BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Mỹ Hà

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT

ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24THÁNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Mỹ Hà

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT

ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24THÁNG

Chuyênngành: Giáo dục học (Mầm non)

Mãsố: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

MỤC LỤC

MỤC LỤC .................................................................................................................... 1

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 4

2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 5

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 5

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 6

5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 6

6. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 6

7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................ 8

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................... 8

1.2. Hoạt động với đồ vật và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ ................... 10

1.2.1. Khái niệm hoạt động với đồ vật ............................................................................ 10

1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động với đồ vật ............................................... 11

1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với sự phát triển của trẻ ............................ 14

1.3. Nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ........................................................................ 17

1.3.1. Nội dung phát triển hành động thiết lập mối tương quan ..................................... 17

1.3.2.Nội dung phát triển hành động công cụ ................................................................. 18

1.3.3. Nội dung làm quen, nhận biết phân biệt kích thước, màu sắc, hình dạng của đồ vật – đồ chơi .................................................................................................................... 18

1.4. Hình thức tổ chức hướng dẫn cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV ..................... 18

1.4.1. Tổ chức hoạt động chơi – tập có chủ đích ............................................................ 19

1.4.2. Tổ chức hoạt động chơi – tập tự do trong phòng nhóm........................................ 19

1.4.3. Tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày ....................................................................... 20

1.5. Các biện pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ...................................... 20

1.5.1. Biện pháp là gì? .................................................................................................... 20

1.5.2. Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 tháng ............................ 20

1.6. Vai trò của môi trường đồ dùng, đồ chơi đối với HĐVĐV của trẻ ....................... 21

1.6.1. Kết cấu phòng/ nhóm lớp ...................................................................................... 21

1.6.2. Trang thiết bị ......................................................................................................... 22

1.6.3. Yêu cầu đối với đồ dùng, đồ chơi ......................................................................... 22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ 18 – 24TH Ở TRƯỜNG MN ............................................................................................. 24

1

2.1. Mục đích khảo sát thực trạng ................................................................................... 24

2.2. Đối tượng khảo sát ..................................................................................................... 24

2.3. Nội dung khảo sát ...................................................................................................... 24

2.4. Tiến trình khảo sát .................................................................................................... 24

2.5. Đánh giá thực trạng khảo sát ................................................................................... 26

2.5.1. Về phía GVMN ..................................................................................................... 26

2.5.2. Môi trường vật chất ở lớp học của trẻ................................................................... 32

2.5.3. Về phía gia đình .................................................................................................... 35 2.5.4. Thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ................................................... 38

2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ..................... 43

2.6.1. Từ phía gia đình: ................................................................................................... 43

2.6.2. Từ phía nhà trường ............................................................................................... 43

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CHO TRẺ 18 – 24TH ...................... 45

3.1. Cơ sở định hướng của việc đề xuất biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ....................................................................................................................... 45

3.2. Một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ....................... 45

3.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường đồ dùng – đồ chơi ........................................ 45

3.2.2. Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày ...... 48

3.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt cho đôi tay của trẻ ...................... 49

3.2.4. Biện pháp 4: Tư vấn cho GVMN .......................................................................... 50

3.2.5. Biện pháp 5: Tôn trọng và luôn đặt niềm tin vào khả năng của trẻ ...................... 50

3.3. Điều kiện thực hiện các biện pháp ........................................................................... 51

3.3.1. Điều kiện đối với trẻ ............................................................................................. 51

3.3.2. Điều kiện đối với giáo viên ................................................................................... 51

3.4. Mục đích thực nghiệm ............................................................................................... 51

3.5. Nội dung thực nghiệm ............................................................................................... 52

3.6. Thời gian và địa điểm thực nghiệm ......................................................................... 52

3.6.1. Thời gian thực nghiệm .......................................................................................... 52

3.6.2. Địa điểm thực nghiệm:.......................................................................................... 52

3.7. Tiêu chí và thang đánh giá ........................................................................................ 52

3.8. Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ...... 53

3.8.1. Đo trước thực nghiệm ........................................................................................... 53

3.8.2. Tổ chức thực nghiệm ............................................................................................ 53

3.8.3. Đo sau thực nghiệm .............................................................................................. 54

2

3.9. Phân tích kết quả thực nghiệm ................................................................................. 54

3.9.1. Phân tích định lượng ............................................................................................. 54

3.9.2. Phân tích định tính ................................................................................................ 68

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 74

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng mạnh. Kinh tế

tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Các nước

trên thế giới đều coi giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi

quốc gia. Ở Việt Nam, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại

Đại hội XI đã xác định: “Phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn lực chất lượng cao, tập

trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân” nhằm đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Giáo dục mầm non (GDMN) là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có

vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nhân

cách con người. Để phát triển, để nên người, đứa trẻ phải hoạt động để lĩnh hội kinh nghiệm

xã hội – lịch sử. Hoạt động không chỉ là nơi tâm lý con người được bộc lộ mà chính là cái

hình thành nên tâm lý của con người. Muốn phát triển tâm lý và hình thành nhân cách trẻ

em thì nhất thiết phải đưa chúng vào những hoạt động nhất định. Với vai trò là hoạt động

chủ đạo (HĐCĐ) của trẻ ấu nhi, hoạt động với đồ vật (HĐVĐV) chứa đựng những cơ hội

phát triển trẻ về mọi mặt mà nếu bỏ qua khi trẻ bước sang tuổi mẫu giáo sẽ không còn cơ

hội phát triển nhanh và mạnh nữa. Chính vì vậy, nhà giáo dục sử dụng HĐVĐV là phương

tiện để bước đầu hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ đáp ứng yêu cầu của

xã hội trong giai đoạn mới.

Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dưới góc độ sinh lý, tâm vận động, tâm lý xã

hội và những kết quả nghiên cứu về sự phát triển đặc biệt của não bộ trong 3 năm đầu tiên

của cuộc đời có tính quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ

trong tương lai. Các chuyên gia nghiên cứu về bộ não – hành vi – sự phát triển của trẻ gọi

đó là “Cửa sổ cơ hội” (Window of opportunity). Đây là giai đoạn cung cấp những kích thích

để tạo thành nhiều kết nối thần kinh trên não bộ giúp trẻ đạt được tiềm năng tối đa, đóng vai

trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển của trẻ cả về thể chất lẫn tinh thần, cũng như văn

hóa và nhận thức trong tương lai của trẻ. Phát huy tối đa “Cửa sổ cơ hội” cho trẻ chính là

giúp trẻ tiếp thu, học hỏi, phát huy hết tiềm năng của mình ngay từ bước khởi đầu quan

trọng này. Theo lý thuyết hoạt động tâm lý của A.N. Leonchev và Đ.B. Enconhin, mỗi giai

4

đoạn phát triển tâm lý trẻ em đặc trưng bởi một quan hệ nhất định của trẻ với thực tại, có

tính chất chủ đạo trong một giai đoạn nhất định – HĐCĐ [12], [23].

Thực tiễn cho thấy trẻ còn gặp khó khăn trong HĐVĐV có thể có nhiều nguyên nhân:

Ở gia đình, cha mẹ và người thân chưa hiểu hết vai trò của HĐVĐV. Thậm chí, nhiều bậc

cha mẹ không hiểu cụm từ “Hoạt động với đồ vật” thực chất là hoạt động như thế nào. Do

đó, người lớn chưa biết cách lựa chọn đồ chơi và chơi cùng trẻ. Bên cạnh đó, khả năng tự

chơi của trẻ còn hạn chế, giai đoạn này người lớn có thói quen quan tâm đến “nuôi” nhiều

hơn “dạy” do đó trẻ chưa có nhiều cơ hội tham gia HĐVĐV để đạt hiệu quả một cách tốt nhất. Ở trường mầm non (MN), HĐVĐV của trẻ 18 – 24 tháng (18 – 24th) được tổ chức

trong hai hình thức chơi – tập và chơi tự do. Hình thức dạy trẻ HĐVĐV trong sinh hoạt

hàng ngày chưa thực sự được chú trọng. Giáo viên cũng chưa quan tâm nhiều đến khâu sắp

xếp tạo môi trường đồ chơi nhằm khơi gợi ý tưởng cho trẻ. Bên cạnh đó, tài liệu hướng dẫn

nghiệp vụ cho giáo viên mầm non (GVMN) trong việc tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ có

đổi mới nhưng nhìn chung chỉ về mặt hình thức. Ở trường Sư phạm đào tạo GVMN, các tài

liệu nghiên cứu giảng dạy và học tập về vấn đề tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ phần lớn là tài liệu đã cũ, chưa có bổ sung cả về nội dung lẫn hình thức trong những năm gần đây [8]. HĐVĐV trong các tài liệu ít đề cập đến giai đoạn 18 – 24th. HĐVĐV thực tế diễn ra hàng

ngày và rất gần gũi đối với mỗi đứa trẻ dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, người

lớn chưa thực sự chú ý tận dụng cơ hội cho trẻ tham gia HĐVĐV.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thiết nghĩ nếu không tổ chức tốt HĐVĐV cho

trẻ trong thời điểm này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ về sau. Chính vì

vậy chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp phát triển khả năng hoạt động với đồ vật cho trẻ 18 – 24th”.

2. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất một số biện pháp giáo dục nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 –

24th.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan HĐVĐV. - Khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.

- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 –

24th.

5

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. - Khách thể nghiên cứu: Quá trình phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th ở

trường MN.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu nhà giáo dục sử dụng các biện pháp để tổ chức cho trẻ 18 – 24th tham gia

HĐVĐV một cách hợp lý sẽ phát triển tốt khả năng HĐVĐV của trẻ.

6. Giới hạn nghiên cứu

Thời gian hạn chế nên đề tài chúng tôi nghiên cứu về đặc điểm HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở 4 trường MN tại Tp. HCM: Trường MN 12 Quận 5; Trường MN Hoa Hồng Quận

Bình Tân; Trường MN 12 Quận Tân Bình; Trường MN Hươu sao Huyện Bình Chánh.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu lý luận về HĐVĐV và phương pháp tổ chức

HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th trong trường MN.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

- Quan sát trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường MN.

- Quan sát môi trường đồ dùng – đồ chơi dành cho trẻ trong lớp học.

7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến GVMN và cha mẹ của trẻ 18 – 24th để thu thập thông tin

về:

- Hiểu biết của họ về tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ.

- Các phương pháp – biện pháp, cách thức GVMN và cha mẹ tổ chức cho trẻ tham

gia HĐVĐV.

- Nội dung GVMN và cha mẹ của trẻ tổ chức cho trẻ HĐVĐV

- Khả năng HĐVĐV của trẻ trong hoạt động chơi – tập và trong sinh hoạt hàng ngày.

Khi xử lý bảng hỏi có những điều chưa rõ chúng tôi tiến hành phỏng vấn GVMN và

phụ huynh để làm rõ vấn đề trong phiếu thăm dò ý kiến.

6

7.2.3. Phương pháp thực nghiệm

- Thực nghiệm thăm dò: Khảo sát khả năng trẻ 18 – 24th thực hiện hành động thiết lập

mối tương quan (TLMTQ), hành động công cụ và khả năng nhận biết màu sắc, kích thước

của đồ vật.

- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực hiện các biện pháp nhằm phát triển khả năng

HĐVĐV đã xây dựng cho nhóm trẻ thực nghiệm.

7.3. Phương pháp thống kê số liệu

Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm xử lí số liệu một cách khách quan, khoa

học để có được kết quả nghiên cứu của luận văn.

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ngay từ năm đầu, trẻ sơ sinh đã bắt đầu thể hiện sự có mặt của mình bằng những hành

động tương tác với thế giới xung quanh. Cụ thể là chơi với đồ vật, đồ chơi là một trong

những cách thức thỏa mãn nhu cầu tích cực rõ ràng nhất ở trẻ nhỏ. Những trải nghiệm tích

cực mà trẻ có được khi hoạt động với đồ vật, đồ chơi có vị trí nổi bật cho đến năm lên ba.

Và những hoạt động đó gọi chung là HĐVĐV [14].

Ban đầu khi đứa trẻ có trong tay món đồ vật nào đó, trẻ sẽ thực hiện các hành động

như: quăng, gõ, đập, ném… và thích thú khi chúng tạo ra tiếng động, âm thanh, chuyển

động hay biến đổi hình dạng… Những hành động đó chưa nhằm vào mục đích khám phá

chức năng, phương thức sử dụng. Về sau, trẻ nhận ra trong mỗi đồ vật chứa đựng một chức

năng nhất định và phương thức sử dụng tương ứng [26].

Trong lịch sử nghiên cứu về tâm lý học phát triển có rất nhiều tác giả đề cập đến các

giai đoạn phát triển của con người, mỗi tác giả đứng trên những quan điểm khác nhau để

phân định thời kỳ lứa tuổi. Theo A.N.Leonchev (1903 – 1979) – nhà TLH Xô viết, hoạt

động của bản thân con người là yếu tố quyết định nhất trong việc hình thành và phát triển

tâm lý, nhân cách con người. HĐCĐ trong sự phát triển tâm lý trẻ em là đóng góp nổi bật

của A.N. Leonchiev trong các công trình nghiên cứu của ông. Tiếp tục phát triển quan điểm

của A.N. Leonchev là Đ.B. Econhin – người cộng sự và học trò của ông [23], [24], [25]. Từ

đó, ngành TLH phát triển mở ra thêm hướng nghiên cứu về sự phát triển tâm lý trẻ em cho

đến ngày nay. Mỗi giai đoạn lứa tuổi tương ứng với từng HĐCĐ và HĐCĐ của trẻ tuổi ấu

nhi như đã đề cập ở trên là HĐVĐV.

Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học – giáo dục học của Liên Xô luôn đề

cao vai trò của các loại hoạt động và HĐCĐ đối với sự phát triển nhân cách của trẻ em. Tiêu

biểu là A.N. Leonchev, V.X. Mukhina, P. G. Xamarukova … Trong các công trình nghiên

cứu của mình về tâm lý lứa tuổi, họ đều xem HĐVĐV là một trong những thành tựu quan

trọng nhất của tuổi nhà trẻ và là phương tiện hữu hiệu để hình thành và phát triển nhân cách

cho trẻ.

V.X. Mukhina trong các công trình nghiên cứu của mình đã làm rõ một số đặc điểm

của HĐVĐV, các giai đoạn phát triển trong mối liên hệ giữa hành động với đồ vật ở lứa tuổi

ấu nhi. Đặc biệt, những loại hành động với đồ vật được tác giả phân tích khá sâu sắc [30].

8

Trong Thuyết phát sinh nhận thức của Jean Piaget, cụ thể ở giai đoạn cảm giác – vận

động đã đề cập đến vai trò của những trải nghiệm thử và sai (Trial and error

experimentation) qua những hành vi tác động lên đồ vật để khám phá những tính chất, cấu

trúc của đồ vật, khám phá thế giới [15], [24].

Maria Montessori là một bác sỹ đồng thời là một nhà giáo dục người Ý. Bà cho rằng

giai đoạn 0 – 3 tuổi thực sự quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho cuộc đời mỗi đứa trẻ sau

này. Giai đoạn này trẻ được học trong môi trường có học cụ và hoạt động thiết kế phù hợp

với độ lớn, kích thước và khả năng của trẻ [17], [18]. Trẻ 0 – 6 tuổi là những nhà khám phá,

trải nghiệm bằng cảm giác (sensorial explorers). Trong thời kỳ này Montessori phân chia

thành 5 thời kỳ nhỏ. Trong đó, có 3 thời kỳ đáng chú ý: Thời kỳ phát cảm về cảm giác (2 – 24th), thời kỳ phát cảm về vận động và hành động (18th – 3 tuổi), thời kỳ phát cảm tri giác

các đồ vật nhỏ (2 – 3 tuổi). Phương pháp giáo dục của Montessori chú trọng đến môi trường

giáo dục (giáo cụ để trẻ hoạt động và giáo viên chuẩn bị môi trường). Như vậy, theo cách phân chia của Montessori trẻ từ 18th – 3 tuổi là thời kỳ phát cảm về cảm giác và đối tượng

trẻ hoạt động để phát triển là học cụ. Mặc dù không cùng quan điểm với các nhà TLH hoạt động, TLH hiện đại nhưng theo quan điểm của bà chúng tôi thấy rằng ở giai đoạn 18th – 3

tuổi hoạt động của trẻ thực chất là chú trọng tới việc cho trẻ HĐVĐV, đồ vật ở đây chính là

các bộ học cụ đặc thù của Montessori.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về HĐVĐV và tổ chức HĐVĐV thiên về nghiên cứu lý

luận như trong các tài liệu nghiên cứu giảng dạy và học tập theo chương trình đào tạo

GVMN của Bộ GD & ĐT cũng như giáo trình và tài liệu tham khảo của các trường đào tạo

chuyên ngành GDMN.

HĐVĐV ở trẻ ấu nhi đã được một số tác giả nghiên cứu trong các đề tài nghiên cứu

khoa học:

Năm 1997 trong công trình nghiên cứu của TS. Lê Thu Hương “Một số định hướng

đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc – giáo dục (CS – GD) trẻ trong trường

MN đầu thế kỉ XXI”. Công trình đã đưa ra một số định hướng đổi mới về mục tiêu, nội

dung, phương pháp CS – GD trẻ trong trường MN trong đó có định hướng đổi mới về nội

dung, phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ nhà trẻ [8].

Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Ngân năm 2005 “Một số biện pháp phát triển tính tự lực cho trẻ 24 – 36th trong HĐVĐV”, đề tài lấy HĐVĐV làm phương tiện để nghiên

cứu về phẩm chất đạo đức của trẻ [21].

9

Năm 2007, đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở của ThS. Phan Thị Minh Hà –

Trường CĐSPMG TW3 nghiên cứu về thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18

– 24 tháng trong trường MN [8]. Đề tài dừng lại ở khảo sát thực trạng phương pháp GVMN

tổ chức HĐVĐV trong trường MN và đưa ra một số kiến nghị. Trong đó, tác giả đưa ra kiến

nghị cần tổ chức nghiên cứu thực nghiệm phương pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV ở các nhóm

trẻ nhà trẻ trong các trường MN tại Tp. Hồ Chí Minh.

Chúng tôi nhận thấy những đề tài nghiên cứu về HĐVĐV ở trẻ nhà trẻ:

- Thứ nhất, các tác giả đề cập nhiều đến lý luận mang tính hàn lâm.

- Thứ hai, sử dụng HĐVĐV là phương tiện để nghiên cứu một năng lực hay phẩm

chất nào đó của trẻ.

- Thứ ba, nghiên cứu thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV của GVMN.

Sơ lược tình hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về HĐVĐV, chúng

tôi nhận thấy nghiên cứu về lý luận HĐVĐV được rất nhiều tác giả có tên tuổi từ trước đến

nay nghiên cứu. Qua đó, chúng tôi có điều kiện kế thừa những tư tưởng, thành tựu của các

công trình nghiên cứu trên. Việc nghiên cứu thực tiễn về khả năng trẻ nhà trẻ HĐVĐV ở Việt Nam mà cụ thể là nhóm trẻ 18 – 24th các đề tài nghiên cứu chưa đề cập đến nhiều. Bên

cạnh đó, các biện pháp để phát triển khả năng HĐVĐV cũng chưa tiến hành thực nghiệm để

có sự đối chứng làm bật lên tính hiệu quả khi sử dụng phương pháp – biện pháp tổ chức cho

trẻ tham gia HĐVĐV.

1.2. Hoạt động với đồ vật và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ

1.2.1. Khái niệm hoạt động với đồ vật

Thời kỳ hài nhi, trẻ thực hiện những hành động với đồ vật mang tính vu vơ. Bước sang

tuổi ấu nhi, đồ vật không chỉ là cái để chơi mà còn chứa đựng bên trong một chức năng

nhất định và phương thức sử dụng chúng. Qua quá trình trẻ hoạt động với đồ vật, trẻ lĩnh

hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội ẩn chứa bên trong các đồ vật. Hoạt động này của trẻ

được gọi là HĐVĐV [27].

Hay nói cách khác, HĐVĐV là quá trình trẻ tiếp xúc với đồ vật – đồ chơi trong cuộc

sống hàng ngày và qua đó trẻ lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội được củng

cố vào trong các đồ vật [8]

Xét theo góc độ tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV (GVMN đóng vai trò chủ thể), các

nhà GD đưa ra khái niệm về HĐVĐV [5]:

10

Tổ chức HĐVĐV là quá trình cô giáo tổ chức cho trẻ tiếp xúc và thao tác với đồ vật,

đồ chơi nhằm giúp trẻ nắm được tên gọi, đặc điểm, công dụng và cách sử dụng chúng, qua

đó giúp trẻ hiểu biết được thế giới xung quanh và kinh nghiệm sống của con người.

HĐVĐV là một trong những hoạt động cơ bản của trẻ ở trường MN và đó là HĐCĐ

của trẻ lứa tuổi ấu nhi. Những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người ẩn chứa trong các

đồ vật, đồ chơi mà trẻ tiếp xúc dần dần được bộc lộ trong quá trình trẻ hoạt động với chúng.

Như vậy, HĐVĐV của trẻ diễn ra bằng 2 con đường:

- Con đường tự nhiên (tự phát), là khi trẻ thoả mãn nhu cầu hoạt động của mình bằng

cách tự chơi với đồ vật, đồ chơi xung quanh trẻ sau nhiều lần trẻ dần dần tích luỹ được kiến

thức, kinh nghiệm. Bằng con đường này trẻ rút ra bài học không phải dễ dàng và nhanh

chóng. Đôi khi trẻ hoạt động nhiều lần nhưng không thể đạt đến kết quả đúng.

- Con đường có tác động của giáo dục (tự giác), là khi trẻ HĐVĐV dưới sự tổ chức,

hướng dẫn của người lớn. Bằng con đường tự giác, dưới tác động của giáo dục đứa trẻ sẽ rút

ngắn được thời gian để nhanh chóng chiếm lĩnh kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người.

Trong các tài liệu hầu như chỉ đề cập đến những thao tác, hành động, tầm quan trọng

khi trẻ tiếp xúc với đồ vật và qua đó trẻ tiếp thu được kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài

người chứ chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về HĐVĐV.

Theo chúng tôi HĐVĐV là quá trình trẻ thao tác với đồ vật qua đó trẻ lĩnh hội được

đặc điểm, chức năng, phương thức sử dụng chúng bằng con đường tự phát và tự giác.

1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động với đồ vật

Thứ nhất, thông qua HĐVĐV của trẻ lần đầu tiên những chức năng của đồ vật

được mở ra trước mắt trẻ. Chức năng của đồ vật là những tính chất được ẩn giấu bên trong

bản thân mỗi đồ vật và không phải chỉ bằng những thao tác đơn giản mà trẻ phát hiện được

ngay. Chẳng hạn như: qua nhiều lần trẻ cầm nắm, ném hay gõ… cái ca. Tuy nhiên, bằng

cách đó trẻ vẫn chưa thể biết được chức năng của cái ca mà thông qua người lớn bằng cách

này hay cách khác (dùng ca đựng nước cho trẻ uống, trẻ nhìn thấy người lớn uống nước

bằng ca hay người lớn chỉ cho trẻ lấy ca cho búp bê uống nước…) giúp trẻ khám phá xem

chúng được dùng để làm gì và làm như thế nào [26].

Thứ hai, việc đứa trẻ nắm được chức năng của đồ vật mang tính đặc trưng của con

người. Điều này hoàn toàn khác với sự bắt chước của loài vật ở chỗ trẻ nắm được chức

năng cố định của đồ vật được xã hội quy định và không thay đổi theo thời gian. Nghĩa là ở

giai đoạn này, trẻ hiểu được và sử dụng đồ vật đúng theo chức năng của nó và khi sử dụng

11

khác chức năng đứa trẻ vẫn biết chức năng đích thực của đồ vật đó là gì. Ví dụ trẻ dùng cái

gối làm em bé, thậm chí cùng là cái chén nhưng trẻ biết cái nào dùng để chơi cho búp bê ăn

và cái nào dùng để đựng thức ăn thật cho mình.

Trong quá trình lĩnh hội những hành động với đồ dùng – vật dụng trong sinh hoạt hàng

ngày trẻ đồng thời nắm bắt được các quy tắc hành vi trong xã hội. Vì vậy, lúc trẻ hờn dỗi

người lớn trẻ có thể ném bỏ đồ dùng của chúng đang cầm chẳng hạn như làm vỡ cái chén,

cái ly hay làm đổ thức ăn… chúng tỏ ra khá sợ hãi, lo lắng bị người lớn trách phạt vì chúng

biết mình đã phạm phải quy tắc sử dụng đồ vật.

Quá trình phát triển vận động của trẻ hoàn thiện dần từ thấp đến cao: “ba tháng lẫy –

bảy tháng bò – chín tháng lò dò biết đi”. Song song với quá trình phát triển vận động là quá

trình phát triển hành động với đồ vật. Hành động với đồ vật bắt đầu xuất hiện ở cuối tháng

thứ 3, khi trẻ có hành động chộp lấy những vật trong tầm tay trẻ. Trong suốt thời kỳ hài nhi,

trẻ cầm nắm và thao tác với đồ vật như: rung lắc, quăng, gõ, đập, ném… Trẻ tỏ ra thích thú

khi những đồ vật chuyển động, thay đổi hình dạng hay phát ra âm thanh và những thao tác

đơn giản với đồ vật như thế nhiều tài liệu gọi là “hành động khám phá”. HĐVĐV chỉ mang

tính ngẫu nhiên.

Sang tuổi ấu nhi, sự tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng rộng thì phương thức

hành động với đồ vật cũng càng phong phú. Điển hình là trẻ đã tự mình tiến đến những nơi

mình muốn đến để tự mình với lấy được những thứ mà trẻ có nhu cầu trong tầm tay của trẻ.

Lúc này HĐVĐV là hoạt động mang tính khám phá, trước hết là chức năng và phương thức

sử dụng.

• Hành động thiết lập các mối tương quan

Hành động thiết lập mối tương quan (TLMTQ) là hành động mà trong đó đặt hai hay

nhiều đối tượng (hoặc các bộ phận của đồ vật) vào những mối tương quan nhất định trong

không gian để tạo thành một chỉnh thể nào đó [28].

Một khái niệm khác về hành động TLMTQ: là những hành động mà mục đích của

chúng là đưa hai hay nhiều đồ vật (hoặc các bộ phận của chúng) vào trong mối tương quan

nhất định về không gian [14]. Ví dụ: hành động lồng hộp, đóng mở nắp hộp, chồng tháp,

xâu hạt … (hình 1.1)

12

Hình 1.1

Ở tuổi hài nhi, trẻ đã bắt đầu thực hiện những hành động với hai đồ vật như lồng hộp,

xếp chồng,… Song khi thực hiện những thao tác của hành động này, trẻ chưa hướng chú ý

đến đặc tính của đồ vật, chẳng hạn như không xếp theo sự tương xứng về kích thước hay

hình dạng… Sang tuổi ấu nhi trẻ có sự thay đổi về chất, cụ thể trẻ phải lựa chọn xem hình

nào tương ứng để có thể thả lọt vào hộp, lồng hộp thì phải lồng hộp nhỏ nhất vào trong hộp

nhỏ hơn hay trẻ chơi xếp chồng tháp, trẻ phải lựa chọn khối to nhất để dưới cùng và nhỏ dần

về phía ngọn tháp…

Thực hiện được hành động TLMTQ đối với trẻ là cả một quá trình, từ chỗ hành động

lung tung cho đến khi xếp chúng vào một trình tự nào đó trong không gian, quá trình đó có

thể chia làm 3 giai đoạn [27, tr.199-200]:

Giai đoạn 1: Hành động TLMTQ thực hiện theo phương thức thử và sai, kết quả đạt

tới một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn như tình cờ đứa trẻ lật úp đồ chơi lồng hộp, hộp to bên

dưới rồi để hộp nhỏ lên trên giống cái tháp, trẻ thích thú và thực hiện lại. Tuy nhiên, có thể

lần sau trẻ không có kết quả ngay như lần đầu vì do ngẫu nhiên mà lần đầu có kết quả như

vậy. Lần sau có thể trẻ úp hộp to lên hộp nhỏ thế là quay lại như chơi lồng hộp, kết quả

không có được cái tháp. Sau nhiều lần thử làm đi làm lại trẻ mới làm được.

Giai đoạn 2: Trẻ hành động theo một ý định nảy sinh trong đầu do nhìn thấy một đồ

vật nào đó mà trẻ đã nhìn thấy và thích thú hoặc do gợi ý của người lớn

Giai đoạn 3: Trẻ thực hiện lặp đi lặp lại hành động đã thực hiện thành công ở giai

đoạn 2 đến chán mới thôi, có khi trẻ lại bỏ dở hành động để bắt tay vào hành động khác.

• Hành động công cụ

Hành động công cụ là hành động sử dụng công cụ do con người tạo ra làm phương

tiện để tác động lên một đối tượng nhất định nhằm tạo ra một kết quả [28].

Hành động công cụ bao gồm hành động sử dụng các đồ dùng trong sinh hoạt hàng

ngày như: bát, đũa, dao, kéo, sách, bút, cài cúc áo, bấm mở công tắc quạt, tivi… và hành

động sử dụng công cụ trong lao động sản xuất như: cày, bừa, cuốc, hoạt động với máy

13

móc… Tất cả những thứ đó đều là phương tiện hoạt động của con người, nhưng đối với trẻ

em không phải không phải tất cả những công cụ đó trẻ đều có thể hành động để sử dụng

chúng được.

Hành động công cụ được tổ chức cho trẻ trước hết là hướng dẫn trẻ biết sử dụng những

vật dụng đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn như việc cầm thìa xúc cơm, cởi và

mặc quần áo, kéo khóa cặp, mang giày dép… đến việc sử dụng các đồ dùng đơn giản trong

gia đình như bật công tắc quạt, bấm nút tắt mở tivi, đóng mở khóa cửa… Ngoài ra còn có

những vật dụng khi muốn sử dụng hành động phải phức tạp hơn nữa thậm chí có thể gây

nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, người ta đã chế tạo ra những đồ chơi mô phỏng lại những

đồ vật thật để trẻ sử dụng và được an toàn.

Quá trình hình thành và phát triển hành động công cụ từ chưa biết đến biết sử dụng

một công cụ nào đó ở trẻ là một quá trình luyện tập khá phức tạp, được hình thành 3 giai

đoạn [27, tr.197-198]:

Giai đoạn 1: Trẻ đã nắm được công cụ nhưng khi hành động trẻ chưa chú ý đến công

cụ mà chỉ chú ý đến đối tượng. Chẳng hạn như khi trẻ cầm thìa xúc cơm, trẻ không chú ý

đến cầm thìa sao cho đúng mà chỉ chú ý đến cơm trong chén, thế là trẻ cứ múc, xới cơm làm

vung vãi. Hành động như thế chưa được xem là hành động công cụ, chỉ là hành động bằng

tay.

Giai đoạn 2: Trẻ đã chú ý đến mối quan hệ giữa công cụ và đối tượng. Trẻ cố điều

chỉnh tay cầm sao cho phù hợp. Trẻ phải thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần mới đi đến thành

công.

Giai đoạn 3: Bàn tay đã thích nghi được với cấu tạo của công cụ. Lúc này ở trẻ đã

xuất hiện hành động công cụ đích thực và sẽ dần hoàn thiện theo thời gian.

1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với sự phát triển của trẻ

1.2.3.1. HĐVĐV đảm bảo cho cuộc sống, sự sinh tồn của trẻ.

Đồ vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hoá nhân cách trẻ. Đồ vật

bao quanh trẻ từ khi trẻ sinh ra và trẻ sẽ thao tác với chúng suốt cuộc đời. Trong HĐVĐV

trẻ tiếp thu được kinh nghiệm tích luỹ hàng ngàn năm của loài người đã được vật chất hoá

trong đồ vật [14].

HĐVĐV đảm bảo cuộc sống của trẻ, giúp trẻ thích nghi với cuộc sống xã hội mới ngay

từ khi trẻ chào đời. Đây là chức năng đảm bảo sự sinh tồn và chức năng này còn tiếp tục

mãi trong tương lai.

14

Trẻ lớn lên sẽ dần nhận biết được các đồ vật, học được cách thao tác với đồ vật, cách

định hướng trong thế giới đồ vật. Thông qua đó trẻ nhận biết được rất nhiều đặc tính, tính

chất của thế giới xung quanh. Làm cho trẻ có cảm giác làm chủ, cảm giác tự tin, bình tĩnh

và ham muốn nhận thức. Như vậy, bằng việc HĐVĐV đã dẫn dắt trẻ có nhiều “thông tin”

về thế giới xung quanh, làm phong phú kinh nghiệm xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển

toàn diện của trẻ.

1.2.3.2. HĐVĐV là phương tiện giúp trẻ phát triển trí tuệ Theo Giáo sư Makoto Shichida, tốc độ phát triển não bộ của trẻ đến 3 tuổi đã hoàn

chỉnh 60%. Trước 3 tuổi là giai đoạn thích hợp hình thành và rèn luyện các vận động

tinh cho trẻ. Bằng những vận động từ đôi tay sẽ kích hoạt để tăng cường sự phát triển của

các tế bào thần kinh não. Như vậy, HĐVĐV là con đường trực tiếp dẫn đến sự phát triển trí

não cho trẻ.

Quá trình trẻ tiếp xúc, HĐVĐV bằng con đường tự nhiên hay dưới sự tác động giáo

dục của người lớn sẽ dần giúp trẻ tích luỹ vốn tri thức về thế giới đồ vật xung quanh. Cụ thể

là hình thành ở trẻ các biểu tượng, khái niệm về: tên gọi, màu sắc, hình dạng, kích thước,

âm thanh … ; nắm được công dụng, cách thức sử dụng đồ vật và tiếp nhận được những quy

tắc hành vi xã hội gắn liền với những đồ vật đó.

Thông qua quá trình HĐVĐV, trẻ có cơ hội phát triển các quá trình nhận thức, năng

lực nhận thức và các phẩm chất về trí tuệ. Từ quá trình nhận thức cảm tính: trẻ bị ấn tượng

mạnh mẽ và cuốn hút vào những món đồ dùng – đồ chơi có màu sắc rực rỡ, tươi sáng, âm

thanh, hình dạng phong phú… chúng hấp dẫn trẻ kích thích ở trẻ sự tò mò, thôi thúc trẻ tiến

đến hoạt động để khám phá. Nhờ đó, các cơ quan cảm giác của trẻ có điều kiện phát triển.

Là cơ sở để dần hoàn thiện quá trình cảm giác – tri giác ở trẻ. Tiếp đến quá trình nhận thức

lý tính cũng dần hình thành và phát triển. HĐVĐV ban đầu bằng con đường tự nhiên trẻ

thực hiện các hành động theo phương thức thử và sai, sau nhiều lần trẻ phát hiện ra cái quy

luật khi thực hiện tức là trẻ đã rút ra được kinh nghiệm sau các lần hoạt động. Trẻ phát triển

các năng lực quan sát, so sánh, phân biệt đồ vật này với đồ vật khác, biết khái quát những

đồ vật giống nhau cùng nhóm, biết sử dụng lặp lại hành động trên đồ vật này sang đồ vật

khác… Qua đó tư duy được hình thành và phát triển, ngôn ngữ của trẻ dần hoàn thiện [1],

[4], [28].

1.2.3.3.HĐVĐV có vai trò quan trọng giúp trẻ hoàn thiện về thể lực

HĐVĐV còn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển vận động, đặc biệt là sự khéo léo,

linh hoạt của bàn tay và ngón tay của trẻ. Từ chỗ trẻ cầm nắm đồ vật nằng cả bàn tay rất

15

vụng về trong năm đầu đến chỗ trẻ thao tác với đồ vật một cách khéo léo, linh hoạt. Chẳng

hạn như nhặt vật nhỏ bằng 2 ngón tay, xâu hột hạt, xỏ dây giày, đóng mở nắp chai, lắp ghép

hình… Có thể nói HĐVĐV là con đường cơ bản để rèn luyện sự khéo léo, tinh tế của các

ngón tay và đôi bàn tay, giúp trẻ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa tay và mắt.

Trẻ cần vận động của để lấy được món đồ chơi trẻ thích, phải cố gắng trườn, nhoài

người, bò hay chạy tới lấy đồ vật… giúp cho các cơ quan vận động phát triển, trẻ định

hướng tốt trong không gian.

HĐVĐV kích thích trẻ tích cực vận động mà không thấy mệt mỏi, thoả mãn nhu cầu

vận động của cơ thể, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ thể lực của trẻ.

1.2.3.4. HĐVĐV là phương tiện hình thành một số phẩm chất tốt đẹp ở trẻ

Quá trình trẻ HĐVĐV trẻ dần nhận ra mình có ảnh hưởng đến chúng: làm chúng thay

đổi hình dạng, phát ra âm thanh, chuyển động, sử dụng chúng đúng chức năng như dùng

thìa xúc cơm, lấy lược chải đầu… làm cho trẻ thực sự thích thú và càng tích cực hoạt động

với chúng. Qua đó trẻ tự ý thức được khả năng của bản thân, trẻ tự tin vào bản thân. Đó là

yếu tố rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.

Trẻ thực hiện các hành động công cụ trong khi chơi với đồ chơi mô phỏng (thìa, chén,

ly…), tiếp đến trẻ biết sử dụng những công cụ thật để phục vụ cho nhu cầu của bản thân:

cầm thìa tự xúc ăn, tự cầm lược chải đầu, tự cầm ly uống nước… Như vậy, tính tự lực ở trẻ

có cơ hội hình thành.

HĐVĐV trẻ lĩnh hội những quy tắc hành vi trong xã hội, đó chính là việc trẻ biết giữ

gìn, nâng niu các món đồ chơi, bảo quản đồ dùng, vật dụng – Thái độ này sẽ dần hình thành

trong quá trình hoạt động dưới sự hướng dẫn của người lớn; Giáo dục trẻ cần biết khi cất đặt

đồ dùng đồ chơi sau khi chơi xong một cách gọn gàng ngăn nắp. Bên cạnh đó, việc trẻ

HĐVĐV luôn đòi hỏi ở trẻ sự nỗ lực, sự kiên trì quyết tâm thực hiện công việc đến cùng, đó

cũng là những đức tính quý báu rất cần thiết trau dồi, rèn luyện cho trẻ ngay từ thuở nhỏ.

1.2.3.5. HĐVĐV là cơ hội để hình thành và phát triển cảm xúc thẫm mỹ, khả

năng sáng tạo ở trẻ

Đồ chơi, đồ dùng đặc biệt hấp dẫn trẻ ở màu sắc rực rỡ, hài hoà; hoa văn hình ảnh sống

động, vui tươi; âm thanh vui tai; hình thù ngộ nghĩnh, đáng yêu … Kích thích sự chú ý của

trẻ. Qua đó khơi gợi ở trẻ hứng thú với cuộc sống xung quanh, tác động tích cực đến cảm

xúc thẫm mỹ, hình thành thị hiếu thẩm mỹ. Bên cạnh đó, khi chơi với đồ chơi, đồ vật trẻ

phát triển trí tưởng tượng, kích thích khả năng sáng tạo non nớt. Ban đầu chỉ là việc trẻ lặp

đi lặp lại các hành động để được một “tác phẩm” và tình cờ trẻ thực hiện với hành động

16

khác đi sẽ được một “tác phẩm” mới điều đó làm trẻ thích thú và hứng khởi tạo thêm nhiều

cái mới lạ khác, chẳng hạn như: hàng rào, cái cổng, cái ghế… Hay với một món đồ vật lúc

này có thể chơi đúng chức năng nhưng lúc khác lại có thể với chức năng khác ở một trò chơi

mới.

1.2.3.6. HĐVĐV là nền tảng của các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo Trẻ HĐVĐV ban đầu là những hành động nghịch với đồ vật, tiếp đến trẻ lĩnh hội

được cách thức hành động với đồ vật. Càng tiếp xúc nhiều với mọi người và thế giới đồ vật

xung quanh, trẻ học được ngày càng nhiều hơn cách sử dụng đồ chơi, đồ dùng theo chức

năng mà xã hội quy ước và đem những hành động đó vào trò chơi của mình. Từ đó, xuất

hiện những trò chơi khác trước đây – những trò chơi thôi thúc bởi việc thực hiện các hành

động nhằm mục đích mà trẻ tưởng tượng, lúc này không đơn thuần là những hành động

công cụ nữa mà là mô phỏng lại sự việc nào đó có nội dung. HĐVĐV là tiền đề của loại trò

chơi giả bộ và trò chơi này phát triển mạnh, là trung tâm trong các trò chơi ở lứa tuổi mẫu

giáo [9], [10], [29].

Những trò chơi xây dựng của trẻ mẫu giáo cũng được phát triển trên nền tảng HĐVĐV

ở lứa tuổi nhà trẻ. Từ các hành động xếp chồng, xếp cạnh… theo chủ đề đơn giản ở trẻ nhà

trẻ như: ngôi nhà, cái chuồng, đường đi, đoàn tàu… sẽ phát triển lên những mô hình phức

tạp hơn ở giai đoạn mẫu giáo thành các “công trình xây dựng” như: trường học, khu dân cư,

ngã tư đường phố, bệnh viện, sở thú, khu vui chơi…

1.3. Nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

Căn cứ vào “Chương trình giáo dục mầm non” (2009) của Bộ GD&ĐT [3], chúng tôi

tổng hợp các nội dung hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV như sau:

1.3.1. Nội dung phát triển hành động thiết lập mối tương quan

- Đóng – mở nắp có ren

- Xếp chồng 4 – 5 khối vuông

- Xếp chồng 2 – 3 khối trụ

- Xếp cạnh nhau các khối gỗ

- Xếp 1,2 hình khối lên nhau tạo hình theo chủ đề

- Tháo lắp lồng 3 – 4 hộp

- Xâu hạt có lỗ rộng

- Xâu 5 – 6 vòng vào que

17

- Tháo lắp 5 – 6 vòng vào giá gỗ

Những nội dung trên chủ yếu được tổ chức hướng dẫn cho trẻ trong giờ chơi – tập có

chủ đích.

1.3.2.Nội dung phát triển hành động công cụ

Nội dung HĐVĐV nhằm phát triển hành động công cụ cho trẻ chủ yếu được thực hiện

dưới hình thức giờ chơi tự do và trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Qua đó giúp

trẻ hiểu được chức năng công cụ, biết được tên gọi, cách sử dụng đồ dùng, vật dụng đơn

giản, gần gũi thường dùng trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.

Giờ chơi tự do:

- Chơi các trò chơi hình thành cho trẻ cách sử dụng các đồ chơi: bát, thìa, cốc, chén…

- Chơi xỏ dây giày, cài cúc áo

- Mở sách giấy dày

Trong sinh hoạt hàng ngày:

- Học cách để đồ dùng cá nhân, đồ chơi đúng chỗ quy định

- Tập tự đút ăn bằng muỗng, tự cầm ly uống nước.

- Tập mang giày dép.

- Tập kéo dây kéo balo.

- Tập cài cúc áo.

- Tập thói quen tự phục vụ: tự cởi quần áo, tự đi bô, …

1.3.3. Nội dung làm quen, nhận biết phân biệt kích thước, màu sắc, hình dạng của

đồ vật – đồ chơi

- Nhận biết, gọi tên đồ dùng – đồ chơi màu xanh (xanh dương), màu đỏ.

- Nhận biết, gọi tên đồ dùng – đồ chơi có kích thước to – nhỏ.

- Nhận biết, gọi tên đồ vật – đồ chơi khối tròn, khối vuông.

1.4. Hình thức tổ chức hướng dẫn cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV

Tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV với các nội dung trên, trong các tài liệu có liên

quan đều trình bày dưới hai hình thức chơi tập: chơi – tập có chủ đích và chơi – tập tự do

trong phòng nhóm [1], [4], [28].

18

1.4.1. Tổ chức hoạt động chơi – tập có chủ đích

Chơi – tập có chủ đích là hoạt động kết hợp yếu tố vui chơi với luyện tập có kế hoạch

dưới sự hướng dẫn của GVMN nhằm phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ

năng xã hội và những yếu tố ban đầu về thẩm mỹ.

Chơi – tập có chủ đích là hình thức chơi tập thường xuyên được tổ chức vào buổi sáng

(sau giờ ăn sáng). Giáo viên giới thiệu đến trẻ các nội dung mới hoặc tập luyện những nội

dung trẻ đã biết. Thời gian khoảng 10 – 12 phút. Mỗi giáo viên phụ trách một nhóm trẻ. Số

trẻ trong mỗi nhóm phụ thuộc vào tổng số giáo viên và số trẻ trong lớp (6 – 8 trẻ là phù

hợp). Mỗi giờ chơi – tập, trẻ được chơi một nội dung cụ thể được ấn định bởi chương trình

GDMN. Trình tự các nội dung chơi – tập được sắp xếp theo lịch dạy và giáo viên lên kế

hoạch cụ thể trong kế hoạch tháng, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày. Giờ chơi – tập có chủ

đích ở lứa tuổi nhà trẻ được xem như một giờ hoạt động học nói chung của trẻ ở trường

MN. Giờ chơi – tập có chủ đích được tổ chức theo các bước chung như sau:

• Bước 1: Ổn định, gây hứng thú, giới thiệu nội dung.

• Bước 2: GVMN hướng dẫn mẫu. Hướng dẫn từng thao tác một cách chậm rãi, kết

hợp lời giải thích rõ ràng ngắn gọn, dễ hiểu. Số lần làm mẫu phụ thuộc vào mức độ

khó hay dễ của nội dung chơi, khả năng tiếp nhận của trẻ.

• Bước 3: Tổ chức cho trẻ chơi – tập. Là bước trọng tâm, cần dành nhiều thời gian

(2/3 tổng số thời gian chơi – tập)

• Bước 4: Kết thúc

1.4.2. Tổ chức hoạt động chơi – tập tự do trong phòng nhóm

Chơi – tập tự do được tiến hành vào buổi sáng sau giờ chơi – tập có chủ đích và vào

giờ chơi – tập vào buổi chiều. Hình thức này giúp trẻ củng cố, ôn luyện những nội dung đã

tiến hành ở giờ chơi – tập có chủ đích. Hình thức chơi – tập tự do không bắt buộc, gò bó về

nội dung. Trẻ được quyền hoạt động với nội dung nào trẻ thích. Mỗi buổi chơi giáo viên có

thể hướng dẫn 3 – 4 nội dung, tùy thuộc vào số trẻ. Nội dung chơi – tập tự do là những nội

dung trẻ đã được chơi – tập rồi. Thời gian cho mỗi lần chơi kéo dài 15 – 20 phút, tùy thuộc

vào hứng thú của trẻ.

Mặc dù là chơi – tập tự do, tuy nhiên giờ chơi vẫn được tiến hành theo cấu trúc chung

như sau:

19

• Bước 1: Ổn định trẻ, giới thiệu đồ chơi bày sẵn ở các góc, gợi ý trẻ chọn nội dung

chơi – tập trẻ thích.

• Bước 2: Tổ chức hướng dẫn trẻ chơi – tập. Đây là bước trọng tâm cần dành nhiều

thời gian (khoảng 4/5 giờ chơi – tập). Mỗi giáo viên phụ trách một nhóm chơi. Đồ dùng, đồ

chơi phải đảm bảo đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu hoạt động của trẻ. Tạo điều kiện để trẻ

chơi hứng thú. Nếu trẻ tỏ ra chán với nội dung trẻ đang chơi giáo viên có thể cho trẻ chuyển

sang nội dung chơi – tập khác.

• Bước 3: Kết thúc

1.4.3. Tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày

Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, thực chất bao gồm rất nhiều nội dung HĐVĐV.

Chính vì vậy, GVMN cần chú ý và khéo léo chọn những nội dung phù hợp với lứa tuổi và

khả năng của trẻ để tổ chức cho trẻ thực hiện, giúp trẻ có thêm nhiều cơ hội được hoạt động

với đồ dùng – vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Cách thức tổ chức cho trẻ

HĐVĐV trong sinh hoạt hàng ngày diễn ra với những công việc hết sức bình thường trong

ngày giữa cô và trẻ. Chẳng hạn như tập cho trẻ có thói quen: bỏ đồ chơi vào hộp, để giày

dép lên kệ, nhặt thức ăn rơi vãi, tự cầm muỗng xúc ăn, bỏ chén bát vào sọt khi ăn xong,

mang giày dép khi ra sân chơi, …

1.5. Các biện pháp hướng dẫn trẻ HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th

1.5.1. Biện pháp là gì?

Thông thường biện pháp được hiểu là cách thức thực hiện, cách làm, cách giải quyết

một vấn đề nào đó đặt ra.

Trong giáo dục, biện pháp là những thành tố cụ thể của phương pháp, là mặt kỹ thuật

của phương pháp. Biện pháp là một khái niệm thuộc phạm trù phương pháp. Phương pháp

dạy học hướng đến giải quyết trọn vẹn, toàn thể những nhiệm vụ còn biện pháp hướng đến

giải quyết những nhiệm vụ đơn lẻ, cụ thể [22].

1.5.2. Biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 tháng

Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ chúng ta có thể bắt gặp trẻ thao tác với

đồ dùng, đồ chơi ở mọi thời điểm. Vì vậy, hướng đến phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ

là hướng đến cả một quá trình hình thành, rèn luyện cho trẻ xuyên suốt trong đời sống của

trẻ chứ không riêng gì trong các buổi chơi – tập.

20

Như vậy, biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV là cách làm, cách tác động, cách thức tổ chức cuộc sống sinh hoạt của trẻ 18 – 24th một cách có định hướng của GVMN

nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ.

Để phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th, trước hết chúng tôi xin hệ thống lại

các biện pháp thông dụng khi hướng dẫn trẻ HĐVĐV như sau:

- Làm mẫu

- Dùng lời nói chỉ dẫn

- Cầm tay hướng dẫn

- Chơi cùng trẻ

- Đơn giản hóa hành động

- Sử dụng trò chơi

- Sử dụng đồ chơi

- Tạo tình huống

Tuỳ theo từng loại giờ, từng nội dung hoạt động và từng thời điểm tổ chức cho trẻ

HĐVĐV, giáo viên cần linh hoạt, uyển chuyển trong việc lựa chọn cách thức hướng dẫn

nào là phương pháp chủ đạo và cách thức nào là biện pháp hỗ trợ để trẻ có thể tham gia

HĐVĐV cách hiệu quả nhất.

1.6. Vai trò của môi trường đồ dùng, đồ chơi đối với HĐVĐV của trẻ

Cơ sở vật chất là yếu tố tác động trực tiếp, góp phần quyết định chất lượng quá trình

chăm sóc và giáo dục trẻ. Với trẻ em, đồ chơi được xem như sách giáo khoa của trẻ. Ngoài

việc trang bị đồ chơi, đồ dùng phù hợp, đầy đủ cần tính đến việc sắp xếp, bố trí và sử dụng

chúng sao cho hiệu quả.

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, chúng tôi đề cập đến trang thiết bị trong phòng/

nhóm trẻ nhà trẻ như sau [27]:

1.6.1. Kết cấu phòng/ nhóm lớp

- Khu vực đón trẻ: 9 – 18m2, có cửa thông với các phòng khác, có nơi để giày dép,

đồ dùng cá nhân.

- Khu vực ăn, vui chơi: 36 – 50m2, đây là phòng chính để trẻ chơi tấp, ăn uống. - Khu vực ngủ: 28 – 36m2, đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, sạch

sẽ, yên tĩnh.

- Phòng vệ sinh: 12 – 24m2, thuận tiện, hợp vệ sinh, an toàn.

21

1.6.2. Trang thiết bị

• Đồ dung dụng cụ:

- Giường ngủ, ghế ngồi, bàn theo độ tuổi

- Giá phơi khăn, giá để đồ dùng, đồ chơi…

- Ca, cốc, thìa, bát (phục vụ trong ăn, uống)

- Đồ dùng vệ sinh

• Đồ chơi:

- Con giống các loại

- Xúc xắc, chút chit, bóng cao su/ nhựa.

- Búp bê và các đồ chơi thao tác vui…

- Hộp xếp hình, xâu hạt…

- Các loại ô tô, xe kéo…

- Các loại đồ chơi mô phỏng đồ dùng trong sinh hoạt: chén, thìa, cốc…

1.6.3. Yêu cầu đối với đồ dùng, đồ chơi

- Mang tính giáo dục.

- Kích cỡ phù hợp với trẻ.

- Phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật.

- Hấp dẫn trẻ: màu sắc, hình thù đẹp. Tùy thuộc đồ chơi để có thể di chuyển được,

phát ra âm thanh..

- Đảm bảo vệ sinh, an toàn

Việc trang bị cần tính đến sự vừa phải về số lượng. Thiếu đồ chơi trẻ phải chờ đợi cho

đến lượt hay xảy ra tình trạng tranh giành đồ chơi. Nếu quá dư thừa đồ chơi cũng ảnh hưởng

đến chất lượng của hoạt động như: trẻ chơi hời hợt, không diễn ra theo chiều sâu, hạn chế

trong việc lien hệ giữa vật này thay thế cho vật khác… Bên cạnh đó cần chú ý đến sự đa

dạng về chủng loại để đảm bảo thuận tiện trong tổ chức các nội dung cho phù hợp với sự

phát triển các loại hành động, kích thích sự hứng thú, hấp dẫn trẻ tham gia

Tiểu kết chương 1

Quá trình nghiên cứu các tài liệu về HĐVĐV, chúng tôi đưa ra một số nhận định như

sau:

22

Thứ nhất, HĐVĐV đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát triển

toàn vẹn nhân cách cho trẻ MN, cụ thể là giai đoạn trẻ em lứa tuổi ấu nhi. HĐVĐV là con

đường cơ bản, là phương tiện hữu hiệu nhất để giáo dục trẻ em trong độ tuổi ấu nhi.

Thứ hai, trẻ em giai đoạn 18 – 24th là giai đoạn tiền đề, sơ khai của sự hình thành và

phát triển nhân cách về sau. Việc chú trọng phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ ở giai đoạn

này là thực sự cần thiết.

Thứ ba, HĐVĐV thể hiện cụ thể ở việc trẻ thực hiện hành động TLMTQ và hành

động công cụ qua đó lĩnh hội những tri thức loài người gửi gắm trong những đồ vật đó. Khả

năng HĐVĐV của trẻ được thể hiện qua việc trẻ nhận biết được đặc điểm của đồ vật, tiếp

đến trẻ thực hiện hành động TLMTQ, hành động công cụ phù hợp với đối tượng đồ vật.

Trên thực tiễn việc vận dụng các phương pháp, biện pháp tổ chức hướng dẫn trẻ

HĐVĐV vẫn được các GVMN thường xuyên thực hiện trong hoạt động CS – GD trẻ. Các

đề tài có nghiên cứu về phương pháp tổ chức HĐVĐV và tiến hành điều tra thực trạng trên

GVMN. Tuy nhiên, việc tổ chức thực nghiệm trên trẻ để thấy được tính khả thi của biện

pháp là thực sự cần thiết. Từ những cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng để tìm hiểu: Nhận thức của GVMN và phụ huynh về HĐVĐV của trẻ giai đoạn 18 – 24th; Khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th. Từ đó, tìm ra biện pháp phù hợp để tiến hành thực nghiệm

trên trẻ.

23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CỦA TRẺ

18 – 24TH Ở TRƯỜNG MN

2.1. Mục đích khảo sát thực trạng

Xác định cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV

cho trẻ 18 – 24th.

2.2. Đối tượng khảo sát

• Trẻ nhóm lớp Cơm nát 18 – 24th ở 4 trường MN tại Tp. Hồ Chí Minh:

- Trường MN 12, số 7 Tăng Bạt Hổ, P.12, Quận 5.

- Trường MN Hoa Hồng, số 687 Kinh Dương Vương, P. An Lạc, Quận Bình Tân.

- Trường MN 12 , số 67 Trường Chinh, P. 12, Quận Tân Bình.

- Trường MN Hươu sao, số 5 đường số 22, Khu dân cư Him Lam 6A, Huyện Bình

Chánh, Tp. HCM.

• GVMN phụ trách ở nhóm Cơm nát thuộc các trường MN công lập và tư thục trên

địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.

• Phụ huynh trẻ thuộc 4 trường MN đã đề cập ở trên.

2.3. Nội dung khảo sát

Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng trong thời gian tháng 02/2013 với nội dung

như sau:

- Khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24 tháng.

- Tìm hiểu trình độ hiểu biết của GVMN và phụ huynh trẻ về HĐVĐV của trẻ 18 –

24th.

2.4. Tiến trình khảo sát

• Quan sát trẻ HĐVĐV:

Dựa theo chương trình GDMN hiện hành và tiến độ thực thi chương trình ở các trường

MN đến thời điểm khảo sát, chúng tôi đưa ra hệ thống các nội dung cần khảo sát về

HĐVĐV cho trẻ thực hiện.

Nội dung khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th bao gồm 10 bài tập (phụ lục 3).

Các bài tập này là những nội dung rất quen thuộc phổ biến ở các trường MN. Cụ thể hơn

các nội dung này là nội dung đã được đưa vào trong chương trình GDMN (2009) của Bộ

24

GD & ĐT và được áp dụng là chương trình khung của Bậc học MN. Chúng tôi tiến hành

cho trẻ thực hiện dưới hình thức không hướng dẫn trực tiếp như lên một giờ dạy mà người

khảo sát chỉ cung cấp đồ dùng, đồ chơi, trẻ thực hiện theo yêu cầu của người khảo sát.

Trong quá trình trẻ thực hiện, người khảo sát có thể đặt thêm câu hỏi cho trẻ để hướng sự

chú ý của trẻ vào đồ dùng, đồ chơi. Trường hợp trẻ không thực hiện hoặc thực hiện không

được, người khảo sát có thể gợi ý hoặc làm mẫu cho trẻ xem.

Trong bài tập khảo sát có một số nội dung chúng tôi ghi nhận kết quả thông qua quan

sát trẻ trong sinh hoạt hàng ngày như: quan sát trẻ trong giờ ăn để đánh giá thao tác trẻ sử

dụng chén, muỗng xúc ăn …

Qua tiến trình quan sát trẻ như trên, chúng tôi ghi nhận kết quả vào phiếu khảo sát

(Phụ lục 3). Tổng điểm đánh giá các tiêu chí được tính theo thang điểm 15 (Phụ lục 4).

Thang đánh giá

TỔNG ĐIỂM ( x ) LOẠI

Tốt A 12 ≤ x ≤ 15

Khá B 10.5 ≤ x < 12

Trung bình C 7.5 ≤ x < 10.5

Yếu D x < 7.5

• Quan sát môi trường đồ dùng – đồ chơi

Quan sát trong 4 nhóm lớp khảo sát về: cách bố trí, sắp xếp đồ chơi ở các góc, đặc biệt

góc HĐVĐV; cách sắp xếp các vật dụng, đồ dùng của cô và trẻ; các loại đồ dùng, đồ chơi

của trẻ.

Tiêu chí quan sát:

- Số lượng, chủng loại của đồ dùng, đồ chơi (như đã đề cập ở tiểu mục 1.6). - Sự phù hợp của đồ dùng, đồ chơi với lứa tuổi của trẻ 18 – 24th

- Sắp xếp, bố trí đồ dùng, đồ chơi vào các khu vực trong phòng/ nhóm:

+ Gòn gàng, ngăn nắp.

+ Đủ về số lượng và phù hợp với nội dung cho trẻ hoạt động trong từng góc chơi.

+ Thuận tiện trong việc trẻ có thể tự lấy và cất khi cần thiết

+ Màu sắc hài hòa, cân đối, phù hợp với thẩm mỹ của trẻ nhỏ.

+ Đảm bảo an toàn, vệ sinh.

• Gửi phiếu thăm dò ý kiến (An – két)

- Phiếu thăm dò ý kiến GVMN (Phụ lục 1).

25

Nhóm lớp Cơm nát (18 – 24th) ở các trường MN không nhiều. Các trường chúng tôi đến xin khảo sát không có nhóm 18 – 24th và nếu có chỉ có một nhóm lớp là chủ yếu. Số

lượng GVMN/lớp đa số là 2 giáo viên vì số lượng trẻ trong nhóm lớp độ tuổi này cũng khá

ít. Một số trường có 3GV/ lớp và rất ít trường có được 4 GV/ lớp. Vì vậy, số phiếu chúng tôi

gửi để lấy ý kiến GVMN và thu về được 35 phiếu, số lượng phiếu không được nhiều như

những đề tài nghiên cứu lứa tuổi lớn hơn.

- Phiếu thăm dò ý kiến phụ huynh (Phụ lục 2). Phiếu thăm dò ý kiến phụ huynh được gửi đến cha mẹ có con ở độ tuổi 18 – 24th thuộc

4 trường MN như trên, nhằm mục đích tìm hiểu nhận thức của phụ huynh về HĐVĐV của

trẻ.

Ngoài ra, để hỗ trợ cho các phương pháp trên, chúng tôi có trò chuyện với GVMN phụ

trách nhóm lớp 18 – 24th và phụ huynh có trẻ trong giai đoạn 18 – 24th.

2.5. Đánh giá thực trạng khảo sát

2.5.1. Về phía GVMN

Để trẻ HĐVĐV đạt hiệu quả, vai trò của GVMN trong việc định hướng, tổ chức hướng

dẫn trẻ hoạt động thực sự rất quan trọng. Vì vậy, GVMN cần nhận thức đúng đắn về tầm

quan trọng, nội dung, phương pháp biện pháp đồng thời có sự phối kết hợp chặt chẽ với gia

đình. Chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu thăm dò ý kiến trên 35 GVMN. Kết quả thu

được như sau:

2.5.1.1. Nhận thức của GVMN về tầm quan trọng HĐVĐV và mục đích việc tổ

chức cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV

Câu hỏi số 1, 4 nhằm tìm hiểu nhận thức của GVMN về tầm quan trọng và mục đích

Bảng 2.1. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về ý nghĩa của tổ chức cho trẻ HĐVĐV

của việc cho trẻ tham gia HĐVĐV. Số liệu tổng hợp như sau:

Stt

Lựa chọn trả lời

Số phiếu Tỷ lệ (%)

13

37.1

1 Đảm bảo cho cuộc sống, sự sinh tồn của trẻ

12

34.3

2 Phương tiện giúp trẻ phát triển trí tuệ

30

85.7

3 Phát triển sự khéo léo của đôi tay

32

91.4

4 Phát triển khả năng phối hợp giữa tay và mắt

21

60.0

5 Phương tiện hình thành một số phẩm chất tốt đẹp ở trẻ

21

60.0

6 Cơ hội để hình thành và phát triển cảm xúc thẫm mỹ

12

34.3

7 Cơ hội để hình thành và phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ

26

35

100.0

8 Nền tảng của các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo

0

0.0

9 Khác

0,0

Quan trọng

23,7

76,3

Bình thường

Không quan trọng Biểu đồ 2.1. Nhận định của GVMN về tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ 18 – 24th

Theo như số liệu tổng hợp được, chúng tôi nhận thấy đa số GVMN hiểu được tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ giai đoạn 18 – 24th . Biểu đồ 2.1 thể hiện có tới 76.3%

GVMN cho rằng rất quan trọng và không có GVMN nào lựa chọn ở mức không quan trọng.

Đó là những nhận định ban đầu của GVMN, để biết cụ thể nhận thức của GVMN về vai trò

của HĐVĐV đối với trẻ, chúng tôi xét cụ thể hơn khi tổng hợp số liệu ở câu hỏi 4.

Bảng 2.1, các ý nghĩa của HĐVĐV chúng tôi đưa ra gợi ý để giáo viên lựa chọn dựa

trên lý luận về ý nghĩa của HĐVĐV đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Tỷ lệ

GVMN lựa chọn khá cao cho 2 ý nghĩa: phát triển khả năng phối hợp nhịp nhàng giữa tay

và mắt là 91.4%, phát triển sự khéo léo của đôi tay là 85.7%. Và ý nghĩa: là nền tảng của

các trò chơi tiêu biểu ở lứa tuổi mẫu giáo có 100% GVMN lựa chọn. Với 3 ý nghĩa này dễ

dàng nhận thấy khi quan sát trẻ HĐVĐV. Bởi vì trẻ thao tác bằng tay và kết hợp với thị giác

để nhìn, đồng thời HĐVĐV khi trẻ chơi các trò thao tác vai (hành động công cụ) trông gần

gũi với trò chơi đóng vai có chủ đề và thao tác khi chơi xếp chồng, xếp cạnh các hình khối,

đồ vật (hành động TLMTQ) trông gần với trò chơi xây dựng ở lứa tuổi mẫu giáo.

Thực tế đã chứng minh vận động của bàn tay có tác động đến não bộ của trẻ, sự vận

động ở bàn tay phải sẽ tác động đến bán cầu não trái và ngược lại. Theo Giáo sư Makoto

Shichida, chỉ cần một kỹ năng vận động tinh nhỏ như sử dụng phối hợp ngón cái và ngón

trỏ trong việc cầm nắm, nhặt các vật nhỏ… cũng làm nâng cao đáng kể chất lượng của não

bộ [19]. Tuy nhiên đáng chú ý ở bảng 2.1, ý nghĩa HĐVĐV là phương tiện giúp trẻ phát

triển trí tuệ chỉ 34.3% giáo viên lựa chọn. Nghĩa là GVMN chưa thấy được vai trò của

HĐVĐV ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tuệ của trẻ.

Nhìn chung, GVMN nhận thức được tầm quan trọng của HĐVĐV đối với trẻ. Tuy

nhiên chưa bao quát được hết các ý nghĩa cơ bản vốn có của HĐVĐV. Điển hình chỉ có

17.1% (6 GVMN) lựa chọn bao quát được toàn diện các ý nghĩa trên.

27

2.5.1.2. Nhận thức của GVMN về phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức HĐVĐV

cho trẻ 18 – 24th

Từ câu hỏi 5, 6, 9 chúng tôi thu được kết quả như sau về phương pháp, biện pháp, hình

thức tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th của GVMN:

Theo số liệu tổng hợp ở bảng 2.2, chúng tôi nhận thấy thời điểm giờ chơi – tập có chủ

đích được 100% GVMN lựa chọn. Đây là thời điểm trẻ HĐVĐV một cách hệ thống, khoa

học nhất vì chơi tập có chủ đích thực chất là giờ học nên được GVMN chuẩn bị chu đáo, bài

bản. Giờ chơi tự do có tỷ lệ cũng khá cao với 60% GVMN lựa chọn. Giờ chơi tự do là thời

điểm diễn ra sau giờ chơi – tập, tổ chức khoảng 15 – 20 phút với nhiều nội dung chơi trong

một buổi chơi và diễn ra hàng ngày nên tỷ lệ lựa chọn cao là hợp lý. Những lựa chọn còn lại

chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ chỉ có 28.6% GVMN lựa

chọn. Thực tế, nếu GVMN khéo léo, linh hoạt biết tận dụng cơ hội thì trong sinh hoạt hàng

ngày của trẻ có rất nhiều nội dung có thể cho trẻ tham gia HĐVĐV, chẳng hạn như: tự xúc

ăn, lấy ly uống nước, xếp dép lên kệ, cất cặp vào tủ/ treo lên giá… và xuyên suốt một ngày

trẻ đến trường có biết bao cơ hội để trẻ hoạt động với đồ vật chứ không nhất thiết vào giờ

chơi, giờ học trẻ mới hoạt động. Như vậy, trong sinh hoạt hàng ngày thời gian trẻ tiếp xúc,

hoạt động với đồ dùng vừa giúp trẻ nắm được cách thức sử dụng đồ dùng vừa giáo dục trẻ

được thói quen, nề nếp trong sinh hoạt, hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ

chênh lệch giữa các lựa chọn như trên cho thấy GVMN chưa nhận ra điểm mạnh trong việc

tận dụng các cơ hội khác nhau để rèn luyện, phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ.

Giờ đón trẻ chỉ 2/35 GVMN lựa chọn. Kết quả khảo sát tương đối thấp. Chúng tôi có

trao đổi trực tiếp với một số GVMN và nhận thấy đa số GVMN đều trả lời: Do trẻ còn nhỏ

nên cha mẹ thường hay cho trẻ đi học muộn, trẻ nhỏ nên thường ăn sáng chậm vì vậy thời

điểm này khó để tổ chức cho trẻ chơi một cách bài bản. Thực tế GVMN vẫn cho trẻ chơi với

đồ chơi, đồ vật. Tuy nhiên, chỉ chơi qua loa 1, 2 món đồ chơi nếu trẻ nào ăn xong sớm trong

khi cô còn đút cho các trẻ khác. Vì vậy nên họ không lựa chọn vào trong phiếu thăm dò ý

Câu 5: Chị thường tổ chức cho trẻ HĐVĐV vào những thời điểm nào trong ngày?

Bảng 2.2. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về thời điểm cho trẻ HĐVĐV

kiến.

Stt Lựa chọn trả lời Tần số Tỷ lệ (%)

35 100.0 1 Giờ chơi – tập có chủ đích

21 60 2 Giờ chơi tự do (Hoạt động góc)

2 5.7 3 Giờ đón trẻ

28

10 28.6 4 Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ

1 2.9 5 Khác:… (hoạt động ngoài trời)

Câu hỏi 6: Chị thường sử dụng phương pháp – biện pháp nào sau đây để hướng dẫn

Bảng 2.3. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về phương pháp - biện pháp

hướng dẫn trẻ HĐVĐV

cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV?

Stt

Lựa chọn trả lời

Tần số Tỷ lệ (%)

20

57.1

1 Làm mẫu sau đó trẻ bắt chước thực hiện

10

28.6

2 Làm mẫu song song quá trình trẻ thực hiện

33

94.3

3 Cùng chơi với trẻ như bạn

22

62.9

4 Dùng lời hướng dẫn

19

54.3

5 Trẻ tự chơi theo ý thích

12

34.3

6 Để tranh, vật mẫu gợi ý và trẻ tự chơi

24

68.6

7 Tạo tình huống gợi ý nội dung

22

62.9

8 Động viên, khích lệ

13

37.1

9 Sắp xếp môi trường đồ chơi có mục đích giúp trẻ liên tưởng cách chơi

26

74.3

10 Tích hợp nội dung HĐVĐV vào các giờ học khác

9

25.7

11 Giao nhiệm vụ cho trẻ thực hiện

0

0.0

12 Biện pháp khác

Nhìn vào bảng 2.3, các biện pháp chúng tôi gợi ý có tỷ lệ GVMN lựa chọn tương đối

cao. Biện pháp được nhiều sự lựa chọn nhất là “chơi cùng với trẻ như bạn” chiếm 94.3%.

Trong quá trình trẻ chơi, giáo viên muốn can thiệp thường đến với trẻ với vai trò là người

bạn, tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, thân thiện, cởi mở hơn. Có thể giáo viên chỉ cần ngồi

cạnh trẻ (như 1 người bạn) chơi 1 bộ đồ chơi tương tự bên cạnh trẻ, trẻ sẽ quan sát được

thao tác mẫu của cô, biện pháp này khá hiệu quả bởi vì không làm gián đoạn hứng thú của

trẻ khi chơi.

HĐVĐV là hoạt động mới so với trẻ 18 – 24th. Bên cạnh đó, kết quả ở bảng 2.2 có

100% GVMN lựa chọn thời điểm chơi – tập có chủ đích là thời điểm thường được tổ chức

cho trẻ HĐVĐV. Như vậy, biện pháp làm mẫu cho trẻ lẽ ra phải là biện pháp được lưa chọn

với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, tỷ lệ GVMN lựa chọn biện pháp “Tích hợp nội dung HĐVĐV vào

các giờ học khác” là 74.3%, tiếp đến là biện pháp “Tạo tình huống gợi ý tưởng chơi” chiếm

68.6% và “Động viên, khích lệ trẻ” với tỷ lệ lựa chọn 62.9% (Đây là những biện pháp hỗ trợ

nhằm kích thích, gây hứng thú cho trẻ). Trong khi đó, chỉ có 57.1% GVMN lựa chọn

29

phương pháp “Làm mẫu sau đó trẻ bắt chước thực hiện” và “Làm mẫu song song quá trình

trẻ thực hiện” chỉ 28.6%. Nghĩa là việc GVMN lựa chọn phương pháp – biện pháp tổ chức

HĐVĐV cho trẻ chưa hợp lý so với thời điểm họ ưu tiên lựa chọn.

Về hình thức tổ chức HĐVĐV cho trẻ để đạt hiệu quả cao, theo kết quả tổng hợp ở

bảng 2.4, có 77.1% GVMN lựa chọn hình thức tổ chức nhóm 5 – 10 trẻ, số ít chọn nhóm 3 –

5 trẻ và 10 – 15 trẻ. Theo nhận định của chúng tôi, việc lựa chọn của GVMN tương đối hợp

lý.

Bảng 2.4. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về hình thức tổ chức HĐVĐV

cho trẻ trong giờ chơi – tập để dạt hiệu quả cao

Stt Lựa chọn trả lời Tần số Tỷ lệ (%)

0 0.0 1 Tổ chức cho cả lớp

3 8.6 2 Tổ chức cho nhóm 10 – 15 trẻ

27 77.1 3 Tổ chức cho nhóm 5 – 10 trẻ

5 14.3 4 Tổ chức cho nhóm 3 – 5 trẻ

0 0.0 5 Tổ chức cho cá nhân

0 0.0 6 Khác

Tổng 35 100.0

2.5.1.3. Sự phối kết hợp giữa GVMN với phụ huynh

Ở cả hai phiếu thăm dò ý kiến của GVMN và phụ huynh chúng tôi có chung câu hỏi

để biết thông tin về sự phối hợp giữa phụ huynh và GVMN về hoạt động với đồ vật (hoạt

động với đồ dùng – đồ chơi) đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, kết quả khảo sát thể

hiện ở bảng 2.5 và 2.6 không thống nhất với nhau. Nguyên nhân sự không thống nhất có thể

do phụ huynh chúng tôi khảo sát thuộc 4 trường MN chúng tôi giới hạn khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th như đã đề cập ở tiểu mục 2.2 và GVMN phụ trách nhóm lớp 18 – 24th của 4 trường MN này chỉ gồm 10 giáo viên, số phiếu còn lại chúng tôi gửi ở

các trường khác thuộc TP.HCM. Tuy nhiên, mức chệnh lệch ý kiến giữa GVMN và phụ

huynh như trên vẫn là quá lớn.

30

Bảng 2.5. Lựa chọn của GVMN

Bảng 2.6. Lựa chọn của phụ huynh

Stt

Mức độ

Số phiếu Tỷ lệ(%)

Stt

Mức độ

Số phiếu Tỷ lệ(%)

33/35

94.3

1 Thường xuyên

10/82

12.2

1 Thường xuyên

2/35

5.7

2 Thỉnh thoảng

41/82

50.0

2 Thỉnh thoảng

0/35

0.0

3 Chưa bao giờ

31/82

37.8

3 Chưa bao giờ

35/35

100.0

Tổng

82/82

100.0

Tổng

2.5.1.4. Khó khăn của GVMN khi tổ chức cho trẻ tham gia HĐVĐV

Trả lời cho câu hỏi số 10, chỉ có 1/35 GVMN không gặp khó khăn và 34/35 GVMN đều cho rằng có gặp khó khăn trong việc tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Những khó

khăn chủ yếu GVMN đề cập đến:

- Số trẻ trong lớp quá đông, khó tổ chức theo nhóm nhỏ, không đủ thời gian rèn luyện

cá nhân cho trẻ.

- Mặc dù là nhóm lớp 18 – 24th nhưng thực tế số trẻ trong lớp chênh lệch nhiều về

tháng tuổi gây khó khăn khi tổ chức

- Khó khăn trong việc chọn lựa đồ chơi, tìm kiếm nguyên vật liệu phù hợp làm đồ chơi cho trẻ, đồ chơi cho trẻ lứa tuổi 18 – 24th trên thị trường không phong phú đa dạng, ít

đồ chơi phù hợp với HĐVĐV.

- Trẻ còn nhỏ, khả năng tập trung chú ý hạn chế.

- Ngôn ngữ trẻ còn hạn chế gây khó khăn khi GVMN giao tiếp với trẻ.

- Trẻ còn nhỏ, cơ tay yếu, thao tác vụng về.

Với những khó khăn trên, theo chúng tôi những khó khăn do trẻ còn nhỏ nên khả năng

chú ý, ngôn ngữ hạn chế hay cơ tay yếu nên thao tác vụng về là những khó khăn mà tất cả

nhà giáo dục phải chấp nhận bởi đây là sự phát triển bình thường theo giai đoạn lứa tuổi.

2.5.1.5. Ý kiến của GVMN về điều kiện để phát triển tốt khả năng hoạt động với

đồ vật của trẻ 18 – 24th

Có rất nhiều ý kiến của GVMN về điều kiện để phát triển tốt khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Tổng hợp phiếu thăm dò, có 3/35 phiếu không nêu ý kiến, còn lại chúng tôi

thấy các ý kiến chủ yếu xoay quanh các vấn đề sau:

- 68.6% GVMN cho rằng cần có đồ chơi đủ về số lượng, phù hợp về nội dung

HĐVĐV và môi trường hoạt động, đồ dùng đồ chơi cần đa dạng, phong phú.

31

- 60% GVMN đưa ra các biện pháp nên sử dụng trong tổ chức hướng dẫn trẻ

HĐVĐV. Tổng hợp có các biện pháp như: gợi ý tưởng, tạo tình huống, cùng chơi với trẻ,

tích hợp HĐVĐV vào các giờ hoạt động khác nhau trong ngày.

- 42.9% GVMN cho rằng số trẻ/nhóm lớp quá đông, cần bố trí ít hơn (Không đề cập

ít như thế nào).

- 34.3% ý kiến đề cập đến việc tăng cường cho trẻ tiếp xúc với đồ vật thông qua

nhiều hoạt động khác nhau trong ngày.

- 25,7% GVMN đưa ra điều kiện cần có phòng học cho trẻ cần rộng rãi.

- 20% GVMN có ý kiến cần thường xuyên quan sát và đánh giá khả năng của từng trẻ

để đưa ra yêu cầu và nội dung hoạt động phù hợp.

Trong số những vấn đề trên, vấn đề được GVMN đề cập nhiều hơn cả là: môi trường

đồ chơi, biện pháp chơi cùng trẻ. Đây là những ý kiến hoàn toàn thiết thực, hợp lý và là cơ

sở thực tiễn quan trọng cho công trình nghiên cứu của chúng tôi.

2.5.2. Môi trường vật chất ở lớp học của trẻ

Các trường chúng tôi khảo sát đều là trường của phường thuộc 4 quận khác nhau trong

ở TP.HCM. Mỗi trường có điều kiện vật chất, diện tích lớp học khác nhau. Qua quan sát các

nhóm lớp về môi trường lớp học: cách bố trí, sắp xếp đồ chơi ở các góc – đặc biệt góc

HĐVĐV; cách sắp xếp các vật dụng, đồ dùng của cô và trẻ; các loại đồ dùng, đồ chơi của

trẻ, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề như:

Hình 2.1. Lớp Thỏ Ngọc – MN12 - Q5 Hình 2.2. Lớp Thỏ Ngọc – MN12 - Q5

• Cách sắp xếp, bố trí đồ dùng, đồ chơi

Trong lớp, các loại đồ chơi ít được bày sẵn trong môi trường thuận tiện cho trẻ hoạt

động. Đa số được “đóng thùng” trong các hộp cactong/ thùng nhựa để trong các hộc tủ gỗ

kiên cố - với lớp có diện tích rộng, còn lớp có diện tích hẹp hơn, chúng tôi thấy đồ chơi

32

đóng thùng chất chồng lên nhau. Chỉ khi nào cần thiết GVMN mới lấy cho trẻ chơi. Nhìn

vào hình 2.1 chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đồ chơi hoàn toàn không được “tiếp thị” đến

trẻ vừa gây mất mỹ quan lớp học.

Quan sát lớp học (trường MN12 - Q5) chúng tôi thấy trong lớp chỉ có 2 kệ nhỏ, đồ

chơi của trẻ tập trung trên một kệ (hình 2.2). Trao đổi với giáo viên phụ trách lớp chúng tôi

được biết đồ chơi còn lại không có chỗ bài trí nên phải cho hết vào thùng, khi nào cần sử

dụng sẽ lấy ra. Thực tế đồ chơi sắp xếp sẵn trên kệ cũng rất ít. Các bộ đồ chơi lồng hộp, các

khối gỗ đến lúc chúng tôi ghi hình mới được xếp thêm vào kệ.

Hình 2.3. Nhóm 19 – 24th – MN 12 Q.Tân Bì

Ở trường có điều kiện diện tích lớn

hơn (hình 2.3), lớp học màu sắc khá bắt

mắt, kệ đồ chơi đa dạng, có đủ cho từng

góc chơi. Tuy nhiên, nhìn trên kệ cũng chỉ

thấy những khoảng trống, số đồ chơi có

cũng rất ít.

• Trang trí phòng học

Mỗi trường có điều kiện vật chất và

diện tích phòng học khác nhau. Qua quan sát chúng tôi nhận thấy các lớp có trang trí tuy

nhiên chưa phát huy yếu tố thẫm mỹ và tính khoa học. Chẳng hạn như ở hình 2.3, phòng

học màu sắc khá hài hoà, bắt mắt, tranh mình hoạ cho các góc phù hợp nội dung, sinh động.

Tuy nhiên, tranh được dán quá cao so với tầm nhìn khi trẻ ngồi hoạt động trong góc chơi.

Như vậy, có thể gây khó khăn khi trẻ quan sát, hoặc có thể do xa tầm nhìn nên trẻ không

hướng sự chú ý tới. Lớp có ít kệ - nơi bày trí đồ chơi cho trẻ, trong khi đó những mảng

tường cũng bỏ trống không được tận dụng trang trí tạo thêm góc chơi, trò chơi cho trẻ (hình

Hình 2.4. Mảng tường lớp Thỏ Ngọc – MN12 Q.5

2.4). Do đó, cơ hội cho trẻ được vui chơi còn hạn chế.

33

Hình 2.5. Đồ chơi của bé – MN12 Q.Tân Bình

• Các loại đồ dùng, đồ chơi của trẻ:

Đồ chơi trang bị cho trẻ ở các trường MN chúng tôi khảo sát không phong phú, đa

đạng về chủng loại và hạn chế về số lượng.

- Trường MN 12 Q.Tân Bình, đồ chơi góc HĐVĐV chủ yếu là các tháp lồng vòng,

đồ chơi mô phỏng như: chén, muỗng, ly, các loại quả, đồ chơi khối gỗ chỉ vài khối vuông

trong khi đó lớp có sĩ số 25 trẻ

- Trường MN 12 Q.5, theo quan sát chúng tôi nhận thấy đồ chơi có số lượng nhiều là

đồ chơi xâu hạt và búp bê vải. Tuy nhiên, đồ chơi bày trên kệ chủ yếu là rối que còn lại

được cất trong thùng cactong xếp vào góc lớp.

- Trường MN Hoa Hồng Q. Bình Tân, đồ chơi chủ yếu cũng là những đồ chơi mô

phỏng và búp bê.

- Trường MN Hươu Sao H. Bình Chánh, đồ chơi khá phong phú, đa dạng về chủng

loại phù hợp với nội dung HĐVĐV nhằm thiết lập hành động mối tương quan: đồ chơi khối

gỗ các dạng hình khác nhau, lego các loại, bộ ghép hình (2 – 3 chi tiết) các đối tượng đơn

giản bằng gỗ. Tuy nhiên, hạn chế về các loại đồ chơi giúp phát triển hành động công cụ cho

trẻ.

Đồ dùng của trẻ ở các trường tương đối phù hợp lứa tuổi của trẻ. Tủ để đồ dùng thấp,

phù hợp chiều cao của trẻ, trẻ có thể tự lấy và cất đồ dùng cá nhân, bồn toilet có tay vịn, kệ

dép 2 tầng thấp trẻ tự xếp dép lên kệ…

34

Hình 2.6. Kệ đồ dùng cá nhân của trẻ -

Hình 2.7. Nhà vệ sinh – MN 12 Q.5

MN Hoa Hồng

2.5.3. Về phía gia đình

Trẻ em lứa tuổi 18 – 24th với HĐCĐ là HĐVĐV. Theo quan điểm hoạt động trong

GDMN, chính bản thân trẻ có hoạt động trẻ mới có thể phát triển. Do đó trẻ cần được hoạt

động tích cực, đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu cầu dưới sự hướng dẫn của người lớn.

Như vậy, việc tổ chức hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV không chỉ là vai trò của GVMN mà

cần có cả sự hỗ trợ không nhỏ từ phía gia đình. Phụ huynh cần có cái nhìn đúng đắn và biện

pháp hỗ trợ hợp lý, như vậy sẽ giúp trẻ rút ngắn được thời gian và lĩnh hội được những kiến

thức, kỹ năng căn bản cần thiết của độ tuổi.

Chúng tôi tiến hành khảo sát trên tổng số 82 phụ huynh bằng phiếu thăm dò ý kiến, kết

quả tổng kết từ các câu hỏi như sau:

Bảng 2.7. Thống kê ý kiến phụ huynh

Câu hỏi 1: Anh/ chị cho bé chơi với đồ dùng đồ chơi nhằm mục đích gì?

Stt

Lựa chọn trả lời

Số phiếu

Tỷ lệ (%)

46

56.1

1 Bé biết được chức năng, cách SD đồ dùng trong sinh hoạt

39

47.6

2 Rèn luyện khéo léo, linh hoạt đôi tay

50

61.0

3 Vui vẻ, thoải mái tinh thần

Bé biết được tên gọi, đặc điểm của một số đồ dùng, đồ chơi

53

64.6

4

quen thuộc

Bé biết mối liên hệ giữa các đồ dùng, đồ chơi hay giữa các bộ

28

34.1

5

phận của chúng với nhau

Câu hỏi 2: Trong sinh hoạt hàng ngày anh chị có tập cho bé?

Lựa chọn trả lời

Số phiếu

Tỷ lệ %

Stt

Gọi tên các đồ vật

70

85.4

1

35

Nhận biết màu sắc

43

52.4

2

Phân biệt vật có kích thước to hơn/ nhỏ hơn

38

46.3

3

Cách sử dụng ĐD - ĐC

63

76.8

4

Khác: Cất dọn ĐD - ĐC

4.9

5

4 Câu hỏi 3: Anh chị thường mua cho trẻ 18 – 24th loại đồ chơi gì?

Stt

Lựa chọn trả lời

Số phiếu

Tỷ lệ %

Đồ chơi chạy bằng pin, điện: xe, rôbot, con vật…

48

58.5

1

Đồ chơi mô phỏng: búp bê, trái cây, rau củ, vật dụng gđ…

41

50.0

2

Đồ chơi lắp ráp, xếp hình…

54

65.9

3

Đồ chơi hình khối: vuông, CN, trụ …

27

32.9

4

Đồ chơi mang tính vận động: banh, xe đạp, xe lắc…

37

45.1

5

Đồ chơi thẻ hình, sách tranh...

31

37.8

6

Khác

12

14.6

7

Câu hỏi 5: Ở nhà bé có chơi những trò chơi sau:

Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên

Stt

Lựa chọn trả lời

Số phiếu %

Số phiếu %

Số phiếu %

Xếp cạnh, xếp chồng các đồ vật

33

40.2

29

35.4

20

24.4

1

(khối, hộp, lon…)

Lồng vòng vào que/ giá gỗ, tháp

64

78.0

18

22.0

0

0.0

2

lồng vòng

77

93.9

5

6.1

0

0.0

3 Xâu hạt

28

34.1

32

39.0

22

26.8

4 Chơi với thú bông/ búp bê…

45

54.9

23

28.0

14

17.1

5 Thả hình vào hộp

16

19.5

36

43.9

30

36.6

6 Xếp hình, lắp ráp

Điện tử trên: điện thoại, máy tính,

7

Ipad…

28

34.1

23

28.0

31

37.8

0

0.0

29

35.4

53

64.6

8 Hoạt hình, ca nhạc TV/máy tính…

Câu 6: Theo anh/chị , việc cho trẻ 18 – 24th tham gia hoạt động với đồ dùng có cần thiết?

36

Rất cần thiết

14,6

19,5

Cần thiết

65,9

Chưa cần thiết

Biểu đồ 2.2. Lựa chọn của phụ huynh về sự cần thiết của việc cho trẻ HĐVĐV

Từ những số liệu thống kê được như trên, chúng tôi có một số nhận định: - Nhận thức của phụ huynh về việc cần thiết và rất cần thiết cho trẻ 18 – 24th

HĐVĐV ở mức khá cao. Chỉ 14.6% phụ huynh cho là chưa cần thiết. Nghĩa là phụ huynh

có quan tâm và thấy được việc cho trẻ hoạt động với đồ dùng, đồ chơi thực sự cần thiết đối với trẻ. Tuy nhiên, phụ huynh vẫn chưa thực sự hiểu rõ việc cho trẻ 18 – 24th hoạt động với

đồ dùng, đồ chơi là cần thiết như thế nào. Kết quả thống kê câu hỏi 1 cho thấy các lựa chọn

cao nhất cũng chỉ 64.6%. Lựa chọn thứ 4 tiếp đến là thứ 3 và thứ 1 chiếm tỷ lệ lần lượt là

cao nhất và cao trên 50%. Đặc biệt với lựa chọn thứ 5 chỉ 34.1%. Trong đó, không có phụ

huynh nào chọn tất cả 5 nội dung lựa chọn trả lời. Với tỷ lệ như trên cho thấy phụ huynh

hiểu chưa thực sự hợp lý về mục đích của việc cho trẻ tham gia HĐVĐV.

- Thống kê ở câu hỏi 2 cho thấy đa số phụ huynh khi cho trẻ HĐVĐV chú trọng đến

việc cho trẻ nhận biết bằng cách gọi tên đối tượng là 85.6% và tập cho trẻ cách sử dụng ĐD

– ĐC là 76.8%. Trong khi đó, việc cho trẻ HĐVĐV còn giúp trẻ nhận biết màu sắc và nhận

ra vật có kích thước to/nhỏ để giúp trẻ thiết lập được các mối tương quan giữa chúng là hai

nội dung khá quan trọng nhưng tỷ lệ lựa chọn của phụ huynh còn thấp.

- Vấn đề phụ huynh mua sắm, trang bị những loại đồ chơi nào cho trẻ ở gia đình thể

hiện hiểu biết cũng như biện pháp của phụ huynh hỗ trợ trẻ trong việc trẻ tham gia

HĐVĐV. Kết quả lựa chọn của phụ huynh ở câu hỏi 3, loại trò chơi có tỷ lệ phụ huynh lựa

chọn mua cho con nhiều nhất là đồ chơi lắp ráp, xếp hình chiếm 65.9%. Đây là loại đồ chơi

phù hợp với trẻ ở nhiều độ tuổi và phát huy được sự khéo léo, phát triển trí tuệ, khả năng tư

duy và sự sáng tạo ở trẻ. Tuỳ mỗi lứa tuổi sẽ có những chi tiết phù hợp khả năng của trẻ.

Bên cạnh đó, những loại đồ chơi như: đồ chơi hình khối, đồ chơi mô phỏng hay các loại sách hình giấy dày cũng rất cần thiết cho HĐVĐV của trẻ độ tuổi 18 – 24th. Tuy nhiên, lựa

chọn của phụ huynh với những loại đồ chơi này còn rất thấp chỉ dao động từ 32.9% đến

45.1%. Ngoài ra, có 12 phụ huynh lựa chọn thêm ở lựa chọn thứ 7 chiếm 14.6%, trong đó

37

phụ huynh có kể tên những đồ chơi như: súng (4 phiếu), thẻ chữ – thẻ số (5 phiếu), mua đồ

chơi bé thích (1 phiếu), máy điện tử (1 phiếu), tận dụng lại các vật liệu (1 phiếu).

- Số liệu thu được ở câu hỏi 5 bổ sung nhằm làm rõ hơn về những đồ chơi phụ huynh

trang bị và cụ thể là ở nhà trẻ thường chơi những trò chơi gì, có phù hợp với nhu cầu của độ

tuổi hay không. Theo như bảng hỏi những trò chơi thực sự phù hợp với độ tuổi của trẻ là các

trò chơi số 1, 2, 3, 4, 5, 6. Tuy nhiên lựa chọn của phụ huynh cho những trò chơi này ở mức

độ thường xuyên còn rất thấp. Thậm chí như trò chơi số 2 (tháp lồng vòng) và trò chơi số 3

(xâu hạt) là 0%, mức độ chưa bao giờ chơi chiếm tỷ lệ rất cao, lần lượt là 64% và 77%.

Trong số đó chỉ có trò chơi số 6 có tỷ lệ lựa chọn tương đối cao ở mức thỉnh thoảng và

thường xuyên. Đáng chú ý ở đây là lựa chọn cho nội dung xem hoạt hình, ca nhạc chiếm tỷ

lệ cao nhất về mức độ thường xuyên, tỷ lệ 0% ở mức độ chưa bao giờ. Tuy nhiên, nội dung

này không nằm trong những nội dung trẻ HĐVĐV.

- Hiện nay công nghệ thông tin ngày một phát triển, ra đời nhiều sản phẩm mới, đặc biệt là Ipad. Mặc dù trẻ 18 – 24th là độ tuổi còn rất nhỏ và trong phiếu hỏi chúng tôi không

đề cập đến nhưng có đến 9 phiếu phụ huynh đề cập đến trong các câu hỏi 2, 3, 5 ở phần viết

vào các ô trống (…) như: tập cho trẻ chơi Ipad, mua Ipad cho trẻ, ở nhà bé thường thích

chơi Ipad. Lựa chọn số 7 ở câu hỏi 5 về chơi điện tử, mức độ thường xuyên chiếm tới

37.8%. Thực tế chưa có nghiên cứu nào khẳng định việc cho trẻ tiếp xúc với các loại

phương tiện này có hại cho trẻ hay không. Tuy nhiên, các nhà khoa học khuyến cáo hạn chế

cho trẻ dưới 2 tuổi sử dụng.

- Phụ huynh gặp khó khăn trong việc chọn lựa mua gì cho con chơi, đồ chơi có nào

và mua ở đâu để đảm bảo an toàn cho con trẻ.

Qua đó cho thấy phụ huynh dù biết rằng việc cho trẻ HĐVĐV là cần thiết, nhưng còn

khá mơ hồ về việc ở lứa tuổi này trẻ thực sự cần gì, chơi gì, chơi như thế nào để đảm bảo

thoả mãn nhu cầu và phát triển đúng mức cho trẻ.

2.5.4. Thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

Chúng tôi tiến hành khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th tại 4 trường MN như

đã đề cập ở tiểu mục 2.2. Nội dung khảo sát bao gồm 10 bài tập (phụ lục 3) khảo sát về: khả

năng thực hiện hành động TLMTQ, hành động công cụ và khả năng nhận biết màu sắc, kích

thước của đồ vật khi HĐVĐV. HĐVĐV bao gồm nhiều nội dung khác nhau, vì vậy chúng

tôi đưa ra tiêu chí và thang đánh giá cho từng bài tập (phụ lục 4).

38

Số liệu về kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th tại 4 trường

MN được chúng tôi xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả như sau:

• Thực trạng khả năng thực hiện hành động TLMTQ (Tiêu chí 1)

Đánh giá khả năng thực hiện hành động TLMTQ của trẻ, chúng tôi khảo sát trẻ với 4

bài tập: Xếp sát cạnh, xếp chồng khối chữ nhật đứng, lồng hộp và xâu hạt.

Kết quả ở bảng 2.8 cho thấy tiêu chí 1 có 25% trẻ thực hiện ở mức cao, 70% trẻ thực

hiện ở mức độ trung bình và chỉ 3% trẻ đạt ở mức thấp. Nếu chỉ xét ở bình diện chung cả 4

bài tập sẽ thấy rằng trẻ ở các trường khảo sát thực hiện hành động TLMTQ đạt ở mức khá

cao. Tuy nhiên, xét cụ thể ở từng bài tập được thể hiện ở biểu đồ 2.3 chúng tôi có nhận định

như sau:

Bài tập xếp sát cạnh, xếp chồng, lồng hộp kết quả đạt được ở mức độ cao và trung

bình chênh lệch rất lớn với bài tập 4. Bài tập 1 mức độ thấp chỉ chiếm 10%, bài tập 2 là

13.3% và bài tập 3 chiếm 23.3%. Trong khi đó bài tập 4 có đến 47 trẻ đạt ở mức thấp tương

đương 78.3%. Điều đó cho thấy, tiêu chí về khả năng thực hiện hành động TLMTQ xét tổng

thể trẻ đạt ở mức trung bình chiếm đa số là do ảnh hưởng từ tỷ lệ đạt được của các bài tập 1,

2, 3. Như vậy, với thao tác đòi hỏi kỹ năng vận động tinh nhiều hơn trẻ thực hiện yếu hơn

các bài tập khác cụ thể ở đây là nội dung xâu hạt ở bài tập 4.

Bảng 2.8. Các mức độ đạt được của các tiêu chí

Tiêu chí 1 Tiêu chí 2 Tiêu chí 3 Mức độ

Tần số

Tỷ lệ (%)

Tần số

Tỷ lệ (%)

Tần số

Tỷ lệ (%)

1 15 25.0 5 8.3 3 5.0

2 42 70.0 54 90.0 20 33.3

3 3 5.0 1 1.7 37 61.7

100,0

Tổng 60 100.0 60 100.0 60 100.0

Thấp

78,3

10,0 13,3 23,3 23,3 58,3

50

50,0

66,7

BT1: Xếp sát cạnh

TB

28,3 26,7

15 6,7

0,0

Cao

BT2: Xếp chồng

BT1 BT2 BT3 BT4

BT3: Lồng hộp

Tỷ lệ(%)

BT4: Xâu hạt.

Biểu đồ 2.3. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 1

39

• Thực trạng khả năng thực hiện hành động công cụ (Tiêu chí 2)

Đánh giá khả năng thực hiện hành động công cụ của trẻ, chúng tôi khảo sát trẻ với 3

bài tập bao gồm 4 nội dung: Trò chơi cài cúc áo, sử dụng chén muỗng (dùng thìa xúc cơm

0,0

3,3

trong giờ ăn), lật sách giấy dày và trò chơi thao tác vai.

100,0

26,7

30

80,0

BT1: Cài cúc áo

56,7

60,0

BT2: Sử dụng chén muỗng

98,3

73,3

40,0

66,7

BT3: Lật sách giấy dày

30

20,0

13,3

1,7

0,0

0,0

BT1

BT2

BT3

BT4

Tỷ lệ(%)

Cao

TB

Thấp

BT4: Thao tác vai

Biểu đồ 2.4. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 2

Kết quả ở bảng 2.8 cho thấy tiêu chí 2 có 8.3% trẻ thực hiện ở mức cao, 90% trẻ thực

hiện ở mức độ trung bình và chỉ 1.3% trẻ đạt ở mức thấp. Nếu chỉ xét ở bình diện chung cả

4 bài tập sẽ thấy rằng trẻ ở các trường khảo sát thực hiện hành động công cụ đạt ở mức

trung bình chiếm tỷ lệ rất cao, số trẻ thực hiện không đạt yêu câu chỉ chiếm tỷ lệ rất ít . Tuy

nhiên, xét cụ thể ở từng bài tập được thể hiện ở biểu đồ 2.4 chúng tôi có nhận định khả năng

trẻ thực hiện ở các bài tập không đồng đều. Trong đó bài tập cài cúc áo chiếm đến 98.3% trẻ

không thực hiện được. Trên thực tế bài tập này tương đối khó với trẻ vì đòi hỏi cao của vận

động tinh: sự khéo léo và phối hợp linh hoạt cơ ngón tay của cả hai bàn tay. Mặc dù bộ đồ

chơi chúng tôi sử dụng có cúc áo dễ cầm so với tay trẻ và khuy áo rộng gấp 1.5 – 2 lần cúc

áo nhưng trẻ vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, việc mặc áo và cài cúc áo cũng là thao tác khá phức tạp và trẻ độ tuổi 18 – 24th hầu như vẫn chưa thể tự

thực hiện được. Do vậy, kết quả trên khảo sát chỉ đạt ở mức thấp là khá hợp lý so với yêu

cầu của độ tuổi. Bài tập 2 chúng tôi khảo sát và ghi nhận kết quả trẻ thông qua quan sát trẻ

trong giờ ăn sáng và ăn trưa. Kết quả 56.7% số trẻ đạt mức độ thấp, 30% đạt mức độ trung bình và 13.3% ở 83 mức độ cao. Quan sát cho thấy giờ ăn của trẻ nhóm 18 – 24th hầu như

trẻ không tự xúc ăn, nếu có (tỷ lệ rất ít) thao tác của trẻ còn chậm nên hầu hết GVMN đút

40

cho trẻ ăn. Bài tập 3 và 4 trẻ thực hiện tương đối tốt. Ở bài tập 4, thao tác vai chúng tôi khảo

sát là “cho bé ăn” hoặc “tắm cho bé”. Với thao tác cho bé ăn trẻ cũng sử dụng chén, muỗng

đút cho “em” ăn nhưng vì ở đây là công cụ đồ chơi với thao tác mô phỏng đơn giản nên trẻ

thực hiện tương đối tốt, tỷ lệ mức độ cao chiếm đến 73.3% và 0% mức độ thấp.

• Thực trạng khả năng nhận biết màu sắc, kích thước của đồ vật thông qua

100,0

80,0

71,7

BT1: Nhận biết, phân biệt màu sắc

76,7

60,0

BT2: Phân biệt vật có kích thước to – nhỏ

Thấ p

40,0

20,0

25,0

18,3

3,3

5,0

0,0

BT1 BT2

Biểu đồ 2.5. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của tiêu chí 3

HĐVĐV (Tiêu chí 3)

Tham gia HĐVĐV qua đó trẻ tìm hiểu đặc điểm, chức năng và phương thức sử dụng

chúng. Do đó bên cạnh khảo sát về 2 loại hành động cơ bản của HĐVĐV, chúng tôi khảo

sát khả năng nhận biết màu sắc (2 màu cơ bản: màu đỏ, màu xanh dương) và phân biệt kích

thước (to hơn – nhỏ hơn) của 2 đồ vật. Kết quả khảo sát thể hiện ở bảng 2.8 cho thấy chỉ 5%

số trẻ đạt ở mức độ cao, 33.3% số trẻ đạt ở mức độ trung bình và chiếm đến 61.7% số trẻ

đạt mức độ thấp.

Tiêu chí này chúng tôi sử dụng 2 bài tập khảo sát và theo như biểu đồ 2.5 thể hiện, cả

hai bài tập này các mức độ chênh lệch nhau không đáng kể

Nhìn chung với các bài tập khảo sát ở cả 3 tiêu chí, các bài tập trẻ thực hiện đạt mức độ cao

và mức độ trung bình chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với mức độ thấp là: xếp sát cạnh, xếp

chồng, lồng hộp, lật sách giấy dày, thao tác vai. Những bài tập đạt mức độ thấp chiếm tỷ lệ

cao là: xâu hạt; cài cúc áo; sử dụng chén muỗng trong giờ ăn; nhận biết, phân biệt màu sắc,

kích thước đồ vật. Trong chương trình GDMN cũng như thực tế ở trường MN, trò chơi xâu hạt là trò chơi rất quen thuộc ở độ tuổi 18 – 24th và nội dung này cũng thuộc nội dung được

tổ chức trong giờ chơi – tập có chủ đích và giờ chơi tự do; Nội dung như: phân biệt màu sắc,

kích thước là nội dung bắt buộc trong nội dung chương trình tổ chức cho trẻ tham gia

HĐVĐV ở giờ chơi – tập có chủ đích và có thể tích hợp cũng như tổ chức ở mọi lúc mọi

41

nơi. Tuy vậy, kết quả khảo sát chúng tôi thu được với tỷ lệ trẻ ở mức độ thấp chiếm rất cao.

Riêng với bài tập cài cúc áo tương đối khó so với trẻ và trong chương trình của các trường MN nội dung này ít được đưa vào lứa tuổi 18 – 24th cho trẻ làm quen và luyện tập. Vì vậy,

• Kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th Bảng 2.9. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 14th

hầu hết các trẻ t với nội dung này đều không thực hiện được.

Xếp loại

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

1.7

A

3

5.0

B

41

68.3

C

15

25.0

D

60

100.0

Tổng

Bảng 2.11 thể hiện kết quả khảo sát thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ ở 4 trường

chúng tôi khảo sát. Kết quả trên cho thấy tỷ lệ trẻ đạt loại A (Tốt) và loại B (Khá) chiếm rất

ít chỉ 6.7%. Tỷ lệ trẻ đạt loại C (trung bình) chiếm đa số là 68.3% và Loại D (yếu) chiếm

25%. Như vậy, nếu có những tác động hợp lý của nhà GD rất có thể trẻ sẽ nhanh chóng vượt

qua khỏi loại D và tiến đến loại C, B, A nhiều hơn.

• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa khả năng HĐVĐV của trẻ

ở các trường MN khảo sát thực trạng

Bảng 2.10. Kết quả khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ ở trường MN12 Q5

và trường MN Hoa Hồng Q. Bình Tân

Trường

MN12 Q.5 MN Hoa Hồng

Giá trị

8.11

8.70

Mean

1.26

1.65

Std. Deviation

0.181

Sig

Chúng tôi tiến hành khảo sát ở 4 trường với số lượng 60 trẻ. Tuy nhiên, số lượng trẻ khảo sát ở các trường không tương đương nhau do lựa chọn trẻ chỉ thuộc nhóm 18 – 24th.

Trong đó, có 2 trường có số trẻ tương đương nhau ở mức tương đối là 25 trẻ thuộc trường

MN 12 Q.5 và 20 trẻ thuộc trường MN Hoa Hồng Q.Bình Tân. Vì vậy, chỉ có thể kiểm định

độ tin cậy mức độ chênh lệch ý nghĩa HĐVĐV của trẻ ở 2 trường MN này. Kết quả ở bảng

42

2.12 cho thấy khả năng HĐVĐV của trẻ trường MN 12 Q.5 (Mean = 8.11) và trường MN

Hoa Hồng Q.Bình Tân (Mean = 8.70) đều ở mức trung bình, độ lệch chuẩn có chênh lệch

giữa 2 trường lần lượt là Std.Deviation =1.26 và Std.Deviation =1.65. Kết quả khảo sát test

oneway ANOVA cho giá trị Sig = 0.18 > 0.05 nên không có sự khác biệt, chênh lệch về kết

quả thực hiện các nội dung khảo sát về khả năng HĐVĐV. Như vậy, mức độ chênh lệch kết

quả khả năng HĐVĐV của trẻ ở 2 trường không có độ tin cậy. Tóm lại, kết quả khảo sát thu

được ở 2 trường MN điều tra thực trạng là như nhau và đều đạt mức trung bình.

• Kết quả thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th theo giới tính

Bảng 2.11. Kết quả khảo sát khả năng HĐVĐV của trẻ theo giới

Std. Deviation Giới tính Mean Sig.(2-tailed) N

33 Trai 7.80 1.57 0.03 27 Gái 8.69 1.50

Qua kết quả kiểm nghiệm T-Test (Independent Samples Test) ở bảng 2.13 cho thấy điểm trung bình của bé gái cao hơn bé trai là 0.89 điểm, độ lệch chuẩn của bé trai cao hơn gái, mức độ chênh lệch điểm ở các bé gái tương đối lớn so với bé trai. Với giá trị Sig.(2-tailed)=0.03 < 0.05 cho thấy có sự khác biệt về mức độ khả năng HĐVĐV ở hai nhóm bé trai và bé gái ở 4 trường MN mà chúng tôi khảo sát.

2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

2.6.1. Từ phía gia đình:

- Phụ huynh nhận thức chưa thấu đáo về ý nghĩa của HĐVĐV đối với trẻ 18 – 24th .

Họ chỉ biết nó cần thiết đối với trẻ nhưng chưa xác định được quan trọng tới mức nào, có nhất thiết phải thực hiện ngay từ giai đoạn 18 – 24th hay chưa.

- Phụ huynh gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn đồ chơi cho trẻ 18 – 24th.

- Thời gian chơi cùng con chưa nhiều.

- Chưa tận dụng, khai thác tối đa các nội dung có thể hướng dẫn cho trẻ khi trẻ có cơ

hội hoạt động với đồ dùng, đồ chơi.

2.6.2. Từ phía nhà trường

- GVMN nhận thức chưa bao quát ý nghĩa của HĐVĐV đối với trẻ. Đặc biệt là ý

nghĩa của HĐVĐV đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ.

43

- GVMN chưa tận dụng hết cơ hội cho trẻ được HĐVĐV ở mọi lúc mọi nơi trong chế

độ sinh hoạt của trẻ ở trường MN.

- Môi trường lớp học chưa khơi gợi, chưa tạo điều kiện tốt cho trẻ HĐVĐV: Đồ chơi

xếp cất trong tủ/ hộp; trang trí góc chơi chưa hấp dẫn, đồ chơi chưa đa dạng, phong phú; tủ/

kệ để đồ dùng cá nhân của trẻ nhiều tầng nên cao so với trẻ làm mất đi cơ hội trẻ được tự

hoạt động …

- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường về việc cần thiết cho trẻ

tham gia hoạt động với đồ dùng, đồ chơi trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.

Tiểu kết chương 2: Quá trình khảo sát, nghiên cứu thực trạng khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

chúng tôi nhận thấy:

Những thao tác trẻ HĐVĐV gặp nhiều hạn chế, chưa đạt yêu cầu so với chuẩn của

lứa tuổi (Chương trình GDMN 2009) những thao tác đòi hỏi nhiều kỹ năng vận động

tinh, cần thiết phải rèn luyện cho trẻ.

HĐVĐV đúng nghĩa là hướng đến phát triển hài hoà, toàn diện cho trẻ. Vì vậy,

ngoài việc cho trẻ thao tác bằng tay với đồ vật, cần chú ý phát triển về trí tuệ cho trẻ.

Cụ thể trong các bài tập khảo sát trẻ trẻ chưa nhận biết được màu sắc, kích thước to –

nhỏ của đồ vật chiếm tỷ lệ rất cao.

GVMN cần sử dụng các phương pháp – biện pháp một cách hợp lý, linh hoạt đồng

thời phối hợp với phụ huynh trong công tác CS – GD trẻ một cách đồng bộ để phát huy

khả năng HĐVĐV cho trẻ.

Nhìn chung, quá trình phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th cần phải được

thực hiện thường xuyên, khoa học, sử dụng các biện pháp rèn luyện cho trẻ hợp lý, hiệu

quả hơn xuyên suốt trong các thời điểm như: giờ hoạt động có chủ đích, giờ chơi tự do

và trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Kết quả điều tra thực trạng vừa nêu trên sẽ giúp

chúng tôi có cơ sở thực tiễn hợp lí cho việc đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24 th.

44

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP

PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT CHO TRẺ

18 – 24TH

3.1. Cơ sở định hướng của việc đề xuất biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV

của trẻ 18 – 24th

Để phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th một cách phù hợp, mang lại

hiệu quả thì biện pháp tác động đến trẻ phải xuất phát từ lí luận và thực tiễn giáo dục.

Nghĩa là các biện pháp lựa chọn phải dựa trên những cơ sở

- Biện pháp đề xuất phải bám sát các quan điểm trong GDMN Việt Nam hiện

nay: Quan điểm phát triển, quan điểm hoạt động, quan điểm tích hợp, quan điểm tích

cực hoá – lấy trẻ làm trung tâm.

- Biện pháp phải phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: Trẻ 18 – 24th nhu cầu

được vận động, trẻ hoạt động dường như không ngơi nghỉ, thử sức với mọi đồ vật

xung quanh bằng tất cả khả năng vận động của mình. Giai đoạn này tư duy trực quan

hành động phát triển mạnh. Cảm xúc, chú ý của trẻ chưa mang tính ổn định nên dễ

dàng thích thú một vật gì đó nhưng cũng nhanh chóng chán và hướng sự chú ý sang

một vật khác. Thao tác của trẻ còn vụng về đặc biệt là kỹ năng vận động tinh dẫn đến

những hoạt động của trẻ diễn ra không đạt như ý. Bên cạnh đó, ngôn ngữ chưa hoàn

thiện, thiếu khả năng tự diễn đạt bằng lời khi cần thiết giao tiếp với người khác nên

trẻ dễ cáu giận. Về mặt sinh lý, trẻ bắt đầu thực hiện một số công việc đơn giản phục

vụ nhu cầu bản thân.

- Các biện pháp phải đảm bảo tính giáo dục.

3.2. Một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th

3.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường đồ dùng – đồ chơi

3.2.1.1. Trang bị đồ dùng – đồ chơi

Có thể nói đồ chơi cho trẻ MN như là sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Sách

giáo khoa chuẩn mực là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục phổ

45

thông. Tương tự như vậy, đồ chơi chuẩn mực là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả

chăm sóc giáo dục trẻ [6], [29], [31], [32]. Yêu cầu của việc trang bị đồ chơi cho trẻ:

- Đảm bảo tính giáo dục. Không nhất thiết phải là những món đắt tiền, cái quan trọng

là nó có ý nghĩa giáo dục hay không. Chẳng hạn nó có giúp trẻ mô phỏng được những hành

động với công cụ của loài người, có mang lại niềm vui cho trẻ khi chơi, có gợi cho trẻ cảm

xúc thẩm mỹ, phát triển cơ tay…

- Độ lớn của đồ chơi phải hợp lí để trẻ cầm nắm, đặc biệt là trẻ trong độ tuổi nhà trẻ

vận động của đôi tay còn khá vụng về lóng ngóng.

- Đồ chơi phải phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật. Nếu không,

một mặt trẻ sẽ không thực hiện được những hành động chơi tương ứng với vật thật mà nó

mô phỏng, mặt khác nó không có tác dụng củng cố biểu tượng về vật dụng mà trẻ đã biết.

- Đồ chơi phải hấp dẫn trẻ. Màu sắc rực rỡ, tươi sáng, hình thù đẹp, tùy thuộc vào trò

chơi, chủ đề chơi. Trẻ ở lứa tuổi này, màu sắc đồ chơi nên là những màu cơ bản để qua đó

giúp trẻ nhận biết, phân biệt màu sắc.

- Đồ chơi phải đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ. Trong khi chơi, trẻ nhà trẻ có thể

khám phá đồ chơi bằng nhiều cách khác nhau, thậm chí trẻ dùng đồ chơi để ngậm, để thổi,

… Do vậy đồ chơi phải sạch, không gây độc hại, không sắc nhọn.

- Trẻ 18 – 24th trẻ vẫn chưa biết chơi cùng nhau. Vì vậy, trang bị đồ chơi cần chú ý

đến số lượng phải hợp lý. Nghĩa là, khi tổ chức cho trẻ chơi nhất thiết mỗi trẻ phải có 1 bộ

đồ chơi tránh việc trẻ được chơi trẻ ngồi nhìn hay tranh giành lẫn nhau.

Đồ chơi cần thiết phải trang bị nhằm hình thành và phát triển khả năng HĐVĐV cho

trẻ:

- Đồ chơi hình tượng: xe các loại, búp bê…

- Đồ chơi mô phỏng: đồ chơi tắm bé, khám bệnh, cho bé ăn…

- Đồ chơi hình khối: các khối gỗ nhiều màu sắc (đỏ, xanh dương, vàng, trắng…),

nhiều hình khối với kích thước to nhỏ khác nhau (khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ, khối

tam giác…)

- Đồ chơi tháo lắp

- Đồ chơi rèn sự phối hợp giữa tay và mắt: lồng hộp, xâu hạt (nhiều loại hạt), lồng

vòng vào que

- Sách giấy dày

- …

46

Các loại đồ dùng trong sinh hoạt cần trang bị phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tự sử

dụng: chén, ly bằng ionx hay nhựa dẻo kích thước phù hợp với khả năng cầm nắm của đôi

tay trẻ; giày dép, mũ nón, quần áo có khóa gài đơn giản, dễ sử dụng.

3.2.1.2. Sắp xếp đồ dùng, đồ chơi

Hình 3.1 Hình 3.2

Đồ chơi sắp xếp cần chú ý:

- Trẻ giai đoạn 18 – 24 tháng đặc trưng khi chơi vẫn là chơi một mình và thường hay

giành đồ chơi của bạn. Vì vậy, sắp xếp đồ chơi nên để từng bộ, từng rổ riêng cho từng trẻ.

Trẻ thường cảm thấy bất an trong môi trường đồ chơi xếp thành góc dành cho nhiều trẻ vì

trẻ sẽ tranh giành lẫn nhau.

- Ý tưởng chơi của trẻ còn mờ nhạt, chưa ổn định thậm chí nhiều trẻ chưa xuất hiện ý

tưởng. Vì vậy, trong góc chơi của trẻ cần có thêm tranh hay mô hình mẫu nhằm gợi ý tưởng

cho trẻ (hình 3.1, hình 3.2).

- Đồ chơi sắp xếp vừa tầm trẻ để kích thích, tạo điều kiện thuận tiện và cơ hội cho trẻ

được tiếp xúc thực sự với chúng.

Đồ dùng phục vụ cho nhu cầu cá nhân cần bố trí nơi thuận tiện, có quy định cho trẻ

quen nề nếp, tạo cơ hội cho trẻ tự thực hiện khi cần thiết: vị trí để ly uống nước, kệ để dép,

tủ để balo, giá để khăn…

Cách thức thực hiện biện pháp:

- Trao đổi với giáo viên về các loại đồ chơi phù hợp với nội dung HĐVĐV.

- Bổ sung thêm các loại đồ chơi cần thiết cho trẻ hoạt động: mua sắm và tự làm thêm

một số đồ chơi (hình 3.3)

- Chụp hình, phóng tranh khổ A3, A4 làm tranh minh hoạ gợi ý nội dung chơi trang trí

vào các góc.

47

- Tận dụng các mảng tường trống bố trí một số trò chơi sử dụng gai dính (hình 3.4,

hình 3.5).

- Sắp xếp lại đồ dùng, đồ chơi trong phòng học gọn gàng, ngăn nắp, bố trí lại các góc

chơi và đồ chơi tương ứng.

Hình 3.3

Hình 3.4 Hình 3.5

3.2.2. Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ HĐVĐV trong chế độ sinh hoạt hàng ngày

Phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ không thể chỉ dừng lại ở việc tổ chức trong các

giờ chơi – tập. Việc hình thành kỹ năng cho trẻ đặc biệt là trẻ càng nhỏ càng cần được

thường xuyên lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức và thời điểm khác nhau. Chính vì vậy, cần

tạo cơ hội cho trẻ tự mình thực hiện những công việc đơn giản trong cuộc sống hàng ngày.

Cụ thể với trẻ lứa tuổi này đó là: tự mang giày dép có khóa đơn giản, tập tự cởi và kéo quần,

tập cài cúc áo, kéo dây kéo cặp, đóng mở cửa, tập tự xúc ăn bằng thìa, cầm chén, cầm ly

uống nước, đóng mở khóa nước khi đi vệ sinh hay rửa tay, lau tay sau khi rửa tay …

Những nội dung này thường ngày vẫn diễn ra trong cuộc sống của trẻ, tuy nhiên nhiều

khi do khả năng còn hạn chế, trẻ còn lóng ngóng. Trong khi đó, giáo viên không đủ kiên

nhẫn chờ đợi hay nhẹ nhàng hướng dẫn mà thay vào đó là sự nôn nóng, thúc giục càng làm

cho trẻ thiếu tự tin, lo lắng, mất tập trung dẫn đến trẻ càng lóng ngóng hơn khi thực hiện.

48

Do đó, thay vì những việc nên để trẻ thực hiện giáo viên thường làm thay trẻ, vô tình người

lớn đã đánh mất cơ hội để trẻ HĐVĐV.

Trẻ tiếp xúc và hoạt động với thế giới vạn vật xung quanh, GVMN ngoài việc rèn

luyện các thao tác hoạt động với chúng cần hướng trẻ chú ý đến đặc điểm của đối tượng

như: các bộ phận, kích thước, màu sắc, tiếng kêu hay âm thanh chúng phát ra…

HĐVĐV có thể diễn ra trong hầu hết các thời điểm xuyên suốt mỗi ngày trẻ đến trường. Như vậy, việc tổ chức cho trẻ 18 – 24th tham gia HĐVĐV cần được GVMN chú ý

kết hợp cho trẻ tham gia dưới nhiều hình thức ở các thời điểm khác nhau trong chế độ sinh

hoạt hàng ngày của trẻ ở trường MN. Khả năng của trẻ giai đoạn này còn rất nhiều hạn chế,

ban đầu chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn và kết quả không như yêu cầu. Chính vì vậy,

GVMN cần kiên nhẫn, tạo nhiều cơ hội cho trẻ được thực hiện, tận dụng mọi thời điểm

thích hợp cho trẻ hoạt động sẽ làm cho quá trình tổ chức hướng dẫn không khiên cưỡng mà

mang lại hiệu quả hơn.

3.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt cho đôi tay của trẻ

Theo V.A. Sukhomlinski, tay chính là sự khơi nguồn của trí tuệ, còn trí tuệ lại nằm

ngay trên đầu những ngón tay [19]. HĐVĐV của trẻ diễn ra với hành động cơ bản là hành

động TLMTQ và hành động công cụ. Qua đó, những thao tác của hoạt động trí tuệ dần được

hình thành và phát triển. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy để phát triển khả năng HĐVĐV, việc

rèn luyện sự linh hoạt, khéo léo của đôi tay là thực sự cần thiết.

Mục đích của biện pháp nhằm rèn luyện sự linh hoạt, khéo léo của cơ bàn tay và các ngón tay. Bởi vì để phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ, đặc biệt là trẻ 18 – 24th thao tác còn vụng về, lóng ngóng, GVMN cần tập luyện cho trẻ cơ bàn tay, sự phối hợp vận động

các ngón tay giúp đôi bàn tay linh hoạt, dẻo dai, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong việc

thực hiện các hành động với đồ vật một cách khéo léo, nhanh nhẹn và chuẩn xác hơn.

Cách thức thực hiện biện pháp:

- Sưu tầm các trò chơi với ngón tay; sử dụng các câu hát, lời thơ ngắn phối hợp với

động tác minh hoạ bằng đôi tay phù hợp khả năng của trẻ 18 – 24th (phụ lục 6). [13].

cho GVMN cách thức chơi với - Tập huấn

trẻ.

49

Hình 3.1. Hình vẽ minh hoạ trò chơi với ngón tay

3.2.4. Biện pháp 4: Tư vấn cho GVMN

Tư vấn cho GVMN một số nội dung:

- Sắp xếp tạo môi trường phù hợp trong việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều

kiện cho trẻ hoạt động với thế giới xung quanh một cách tích cực và hiệu quả.

- Soạn kế hoạch tổ chức hướng dẫn trẻ HĐVĐV trong giờ chơi – tập có chủ đích.

- Lựa chọn và tự làm một số đồ chơi cho trẻ HĐVĐV phù hợp với độ tuổi và khả

năng của trẻ và trong phạm vi có thể của GVMN làm đa dạng phong phú thêm các loại đồ

chơi giúp trẻ hứng thú hơn trong HĐVĐV. Chẳng hạn như: cách làm các loại đồ chơi xâu

hạt khác nhau về chất liệu; đồ chơi cài cúc áo; tận dụng các hộp giấy, lõi băng keo, lõi giấy

cho trẻ hoạt động xếp chồng, xếp cạnh; sử dụng mút xốp hay những món ăn kích thước nhỏ,

an toàn cho trẻ nhón, nhặt bằng 2 ngón tay; làm các bộ đồ chơi ghép hình bằng vải nỉ có gai

dính… (hình 3.3, hình 3.4, hình 3.5, hình 3.6)

Hình 3.6

3.2.5. Biện pháp 5: Tôn trọng và luôn đặt niềm tin vào khả năng của trẻ

Tôn trọng trẻ tức là coi trẻ là một con người độc lập, không bị người khác chỉ đạo, chi

phối. Khi trẻ làm điều gì đó có sai sót hoặc chưa hoàn thành, giáo viên cần thông cảm với

trẻ, tránh việc chê bai hay cấm đoán trẻ, yêu cầu trẻ được chơi cái này không được chơi đồ

chơi khác… Như vậy trẻ sẽ mất hứng thú dần dần mất đi lòng tự tin, vô tình đã gây trở ngại

đến sự phát triển tính độc lập và sự hứng thú trong hoạt động của trẻ.

50

Niềm tin là yếu tố đầu tiên giúp trẻ trở nên dạn dĩ. Đứa trẻ nếu không có niềm tin vào

chính bản thân mình sẽ khó khăn khi thực hiện những công việc vừa sức và càng dễ dàng bỏ

cuộc, không cố gắng khi gặp những việc vượt quá khả năng trẻ. Để phát triển lòng tự tin của

trẻ, GVMN cần đặt niềm tin của mình vào trẻ. Giáo viên cần có thái độ khích lệ, thừa nhận

trẻ. Nếu trẻ có việc làm chưa tốt chúng ta vẫn nên thừa nhận nguyện vọng tốt đẹp của trẻ.

Không mang trẻ ra so sánh lẫn nhau. Sự so sánh chỉ nên khi so sánh chính khả năng của trẻ

trước và sau khi trẻ có tiến bộ để khuyến khích, động viên trẻ cố gắng nỗ lực hơn. Khi trẻ

làm việc gì đó chưa được thành thạo cần thông cảm, để trẻ có cơ hội làm lại, nó sẽ tự nhiên

tiến bộ và lòng tự tin từng bước được xây dựng.

Giáo viên giữ thái độ tôn trọng và tin tưởng vào khả năng của trẻ chính là sự động

viên, khích lệ rất lớn đến trẻ, làm cho mối quan hệ giữa cô và trẻ thêm gần gũi thân thiết, tạo

nên bầu không khí an toàn, thoải mái. Từ đó, trẻ cởi mở, mạnh dạn, tự tin thử sức trong các

hoạt động.

Các biện pháp mà chúng tôi đề xuất nêu trên có mối quan hệ qua lại, tương hỗ, phụ

thuộc lẫn nhau. Biện pháp này là sơ sở, là điều kiện, là công cụ thực hiện biện pháp kia

và ngược lại.

3.3. Điều kiện thực hiện các biện pháp

3.3.1. Điều kiện đối với trẻ

- Có sức khoẻ tốt, ổn định.

- Hợp tác với giáo viên.

3.3.2. Điều kiện đối với giáo viên

- Có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định trong việc lên kế hoạch, tổ chức hướng

dẫn, rèn luyện cho trẻ HĐVĐV mọi lúc mọi nơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở

trường MN.

- Phối hợp tốt với phụ huynh trong việc CS – GD trẻ.

3.4. Mục đích thực nghiệm

Thực nghiệm sư phạm tiến hành nhằm kiểm nghiệm hiệu quả của các biện pháp đã đề

xuất nhằm phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th đã được đề xuất ở mục 3.2.

Nếu kết quả HĐVĐV của trẻ sau quá trình thực nghiệm cao hơn kết quả HĐVĐV của

trẻ trước khi thực nghiệm thì chứng tỏ các biện pháp chúng tôi đưa ra là phù hợp, hiệu quả

51

trong việc rèn luyện, phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th. Từ đó để thấy được

rằng giả thuyết khoa học chúng tôi đưa ra đã được kiểm định hiệu quả của nó.

Ngược lại, nếu sau quá trình thực nghiệm kết quả HĐVĐV của trẻ thấp hơn trước thì

chứng tỏ các biện pháp chúng tôi đưa ra là chưa phù hợp, không hiệu quả thì cần có sự thay

đổi để tìm ra các biện pháp khác hiệu quả hơn.

3.5. Nội dung thực nghiệm

Qua kết quả khảo sát thực trạng, trẻ hạn chế ở các nội dung HĐVĐV: Xâu hạt, cài cúc

áo, sử dụng chén muỗng trong giờ ăn, phân biệt vật có kích thước to – nhỏ, nhận biết màu

sắc. Vì vậy, chúng tôi tiến hành quá trình thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất và sử dụng

5 bài tập trẻ còn hạn chế làm nội dung đo trước và sau thực nghiệm.

3.6. Thời gian và địa điểm thực nghiệm

3.6.1. Thời gian thực nghiệm

Từ tháng 03/2013 – 05/2013. Thực nghiệm được tiến hành trong chế độ sinh hoạt hàng

ngày của trẻ ở trường MN. Đặc biệt trong thời điểm: hoạt động chơi – tập có chủ đích, chơi

tự do, giờ ăn của trẻ.

3.6.2. Địa điểm thực nghiệm:

Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở:

- Trường MN 12, số 7 Tăng Bạt Hổ, P.12, Q.5 và trường MN Hoa Hồng, số 687 Kinh

Dương Vương, P. An Lạc, Quận Bình Tân.

- Mẫu thực nghiệm: 20 trẻ ở nhóm thực nghiệm (NTN) thuộc trường MN 12 và 20

trẻ ở nhóm đối chứng (NĐC) thuộc trường MN Hoa Hồng trong độ tuổi 18 – 24th.

3.7. Tiêu chí và thang đánh giá

- Đánh giá khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th, chúng tôi chia làm 3 tiêu chí: Khả năng

thực hiện hành động TLMTQ; Khả năng thực hiện hành động công cụ; Khả năng nhận biết,

phân biệt màu sắc (màu đỏ, xanh dương) và kích thước (to hơn/ nhỏ hơn) của đồ vật (Phụ lục

5).

- Thang đánh giá xếp loại như sau:

TỔNG ĐIỂM ( x ) LOẠI

52

Tốt A 6 ≤ x ≤ 7.5

Khá B 5.25 ≤ x < 6

Trung bình C 3.75 ≤ x < 5.25

Yếu D x < 3.75

3.8. Thực nghiệm các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

Thực nghiệm được tiến hành gồm 3 giai đoạn: Đo trước thực nghiệm, tiến hành thực

nghiệm và đo sau thực nghiệm.

3.8.1. Đo trước thực nghiệm

Chúng tôi tiến hành đo đầu trước thực nghiệm trên tổng số trẻ của cả hai nhóm: NTN và

NĐC. Bài tập đo được sử dụng gồm 5 bài tập:

- Bài tập 1: Xâu hạt

- Bài tập 2: Sử dụng chén, muỗng

- Bài tập 3: Cài cúc áo

- Bài tập 4: Phân biệt 2 vật có kích thước to hơn – nhỏ hơn

- Bài tập 5: Nhận biết, phân biệt màu sắc

Sau khi đo đầu trước thực nghiệm, trẻ ở cả hai nhóm đều có mức độ phát triển tương

đương nhau.

3.8.2. Tổ chức thực nghiệm

3.8.2.1. Chuẩn bị:

Trao đổi, thống nhất với GVMN: cách thức thực hiện và đánh giá; các nội dung thực

nghiệm; trang bị và lựa chọn các đồ dùng, đồ chơi; thời điểm thực hiện; lập kế hoạch hoạt

động áp dụng các biện pháp.

3.8.2.2. Tiến hành

Trong thời gian thực nghiệm, NĐC ở trường MN khác và giáo viên phụ trách NĐC

không được thông tin về vấn đề thực nghiệm nên hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các

biện pháp chúng tôi thực nghiệm trên NTN.

Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi và giáo viên phụ trách thực nghiệm quan sát,

ghi chép lại những thay đổi, sự tiến bộ của trẻ ở từng hoạt động theo từng bài tập của các

tiêu chí.

53

3.8.3. Đo sau thực nghiệm

Sau thời gian thực nghiệm, chúng tôi sử dụng quá trình đo cuối thực nghiệm ở cả hai nhóm:

NTN và NĐC, nhằm kiểm tra kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ và kiểm nghiệm hiệu quả áp

dụng các biện pháp thực nghiệm. Điểm kết quả được tính bằng điểm tổng của 5 bài tập đo. Bài

tập đo và thang đánh giá cuối thực nghiệm được tiến hành như đo đầu thực nghiệm.

Sau khi đo cuối thực nghiệm, chúng tôi xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 nhằm

kiểm tra, đánh giá và so sánh kết quả HĐVĐV giữa hai nhóm trước và sau thực nghiệm để

đưa ra kết luận cuối cùng về hiệu quả của những biện pháp mà chúng tôi đề xuất nhằm nâng cao khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th.

3.9. Phân tích kết quả thực nghiệm

3.9.1. Phân tích định lượng

Cách đọc kết quả xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0

N: số lượng; Mean: giá trị TB; MEAN: Điểm TB chung; Std. Deviation: độ lệch

chuẩn; Sig.(2-tailed): giá trị kiểm định sự khác biệt có ý nghĩa thống kê; Frequency: tần

xuất; Percent: phần trăm (%); Histogram: biểu đồ thống kê; Independent Samples test:

kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai mẫu độc lập; Paired samples test: kiểm định

giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể phụ thuộc hay phối hợp từng cặp.

3.9.1.1. Kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NTN và NĐC Bảng 3.1 cho chúng tôi nhận xét sơ lược về kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 –

24th của NTN và NĐC trước và sau thực nghiệm như sau:

Nhìn chung kết quả đo trước thực nghiệm về khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC ở hầu

hết các bài tập đều có giá trị trung bình (mean) cao hơn NTN. Riêng bài tập 4, kết quả ở

NTN (mean = 0.51) cao hơn NĐC (mean = 0.48). Sau quá trình thực nghiệm các biện pháp

chúng tôi đưa ra, kết quả thu được ở NTN được nâng cao đáng kể, giá trị trung bình ở các

bài tập đều vượt lên cao hơn NĐC.

Bảng 3.1. Kết quả đo trước và sau thực nghiệm của NTN và NĐC

NTN

NĐC

Sau TN

Sau TN

Cao

TB

BT1

Thấp

Các nhóm Giá trị

Trước TN % N 10 2 20 4 70 14

N 5 10 5

% 25 50 25

Trước TN % N 10 2 30 6 60 12

N 2 6 12

% 10 30 60

54

Mean

0.65

0.99

0.70

0.71

Cao

Điểm

TB

BT2

Thấp

1 6 3

5 30 65

4 11 5

20 55 25

5 8 7

25 40 35

5 9 6

25 45 30

Mean

0.65

0.86

0.84

0.83

Cao

TB

BT3

Thấp

0 0 20

0 0 100

0 8 12

0 40 60

0 1 19

0 5 95

0 1 19

0 5 95

Mean

0.19

0.69

0.26

0.31

Cao

TB

BT4

Thấp

1 4 15

5 20 75

7 8 5

35 30 35

2 2 16

10 10 80

1 4 15

5 20 75

Mean

0.51

1.04

0.48

0.49

Cao

TB

BT5

Thấp

1 3 16

5 15 80

6 8 6

30 40 30

1 6 13

5 30 65

1 5 14

5 25 70

0.51

0.96

0.53

0.53

Xếp loại

0 0 3 17

0 0 15 85

1 5 11 3

5 25 55 15

0 2 2 16

0 10 10 80

1 1 2 16

5 5 10 80

Mean A B C D Điểm tổng

2.51

4.56

2.80

2.86

0.91

0.79

1.21

1.24

Std. Deviation

Tiếp theo sau là những phân tích cụ thể về kết quả thực nghiệm một số biện pháp phát

triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th

3.9.1.2. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm của NTN và NĐC

• Kết quả các bài tập của hai nhóm trước thực nghiệm

Bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 cho thấy trước thực nghiệm khả năng thực hiện các bài tập, có

4 bài tập NĐC thực hiện đạt kết quả cao hơn. Chỉ riêng bài tập 4, kết quả đạt được ở NTN

cao hơn NĐC. Tuy nhiên, nhìn chung mức chênh lệch giữa mean của các bài tập là không

đáng kể. Mức độ đạt được ở cả hai nhóm đều ở mức độ trung bình và yếu.

55

0,84

0,7

0,65

0,65

0,51

0,51

0,53

0,48

0,26

0,19

0,9 0,8 0,7 0,6 0,5 0,4 0,3 0,2 0,1 0

BT 1

BT 2

BT 3

BT 4

BT 5

Điểm TB Nhóm TN

Điểm TB Nhóm ĐC

Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh giá trị trung bình thực hiện các bài tập

của NĐC và NTN trước thực nghiệm

Biểu đồ 3.2. Biểu đồ phân tán điểm số của NTN và NĐC trước thực nghiệm

• Sự phân tán điểm số của hai nhóm trước thực nghiệm

Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram 3.2 về sự phân tán điểm số của hai nhóm trước

thực nghiệm, có thể thấy rằng: ở cả hai nhóm các thanh biểu đồ không đồng đều, cách rất xa

đường cong chuẩn, đặc biệt là ở NTN và đường cong chuẩn nghiêng về phía trái. Chứng tỏ ở cả 2

nhóm, sự phân tán điểm số không đều. Điểm số không xoay quanh giá trị trung bình và điểm số

đạt loại yếu chiếm đa số.

• Kết quả xếp loại của hai nhóm trước thực nghiệm

Nhìn vào bảng 3.2, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ ở

NĐC cao hơn NTN. Không có trẻ nào đạt loại B ở NTN trong khi đó ở NĐC tỷ lệ trẻ đạt

loại B là 10%. Tỷ lệ trẻ đạt loại D ở NTN cao hơn NĐC 5%.

56

Xét về điểm số, mức độ và kết quả xếp loại ở NĐC và NTN chúng tôi đều thấy kết

quả ở NĐC cao hơn NTN nhưng không đáng kể. Để có kết luận chuẩn xác hơn về khả

năng HĐVĐV của trẻ ở cả hai nhóm trước thực nghiệm chúng tôi thực hiện thêm t – test

(Paired – Sample T test).

Bảng 3.2. So sánh kết quả xếp loại của NTN và NĐC trước thực nghiệm

NTN NĐC Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ

0 0 3 17 0.0 0.0 15.0 85.0 0 2 2 16 0.0 10.0 10.0 80.0 A B C D

20 100.0 20 100 Tổng

• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV

của trẻ 18 – 24th giữa NTN và NĐC trước thực nghiệm

Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa

NTN và NĐC trước thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:

Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy rằng kết quả thực hiện các bài tập, tổng điểm và kết quả xếp

loại về khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC và NTN trước thực nghiệm là không có sự chênh lệch

vì giá trị Sig. (2-tailed) ở các kết quả kiểm định đó lần lượt là: 0.59; 0.07; 0.21; 0.76; 0.92; 0.44

và 0.42 đều > 0.05. Điều đó chứng tỏ rằng, không có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết

quả khả năng HĐVĐV giữa NĐC và NTN trước thực nghiệm.

Có thể nhận định rằng, trước thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập HĐVĐV của

NĐC và NTN là tương tự như nhau, không có sự chênh lệch kết quả giữa hai nhóm. Như

vậy, mức độ chênh lệch kết quả khả năng HĐVĐV giữa NĐC và NTN trước thực nghiệm là

không có độ tin cậy.

Bảng 3.3. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa

kết quả HĐVĐV của NĐC và NTN trước thực nghiệm.

Mean

Kết quả kiểm định

Nội dung

Sig. (2tailed)

NTN NĐC

0.65

0.7

Bài tập

BT1

0.59

57

0.65 0.19 0.51 0.51

0.84 0.26 0.48 0.53

BT2 BT3 BT4 BT5

0.07 0.21 0.76 0.92

2.51

2.80

0.44

Tổng điểm

0.42

Xếp loại

3.9.1.3. So sánh sánh kết quả đo sau thực nghiệm của NTN và NĐC • Kết quả thực hiện các bài tập của hai nhóm sau thực nghiệm

Biểu đồ 3.3 cho thấy rằng, sau thực nghiệm khả năng thực hiện các bài tập giữa

trẻ ở hai nhóm đã có sự khác biệt rõ rệt, kết quả thực hiện các bài tập của NTN cao

hơn nhiều so với kết quả của NĐC sau thực nghiệm, cụ thể:

- Bài tập 1: NĐC đạt 0.71 và NTN đạt 0.99, điểm chênh lệch là: 0.28 điểm.

- Bài tập 2: NĐC đạt 0.83 và NTN đạt 0.86. điểm chênh lệch là: 0.03 điểm

- Bài tập 3: NĐC đạt 0.31 và NTN đạt 0.69, điểm chênh lệch là: 0.38 điểm.

- Bài tập 4: NĐC đạt 0.49 và NTN đạt 1.04, điểm chênh lệch là: 0.55 điểm.

- Bài tập 5: NĐC đạt 0.53 và NTN đạt 0.96, điểm chênh lệch là: 0.43 điểm.

Mean

1,04

1,20

0,99

0,96

0,86

1,00

0,83

0.71

0,69

0,80

0,53

0,49

0,60

0,31

0,40

0,20

0,00

BT 1

BT 2

BT 3

BT 4

BT 5

Nhóm TN

Nhóm ĐC

- Điểm trung bình (MEAN): NĐC đạt 2.86; NTN đạt: 4.56, điểm chênh lệch là 1.70 điểm.

Biểu đồ 3.3. So sánh giá trị trung bình thực hiện các bài tập

• Sự phân tán điểm số của hai nhóm sau thực nghiệm

của NĐC và NTN sau thực nghiệm

58

Biểu đồ 3.4. Sự phân tán điểm số của NTN và NĐC sau thực nghiệm

Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram về sự phân tán điểm số của hai nhóm sau thực

nghiệm, có thể thấy rằng: Sau thực nghiệm, NTN điểm từ 4 đến 4.5 là mức điểm có số trẻ nhiều

nhất đạt được còn NĐC có tỉ lệ số trẻ đạt ở mức điểm 1.75 là cao nhất tiếp đến là mức từ 2.5 đến

2.75. Điểm số cao nhất ở NTN đạt được là 6 và thấp nhất là 3.25; còn ở NTN điểm cao nhất là 6

và thấp nhất là 1.5.

Đường cong thể hiện sự phân tán điểm số của NĐC nghiêng về phía trái và các thanh nằm

cách rất xa đường cong và các thanh không liên tục, chứng tỏ rằng điểm số thấp hơn giá trị trung

bình chiếm tỷ lệ cao và phân bố điểm chưa chuẩn. Cho nên, kết quả đạt được của trẻ ở NĐC

vẫn chưa có độ tin cậy cao sau thực nghiệm. Còn ở NTN, đường cong thể hiện sự cân

xứng hơn, các thanh của biểu đồ mặc dù vẫn chưa thực sự đều nhau nhưng nằm gọn, liên

tục và khoảng cách không quá xa so với đường cong chuẩn như ở NĐC. Điều này cho thấy

rằng, sự phân tán điểm sau thực nghiệm của NTN đã đạt mức chuẩn hơn NĐC. Chính vì

vậy, kết quả đạt được của trẻ ở NTN có độ tin cậy cao.

• Kết quả xếp loại của trẻ ở hai nhóm sau thực nghiệm

Nhìn vào bảng trên, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của trẻ ở

cả hai nhóm NĐC và NTN sau thực nghiệm có sự khác biệt rõ rệt. Sau thực nghiệm, NĐC

có tỉ lệ trẻ xếp loại D nhiều nhất (80%), trong khi ở NTN chỉ có 3 trẻ xếp loại D (15%).

NTN có tỉ lệ số trẻ xếp loại B, C nhiều hơn hẳn so với NĐC.

Như vậy, sau thực nghiệm giữa hai nhóm có sự khác biệt rõ rệt về kết quả xếp loại. Nếu

như tỉ lệ xếp loại của trẻ ở cả hai nhóm trước thực nghiệm là tương đương nhau thì sau thực

nghiệm tỉ lệ xếp loại của trẻ NTN ở các loại A, B, C đã tăng nhiều hơn so với tỉ lệ xếp các loại

này ở NĐC. Ở NTN, số trẻ đạt loại yếu (D) chỉ còn 3 trẻ (15%) và thay vào đó là đa số trẻ đạt loại

trung bình (C) và khá (B). Trong khi đó, NĐC sau thực nghiệm đa số trẻ vẫn xếp loại Yếu (D).

Bảng 3.4. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC và NTN sau thực nghiệm.

NTN NĐC Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ

1 5 5.0 10.0 1 1 5.0 5.0 A B

11 55.0 2 10.0 C

59

3 15.0 16 80.0 D

20 100.0 20 100 Tổng

• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV

của trẻ 18 – 24th giữa NTN và NĐC sau thực nghiệm

Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa

NTN và NĐC sau thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:

Bảng 3.5 cho thấy kết quả kiểm định mức độ chênh lệch ý nghĩa về kết quả HĐVĐV

giữa hai nhóm như sau:

- Bài tập 1 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.020 < 0.05 - Bài tập 2 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.735 > 0.05 - Bài tập 3 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Bài tập 4 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Bài tập 5 có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Tổng điểm có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.000 < 0.05 - Xếp loại có giá trị Sig.(2-tailed) = 0.009 < 0.05. Như vậy, với kết quả kiểm định ở các bài tập 1, 3, 4, 5, tổng điểm và kết quả xếp loại đều có giá trị kiểm định Sig.(2-tailed) < 0.05. Điều này chứng tỏ rằng, có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết quả HĐVĐV giữa hai nhóm sau thực nghiệm.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa

NTN và NĐC sau thực nghiêm có độ tin cậy cao.

Bảng 3.5. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa

kết quả HĐVĐV của NĐC và NTN sau thực nghiệm.

Mean

Kết quả kiểm định

NTN NĐC

Sig. (2tailed)

Nội dung

0.99

0.71

0.020

BT1

0.86

0.83

0.735

BT2

0.69

0.31

0.000

BT3

Bài tập

1.04

0.49

0.000

BT4

0.99

0.53

0.005

BT5

4.56

2.86

0.000

Tổng điểm

0.009

Xếp loại

60

3.9.1.4. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NTN

• Kết quả thực hiện các bài tập NTN trước và sau thực nghiệm

Từ bảng (kết quả chung trước và sau TN), chúng tôi có biểu đồ so sánh mức độ thực hiện các

tiêu chí của NTN trước và sau TN như sau:

Biểu đồ 3.5 cho thấy mức độ thực hiện các bài tập của trẻ NTN trước và sau thực

nghiệm có sự chênh lệch đáng kể. Mức độ cao và mức độ trung bình của các bài tập trước

thực nghiệm chiếm tỷ lệ rất thấp và sau thực nghiệm tăng lên rõ rệt:

- Bài tập 1: Từ 10% tăng lên 25%

- Bài tập 2: Từ 5% tăng lên 20%

- Bài tập 4: Từ 5% tăng lên 35%

- Bài tập 5: Từ 5% tăng lên 30%

Mức độ cao:

- Bài tập 1: Từ 20% tăng lên 50%

- Bài tập 2: Từ 30% tăng lên 55%

- Bài tập 3: Từ 0% tăng lên 40%

- Bài tập 4: Từ 20% tăng lên 40%

- Bài tập 5: Từ 15% tăng lên 40%

Mức độ trung bình:

Mức độ thấp giảm đi đáng kể sau thực nghiệm.

Như vậy, sau thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập HĐVĐV của trẻ NTN đã nâng

cao rõ rệt, có sự chênh lệch đáng kể về kết quả trước và sau thực nghiệm.

%

100

80

75

70

65

60

55

50

40

40

40

35

30

30

30

25

25

25

25

20

20

20

15

10

5

5

5

0

0

0

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Sau TN

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Trước TN

TN

TN

TN

TN

BT1

BT2

BT3

BT4

BT5

Cao

Trung bình

Thấp

61

Biểu đồ 3.5. So sánh mức độ thực hiện các bài tập của NTN trước và sau thực nghiệm

• Sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm

Nhìn vào biểu đồ thống kê histogram về sự phân tán điểm TB của NTN trước và sau

thực nghiệm, có thể thấy rằng: trước thực nghiệm, NTN có tỉ lệ số trẻ đạt ở mức điểm dưới 2

5x≤ < là mức điểm có tỉ lệ trẻ nhiều nhất đạt

điểm là nhiều nhất, còn sau thực nghiệm điểm 4

được (x: điểm số). Điểm cao nhất ở NTN trước thực nghiệm đạt được là 4.5 và thấp nhất là 1.5;

còn sau thực nghiệm điểm cao nhất là 6 và thấp nhất là 3.25.

Đường cong thể hiện sự phân tán điểm số và cả về tỷ lệ giữa các điểm số. Điểm số của

NTN trước thực nghiệm không có sự cân xứng, các thanh của biểu đồ nằm cách rất xa trong

đường cong chuẩn và không liên tục sự phân tán điểm số trước thực nghiệm xung quanh

điểm trung bình 2.51 so với sau thực nghiệm sung quanh điểm trung bình 4.56 là thấp hơn.

Từ đó cho ta một bằng chứng rằng NTN trước thực nghiệm phân phối điểm số chưa chuẩn,

sự phân phối điểm của NTN sau thực nghiệm đã đạt mức chuẩn hơn trước trước thực

nghiệm. Chính vì vậy, kết quả HĐVĐV của trẻ ở NTN sau thực nghiệm có độ tin cậy cao

hơn trước thực nghiệm.

Biểu đồ 3.6. So sánh sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm

• Kết quả xếp loại của trẻ NTN trước và sau thực nghiệm

Nhìn vào bảng 3.6 và biểu đồ 3.7, chúng tôi thấy kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV

của trẻ NTN trước và sau thực nghiệm có sự khác biệt lớn. Sau thực nghiệm, tỉ lệ trẻ xếp

loại A, B, C tăng rõ rệt và tỷ lệ trẻ xếp loại D giảm đi đáng kể.

Trong 20 trẻ NTN sau thực nghiệm, có 17 trẻ thay đổi kết quả xếp loại khả năng

HĐVĐV, đó là vượt lên một hoặc hai bậc so với trước thực nghiệm. Trong đó có 4 trường

hợp tiến bộ rõ rệt mà chúng tôi chú ý đặc biệt đó là:

62

- Bé Quỳnh Như trước thực nghiệm xếp loại C, sau thực nghiệm là loại A. Bé Phúc

Nguyên trước thực nghiệm xếp loại D, sau thực nghiệm là loại B. Trong đó, bài tập 3 (cài

cúc áo) cả hai bé ban đầu đạt mức độ thấp, sau thực nghiệm đạt mức độ cao.

- Bé Uyên Nhi, Phúc Nguyên xếp loại sau thực nghiệm từ loại D tăng lên loại B. Các

bài tập sau thực nghiệm đều tăng lên từ mức độ thấp lên trung bình hoặc từ trung bình lên

mức độ cao. Với bài tập 5 bé Phúc Nguyên ban đầu khi hỏi màu sắc của các đồ chơi bé đều

nói màu tím, sau thực nhiệm bé đều phân biệt được hai màu đỏ và xanh dương.

63

Bảng 3.6. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NTN trước và sau thực nghiệm.

Trước TN Sau TN Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ

0 0.0 5.0 1 A

0 3 0.0 15.0 25.0 55.0 5 11 B C

17 85.0 15.0 3 D

20 100.0 100 20 Tổng

%

100

85

80

55

60

40

25

15

15

20

5

0

0

0

B

A

C

D

Sau TN

Trước TN

Biểu đồ 3.7. So sánh kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NTN

trước và sau thực nghiệm

• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của trẻ 18

– 24th NTN trước và sau thực nghiệm

Chúng tôi sử dụng công cụ kiểm định t – test (Paired – Sample T test) nhằm kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th giữa

NTN và NĐC sau thực nghiệm. Kết quả kiểm định như sau:

Qua kết quả kiểm nghiệm t–test (Paired Samples test) đã được tóm tắt ở bảng 4.12

cho thấy trung bình về điểm trước và sau thực nghiệm của NTN lần lượt là 2.51 và 4.56.

Điểm chênh lệch là: 4.56 – 2.52 = 2.04 điểm.

Giá trị độ lệch chuẩn ở NTN trước và sau thực nghiệm có sự khác biệt: độ lệch chuẩn của

trước thực nghiệm là 0.91 và sau thực nghiệm là 0.79. Như vậy, NTN có độ chênh lệch điểm

sau thực nghiệm ít hơn trước thực nghiệm.

Kết quả kiểm định mức độ chênh lệch ý nghĩa về kết quả HĐVĐV của trẻ NTN trước

và sau thực nghiệm ở các bài tập, tổng điểm và xếp loại thì Sig.(2-tailed) đều nhỏ hơn 0.05.

Điều này chứng tỏ rằng, có sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về kết quả HĐVĐV của

64

NTN trước và sau thực nghiệm.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở NTN

trước và sau thực nghiêm có độ tin cậy cao. Bảng 3.7. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của

NTN trước và sau thực nghiệm.

Mean

Kết quả kiểm định

Trước TN Sau TN

Nội dung

Sig. (2tailed)

0.99

0.65

BT1

0.000

0.86

0.65

BT2

0.000

0.69

0.19

BT3

Bài tập

0.009

1.04

0.51

BT4

0.000

0.99

0.51

BT5

0.000

4.56

2.51

Tổng điểm

0.000

0.79

0.91

Std. Deviation

Xếp loại

0.000

3.9.1.4. So sánh kết quả đo trước thực nghiệm và đo sau thực nghiệm của NĐC

• Kết quả thực hiện các bài tập NĐC trước và sau thực nghiệm

Biểu đồ 3.8 cho thấy mức độ thực hiện các bài tập của trẻ NĐC trước và sau thực

nghiệm có chênh lệch, cụ thể:

- Bài tập 1 và 3 ổn định.

- Bài tập 2: Mức độ cao ổn định; Mức độ trung bình tăng từ 40% lên 45%; Mức độ

thấp giảm từ 40% còn 30%.

- Bài tập 4: Mức độ cao giảm từ 10% còn 5%; Mức độ trung bình tăng từ 10 lên 25%;

Mức độ thấp giảm từ 80% còn 70%.

- Bài tập 5: Mức độ cao ổn định; Mức độ trung bình giảm từ 30% còn 25%; Mức độ

thấp tăng từ 65% lên 70%.

65

95

95

80

70

70

65

60

60

45

40

35

30

30

30

30

25

25

25

25

10

10

10

10

5

5

5

5

5

0

0

% 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Sau TN

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Sau TN Trước

Trước TN

TN

TN

TN

TN

BT1

BT2

BT3

BT4

BT5

Cao

Trung bình

Thấp

Biểu đồ 3.8. So sánh mức độ thực hiện các bài tập NĐC trước và sau thực nghiệm

Sau thực nghiệm, số trẻ đạt ở mức độ cao vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp và mức độ thấp của

các bài tập ít thay đổi, chiếm tỷ lệ khá cao. Thậm chí ở bài tập 5, sau thực nghiệm tỷ lệ trẻ ở

mức thấp cao hơn trước thực nghiệm 5%.

Như vậy, sau thực nghiệm mức độ thực hiện các bài tập về HĐVĐV của trẻ NĐC

không có sự thay đổi rõ rệt về kết quả trước và sau thực nghiệm.

Biểu đồ 3.9. Biểu đồ so sánh sự phân tán điểm số của NTN trước và sau thực nghiệm.

• Sự phân tán điểm số của NĐC trước và sau thực nghiệm

Biểu đồ histogram 3.9 cho thấy điểm số cao nhất trước thực nghiệm là cận 6 và thấp

nhất là cận 2, điểm số cận 2 chiếm nhiều nhất. Điểm số chiếm đa số sau thực nghiệm là cận

2 và cận 3. Đường cong chuẩn biểu thị sự phân tán điểm số của NĐC trước và sau thực

nghiệm đều nghiêng về bên trái, các thanh nằm cách xa đường cong chuẩn và không liên

tục. Điều này có thể nhận định rằng: sự phân tán điểm số NĐC trước và sau thực nghiệm

66

chưa chuẩn và thấp so với giá trị trung bình. Chính vì vậy, kết quả HĐVĐV của trẻ ở NĐC

sau thực nghiệm không có sự thay đổi, không có sự chênh lệch đáng kể nên chưa có độ

tin cậy cao.

• Kết quả xếp loại của trẻ NĐC trước và sau thực nghiệm

Bảng 3.8. Kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.

Trước TN Sau TN Xếp loại Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ

0 2 0.0 10.0 1 1 5.0 5.0 A B

2 16 10.0 80.0 2 16 10.0 80.0 C D

N

20

16

16

15

10

5

2

2

2

1

1

0

0

A

B

C

D

Sau TN

Trước TN

20 100.0 20 100 Tổng

Biểu đồ 3.10. So sánh kết quả xếp loại khả năng HĐVĐV của NĐC

trước và sau thực nghiệm

Nhìn vào bảng 3.8 và biểu đồ 3.10, chúng tôi thấy rằng kết quả xếp loại khả năng

HĐVĐV của trẻ NĐC trước và sau thực nghiệm không có sự khác biệt đáng kể. Sau thực

nghiệm, tỉ lệ trẻ xếp loại A có tăng nhưng rất ít, tỷ lệ tăng loại A do giảm từ loại B. Số trẻ

xếp loại C và D không thay đổi.

• Kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa kết quả HĐVĐV của trẻ 18

– 24th NĐC trước và sau thực nghiệm

Bảng 3.9. Kết quả kiểm định độ tin cậy về mức độ chênh lệch ý nghĩa

kết quả HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.

67

Mean

Kết quả kiểm định

Trước TN Sau TN

Nội dung

Sig. (2tailed)

0.71

0.70

BT1

0.330

0.83

0.84

BT2

0.330

0.31

0.26

BT3

Bài tập

0.042

0.49

0.48

BT4

0.666

0.53

0.53

BT5

1.000

2.86

2.80

Tổng điểm

0.096

1.24

1.21

Std. Deviation

Xếp loại

0.577

Bảng 3.9 cho thấy rằng kết quả thực hiện các bài tập, tổng điểm và kết quả xếp loại về

khả năng HĐVĐV của trẻ ở NĐC trước và sau TN không có sự chênh lệch vì giá trị Sig.(2-

tailed) ở các kết quả kiểm định ở bài tập 1, 2, 4, 5, lần lượt là: 0.330; 0.330; 0.666; 1.000.

Riêng bài tập 3 là 0.042 < 0.05. Tuy nhiên, tổng điểm và xếp loại cuối cùng lần lượt là

0.096 và 0.577 đều > 0.05. Điều đó chứng tỏ rằng, không có sự chênh lệch có ý nghĩa

thống kê về kết quả HĐVĐV của NĐC trước và sau thực nghiệm.

Tóm lại, khả năng HĐVĐV của NĐC trước và sau TN là tương tự như nhau, không có sự

chênh lệch có ý nghĩa thống kê. Có thể kết luận rằng: mức độ chênh lệch kết quả HĐVĐV của

NĐC trước và sau thực nghiệm là không có độ tin cậy.

3.9.2. Phân tích định tính

3.9.2.1. Đánh giá kết quả thực nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV

của trẻ 18 – 24th

Việc thực nghiệm một số biện pháp nhằm phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ 18 – 24th mà chúng tôi đã tiến hành bao gồm những biện pháp nhằm tác động đến quá trình trẻ

HĐVĐV trong giờ chơi – tập cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Từ đó, khả năng

HĐVĐV của trẻ được hình thành, rèn luyện, củng cố và phát triển. Các biện pháp tác động

đến thao tác thực hiện 2 loại hành động cơ bản của HĐVĐV là hành động TLMTQ, hành

động công cụ và khả năng nhận biết một số đặc điểm của đồ vật (màu sắc, kích thước).

Trước thực nghiệm, phần lớn trẻ vẫn chưa tự xúc ăn, chưa phân biệt rõ ràng vật nào to

hơn hay nhỏ hơn, thao tác xâu hạt còn vụng về, trẻ thực hiện các thao tác cần sự phối hợp

giữa hai tay còn lóng ngóng, đặc biệt hầu hết các trẻ chưa biết chơi cài cúc áo, khả năng tập

trung chú ý, kiên trì trong HĐVĐV còn rất hạn chế.

68

Sau thực nghiệm, phần lớn trẻ có thể tự xúc ăn, mặc dù một vài trẻ cách cầm muỗng

vẫn chưa thật chuẩn xác do cơ bàn tay của trẻ còn yếu. Khả năng nhận biết và phân biệt đặc

điểm đồ vật về màu sắc và kích thước nâng cao đáng kể, sự phối hợp giữa hai bàn tay (thực

hiện thao tác xâu hạt) trở nên linh hoạt, khéo léo hơn. Riêng nội dung cài cúc áo, trẻ có tiến

bộ tuy nhiên số trẻ thực hiện tốt vẫn chiếm tỉ lệ thấp. Chúng tôi nhận thấy, trò chơi này ở cả

hai NTN và NĐC từ trước đến khi chúng tôi khảo sát trẻ mới lần đầu tiên được chơi. Bên

cạnh đó nội dung này tương đối khó so với độ tuổi và trên thực tế quần áo của trẻ lứa tuổi

này ít khi cài cúc hoặc có cũng rất ít. Tuy nhiên, chúng tôi muốn đưa vào thử nghiệm để biết

được khả năng của trẻ có thể nâng cao ở giới hạn như thế nào để sau này tiếp tục có hướng nghiên cứu cho phù hợp với độ tuổi cũng như khả năng thực tế của trẻ 18 – 24th.

3.9.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thực nghiệm

• Chủ quan:

Khả năng, kinh nghiệm, sự nhiệt tình và kiên trì của nhà nghiên cứu trong việc

tìm hiểu thực trạng, đề xuất và thực nghiệm các biện pháp nhằm phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.

• Khách quan:

- Sự tạo điều kiện của Ban Giám Hiệu nhà trường, của giáo viên trong việc phối hợp

với nhà nghiên cứu để phát và thu phiếu điều ra, đưa ra những ý kiến về thực tế của nhà

trường cũng như tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào quá trình thực nghiệm.

- Sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh cũng góp phần tạo điều kiện về thời gian để con

của họ tham gia vào các NTN.

- Sự hợp tác hồn nhiên, ngây thơ và nhiệt tình của trẻ là yếu tố quyết định trong việc

đưa ra nội dung của nghiên cứu thực tiễn cũng như quyết định hiệu quả của quá trình thực

nghiệm các biện pháp đã đề xuất.

3.9.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực nghiệm

• Thuận lợi

- Trước và trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận được sự quan tâm sâu sắc

và sự giúp đỡ nhiệt tình của các giáo viên hướng dẫn, giảng viên trong và ngoài khoa, đồng

thời Ban giám hiệu, các giáo viên, phụ huynh tại địa bàn nghiên cứu cũng đã rất tạo điều

kiện thuận lợi cho chúng tôi trong việc phỏng vấn, quan sát, phát phiếu điều tra, quay phim,

chụp hình….

- Chúng tôi cũng đã nhận được sự hợp tác rất nhiệt tình và rất kiên trì của giáo viên

đứng lớp cũng như trẻ trong quá trình phát phiếu, trao đổi chuyên môn, thực nghiệm...

69

• Khó khăn

- Do các biện pháp chúng tôi đề xuất được thực nghiệm lần đầu ở địa bàn tại trường

MN thực nghiệm, thời gian nghiên cứu hạn chế nên chưa đi sâu hết các nội dung HĐVĐV của trẻ 18 – 24th và chỉ mới tác động đến GVMN và trẻ ở trường MN mà chưa thực hiện

và ở các trường MN trẻ được xếp vào nhóm 18 – 24th nhưng thực tế đến thời điểm chúng tôi thực hiện khảo sát và thực nghiệm số trẻ vượt ngoài 18 – 24th khá nhiều nên việc lựa chọn mẫu gặp nhiều khó

được công tác phối kết hợp với phụ huynh để rèn luyện cho trẻ tại gia đình. - Tiêu chí của chúng tôi là thực hiện trên trẻ ở giai đoạn 18 – 24th

khăn.

- Về biện pháp xây dựng môi trường đồ chơi, thực sự chúng tôi thực hiện chưa tới

cùng của biện pháp. Đa số chúng tôi chỉ bố trí, sắp xếp lại phòng cho ngăn nắp, gọn gàng.

Khả năng về kinh tế có hạn nên chỉ mua sắm, tự làm thêm một số đồ chơi và trang trí góc

lớp ở mức cho phép.

Chính vì những khó khăn trên, kết quả của công trình nghiên cứu chỉ đạt hiệu quả ở

mức tương đối, chưa cao.

Tiểu kết chương 3

HĐVĐV của trẻ bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau. Để cho tinh gọn, chúng tôi hệ thống lại

3 tiêu chí cơ bản cần khảo sát là thao tác thực hiện hành động TLMTQ, thao tác thực hiện hành động

công cụ và nhận biết, phân biệt màu sắc, kích thước của đồ vật. Qua khảo sát thực trạng, chúng tôi rút

ra những nội dung trẻ còn nhiều hạn chế và tác động các biện pháp để phát triển khả năng HĐVĐV

của trẻ. Kết quả thực nghiệm đã cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

- Trước thực nghiệm, khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở nhóm NTN và NĐC là tương

đối như nhau và chưa cao, chủ yếu xếp loại Yếu .

- Sau thực nghiệm, khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th ở nhóm NTN cao hơn hẳn so với

trước thực nghiệm và cao hơn so với NĐC, trong đó trẻ xếp loại Yếu còn lại rất ít loại

Trung bình và loại Khá nâng lên đáng kể và có cả trẻ xếp loại Tốt.

- Kết quả thực nghiệm khẳng định độ tin cậy, tính khả thi và hiệu quả của một số biện

pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th đã được đề xuất trong luận văn.

Như vậy, quá trình thực nghiệm đã được tiến hành nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả

của một số biện pháp đã đề xuất, đồng thời, kết quả thực nghiệm cũng đã chứng minh cho

giả thuyết khoa học đã đề ra.

70

71

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về HĐVĐV của trẻ 18 – 24th, chúng tôi

rút ra một số nhận định:

- HĐVĐV là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với lứa tuổi ấu nhi và giai đoạn trẻ 18 – 24th là giai đoạn sơ khai do đó việc người lớn tổ chức hướng dẫn trẻ tham gia HĐVĐV là thực sự cần thiết.

- HĐVĐV là hoạt động diễn ra không chỉ trong các giờ chơi – tập, chơi tự do mà còn

diễn ra trong các thời điểm khác nhau trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.

- Việc tổ chức, hướng dẫn trẻ HĐVĐV không chỉ diễn ra ở trong phạm vi nhà trường,

là trách nhiệm của GVMN mà còn diễn ra ở mọi thời điểm trong cuộc sống hàng ngày của

trẻ ở gia đình và ngoài xã hội. Do đó, người lớn cần có sự hiểu biết nhất định để trẻ được

HĐVĐV một cách hiệu quả.

- Thực tiễn cho thấy: trẻ chưa có nhiều cơ hội để được hoạt động với đồ chơi và sử

dụng các đồ dùng trong sinh hoạt nhằm rèn luyện và phát huy tối đa khả năng của mình. Do

đó, khả năng HĐVĐV của trẻ còn nhiều hạn chế và chưa có điều kiên được nâng cao.

- Việc xây dựng hệ thống các biện pháp tác động đến quá trình tổ chức hướng dẫn trẻ

18 – 24th tham gia HĐVĐV là thực sự cần thiết.

Công trình nghiên cứu bước đầu đã thể hiện được tính ưu việt, tính hiệu quả của các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th bằng quá trình thực nghiệm sư phạm tác động các biện pháp đã đề xuất. Tuy nhiên, đây chỉ là những kết quả ban đầu và chỉ

thực nghiệm trong phạm vi nhỏ với số lượng trẻ ít, thời gian thực nghiệm chưa nhiều.

Chúng tôi mong muốn những nghiên cứu tiếp theo sẽ sử dụng kết quả của công trình nghiên

cứu này làm cơ sở để có thể đạt được độ tin cậy cao hơn trong các công trình nghiên cứu về sau.

2. Kiến nghị sư phạm Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về đề tài, chúng tôi xin đề xuất một số kiến

nghị như sau:

• Với các cấp quản lí GDMN:

- Cần chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ cho đội ngũ GVMN, nên thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn, báo cáo điển hình về lý luận cũng như các biện pháp phát triển khả năng HĐVĐV của trẻ 18 – 24th.

- Xây dựng môi trường giáo dục tốt, tạo điều kiện về cơ sở vật chất (phòng học, đồ

72

dùng, đồ chơi…) để phát huy tối đa tính tích cực hoạt động của trẻ. Quan tâm hơn nữa đến công tác CS – GD trẻ lứa tuổi 18 – 24th nói riêng.

- Cần có những biện pháp, hình thức kiểm tra thiết thực, thường xuyên để kiểm soát

được hiệu quả của việc tổ chức hoạt động và rèn luyện để nâng cao khả năng HĐVĐV của

trẻ. Luôn tiếp cận kịp thời và ứng dụng phù hợp những điểm mới của chương trình GDMN.

• Với GVMN

- Cần phải tận dụng, khai thác các điều kiện vốn có nơi mình công tác, đặc biệt là

phòng ốc, đồ dùng, đồ chơi để bố trí sắp xếp sao cho trẻ có cơ hội được hoạt động với đồ

vật xung quanh trẻ.

- Trong sinh hoạt hàng ngày, để trẻ được HĐVĐV mọi lúc mọi nơi.

- Luôn tin tưởng vào khả năng của trẻ, tôn trọng trẻ - đó là bước tạo đà giúp trẻ tự tin

vào bản thân và tích cực tham gia vào các hoạt động.

• Phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường

- Cần tuyên truyền đến phụ huynh sự cần thiết của việc cho trẻ HĐVĐV đồng thời có

những tài liệu giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về HĐVĐV, cách lựa chọn đồ dùng đồ chơi,

cách thức chơi với trẻ như thế nào…

- Cần đảm bảo mối liên hệ mật thiết giữa phụ huynh - giáo viên - nhà trường trong

công tác hình thành, rèn luyện và phát triển khả năng HĐVĐV cho trẻ.

73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TiếngViệt

1. Đào Thanh Âm (2007), Giáo dục học mầm non, tập II, Nxb ĐHSP, Hà Nội.

2. Bộ GD&ĐT (2000), Chươngtrìnhchămsóc – giáodụctrẻ 3 – 36 thángtuổi,NxbGiáodục,

HàNội.

3. Bộ GD&ĐT (2012), Chương trình giáo dục mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Phạm Thị Châu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh (2008), Giáo dục học mầm non, Nxb

ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

5. Phạm Thị Mai Chi, Bùi Kim Tuyến, Lương Thị Bình, Phan Lan Anh (2005), Hướng

dẫn hoạt động cho trẻ 1 – 3 tuổi, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.

6. Cục bảo vệ - GD trẻ em (1990), Tài liệu nuôi dạy trẻ nhà trẻ Bromley – Heath, Lưu

hành nội bộ, Hà Nội.

7. LêThịĐức, PhùngThịTường, NguyễnSinhThảo, (2005), Tròchơidànhchotrẻdưới 3 tuổi,

NxbGiáodục, Tp.HCM.

8. Phan Thị Minh Hà (2007), Thực trạng phương pháp tổ chức HĐVĐV cho trẻ 18 – 24

tháng trong trường mầm non, Đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở, Trường

CĐSPMGTW3.

(1996), Tổchứcchotrẻvuichơi ở nhàtrẻ–mẫugiáo,Trường 9. NguyễnThịThanhHà

CĐSPMG TW3, Tp.HCM.

10. Nguyễn Thị Thanh Hà (2004), Những trò chơi giả bộ đầu tiên của trẻ nhỏ, Nxb Giáo

dục, Tp.HCM.

11. Nguyễn Thị Thanh Hà (2012), Tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ ở trường mầm non,

NxbGiáodục, Tp.HCM.

12. Phạm Minh Hạc (2003), Mộtsốcôngtrìnhtâmlýhọc A.N. Lêônchiép, NxbGiáodục,

Tp.HCM.

13. Hồ Lam Hồng (2005), Tròchơingóntay, NxbGiáodục, Tp.HCM.

14. Nguyễn Thị Thanh Hương (2006), Tuyển tập các bài viết về giáo dục mầm non, tập 2,

Nxb GD, Tp.HCM.

15. Jean Piaget – Barbel.Inhelder (2000), Tâm lý học trẻ em và ứng dụng tâm lý học Piaget

vào trường học, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

16. Kak – Hai – Nơ Dich (1999), Trẻ em và thế giới của chúng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

74

17. Lee Jin Hee (2012), chuyên đề: “Chương trình GD trẻ em theo Montessori & thực tiễn

áp dụng tại Hàn Quốc”, Trường ĐHSP TPHCM, TP.HCM.

18. Maria Montessori (2008), Dạy con trước 3 tuổi, Nxb Lao động, Hà Nội.

19. Nguyễn Công Khanh (2009), Phát triển trí thông minh cho trẻ em từ 0 – 6 tuổi, Nxb

Giáo dục, Tp.HCM.

20. Đào Hoàng Mai, Trương Hồng Nga (2010), Thiết kế các hoạt động có chủ đích, hoạt

động góc và hoạt động ngoài trờichotrẻ 24 – 36 thángtuổi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Kim Ngân (2005), Một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ 24 – 36

tháng trong HĐVĐV, Luận văn thạc sỹ GDH, Trường ĐHSP Hà Nội, Tp.HCM.

22. Vũ Thị Ngân (2009), Giáo trình Tổ chức dạy học ở trường mầm non, NxbGiáo dục,

Tp.HCM.

23. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb ĐHSP, Hà Nội.

24. Patricia H. Miler (2003), Cácthuyếtvềtâmlýhọcpháttriển,NxbVănhoá – Thông tin,

HàNội.

25. Huỳnh Văn Sơn (2011), Nhập môn tâm lý học phát triển, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.

26. Nguyễn Ánh Tuyết (1997), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb ĐHQG Hà Nội,

Hà Nội.

27. Nguyễn Ánh Tuyết, ĐàoThanhÂm, ĐinhVănVang(1998), Giáodụchọc, NxbGiáodục,

HàNội.

28. Đinh Văn Vang (2008), Giáo dục học mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Đinh Văn Vang (2009), Tổchứchoạtđộngvuichơichotrẻmầm non, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

30. V.X. Mukhina (1980), TâmlýhọcMẫugiáo, tập I, NxbGiáodục, HàNội.

Tiếng Anh

31. Fergus P.Hughes (1995), Children, play, development, USA.

32. Vicki B. Mulligan (1948), Children’s play – an Introduction for care providers, USA.

75