góc vuông
15. S: hai góc còn lại là ABC và BDE 16. T: là sẽ bằng 3600 trừ 1800 là do hai góc vuông, mà có sina= sin(1800-a),
hai góc bù nhau, sin của hai góc bù nhau bằng nhau, được chưa?
17. S: ừ
18. T: suy ra sinABC = sin DBE.
Bài toán 2
1. S: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự. Trên nửa mặt phẳng bờ AC
dựng các hình vuông ABEF, và BCDG
2. T: ABEF à
3. S: ABEF, BCDG
P30
4. T: Rồi
5. S: M là trung điểm của AG
6. T: Rồi, sao nữa?
7. S: N là trung điểm của CE. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì? …
8. T: rồi
9. S: Tam giác đều à?
10. T: Vuông cân
11. S: Không đều
12. T: Không đều, vuông cân.
13. S: Ừ
14. T: Xét tam giác ABG và EBC có góc vuông, hai góc vuông là ABG với EBC
15. S: có hai cạnh bằng nhau AB với BE
16. T: rồi, có thêm nữa là BG với BC
17. S: Nên suy ra, hai tam giác bằng nhau theo trường hợp cạnh- góc- cạnh.
18. T: Suy ra hai cạnh
19. S: hai cạnh huyền bằng nhau
20. T: là AG bằng với EC
21. S: mà MB bằng ½ AG
22. T: với ta có góc AGB bằng góc ECB
23. S: MB bằng ½ AG, trung điểm, cạnh huyền
24. T: MB bằng ½ AG mà BN =1/2 EC nên BM=BN
25. S: nên tam giác BMN cân tại B
26. T: Ừ, ta có BM là bằng MG suy ra tam giác MGB cân tại M suy ra góc MGB
bằng góc MBG
27. S: tương tự tam giác…
28. T: Tam giác NBC cân tại N suy ra góc NBC bằng góc NCB. Mà góc NCB
bằng góc MGB do hai tam giác bằng nhau. Nên suy ra góc MBG bằng góc
NBC. Được chưa
29. S: Ừ
30. T: Tam giác EBC vuông tại B nên suy ra 31. S: góc NBC cộng góc EBG bằng 900 32. T: Hay góc MBG cộng góc GBN bằng 900
P31
33. S: suy ra góc MBN bằng 900
34. T: suy ra góc tam giác MBN vuông tại B , với thêm tam giác MBN cân tại B
nữa suy ra tam giác MBN vuông cân tại B.
P32
Nhóm Linh - Thắng
Bài toán 3
1. Linh: Tìm quy luật đi
2. Thắng: Hình 1 là mấy hình, hình 1 là 1 hình, đúng không?
3. Linh: Ừ, hình 2 là 4 hình
4. Thắng: 5 hình chứ ?
5. Linh: ừ hè
6. Thắng: 5 là bằng 1 cộng 4
7. Linh: Sao mà biết được, nhiều khi bằng 2 cộng 3 thì sao?
8. Thắng: Làm cho rồi, hình 3 là mấy hình?
9. Linh: .. 9 hình.
10. Thắng: 9 hình phải không? Rồi
11. Linh: Một hình thêm 4 hình thì phải ?
12. Thắng: Ừ, Là bằng 5 cộng 4, đúng không ? Hình 4
13. Linh: hình 4 là thêm 4 hình nữa là ..13 hình, … đúng rồi.
14. Thắng: 13 hình, rồi, là bằng 9 cộng 4
15. Linh: 5 bằng 1cộng 4
16. Thắng: hình 3 là bằng hình 2 cộng 4, hình 4 là bằng hình 3 cộng 4, hình sau
là bằng hình trước cộng 4
17. Linh: Ừ
18. Thắng: hình 3 bằng 1 cộng 4 lần 2, hình 4 là bằng
19. Linh : bằng 1cộng 4 lần 3
20. Thắng: suy ra hình n là bằng mấy?
21. Linh: đáng lẽ là bằng 1 cộng 4 nhân n, n thuộc N* vì hình đầu là n bằng 0.
22. Thắng: thì hình 1là 1, đây hình 2 là n bằng 1
23. Linh: đáng lẽ đây là bằng 1 này, nhưng nó lại bằng 0 cho nên phải n trừ 1 ra
mới đúng.
24. Thắng: ừ, hình 4 thì n bằng 3, hình 3 thì n bằng 2.
25. Linh: ừ, thì n giảm đi 1
26. Thắng: Như vậy thì hình n bằng 1 cộng 4 nhân n trừ 1. Giờ chứng minh
27. Linh: Chứng minh quy nạp thôi.
P33
P34
P35
Bài toán 4
1. Thắng : Đọc đề để bạn vẽ hình cho
2. Linh : Cho hình chóp S.ABCD có đáy là hình thoi tâm O.
3. Thắng : Đáy hình thoi thì vẽ là hình bình hành.
4. Linh : Tâm O thì SO vuông góc với đáy. Gọi I,J lần lượt là trung điểm của
AB,BC. Đường thẳng IJ có vuông góc với mặt phẳng (SBD) không ? Tại sao
?
5. Thắng: rồi
6. Linh: Cho IJ vuông góc với mặt phẳng (SBD), ta chứng minh IJ vuông góc
với 2 đường thẳng thuộc mặt phẳng (SBD).
7. Thắng : Phải chứng minh IJ vuông góc với 2 đường thẳng cắt nhau thuộc
mặt phẳng (SBD).
8. Linh : 2 đường thẳng bất kì thuộc mặt phẳng (SBD) là được.
9. Thắng : 2 đường thẳng đó phải cắt nhau.
10. Linh : Xem BD có
11. Thắng : BD vuông góc với IJ vì SO vuông góc với mặt phẳng (ABCD) thì SO
vuông góc với BD.
12. Linh : Chứng minh SO vuông góc với BD làm gì ? IJ vuông góc với BD vì
ABCD là hình thoi có hai đường chéo vuông góc với nhau tức AC vuông góc
với BD mà IJ song song với AC.
13. Thắng : IJ song song với AC theo tính chất đường trung bình trong tam giác.
14. Linh : Thêm SO vuông góc với mặt phẳng (ABCD) mà IJ nằm trong mặt
phẳng (ABCD) nên suy ra SO vuông góc với IJ, mà SO và BD cắt nhau nên
suy ra IJ vuông góc với mặt phẳng (SBD).
P36
P37
Bài toán 2
1. Linh: Cho ba điểm A, B, C thẳng hàng theo thứ tự
2. Thắng: Rồi
3. Linh.: Trên nửa mặt phẳng bờ AC dựng hình vuông ABEF, BCDG
4. Thắng: BCDG…
5. Linh: Gọi M, N. M là trung điểm của AG, N là trung điểm của CE.
6. Thắng: Rồi
7. Linh. Hỏi tam giác MBN là tam giác gì?
8. Thắng: MBN
9. Linh: Xem BM, BN có bằng nhau không? Đo xem
10. Thắng: BM.BN. Có vẻ bằng nhau. Xem góc này là góc gì?
11. Linh: thấy vuông, cũng có thể là vuông cân.
12. Thắng: ừ
13. Linh: bài này có thể dùng phép quay thì phải, vì cho hai hình vuông. À,
tam giác ABG dựng lên là tam giác BEC. Phép quay ngược chiều kim đồng hồ là 900, cùng chiều kim đồng hồ là – 900. Phải không?
14. Thắng: Ừ, phép quay tâm B 15. Linh: Tâm B góc quay 900, biến A thành E, G thành C .Được chưa?
16. Thắng: ừ
17. Linh: Mà M là trung điểm của AG, N là trung điểm của EC nên suy ra
phép quay cũng biến M thành N
18. Thắng: Ừ 19. Linh: Suy ra BM =BN, Do phép quay góc 900 nên góc MBN cũng bằng
900. Suy ra tam giác BMN vuông cân,vuông cân tại B
20. Thắng: ừ, đúng rồi
P38
P39

