BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Mỹ Hà
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT
ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24THÁNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Mỹ Hà
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT
ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24THÁNG
Chuyênngành: Giáo dục học (Mầm non)
Mãsố: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 4
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 5
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 6
5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 6
6. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 6
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................ 8
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................... 8
1.2. Hoạt động với đồ vật và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ ................... 10
1.2.1. Khái niệm hoạt động với đồ vật ............................................................................ 10
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động với đồ vật ............................................... 11
1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với sự phát triển của trẻ ............................ 14
1.3. Nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ........................................................................ 17
1.3.1. Nội dung phát triển hành động thiết lập mối tương quan ..................................... 17
1.3.2.Nội dung phát triển hành động công cụ ................................................................. 18
1.3.3. Nội dung làm quen, nhận biết phân biệt kích thước, màu sắc, hình dạng của đồ vật – đồ chơi .................................................................................................................... 18
1.4. Hình thức tổ chức hướng dẫn cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV ..................... 18
1.4.1. Tổ chức hoạt động chơi – tập có chủ đích ............................................................ 19
1.4.2. Tổ chức hoạt động chơi – tập tự do trong phòng nhóm........................................ 19
1.4.3. Tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày ....................................................................... 20
1.5. Các biện pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ...................................... 20
1.5.1. Biện pháp là gì? .................................................................................................... 20
1.5.2. Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 tháng ............................ 20
1.6. Vai trò của môi trường đồ dùng, đồ chơi đối với HĐVĐV của trẻ ....................... 21
1.6.1. Kết cấu phòng/ nhóm lớp ...................................................................................... 21
1.6.2. Trang thiết bị ......................................................................................................... 22
1.6.3. Yêu cầu đối với đồ dùng, đồ chơi ......................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24TH Ở TRƯỜNG MN ............................................................................................. 24
1
2.1. Mục đích khảo sát thực trạng ................................................................................... 24
2.2. Đối tượng khảo sát ..................................................................................................... 24
2.3. Nội dung khảo sát ...................................................................................................... 24
2.4. Tiến trình khảo sát .................................................................................................... 24
2.5. Đánh giá thực trạng khảo sát ................................................................................... 26
2.5.1. Về phía GVMN ..................................................................................................... 26
2.5.2. Môi trường vật chất ở lớp học của trẻ................................................................... 32
2.5.3. Về phía gia đình .................................................................................................... 35 2.5.4. Thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ................................................... 38
2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ..................... 43
2.6.1. Từ phía gia đình: ................................................................................................... 43
2.6.2. Từ phía nhà trường ............................................................................................... 43
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CHO TRẺ 18 – 24TH ...................... 45
3.1. Cơ sở định hướng của việc đề xuất biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ....................................................................................................................... 45
3.2. Một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ....................... 45
3.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường đồ dùng – đồ chơi ........................................ 45
3.2.2. Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày ...... 48
3.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt cho đôi tay của trẻ ...................... 49
3.2.4. Biện pháp 4: Tư vấn cho GVMN .......................................................................... 50
3.2.5. Biện pháp 5: Tôn trọng và luôn đặt niềm tin vào khả năng của trẻ ...................... 50
3.3. Điều kiện thực hiện các biện pháp ........................................................................... 51
3.3.1. Điều kiện đối với trẻ ............................................................................................. 51
3.3.2. Điều kiện đối với giáo viên ................................................................................... 51
3.4. Mục đích thực nghiệm ............................................................................................... 51
3.5. Nội dung thực nghiệm ............................................................................................... 52
3.6. Thời gian và địa điểm thực nghiệm ......................................................................... 52
3.6.1. Thời gian thực nghiệm .......................................................................................... 52
3.6.2. Địa điểm thực nghiệm:.......................................................................................... 52
3.7. Tiêu chí và thang đánh giá ........................................................................................ 52
3.8. Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ...... 53
3.8.1. Đo trước thực nghiệm ........................................................................................... 53
3.8.2. Tổ chức thực nghiệm ............................................................................................ 53
3.8.3. Đo sau thực nghiệm .............................................................................................. 54
2
3.9. Phân tích kết quả thực nghiệm ................................................................................. 54
3.9.1. Phân tích định lượng ............................................................................................. 54
3.9.2. Phân tích định tính ................................................................................................ 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 74
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng mạnh. Kinh tế
tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Các nước
trên thế giới đều coi giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi
quốc gia. Ở Việt Nam, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại
Đại hội XI đã xác định: “Phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân” nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục mầm non (GDMN) là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nhân
cách con người. Để phát triển, để nên người, đứa trẻ phải hoạt động để lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội – lịch sử. Hoạt động không chỉ là nơi tâm lý con người được bộc lộ mà chính là cái
hình thành nên tâm lý của con người. Muốn phát triển tâm lý và hình thành nhân cách trẻ
em thì nhất thiết phải đưa chúng vào những hoạt động nhất định. Với vai trò là hoạt động
chủ đạo (HĐCĐ) của trẻ ấu nhi, hoạt động với đồ vật (HĐVĐV) chứa đựng những cơ hội
phát triển trẻ về mọi mặt mà nếu bỏ qua khi trẻ bước sang tuổi mẫu giáo sẽ không còn cơ
hội phát triển nhanh và mạnh nữa. Chính vì vậy, nhà giáo dục sử dụng HĐVĐV là phương
tiện để bước đầu hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ đáp ứng yêu cầu của
xã hội trong giai đoạn mới.
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dưới góc độ sinh lý, tâm vận động, tâm lý xã
hội và những kết quả nghiên cứu về sự phát triển đặc biệt của não bộ trong 3 năm đầu tiên
của cuộc đời có tính quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ
trong tương lai. Các chuyên gia nghiên cứu về bộ não – hành vi – sự phát triển của trẻ gọi
đó là “Cửa sổ cơ hội” (Window of opportunity). Đây là giai đoạn cung cấp những kích thích
để tạo thành nhiều kết nối thần kinh trên não bộ giúp trẻ đạt được tiềm năng tối đa, đóng vai
trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển của trẻ cả về thể chất lẫn tinh thần, cũng như văn
hóa và nhận thức trong tương lai của trẻ. Phát huy tối đa “Cửa sổ cơ hội” cho trẻ chính là
giúp trẻ tiếp thu, học hỏi, phát huy hết tiềm năng của mình ngay từ bước khởi đầu quan
trọng này. Theo lý thuyết hoạt động tâm lý của A.N. Leonchev và Đ.B. Enconhin, mỗi giai
4
đoạn phát triển tâm lý trẻ em đặc trưng bởi một quan hệ nhất định của trẻ với thực tại, có
tính chất chủ đạo trong một giai đoạn nhất định – HĐCĐ [12], [23].
Thực tiễn cho thấy trẻ còn gặp khó khăn trong HĐVĐV có thể có nhiều nguyên nhân:
Ở gia đình, cha mẹ và người thân chưa hiểu hết vai trò của HĐVĐV. Thậm chí, nhiều bậc
cha mẹ không hiểu cụm từ “Hoạt động với đồ vật” thực chất là hoạt động như thế nào. Do
đó, người lớn chưa biết cách lựa chọn đồ chơi và chơi cùng trẻ. Bên cạnh đó, khả năng tự
chơi của trẻ còn hạn chế, giai đoạn này người lớn có thói quen quan tâm đến “nuôi” nhiều
hơn “dạy” do đó trẻ chưa có nhiều cơ hội tham gia HĐVĐV để đạt hiệu quả một cách tốt nhất. Ở trường mầm non (MN), HĐVĐV của trẻ 18 – 24 tháng (18 – 24th) được tổ chức
trong hai hình thức chơi – tập và chơi tự do. Hình thức dạy trẻ HĐVĐV trong sinh hoạt
hàng ngày chưa thực sự được chú trọng. Giáo viên cũng chưa quan tâm nhiều đến khâu sắp
xếp tạo môi trường đồ chơi nhằm khơi gợi ý tưởng cho trẻ. Bên cạnh đó, tài liệu hướng dẫn
nghiệp vụ cho giáo viên mầm non (GVMN) trong việc tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ có
đổi mới nhưng nhìn chung chỉ về mặt hình thức. Ở trường Sư phạm đào tạo GVMN, các tài
liệu nghiên cứu giảng dạy và học tập về vấn đề tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ phần lớn là tài liệu đã cũ, chưa có bổ sung cả về nội dung lẫn hình thức trong những năm gần đây [8]. HĐVĐV trong các tài liệu ít đề cập đến giai đoạn 18 – 24th. HĐVĐV thực tế diễn ra hàng
ngày và rất gần gũi đối với mỗi đứa trẻ dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, người
lớn chưa thực sự chú ý tận dụng cơ hội cho trẻ tham gia HĐVĐV.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thiết nghĩ nếu không tổ chức tốt HĐVĐV cho
trẻ trong thời điểm này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ về sau. Chính vì
vậy chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp phát triển khả năng hoạt động với đồ vật cho trẻ 18 – 24th”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp giáo dục nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 –
24th.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan HĐVĐV. - Khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.
- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 –
24th.
5
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. - Khách thể nghiên cứu: Quá trình phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ở
trường MN.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu nhà giáo dục sử dụng các biện pháp để tổ chức cho trẻ 18 – 24th tham gia
HĐVĐV một cách hợp lý sẽ phát triển tốt khả năng HĐVĐV của trẻ.
6. Giới hạn nghiên cứu
Thời gian hạn chế nên đề tài chúng tôi nghiên cứu về đặc điểm HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở 4 trường MN tại Tp. HCM: Trường MN 12 Quận 5; Trường MN Hoa Hồng Quận
Bình Tân; Trường MN 12 Quận Tân Bình; Trường MN Hươu sao Huyện Bình Chánh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu lý luận về HĐVĐV và phương pháp tổ chức
HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th trong trường MN.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường MN.
- Quan sát môi trường đồ dùng – đồ chơi dành cho trẻ trong lớp học.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến GVMN và cha mẹ của trẻ 18 – 24th để thu thập thông tin
về:
- Hiểu biết của họ về tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ.
- Các phương pháp – biện pháp, cách thức GVMN và cha mẹ tổ chức cho trẻ tham
gia HĐVĐV.
- Nội dung GVMN và cha mẹ của trẻ tổ chức cho trẻ HĐVĐV
- Khả năng HĐVĐV của trẻ trong hoạt động chơi – tập và trong sinh hoạt hàng ngày.
Khi xử lý bảng hỏi có những điều chưa rõ chúng tôi tiến hành phỏng vấn GVMN và
phụ huynh để làm rõ vấn đề trong phiếu thăm dò ý kiến.
6
7.2.3. Phương pháp thực nghiệm
- Thực nghiệm thăm dò: Khảo sát khả năng trẻ 18 – 24th thực hiện hành động thiết lập
mối tương quan (TLMTQ), hành động công cụ và khả năng nhận biết màu sắc, kích thước
của đồ vật.
- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực hiện các biện pháp nhằm phát triển khả năng
HĐVĐV đã xây dựng cho nhóm trẻ thực nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kê số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm xử lí số liệu một cách khách quan, khoa
học để có được kết quả nghiên cứu của luận văn.
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ năm đầu, trẻ sơ sinh đã bắt đầu thể hiện sự có mặt của mình bằng những hành
động tương tác với thế giới xung quanh. Cụ thể là chơi với đồ vật, đồ chơi là một trong
những cách thức thỏa mãn nhu cầu tích cực rõ ràng nhất ở trẻ nhỏ. Những trải nghiệm tích
cực mà trẻ có được khi hoạt động với đồ vật, đồ chơi có vị trí nổi bật cho đến năm lên ba.
Và những hoạt động đó gọi chung là HĐVĐV [14].
Ban đầu khi đứa trẻ có trong tay món đồ vật nào đó, trẻ sẽ thực hiện các hành động
như: quăng, gõ, đập, ném… và thích thú khi chúng tạo ra tiếng động, âm thanh, chuyển
động hay biến đổi hình dạng… Những hành động đó chưa nhằm vào mục đích khám phá
chức năng, phương thức sử dụng. Về sau, trẻ nhận ra trong mỗi đồ vật chứa đựng một chức
năng nhất định và phương thức sử dụng tương ứng [26].
Trong lịch sử nghiên cứu về tâm lý học phát triển có rất nhiều tác giả đề cập đến các
giai đoạn phát triển của con người, mỗi tác giả đứng trên những quan điểm khác nhau để
phân định thời kỳ lứa tuổi. Theo A.N.Leonchev (1903 – 1979) – nhà TLH Xô viết, hoạt
động của bản thân con người là yếu tố quyết định nhất trong việc hình thành và phát triển
tâm lý, nhân cách con người. HĐCĐ trong sự phát triển tâm lý trẻ em là đóng góp nổi bật
của A.N. Leonchiev trong các công trình nghiên cứu của ông. Tiếp tục phát triển quan điểm
của A.N. Leonchev là Đ.B. Econhin – người cộng sự và học trò của ông [23], [24], [25]. Từ
đó, ngành TLH phát triển mở ra thêm hướng nghiên cứu về sự phát triển tâm lý trẻ em cho
đến ngày nay. Mỗi giai đoạn lứa tuổi tương ứng với từng HĐCĐ và HĐCĐ của trẻ tuổi ấu
nhi như đã đề cập ở trên là HĐVĐV.
Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học – giáo dục học của Liên Xô luôn đề
cao vai trò của các loại hoạt động và HĐCĐ đối với sự phát triển nhân cách của trẻ em. Tiêu
biểu là A.N. Leonchev, V.X. Mukhina, P. G. Xamarukova … Trong các công trình nghiên
cứu của mình về tâm lý lứa tuổi, họ đều xem HĐVĐV là một trong những thành tựu quan
trọng nhất của tuổi nhà trẻ và là phương tiện hữu hiệu để hình thành và phát triển nhân cách
cho trẻ.
V.X. Mukhina trong các công trình nghiên cứu của mình đã làm rõ một số đặc điểm
của HĐVĐV, các giai đoạn phát triển trong mối liên hệ giữa hành động với đồ vật ở lứa tuổi
ấu nhi. Đặc biệt, những loại hành động với đồ vật được tác giả phân tích khá sâu sắc [30].
8
Trong Thuyết phát sinh nhận thức của Jean Piaget, cụ thể ở giai đoạn cảm giác – vận
động đã đề cập đến vai trò của những trải nghiệm thử và sai (Trial and error
experimentation) qua những hành vi tác động lên đồ vật để khám phá những tính chất, cấu
trúc của đồ vật, khám phá thế giới [15], [24].
Maria Montessori là một bác sỹ đồng thời là một nhà giáo dục người Ý. Bà cho rằng
giai đoạn 0 – 3 tuổi thực sự quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho cuộc đời mỗi đứa trẻ sau
này. Giai đoạn này trẻ được học trong môi trường có học cụ và hoạt động thiết kế phù hợp
với độ lớn, kích thước và khả năng của trẻ [17], [18]. Trẻ 0 – 6 tuổi là những nhà khám phá,
trải nghiệm bằng cảm giác (sensorial explorers). Trong thời kỳ này Montessori phân chia
thành 5 thời kỳ nhỏ. Trong đó, có 3 thời kỳ đáng chú ý: Thời kỳ phát cảm về cảm giác (2 – 24th), thời kỳ phát cảm về vận động và hành động (18th – 3 tuổi), thời kỳ phát cảm tri giác
các đồ vật nhỏ (2 – 3 tuổi). Phương pháp giáo dục của Montessori chú trọng đến môi trường
giáo dục (giáo cụ để trẻ hoạt động và giáo viên chuẩn bị môi trường). Như vậy, theo cách phân chia của Montessori trẻ từ 18th – 3 tuổi là thời kỳ phát cảm về cảm giác và đối tượng
trẻ hoạt động để phát triển là học cụ. Mặc dù không cùng quan điểm với các nhà TLH hoạt động, TLH hiện đại nhưng theo quan điểm của bà chúng tôi thấy rằng ở giai đoạn 18th – 3
tuổi hoạt động của trẻ thực chất là chú trọng tới việc cho trẻ HĐVĐV, đồ vật ở đây chính là
các bộ học cụ đặc thù của Montessori.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về HĐVĐV và tổ chức HĐVĐV thiên về nghiên cứu lý
luận như trong các tài liệu nghiên cứu giảng dạy và học tập theo chương trình đào tạo
GVMN của Bộ GD & ĐT cũng như giáo trình và tài liệu tham khảo của các trường đào tạo
chuyên ngành GDMN.
HĐVĐV ở trẻ ấu nhi đã được một số tác giả nghiên cứu trong các đề tài nghiên cứu
khoa học:
Năm 1997 trong công trình nghiên cứu của TS. Lê Thu Hương “Một số định hướng
đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc – giáo dục (CS – GD) trẻ trong trường
MN đầu thế kỉ XXI”. Công trình đã đưa ra một số định hướng đổi mới về mục tiêu, nội
dung, phương pháp CS – GD trẻ trong trường MN trong đó có định hướng đổi mới về nội
dung, phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ [8].
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Ngân năm 2005 “Một số biện pháp phát triển tính tự lực cho trẻ 24 – 36th trong HĐVĐV”, đề tài lấy HĐVĐV làm phương tiện để nghiên
cứu về phẩm chất đạo đức của trẻ [21].
9
Năm 2007, đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở của ThS. Phan Thị Minh Hà –
Trường CĐSPMG TW3 nghiên cứu về thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18
– 24 tháng trong trường MN [8]. Đề tài dừng lại ở khảo sát thực trạng phương pháp GVMN
tổ chức HĐVĐV trong trường MN và đưa ra một số kiến nghị. Trong đó, tác giả đưa ra kiến
nghị cần tổ chức nghiên cứu thực nghiệm phương pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV ở các nhóm
trẻ nhà trẻ trong các trường MN tại Tp. Hồ Chí Minh.
Chúng tôi nhận thấy những đề tài nghiên cứu về HĐVĐV ở trẻ nhà trẻ:
- Thứ nhất, các tác giả đề cập nhiều đến lý luận mang tính hàn lâm.
- Thứ hai, sử dụng HĐVĐV là phương tiện để nghiên cứu một năng lực hay phẩm
chất nào đó của trẻ.
- Thứ ba, nghiên cứu thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV của GVMN.
Sơ lược tình hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về HĐVĐV, chúng
tôi nhận thấy nghiên cứu về lý luận HĐVĐV được rất nhiều tác giả có tên tuổi từ trước đến
nay nghiên cứu. Qua đó, chúng tôi có điều kiện kế thừa những tư tưởng, thành tựu của các
công trình nghiên cứu trên. Việc nghiên cứu thực tiễn về khả năng trẻ nhà trẻ HĐVĐV ở Việt Nam mà cụ thể là nhóm trẻ 18 – 24th các đề tài nghiên cứu chưa đề cập đến nhiều. Bên
cạnh đó, các biện pháp để phát triển khả năng HĐVĐV cũng chưa tiến hành thực nghiệm để
có sự đối chứng làm bật lên tính hiệu quả khi sử dụng phương pháp – biện pháp tổ chức cho
trẻ tham gia HĐVĐV.
1.2. Hoạt động với đồ vật và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ
1.2.1. Khái niệm hoạt động với đồ vật
Thời kỳ hài nhi, trẻ thực hiện những hành động với đồ vật mang tính vu vơ. Bước sang
tuổi ấu nhi, đồ vật không chỉ là cái để chơi mà còn chứa đựng bên trong một chức năng
nhất định và phương thức sử dụng chúng. Qua quá trình trẻ hoạt động với đồ vật, trẻ lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội ẩn chứa bên trong các đồ vật. Hoạt động này của trẻ
được gọi là HĐVĐV [27].
Hay nói cách khác, HĐVĐV là quá trình trẻ tiếp xúc với đồ vật – đồ chơi trong cuộc
sống hàng ngày và qua đó trẻ lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội được củng
cố vào trong các đồ vật [8]
Xét theo góc độ tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV (GVMN đóng vai trò chủ thể), các
nhà GD đưa ra khái niệm về HĐVĐV [5]:
10
Tổ chức HĐVĐV là quá trình cô giáo tổ chức cho trẻ tiếp xúc và thao tác với đồ vật,
đồ chơi nhằm giúp trẻ nắm được tên gọi, đặc điểm, công dụng và cách sử dụng chúng, qua
đó giúp trẻ hiểu biết được thế giới xung quanh và kinh nghiệm sống của con người.
HĐVĐV là một trong những hoạt động cơ bản của trẻ ở trường MN và đó là HĐCĐ
của trẻ lứa tuổi ấu nhi. Những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người ẩn chứa trong các
đồ vật, đồ chơi mà trẻ tiếp xúc dần dần được bộc lộ trong quá trình trẻ hoạt động với chúng.
Như vậy, HĐVĐV của trẻ diễn ra bằng 2 con đường:
- Con đường tự nhiên (tự phát), là khi trẻ thoả mãn nhu cầu hoạt động của mình bằng
cách tự chơi với đồ vật, đồ chơi xung quanh trẻ sau nhiều lần trẻ dần dần tích luỹ được kiến
thức, kinh nghiệm. Bằng con đường này trẻ rút ra bài học không phải dễ dàng và nhanh
chóng. Đôi khi trẻ hoạt động nhiều lần nhưng không thể đạt đến kết quả đúng.
- Con đường có tác động của giáo dục (tự giác), là khi trẻ HĐVĐV dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của người lớn. Bằng con đường tự giác, dưới tác động của giáo dục đứa trẻ sẽ rút
ngắn được thời gian để nhanh chóng chiếm lĩnh kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người.
Trong các tài liệu hầu như chỉ đề cập đến những thao tác, hành động, tầm quan trọng
khi trẻ tiếp xúc với đồ vật và qua đó trẻ tiếp thu được kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài
người chứ chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về HĐVĐV.
Theo chúng tôi HĐVĐV là quá trình trẻ thao tác với đồ vật qua đó trẻ lĩnh hội được
đặc điểm, chức năng, phương thức sử dụng chúng bằng con đường tự phát và tự giác.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động với đồ vật
Thứ nhất, thông qua HĐVĐV của trẻ lần đầu tiên những chức năng của đồ vật
được mở ra trước mắt trẻ. Chức năng của đồ vật là những tính chất được ẩn giấu bên trong
bản thân mỗi đồ vật và không phải chỉ bằng những thao tác đơn giản mà trẻ phát hiện được
ngay. Chẳng hạn như: qua nhiều lần trẻ cầm nắm, ném hay gõ… cái ca. Tuy nhiên, bằng
cách đó trẻ vẫn chưa thể biết được chức năng của cái ca mà thông qua người lớn bằng cách
này hay cách khác (dùng ca đựng nước cho trẻ uống, trẻ nhìn thấy người lớn uống nước
bằng ca hay người lớn chỉ cho trẻ lấy ca cho búp bê uống nước…) giúp trẻ khám phá xem
chúng được dùng để làm gì và làm như thế nào [26].
Thứ hai, việc đứa trẻ nắm được chức năng của đồ vật mang tính đặc trưng của con
người. Điều này hoàn toàn khác với sự bắt chước của loài vật ở chỗ trẻ nắm được chức
năng cố định của đồ vật được xã hội quy định và không thay đổi theo thời gian. Nghĩa là ở
giai đoạn này, trẻ hiểu được và sử dụng đồ vật đúng theo chức năng của nó và khi sử dụng
11
khác chức năng đứa trẻ vẫn biết chức năng đích thực của đồ vật đó là gì. Ví dụ trẻ dùng cái
gối làm em bé, thậm chí cùng là cái chén nhưng trẻ biết cái nào dùng để chơi cho búp bê ăn
và cái nào dùng để đựng thức ăn thật cho mình.
Trong quá trình lĩnh hội những hành động với đồ dùng – vật dụng trong sinh hoạt hàng
ngày trẻ đồng thời nắm bắt được các quy tắc hành vi trong xã hội. Vì vậy, lúc trẻ hờn dỗi
người lớn trẻ có thể ném bỏ đồ dùng của chúng đang cầm chẳng hạn như làm vỡ cái chén,
cái ly hay làm đổ thức ăn… chúng tỏ ra khá sợ hãi, lo lắng bị người lớn trách phạt vì chúng
biết mình đã phạm phải quy tắc sử dụng đồ vật.
Quá trình phát triển vận động của trẻ hoàn thiện dần từ thấp đến cao: “ba tháng lẫy –
bảy tháng bò – chín tháng lò dò biết đi”. Song song với quá trình phát triển vận động là quá
trình phát triển hành động với đồ vật. Hành động với đồ vật bắt đầu xuất hiện ở cuối tháng
thứ 3, khi trẻ có hành động chộp lấy những vật trong tầm tay trẻ. Trong suốt thời kỳ hài nhi,
trẻ cầm nắm và thao tác với đồ vật như: rung lắc, quăng, gõ, đập, ném… Trẻ tỏ ra thích thú
khi những đồ vật chuyển động, thay đổi hình dạng hay phát ra âm thanh và những thao tác
đơn giản với đồ vật như thế nhiều tài liệu gọi là “hành động khám phá”. HĐVĐV chỉ mang
tính ngẫu nhiên.
Sang tuổi ấu nhi, sự tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng rộng thì phương thức
hành động với đồ vật cũng càng phong phú. Điển hình là trẻ đã tự mình tiến đến những nơi
mình muốn đến để tự mình với lấy được những thứ mà trẻ có nhu cầu trong tầm tay của trẻ.
Lúc này HĐVĐV là hoạt động mang tính khám phá, trước hết là chức năng và phương thức
sử dụng.
• Hành động thiết lập các mối tương quan
Hành động thiết lập mối tương quan (TLMTQ) là hành động mà trong đó đặt hai hay
nhiều đối tượng (hoặc các bộ phận của đồ vật) vào những mối tương quan nhất định trong
không gian để tạo thành một chỉnh thể nào đó [28].
Một khái niệm khác về hành động TLMTQ: là những hành động mà mục đích của
chúng là đưa hai hay nhiều đồ vật (hoặc các bộ phận của chúng) vào trong mối tương quan
nhất định về không gian [14]. Ví dụ: hành động lồng hộp, đóng mở nắp hộp, chồng tháp,
xâu hạt … (hình 1.1)
12
Hình 1.1
Ở tuổi hài nhi, trẻ đã bắt đầu thực hiện những hành động với hai đồ vật như lồng hộp,
xếp chồng,… Song khi thực hiện những thao tác của hành động này, trẻ chưa hướng chú ý
đến đặc tính của đồ vật, chẳng hạn như không xếp theo sự tương xứng về kích thước hay
hình dạng… Sang tuổi ấu nhi trẻ có sự thay đổi về chất, cụ thể trẻ phải lựa chọn xem hình
nào tương ứng để có thể thả lọt vào hộp, lồng hộp thì phải lồng hộp nhỏ nhất vào trong hộp
nhỏ hơn hay trẻ chơi xếp chồng tháp, trẻ phải lựa chọn khối to nhất để dưới cùng và nhỏ dần
về phía ngọn tháp…
Thực hiện được hành động TLMTQ đối với trẻ là cả một quá trình, từ chỗ hành động
lung tung cho đến khi xếp chúng vào một trình tự nào đó trong không gian, quá trình đó có
thể chia làm 3 giai đoạn [27, tr.199-200]:
Giai đoạn 1: Hành động TLMTQ thực hiện theo phương thức thử và sai, kết quả đạt
tới một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn như tình cờ đứa trẻ lật úp đồ chơi lồng hộp, hộp to bên
dưới rồi để hộp nhỏ lên trên giống cái tháp, trẻ thích thú và thực hiện lại. Tuy nhiên, có thể
lần sau trẻ không có kết quả ngay như lần đầu vì do ngẫu nhiên mà lần đầu có kết quả như
vậy. Lần sau có thể trẻ úp hộp to lên hộp nhỏ thế là quay lại như chơi lồng hộp, kết quả
không có được cái tháp. Sau nhiều lần thử làm đi làm lại trẻ mới làm được.
Giai đoạn 2: Trẻ hành động theo một ý định nảy sinh trong đầu do nhìn thấy một đồ
vật nào đó mà trẻ đã nhìn thấy và thích thú hoặc do gợi ý của người lớn
Giai đoạn 3: Trẻ thực hiện lặp đi lặp lại hành động đã thực hiện thành công ở giai
đoạn 2 đến chán mới thôi, có khi trẻ lại bỏ dở hành động để bắt tay vào hành động khác.
• Hành động công cụ
Hành động công cụ là hành động sử dụng công cụ do con người tạo ra làm phương
tiện để tác động lên một đối tượng nhất định nhằm tạo ra một kết quả [28].
Hành động công cụ bao gồm hành động sử dụng các đồ dùng trong sinh hoạt hàng
ngày như: bát, đũa, dao, kéo, sách, bút, cài cúc áo, bấm mở công tắc quạt, tivi… và hành
động sử dụng công cụ trong lao động sản xuất như: cày, bừa, cuốc, hoạt động với máy
13
móc… Tất cả những thứ đó đều là phương tiện hoạt động của con người, nhưng đối với trẻ
em không phải không phải tất cả những công cụ đó trẻ đều có thể hành động để sử dụng
chúng được.
Hành động công cụ được tổ chức cho trẻ trước hết là hướng dẫn trẻ biết sử dụng những
vật dụng đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn như việc cầm thìa xúc cơm, cởi và
mặc quần áo, kéo khóa cặp, mang giày dép… đến việc sử dụng các đồ dùng đơn giản trong
gia đình như bật công tắc quạt, bấm nút tắt mở tivi, đóng mở khóa cửa… Ngoài ra còn có
những vật dụng khi muốn sử dụng hành động phải phức tạp hơn nữa thậm chí có thể gây
nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, người ta đã chế tạo ra những đồ chơi mô phỏng lại những
đồ vật thật để trẻ sử dụng và được an toàn.
Quá trình hình thành và phát triển hành động công cụ từ chưa biết đến biết sử dụng
một công cụ nào đó ở trẻ là một quá trình luyện tập khá phức tạp, được hình thành 3 giai
đoạn [27, tr.197-198]:
Giai đoạn 1: Trẻ đã nắm được công cụ nhưng khi hành động trẻ chưa chú ý đến công
cụ mà chỉ chú ý đến đối tượng. Chẳng hạn như khi trẻ cầm thìa xúc cơm, trẻ không chú ý
đến cầm thìa sao cho đúng mà chỉ chú ý đến cơm trong chén, thế là trẻ cứ múc, xới cơm làm
vung vãi. Hành động như thế chưa được xem là hành động công cụ, chỉ là hành động bằng
tay.
Giai đoạn 2: Trẻ đã chú ý đến mối quan hệ giữa công cụ và đối tượng. Trẻ cố điều
chỉnh tay cầm sao cho phù hợp. Trẻ phải thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần mới đi đến thành
công.
Giai đoạn 3: Bàn tay đã thích nghi được với cấu tạo của công cụ. Lúc này ở trẻ đã
xuất hiện hành động công cụ đích thực và sẽ dần hoàn thiện theo thời gian.
1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với sự phát triển của trẻ
1.2.3.1. HĐVĐV đảm bảo cho cuộc sống, sự sinh tồn của trẻ.
Đồ vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hoá nhân cách trẻ. Đồ vật
bao quanh trẻ từ khi trẻ sinh ra và trẻ sẽ thao tác với chúng suốt cuộc đời. Trong HĐVĐV
trẻ tiếp thu được kinh nghiệm tích luỹ hàng ngàn năm của loài người đã được vật chất hoá
trong đồ vật [14].
HĐVĐV đảm bảo cuộc sống của trẻ, giúp trẻ thích nghi với cuộc sống xã hội mới ngay
từ khi trẻ chào đời. Đây là chức năng đảm bảo sự sinh tồn và chức năng này còn tiếp tục
mãi trong tương lai.
14
Trẻ lớn lên sẽ dần nhận biết được các đồ vật, học được cách thao tác với đồ vật, cách
định hướng trong thế giới đồ vật. Thông qua đó trẻ nhận biết được rất nhiều đặc tính, tính
chất của thế giới xung quanh. Làm cho trẻ có cảm giác làm chủ, cảm giác tự tin, bình tĩnh
và ham muốn nhận thức. Như vậy, bằng việc HĐVĐV đã dẫn dắt trẻ có nhiều “thông tin”
về thế giới xung quanh, làm phong phú kinh nghiệm xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển
toàn diện của trẻ.
1.2.3.2. HĐVĐV là phương tiện giúp trẻ phát triển trí tuệ Theo Giáo sư Makoto Shichida, tốc độ phát triển não bộ của trẻ đến 3 tuổi đã hoàn
chỉnh 60%. Trước 3 tuổi là giai đoạn thích hợp hình thành và rèn luyện các vận động
tinh cho trẻ. Bằng những vận động từ đôi tay sẽ kích hoạt để tăng cường sự phát triển của
các tế bào thần kinh não. Như vậy, HĐVĐV là con đường trực tiếp dẫn đến sự phát triển trí
não cho trẻ.
Quá trình trẻ tiếp xúc, HĐVĐV bằng con đường tự nhiên hay dưới sự tác động giáo
dục của người lớn sẽ dần giúp trẻ tích luỹ vốn tri thức về thế giới đồ vật xung quanh. Cụ thể
là hình thành ở trẻ các biểu tượng, khái niệm về: tên gọi, màu sắc, hình dạng, kích thước,
âm thanh … ; nắm được công dụng, cách thức sử dụng đồ vật và tiếp nhận được những quy
tắc hành vi xã hội gắn liền với những đồ vật đó.
Thông qua quá trình HĐVĐV, trẻ có cơ hội phát triển các quá trình nhận thức, năng
lực nhận thức và các phẩm chất về trí tuệ. Từ quá trình nhận thức cảm tính: trẻ bị ấn tượng
mạnh mẽ và cuốn hút vào những món đồ dùng – đồ chơi có màu sắc rực rỡ, tươi sáng, âm
thanh, hình dạng phong phú… chúng hấp dẫn trẻ kích thích ở trẻ sự tò mò, thôi thúc trẻ tiến
đến hoạt động để khám phá. Nhờ đó, các cơ quan cảm giác của trẻ có điều kiện phát triển.
Là cơ sở để dần hoàn thiện quá trình cảm giác – tri giác ở trẻ. Tiếp đến quá trình nhận thức
lý tính cũng dần hình thành và phát triển. HĐVĐV ban đầu bằng con đường tự nhiên trẻ
thực hiện các hành động theo phương thức thử và sai, sau nhiều lần trẻ phát hiện ra cái quy
luật khi thực hiện tức là trẻ đã rút ra được kinh nghiệm sau các lần hoạt động. Trẻ phát triển
các năng lực quan sát, so sánh, phân biệt đồ vật này với đồ vật khác, biết khái quát những
đồ vật giống nhau cùng nhóm, biết sử dụng lặp lại hành động trên đồ vật này sang đồ vật
khác… Qua đó tư duy được hình thành và phát triển, ngôn ngữ của trẻ dần hoàn thiện [1],
[4], [28].
1.2.3.3.HĐVĐV có vai trò quan trọng giúp trẻ hoàn thiện về thể lực
HĐVĐV còn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển vận động, đặc biệt là sự khéo léo,
linh hoạt của bàn tay và ngón tay của trẻ. Từ chỗ trẻ cầm nắm đồ vật nằng cả bàn tay rất
15
vụng về trong năm đầu đến chỗ trẻ thao tác với đồ vật một cách khéo léo, linh hoạt. Chẳng
hạn như nhặt vật nhỏ bằng 2 ngón tay, xâu hột hạt, xỏ dây giày, đóng mở nắp chai, lắp ghép
hình… Có thể nói HĐVĐV là con đường cơ bản để rèn luyện sự khéo léo, tinh tế của các
ngón tay và đôi bàn tay, giúp trẻ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa tay và mắt.
Trẻ cần vận động của để lấy được món đồ chơi trẻ thích, phải cố gắng trườn, nhoài
người, bò hay chạy tới lấy đồ vật… giúp cho các cơ quan vận động phát triển, trẻ định
hướng tốt trong không gian.
HĐVĐV kích thích trẻ tích cực vận động mà không thấy mệt mỏi, thoả mãn nhu cầu
vận động của cơ thể, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ thể lực của trẻ.
1.2.3.4. HĐVĐV là phương tiện hình thành một số phẩm chất tốt đẹp ở trẻ
Quá trình trẻ HĐVĐV trẻ dần nhận ra mình có ảnh hưởng đến chúng: làm chúng thay
đổi hình dạng, phát ra âm thanh, chuyển động, sử dụng chúng đúng chức năng như dùng
thìa xúc cơm, lấy lược chải đầu… làm cho trẻ thực sự thích thú và càng tích cực hoạt động
với chúng. Qua đó trẻ tự ý thức được khả năng của bản thân, trẻ tự tin vào bản thân. Đó là
yếu tố rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Trẻ thực hiện các hành động công cụ trong khi chơi với đồ chơi mô phỏng (thìa, chén,
ly…), tiếp đến trẻ biết sử dụng những công cụ thật để phục vụ cho nhu cầu của bản thân:
cầm thìa tự xúc ăn, tự cầm lược chải đầu, tự cầm ly uống nước… Như vậy, tính tự lực ở trẻ
có cơ hội hình thành.
HĐVĐV trẻ lĩnh hội những quy tắc hành vi trong xã hội, đó chính là việc trẻ biết giữ
gìn, nâng niu các món đồ chơi, bảo quản đồ dùng, vật dụng – Thái độ này sẽ dần hình thành
trong quá trình hoạt động dưới sự hướng dẫn của người lớn; Giáo dục trẻ cần biết khi cất đặt
đồ dùng đồ chơi sau khi chơi xong một cách gọn gàng ngăn nắp. Bên cạnh đó, việc trẻ
HĐVĐV luôn đòi hỏi ở trẻ sự nỗ lực, sự kiên trì quyết tâm thực hiện công việc đến cùng, đó
cũng là những đức tính quý báu rất cần thiết trau dồi, rèn luyện cho trẻ ngay từ thuở nhỏ.
1.2.3.5. HĐVĐV là cơ hội để hình thành và phát triển cảm xúc thẫm mỹ, khả
năng sáng tạo ở trẻ
Đồ chơi, đồ dùng đặc biệt hấp dẫn trẻ ở màu sắc rực rỡ, hài hoà; hoa văn hình ảnh sống
động, vui tươi; âm thanh vui tai; hình thù ngộ nghĩnh, đáng yêu … Kích thích sự chú ý của
trẻ. Qua đó khơi gợi ở trẻ hứng thú với cuộc sống xung quanh, tác động tích cực đến cảm
xúc thẫm mỹ, hình thành thị hiếu thẩm mỹ. Bên cạnh đó, khi chơi với đồ chơi, đồ vật trẻ
phát triển trí tưởng tượng, kích thích khả năng sáng tạo non nớt. Ban đầu chỉ là việc trẻ lặp
đi lặp lại các hành động để được một “tác phẩm” và tình cờ trẻ thực hiện với hành động
16
khác đi sẽ được một “tác phẩm” mới điều đó làm trẻ thích thú và hứng khởi tạo thêm nhiều
cái mới lạ khác, chẳng hạn như: hàng rào, cái cổng, cái ghế… Hay với một món đồ vật lúc
này có thể chơi đúng chức năng nhưng lúc khác lại có thể với chức năng khác ở một trò chơi
mới.
1.2.3.6. HĐVĐV là nền tảng của các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo Trẻ HĐVĐV ban đầu là những hành động nghịch với đồ vật, tiếp đến trẻ lĩnh hội
được cách thức hành động với đồ vật. Càng tiếp xúc nhiều với mọi người và thế giới đồ vật
xung quanh, trẻ học được ngày càng nhiều hơn cách sử dụng đồ chơi, đồ dùng theo chức
năng mà xã hội quy ước và đem những hành động đó vào trò chơi của mình. Từ đó, xuất
hiện những trò chơi khác trước đây – những trò chơi thôi thúc bởi việc thực hiện các hành
động nhằm mục đích mà trẻ tưởng tượng, lúc này không đơn thuần là những hành động
công cụ nữa mà là mô phỏng lại sự việc nào đó có nội dung. HĐVĐV là tiền đề của loại trò
chơi giả bộ và trò chơi này phát triển mạnh, là trung tâm trong các trò chơi ở lứa tuổi mẫu
giáo [9], [10], [29].
Những trò chơi xây dựng của trẻ mẫu giáo cũng được phát triển trên nền tảng HĐVĐV
ở lứa tuổi nhà trẻ. Từ các hành động xếp chồng, xếp cạnh… theo chủ đề đơn giản ở trẻ nhà
trẻ như: ngôi nhà, cái chuồng, đường đi, đoàn tàu… sẽ phát triển lên những mô hình phức
tạp hơn ở giai đoạn mẫu giáo thành các “công trình xây dựng” như: trường học, khu dân cư,
ngã tư đường phố, bệnh viện, sở thú, khu vui chơi…
1.3. Nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
Căn cứ vào “Chương trình giáo dục mầm non” (2009) của Bộ GD&ĐT [3], chúng tôi
tổng hợp các nội dung hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV như sau:
1.3.1. Nội dung phát triển hành động thiết lập mối tương quan
- Đóng – mở nắp có ren
- Xếp chồng 4 – 5 khối vuông
- Xếp chồng 2 – 3 khối trụ
- Xếp cạnh nhau các khối gỗ
- Xếp 1,2 hình khối lên nhau tạo hình theo chủ đề
- Tháo lắp lồng 3 – 4 hộp
- Xâu hạt có lỗ rộng
- Xâu 5 – 6 vòng vào que
17
- Tháo lắp 5 – 6 vòng vào giá gỗ
Những nội dung trên chủ yếu được tổ chức hướng dẫn cho trẻ trong giờ chơi – tập có
chủ đích.
1.3.2.Nội dung phát triển hành động công cụ
Nội dung HĐVĐV nhằm phát triển hành động công cụ cho trẻ chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức giờ chơi tự do và trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Qua đó giúp
trẻ hiểu được chức năng công cụ, biết được tên gọi, cách sử dụng đồ dùng, vật dụng đơn
giản, gần gũi thường dùng trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Giờ chơi tự do:
- Chơi các trò chơi hình thành cho trẻ cách sử dụng các đồ chơi: bát, thìa, cốc, chén…
- Chơi xỏ dây giày, cài cúc áo
- Mở sách giấy dày
Trong sinh hoạt hàng ngày:
- Học cách để đồ dùng cá nhân, đồ chơi đúng chỗ quy định
- Tập tự đút ăn bằng muỗng, tự cầm ly uống nước.
- Tập mang giày dép.
- Tập kéo dây kéo balo.
- Tập cài cúc áo.
- Tập thói quen tự phục vụ: tự cởi quần áo, tự đi bô, …
1.3.3. Nội dung làm quen, nhận biết phân biệt kích thước, màu sắc, hình dạng của
đồ vật – đồ chơi
- Nhận biết, gọi tên đồ dùng – đồ chơi màu xanh (xanh dương), màu đỏ.
- Nhận biết, gọi tên đồ dùng – đồ chơi có kích thước to – nhỏ.
- Nhận biết, gọi tên đồ vật – đồ chơi khối tròn, khối vuông.
1.4. Hình thức tổ chức hướng dẫn cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV
Tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV với các nội dung trên, trong các tài liệu có liên
quan đều trình bày dưới hai hình thức chơi tập: chơi – tập có chủ đích và chơi – tập tự do
trong phòng nhóm [1], [4], [28].
18
1.4.1. Tổ chức hoạt động chơi – tập có chủ đích
Chơi – tập có chủ đích là hoạt động kết hợp yếu tố vui chơi với luyện tập có kế hoạch
dưới sự hướng dẫn của GVMN nhằm phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ
năng xã hội và những yếu tố ban đầu về thẩm mỹ.
Chơi – tập có chủ đích là hình thức chơi tập thường xuyên được tổ chức vào buổi sáng
(sau giờ ăn sáng). Giáo viên giới thiệu đến trẻ các nội dung mới hoặc tập luyện những nội
dung trẻ đã biết. Thời gian khoảng 10 – 12 phút. Mỗi giáo viên phụ trách một nhóm trẻ. Số
trẻ trong mỗi nhóm phụ thuộc vào tổng số giáo viên và số trẻ trong lớp (6 – 8 trẻ là phù
hợp). Mỗi giờ chơi – tập, trẻ được chơi một nội dung cụ thể được ấn định bởi chương trình
GDMN. Trình tự các nội dung chơi – tập được sắp xếp theo lịch dạy và giáo viên lên kế
hoạch cụ thể trong kế hoạch tháng, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày. Giờ chơi – tập có chủ
đích ở lứa tuổi nhà trẻ được xem như một giờ hoạt động học nói chung của trẻ ở trường
MN. Giờ chơi – tập có chủ đích được tổ chức theo các bước chung như sau:
• Bước 1: Ổn định, gây hứng thú, giới thiệu nội dung.
• Bước 2: GVMN hướng dẫn mẫu. Hướng dẫn từng thao tác một cách chậm rãi, kết
hợp lời giải thích rõ ràng ngắn gọn, dễ hiểu. Số lần làm mẫu phụ thuộc vào mức độ
khó hay dễ của nội dung chơi, khả năng tiếp nhận của trẻ.
• Bước 3: Tổ chức cho trẻ chơi – tập. Là bước trọng tâm, cần dành nhiều thời gian
(2/3 tổng số thời gian chơi – tập)
• Bước 4: Kết thúc
1.4.2. Tổ chức hoạt động chơi – tập tự do trong phòng nhóm
Chơi – tập tự do được tiến hành vào buổi sáng sau giờ chơi – tập có chủ đích và vào
giờ chơi – tập vào buổi chiều. Hình thức này giúp trẻ củng cố, ôn luyện những nội dung đã
tiến hành ở giờ chơi – tập có chủ đích. Hình thức chơi – tập tự do không bắt buộc, gò bó về
nội dung. Trẻ được quyền hoạt động với nội dung nào trẻ thích. Mỗi buổi chơi giáo viên có
thể hướng dẫn 3 – 4 nội dung, tùy thuộc vào số trẻ. Nội dung chơi – tập tự do là những nội
dung trẻ đã được chơi – tập rồi. Thời gian cho mỗi lần chơi kéo dài 15 – 20 phút, tùy thuộc
vào hứng thú của trẻ.
Mặc dù là chơi – tập tự do, tuy nhiên giờ chơi vẫn được tiến hành theo cấu trúc chung
như sau:
19
• Bước 1: Ổn định trẻ, giới thiệu đồ chơi bày sẵn ở các góc, gợi ý trẻ chọn nội dung
chơi – tập trẻ thích.
• Bước 2: Tổ chức hướng dẫn trẻ chơi – tập. Đây là bước trọng tâm cần dành nhiều
thời gian (khoảng 4/5 giờ chơi – tập). Mỗi giáo viên phụ trách một nhóm chơi. Đồ dùng, đồ
chơi phải đảm bảo đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu hoạt động của trẻ. Tạo điều kiện để trẻ
chơi hứng thú. Nếu trẻ tỏ ra chán với nội dung trẻ đang chơi giáo viên có thể cho trẻ chuyển
sang nội dung chơi – tập khác.
• Bước 3: Kết thúc
1.4.3. Tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày
Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, thực chất bao gồm rất nhiều nội dung HĐVĐV.
Chính vì vậy, GVMN cần chú ý và khéo léo chọn những nội dung phù hợp với lứa tuổi và
khả năng của trẻ để tổ chức cho trẻ thực hiện, giúp trẻ có thêm nhiều cơ hội được hoạt động
với đồ dùng – vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Cách thức tổ chức cho trẻ
HĐVĐV trong sinh hoạt hàng ngày diễn ra với những công việc hết sức bình thường trong
ngày giữa cô và trẻ. Chẳng hạn như tập cho trẻ có thói quen: bỏ đồ chơi vào hộp, để giày
dép lên kệ, nhặt thức ăn rơi vãi, tự cầm muỗng xúc ăn, bỏ chén bát vào sọt khi ăn xong,
mang giày dép khi ra sân chơi, …
1.5. Các biện pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th
1.5.1. Biện pháp là gì?
Thông thường biện pháp được hiểu là cách thức thực hiện, cách làm, cách giải quyết
một vấn đề nào đó đặt ra.
Trong giáo dục, biện pháp là những thành tố cụ thể của phương pháp, là mặt kỹ thuật
của phương pháp. Biện pháp là một khái niệm thuộc phạm trù phương pháp. Phương pháp
dạy học hướng đến giải quyết trọn vẹn, toàn thể những nhiệm vụ còn biện pháp hướng đến
giải quyết những nhiệm vụ đơn lẻ, cụ thể [22].
1.5.2. Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 tháng
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ chúng ta có thể bắt gặp trẻ thao tác với
đồ dùng, đồ chơi ở mọi thời điểm. Vì vậy, hướng đến phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ
là hướng đến cả một quá trình hình thành, rèn luyện cho trẻ xuyên suốt trong đời sống của
trẻ chứ không riêng gì trong các buổi chơi – tập.
20
Như vậy, biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV là cách làm, cách tác động, cách thức tổ chức cuộc sống sinh hoạt của trẻ 18 – 24th một cách có định hướng của GVMN
nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ.
Để phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th, trước hết chúng tôi xin hệ thống lại
các biện pháp thông dụng khi hướng dẫn trẻ HĐVĐV như sau:
- Làm mẫu
- Dùng lời nói chỉ dẫn
- Cầm tay hướng dẫn
- Chơi cùng trẻ
- Đơn giản hóa hành động
- Sử dụng trò chơi
- Sử dụng đồ chơi
- Tạo tình huống
Tuỳ theo từng loại giờ, từng nội dung hoạt động và từng thời điểm tổ chức cho trẻ
HĐVĐV, giáo viên cần linh hoạt, uyển chuyển trong việc lựa chọn cách thức hướng dẫn
nào là phương pháp chủ đạo và cách thức nào là biện pháp hỗ trợ để trẻ có thể tham gia
HĐVĐV cách hiệu quả nhất.
1.6. Vai trò của môi trường đồ dùng, đồ chơi đối với HĐVĐV của trẻ
Cơ sở vật chất là yếu tố tác động trực tiếp, góp phần quyết định chất lượng quá trình
chăm sóc và giáo dục trẻ. Với trẻ em, đồ chơi được xem như sách giáo khoa của trẻ. Ngoài
việc trang bị đồ chơi, đồ dùng phù hợp, đầy đủ cần tính đến việc sắp xếp, bố trí và sử dụng
chúng sao cho hiệu quả.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, chúng tôi đề cập đến trang thiết bị trong phòng/
nhóm trẻ nhà trẻ như sau [27]:
1.6.1. Kết cấu phòng/ nhóm lớp
- Khu vực đón trẻ: 9 – 18m2, có cửa thông với các phòng khác, có nơi để giày dép,
đồ dùng cá nhân.
- Khu vực ăn, vui chơi: 36 – 50m2, đây là phòng chính để trẻ chơi tấp, ăn uống. - Khu vực ngủ: 28 – 36m2, đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, sạch
sẽ, yên tĩnh.
- Phòng vệ sinh: 12 – 24m2, thuận tiện, hợp vệ sinh, an toàn.
21
1.6.2. Trang thiết bị
• Đồ dung dụng cụ:
- Giường ngủ, ghế ngồi, bàn theo độ tuổi
- Giá phơi khăn, giá để đồ dùng, đồ chơi…
- Ca, cốc, thìa, bát (phục vụ trong ăn, uống)
- Đồ dùng vệ sinh
• Đồ chơi:
- Con giống các loại
- Xúc xắc, chút chit, bóng cao su/ nhựa.
- Búp bê và các đồ chơi thao tác vui…
- Hộp xếp hình, xâu hạt…
- Các loại ô tô, xe kéo…
- Các loại đồ chơi mô phỏng đồ dùng trong sinh hoạt: chén, thìa, cốc…
1.6.3. Yêu cầu đối với đồ dùng, đồ chơi
- Mang tính giáo dục.
- Kích cỡ phù hợp với trẻ.
- Phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật.
- Hấp dẫn trẻ: màu sắc, hình thù đẹp. Tùy thuộc đồ chơi để có thể di chuyển được,
phát ra âm thanh..
- Đảm bảo vệ sinh, an toàn
Việc trang bị cần tính đến sự vừa phải về số lượng. Thiếu đồ chơi trẻ phải chờ đợi cho
đến lượt hay xảy ra tình trạng tranh giành đồ chơi. Nếu quá dư thừa đồ chơi cũng ảnh hưởng
đến chất lượng của hoạt động như: trẻ chơi hời hợt, không diễn ra theo chiều sâu, hạn chế
trong việc lien hệ giữa vật này thay thế cho vật khác… Bên cạnh đó cần chú ý đến sự đa
dạng về chủng loại để đảm bảo thuận tiện trong tổ chức các nội dung cho phù hợp với sự
phát triển các loại hành động, kích thích sự hứng thú, hấp dẫn trẻ tham gia
Tiểu kết chương 1
Quá trình nghiên cứu các tài liệu về HĐVĐV, chúng tôi đưa ra một số nhận định như
sau:
22
Thứ nhất, HĐVĐV đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
toàn vẹn nhân cách cho trẻ MN, cụ thể là giai đoạn trẻ em lứa tuổi ấu nhi. HĐVĐV là con
đường cơ bản, là phương tiện hữu hiệu nhất để giáo dục trẻ em trong độ tuổi ấu nhi.
Thứ hai, trẻ em giai đoạn 18 – 24th là giai đoạn tiền đề, sơ khai của sự hình thành và
phát triển nhân cách về sau. Việc chú trọng phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ ở giai đoạn
này là thực sự cần thiết.
Thứ ba, HĐVĐV thể hiện cụ thể ở việc trẻ thực hiện hành động TLMTQ và hành
động công cụ qua đó lĩnh hội những tri thức loài người gửi gắm trong những đồ vật đó. Khả
năng HĐVĐV của trẻ được thể hiện qua việc trẻ nhận biết được đặc điểm của đồ vật, tiếp
đến trẻ thực hiện hành động TLMTQ, hành động công cụ phù hợp với đối tượng đồ vật.
Trên thực tiễn việc vận dụng các phương pháp, biện pháp tổ chức hướng dẫn trẻ
HĐVĐV vẫn được các GVMN thường xuyên thực hiện trong hoạt động CS – GD trẻ. Các
đề tài có nghiên cứu về phương pháp tổ chức HĐVĐV và tiến hành điều tra thực trạng trên
GVMN. Tuy nhiên, việc tổ chức thực nghiệm trên trẻ để thấy được tính khả thi của biện
pháp là thực sự cần thiết. Từ những cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng để tìm hiểu: Nhận thức của GVMN và phụ huynh về HĐVĐV của trẻ giai đoạn 18 – 24th; Khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th. Từ đó, tìm ra biện pháp phù hợp để tiến hành thực nghiệm
trên trẻ.
23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ
18 – 24TH Ở TRƯỜNG MN
2.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Xác định cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV
cho trẻ 18 – 24th.
2.2. Đối tượng khảo sát
• Trẻ nhóm lớp Cơm nát 18 – 24th ở 4 trường MN tại Tp. Hồ Chí Minh:
- Trường MN 12, số 7 Tăng Bạt Hổ, P.12, Quận 5.
- Trường MN Hoa Hồng, số 687 Kinh Dương Vương, P. An Lạc, Quận Bình Tân.
- Trường MN 12 , số 67 Trường Chinh, P. 12, Quận Tân Bình.
- Trường MN Hươu sao, số 5 đường số 22, Khu dân cư Him Lam 6A, Huyện Bình
Chánh, Tp. HCM.
• GVMN phụ trách ở nhóm Cơm nát thuộc các trường MN công lập và tư thục trên
địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
• Phụ huynh trẻ thuộc 4 trường MN đã đề cập ở trên.
2.3. Nội dung khảo sát
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng trong thời gian tháng 02/2013 với nội dung
như sau:
- Khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24 tháng.
- Tìm hiểu trình độ hiểu biết của GVMN và phụ huynh trẻ về HĐVĐV của trẻ 18 –
24th.
2.4. Tiến trình khảo sát
• Quan sát trẻ HĐVĐV:
Dựa theo chương trình GDMN hiện hành và tiến độ thực thi chương trình ở các trường
MN đến thời điểm khảo sát, chúng tôi đưa ra hệ thống các nội dung cần khảo sát về
HĐVĐV cho trẻ thực hiện.
Nội dung khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th bao gồm 10 bài tập (phụ lục 3).
Các bài tập này là những nội dung rất quen thuộc phổ biến ở các trường MN. Cụ thể hơn
các nội dung này là nội dung đã được đưa vào trong chương trình GDMN (2009) của Bộ
24
GD & ĐT và được áp dụng là chương trình khung của Bậc học MN. Chúng tôi tiến hành
cho trẻ thực hiện dưới hình thức không hướng dẫn trực tiếp như lên một giờ dạy mà người
khảo sát chỉ cung cấp đồ dùng, đồ chơi, trẻ thực hiện theo yêu cầu của người khảo sát.
Trong quá trình trẻ thực hiện, người khảo sát có thể đặt thêm câu hỏi cho trẻ để hướng sự
chú ý của trẻ vào đồ dùng, đồ chơi. Trường hợp trẻ không thực hiện hoặc thực hiện không
được, người khảo sát có thể gợi ý hoặc làm mẫu cho trẻ xem.
Trong bài tập khảo sát có một số nội dung chúng tôi ghi nhận kết quả thông qua quan
sát trẻ trong sinh hoạt hàng ngày như: quan sát trẻ trong giờ ăn để đánh giá thao tác trẻ sử
dụng chén, muỗng xúc ăn …
Qua tiến trình quan sát trẻ như trên, chúng tôi ghi nhận kết quả vào phiếu khảo sát
(Phụ lục 3). Tổng điểm đánh giá các tiêu chí được tính theo thang điểm 15 (Phụ lục 4).
Thang đánh giá
TỔNG ĐIỂM ( x ) LOẠI
Tốt A 12 ≤ x ≤ 15
Khá B 10.5 ≤ x < 12
Trung bình C 7.5 ≤ x < 10.5
Yếu D x < 7.5
• Quan sát môi trường đồ dùng – đồ chơi
Quan sát trong 4 nhóm lớp khảo sát về: cách bố trí, sắp xếp đồ chơi ở các góc, đặc biệt
góc HĐVĐV; cách sắp xếp các vật dụng, đồ dùng của cô và trẻ; các loại đồ dùng, đồ chơi
của trẻ.
Tiêu chí quan sát:
- Số lượng, chủng loại của đồ dùng, đồ chơi (như đã đề cập ở tiểu mục 1.6). - Sự phù hợp của đồ dùng, đồ chơi với lứa tuổi của trẻ 18 – 24th
- Sắp xếp, bố trí đồ dùng, đồ chơi vào các khu vực trong phòng/ nhóm:
+ Gòn gàng, ngăn nắp.
+ Đủ về số lượng và phù hợp với nội dung cho trẻ hoạt động trong từng góc chơi.
+ Thuận tiện trong việc trẻ có thể tự lấy và cất khi cần thiết
+ Màu sắc hài hòa, cân đối, phù hợp với thẩm mỹ của trẻ nhỏ.
+ Đảm bảo an toàn, vệ sinh.
• Gửi phiếu thăm dò ý kiến (An – két)
- Phiếu thăm dò ý kiến GVMN (Phụ lục 1).
25
Nhóm lớp Cơm nát (18 – 24th) ở các trường MN không nhiều. Các trường chúng tôi đến xin khảo sát không có nhóm 18 – 24th và nếu có chỉ có một nhóm lớp là chủ yếu. Số
lượng GVMN/lớp đa số là 2 giáo viên vì số lượng trẻ trong nhóm lớp độ tuổi này cũng khá
ít. Một số trường có 3GV/ lớp và rất ít trường có được 4 GV/ lớp. Vì vậy, số phiếu chúng tôi
gửi để lấy ý kiến GVMN và thu về được 35 phiếu, số lượng phiếu không được nhiều như
những đề tài nghiên cứu lứa tuổi lớn hơn.
- Phiếu thăm dò ý kiến phụ huynh (Phụ lục 2). Phiếu thăm dò ý kiến phụ huynh được gửi đến cha mẹ có con ở độ tuổi 18 – 24th thuộc
4 trường MN như trên, nhằm mục đích tìm hiểu nhận thức của phụ huynh về HĐVĐV của
trẻ.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho các phương pháp trên, chúng tôi có trò chuyện với GVMN phụ
trách nhóm lớp 18 – 24th và phụ huynh có trẻ trong giai đoạn 18 – 24th.
2.5. Đánh giá thực trạng khảo sát
2.5.1. Về phía GVMN
Để trẻ HĐVĐV đạt hiệu quả, vai trò của GVMN trong việc định hướng, tổ chức hướng
dẫn trẻ hoạt động thực sự rất quan trọng. Vì vậy, GVMN cần nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng, nội dung, phương pháp biện pháp đồng thời có sự phối kết hợp chặt chẽ với gia
đình. Chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu thăm dò ý kiến trên 35 GVMN. Kết quả thu
được như sau:
2.5.1.1. Nhận thức của GVMN về tầm quan trọng HĐVĐV và mục đích việc tổ
chức cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV
Câu hỏi số 1, 4 nhằm tìm hiểu nhận thức của GVMN về tầm quan trọng và mục đích
Bảng 2.1. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về ý nghĩa của tổ chức cho trẻ HĐVĐV
của việc cho trẻ tham gia HĐVĐV. Số liệu tổng hợp như sau:
Stt
Lựa chọn trả lời
Số phiếu Tỷ lệ (%)
13
37.1
1 Đảm bảo cho cuộc sống, sự sinh tồn của trẻ
12
34.3
2 Phương tiện giúp trẻ phát triển trí tuệ
30
85.7
3 Phát triển sự khéo léo của đôi tay
32
91.4
4 Phát triển khả năng phối hợp giữa tay và mắt
21
60.0
5 Phương tiện hình thành một số phẩm chất tốt đẹp ở trẻ
21
60.0
6 Cơ hội để hình thành và phát triển cảm xúc thẫm mỹ
12
34.3
7 Cơ hội để hình thành và phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ
26
35
100.0
8 Nền tảng của các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo
0
0.0
9 Khác
0,0
Quan trọng
23,7
76,3
Bình thường
Không quan trọng Biểu đồ 2.1. Nhận định của GVMN về tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ 18 – 24th
Theo như số liệu tổng hợp được, chúng tôi nhận thấy đa số GVMN hiểu được tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ giai đoạn 18 – 24th . Biểu đồ 2.1 thể hiện có tới 76.3%
GVMN cho rằng rất quan trọng và không có GVMN nào lựa chọn ở mức không quan trọng.
Đó là những nhận định ban đầu của GVMN, để biết cụ thể nhận thức của GVMN về vai trò
của HĐVĐV đối với trẻ, chúng tôi xét cụ thể hơn khi tổng hợp số liệu ở câu hỏi 4.
Bảng 2.1, các ý nghĩa của HĐVĐV chúng tôi đưa ra gợi ý để giáo viên lựa chọn dựa
trên lý luận về ý nghĩa của HĐVĐV đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Tỷ lệ
GVMN lựa chọn khá cao cho 2 ý nghĩa: phát triển khả năng phối hợp nhịp nhàng giữa tay
và mắt là 91.4%, phát triển sự khéo léo của đôi tay là 85.7%. Và ý nghĩa: là nền tảng của
các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo có 100% GVMN lựa chọn. Với 3 ý nghĩa này dễ
dàng nhận thấy khi quan sát trẻ HĐVĐV. Bởi vì trẻ thao tác bằng tay và kết hợp với thị giác
để nhìn, đồng thời HĐVĐV khi trẻ chơi các trò thao tác vai (hành động công cụ) trông gần
gũi với trò chơi đóng vai có chủ đề và thao tác khi chơi xếp chồng, xếp cạnh các hình khối,
đồ vật (hành động TLMTQ) trông gần với trò chơi xây dựng ở lứa tuổi mẫu giáo.
Thực tế đã chứng minh vận động của bàn tay có tác động đến não bộ của trẻ, sự vận
động ở bàn tay phải sẽ tác động đến bán cầu não trái và ngược lại. Theo Giáo sư Makoto
Shichida, chỉ cần một kỹ năng vận động tinh nhỏ như sử dụng phối hợp ngón cái và ngón
trỏ trong việc cầm nắm, nhặt các vật nhỏ… cũng làm nâng cao đáng kể chất lượng của não
bộ [19]. Tuy nhiên đáng chú ý ở bảng 2.1, ý nghĩa HĐVĐV là phương tiện giúp trẻ phát
triển trí tuệ chỉ 34.3% giáo viên lựa chọn. Nghĩa là GVMN chưa thấy được vai trò của
HĐVĐV ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Nhìn chung, GVMN nhận thức được tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ. Tuy
nhiên chưa bao quát được hết các ý nghĩa cơ bản vốn có của HĐVĐV. Điển hình chỉ có
17.1% (6 GVMN) lựa chọn bao quát được toàn diện các ý nghĩa trên.
27
2.5.1.2. Nhận thức của GVMN về phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức HĐVĐV
cho trẻ 18 – 24th
Từ câu hỏi 5, 6, 9 chúng tôi thu được kết quả như sau về phương pháp, biện pháp, hình
thức tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th của GVMN:
Theo số liệu tổng hợp ở bảng 2.2, chúng tôi nhận thấy thời điểm giờ chơi – tập có chủ
đích được 100% GVMN lựa chọn. Đây là thời điểm trẻ HĐVĐV một cách hệ thống, khoa
học nhất vì chơi tập có chủ đích thực chất là giờ học nên được GVMN chuẩn bị chu đáo, bài
bản. Giờ chơi tự do có tỷ lệ cũng khá cao với 60% GVMN lựa chọn. Giờ chơi tự do là thời
điểm diễn ra sau giờ chơi – tập, tổ chức khoảng 15 – 20 phút với nhiều nội dung chơi trong
một buổi chơi và diễn ra hàng ngày nên tỷ lệ lựa chọn cao là hợp lý. Những lựa chọn còn lại
chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ chỉ có 28.6% GVMN lựa
chọn. Thực tế, nếu GVMN khéo léo, linh hoạt biết tận dụng cơ hội thì trong sinh hoạt hàng
ngày của trẻ có rất nhiều nội dung có thể cho trẻ tham gia HĐVĐV, chẳng hạn như: tự xúc
ăn, lấy ly uống nước, xếp dép lên kệ, cất cặp vào tủ/ treo lên giá… và xuyên suốt một ngày
trẻ đến trường có biết bao cơ hội để trẻ hoạt động với đồ vật chứ không nhất thiết vào giờ
chơi, giờ học trẻ mới hoạt động. Như vậy, trong sinh hoạt hàng ngày thời gian trẻ tiếp xúc,
hoạt động với đồ dùng vừa giúp trẻ nắm được cách thức sử dụng đồ dùng vừa giáo dục trẻ
được thói quen, nề nếp trong sinh hoạt, hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ
chênh lệch giữa các lựa chọn như trên cho thấy GVMN chưa nhận ra điểm mạnh trong việc
tận dụng các cơ hội khác nhau để rèn luyện, phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ.
Giờ đón trẻ chỉ 2/35 GVMN lựa chọn. Kết quả khảo sát tương đối thấp. Chúng tôi có
trao đổi trực tiếp với một số GVMN và nhận thấy đa số GVMN đều trả lời: Do trẻ còn nhỏ
nên cha mẹ thường hay cho trẻ đi học muộn, trẻ nhỏ nên thường ăn sáng chậm vì vậy thời
điểm này khó để tổ chức cho trẻ chơi một cách bài bản. Thực tế GVMN vẫn cho trẻ chơi với
đồ chơi, đồ vật. Tuy nhiên, chỉ chơi qua loa 1, 2 món đồ chơi nếu trẻ nào ăn xong sớm trong
khi cô còn đút cho các trẻ khác. Vì vậy nên họ không lựa chọn vào trong phiếu thăm dò ý
Câu 5: Chị thường tổ chức cho trẻ HĐVĐV vào những thời điểm nào trong ngày?
Bảng 2.2. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về thời điểm cho trẻ HĐVĐV
kiến.
Stt Lựa chọn trả lời Tần số Tỷ lệ (%)
35 100.0 1 Giờ chơi – tập có chủ đích
21 60 2 Giờ chơi tự do (Hoạt động góc)
2 5.7 3 Giờ đón trẻ
28
10 28.6 4 Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ
1 2.9 5 Khác:… (hoạt động ngoài trời)
Câu hỏi 6: Chị thường sử dụng phương pháp – biện pháp nào sau đây để hướng dẫn
Bảng 2.3. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về phương pháp - biện pháp
hướng dẫn trẻ HĐVĐV
cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV?
Stt
Lựa chọn trả lời
Tần số Tỷ lệ (%)
20
57.1
1 Làm mẫu sau đó trẻ bắt chước thực hiện
10
28.6
2 Làm mẫu song song quá trình trẻ thực hiện
33
94.3
3 Cùng chơi với trẻ như bạn
22
62.9
4 Dùng lời hướng dẫn
19
54.3
5 Trẻ tự chơi theo ý thích
12
34.3
6 Để tranh, vật mẫu gợi ý và trẻ tự chơi
24
68.6
7 Tạo tình huống gợi ý nội dung
22
62.9
8 Động viên, khích lệ
13
37.1
9 Sắp xếp môi trường đồ chơi có mục đích giúp trẻ liên tưởng cách chơi
26
74.3
10 Tích hợp nội dung HĐVĐV vào các giờ học khác
9
25.7
11 Giao nhiệm vụ cho trẻ thực hiện
0
0.0
12 Biện pháp khác
Nhìn vào bảng 2.3, các biện pháp chúng tôi gợi ý có tỷ lệ GVMN lựa chọn tương đối
cao. Biện pháp được nhiều sự lựa chọn nhất là “chơi cùng với trẻ như bạn” chiếm 94.3%.
Trong quá trình trẻ chơi, giáo viên muốn can thiệp thường đến với trẻ với vai trò là người
bạn, tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, thân thiện, cởi mở hơn. Có thể giáo viên chỉ cần ngồi
cạnh trẻ (như 1 người bạn) chơi 1 bộ đồ chơi tương tự bên cạnh trẻ, trẻ sẽ quan sát được
thao tác mẫu của cô, biện pháp này khá hiệu quả bởi vì không làm gián đoạn hứng thú của
trẻ khi chơi.
HĐVĐV là hoạt động mới so với trẻ 18 – 24th. Bên cạnh đó, kết quả ở bảng 2.2 có
100% GVMN lựa chọn thời điểm chơi – tập có chủ đích là thời điểm thường được tổ chức
cho trẻ HĐVĐV. Như vậy, biện pháp làm mẫu cho trẻ lẽ ra phải là biện pháp được lưa chọn
với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, tỷ lệ GVMN lựa chọn biện pháp “Tích hợp nội dung HĐVĐV vào
các giờ học khác” là 74.3%, tiếp đến là biện pháp “Tạo tình huống gợi ý tưởng chơi” chiếm
68.6% và “Động viên, khích lệ trẻ” với tỷ lệ lựa chọn 62.9% (Đây là những biện pháp hỗ trợ
nhằm kích thích, gây hứng thú cho trẻ). Trong khi đó, chỉ có 57.1% GVMN lựa chọn
29
phương pháp “Làm mẫu sau đó trẻ bắt chước thực hiện” và “Làm mẫu song song quá trình
trẻ thực hiện” chỉ 28.6%. Nghĩa là việc GVMN lựa chọn phương pháp – biện pháp tổ chức
HĐVĐV cho trẻ chưa hợp lý so với thời điểm họ ưu tiên lựa chọn.
Về hình thức tổ chức HĐVĐV cho trẻ để đạt hiệu quả cao, theo kết quả tổng hợp ở
bảng 2.4, có 77.1% GVMN lựa chọn hình thức tổ chức nhóm 5 – 10 trẻ, số ít chọn nhóm 3 –
5 trẻ và 10 – 15 trẻ. Theo nhận định của chúng tôi, việc lựa chọn của GVMN tương đối hợp
lý.
Bảng 2.4. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về hình thức tổ chức HĐVĐV
cho trẻ trong giờ chơi – tập để dạt hiệu quả cao
Stt Lựa chọn trả lời Tần số Tỷ lệ (%)
0 0.0 1 Tổ chức cho cả lớp
3 8.6 2 Tổ chức cho nhóm 10 – 15 trẻ
27 77.1 3 Tổ chức cho nhóm 5 – 10 trẻ
5 14.3 4 Tổ chức cho nhóm 3 – 5 trẻ
0 0.0 5 Tổ chức cho cá nhân
0 0.0 6 Khác
Tổng 35 100.0
2.5.1.3. Sự phối kết hợp giữa GVMN với phụ huynh
Ở cả hai phiếu thăm dò ý kiến của GVMN và phụ huynh chúng tôi có chung câu hỏi
để biết thông tin về sự phối hợp giữa phụ huynh và GVMN về hoạt động với đồ vật (hoạt
động với đồ dùng – đồ chơi) đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, kết quả khảo sát thể
hiện ở bảng 2.5 và 2.6 không thống nhất với nhau. Nguyên nhân sự không thống nhất có thể
do phụ huynh chúng tôi khảo sát thuộc 4 trường MN chúng tôi giới hạn khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th như đã đề cập ở tiểu mục 2.2 và GVMN phụ trách nhóm lớp 18 – 24th của 4 trường MN này chỉ gồm 10 giáo viên, số phiếu còn lại chúng tôi gửi ở
các trường khác thuộc TP.HCM. Tuy nhiên, mức chệnh lệch ý kiến giữa GVMN và phụ
huynh như trên vẫn là quá lớn.
30
Bảng 2.5. Lựa chọn của GVMN
Bảng 2.6. Lựa chọn của phụ huynh
Stt
Mức độ
Số phiếu Tỷ lệ(%)
Stt
Mức độ
Số phiếu Tỷ lệ(%)
33/35
94.3
1 Thường xuyên
10/82
12.2
1 Thường xuyên
2/35
5.7
2 Thỉnh thoảng
41/82
50.0
2 Thỉnh thoảng
0/35
0.0
3 Chưa bao giờ
31/82
37.8
3 Chưa bao giờ
35/35
100.0
Tổng
82/82
100.0
Tổng
2.5.1.4. Khó khăn của GVMN khi tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV
Trả lời cho câu hỏi số 10, chỉ có 1/35 GVMN không gặp khó khăn và 34/35 GVMN đều cho rằng có gặp khó khăn trong việc tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Những khó
khăn chủ yếu GVMN đề cập đến:
- Số trẻ trong lớp quá đông, khó tổ chức theo nhóm nhỏ, không đủ thời gian rèn luyện
cá nhân cho trẻ.
- Mặc dù là nhóm lớp 18 – 24th nhưng thực tế số trẻ trong lớp chênh lệch nhiều về
tháng tuổi gây khó khăn khi tổ chức
- Khó khăn trong việc chọn lựa đồ chơi, tìm kiếm nguyên vật liệu phù hợp làm đồ chơi cho trẻ, đồ chơi cho trẻ lứa tuổi 18 – 24th trên thị trường không phong phú đa dạng, ít
đồ chơi phù hợp với HĐVĐV.
- Trẻ còn nhỏ, khả năng tập trung chú ý hạn chế.
- Ngôn ngữ trẻ còn hạn chế gây khó khăn khi GVMN giao tiếp với trẻ.
- Trẻ còn nhỏ, cơ tay yếu, thao tác vụng về.
Với những khó khăn trên, theo chúng tôi những khó khăn do trẻ còn nhỏ nên khả năng
chú ý, ngôn ngữ hạn chế hay cơ tay yếu nên thao tác vụng về là những khó khăn mà tất cả
nhà giáo dục phải chấp nhận bởi đây là sự phát triển bình thường theo giai đoạn lứa tuổi.
2.5.1.5. Ý kiến của GVMN về điều kiện để phát triển tốt khả năng hoạt động với
đồ vật của trẻ 18 – 24th
Có rất nhiều ý kiến của GVMN về điều kiện để phát triển tốt khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Tổng hợp phiếu thăm dò, có 3/35 phiếu không nêu ý kiến, còn lại chúng tôi
thấy các ý kiến chủ yếu xoay quanh các vấn đề sau:
- 68.6% GVMN cho rằng cần có đồ chơi đủ về số lượng, phù hợp về nội dung
HĐVĐV và môi trường hoạt động, đồ dùng đồ chơi cần đa dạng, phong phú.
31
- 60% GVMN đưa ra các biện pháp nên sử dụng trong tổ chức hướng dẫn trẻ
HĐVĐV. Tổng hợp có các biện pháp như: gợi ý tưởng, tạo tình huống, cùng chơi với trẻ,
tích hợp HĐVĐV vào các giờ hoạt động khác nhau trong ngày.
- 42.9% GVMN cho rằng số trẻ/nhóm lớp quá đông, cần bố trí ít hơn (Không đề cập
ít như thế nào).
- 34.3% ý kiến đề cập đến việc tăng cường cho trẻ tiếp xúc với đồ vật thông qua
nhiều hoạt động khác nhau trong ngày.
- 25,7% GVMN đưa ra điều kiện cần có phòng học cho trẻ cần rộng rãi.
- 20% GVMN có ý kiến cần thường xuyên quan sát và đánh giá khả năng của từng trẻ
để đưa ra yêu cầu và nội dung hoạt động phù hợp.
Trong số những vấn đề trên, vấn đề được GVMN đề cập nhiều hơn cả là: môi trường
đồ chơi, biện pháp chơi cùng trẻ. Đây là những ý kiến hoàn toàn thiết thực, hợp lý và là cơ
sở thực tiễn quan trọng cho công trình nghiên cứu của chúng tôi.
2.5.2. Môi trường vật chất ở lớp học của trẻ
Các trường chúng tôi khảo sát đều là trường của phường thuộc 4 quận khác nhau trong
ở TP.HCM. Mỗi trường có điều kiện vật chất, diện tích lớp học khác nhau. Qua quan sát các
nhóm lớp về môi trường lớp học: cách bố trí, sắp xếp đồ chơi ở các góc – đặc biệt góc
HĐVĐV; cách sắp xếp các vật dụng, đồ dùng của cô và trẻ; các loại đồ dùng, đồ chơi của
trẻ, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề như:
Hình 2.1. Lớp Thỏ Ngọc – MN12 - Q5 Hình 2.2. Lớp Thỏ Ngọc – MN12 - Q5
• Cách sắp xếp, bố trí đồ dùng, đồ chơi
Trong lớp, các loại đồ chơi ít được bày sẵn trong môi trường thuận tiện cho trẻ hoạt
động. Đa số được “đóng thùng” trong các hộp cactong/ thùng nhựa để trong các hộc tủ gỗ
kiên cố - với lớp có diện tích rộng, còn lớp có diện tích hẹp hơn, chúng tôi thấy đồ chơi
32
đóng thùng chất chồng lên nhau. Chỉ khi nào cần thiết GVMN mới lấy cho trẻ chơi. Nhìn
vào hình 2.1 chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đồ chơi hoàn toàn không được “tiếp thị” đến
trẻ vừa gây mất mỹ quan lớp học.
Quan sát lớp học (trường MN12 - Q5) chúng tôi thấy trong lớp chỉ có 2 kệ nhỏ, đồ
chơi của trẻ tập trung trên một kệ (hình 2.2). Trao đổi với giáo viên phụ trách lớp chúng tôi
được biết đồ chơi còn lại không có chỗ bài trí nên phải cho hết vào thùng, khi nào cần sử
dụng sẽ lấy ra. Thực tế đồ chơi sắp xếp sẵn trên kệ cũng rất ít. Các bộ đồ chơi lồng hộp, các
khối gỗ đến lúc chúng tôi ghi hình mới được xếp thêm vào kệ.
Hình 2.3. Nhóm 19 – 24th – MN 12 Q.Tân Bì
Ở trường có điều kiện diện tích lớn
hơn (hình 2.3), lớp học màu sắc khá bắt
mắt, kệ đồ chơi đa dạng, có đủ cho từng
góc chơi. Tuy nhiên, nhìn trên kệ cũng chỉ
thấy những khoảng trống, số đồ chơi có
cũng rất ít.
• Trang trí phòng học
Mỗi trường có điều kiện vật chất và
diện tích phòng học khác nhau. Qua quan sát chúng tôi nhận thấy các lớp có trang trí tuy
nhiên chưa phát huy yếu tố thẫm mỹ và tính khoa học. Chẳng hạn như ở hình 2.3, phòng
học màu sắc khá hài hoà, bắt mắt, tranh mình hoạ cho các góc phù hợp nội dung, sinh động.
Tuy nhiên, tranh được dán quá cao so với tầm nhìn khi trẻ ngồi hoạt động trong góc chơi.
Như vậy, có thể gây khó khăn khi trẻ quan sát, hoặc có thể do xa tầm nhìn nên trẻ không
hướng sự chú ý tới. Lớp có ít kệ - nơi bày trí đồ chơi cho trẻ, trong khi đó những mảng
tường cũng bỏ trống không được tận dụng trang trí tạo thêm góc chơi, trò chơi cho trẻ (hình
Hình 2.4. Mảng tường lớp Thỏ Ngọc – MN12 Q.5
2.4). Do đó, cơ hội cho trẻ được vui chơi còn hạn chế.
33
Hình 2.5. Đồ chơi của bé – MN12 Q.Tân Bình
• Các loại đồ dùng, đồ chơi của trẻ:
Đồ chơi trang bị cho trẻ ở các trường MN chúng tôi khảo sát không phong phú, đa
đạng về chủng loại và hạn chế về số lượng.
- Trường MN 12 Q.Tân Bình, đồ chơi góc HĐVĐV chủ yếu là các tháp lồng vòng,
đồ chơi mô phỏng như: chén, muỗng, ly, các loại quả, đồ chơi khối gỗ chỉ vài khối vuông
trong khi đó lớp có sĩ số 25 trẻ
- Trường MN 12 Q.5, theo quan sát chúng tôi nhận thấy đồ chơi có số lượng nhiều là
đồ chơi xâu hạt và búp bê vải. Tuy nhiên, đồ chơi bày trên kệ chủ yếu là rối que còn lại
được cất trong thùng cactong xếp vào góc lớp.
- Trường MN Hoa Hồng Q. Bình Tân, đồ chơi chủ yếu cũng là những đồ chơi mô
phỏng và búp bê.
- Trường MN Hươu Sao H. Bình Chánh, đồ chơi khá phong phú, đa dạng về chủng
loại phù hợp với nội dung HĐVĐV nhằm thiết lập hành động mối tương quan: đồ chơi khối
gỗ các dạng hình khác nhau, lego các loại, bộ ghép hình (2 – 3 chi tiết) các đối tượng đơn
giản bằng gỗ. Tuy nhiên, hạn chế về các loại đồ chơi giúp phát triển hành động công cụ cho
trẻ.
Đồ dùng của trẻ ở các trường tương đối phù hợp lứa tuổi của trẻ. Tủ để đồ dùng thấp,
phù hợp chiều cao của trẻ, trẻ có thể tự lấy và cất đồ dùng cá nhân, bồn toilet có tay vịn, kệ
dép 2 tầng thấp trẻ tự xếp dép lên kệ…
34
Hình 2.6. Kệ đồ dùng cá nhân của trẻ -
Hình 2.7. Nhà vệ sinh – MN 12 Q.5
MN Hoa Hồng
2.5.3. Về phía gia đình
Trẻ em lứa tuổi 18 – 24th với HĐCĐ là HĐVĐV. Theo quan điểm hoạt động trong
GDMN, chính bản thân trẻ có hoạt động trẻ mới có thể phát triển. Do đó trẻ cần được hoạt
động tích cực, đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu cầu dưới sự hướng dẫn của người lớn.
Như vậy, việc tổ chức hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV không chỉ là vai trò của GVMN mà
cần có cả sự hỗ trợ không nhỏ từ phía gia đình. Phụ huynh cần có cái nhìn đúng đắn và biện
pháp hỗ trợ hợp lý, như vậy sẽ giúp trẻ rút ngắn được thời gian và lĩnh hội được những kiến
thức, kỹ năng căn bản cần thiết của độ tuổi.
Chúng tôi tiến hành khảo sát trên tổng số 82 phụ huynh bằng phiếu thăm dò ý kiến, kết
quả tổng kết từ các câu hỏi như sau:
Bảng 2.7. Thống kê ý kiến phụ huynh
Câu hỏi 1: Anh/ chị cho bé chơi với đồ dùng đồ chơi nhằm mục đích gì?
Stt
Lựa chọn trả lời
Số phiếu
Tỷ lệ (%)
46
56.1
1 Bé biết được chức năng, cách SD đồ dùng trong sinh hoạt
39
47.6
2 Rèn luyện khéo léo, linh hoạt đôi tay
50
61.0
3 Vui vẻ, thoải mái tinh thần
Bé biết được tên gọi, đặc điểm của một số đồ dùng, đồ chơi
53
64.6
4
quen thuộc
Bé biết mối liên hệ giữa các đồ dùng, đồ chơi hay giữa các bộ
28
34.1
5
phận của chúng với nhau
Câu hỏi 2: Trong sinh hoạt hàng ngày anh chị có tập cho bé?
Lựa chọn trả lời
Số phiếu
Tỷ lệ %
Stt
Gọi tên các đồ vật
70
85.4
1
35
Nhận biết màu sắc
43
52.4
2
Phân biệt vật có kích thước to hơn/ nhỏ hơn
38
46.3
3
Cách sử dụng ĐD - ĐC
63
76.8
4
Khác: Cất dọn ĐD - ĐC
4.9
5
4 Câu hỏi 3: Anh chị thường mua cho trẻ 18 – 24th loại đồ chơi gì?
Stt
Lựa chọn trả lời
Số phiếu
Tỷ lệ %
Đồ chơi chạy bằng pin, điện: xe, rôbot, con vật…
48
58.5
1
Đồ chơi mô phỏng: búp bê, trái cây, rau củ, vật dụng gđ…
41
50.0
2
Đồ chơi lắp ráp, xếp hình…
54
65.9
3
Đồ chơi hình khối: vuông, CN, trụ …
27
32.9
4
Đồ chơi mang tính vận động: banh, xe đạp, xe lắc…
37
45.1
5
Đồ chơi thẻ hình, sách tranh...
31
37.8
6
Khác
12
14.6
7
Câu hỏi 5: Ở nhà bé có chơi những trò chơi sau:
Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Stt
Lựa chọn trả lời
Số phiếu %
Số phiếu %
Số phiếu %
Xếp cạnh, xếp chồng các đồ vật
33
40.2
29
35.4
20
24.4
1
(khối, hộp, lon…)
Lồng vòng vào que/ giá gỗ, tháp
64
78.0
18
22.0
0
0.0
2
lồng vòng
77
93.9
5
6.1
0
0.0
3 Xâu hạt
28
34.1
32
39.0
22
26.8
4 Chơi với thú bông/ búp bê…
45
54.9
23
28.0
14
17.1
5 Thả hình vào hộp
16
19.5
36
43.9
30
36.6
6 Xếp hình, lắp ráp
Điện tử trên: điện thoại, máy tính,
7
Ipad…
28
34.1
23
28.0
31
37.8
0
0.0
29
35.4
53
64.6
8 Hoạt hình, ca nhạc TV/máy tính…
Câu 6: Theo anh/chị , việc cho trẻ 18 – 24th tham gia hoạt động với đồ dùng có cần thiết?
36
Rất cần thiết
14,6
19,5
Cần thiết
65,9
Chưa cần thiết
Biểu đồ 2.2. Lựa chọn của phụ huynh về sự cần thiết của việc cho trẻ HĐVĐV
Từ những số liệu thống kê được như trên, chúng tôi có một số nhận định: - Nhận thức của phụ huynh về việc cần thiết và rất cần thiết cho trẻ 18 – 24th
HĐVĐV ở mức khá cao. Chỉ 14.6% phụ huynh cho là chưa cần thiết. Nghĩa là phụ huynh
có quan tâm và thấy được việc cho trẻ hoạt động với đồ dùng, đồ chơi thực sự cần thiết đối với trẻ. Tuy nhiên, phụ huynh vẫn chưa thực sự hiểu rõ việc cho trẻ 18 – 24th hoạt động với
đồ dùng, đồ chơi là cần thiết như thế nào. Kết quả thống kê câu hỏi 1 cho thấy các lựa chọn
cao nhất cũng chỉ 64.6%. Lựa chọn thứ 4 tiếp đến là thứ 3 và thứ 1 chiếm tỷ lệ lần lượt là
cao nhất và cao trên 50%. Đặc biệt với lựa chọn thứ 5 chỉ 34.1%. Trong đó, không có phụ
huynh nào chọn tất cả 5 nội dung lựa chọn trả lời. Với tỷ lệ như trên cho thấy phụ huynh
hiểu chưa thực sự hợp lý về mục đích của việc cho trẻ tham gia HĐVĐV.
- Thống kê ở câu hỏi 2 cho thấy đa số phụ huynh khi cho trẻ HĐVĐV chú trọng đến
việc cho trẻ nhận biết bằng cách gọi tên đối tượng là 85.6% và tập cho trẻ cách sử dụng ĐD
– ĐC là 76.8%. Trong khi đó, việc cho trẻ HĐVĐV còn giúp trẻ nhận biết màu sắc và nhận
ra vật có kích thước to/nhỏ để giúp trẻ thiết lập được các mối tương quan giữa chúng là hai
nội dung khá quan trọng nhưng tỷ lệ lựa chọn của phụ huynh còn thấp.
- Vấn đề phụ huynh mua sắm, trang bị những loại đồ chơi nào cho trẻ ở gia đình thể
hiện hiểu biết cũng như biện pháp của phụ huynh hỗ trợ trẻ trong việc trẻ tham gia
HĐVĐV. Kết quả lựa chọn của phụ huynh ở câu hỏi 3, loại trò chơi có tỷ lệ phụ huynh lựa
chọn mua cho con nhiều nhất là đồ chơi lắp ráp, xếp hình chiếm 65.9%. Đây là loại đồ chơi
phù hợp với trẻ ở nhiều độ tuổi và phát huy được sự khéo léo, phát triển trí tuệ, khả năng tư
duy và sự sáng tạo ở trẻ. Tuỳ mỗi lứa tuổi sẽ có những chi tiết phù hợp khả năng của trẻ.
Bên cạnh đó, những loại đồ chơi như: đồ chơi hình khối, đồ chơi mô phỏng hay các loại sách hình giấy dày cũng rất cần thiết cho HĐVĐV của trẻ độ tuổi 18 – 24th. Tuy nhiên, lựa
chọn của phụ huynh với những loại đồ chơi này còn rất thấp chỉ dao động từ 32.9% đến
45.1%. Ngoài ra, có 12 phụ huynh lựa chọn thêm ở lựa chọn thứ 7 chiếm 14.6%, trong đó
37
phụ huynh có kể tên những đồ chơi như: súng (4 phiếu), thẻ chữ – thẻ số (5 phiếu), mua đồ
chơi bé thích (1 phiếu), máy điện tử (1 phiếu), tận dụng lại các vật liệu (1 phiếu).
- Số liệu thu được ở câu hỏi 5 bổ sung nhằm làm rõ hơn về những đồ chơi phụ huynh
trang bị và cụ thể là ở nhà trẻ thường chơi những trò chơi gì, có phù hợp với nhu cầu của độ
tuổi hay không. Theo như bảng hỏi những trò chơi thực sự phù hợp với độ tuổi của trẻ là các
trò chơi số 1, 2, 3, 4, 5, 6. Tuy nhiên lựa chọn của phụ huynh cho những trò chơi này ở mức
độ thường xuyên còn rất thấp. Thậm chí như trò chơi số 2 (tháp lồng vòng) và trò chơi số 3
(xâu hạt) là 0%, mức độ chưa bao giờ chơi chiếm tỷ lệ rất cao, lần lượt là 64% và 77%.
Trong số đó chỉ có trò chơi số 6 có tỷ lệ lựa chọn tương đối cao ở mức thỉnh thoảng và
thường xuyên. Đáng chú ý ở đây là lựa chọn cho nội dung xem hoạt hình, ca nhạc chiếm tỷ
lệ cao nhất về mức độ thường xuyên, tỷ lệ 0% ở mức độ chưa bao giờ. Tuy nhiên, nội dung
này không nằm trong những nội dung trẻ HĐVĐV.
- Hiện nay công nghệ thông tin ngày một phát triển, ra đời nhiều sản phẩm mới, đặc biệt là Ipad. Mặc dù trẻ 18 – 24th là độ tuổi còn rất nhỏ và trong phiếu hỏi chúng tôi không
đề cập đến nhưng có đến 9 phiếu phụ huynh đề cập đến trong các câu hỏi 2, 3, 5 ở phần viết
vào các ô trống (…) như: tập cho trẻ chơi Ipad, mua Ipad cho trẻ, ở nhà bé thường thích
chơi Ipad. Lựa chọn số 7 ở câu hỏi 5 về chơi điện tử, mức độ thường xuyên chiếm tới
37.8%. Thực tế chưa có nghiên cứu nào khẳng định việc cho trẻ tiếp xúc với các loại
phương tiện này có hại cho trẻ hay không. Tuy nhiên, các nhà khoa học khuyến cáo hạn chế
cho trẻ dưới 2 tuổi sử dụng.
- Phụ huynh gặp khó khăn trong việc chọn lựa mua gì cho con chơi, đồ chơi có nào
và mua ở đâu để đảm bảo an toàn cho con trẻ.
Qua đó cho thấy phụ huynh dù biết rằng việc cho trẻ HĐVĐV là cần thiết, nhưng còn
khá mơ hồ về việc ở lứa tuổi này trẻ thực sự cần gì, chơi gì, chơi như thế nào để đảm bảo
thoả mãn nhu cầu và phát triển đúng mức cho trẻ.
2.5.4. Thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
Chúng tôi tiến hành khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th tại 4 trường MN như
đã đề cập ở tiểu mục 2.2. Nội dung khảo sát bao gồm 10 bài tập (phụ lục 3) khảo sát về: khả
năng thực hiện hành động TLMTQ, hành động công cụ và khả năng nhận biết màu sắc, kích
thước của đồ vật khi HĐVĐV. HĐVĐV bao gồm nhiều nội dung khác nhau, vì vậy chúng
tôi đưa ra tiêu chí và thang đánh giá cho từng bài tập (phụ lục 4).
38
Số liệu về kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th tại 4 trường
MN được chúng tôi xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả như sau:
• Thực trạng khả năng thực hiện hành động TLMTQ (Tiêu chí 1)
Đánh giá khả năng thực hiện hành động TLMTQ của trẻ, chúng tôi khảo sát trẻ với 4
bài tập: Xếp sát cạnh, xếp chồng khối chữ nhật đứng, lồng hộp và xâu hạt.
Kết quả ở bảng 2.8 cho thấy tiêu chí 1 có 25% trẻ thực hiện ở mức cao, 70% trẻ thực
hiện ở mức độ trung bình và chỉ 3% trẻ đạt ở mức thấp. Nếu chỉ xét ở bình diện chung cả 4
bài tập sẽ thấy rằng trẻ ở các trường khảo sát thực hiện hành động TLMTQ đạt ở mức khá
cao. Tuy nhiên, xét cụ thể ở từng bài tập được thể hiện ở biểu đồ 2.3 chúng tôi có nhận định
như sau:
Bài tập xếp sát cạnh, xếp chồng, lồng hộp kết quả đạt được ở mức độ cao và trung
bình chênh lệch rất lớn với bài tập 4. Bài tập 1 mức độ thấp chỉ chiếm 10%, bài tập 2 là
13.3% và bài tập 3 chiếm 23.3%. Trong khi đó bài tập 4 có đến 47 trẻ đạt ở mức thấp tương
đương 78.3%. Điều đó cho thấy, tiêu chí về khả năng thực hiện hành động TLMTQ xét tổng
thể trẻ đạt ở mức trung bình chiếm đa số là do ảnh hưởng từ tỷ lệ đạt được của các bài tập 1,
2, 3. Như vậy, với thao tác đòi hỏi kỹ năng vận động tinh nhiều hơn trẻ thực hiện yếu hơn
các bài tập khác cụ thể ở đây là nội dung xâu hạt ở bài tập 4.
Bảng 2.8. Các mức độ đạt được của các tiêu chí
Tiêu chí 1 Tiêu chí 2 Tiêu chí 3 Mức độ
Tần số
Tỷ lệ (%)
Tần số
Tỷ lệ (%)
Tần số
Tỷ lệ (%)
1 15 25.0 5 8.3 3 5.0
2 42 70.0 54 90.0 20 33.3
3 3 5.0 1 1.7 37 61.7
100,0
Tổng 60 100.0 60 100.0 60 100.0
Thấp
78,3
10,0 13,3 23,3 23,3 58,3
50
50,0
66,7
BT1: Xếp sát cạnh
TB
28,3 26,7
15 6,7
0,0
Cao
BT2: Xếp chồng
BT1 BT2 BT3 BT4
BT3: Lồng hộp
Tỷ lệ(%)
BT4: Xâu hạt.
Biểu đồ 2.3. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 1
39
• Thực trạng khả năng thực hiện hành động công cụ (Tiêu chí 2)
Đánh giá khả năng thực hiện hành động công cụ của trẻ, chúng tôi khảo sát trẻ với 3
bài tập bao gồm 4 nội dung: Trò chơi cài cúc áo, sử dụng chén muỗng (dùng thìa xúc cơm
0,0
3,3
trong giờ ăn), lật sách giấy dày và trò chơi thao tác vai.
100,0
26,7
30
80,0
BT1: Cài cúc áo
56,7
60,0
BT2: Sử dụng chén muỗng
98,3
73,3
40,0
66,7
BT3: Lật sách giấy dày
30
20,0
13,3
1,7
0,0
0,0
BT1
BT2
BT3
BT4
Tỷ lệ(%)
Cao
TB
Thấp
BT4: Thao tác vai
Biểu đồ 2.4. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 2
Kết quả ở bảng 2.8 cho thấy tiêu chí 2 có 8.3% trẻ thực hiện ở mức cao, 90% trẻ thực
hiện ở mức độ trung bình và chỉ 1.3% trẻ đạt ở mức thấp. Nếu chỉ xét ở bình diện chung cả
4 bài tập sẽ thấy rằng trẻ ở các trường khảo sát thực hiện hành động công cụ đạt ở mức
trung bình chiếm tỷ lệ rất cao, số trẻ thực hiện không đạt yêu câu chỉ chiếm tỷ lệ rất ít . Tuy
nhiên, xét cụ thể ở từng bài tập được thể hiện ở biểu đồ 2.4 chúng tôi có nhận định khả năng
trẻ thực hiện ở các bài tập không đồng đều. Trong đó bài tập cài cúc áo chiếm đến 98.3% trẻ
không thực hiện được. Trên thực tế bài tập này tương đối khó với trẻ vì đòi hỏi cao của vận
động tinh: sự khéo léo và phối hợp linh hoạt cơ ngón tay của cả hai bàn tay. Mặc dù bộ đồ
chơi chúng tôi sử dụng có cúc áo dễ cầm so với tay trẻ và khuy áo rộng gấp 1.5 – 2 lần cúc
áo nhưng trẻ vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, việc mặc áo và cài cúc áo cũng là thao tác khá phức tạp và trẻ độ tuổi 18 – 24th hầu như vẫn chưa thể tự
thực hiện được. Do vậy, kết quả trên khảo sát chỉ đạt ở mức thấp là khá hợp lý so với yêu
cầu của độ tuổi. Bài tập 2 chúng tôi khảo sát và ghi nhận kết quả trẻ thông qua quan sát trẻ
trong giờ ăn sáng và ăn trưa. Kết quả 56.7% số trẻ đạt mức độ thấp, 30% đạt mức độ trung bình và 13.3% ở 83 mức độ cao. Quan sát cho thấy giờ ăn của trẻ nhóm 18 – 24th hầu như
trẻ không tự xúc ăn, nếu có (tỷ lệ rất ít) thao tác của trẻ còn chậm nên hầu hết GVMN đút
40
cho trẻ ăn. Bài tập 3 và 4 trẻ thực hiện tương đối tốt. Ở bài tập 4, thao tác vai chúng tôi khảo
sát là “cho bé ăn” hoặc “tắm cho bé”. Với thao tác cho bé ăn trẻ cũng sử dụng chén, muỗng
đút cho “em” ăn nhưng vì ở đây là công cụ đồ chơi với thao tác mô phỏng đơn giản nên trẻ
thực hiện tương đối tốt, tỷ lệ mức độ cao chiếm đến 73.3% và 0% mức độ thấp.
• Thực trạng khả năng nhận biết màu sắc, kích thước của đồ vật thông qua
100,0
80,0
71,7
BT1: Nhận biết, phân biệt màu sắc
76,7
60,0
BT2: Phân biệt vật có kích thước to – nhỏ
Thấ p
40,0
20,0
25,0
18,3
3,3
5,0
0,0
BT1 BT2
Biểu đồ 2.5. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 3
HĐVĐV (Tiêu chí 3)
Tham gia HĐVĐV qua đó trẻ tìm hiểu đặc điểm, chức năng và phương thức sử dụng
chúng. Do đó bên cạnh khảo sát về 2 loại hành động cơ bản của HĐVĐV, chúng tôi khảo
sát khả năng nhận biết màu sắc (2 màu cơ bản: màu đỏ, màu xanh dương) và phân biệt kích
thước (to hơn – nhỏ hơn) của 2 đồ vật. Kết quả khảo sát thể hiện ở bảng 2.8 cho thấy chỉ 5%
số trẻ đạt ở mức độ cao, 33.3% số trẻ đạt ở mức độ trung bình và chiếm đến 61.7% số trẻ
đạt mức độ thấp.
Tiêu chí này chúng tôi sử dụng 2 bài tập khảo sát và theo như biểu đồ 2.5 thể hiện, cả
hai bài tập này các mức độ chênh lệch nhau không đáng kể
Nhìn chung với các bài tập khảo sát ở cả 3 tiêu chí, các bài tập trẻ thực hiện đạt mức độ cao
và mức độ trung bình chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với mức độ thấp là: xếp sát cạnh, xếp
chồng, lồng hộp, lật sách giấy dày, thao tác vai. Những bài tập đạt mức độ thấp chiếm tỷ lệ
cao là: xâu hạt; cài cúc áo; sử dụng chén muỗng trong giờ ăn; nhận biết, phân biệt màu sắc,
kích thước đồ vật. Trong chương trình GDMN cũng như thực tế ở trường MN, trò chơi xâu hạt là trò chơi rất quen thuộc ở độ tuổi 18 – 24th và nội dung này cũng thuộc nội dung được
tổ chức trong giờ chơi – tập có chủ đích và giờ chơi tự do; Nội dung như: phân biệt màu sắc,
kích thước là nội dung bắt buộc trong nội dung chương trình tổ chức cho trẻ tham gia
HĐVĐV ở giờ chơi – tập có chủ đích và có thể tích hợp cũng như tổ chức ở mọi lúc mọi
41
nơi. Tuy vậy, kết quả khảo sát chúng tôi thu được với tỷ lệ trẻ ở mức độ thấp chiếm rất cao.
Riêng với bài tập cài cúc áo tương đối khó so với trẻ và trong chương trình của các trường MN nội dung này ít được đưa vào lứa tuổi 18 – 24th cho trẻ làm quen và luyện tập. Vì vậy,
• Kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th Bảng 2.9. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 14th
hầu hết các trẻ t với nội dung này đều không thực hiện được.
Xếp loại
Tần số
Tỷ lệ (%)
1
1.7
A
3
5.0
B
41
68.3
C
15
25.0
D
60
100.0
Tổng
Bảng 2.11 thể hiện kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ ở 4 trường
chúng tôi khảo sát. Kết quả trên cho thấy tỷ lệ trẻ đạt loại A (Tốt) và loại B (Khá) chiếm rất
ít chỉ 6.7%. Tỷ lệ trẻ đạt loại C (trung bình) chiếm đa số là 68.3% và Loại D (yếu) chiếm
25%. Như vậy, nếu có những tác động hợp lý của nhà GD rất có thể trẻ sẽ nhanh chóng vượt
qua khỏi loại D và tiến đến loại C, B, A nhiều hơn.
• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa khả năng HĐVĐV của trẻ
ở các trường MN khảo sát thực trạng
Bảng 2.10. Kết quả khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ ở trường MN12 Q5
và trường MN Hoa Hồng Q. Bình Tân
Trường
MN12 Q.5 MN Hoa Hồng
Giá trị
8.11
8.70
Mean
1.26
1.65
Std. Deviation
0.181
Sig
Chúng tôi tiến hành khảo sát ở 4 trường với số lượng 60 trẻ. Tuy nhiên, số lượng trẻ khảo sát ở các trường không tương đương nhau do lựa chọn trẻ chỉ thuộc nhóm 18 – 24th.
Trong đó, có 2 trường có số trẻ tương đương nhau ở mức tương đối là 25 trẻ thuộc trường
MN 12 Q.5 và 20 trẻ thuộc trường MN Hoa Hồng Q.Bình Tân. Vì vậy, chỉ có thể kiểm định
độ tin cậy mức độ chênh lệch ý nghĩa HĐVĐV của trẻ ở 2 trường MN này. Kết quả ở bảng
42
2.12 cho thấy khả năng HĐVĐV của trẻ trường MN 12 Q.5 (Mean = 8.11) và trường MN
Hoa Hồng Q.Bình Tân (Mean = 8.70) đều ở mức trung bình, độ lệch chuẩn có chênh lệch
giữa 2 trường lần lượt là Std.Deviation =1.26 và Std.Deviation =1.65. Kết quả khảo sát test
oneway ANOVA cho giá trị Sig = 0.18 > 0.05 nên không có sự khác biệt, chênh lệch về kết
quả thực hiện các nội dung khảo sát về khả năng HĐVĐV. Như vậy, mức độ chênh lệch kết
quả khả năng HĐVĐV của trẻ ở 2 trường không có độ tin cậy. Tóm lại, kết quả khảo sát thu
được ở 2 trường MN điều tra thực trạng là như nhau và đều đạt mức trung bình.
• Kết quả thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th theo giới tính
Bảng 2.11. Kết quả khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ theo giới
Std. Deviation Giới tính Mean Sig.(2-tailed) N
33 Trai 7.80 1.57 0.03 27 Gái 8.69 1.50
Qua kết quả kiểm nghiệm T-Test (Independent Samples Test) ở bảng 2.13 cho thấy điểm trung bình của bé gái cao hơn bé trai là 0.89 điểm, độ lệch chuẩn của bé trai cao hơn gái, mức độ chênh lệch điểm ở các bé gái tương đối lớn so với bé trai. Với giá trị Sig.(2-tailed)=0.03 < 0.05 cho thấy có sự khác biệt về mức độ khả năng HĐVĐV ở hai nhóm bé trai và bé gái ở 4 trường MN mà chúng tôi khảo sát.
2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
2.6.1. Từ phía gia đình:
- Phụ huynh nhận thức chưa thấu đáo về ý nghĩa của HĐVĐV đối với trẻ 18 – 24th .
Họ chỉ biết nó cần thiết đối với trẻ nhưng chưa xác định được quan trọng tới mức nào, có nhất thiết phải thực hiện ngay từ giai đoạn 18 – 24th hay chưa.
- Phụ huynh gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn đồ chơi cho trẻ 18 – 24th.
- Thời gian chơi cùng con chưa nhiều.
- Chưa tận dụng, khai thác tối đa các nội dung có thể hướng dẫn cho trẻ khi trẻ có cơ
hội hoạt động với đồ dùng, đồ chơi.
2.6.2. Từ phía nhà trường
- GVMN nhận thức chưa bao quát ý nghĩa của HĐVĐV đối với trẻ. Đặc biệt là ý
nghĩa của HĐVĐV đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ.
43
- GVMN chưa tận dụng hết cơ hội cho trẻ được HĐVĐV ở mọi lúc mọi nơi trong chế
độ sinh hoạt của trẻ ở trường MN.
- Môi trường lớp học chưa khơi gợi, chưa tạo điều kiện tốt cho trẻ HĐVĐV: Đồ chơi
xếp cất trong tủ/ hộp; trang trí góc chơi chưa hấp dẫn, đồ chơi chưa đa dạng, phong phú; tủ/
kệ để đồ dùng cá nhân của trẻ nhiều tầng nên cao so với trẻ làm mất đi cơ hội trẻ được tự
hoạt động …
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường về việc cần thiết cho trẻ
tham gia hoạt động với đồ dùng, đồ chơi trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Tiểu kết chương 2: Quá trình khảo sát, nghiên cứu thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
chúng tôi nhận thấy:
Những thao tác trẻ HĐVĐV gặp nhiều hạn chế, chưa đạt yêu cầu so với chuẩn của
lứa tuổi (Chương trình GDMN 2009) những thao tác đòi hỏi nhiều kỹ năng vận động
tinh, cần thiết phải rèn luyện cho trẻ.
HĐVĐV đúng nghĩa là hướng đến phát triển hài hoà, toàn diện cho trẻ. Vì vậy,
ngoài việc cho trẻ thao tác bằng tay với đồ vật, cần chú ý phát triển về trí tuệ cho trẻ.
Cụ thể trong các bài tập khảo sát trẻ trẻ chưa nhận biết được màu sắc, kích thước to –
nhỏ của đồ vật chiếm tỷ lệ rất cao.
GVMN cần sử dụng các phương pháp – biện pháp một cách hợp lý, linh hoạt đồng
thời phối hợp với phụ huynh trong công tác CS – GD trẻ một cách đồng bộ để phát huy
khả năng HĐVĐV cho trẻ.
Nhìn chung, quá trình phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th cần phải được
thực hiện thường xuyên, khoa học, sử dụng các biện pháp rèn luyện cho trẻ hợp lý, hiệu
quả hơn xuyên suốt trong các thời điểm như: giờ hoạt động có chủ đích, giờ chơi tự do
và trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Kết quả điều tra thực trạng vừa nêu trên sẽ giúp
chúng tôi có cơ sở thực tiễn hợp lí cho việc đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 th.
44
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP
PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CHO TRẺ
18 – 24TH
3.1. Cơ sở định hướng của việc đề xuất biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV
của trẻ 18 – 24th
Để phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th một cách phù hợp, mang lại
hiệu quả thì biện pháp tác động đến trẻ phải xuất phát từ lí luận và thực tiễn giáo dục.
Nghĩa là các biện pháp lựa chọn phải dựa trên những cơ sở
- Biện pháp đề xuất phải bám sát các quan điểm trong GDMN Việt Nam hiện
nay: Quan điểm phát triển, quan điểm hoạt động, quan điểm tích hợp, quan điểm tích
cực hoá – lấy trẻ làm trung tâm.
- Biện pháp phải phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: Trẻ 18 – 24th nhu cầu
được vận động, trẻ hoạt động dường như không ngơi nghỉ, thử sức với mọi đồ vật
xung quanh bằng tất cả khả năng vận động của mình. Giai đoạn này tư duy trực quan
hành động phát triển mạnh. Cảm xúc, chú ý của trẻ chưa mang tính ổn định nên dễ
dàng thích thú một vật gì đó nhưng cũng nhanh chóng chán và hướng sự chú ý sang
một vật khác. Thao tác của trẻ còn vụng về đặc biệt là kỹ năng vận động tinh dẫn đến
những hoạt động của trẻ diễn ra không đạt như ý. Bên cạnh đó, ngôn ngữ chưa hoàn
thiện, thiếu khả năng tự diễn đạt bằng lời khi cần thiết giao tiếp với người khác nên
trẻ dễ cáu giận. Về mặt sinh lý, trẻ bắt đầu thực hiện một số công việc đơn giản phục
vụ nhu cầu bản thân.
- Các biện pháp phải đảm bảo tính giáo dục.
3.2. Một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th
3.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường đồ dùng – đồ chơi
3.2.1.1. Trang bị đồ dùng – đồ chơi
Có thể nói đồ chơi cho trẻ MN như là sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Sách
giáo khoa chuẩn mực là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục phổ
45
thông. Tương tự như vậy, đồ chơi chuẩn mực là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả
chăm sóc giáo dục trẻ [6], [29], [31], [32]. Yêu cầu của việc trang bị đồ chơi cho trẻ:
- Đảm bảo tính giáo dục. Không nhất thiết phải là những món đắt tiền, cái quan trọng
là nó có ý nghĩa giáo dục hay không. Chẳng hạn nó có giúp trẻ mô phỏng được những hành
động với công cụ của loài người, có mang lại niềm vui cho trẻ khi chơi, có gợi cho trẻ cảm
xúc thẩm mỹ, phát triển cơ tay…
- Độ lớn của đồ chơi phải hợp lí để trẻ cầm nắm, đặc biệt là trẻ trong độ tuổi nhà trẻ
vận động của đôi tay còn khá vụng về lóng ngóng.
- Đồ chơi phải phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật. Nếu không,
một mặt trẻ sẽ không thực hiện được những hành động chơi tương ứng với vật thật mà nó
mô phỏng, mặt khác nó không có tác dụng củng cố biểu tượng về vật dụng mà trẻ đã biết.
- Đồ chơi phải hấp dẫn trẻ. Màu sắc rực rỡ, tươi sáng, hình thù đẹp, tùy thuộc vào trò
chơi, chủ đề chơi. Trẻ ở lứa tuổi này, màu sắc đồ chơi nên là những màu cơ bản để qua đó
giúp trẻ nhận biết, phân biệt màu sắc.
- Đồ chơi phải đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ. Trong khi chơi, trẻ nhà trẻ có thể
khám phá đồ chơi bằng nhiều cách khác nhau, thậm chí trẻ dùng đồ chơi để ngậm, để thổi,
… Do vậy đồ chơi phải sạch, không gây độc hại, không sắc nhọn.
- Trẻ 18 – 24th trẻ vẫn chưa biết chơi cùng nhau. Vì vậy, trang bị đồ chơi cần chú ý
đến số lượng phải hợp lý. Nghĩa là, khi tổ chức cho trẻ chơi nhất thiết mỗi trẻ phải có 1 bộ
đồ chơi tránh việc trẻ được chơi trẻ ngồi nhìn hay tranh giành lẫn nhau.
Đồ chơi cần thiết phải trang bị nhằm hình thành và phát triển khả năng HĐVĐV cho
trẻ:
- Đồ chơi hình tượng: xe các loại, búp bê…
- Đồ chơi mô phỏng: đồ chơi tắm bé, khám bệnh, cho bé ăn…
- Đồ chơi hình khối: các khối gỗ nhiều màu sắc (đỏ, xanh dương, vàng, trắng…),
nhiều hình khối với kích thước to nhỏ khác nhau (khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ, khối
tam giác…)
- Đồ chơi tháo lắp
- Đồ chơi rèn sự phối hợp giữa tay và mắt: lồng hộp, xâu hạt (nhiều loại hạt), lồng
vòng vào que
- Sách giấy dày
- …
46
Các loại đồ dùng trong sinh hoạt cần trang bị phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tự sử
dụng: chén, ly bằng ionx hay nhựa dẻo kích thước phù hợp với khả năng cầm nắm của đôi
tay trẻ; giày dép, mũ nón, quần áo có khóa gài đơn giản, dễ sử dụng.
3.2.1.2. Sắp xếp đồ dùng, đồ chơi
Hình 3.1 Hình 3.2
Đồ chơi sắp xếp cần chú ý:
- Trẻ giai đoạn 18 – 24 tháng đặc trưng khi chơi vẫn là chơi một mình và thường hay
giành đồ chơi của bạn. Vì vậy, sắp xếp đồ chơi nên để từng bộ, từng rổ riêng cho từng trẻ.
Trẻ thường cảm thấy bất an trong môi trường đồ chơi xếp thành góc dành cho nhiều trẻ vì
trẻ sẽ tranh giành lẫn nhau.
- Ý tưởng chơi của trẻ còn mờ nhạt, chưa ổn định thậm chí nhiều trẻ chưa xuất hiện ý
tưởng. Vì vậy, trong góc chơi của trẻ cần có thêm tranh hay mô hình mẫu nhằm gợi ý tưởng
cho trẻ (hình 3.1, hình 3.2).
- Đồ chơi sắp xếp vừa tầm trẻ để kích thích, tạo điều kiện thuận tiện và cơ hội cho trẻ
được tiếp xúc thực sự với chúng.
Đồ dùng phục vụ cho nhu cầu cá nhân cần bố trí nơi thuận tiện, có quy định cho trẻ
quen nề nếp, tạo cơ hội cho trẻ tự thực hiện khi cần thiết: vị trí để ly uống nước, kệ để dép,
tủ để balo, giá để khăn…
Cách thức thực hiện biện pháp:
- Trao đổi với giáo viên về các loại đồ chơi phù hợp với nội dung HĐVĐV.
- Bổ sung thêm các loại đồ chơi cần thiết cho trẻ hoạt động: mua sắm và tự làm thêm
một số đồ chơi (hình 3.3)
- Chụp hình, phóng tranh khổ A3, A4 làm tranh minh hoạ gợi ý nội dung chơi trang trí
vào các góc.
47
- Tận dụng các mảng tường trống bố trí một số trò chơi sử dụng gai dính (hình 3.4,
hình 3.5).
- Sắp xếp lại đồ dùng, đồ chơi trong phòng học gọn gàng, ngăn nắp, bố trí lại các góc
chơi và đồ chơi tương ứng.
Hình 3.3
Hình 3.4 Hình 3.5
3.2.2. Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày
Phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ không thể chỉ dừng lại ở việc tổ chức trong các
giờ chơi – tập. Việc hình thành kỹ năng cho trẻ đặc biệt là trẻ càng nhỏ càng cần được
thường xuyên lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức và thời điểm khác nhau. Chính vì vậy, cần
tạo cơ hội cho trẻ tự mình thực hiện những công việc đơn giản trong cuộc sống hàng ngày.
Cụ thể với trẻ lứa tuổi này đó là: tự mang giày dép có khóa đơn giản, tập tự cởi và kéo quần,
tập cài cúc áo, kéo dây kéo cặp, đóng mở cửa, tập tự xúc ăn bằng thìa, cầm chén, cầm ly
uống nước, đóng mở khóa nước khi đi vệ sinh hay rửa tay, lau tay sau khi rửa tay …
Những nội dung này thường ngày vẫn diễn ra trong cuộc sống của trẻ, tuy nhiên nhiều
khi do khả năng còn hạn chế, trẻ còn lóng ngóng. Trong khi đó, giáo viên không đủ kiên
nhẫn chờ đợi hay nhẹ nhàng hướng dẫn mà thay vào đó là sự nôn nóng, thúc giục càng làm
cho trẻ thiếu tự tin, lo lắng, mất tập trung dẫn đến trẻ càng lóng ngóng hơn khi thực hiện.
48
Do đó, thay vì những việc nên để trẻ thực hiện giáo viên thường làm thay trẻ, vô tình người
lớn đã đánh mất cơ hội để trẻ HĐVĐV.
Trẻ tiếp xúc và hoạt động với thế giới vạn vật xung quanh, GVMN ngoài việc rèn
luyện các thao tác hoạt động với chúng cần hướng trẻ chú ý đến đặc điểm của đối tượng
như: các bộ phận, kích thước, màu sắc, tiếng kêu hay âm thanh chúng phát ra…
HĐVĐV có thể diễn ra trong hầu hết các thời điểm xuyên suốt mỗi ngày trẻ đến trường. Như vậy, việc tổ chức cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV cần được GVMN chú ý
kết hợp cho trẻ tham gia dưới nhiều hình thức ở các thời điểm khác nhau trong chế độ sinh
hoạt hàng ngày của trẻ ở trường MN. Khả năng của trẻ giai đoạn này còn rất nhiều hạn chế,
ban đầu chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn và kết quả không như yêu cầu. Chính vì vậy,
GVMN cần kiên nhẫn, tạo nhiều cơ hội cho trẻ được thực hiện, tận dụng mọi thời điểm
thích hợp cho trẻ hoạt động sẽ làm cho quá trình tổ chức hướng dẫn không khiên cưỡng mà
mang lại hiệu quả hơn.
3.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt cho đôi tay của trẻ
Theo V.A. Sukhomlinski, tay chính là sự khơi nguồn của trí tuệ, còn trí tuệ lại nằm
ngay trên đầu những ngón tay [19]. HĐVĐV của trẻ diễn ra với hành động cơ bản là hành
động TLMTQ và hành động công cụ. Qua đó, những thao tác của hoạt động trí tuệ dần được
hình thành và phát triển. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy để phát triển khả năng HĐVĐV, việc
rèn luyện sự linh hoạt, khéo léo của đôi tay là thực sự cần thiết.
Mục đích của biện pháp nhằm rèn luyện sự linh hoạt, khéo léo của cơ bàn tay và các ngón tay. Bởi vì để phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ, đặc biệt là trẻ 18 – 24th thao tác còn vụng về, lóng ngóng, GVMN cần tập luyện cho trẻ cơ bàn tay, sự phối hợp vận động
các ngón tay giúp đôi bàn tay linh hoạt, dẻo dai, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong việc
thực hiện các hành động với đồ vật một cách khéo léo, nhanh nhẹn và chuẩn xác hơn.
Cách thức thực hiện biện pháp:
- Sưu tầm các trò chơi với ngón tay; sử dụng các câu hát, lời thơ ngắn phối hợp với
động tác minh hoạ bằng đôi tay phù hợp khả năng của trẻ 18 – 24th (phụ lục 6). [13].
cho GVMN cách thức chơi với - Tập huấn
trẻ.
49
Hình 3.1. Hình vẽ minh hoạ trò chơi với ngón tay
3.2.4. Biện pháp 4: Tư vấn cho GVMN
Tư vấn cho GVMN một số nội dung:
- Sắp xếp tạo môi trường phù hợp trong việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều
kiện cho trẻ hoạt động với thế giới xung quanh một cách tích cực và hiệu quả.
- Soạn kế hoạch tổ chức hướng dẫn trẻ HĐVĐV trong giờ chơi – tập có chủ đích.
- Lựa chọn và tự làm một số đồ chơi cho trẻ HĐVĐV phù hợp với độ tuổi và khả
năng của trẻ và trong phạm vi có thể của GVMN làm đa dạng phong phú thêm các loại đồ
chơi giúp trẻ hứng thú hơn trong HĐVĐV. Chẳng hạn như: cách làm các loại đồ chơi xâu
hạt khác nhau về chất liệu; đồ chơi cài cúc áo; tận dụng các hộp giấy, lõi băng keo, lõi giấy
cho trẻ hoạt động xếp chồng, xếp cạnh; sử dụng mút xốp hay những món ăn kích thước nhỏ,
an toàn cho trẻ nhón, nhặt bằng 2 ngón tay; làm các bộ đồ chơi ghép hình bằng vải nỉ có gai
dính… (hình 3.3, hình 3.4, hình 3.5, hình 3.6)
Hình 3.6
3.2.5. Biện pháp 5: Tôn trọng và luôn đặt niềm tin vào khả năng của trẻ
Tôn trọng trẻ tức là coi trẻ là một con người độc lập, không bị người khác chỉ đạo, chi
phối. Khi trẻ làm điều gì đó có sai sót hoặc chưa hoàn thành, giáo viên cần thông cảm với
trẻ, tránh việc chê bai hay cấm đoán trẻ, yêu cầu trẻ được chơi cái này không được chơi đồ
chơi khác… Như vậy trẻ sẽ mất hứng thú dần dần mất đi lòng tự tin, vô tình đã gây trở ngại
đến sự phát triển tính độc lập và sự hứng thú trong hoạt động của trẻ.
50
Niềm tin là yếu tố đầu tiên giúp trẻ trở nên dạn dĩ. Đứa trẻ nếu không có niềm tin vào
chính bản thân mình sẽ khó khăn khi thực hiện những công việc vừa sức và càng dễ dàng bỏ
cuộc, không cố gắng khi gặp những việc vượt quá khả năng trẻ. Để phát triển lòng tự tin của
trẻ, GVMN cần đặt niềm tin của mình vào trẻ. Giáo viên cần có thái độ khích lệ, thừa nhận
trẻ. Nếu trẻ có việc làm chưa tốt chúng ta vẫn nên thừa nhận nguyện vọng tốt đẹp của trẻ.
Không mang trẻ ra so sánh lẫn nhau. Sự so sánh chỉ nên khi so sánh chính khả năng của trẻ
trước và sau khi trẻ có tiến bộ để khuyến khích, động viên trẻ cố gắng nỗ lực hơn. Khi trẻ
làm việc gì đó chưa được thành thạo cần thông cảm, để trẻ có cơ hội làm lại, nó sẽ tự nhiên
tiến bộ và lòng tự tin từng bước được xây dựng.
Giáo viên giữ thái độ tôn trọng và tin tưởng vào khả năng của trẻ chính là sự động
viên, khích lệ rất lớn đến trẻ, làm cho mối quan hệ giữa cô và trẻ thêm gần gũi thân thiết, tạo
nên bầu không khí an toàn, thoải mái. Từ đó, trẻ cởi mở, mạnh dạn, tự tin thử sức trong các
hoạt động.
Các biện pháp mà chúng tôi đề xuất nêu trên có mối quan hệ qua lại, tương hỗ, phụ
thuộc lẫn nhau. Biện pháp này là sơ sở, là điều kiện, là công cụ thực hiện biện pháp kia
và ngược lại.
3.3. Điều kiện thực hiện các biện pháp
3.3.1. Điều kiện đối với trẻ
- Có sức khoẻ tốt, ổn định.
- Hợp tác với giáo viên.
3.3.2. Điều kiện đối với giáo viên
- Có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định trong việc lên kế hoạch, tổ chức hướng
dẫn, rèn luyện cho trẻ HĐVĐV mọi lúc mọi nơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở
trường MN.
- Phối hợp tốt với phụ huynh trong việc CS – GD trẻ.
3.4. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm tiến hành nhằm kiểm nghiệm hiệu quả của các biện pháp đã đề
xuất nhằm phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th đã được đề xuất ở mục 3.2.
Nếu kết quả HĐVĐV của trẻ sau quá trình thực nghiệm cao hơn kết quả HĐVĐV của
trẻ trước khi thực nghiệm thì chứng tỏ các biện pháp chúng tôi đưa ra là phù hợp, hiệu quả
51
trong việc rèn luyện, phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Từ đó để thấy được
rằng giả thuyết khoa học chúng tôi đưa ra đã được kiểm định hiệu quả của nó.
Ngược lại, nếu sau quá trình thực nghiệm kết quả HĐVĐV của trẻ thấp hơn trước thì
chứng tỏ các biện pháp chúng tôi đưa ra là chưa phù hợp, không hiệu quả thì cần có sự thay
đổi để tìm ra các biện pháp khác hiệu quả hơn.
3.5. Nội dung thực nghiệm
Qua kết quả khảo sát thực trạng, trẻ hạn chế ở các nội dung HĐVĐV: Xâu hạt, cài cúc
áo, sử dụng chén muỗng trong giờ ăn, phân biệt vật có kích thước to – nhỏ, nhận biết màu
sắc. Vì vậy, chúng tôi tiến hành quá trình thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất và sử dụng
5 bài tập trẻ còn hạn chế làm nội dung đo trước và sau thực nghiệm.
3.6. Thời gian và địa điểm thực nghiệm
3.6.1. Thời gian thực nghiệm
Từ tháng 03/2013 – 05/2013. Thực nghiệm được tiến hành trong chế độ sinh hoạt hàng
ngày của trẻ ở trường MN. Đặc biệt trong thời điểm: hoạt động chơi – tập có chủ đích, chơi
tự do, giờ ăn của trẻ.
3.6.2. Địa điểm thực nghiệm:
Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở:
- Trường MN 12, số 7 Tăng Bạt Hổ, P.12, Q.5 và trường MN Hoa Hồng, số 687 Kinh
Dương Vương, P. An Lạc, Quận Bình Tân.
- Mẫu thực nghiệm: 20 trẻ ở nhóm thực nghiệm (NTN) thuộc trường MN 12 và 20
trẻ ở nhóm đối chứng (NĐC) thuộc trường MN Hoa Hồng trong độ tuổi 18 – 24th.
3.7. Tiêu chí và thang đánh giá
- Đánh giá khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th, chúng tôi chia làm 3 tiêu chí: Khả năng
thực hiện hành động TLMTQ; Khả năng thực hiện hành động công cụ; Khả năng nhận biết,
phân biệt màu sắc (màu đỏ, xanh dương) và kích thước (to hơn/ nhỏ hơn) của đồ vật (Phụ lục
5).
- Thang đánh giá xếp loại như sau:
TỔNG ĐIỂM ( x ) LOẠI
52
Tốt A 6 ≤ x ≤ 7.5
Khá B 5.25 ≤ x < 6
Trung bình C 3.75 ≤ x < 5.25
Yếu D x < 3.75
3.8. Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
Thực nghiệm được tiến hành gồm 3 giai đoạn: Đo trước thực nghiệm, tiến hành thực
nghiệm và đo sau thực nghiệm.
3.8.1. Đo trước thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành đo đầu trước thực nghiệm trên tổng số trẻ của cả hai nhóm: NTN và
NĐC. Bài tập đo được sử dụng gồm 5 bài tập:
- Bài tập 1: Xâu hạt
- Bài tập 2: Sử dụng chén, muỗng
- Bài tập 3: Cài cúc áo
- Bài tập 4: Phân biệt 2 vật có kích thước to hơn – nhỏ hơn
- Bài tập 5: Nhận biết, phân biệt màu sắc
Sau khi đo đầu trước thực nghiệm, trẻ ở cả hai nhóm đều có mức độ phát triển tương
đương nhau.
3.8.2. Tổ chức thực nghiệm
3.8.2.1. Chuẩn bị:
Trao đổi, thống nhất với GVMN: cách thức thực hiện và đánh giá; các nội dung thực
nghiệm; trang bị và lựa chọn các đồ dùng, đồ chơi; thời điểm thực hiện; lập kế hoạch hoạt
động áp dụng các biện pháp.
3.8.2.2. Tiến hành
Trong thời gian thực nghiệm, NĐC ở trường MN khác và giáo viên phụ trách NĐC
không được thông tin về vấn đề thực nghiệm nên hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các
biện pháp chúng tôi thực nghiệm trên NTN.
Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi và giáo viên phụ trách thực nghiệm quan sát,
ghi chép lại những thay đổi, sự tiến bộ của trẻ ở từng hoạt động theo từng bài tập của các
tiêu chí.
53
3.8.3. Đo sau thực nghiệm
Sau thời gian thực nghiệm, chúng tôi sử dụng quá trình đo cuối thực nghiệm ở cả hai nhóm:
NTN và NĐC, nhằm kiểm tra kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ và kiểm nghiệm hiệu quả áp
dụng các biện pháp thực nghiệm. Điểm kết quả được tính bằng điểm tổng của 5 bài tập đo. Bài
tập đo và thang đánh giá cuối thực nghiệm được tiến hành như đo đầu thực nghiệm.
Sau khi đo cuối thực nghiệm, chúng tôi xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 nhằm
kiểm tra, đánh giá và so sánh kết quả HĐVĐV giữa hai nhóm trước và sau thực nghiệm để
đưa ra kết luận cuối cùng về hiệu quả của những biện pháp mà chúng tôi đề xuất nhằm nâng cao khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th.
3.9. Phân tích kết quả thực nghiệm
3.9.1. Phân tích định lượng
Cách đọc kết quả xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0
N: số lượng; Mean: giá trị TB; MEAN: Điểm TB chung; Std. Deviation: độ lệch
chuẩn; Sig.(2-tailed): giá trị kiểm định sự khác biệt có ý nghĩa thống kê; Frequency: tần
xuất; Percent: phần trăm (%); Histogram: biểu đồ thống kê; Independent Samples test:
kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai mẫu độc lập; Paired samples test: kiểm định
giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể phụ thuộc hay phối hợp từng cặp.
3.9.1.1. Kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NTN và NĐC Bảng 3.1 cho chúng tôi nhận xét sơ lược về kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 –
24th của NTN và NĐC trước và sau thực nghiệm như sau:
Nhìn chung kết quả đo trước thực nghiệm về khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC ở hầu
hết các bài tập đều có giá trị trung bình (mean) cao hơn NTN. Riêng bài tập 4, kết quả ở
NTN (mean = 0.51) cao hơn NĐC (mean = 0.48). Sau quá trình thực nghiệm các biện pháp
chúng tôi đưa ra, kết quả thu được ở NTN được nâng cao đáng kể, giá trị trung bình ở các
bài tập đều vượt lên cao hơn NĐC.
Bảng 3.1. Kết quả đo trước và sau thực nghiệm của NTN và NĐC
NTN
NĐC
Sau TN
Sau TN
Cao
TB
BT1
Thấp
Các nhóm Giá trị
Trước TN % N 10 2 20 4 70 14
N 5 10 5
% 25 50 25
Trước TN % N 10 2 30 6 60 12
N 2 6 12
% 10 30 60
54
Mean
0.65
0.99
0.70
0.71
Cao
Điểm
TB
BT2
Thấp
1 6 3
5 30 65
4 11 5
20 55 25
5 8 7
25 40 35
5 9 6
25 45 30
Mean
0.65
0.86
0.84
0.83
Cao
TB
BT3
Thấp
0 0 20
0 0 100
0 8 12
0 40 60
0 1 19
0 5 95
0 1 19
0 5 95
Mean
0.19
0.69
0.26
0.31
Cao
TB
BT4
Thấp
1 4 15
5 20 75
7 8 5
35 30 35
2 2 16
10 10 80
1 4 15
5 20 75
Mean
0.51
1.04
0.48
0.49
Cao
TB
BT5
Thấp
1 3 16
5 15 80
6 8 6
30 40 30
1 6 13
5 30 65
1 5 14
5 25 70
0.51
0.96
0.53
0.53
Xếp loại
0 0 3 17
0 0 15 85
1 5 11 3
5 25 55 15
0 2 2 16
0 10 10 80
1 1 2 16
5 5 10 80
Mean A B C D Điểm tổng
2.51
4.56
2.80
2.86
0.91
0.79
1.21
1.24
Std. Deviation
Tiếp theo sau là những phân tích cụ thể về kết quả thực nghiệm một số biện pháp phát
triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th
3.9.1.2. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm của NTN và NĐC
• Kết quả các bài tập của hai nhóm trước thực nghiệm
Bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 cho thấy trước thực nghiệm khả năng thực hiện các bài tập, có
4 bài tập NĐC thực hiện đạt kết quả cao hơn. Chỉ riêng bài tập 4, kết quả đạt được ở NTN
cao hơn NĐC. Tuy nhiên, nhìn chung mức chênh lệch giữa mean của các bài tập là không
đáng kể. Mức độ đạt được ở cả hai nhóm đều ở mức độ trung bình và yếu.
55
0,84
0,7
0,65
0,65
0,51
0,51
0,53
0,48
0,26
0,19
0,9 0,8 0,7 0,6 0,5 0,4 0,3 0,2 0,1 0
BT 1
BT 2
BT 3
BT 4
BT 5
Điểm TB Nhóm TN
Điểm TB Nhóm ĐC
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh giá trị trung bình thực hiện các bài tập
của NĐC và NTN trước thực nghiệm
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ phân tán điểm số của NTN và NĐC trước thực nghiệm
• Sự phân tán điểm số của hai nhóm trước thực nghiệm
Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram 3.2 về sự phân tán điểm số của hai nhóm trước
thực nghiệm, có thể thấy rằng: ở cả hai nhóm các thanh biểu đồ không đồng đều, cách rất xa
đường cong chuẩn, đặc biệt là ở NTN và đường cong chuẩn nghiêng về phía trái. Chứng tỏ ở cả 2
nhóm, sự phân tán điểm số không đều. Điểm số không xoay quanh giá trị trung bình và điểm số
đạt loại yếu chiếm đa số.
• Kết quả xếp loại của hai nhóm trước thực nghiệm
Nhìn vào bảng 3.2, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ ở
NĐC cao hơn NTN. Không có trẻ nào đạt loại B ở NTN trong khi đó ở NĐC tỷ lệ trẻ đạt
loại B là 10%. Tỷ lệ trẻ đạt loại D ở NTN cao hơn NĐC 5%.
56
Xét về điểm số, mức độ và kết quả xếp loại ở NĐC và NTN chúng tôi đều thấy kết
quả ở NĐC cao hơn NTN nhưng không đáng kể. Để có kết luận chuẩn xác hơn về khả
năng HĐVĐV của trẻ ở cả hai nhóm trước thực nghiệm chúng tôi thực hiện thêm t – test
(Paired – Sample T test).
Bảng 3.2. So sánh kết quả xếp loại của NTN và NĐC trước thực nghiệm
NTN NĐC Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
0 0 3 17 0.0 0.0 15.0 85.0 0 2 2 16 0.0 10.0 10.0 80.0 A B C D
20 100.0 20 100 Tổng
• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV
của trẻ 18 – 24th giữa NTN và NĐC trước thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa
NTN và NĐC trước thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:
Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy rằng kết quả thực hiện các bài tập, tổng điểm và kết quả xếp
loại về khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC và NTN trước thực nghiệm là không có sự chênh lệch
vì giá trị Sig. (2-tailed) ở các kết quả kiểm định đó lần lượt là: 0.59; 0.07; 0.21; 0.76; 0.92; 0.44
và 0.42 đều > 0.05. Điều đó chứng tỏ rằng, không có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết
quả khả năng HĐVĐV giữa NĐC và NTN trước thực nghiệm.
Có thể nhận định rằng, trước thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập HĐVĐV của
NĐC và NTN là tương tự như nhau, không có sự chênh lệch kết quả giữa hai nhóm. Như
vậy, mức độ chênh lệch kết quả khả năng HĐVĐV giữa NĐC và NTN trước thực nghiệm là
không có độ tin cậy.
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa
kết quả HĐVĐV của NĐC và NTN trước thực nghiệm.
Mean
Kết quả kiểm định
Nội dung
Sig. (2tailed)
NTN NĐC
0.65
0.7
Bài tập
BT1
0.59
57
0.65 0.19 0.51 0.51
0.84 0.26 0.48 0.53
BT2 BT3 BT4 BT5
0.07 0.21 0.76 0.92
2.51
2.80
0.44
Tổng điểm
0.42
Xếp loại
3.9.1.3. So sánh sánh kết quả đo sau thực nghiệm của NTN và NĐC • Kết quả thực hiện các bài tập của hai nhóm sau thực nghiệm
Biểu đồ 3.3 cho thấy rằng, sau thực nghiệm khả năng thực hiện các bài tập giữa
trẻ ở hai nhóm đã có sự khác biệt rõ rệt, kết quả thực hiện các bài tập của NTN cao
hơn nhiều so với kết quả của NĐC sau thực nghiệm, cụ thể:
- Bài tập 1: NĐC đạt 0.71 và NTN đạt 0.99, điểm chênh lệch là: 0.28 điểm.
- Bài tập 2: NĐC đạt 0.83 và NTN đạt 0.86. điểm chênh lệch là: 0.03 điểm
- Bài tập 3: NĐC đạt 0.31 và NTN đạt 0.69, điểm chênh lệch là: 0.38 điểm.
- Bài tập 4: NĐC đạt 0.49 và NTN đạt 1.04, điểm chênh lệch là: 0.55 điểm.
- Bài tập 5: NĐC đạt 0.53 và NTN đạt 0.96, điểm chênh lệch là: 0.43 điểm.
Mean
1,04
1,20
0,99
0,96
0,86
1,00
0,83
0.71
0,69
0,80
0,53
0,49
0,60
0,31
0,40
0,20
0,00
BT 1
BT 2
BT 3
BT 4
BT 5
Nhóm TN
Nhóm ĐC
- Điểm trung bình (MEAN): NĐC đạt 2.86; NTN đạt: 4.56, điểm chênh lệch là 1.70 điểm.
Biểu đồ 3.3. So sánh giá trị trung bình thực hiện các bài tập
• Sự phân tán điểm số của hai nhóm sau thực nghiệm
của NĐC và NTN sau thực nghiệm
58
Biểu đồ 3.4. Sự phân tán điểm số của NTN và NĐC sau thực nghiệm
Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram về sự phân tán điểm số của hai nhóm sau thực
nghiệm, có thể thấy rằng: Sau thực nghiệm, NTN điểm từ 4 đến 4.5 là mức điểm có số trẻ nhiều
nhất đạt được còn NĐC có tỉ lệ số trẻ đạt ở mức điểm 1.75 là cao nhất tiếp đến là mức từ 2.5 đến
2.75. Điểm số cao nhất ở NTN đạt được là 6 và thấp nhất là 3.25; còn ở NTN điểm cao nhất là 6
và thấp nhất là 1.5.
Đường cong thể hiện sự phân tán điểm số của NĐC nghiêng về phía trái và các thanh nằm
cách rất xa đường cong và các thanh không liên tục, chứng tỏ rằng điểm số thấp hơn giá trị trung
bình chiếm tỷ lệ cao và phân bố điểm chưa chuẩn. Cho nên, kết quả đạt được của trẻ ở NĐC
vẫn chưa có độ tin cậy cao sau thực nghiệm. Còn ở NTN, đường cong thể hiện sự cân
xứng hơn, các thanh của biểu đồ mặc dù vẫn chưa thực sự đều nhau nhưng nằm gọn, liên
tục và khoảng cách không quá xa so với đường cong chuẩn như ở NĐC. Điều này cho thấy
rằng, sự phân tán điểm sau thực nghiệm của NTN đã đạt mức chuẩn hơn NĐC. Chính vì
vậy, kết quả đạt được của trẻ ở NTN có độ tin cậy cao.
• Kết quả xếp loại của trẻ ở hai nhóm sau thực nghiệm
Nhìn vào bảng trên, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ ở
cả hai nhóm NĐC và NTN sau thực nghiệm có sự khác biệt rõ rệt. Sau thực nghiệm, NĐC
có tỉ lệ trẻ xếp loại D nhiều nhất (80%), trong khi ở NTN chỉ có 3 trẻ xếp loại D (15%).
NTN có tỉ lệ số trẻ xếp loại B, C nhiều hơn hẳn so với NĐC.
Như vậy, sau thực nghiệm giữa hai nhóm có sự khác biệt rõ rệt về kết quả xếp loại. Nếu
như tỉ lệ xếp loại của trẻ ở cả hai nhóm trước thực nghiệm là tương đương nhau thì sau thực
nghiệm tỉ lệ xếp loại của trẻ NTN ở các loại A, B, C đã tăng nhiều hơn so với tỉ lệ xếp các loại
này ở NĐC. Ở NTN, số trẻ đạt loại yếu (D) chỉ còn 3 trẻ (15%) và thay vào đó là đa số trẻ đạt loại
trung bình (C) và khá (B). Trong khi đó, NĐC sau thực nghiệm đa số trẻ vẫn xếp loại Yếu (D).
Bảng 3.4. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC và NTN sau thực nghiệm.
NTN NĐC Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
1 5 5.0 10.0 1 1 5.0 5.0 A B
11 55.0 2 10.0 C
59
3 15.0 16 80.0 D
20 100.0 20 100 Tổng
• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV
của trẻ 18 – 24th giữa NTN và NĐC sau thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa
NTN và NĐC sau thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:
Bảng 3.5 cho thấy kết quả kiểm định mức độ chênh lệch ý nghĩa về kết quả HĐVĐV
giữa hai nhóm như sau:
- Bài tập 1 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.020 < 0.05 - Bài tập 2 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.735 > 0.05 - Bài tập 3 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Bài tập 4 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Bài tập 5 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Tổng điểm có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Xếp loại có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.009 < 0.05. Như vậy, với kết quả kiểm định ở các bài tập 1, 3, 4, 5, tổng điểm và kết quả xếp loại đều có giá trị kiểm định Sig.(2-tailed) < 0.05. Điều này chứng tỏ rằng, có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết quả HĐVĐV giữa hai nhóm sau thực nghiệm.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa
NTN và NĐC sau thực nghiêm có độ tin cậy cao.
Bảng 3.5. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa
kết quả HĐVĐV của NĐC và NTN sau thực nghiệm.
Mean
Kết quả kiểm định
NTN NĐC
Sig. (2tailed)
Nội dung
0.99
0.71
0.020
BT1
0.86
0.83
0.735
BT2
0.69
0.31
0.000
BT3
Bài tập
1.04
0.49
0.000
BT4
0.99
0.53
0.005
BT5
4.56
2.86
0.000
Tổng điểm
0.009
Xếp loại
60
3.9.1.4. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NTN
• Kết quả thực hiện các bài tập NTN trước và sau thực nghiệm
Từ bảng (kết quả chung trước và sau TN), chúng tôi có biểu đồ so sánh mức độ thực hiện các
tiêu chí của NTN trước và sau TN như sau:
Biểu đồ 3.5 cho thấy mức độ thực hiện các bài tập của trẻ NTN trước và sau thực
nghiệm có sự chênh lệch đáng kể. Mức độ cao và mức độ trung bình của các bài tập trước
thực nghiệm chiếm tỷ lệ rất thấp và sau thực nghiệm tăng lên rõ rệt:
- Bài tập 1: Từ 10% tăng lên 25%
- Bài tập 2: Từ 5% tăng lên 20%
- Bài tập 4: Từ 5% tăng lên 35%
- Bài tập 5: Từ 5% tăng lên 30%
Mức độ cao:
- Bài tập 1: Từ 20% tăng lên 50%
- Bài tập 2: Từ 30% tăng lên 55%
- Bài tập 3: Từ 0% tăng lên 40%
- Bài tập 4: Từ 20% tăng lên 40%
- Bài tập 5: Từ 15% tăng lên 40%
Mức độ trung bình:
Mức độ thấp giảm đi đáng kể sau thực nghiệm.
Như vậy, sau thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập HĐVĐV của trẻ NTN đã nâng
cao rõ rệt, có sự chênh lệch đáng kể về kết quả trước và sau thực nghiệm.
%
100
80
75
70
65
60
55
50
40
40
40
35
30
30
30
25
25
25
25
20
20
20
15
10
5
5
5
0
0
0
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Sau TN
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Trước TN
TN
TN
TN
TN
BT1
BT2
BT3
BT4
BT5
Cao
Trung bình
Thấp
61
Biểu đồ 3.5. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của NTN trước và sau thực nghiệm
• Sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm
Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram về sự phân tán điểm TB của NTN trước và sau
thực nghiệm, có thể thấy rằng: trước thực nghiệm, NTN có tỉ lệ số trẻ đạt ở mức điểm dưới 2
5x≤ < là mức điểm có tỉ lệ trẻ nhiều nhất đạt
điểm là nhiều nhất, còn sau thực nghiệm điểm 4
được (x: điểm số). Điểm cao nhất ở NTN trước thực nghiệm đạt được là 4.5 và thấp nhất là 1.5;
còn sau thực nghiệm điểm cao nhất là 6 và thấp nhất là 3.25.
Đường cong thể hiện sự phân tán điểm số và cả về tỷ lệ giữa các điểm số. Điểm số của
NTN trước thực nghiệm không có sự cân xứng, các thanh của biểu đồ nằm cách rất xa trong
đường cong chuẩn và không liên tục sự phân tán điểm số trước thực nghiệm xung quanh
điểm trung bình 2.51 so với sau thực nghiệm sung quanh điểm trung bình 4.56 là thấp hơn.
Từ đó cho ta một bằng chứng rằng NTN trước thực nghiệm phân phối điểm số chưa chuẩn,
sự phân phối điểm của NTN sau thực nghiệm đã đạt mức chuẩn hơn trước trước thực
nghiệm. Chính vì vậy, kết quả HĐVĐV của trẻ ở NTN sau thực nghiệm có độ tin cậy cao
hơn trước thực nghiệm.
Biểu đồ 3.6. So sánh sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm
• Kết quả xếp loại của trẻ NTN trước và sau thực nghiệm
Nhìn vào bảng 3.6 và biểu đồ 3.7, chúng tôi thấy kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV
của trẻ NTN trước và sau thực nghiệm có sự khác biệt lớn. Sau thực nghiệm, tỉ lệ trẻ xếp
loại A, B, C tăng rõ rệt và tỷ lệ trẻ xếp loại D giảm đi đáng kể.
Trong 20 trẻ NTN sau thực nghiệm, có 17 trẻ thay đổi kết quả xếp loại khả năng
HĐVĐV, đó là vượt lên một hoặc hai bậc so với trước thực nghiệm. Trong đó có 4 trường
hợp tiến bộ rõ rệt mà chúng tôi chú ý đặc biệt đó là:
62
- Bé Quỳnh Như trước thực nghiệm xếp loại C, sau thực nghiệm là loại A. Bé Phúc
Nguyên trước thực nghiệm xếp loại D, sau thực nghiệm là loại B. Trong đó, bài tập 3 (cài
cúc áo) cả hai bé ban đầu đạt mức độ thấp, sau thực nghiệm đạt mức độ cao.
- Bé Uyên Nhi, Phúc Nguyên xếp loại sau thực nghiệm từ loại D tăng lên loại B. Các
bài tập sau thực nghiệm đều tăng lên từ mức độ thấp lên trung bình hoặc từ trung bình lên
mức độ cao. Với bài tập 5 bé Phúc Nguyên ban đầu khi hỏi màu sắc của các đồ chơi bé đều
nói màu tím, sau thực nhiệm bé đều phân biệt được hai màu đỏ và xanh dương.
63
Bảng 3.6. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NTN trước và sau thực nghiệm.
Trước TN Sau TN Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
0 0.0 5.0 1 A
0 3 0.0 15.0 25.0 55.0 5 11 B C
17 85.0 15.0 3 D
20 100.0 100 20 Tổng
%
100
85
80
55
60
40
25
15
15
20
5
0
0
0
B
A
C
D
Sau TN
Trước TN
Biểu đồ 3.7. So sánh kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NTN
trước và sau thực nghiệm
• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của trẻ 18
– 24th NTN trước và sau thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa
NTN và NĐC sau thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:
Qua kết quả kiểm nghiệm t–test (Paired Samples test) đã được tóm tắt ở bảng 4.12
cho thấy trung bình về điểm trước và sau thực nghiệm của NTN lần lượt là 2.51 và 4.56.
Điểm chênh lệch là: 4.56 – 2.52 = 2.04 điểm.
Giá trị độ lệch chuẩn ở NTN trước và sau thực nghiệm có sự khác biệt: độ lệch chuẩn của
trước thực nghiệm là 0.91 và sau thực nghiệm là 0.79. Như vậy, NTN có độ chênh lệch điểm
sau thực nghiệm ít hơn trước thực nghiệm.
Kết quả kiểm định mức độ chênh lệch ý nghĩa về kết quả HĐVĐV của trẻ NTN trước
và sau thực nghiệm ở các bài tập, tổng điểm và xếp loại thì Sig.(2-tailed) đều nhỏ hơn 0.05.
Điều này chứng tỏ rằng, có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết quả HĐVĐV của
64
NTN trước và sau thực nghiệm.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở NTN
trước và sau thực nghiêm có độ tin cậy cao. Bảng 3.7. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của
NTN trước và sau thực nghiệm.
Mean
Kết quả kiểm định
Trước TN Sau TN
Nội dung
Sig. (2tailed)
0.99
0.65
BT1
0.000
0.86
0.65
BT2
0.000
0.69
0.19
BT3
Bài tập
0.009
1.04
0.51
BT4
0.000
0.99
0.51
BT5
0.000
4.56
2.51
Tổng điểm
0.000
0.79
0.91
Std. Deviation
Xếp loại
0.000
3.9.1.4. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NĐC
• Kết quả thực hiện các bài tập NĐC trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ 3.8 cho thấy mức độ thực hiện các bài tập của trẻ NĐC trước và sau thực
nghiệm có chênh lệch, cụ thể:
- Bài tập 1 và 3 ổn định.
- Bài tập 2: Mức độ cao ổn định; Mức độ trung bình tăng từ 40% lên 45%; Mức độ
thấp giảm từ 40% còn 30%.
- Bài tập 4: Mức độ cao giảm từ 10% còn 5%; Mức độ trung bình tăng từ 10 lên 25%;
Mức độ thấp giảm từ 80% còn 70%.
- Bài tập 5: Mức độ cao ổn định; Mức độ trung bình giảm từ 30% còn 25%; Mức độ
thấp tăng từ 65% lên 70%.
65
95
95
80
70
70
65
60
60
45
40
35
30
30
30
30
25
25
25
25
10
10
10
10
5
5
5
5
5
0
0
% 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Sau TN
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Sau TN Trước
Trước TN
TN
TN
TN
TN
BT1
BT2
BT3
BT4
BT5
Cao
Trung bình
Thấp
Biểu đồ 3.8. So sánh mức độ thực hiện các bài tập NĐC trước và sau thực nghiệm
Sau thực nghiệm, số trẻ đạt ở mức độ cao vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp và mức độ thấp của
các bài tập ít thay đổi, chiếm tỷ lệ khá cao. Thậm chí ở bài tập 5, sau thực nghiệm tỷ lệ trẻ ở
mức thấp cao hơn trước thực nghiệm 5%.
Như vậy, sau thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập về HĐVĐV của trẻ NĐC
không có sự thay đổi rõ rệt về kết quả trước và sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.9. Biểu đồ so sánh sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm.
• Sự phân tán điểm số của NĐC trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ histogram 3.9 cho thấy điểm số cao nhất trước thực nghiệm là cận 6 và thấp
nhất là cận 2, điểm số cận 2 chiếm nhiều nhất. Điểm số chiếm đa số sau thực nghiệm là cận
2 và cận 3. Đường cong chuẩn biểu thị sự phân tán điểm số của NĐC trước và sau thực
nghiệm đều nghiêng về bên trái, các thanh nằm cách xa đường cong chuẩn và không liên
tục. Điều này có thể nhận định rằng: sự phân tán điểm số NĐC trước và sau thực nghiệm
66
chưa chuẩn và thấp so với giá trị trung bình. Chính vì vậy, kết quả HĐVĐV của trẻ ở NĐC
sau thực nghiệm không có sự thay đổi, không có sự chênh lệch đáng kể nên chưa có độ
tin cậy cao.
• Kết quả xếp loại của trẻ NĐC trước và sau thực nghiệm
Bảng 3.8. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.
Trước TN Sau TN Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
0 2 0.0 10.0 1 1 5.0 5.0 A B
2 16 10.0 80.0 2 16 10.0 80.0 C D
N
20
16
16
15
10
5
2
2
2
1
1
0
0
A
B
C
D
Sau TN
Trước TN
20 100.0 20 100 Tổng
Biểu đồ 3.10. So sánh kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC
trước và sau thực nghiệm
Nhìn vào bảng 3.8 và biểu đồ 3.10, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng
HĐVĐV của trẻ NĐC trước và sau thực nghiệm không có sự khác biệt đáng kể. Sau thực
nghiệm, tỉ lệ trẻ xếp loại A có tăng nhưng rất ít, tỷ lệ tăng loại A do giảm từ loại B. Số trẻ
xếp loại C và D không thay đổi.
• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của trẻ 18
– 24th NĐC trước và sau thực nghiệm
Bảng 3.9. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa
kết quả HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.
67
Mean
Kết quả kiểm định
Trước TN Sau TN
Nội dung
Sig. (2tailed)
0.71
0.70
BT1
0.330
0.83
0.84
BT2
0.330
0.31
0.26
BT3
Bài tập
0.042
0.49
0.48
BT4
0.666
0.53
0.53
BT5
1.000
2.86
2.80
Tổng điểm
0.096
1.24
1.21
Std. Deviation
Xếp loại
0.577
Bảng 3.9 cho thấy rằng kết quả thực hiện các bài tập, tổng điểm và kết quả xếp loại về
khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC trước và sau TN không có sự chênh lệch vì giá trị Sig.(2-
tailed) ở các kết quả kiểm định ở bài tập 1, 2, 4, 5, lần lượt là: 0.330; 0.330; 0.666; 1.000.
Riêng bài tập 3 là 0.042 < 0.05. Tuy nhiên, tổng điểm và xếp loại cuối cùng lần lượt là
0.096 và 0.577 đều > 0.05. Điều đó chứng tỏ rằng, không có sự chênh lệch có ý nghĩa
thống kê về kết quả HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.
Tóm lại, khả năng HĐVĐV của NĐC trước và sau TN là tương tự như nhau, không có sự
chênh lệch có ý nghĩa thống kê. Có thể kết luận rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của
NĐC trước và sau thực nghiệm là không có độ tin cậy.
3.9.2. Phân tích định tính
3.9.2.1. Đánh giá kết quả thực nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV
của trẻ 18 – 24th
Việc thực nghiệm một số biện pháp nhằm phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th mà chúng tôi đã tiến hành bao gồm những biện pháp nhằm tác động đến quá trình trẻ
HĐVĐV trong giờ chơi – tập cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Từ đó, khả năng
HĐVĐV của trẻ được hình thành, rèn luyện, củng cố và phát triển. Các biện pháp tác động
đến thao tác thực hiện 2 loại hành động cơ bản của HĐVĐV là hành động TLMTQ, hành
động công cụ và khả năng nhận biết một số đặc điểm của đồ vật (màu sắc, kích thước).
Trước thực nghiệm, phần lớn trẻ vẫn chưa tự xúc ăn, chưa phân biệt rõ ràng vật nào to
hơn hay nhỏ hơn, thao tác xâu hạt còn vụng về, trẻ thực hiện các thao tác cần sự phối hợp
giữa hai tay còn lóng ngóng, đặc biệt hầu hết các trẻ chưa biết chơi cài cúc áo, khả năng tập
trung chú ý, kiên trì trong HĐVĐV còn rất hạn chế.
68
Sau thực nghiệm, phần lớn trẻ có thể tự xúc ăn, mặc dù một vài trẻ cách cầm muỗng
vẫn chưa thật chuẩn xác do cơ bàn tay của trẻ còn yếu. Khả năng nhận biết và phân biệt đặc
điểm đồ vật về màu sắc và kích thước nâng cao đáng kể, sự phối hợp giữa hai bàn tay (thực
hiện thao tác xâu hạt) trở nên linh hoạt, khéo léo hơn. Riêng nội dung cài cúc áo, trẻ có tiến
bộ tuy nhiên số trẻ thực hiện tốt vẫn chiếm tỉ lệ thấp. Chúng tôi nhận thấy, trò chơi này ở cả
hai NTN và NĐC từ trước đến khi chúng tôi khảo sát trẻ mới lần đầu tiên được chơi. Bên
cạnh đó nội dung này tương đối khó so với độ tuổi và trên thực tế quần áo của trẻ lứa tuổi
này ít khi cài cúc hoặc có cũng rất ít. Tuy nhiên, chúng tôi muốn đưa vào thử nghiệm để biết
được khả năng của trẻ có thể nâng cao ở giới hạn như thế nào để sau này tiếp tục có hướng nghiên cứu cho phù hợp với độ tuổi cũng như khả năng thực tế của trẻ 18 – 24th.
3.9.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thực nghiệm
• Chủ quan:
Khả năng, kinh nghiệm, sự nhiệt tình và kiên trì của nhà nghiên cứu trong việc
tìm hiểu thực trạng, đề xuất và thực nghiệm các biện pháp nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.
• Khách quan:
- Sự tạo điều kiện của Ban Giám Hiệu nhà trường, của giáo viên trong việc phối hợp
với nhà nghiên cứu để phát và thu phiếu điều ra, đưa ra những ý kiến về thực tế của nhà
trường cũng như tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào quá trình thực nghiệm.
- Sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh cũng góp phần tạo điều kiện về thời gian để con
của họ tham gia vào các NTN.
- Sự hợp tác hồn nhiên, ngây thơ và nhiệt tình của trẻ là yếu tố quyết định trong việc
đưa ra nội dung của nghiên cứu thực tiễn cũng như quyết định hiệu quả của quá trình thực
nghiệm các biện pháp đã đề xuất.
3.9.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực nghiệm
• Thuận lợi
- Trước và trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận được sự quan tâm sâu sắc
và sự giúp đỡ nhiệt tình của các giáo viên hướng dẫn, giảng viên trong và ngoài khoa, đồng
thời Ban giám hiệu, các giáo viên, phụ huynh tại địa bàn nghiên cứu cũng đã rất tạo điều
kiện thuận lợi cho chúng tôi trong việc phỏng vấn, quan sát, phát phiếu điều tra, quay phim,
chụp hình….
- Chúng tôi cũng đã nhận được sự hợp tác rất nhiệt tình và rất kiên trì của giáo viên
đứng lớp cũng như trẻ trong quá trình phát phiếu, trao đổi chuyên môn, thực nghiệm...
69
• Khó khăn
- Do các biện pháp chúng tôi đề xuất được thực nghiệm lần đầu ở địa bàn tại trường
MN thực nghiệm, thời gian nghiên cứu hạn chế nên chưa đi sâu hết các nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th và chỉ mới tác động đến GVMN và trẻ ở trường MN mà chưa thực hiện
và ở các trường MN trẻ được xếp vào nhóm 18 – 24th nhưng thực tế đến thời điểm chúng tôi thực hiện khảo sát và thực nghiệm số trẻ vượt ngoài 18 – 24th khá nhiều nên việc lựa chọn mẫu gặp nhiều khó
được công tác phối kết hợp với phụ huynh để rèn luyện cho trẻ tại gia đình. - Tiêu chí của chúng tôi là thực hiện trên trẻ ở giai đoạn 18 – 24th
khăn.
- Về biện pháp xây dựng môi trường đồ chơi, thực sự chúng tôi thực hiện chưa tới
cùng của biện pháp. Đa số chúng tôi chỉ bố trí, sắp xếp lại phòng cho ngăn nắp, gọn gàng.
Khả năng về kinh tế có hạn nên chỉ mua sắm, tự làm thêm một số đồ chơi và trang trí góc
lớp ở mức cho phép.
Chính vì những khó khăn trên, kết quả của công trình nghiên cứu chỉ đạt hiệu quả ở
mức tương đối, chưa cao.
Tiểu kết chương 3
HĐVĐV của trẻ bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau. Để cho tinh gọn, chúng tôi hệ thống lại
3 tiêu chí cơ bản cần khảo sát là thao tác thực hiện hành động TLMTQ, thao tác thực hiện hành động
công cụ và nhận biết, phân biệt màu sắc, kích thước của đồ vật. Qua khảo sát thực trạng, chúng tôi rút
ra những nội dung trẻ còn nhiều hạn chế và tác động các biện pháp để phát triển khả năng HĐVĐV
của trẻ. Kết quả thực nghiệm đã cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Trước thực nghiệm, khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở nhóm NTN và NĐC là tương
đối như nhau và chưa cao, chủ yếu xếp loại Yếu .
- Sau thực nghiệm, khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở nhóm NTN cao hơn hẳn so với
trước thực nghiệm và cao hơn so với NĐC, trong đó trẻ xếp loại Yếu còn lại rất ít loại
Trung bình và loại Khá nâng lên đáng kể và có cả trẻ xếp loại Tốt.
- Kết quả thực nghiệm khẳng định độ tin cậy, tính khả thi và hiệu quả của một số biện
pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th đã được đề xuất trong luận văn.
Như vậy, quá trình thực nghiệm đã được tiến hành nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả
của một số biện pháp đã đề xuất, đồng thời, kết quả thực nghiệm cũng đã chứng minh cho
giả thuyết khoa học đã đề ra.
70
71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về HĐVĐV của trẻ 18 – 24th, chúng tôi
rút ra một số nhận định:
- HĐVĐV là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với lứa tuổi ấu nhi và giai đoạn trẻ 18 – 24th là giai đoạn sơ khai do đó việc người lớn tổ chức hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV là thực sự cần thiết.
- HĐVĐV là hoạt động diễn ra không chỉ trong các giờ chơi – tập, chơi tự do mà còn
diễn ra trong các thời điểm khác nhau trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
- Việc tổ chức, hướng dẫn trẻ HĐVĐV không chỉ diễn ra ở trong phạm vi nhà trường,
là trách nhiệm của GVMN mà còn diễn ra ở mọi thời điểm trong cuộc sống hàng ngày của
trẻ ở gia đình và ngoài xã hội. Do đó, người lớn cần có sự hiểu biết nhất định để trẻ được
HĐVĐV một cách hiệu quả.
- Thực tiễn cho thấy: trẻ chưa có nhiều cơ hội để được hoạt động với đồ chơi và sử
dụng các đồ dùng trong sinh hoạt nhằm rèn luyện và phát huy tối đa khả năng của mình. Do
đó, khả năng HĐVĐV của trẻ còn nhiều hạn chế và chưa có điều kiên được nâng cao.
- Việc xây dựng hệ thống các biện pháp tác động đến quá trình tổ chức hướng dẫn trẻ
18 – 24th tham gia HĐVĐV là thực sự cần thiết.
Công trình nghiên cứu bước đầu đã thể hiện được tính ưu việt, tính hiệu quả của các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th bằng quá trình thực nghiệm sư phạm tác động các biện pháp đã đề xuất. Tuy nhiên, đây chỉ là những kết quả ban đầu và chỉ
thực nghiệm trong phạm vi nhỏ với số lượng trẻ ít, thời gian thực nghiệm chưa nhiều.
Chúng tôi mong muốn những nghiên cứu tiếp theo sẽ sử dụng kết quả của công trình nghiên
cứu này làm cơ sở để có thể đạt được độ tin cậy cao hơn trong các công trình nghiên cứu về sau.
2. Kiến nghị sư phạm Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về đề tài, chúng tôi xin đề xuất một số kiến
nghị như sau:
• Với các cấp quản lí GDMN:
- Cần chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ GVMN, nên thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn, báo cáo điển hình về lý luận cũng như các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.
- Xây dựng môi trường giáo dục tốt, tạo điều kiện về cơ sở vật chất (phòng học, đồ
72
dùng, đồ chơi…) để phát huy tối đa tính tích cực hoạt động của trẻ. Quan tâm hơn nữa đến công tác CS – GD trẻ lứa tuổi 18 – 24th nói riêng.
- Cần có những biện pháp, hình thức kiểm tra thiết thực, thường xuyên để kiểm soát
được hiệu quả của việc tổ chức hoạt động và rèn luyện để nâng cao khả năng HĐVĐV của
trẻ. Luôn tiếp cận kịp thời và ứng dụng phù hợp những điểm mới của chương trình GDMN.
• Với GVMN
- Cần phải tận dụng, khai thác các điều kiện vốn có nơi mình công tác, đặc biệt là
phòng ốc, đồ dùng, đồ chơi để bố trí sắp xếp sao cho trẻ có cơ hội được hoạt động với đồ
vật xung quanh trẻ.
- Trong sinh hoạt hàng ngày, để trẻ được HĐVĐV mọi lúc mọi nơi.
- Luôn tin tưởng vào khả năng của trẻ, tôn trọng trẻ - đó là bước tạo đà giúp trẻ tự tin
vào bản thân và tích cực tham gia vào các hoạt động.
• Phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường
- Cần tuyên truyền đến phụ huynh sự cần thiết của việc cho trẻ HĐVĐV đồng thời có
những tài liệu giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về HĐVĐV, cách lựa chọn đồ dùng đồ chơi,
cách thức chơi với trẻ như thế nào…
- Cần đảm bảo mối liên hệ mật thiết giữa phụ huynh - giáo viên - nhà trường trong
công tác hình thành, rèn luyện và phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TiếngViệt
1. Đào Thanh Âm (2007), Giáo dục học mầm non, tập II, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
2. Bộ GD&ĐT (2000), Chươngtrìnhchămsóc – giáodụctrẻ 3 – 36 thángtuổi,NxbGiáodục,
HàNội.
3. Bộ GD&ĐT (2012), Chương trình giáo dục mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Phạm Thị Châu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh (2008), Giáo dục học mầm non, Nxb
ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
5. Phạm Thị Mai Chi, Bùi Kim Tuyến, Lương Thị Bình, Phan Lan Anh (2005), Hướng
dẫn hoạt động cho trẻ 1 – 3 tuổi, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.
6. Cục bảo vệ - GD trẻ em (1990), Tài liệu nuôi dạy trẻ nhà trẻ Bromley – Heath, Lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
7. LêThịĐức, PhùngThịTường, NguyễnSinhThảo, (2005), Tròchơidànhchotrẻdưới 3 tuổi,
NxbGiáodục, Tp.HCM.
8. Phan Thị Minh Hà (2007), Thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24
tháng trong trường mầm non, Đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở, Trường
CĐSPMGTW3.
(1996), Tổchứcchotrẻvuichơi ở nhàtrẻ–mẫugiáo,Trường 9. NguyễnThịThanhHà
CĐSPMG TW3, Tp.HCM.
10. Nguyễn Thị Thanh Hà (2004), Những trò chơi giả bộ đầu tiên của trẻ nhỏ, Nxb Giáo
dục, Tp.HCM.
11. Nguyễn Thị Thanh Hà (2012), Tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ ở trường mầm non,
NxbGiáodục, Tp.HCM.
12. Phạm Minh Hạc (2003), Mộtsốcôngtrìnhtâmlýhọc A.N. Lêônchiép, NxbGiáodục,
Tp.HCM.
13. Hồ Lam Hồng (2005), Tròchơingóntay, NxbGiáodục, Tp.HCM.
14. Nguyễn Thị Thanh Hương (2006), Tuyển tập các bài viết về giáo dục mầm non, tập 2,
Nxb GD, Tp.HCM.
15. Jean Piaget – Barbel.Inhelder (2000), Tâm lý học trẻ em và ứng dụng tâm lý học Piaget
vào trường học, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
16. Kak – Hai – Nơ Dich (1999), Trẻ em và thế giới của chúng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74
17. Lee Jin Hee (2012), chuyên đề: “Chương trình GD trẻ em theo Montessori & thực tiễn
áp dụng tại Hàn Quốc”, Trường ĐHSP TPHCM, TP.HCM.
18. Maria Montessori (2008), Dạy con trước 3 tuổi, Nxb Lao động, Hà Nội.
19. Nguyễn Công Khanh (2009), Phát triển trí thông minh cho trẻ em từ 0 – 6 tuổi, Nxb
Giáo dục, Tp.HCM.
20. Đào Hoàng Mai, Trương Hồng Nga (2010), Thiết kế các hoạt động có chủ đích, hoạt
động góc và hoạt động ngoài trờichotrẻ 24 – 36 thángtuổi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Kim Ngân (2005), Một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ 24 – 36
tháng trong HĐVĐV, Luận văn thạc sỹ GDH, Trường ĐHSP Hà Nội, Tp.HCM.
22. Vũ Thị Ngân (2009), Giáo trình Tổ chức dạy học ở trường mầm non, NxbGiáo dục,
Tp.HCM.
23. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
24. Patricia H. Miler (2003), Cácthuyếtvềtâmlýhọcpháttriển,NxbVănhoá – Thông tin,
HàNội.
25. Huỳnh Văn Sơn (2011), Nhập môn tâm lý học phát triển, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.
26. Nguyễn Ánh Tuyết (1997), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội.
27. Nguyễn Ánh Tuyết, ĐàoThanhÂm, ĐinhVănVang(1998), Giáodụchọc, NxbGiáodục,
HàNội.
28. Đinh Văn Vang (2008), Giáo dục học mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Đinh Văn Vang (2009), Tổchứchoạtđộngvuichơichotrẻmầm non, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
30. V.X. Mukhina (1980), TâmlýhọcMẫugiáo, tập I, NxbGiáodục, HàNội.
Tiếng Anh
31. Fergus P.Hughes (1995), Children, play, development, USA.
32. Vicki B. Mulligan (1948), Children’s play – an Introduction for care providers, USA.
75