ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI THU TRÀ

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ

CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

(KHU VỰC PHÍA BẮC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA SĨ NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI THU TRÀ

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ

CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

(KHU VỰC PHÍA BẮC)

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,

kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa có ai công bố trong

một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bùi Thu Trà

LỜI CẢM ƠN

Với tấm lòng thành kính, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình

tới PGS. TS Trần Thị Việt Trung - ngƣời thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận

tình chỉ bảo, giúp đỡ và hƣớng dẫn em trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại

học - trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, các thầy cô giáo công tác tại

Viện Văn học, các thầy cô giáo trƣờng Đại học sƣ phạm I - Hà Nội, các thầy

cô giáo trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, đã giúp em hoàn thành

khóa học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới BGH, bạn bè, đồng nghiệp

trƣờng THPT Cảm Ân, sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái, cùng những ngƣời thân

yêu trong gia đình đã luôn giúp đỡ, quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi

điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khóa học.

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bùi Thu Trà

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục ......................................................................................................................... i

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 12

CHƢƠNG 1: VÀI NÉT VỀ THƠ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT

NAM HIỆN ĐẠI VÀ HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ 12

1.1. Vài nét về thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ....................... 12

1.1.1 Giai đoạn 1945 - 1954 .................................................................... 13

1.1.2 Giai đoạn 1954 - 1975 .................................................................... 17

1.1.3 Giai đoạn sau 1975 ......................................................................... 21

1.2. Vài nét về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong nền thơ ca dân tộc ........... 28

CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ MIỀN NÚI - MỘT VẺ

ĐẸP MANG ĐẬM BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC ............................... 43

2.1 Bản sắc văn hóa các dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số hiện đại. ....... 43

2.1.1 Bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................. 43

2.1.2 Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số hiện đại. ........ 45

2.2 Ngƣời phụ nữ miền núi với với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, đầy tính

phồn thực .................................................................................................... 49

2.3 Những con ngƣời lƣu truyền vẻ đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc ............ 54

2.3.1.Vẻ đẹp trong trang phục truyền thống dân tộc .............................. 54

2.3.2.Vẻ đẹp trong lối ứng xử văn hóa dân tộc ....................................... 62

CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ THƠ GIÀU CHẤT TẠO HÌNH - MỘT NÉT

ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA HÌNH TƢỢNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NGƢỜI PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ .................................................. 81

ii

3.1 Tính tạo hình trong ngôn ngữ thơ ........................................................ 81

3.2 Ngôn ngữ tạo hình -nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tƣợng

ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số .................................................................... 83

3.2.1 Hệ thống từ vựng giàu tính tạo hình ............................................... 83

3.2.2 Các phƣơng tiện và biện pháp tu từ ................................................ 92

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 112

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 115

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

PHẦN PHỤ LỤC ......................................................................................... 121

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1- Lý do chọn đề tài

1.1 Nhƣ chúng ta đã biết, ngƣời phụ nữ có một vai trò vô cùng quan

trọng trong cuộc sống của con ngƣời. Chiếm một nửa nhân loại, chính họ là

ngƣời bảo tồn, tái sinh và luân chuyển sự sống. Trong đời sống văn hóa của

dân tộc ta, với sự tồn tại của chế độ Mẫu hệ, với tục thờ Mẫu...từ xa xƣa,

ngƣời phụ nữ đã tạo cho mình một vị thế quan trọng. Còn trong lĩnh vực nghệ

thuật, ngƣời phụ nữ luôn là biểu tƣợng cho cái Thiện, cái Mỹ. Nhƣng trong xã

hội Việt Nam xƣa – một xã hội phong kiến chịu ảnh hƣởng nặng nề của đạo

Nho với quan điểm “trọng nam, khinh nữ” - ngƣời phụ nữ đã phải chịu bao

cay đắng, thiệt thòi. Họ bị đè nén bởi nhiều tầng áp bức, bị khoác lên đầu bao

thứ lễ nghi, tập tục nặng nề, lạc hậu, bị xếp vào bậc thang cuối cùng của xã

hội... Có lẽ vì vậy mà con ngƣời và số phận của họ luôn là nguồn cảm hứng

vô tận cho các nghệ sĩ sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật mang giá trị

nhân văn, nhân bản sâu sắc, làm rung động lòng ngƣời.

Trong lĩnh vực văn chƣơng, đặc biệt trong lĩnh vực thơ ca - hình tƣợng

ngƣời phụ nữ luôn là hình tƣợng trung tâm. Họ luôn là đối tƣợng thẩm mỹ

của mọi thế hệ các nhà thơ; và hầu nhƣ những bài thơ hay nhất, những tác

phẩm thơ làm rung động lòng ngƣời nhất cũng chính là những bài thơ viết về

hình tƣợng ngƣời phụ nữ. Có thể nói, ngƣời phụ nữ đã trở thành một hình

tƣợng nghệ thuật đẹp đẽ, tiêu biểu cho nền văn học dân tộc - một nền văn học

mang đậm chất nhân văn, nhân đạo. Viết về ngƣời phụ nữ với thái độ yêu

thƣơng, trân trọng, đầy tính ngợi ca là một việc làm có ý nghĩa và có tính tƣ

tƣởng cao đối với các nhà thơ. Do đó, nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ

chính là nghiên cứu phần đặc trƣng, phần tinh túy nhất, cũng nhƣ phần thành

công nhất của nền thơ Việt Nam nói chung và thơ ca hiện đại nói riêng.

1.2 Văn học thiểu số Việt Nam hiện đại là một bộ phận đặc sắc, độc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đáo góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện

2

đại. Trải qua gần bẩy mƣơi năm phát triển, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại nói riêng cũng nhƣ thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung - đã

khẳng định đƣợc vẻ đẹp cùng những sắc thái riêng của một nền thơ ca giàu

bản sắc. Một trong những thành tựu nổi bật của nền văn học các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại chính là ở thể loại thơ. Các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt

Nam đã tạo nên một nền thơ ca riêng - nhƣ một vƣờn hoa đầy hƣơng sắc, một

tấm thổ cẩm rực rỡ - và cũng đã dần khẳng định đƣợc mình khi góp một tiếng

nói riêng, một thế giới nghệ thuật thơ riêng giàu bản sắc văn hóa dân tộc, góp

phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Nổi bật

trong thế giới hình tƣợng nghệ thuật thơ dân tộc thiểu số là hình tƣợng ngƣời

phụ nữ dân tộc thiểu số. Đây là một hình tƣợng nghệ thuật lớn, có vai trò

quan trọng trong sáng tác của các nhà thơ, nó có ý nghĩa lớn về tƣ tƣởng nghệ

thuật và phong cách nghệ thuật của các nhà thơ. Do đó, nghiên cứu về hình

tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại cũng chính là nghiên cứu phần thành tựu tiêu biểu, nét đặc sắc của

thơ ca dân tộc, nghiên cứu một phần chân dung, nhân cách con ngƣời và đặc

điểm văn hóa của dân tộc ta trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.

1.3 Việc nghiên cứu thơ các dân tộc thiểu số nói chung, trong đó có

việc nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu số

nói riêng - cho tới nay có thể thấy: vẫn chƣa thực sự thu hút đƣợc sự chú ý

xứng đáng của giới nghiên cứu, phê bình và cả của đông đảo bạn đọc. Cho

nên, mặc dù đã có hàng chục cuốn sách nghiên cứu về thơ các dân tộc thiểu

số nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cũng nhƣ chƣa xứng với tầm, với

vai trò quan trọng của nó cũng nhƣ với những thành tựu mà nó đã đạt đƣợc.

Các công trình nghiên cứu nói chung về vấn đề này mới chỉ dừng lại ở một số

nhận định, đánh giá ở những phƣơng diện nhất định về hình tƣợng quan trọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

này. Vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra và khẳng định những giá trị to lớn của

3

hình tƣợng văn học đặc sắc này trong văn học dân tộc thiểu số là một vấn đề

vừa có tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa khoa học và vừa có ý nghĩa về mặt lý

luận và thực tiễn.

Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hình tƣợng ngƣời phụ

nữ trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (khu vực phía Bắc

Việt Nam) để nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra

nét đặc trƣng cơ bản về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc miền núi; đồng thời

khẳng định: Chính hình tƣợng nghệ thuật này đã góp phần quan trọng trong

việc phản ánh bản sắc dân tộc, ý nghĩa nhân văn cao cả của văn học các dân

tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Từ đó góp phần làm sáng tỏ thêm các giá trị

của nền thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Công trình nếu đƣợc hoàn thành

sẽ là một tài liệu tham khảo có ích cho việc giảng dạy và học tập về bộ phận

văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trong các trƣờng phổ thông, cao đẳng,

đại học....

2. Lịch sử vấn đề

Theo tìm hiểu, nghiên cứu bƣớc đầu của chúng tôi thì trong một thời

gian khá dài văn học các dân tộc thiểu số chƣa thực sự đƣợc quan tâm, nghiên

cứu một cách đúng mức, xứng với vị trí quan trọng và tầm vóc của nó. Tuy

nhiên, trong khoảng mƣời năm trở lại đây với những chủ trƣơng, chính sách

đúng đắn của Đảng và nhà nƣớc đối với mảng văn học này tình hình nghiên

cứu văn học thiểu số đã đƣợc cải thiện. Đã có khá nhiều công trình nghiên

cứu, những bài nghiên cứu khá công phu và có một số thành tựu nhất định, rất

đáng trân trọng về vấn đề này.

Trong những công trình nghiên cứu mang tính chất tập hợp, tuyển chọn

và giới thiệu thơ văn các dân tộc thiểu số các tác giả đã đƣa vào khá nhiều bài

thơ viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi nhƣ trong: “Hợp tuyển thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985” (Nxb Văn hóa, 1981);

4

“Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số” (Nxb Văn hóa, 1995) “Thơ các

dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX” (Nxb Văn hóa dân tộc, 2000); “Tinh

tuyển văn học Việt Nam” (Nxb KHXH, 2002); “Tuyển tập văn học dân tộc

và miền núi”(Nxb Giáo dục, 2007)…Bên cạnh đó có một số các công trình

nghiên cứu, đánh giá về văn học các dân tộc thiểu số trong đó có hình tƣợng

ngƣời phụ nữ dân tộc nhƣ: “Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc” (Nxb Văn hóa,

1977); “40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-

1985) (Nxb văn hóa,1985) của GS Phong Lê; “Văn hóa các dân tộc - từ một

diễn đàn(1999) của hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam;

“Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (Nxb Văn hóa dân tộc,

1995); “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” (NXb Văn hóa dân tộc,

1997”; “Về một mảng văn hóa dân tộc” (Nxb Văn hóa dân tộc, 1999);

“Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số” (Nxb Thanh niên, 2011) của Lâm Tiến;

“Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Duy Bắc,

1998) “Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số” (Lò Ngân Sủn,

2002); “Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam – Đời và văn” (2003,

2004); “Văn hóa các dân tộc thiểu số - Từ một góc nhìn” (Nxb Văn hóa

dân tộc,2004) của Vi Hồng Nhân; “Gƣơng mặt các văn nghệ sĩ dân tộc

thiểu số” (Nxb Văn hóa dân tộc, 2007) “Bản sắc dân tộc trong thơ các dân

tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (Trần Thị Việt Trung, 2010)…Ngoài ra còn

phải nhắc tới một số các bài nghiên cứu in trên các tạp chí, các báo văn nghệ

trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ: “Văn học thiểu số trƣớc thềm thế kỷ XXI”

của Mai Liễu; “Bản sắc dân tộc - nỗi lo của ngƣời cầm bút” của Triệu Kim

Văn; “Nét mới của văn học các dân tộc thiểu số” của Dƣơng Thuấn; “Nhìn

lại văn nghệ các dân tộc thiểu số” của Nông Quốc Bình...

Có thể nói rằng, văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã thu hút đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu, phê bình văn

5

học. Tuy nhiên, so với các công trình nghiên cứu đồ sộ về thơ Việt Nam hiện

đại nói chung - thì số lƣợng tác phẩm, công trình tổng kết, đánh giá về văn

học các dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, trong đó số lƣợng

các bài viết, các công trình nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc

thiểu số lại càng ít ỏi hơn. Những công trình, chuyên đề, bài viết trên đây đã

nêu đƣợc những thành tựu, những đóng góp của văn học nói chung, của thơ

ca các dân tộc thiểu số nói riêng và có đề cập đến hình tƣợng con ngƣời miền

núi - trong đó có hình tƣợng ngƣời phụ nữ nhƣng cũng mới chỉ dừng lại ở

những nhận định về những sáng tác của từng tác giả hoặc trong từng tác phẩm

cụ thể mà thôi.

Ví dụ: trong cuốn “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”,

nhà phê bình văn học Lâm Tiến đã viết: “Với “Vợ lính ngụy mong chồng” và

“Gái thời giặc” Cầm Biêu đã khắc họa số phận đau khổ của ngƣời phụ nữ

dân tộc dƣới thời Pháp chiếm đóng”. [70,tr. 104]

“Pờ Sảo Mìn hát về dân tộc mình với âm hƣởng lãng mạn, lạc quan

hơn là kể về nỗi khổ, chịu đựng của dân tộc…Ngƣời con gái miền núi thì đẹp

nhƣ: “Một bông hoa rừng ngây ngất hƣơng bay (Xuân nhớ về thăm vợ), với

“Mắt em xanh mơ màng mắt lá” (Cô gái Mèo).[70,tr. 157 -158]

Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Bắc đã khẳng định: “Bản sắc dân tộc

trong thơ các dân tộc thiểu số biểu hiện rõ nhất trong sự mô tả đời sống tâm

hồn, tính cách, tình cảm của con ngƣời dân tộc.” [4, tr. 12]

Cuốn sách “Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam–đời và văn”

(2003- 2004) giới thiệu 87 gƣơng mặt nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, qua

lời tự bạch, nhà văn dân tộc thiểu số nào cũng gắn bó với dân tộc, với quê

hƣơng và con ngƣời miền núi - trong đó có những ngƣời phụ nữ miền núi

thân yêu của họ. Họ lấy đó làm đề tài sáng tác chủ yếu của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lò Ngân Sủn trong cuốn “Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc

6

thiểu số” đã nhận định: “Tình yêu đôi lứa của những ngƣời phụ nữ dân tộc

thiểu số thật là đằm thắm, thiết tha, dữ dội, hoang dã, nhƣ bão nổi, nhƣ lốc

quấn, nhƣ lửa bốc…”[65,tr. 58]

Thu Huyền đã viết về nhà thơ ngƣời dân tộc Mƣờng - Bùi Thị Tuyết

Mai nhƣ sau: “Hình ảnh đẹp nhất và cũng độc đáo nhất chị tạo dựng đƣợc

trong thơ của mình ấy là hình ảnh ngƣời phụ nữ Mƣờng dịu dàng, nữ tính,

giàu tình thƣơng yêu. Thơ chị khiến ngƣời đọc hình dung thật rõ nét, sinh

động về phụ nữ Mƣờng với những công việc dệt vải, ƣơm tơ… nhƣng hơn hết

là những tình cảm sáng trong, nồng nàn đối với mọi sự vật xung quanh... Chị

viết về tuổi mình, về ngƣời đàn bà với những hình ảnh lạ lẫm mà nhiều ẩn

ý…”[19]

Trong “Thơ Y Phƣơng” (2002) Phạm Hổ khẳng định: “Y Phƣơng càng

thành công hơn trong những bài thơ viết về tình yêu, tình vợ chồng. Viết về

ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ…”[58, tr. 252]

Lê Kim Vinh giới thiệu về Mã A Lềnh trong cuốn “Nhà văn dân tộc

thiểu số Việt Nam đời và văn”(2003) đã viết: “ Mã A Lềnh viết chƣa nhiều.

Nhƣng ở mỗi trang viết đều thể hiện sự cố gắng của anh trong việc miêu tả

cảnh sắc, con ngƣời miền núi (đặc biệt là ngƣời phụ nữ) với những đặc điểm

riêng với cách thức của riêng anh.”.[ 41, tr. 231]

Cũng trong cuốn sách này Trần Mạnh Hảo giới thiệu về Lò Ngân Sủn:

“Đối với Lò Ngân Sủn, cái đẹp đã phục sinh cái chết, ngƣời đàn bà đã, đang

và sẽ phục sinh lại cả thế giới đầy chết chóc của chiến tranh và phái

mạnh.[41, tr. 505]

Năm 2006, trong “Bàn Tài Đoàn - tuyển tập thơ văn” Bàn Minh

Đoàn đã viết: “ Về lao động sản xuất ông đã lột tả đặc điểm những con ngƣời

lao động ở miền núi bằng nhiều hình tƣợng sâu sắc và đẹp đẽ mang bản sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc nhất là phụ nữ đồng bào Dao nói riêng phụ nữ các dân tộc thiểu số

7

nói chung. Họ là ngƣời hiền hòa, cần cù chịu khó lao động, sản xuất, thủy

chung với gia đình”[14, tr. 846]

Ths Đỗ Thị Thu Huyền trong bài viết “Thơ ca Tày hiện đại qua một

số gƣơng mặt tiêu biểu” Tạp chí NCVH số 5/2008 có viết: “Bƣớc sang thời

kỳ kháng chiến chống Mỹ, gƣơng mặt thơ Tày tiêu biểu phải kể đến Y

Phƣơng…Ông viết rất hay về hình ảnh ngƣời phụ nữ, đậm chất vùng cao và

qua đó chứa đựng những ƣu ái đặc biệt”[ 18]

Năm 2010, công trình nghiên cứu công phu, dày dặn: “Bản sắc dân

tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” của PGS.TS Trần

Thị Việt Trung (chủ biên) đã ra đời, góp phần “xóa đi một khoảng phần còn

trắng trong nghiên cứu khoa học văn chƣơng” bởi đây là một công trình “đầu

tiên khảo sát một cách cách toàn diện và có tính hệ thống, bề thế, dày dặn về

bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”. [87, tr.

8]. Trong công trình này, nhóm tác giả đã làm sáng rõ vấn đề: Bản sắc dân tộc

trong văn chƣơng các dân tộc thiểu số thể hiện qua nhiều yếu tố nhƣ việc sử

dụng chất liệu, ngôn ngữ dân tộc; phản ánh thiên nhiên, cuộc sống, con ngƣời

vùng núi cao…Đặc biệt, hình tƣợng ngƣời phụ nữ các dân tộc là hình tƣợng

trung tâm, hình tƣợng đẹp đẽ thể hiện rõ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

Việt Nam. “Hình ảnh những con ngƣời miền núi mà nổi bật lên là hình ảnh

ngƣời phụ nữ với vẻ đẹp khỏe mạnh, rực rỡ, đầy sức sống luôn đạp lên mọi

nỗi vất vả, khổ đau để làm tròn trách nhiệm ngƣời vợ, ngƣời mẹ…luôn là hình

ảnh trung tâm đƣợc các tác giả thơ dân tộc thiểu số dành nhiều tâm huyết để

miêu tả, thể hiện chân thực và sống động” [ 87,tr. 431- 432]. Đó là những cô

gái Thái “xinh đẹp, khéo léo, dịu dàng nhƣ dòng suối trong lành không bao

giờ vơi cạn” là “hình tƣợng tiêu biểu, nổi bật của ngƣời dân tộc Thái” [87, tr.

249]; đó là: “Hình ảnh những cô gái Mông với đôi gò má ửng hồng…với bắp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chân to khỏe và dáng đi uyển chuyển mềm mại trong chiếc váy Mông rực

8

rỡ…” [87, tr. 311]; đó là ngƣời phụ nữ Giáy và Pa Dí đẹp: “tự nhiên, hồn

nhiên - nhƣ thiên nhiên, nồng nàn dữ dội đầy cuốn hút…” [87, tr. 420]. Cùng

viết về hình tƣợng những ngƣời phụ nữ nhƣng mỗi nhà thơ lại có một phong

cách riêng. Với nhà thơ Mai Liễu thì: „Có lẽ hình tƣợng ngƣời mẹ trong thơ

Mai Liễu mới là hình tƣợng sâu đậm, đặc trƣng rõ nét nhất cái thần thái, hồn

cốt của quê hƣơng. Mai Liễu viết nhiều về mẹ...với một tâm trạng thƣơng nhớ

day dứt cùng những hồi ức đầy xúc động về mẹ.” [87, tr. 224]; với Lò Ngân

Sủn và Pờ Sảo Mìn thì: “Khi viết về những ngƣời phụ nữ miền núi - Lò Ngân

Sủn và Pờ Sảo Mìn - thƣờng có một cảm hứng mãnh liệt, một sức sáng tạo bất

ngờ” [ 87, tr. 417]....

Có thể nói rằng: Các ý kiến trên đây đã là những gợi ý hết sức quý báu

cho chúng tôi khi thực hiện luận văn này bởi các nhà nghiên cứu đã đề cập tới

vấn đề hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sáng tác của các nhà thơ ngƣời dân tộc

thiểu số ở các mức độ và các phƣơng diện khác nhau. Cụ thể là các vấn đề

sau: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi là nguồn cảm hứng lớn trong thơ của

các nhà thơ dân tộc thiểu số - đây là một trong những hình tƣợng trung tâm

luôn đƣợc các nhà thơ tập trung khai thác; những ngƣời phụ nữ hiện lên trong

các bài thơ mang một vẻ đẹp khỏe mạnh, đầy sự chất phác, hồn nhiên. Họ có

một sức sống mãnh liệt; có một vẻ đẹp đầy tính phồn thực và đặc biệt là rất

thủy chung, hy sinh hết lòng vì gia đình (bố mẹ, chồng con…), làng bản và

quê hƣơng. Hình tƣợng này góp phần phản ánh một cách sinh động cụ thể đời

sống tâm hồn, tâm linh, những phong tục tập quán và cuộc sống sinh hoạt của

các dân tộc miền núi.

Tuy vậy, các công trình nghiên cứu kể trên vẫn chƣa phải là những

chuyên đề nghiên cứu mang tính chuyên biệt về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân

tộc thiểu số. Ở đó, các tác giả mới chỉ nghiên cứu một số khía cạnh về hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ của một số dân tộc thiểu số nhƣ (Thái, Mông,

9

Tày, Pa Dí, Giáy…). Cho đến nay, theo thống kê của chúng tôi - chƣa có công

trình nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo về hình tƣợng ngƣời phụ nữ

trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Do đó, chúng tôi đã lựa

chọn vấn đề này để nghiên cứu nhằm mục đích: Chỉ ra những sáng tạo độc

đáo của các nhà thơ dân tộc thiểu số trong việc xây dựng hình tƣợng ngƣời

phụ nữ trong các tác phẩm thơ của mình (ở cả hai bình diện: nội dung phản

ánh và nghệ thuật thể hiện). Từ đó, khẳng định những đóng góp quan trọng

của các nhà thơ dân tộc thiểu số trong việc hoàn chỉnh bức chân dung ngƣời

phụ nữ Việt Nam, cũng nhƣ góp phần vào việc khẳng định vẻ đẹp mang tính

truyền thống của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trong thời kỳ

hiện đại.

3. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện luận văn này này chúng tôi nhằm đạt đƣợc các mục đích sau:

1. Nghiên cứu và chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt nội dung phản

ánh và nghệ thuật thể hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi trong thơ ca các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

2. Khẳng định vai trò của các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số trong việc

bảo tồn và phát huy những nét đẹp của văn hóa các dân tộc trong thời kỳ hiện

đại thông qua việc họ đã thể hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi một cách

hết sức đặc sắc, độc đáo trong các tác phẩm thơ của mình.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ

trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số trong thơ các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là một đề tài có phạm vi nghiên cứu khá

10

rộng. Do đó, chúng tôi chỉ nghiên cứu những sáng tác thơ của các nhà thơ

ngƣời dân tộc thiểu số ở một phạm vi: khu vực miền núi phía Bắc. Đồng thời

đi sâu vào nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Cụ thể là các tác giả

sau: Y Phƣơng, Mai Liễu, Dƣơng Thuấn, Triệu Kim Văn, Lò Ngân Sủn, Pờ

Sảo Mìn, Bùi Thị Tuyết Mai. Để có thể chỉ ra những đặc điểm nổi bật về nội

dung và nghệ thuật biểu hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc trong thơ của

các nhà thơ dân tộc - chúng tôi sẽ đọc, tham khảo, nghiên cứu những công

trình phê bình thơ có nói về hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi. Ngoài ra,

chúng tôi cũng sẽ tham khảo một số sách lý luận để làm cơ sở lý thuyết của đề

tài.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng

pháp nghiên cứu chính nhƣ sau:

1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại.

2. Phƣơng pháp phân tích.

3. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu

Và một số phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành khác nhƣ: văn hóa, lịch sử…

6. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tƣơng đối hệ

thống và toàn diện về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc miền núi trong thơ các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Khẳng định những nét đặc sắc trong hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc

thiểu số; những đóng góp quan trọng và phong cách nghệ thuật của các nhà

thơ dân tộc trong nền thơ hiện đại Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngoài phần mở đầu và kết luận phần nội dung chính của luận văn sẽ

11

đƣợc triển khai trong 3 chƣơng chính sau:

Chƣơng 1:Vài nét về thơ các dân tộc thiểu số hiện đại và hình tƣợng

ngƣời phụ nữ trong thơ

Chƣơng 2: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi – một vẻ đẹp mang đậm

bản sắc văn hóa dân tộc

Chƣơng 3: Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình – một nét đặc sắc trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghệ thuật khắc họa hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số

12

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

VÀI NÉT VỀ THƠ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

VÀ HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ

1.1. Vài nét về thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại

Có nguồn mạch từ thơ ca dân gian, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại thực sự đƣợc hình thành và phát triển từ sau 1945. Trƣớc thời

gian này, cũng đã xuất hiện một số nhà thơ ngƣời dân tộc Tày và dân tộc

Thái. Họ đã sáng tác khá nhiều tác phẩm và đƣợc nhân dân lƣu truyền. Từ thế

kỷ V, ngƣời Tày có Cố hƣơng từ của Lê Thế Khanh và vào cuối thế kỷ XVI

đầu thế kỷ XVII đã có bản trƣờng ca Tam nguyên luận và Lƣợn tứ quý của Bế

Văn Phủng và Nông Quỳnh Văn. Tuy nhiên những tác phẩm này còn mang

đậm dấu vết của văn học dân gian nên chƣa đủ điều kiện hình thành một nền

văn học các dân tộc thiểu số bên cạnh nền văn học của dân tộc Kinh.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mầm mống của văn học thiểu số hiện

đại đã xuất hiện qua sáng tác của một số tác giả: Ngần Văn Hoan, Hoàng Đức

Hậu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong...Các tác phẩm trong thời gian này

có tính trữ tình, hiện thực và cách mạng.

Cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình đều thống nhất rằng:

năm 1945 chính là mốc ra đời của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại. Trƣớc cách mạng tháng 8 năm 1945, văn học các dân tộc thiểu số chủ yếu

là văn học dân gian. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số gắn liền với đời

sống sinh hoạt của nhân dân lao động. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số

đa dạng và phong phú không kém gì nền văn học dân gian của ngƣời Kinh với

đủ các loại hình nhƣ: tục ngữ, đồng dao, hát ru, câu đố, dân ca, truyện lịch sử,

sử thi, truyện thơ...Nhiều tác phẩm văn học dân gian các dân tộc thiểu số có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tên trong những đỉnh cao của văn học dân gian Việt Nam.

13

Trong mảng thơ ca cách mạng của cả nƣớc những năm 1930 - 1945 có

đóng góp của các nhà thơ dân tộc nhƣ Nhắn bạn của Hoàng Văn Thụ; Lùa

chó dậy của Cầm Biêu; Mƣa gió, Khóc đồng chí của Nông Quốc Chấn; Dặn

vợ, dặn con của Bàn Tài Đoàn...

1.1.1 Giai đoạn 1945 - 1954

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thơ ca Việt Nam phát triển với một

tốc độ khá mau lẹ. Trong không khí chung ấy, phong trào sáng tác thơ ca ở

miền núi phía Bắc cũng phát triển mạnh với các giả tiêu biểu nhƣ: Nông Quốc

Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Lƣơng Quy Nhân, Cầm Biêu,

Hoàng Nó, Bàn Tài Đoàn. Đây cũng chính là những nhà thơ có công đầu

trong việc khai sinh nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Tâm hồn thi sĩ và tinh thần yêu nƣớc của các nhà thơ thời kỳ mở đƣờng

cho thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đều đƣợc nuôi dƣỡng bởi

mạch nguồn văn hóa dân gian dân tộc miền núi. Hầu hết họ đều xuất thân từ

những gia đình lao động nghèo ở các bản làng miền núi xa xôi nên am hiểu và

gắn bó với đời sống nhân dân. Các nhà thơ đầu tiên của dân tộc thiểu số lại

đƣợc giác ngộ và hăng hái đi theo cách mạng từ rất sớm. Nông Quốc Chấn

tham gia cách mạng từ năm 1941, Bàn Tài Đoàn đã tham gia hoạt động cách

mạng bí mật ở địa phƣơng từ năm 1942, Lƣơng Quy Nhân tìm đến với Việt

Minh trƣớc năm 1945...Những tác phẩm của họ gắn bó chặt chẽ với những sự

kiện chính trị lớn lao của tổ quốc, với đời sống tâm hồn con ngƣời miền núi.

Nhƣ vậy, văn hóa dân gian dân tộc miền núi, quê hƣơng, con ngƣời miền núi

và cách mạng đã là nguồn mạch cảm hứng nuôi dƣỡng và phát triển thơ ca

dân tộc thiểu số những năm tháng đấu tranh cách mạng trong cuộc kháng

chiến vĩ đại của dân tộc.

Trong thời gian này, các nhà thơ chủ yếu sử dụng tiếng dân tộc để ghi

lại những tâm sự, những suy nghĩ, tình cảm chân thành và cảm động của bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thân, của dân tộc mình với Đảng, cách mạng và Bác Hồ. Những bài thơ này

14

có giá trị cao trong việc tuyên truyền, giác ngộ quần chúng đấu tranh chống

lại những đè nén, áp bức của thực dân Pháp và bọn tay sai.

Kế thừa và phát huy vốn văn hóa văn học dân gian cùng với lòng yêu

nƣớc, yêu quê hƣơng, lòng tự tôn dân tộc các tác phẩm thơ của thời kỳ này

mang đậm tính nhân dân, thể hiện chất dân tộc đậm đặc, ghi lại thành công

hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc sống gian khổ, nhiều mất mát

hy sinh của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Thơ ca dân tộc thiểu số giai đoạn 1945-1954 phải kể đến các tác giả,

tác phẩm sau: Nông Quốc Chấn với các bài thơ Việt Bắc đánh giặc (1948),

Khâu áo (1948), Dọn về làng (1950), Đi Béc Linh về (1951), Đời chúng em

(1952), Nói với các anh (1953), Thƣ lên Điện Biên (1954); Nông Minh Châu

có Đêm Ba Khe (1952), Ngƣời thanh niên giữ Đèo Giàng (1953), Gửi anh

bạn Triều Tiên (1953), Hai lời gửi mẹ (1954); Nông Viết Toại có Nói chuyện

cũ (1954), Ăn cơm mới (1954); Cầm Biêu có Vợ lính ngụy mong chồng

(1949), Gái thời giặc (1950), Mƣờng Muổi yên vui (1954); Lƣơng Quy Nhân

có Cán bộ với dân Mƣờng (1947); Hoàng Nó có Tội ác giặc Pháp ở đồn Bom

Nghê (1948); Bàn Tài Đoàn có Dặn vợ, dặn con (1944), Chiến thắng Nghĩa

Lộ (1952), Mừng thủ đô giải phóng (1954)...

Hình tƣợng bao trùm thơ ca dân tộc thiểu số giai đoạn 1945-1954 chính

là hình tƣợng nhân dân - những con ngƣời vƣợt qua khổ đau, tăm tối để đến

với cách mạng. Trƣớc cách mạng những ngƣời dân tộc thiểu số phải chịu

đựng ách thống trị dã man, tàn bạo của thực dân, phong kiến miền núi. Vì

vậy, tiếng nói tâm hồn chủ đạo của đồng bào các dân tộc thiểu số trong thơ

thời kỳ này là lòng căm thù, lên án sự tàn bạo của bọn cƣớp nƣớc; niềm vui

mừng, sự tin tƣởng khi đƣợc đi theo Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.

Cuộc sống của những ngƣời dân tộc thiểu số trƣớc cách mạng là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày tháng đói nghèo, khốn khổ. Nhà thơ ngƣời Dao - Bàn Tài Đoàn đã kể

15

chuyện đời mình mà chính là chuyện đời của những ngƣời dân tộc thiểu số

trƣớc khi đƣợc đến với cách mạng:

Ngƣời dân bụng đói và áo rách

Dốt đặc chẳng biết chữ nào chơi

Có hai mắt mà nhƣ mù cả

Có tai nhƣ điếc cả cuộc đời

(Kể chuyện đời - Bàn Tài Đoàn)

Cuộc sống của ngƣời dân lại càng khó khăn hơn khi bị mất tự do, mất

quyền tự chủ: „Ta làm ra lúa, lúa không phải của ta/ Ta nuôi trâu, trâu đầy

rừng không phải trâu của ta” (Dƣới cờ Đảng - Lƣơng Quy Nhân)

Hình tƣợng nhân dân đƣợc các nhà thơ khắc họa khá sinh động trong

thời kỳ này: đó là những con ngƣời có lòng yêu nƣớc, căm thù giặc, một lòng

tin tƣởng đi theo cách mạng nhƣ Đi bộ đội (Nông Viết Toại); đó là tình cảm

thắm thiết, tin tƣởng của đồng bào với bộ đội Cụ Hồ, với Đảng và chính phủ

Khâu áo (Nông Quốc Chấn), Vợ lính ngụy mong chồng, Mƣờng Muổi yên vui

(Cầm Biêu)...

Trong chiến tranh, ngƣời phụ nữ bao giờ cũng là nạn nhân chịu nhiều

bi thảm nhất. Hình tƣợng này xuất hiện trong nhiều bài thơ với nội dung biểu

hiện phong phú: Cầm Biêu lên án hành động dã man của thực dân Pháp khi

bắt lính, bắt phu đặc biệt là bắt phụ nữ Thái đi hầu rƣợu: “Pha Mò tiếng súng

dọa bắt lính/ Pha Xạ tiếng kêu giục bắt phu/ Và giữa chợ, tiếng còi dồn gái đi

hầu rƣợu nha, phìa” (Mƣờng Muổi yên vui - Cầm Biêu)

Cuộc sống của ngƣời phụ nữ dân tộc trong chiến tranh không một phút

giây bình yên:

Gái nhỏ thời sợ quan

Gái tơ thời sợ lính(...)

Gái “dú khuống” đông vui dƣới trăng rằm

Chúng đến phá chạy tán loạn nhƣ bầy hƣơu rã đám.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Gái thời giặc - Cầm Biêu)

16

Chiến tranh đã cƣớp đi những ngƣời thân yêu của họ, song họ vẫn kiên

cƣờng vƣợt qua số phận với sức chịu đựng bền bỉ:

Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến làng

Mẹ địu con chạy tót lên rừng

Lẩn đi trƣớc, mẹ vẫy gọi con sau lƣng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải(...)

Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc(...)

Mẹ kéo khăn phủ mặt cho chồng

Con cởi áo liệm thân cho bố!

(Dọn về làng - Nông Quốc Chấn)

Một trong những điều làm nên sức mạnh để con ngƣời vƣợt qua những

thử thách, khó khăn trong thời kỳ này là niềm tin vào Đảng và Bác Hồ:

“Chính phủ Cụ Hồ rất thƣơng dân/ Có chính sách khoan dung với ngƣời lầm

đƣờng lạc lối” (Vợ lính ngụy mong chồng- Cầm Biêu).

Với cảm hứng yêu nƣớc, căm thù giặc nhiều nhà thơ đã lên án tội ác

của bọn thực dân và phong kiến miền núi: Tội ác giặc Pháp ở đồn Pom Nghê

(Hoàng Nó), Xem quan đi kinh lý (Nông Quốc Chấn)...Ngƣời ghi lại thành

công những mốc lịch sử cách mạng và kháng chiến ở miền núi là nhà thơ

Nông Quốc Chấn. Bộ đội Ông Cụ và Dọn về làng là hai bài thơ hay và tiêu

biểu cho thời kỳ này.

Về nghệ thuật thơ ca dân tộc thiểu số thời kỳ này có sự ảnh hƣởng và

kế thừa thơ ca dân gian truyền thống. Thể thơ 7 chữ đƣợc các nhà thơ thƣờng

xuyên sử dụng. Giọng điệu thơ chủ yếu là giọng tâm tình, kể lể. Thơ ca giai

đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc sống, con ngƣời miền núi nhằm phục vụ chủ

trƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc với đồng bào dân tộc thiểu số vùng

cao nên nhiều bài thơ viết còn đơn giản, tự phát.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tuy vậy, thơ ca giai đoạn này vẫn có sự vận động, phát triển. Đội ngũ

17

các nhà thơ dần đông đảo, các tác phẩm vận động theo hƣớng hiện đại. Giọng

điệu thơ khá phong phú. Ngoài những bài thơ có mang giọng điệu tâm tình

trong truyện thơ Thái của Cầm Biêu, những bài thơ đậm chất tự sự của Bàn

Tài Đoàn, ta thấy giọng điệu thơ đa dạng trong thơ Nông Quốc Chấn: trào

lộng, mỉa mai trong Xem quan đi kinh lý, lối nói giản dị trong Bộ đội Ông

Cụ...Hai bài thơ Em tắm của Bạc Văn Ùi và Nhớ vợ của Cầm Vĩnh Ui là hai

bài thơ hay trong văn học dân tộc thiểu số hiện đại bởi giọng thơ chân thành,

hồn nhiên của tác giả...

Giá trị nổi bật của thơ ca giai đoạn này là các nhà thơ đã phản ánh

đƣợc thế giới tâm tƣ tình cảm và con ngƣời miền núi trong một giai đoạn lịch

sử. Những con ngƣời vƣợt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn để chiến đấu

cho cuộc sống tự do với một lòng căm thù giặc, với tin với Đảng, Cách mạng

và Bác Hồ.

1.1.2 Giai đoạn 1954 - 1975

Sau 1954, đời sống cách mạng của đất nƣớc ta có nhiều thay đổi: miền

Bắc đƣợc giải phóng, đất nƣớc ta bƣớc vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà. Ngƣời dân tộc thiểu số

đƣợc thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Họ có điều kiện đƣợc tiếp xúc, giao lƣu

rộng rãi ở mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.. Tầm nhìn đƣợc mở

rộng, trình độ đƣợc nâng cao, các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã đƣa văn

học dân tộc thiểu số sau 1954 bƣớc vào một giai đoạn mới với khá nhiều

thành tựu.

Đây là thời kỳ mà thơ ca các dân tộc thiểu số đƣợc ví nhƣ mùa xuân

thứ nhất bởi sự ra đời của nhiều bông hoa trong vƣờn thơ nhiều hƣơng sắc.

Đó là các tập thơ của Nông Quốc Chấn: Ngƣời núi hoa (1958), Tiếng ca

ngƣời Việt Bắc (1959), Đèo gió (1968), Dám kha Pác Bó (1972); Triều Ân có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tiếng hát rừng xa (1974), Nắng ngàn (1974); Hoàng Nó có Tiếng hát mƣờng

18

Hoa Ban; Vƣơng Trung có Ing Éng (1967); Mã A Lềnh có Rừng sáng (in

chung); Bàn Tài Đoàn có Xuân về trên núi (1963), Một giấc mơ (1964), Kể

chuyện đời (1968), Rừng xanh (1973), Sáng cả hai miền (1975)...

Các nhà thơ hƣớng ngòi bút của mình vào sự đổi thay lớn lao của quê

hƣơng và bày tỏ tâm trạng phấn khởi của mình trƣớc cuộc sống mới tràn đầy

niềm vui, niềm hạnh phúc. Họ tự hào và vui mừng khi thấy quê hƣơng giàu

đẹp:

Em ơi ! Việt Bắc đẹp giàu

Núi rừng trùng điệp muôn màu cỏ hoa

Trên Phja Dạ mây mù buông chƣớng

Dƣới đất kia: quặng, sắt, bạc, vàng

Đi thuyền Ba Bể dọc ngang

Xem ngƣời đánh cá, xem nàng hái ngô

Hoa sơn, hoa nở bốn mùa

Hoa kêu chim hót, ƣớc mơ phặc phiền...

(Tiếng ca ngƣời Việt Bắc - Nông Quốc Chấn)

Quê hƣơng Việt Bắc đã thay đổi: hoàn toàn sạch bóng quân thù: “Đầu

mƣờng hết giặc phản/ Cuối bản hết giặc Tây/ Dƣới chân cầu thang đã sạch

bóng giặc Mỹ” (Biên giới lòng ngƣời - Lƣơng Quy Nhân).

Những đổi thay về phƣơng thức sản xuất, cảnh lao động tập thể trong

không khí lao động khẩn trƣơng sôi nổi, tinh thần đoàn kết xây dựng quê

hƣơng... cũng là một cảm hứng lớn trong thời kỳ này. Đối tƣợng mà các nhà

thơ phản ánh ngợi ca là những con ngƣời đang trực tiếp hoặc gián tiếp phục

vụ sự nghiệp chung của của cả dân tộc: đó là những ngƣời lính canh giữ biên

thùy, là ngƣời công nhân làm đƣờng, là ngƣời nông dân một nắng hai sƣơng

trên ruộng đồng... Từ cảm hứng về cuộc sống mới, hình tƣợng con ngƣời, đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biệt là ngƣời phụ nữ cũng đã đƣợc khắc họa cụ thể hơn. Ngƣời phụ nữ không

19

còn mang thân phận bị phụ thuộc, giờ đây họ có một vị thế mới: những ngƣời

tự do đƣợc làm chủ cuộc đời mình và tham gia tích cực vào công tác xã hội.

Họ tham gia lao động trong hợp tác xã, trong các tổ đổi công, bộc lộ tài năng,

sự khéo léo của mình trong hội cấy thi, vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản

xuất. Họ đã trở thành hoa trong mƣờng:

Mẹ chờ con trai lại

- Tay mày sờ máy, mở tao nhìn

Mẹ nhìn con gái đến

- Tay mày cầm súng cầm có hay

Con gái xòe hai bàn tay

Con trai xòe hai bàn tay

(Hoa trong mƣờng - Vƣơng Anh)

Nhiều cô gái đã trở thành ngƣời công nhân lao động xây dựng chủ

nghĩa xã hội: “Khăn Piêu nhuộm nắng mƣa sa/ Sánh vang nam giới, ca vang

một lời/ Vì chị là ngƣời/ Công nhân trẻ tuổi.” (Chị em công nhân cầu đƣờng –

Hoàng Nó)...

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đem lại cho nhân dân những

biến đổi lớn lao trong cuộc sống. Trƣớc cuộc sống tự do hạnh phúc hiện tại,

đồng bào các dân tộc thiểu số luôn bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Bác Hồ. Cầm

Biêu viết: Muốn nhìn thấy Đảng (1958), Công Đảng, công Bác (1960); Bàn

Tài Đoàn viết Muối của cụ Hồ; Lƣơng Quy Nhân viết Dƣới cờ Đảng, Ơn

Đảng, Lò Văn Cậy viết Hạt tình...

Cuộc chiến tranh chống Mỹ và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà cũng là

một nội dung quan trọng trong thời kỳ này. Đồng bào các dân tộc thiểu số

luôn hƣớng về miền Nam ruột thịt với tình cảm chân thật, thiết tha. Nông

Quốc Chấn viết Tiếng ca ngƣời Việt Bắc; Vƣơng Anh viết Mây khói Trƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sơn, Nửa đêm nghe tiếng sấm, Theo những dấu chân, Chở xác máy bay...;

20

Cầm Biêu viết Giặc Mỹ điên cuồng, Diều hâu giặc Mỹ, Nam Bắc thống nhất;

Vƣơng Trung viết Chiếc khăn, Chở xác máy bay, Chèo thuyền đƣa tiễn...

Có thể nói rằng, thơ ca giai đoạn này tập trung phản ánh hiện thực của

hai cuộc cách mạng, ca ngợi đất nƣớc, con ngƣời trong thời kỳ xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Các nhà thơ đã thể hiện tình yêu quê hƣơng đất nƣớc của mình

theo một cách riêng. Tuy vậy, mục đích tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu của thơ

ca giai đoạn này vẫn còn nên hình tƣợng con ngƣời mới đƣợc tập trung xây

dựng chủ yếu ở phƣơng diện con ngƣời xã hội, con ngƣời công dân, đời sống

tâm hồn của con ngƣời cá nhân với những vấn đề đời tƣ vẫn chƣa đƣợc đề cập

tới.

Ở giai đoạn này sự phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số còn đƣợc thể

hiện ở những xu hƣớng nghệ thuật khác nhau. Có tác giả sáng tác với sự ảnh

hƣởng sâu sắc của thi pháp thơ dân gian nhƣ Bàn Tài Đoàn, Lƣơng Quy

Nhân, Hoàng Nó, Lò Văn Cậy, Mã Thế Vinh…Tác phẩm thơ viết theo xu

hƣớng này thƣờng có lối thể hiện dung dị, cụ thể, gần gũi với lời ăn tiếng nói

hàng ngày của ngƣời dân tộc. Họ thƣờng sử dụng thể thơ truyền thống 7 chữ -

8 dòng, 7 chữ - 4 dòng, lối phô diễn, giọng điệu tâm tình, vận dụng tục ngữ,

các làn điệu dân ca của dân tộc mình để sáng tác. Có thể tìm thấy lối phô diễn

của truyện thơ trong thơ của Lò Văn Cậy:

Thân sinh em dân ngƣời Xá Cảu

Bố mẹ nuôi bằng cám ngô nhà Tạo

Cô chú nuôi bằng vỏ cám trấu nhà Phìa

(Bản Cang Cói thân thƣơng- Lò Văn Cậy)

Nhiều nhà thơ khác lại trăn trở, tìm tòi thể nghiệm sự đổi mới theo

hƣớng hiện đại hóa thơ ca nhƣ: Vƣơng Anh, Cầm Biêu, Cao Sơn Hải…Theo

xu hƣớng này, tác phẩm thành công là những tác phẩm vừa có tính hiện đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vừa giữ đƣợc bản sắc dân tộc. Có thể kể tới các bài thơ nhƣ: Tình còn, tình

21

chiêng, Cơm mƣờng Vó, lúa mƣờng Vang (Vƣơng Anh); Lời mẹ, Hạt tình (Lò

Văn Cậy); Cầu vào bản, Mối tình đầu (Cầm Biêu); Núi mây và đàn bò

(Vƣơng Trung)...Tuy vậy, có một số bài thơ bị mất hẳn yếu tố truyền thống,

bản sắc do các nhà thơ quá chú ý tới yếu tố hiện đại. Có nhà thơ kết hợp cả

hai yếu tố truyền thống và hiện đại trong sáng tác. Vƣơng Anh là một trong

những nhà thơ đã có sáng tác thành công khi đi theo xu hƣớng này. Ông đã sử

dụng hình tƣợng, chi tiết, hình ảnh đậm tính truyền thống để diễn tả những

vấn đề con ngƣời, cuộc sống mới. Hoa trong mƣờng, Sao chóp núi, Cơm lam,

Trăng mắc võng, Tình còn...là những bài thơ thành công của Vƣơng Anh. Cả

ba xu hƣớng này làm nên sự phong phú trong nghệ thuật biểu hiện của thơ các

dân tộc. Xu hƣớng sáng tác vừa mang bản sắc dân tộc vừa có cách diễn đạt, tƣ

duy thơ mới mẻ là một hƣớng đi đúng đắn, tích cực, phù hợp với thời kỳ mới

và đông đảo bạn đọc. Đó cũng là xu hƣớng chính của thơ dân tộc thiểu số giai

đoạn sau 1975.

1.1.3 Giai đoạn sau 1975

Sau năm 1975, đất nƣớc hòa bình, độc lập. Một giai đoạn mới của văn

học đƣợc mở ra. Từ năm 1976 cho đến nay, thơ các dân tộc thiểu số phát triển

rất mau lẹ tạo nên một mùa xuân thứ hai với một vƣờn hoa thơ dân tộc đầy

hƣơng sắc góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ chung của đời

sống thơ ca nƣớc nhà. Đội ngũ tác giả thơ đông đảo với nhiều thế hệ. Thế hệ

tác giả sáng tác giai đoạn đầu vẫn sáng tác đều đặn: Nông Quốc Chấn có

Dòng thác (1977), Bài thơ Pác Bó (1982), Suối và biển (1984); Bàn Tài Đoàn

có Trên núi vẫn là nơi ta ở (1979), Ba con đƣờng vẫn là nơi ta ở (1979),

Bƣớc đƣờng tôi đi (1985), Ba con đƣờng (1995), Tìm ban rừng (1999), Bó

đuốc sáng (2002); Vƣơng Anh có Hoa li- pa yêu (1989), Rƣợu mặn (1993),

Lá đắng (1993), Tình Viêng -Chăn (2000); Vƣơng Trung có trƣờng ca Sông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nậm Rốm (1998)…Đặc biệt thơ ca các dân tộc thiểu số dƣờng nhƣ trẻ lại với

22

các tên tuổi nhƣ: Y Phƣơng có Tiếng hát tháng giêng (1986), Lửa hồng một

góc (1987), Lời chúc (1991), Đàn then (1996), Chín tháng (2000), Ngƣợc gió

(2009)...; Lò Ngân Sủn có Chiều biên giới (1989), Những ngƣời con của núi

(1990), Đám cƣới (1992), Ngƣợc dốc (1993), Dòng sông mây (1995), Chợ

tình (1995), Con của núi (1996), Đầu nguồn cuối nƣớc(1997), Ngƣời

đẹp(1999)... Pờ Sảo Mìn có Cây hai ngàn lá (1992), Bài ca hoang dã (1993),

Mắt lửa (1998), Con trai ngƣời Pa Dí (2001), Cung đàn biên giới (2002)...;

Lâm Quý có Điều có thật từ câu dân ca (1998), Tình thơ Cao Lan (1997)...,

Dƣơng Thuấn có Cƣỡi ngựa đi săn (1991), Đi tìm bóng núi(1993), Đi ngƣợc

mặt trời (1995) Hát với sông Năng (2001)..., Mai Liễu có Suối làng (1994),

Mây vẫn bay về núi (2001)...; Dƣ Thị Hoàn có Lối nhỏ (1998), Bài mẫu giáo

sáng thế (1993)...; Triệu Kim Văn có Hoa núi (1990), Mùa sa nhân (1994),

Lá tìm nhau (1999), Con của núi (2002)...; Lò Cao Nhum có Giọt sao trở về

(!995), Rƣợu núi (1996)…; Hùng Đình Quý có Ngƣời Mông nhớ Bác Hồ, Nếu

sai tôi sẽ chết không nhắm mắt, Chỉ vì quá yêu...; Bùi Thị Tuyết Mai có Mƣa

trong nhà (1998), Trầu đỏ môi ai (1999), Nơi cất rƣợu (2003), Mƣờng trong

(2006)... Cho tới giai đoạn này, nhiều dân tộc thiểu số mới có tiếng thơ đại

diện tiêu biểu cho điệu tâm hồn của dân tộc mình nhƣ Pờ Sảo Mìn (Pa Dí), Lò

Ngân Sủn (Giáy), Lâm Quý (Cao Lan), Dƣ Thị Hoàn (Hoa), Bùi Thị Tuyết

Mai (Mƣờng)...Chƣa khi nào số lƣợng các nhà thơ tài năng, các tập thơ hay

lại xuất hiện đông đảo đến nhƣ vậy. Hơn nữa, thơ đã bắt nhịp với sự đa chiều

với bao bề bộn, lo toan của cuộc sống thƣờng nhật nên đƣợc công chúng đón

nhận nồng nhiệt hơn.

Các nhà thơ đã phản ánh một cách sinh động hình ảnh thiên nhiên, cuộc

sống, con ngƣời miền núi với lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Họ ca ngợi

và tự hào về quê hƣơng miền núi giàu bản sắc, khẳng định tầm vóc và vị thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lớn lao của con ngƣời miền núi với cảm hứng lãng mạn, vui tƣơi.

23

Quê hƣơng miền núi chính là một phần quan trọng góp phần hình thành

nên hồn thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, họ lấy quê hƣơng

là đề tài chủ đạo trong sáng tác của mình. Với nhiều nhà thơ Tày, quê hƣơng

là bếp lửa nhà sàn, là suối làng, đầu nguồn mây trắng...Suối làng tôi đã bắt

đầu từ nơi ấy/ Là ngọn nguồn trong trẻo của đời tôi (Suối làng trong trẻo-

Mai Liễu) [25, tr18]. Mỗi tên đất, tên làng của quê hƣơng đã trở thành phần

máu thịt thiêng liêng trong mỗi nhà thơ: Bản Hon, Khuổi Luông, Pác Nặm,

Núi Thuyền Đồng...trong thơ Dƣơng Thuấn; Khau Liêu, sông Hiến, sông

Bằng, làng Hiếu Lễ... trong thơ Y Phƣơng; vùng đất Nguyên Bình trong thơ

Bàn Tài Đoàn, Cao nguyên đá ở Đồng Văn, Sa Pa...trong thơ của Mã A

Lềnh...Lao Cai, Sa Pa, chợ Cốc Lếu trong thơ Lò Ngân Sủn; Nà Hang, Chiêm

Hóa, Suối Tiên, Nậm Thi trong thơ Mai Liễu...Quê hƣơng còn là những yếu

tố phong tục, tập quán gắn với lịch sử, với văn hóa, văn minh; là ngƣời thân

yêu, ruột thịt, đồng bào cùng sống trên mảnh đất quê hƣơng.

Từ đề tài quê hƣơng, hình tƣợng con ngƣời miền núi trong thơ các dân

tộc thiểu số đã hiện ra với những phẩm chất cao quý, tốt đẹp. Những ngƣời

con trai, con gái miền núi chân thành, hiền lành, chất phác nhƣng rất mạnh

mẽ, quyết liệt, dũng cảm và cũng rất đa tình, lãng mạn, hồn nhiên. Các nhà

thơ dân tộc thời kỳ này đã tìm thấy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số

trong hình tƣợng con ngƣời miền núi đặc biệt là trong hình tƣợng ngƣời phụ

nữ miền núi. Trong những trang phục truyền thống họ chính là ngƣời thể hiện

và lƣu giữ nét đẹp quê hƣơng. Những cúc bạc, áo cóm, váy hoa, khăn Piêu,

cánh áo chàm tƣơi,... không chỉ là trang phục mà còn chứa đựng những yếu tố

văn hóa đậm bản sắc:

Cúc bạc, áo cóm, khăn Piêu

Nếu đƣợc tôn tạo đáng yêu nhƣờng nào

Sánh cùng gấm vóc, lụa đào

Em xòe, em múa, khác nào rồng bay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Với văn công tỉnh nhà - Cầm Biêu)

24

Những ngƣời con gái miền núi mang vẻ đẹp khỏe mạnh, chất phác

đầy tính phồn thực:

Em hiền lành

Em chậm chạp

Em đội chum rƣợu đến với anh

Ngƣời con gái có bàn chân to khỏe

( Em- cơn mƣa rào ngọn lửa - Y Phƣơng)

Trong nỗi nhớ về quê hƣơng, hình ảnh con ngƣời miền núi đặc biệt là

những ngƣời phụ nữ thân yêu của các nhà thơ bao giờ cũng mang lại cho các

nhà thơ nhiều xúc cảm sâu đâm nhất. Họ thƣờng viết về ngƣời vợ, ngƣời mẹ

của mình với lòng biết ơn vô hạn, với Y Phƣơng ngƣời phụ nữ là nơi bắt đầu

cho tình yêu, sự nghiệp và cuộc đời ông bởi “Những gì anh có đƣợc/ Đều bắt

đầu từ em” (Em - Cơn mƣa rào - ngọn lửa); với Dƣơng Thuấn, ngƣời vợ

chính là một tài sản vô giá trong nhà mà ông bỗng nhận ra: “Nghe tiếng cọn

cót két đêm qua/ Sáng nay bỗng yêu em đến thế/ Em nhƣ một kho báu trong

nhà”; với Bàn Tài Đoàn ngƣời vợ của ông là cội nguồn cảm hứng văn

chƣơng: “Đƣợc làm chồng một ngƣời mẹ trẻ/ Phải chăng từ đấy tôi thích thơ”

(Mình ơi), và khi ngƣời vợ thân yêu của ông mất đi đã để lại trong lòng ông

nỗi cô đơn, trống vắng, hẫng hụt và bơ vơ không gì khỏa lấp đƣợc: “Ngƣời vợ

thân yêu về trời mất/ Bỏ lại thân tôi sống cô đơn/ Có nàng có con nhƣ không

có/ Tôi phải lang thang khắp xóm làng”(Cuộc đời sao khổ thế); Pờ Sảo Mìn

xót xa cho cuộc đời vất vả của vợ : “Cả cuộc đời em là tháng năm vất vả/ Ba

mƣơi tuổi đã mấy lần sinh con/ Nỗi lo toan in trên vầng trán/ Những nếp

nhăn chéo ngang, chéo dọc” (Xuân nhớ về thăm vợ)...

Cuộc sống của những con ngƣời miền núi còn nhiều vất vả, khó khăn

nên có lúc nỗi vất vả, nhọc nhằn còn in dấu nơi dáng hình chậm chạp, nặng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhọc, còm cõi của họ. Cao Sơn Hải viết Ngƣời đàn bà vùng cao, Y Phƣơng

25

viết Bài ca thứ chín, Mai Liễu viết Gọi vía, Mùa màng của mẹ, Nông Thị

Ngọc Hòa viết Tìm lại tuổi thơ...

Điều làm nên sự khác biệt trong hình tƣợng con ngƣời miền núi trong

đối sánh với ngƣời miền xuôi không chỉ ở dáng vẻ bề ngoài ấy mà chính là lối

sống, suy nghĩ là tâm hồn họ. Những con ngƣời miền núi rất giàu tình cảm và

họ biểu đạt tình cảm nhiệt thành của mình bằng hành động thật cụ thể:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi

- Con đƣờng nào đã đƣa anh đến(...)

Mà nói rằng:

Hãy uống rƣợu cùng ta

Khách muốn gì xin tự nói ra

Khách đi chủ nhà chỉ nói

- Đừng để cầu thang tôi mọc cỏ gà

(Ngƣời xứ mây - Dƣơng Thuấn)

Trong giao tiếp ban đầu, ngƣời dân tộc có thể ít bộc lộ mình nhƣng khi

đã hiểu và gắn bó với nhau thì họ lại rất cởi mở và nồng nhiệt. Tình cảm yêu

quý hay lòng căm ghét của những ngƣời dân tộc đều đƣợc biểu hiện ở cung

bậc cảm xúc cao nhất: “Kẻ nào bụng không tốt tỏ lời từ trong quả bầu, ta sẽ

bóp chết ngay từ trong trứng/ Tỏ lời qua khe cửa và lỗ hổng chái nhà, ta sẽ

bịt ngay để không một ai thấy” (Núi mọc trong mặt gƣơng - Mùa A Sấu)

Thế giới tâm hồn con ngƣời cũng đƣợc các nhà thơ giai đoạn này biểu

đạt một cách cụ thể và phong phú hơn. Đó có thể là tiếng lòng của những con

ngƣời bình thƣờng phải oằn mình với gánh nặng áo cơm để duy trì sự sống

mà vẫn trăn trở về nghề nghiệp, về sự đổi thay của lòng ngƣời và các giá trị

văn hóa truyền thống. Nhiều nhà thơ đã sáng tác những bài thơ có tính triết lý,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều sự suy tƣ về con ngƣời, cuộc đời : Ngƣời đẹp của Lò Ngân Sủn; Chỉ

26

cần một loại ngƣời của Cầm Biêu; Ngọt ngào, xảo trá của Lò Vũ Vân; Lời

mẹ của Mai Liễu; Mƣa xuân của Bùi Thị Tuyết Mai...Thơ tình khá phát triển

trong giai đoạn này. Các nhà thơ (đặc biệt là các nhà thơ nữ) đã tự bộc lộ thế

giới tâm hồn mình nhiều hơn: có lúc muốn mình thật nhỏ bé để đƣợc quan

tâm, chăm sóc thật dịu dàng: “Tôi muốn Ngƣời nâng lên/ Dịu dàng nhƣ Mẹ/

Hơi ấm ngƣời đàn ông từng trải/ Xoa dịu trái tim này” (Về ngƣời đàn ông trẻ

tuổi - Bùi Thị Tuyết Mai).

Có lúc là những suy tƣ đầy chất nhân văn của ngƣời thứ ba:

Anh đến thăm em

Có thấy dáng chị ấy thẫn thờ đợi của

Anh ngắm nhìn em

Có thấy hình chị ấy ôm gối thở dài(...)

Anh ơi

Anh mãi là mặt trời

Của ngƣời vợ đáng thƣơng ấy

Lẽ ra trên thế gian này

Đừng nên có em

(Chị ấy - Dƣ Thị Hoàn)

Nhƣng vƣợt qua tất cả những sự suy tƣ thậm chí là sự khủng hoảng,

trống rỗng, cô đơn điều mà các nhà thơ dân tộc thiểu số nói riêng và con

ngƣời Việt Nam nói chung luôn hƣớng tới là sự tự tin, yêu đời để vƣơn tới

những giá trị nhân bản của con ngƣời: “Dù tóc ta có bạc/ Nhƣng bên gió trời

trở thơm hƣơng cốm/ Xanh nhần nhật tƣơng lai‟ (Đi từ miền gió hoang - Lò

Vũ Vân)

Nói chung, thơ các dân tộc thiểu số sau năm 1975 có tính hiện đại

nhƣng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, nhiều tác phẩm đƣợc đông đảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công chúng đón nhận nhƣ: Ngƣời đẹp của Lò Ngân Sủn, Rƣợu núi của Lò

27

Cao Nhum, Mùa hoa, Em - cơn mƣa rào ngọn lửa của Y Phƣơng, Núi mọc

trong mặt gƣơng của Mùa A Sấu, Nếu tôi chết của Triệu Kim Văn... Ngôn

ngữ đƣợc sử dụng linh hoạt, giàu tính tạo hình. Điều này đã giúp các nhà thơ

ngƣời dân tộc thiểu số giới thiệu thành công vẻ đẹp của cảnh sắc và con ngƣời

miền núi. Các thể thơ đƣợc sử dụng linh hoạt: nhƣ thơ tứ tuyệt, thơ lục bát,

thơ tự do...Các nhà thơ đứng vững trên thi đàn thơ dân tộc thiểu số trong giai

đoạn này và đặc biệt là hơn 10 năm đầu thế kỷ XXI phải kể tới Y Phƣơng và

Inrasara. Y Phƣơng với 6 tập thơ của mình đã nói đƣợc những vấn đề rất lớn

lao về con ngƣời, dân tộc từ những gì thân thuộc, gần gũi với chính nhà thơ.

Y Phƣơng mang tâm hồn chân thật của con ngƣời miền núi, của ngƣời phụ nữ

miền núi nhƣng hình tƣợng thơ lại rất hiện đại:

Em hiền lành

Em chậm chạp

Em đội chum rƣợu đến với anh

Ngƣời con gái có bàn chân to khỏe

Đạp qua bao nhiêu đau khổ

Đến với anh.

( Em – Cơn mƣa rào ngọn lửa – Y Phƣơng)

Còn Inrasara lại miệt mài tìm hiểu truyền thống văn hóa để rồi tái tạo

lại và cho ra đời những tác phẩm mới mang “hƣơng vị đáng quý cho thơ Việt

Nam”:

Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng

Biển bên kia và tháp bên này

Biết mấy vạn đời rồi tháp nắng

Trên đồi hoang

nhƣ dấu lặng

phơi bày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tháp nắng - Inrasara)

28

Nhƣ vậy, sau gần bảy mƣơi năm vận động và phát triển, thơ các dân tộc

thiểu số có những thành tựu đáng đƣợc khẳng định và trở thành một bộ phận

quan trọng không thể thiếu của nền thơ ca Việt Nam. Thơ các dân tộc thiểu số

đã thành công trong việc phản ánh tâm hồn, tính cách và những đặc trƣng cơ

bản của con ngƣời Việt Nam, văn hóa Việt Nam - trong đó có hình tƣợng

ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam.

1.2. Vài nét về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong nền thơ ca dân tộc.

Nhƣ đã biết, ngƣời phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng mãnh liệt và bất tận

cho các sáng tác thơ ca từ xƣa tới nay của bất kỳ một dân tộc nào nhất là đối

với dân tộc Việt Nam - một dân tộc đậm chất nhân văn trong lối ứng xử, trong

cuộc sống, một dân tộc có truyền thống thờ Mẫu...Đặc biệt trong xã hội phong

kiến xƣa - ngƣời phụ nữ luôn chịu sự thiệt thòi, luôn bị kìm hãm, đè nén bởi

mọi thế lực (trong gia đình và ngoài xã hội)...do chịu ảnh hƣởng sâu sắc của

Nho giáo trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc và hàng nghìn năm phong

kiến. Nhƣng ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào thì ngƣời phụ nữ vẫn luôn là đối

tƣợng thẩm mỹ cho mọi thế hệ thi sĩ sáng tác (những ngƣời vốn có một tâm

hồn cực kỳ nhạy cảm với cái Đẹp, với nỗi đau khổ và bất hạnh của con

ngƣời). Nhƣ vậy, từ thời xa xƣa (trong ca dao, truyện thơ...) cho đến thời

phong kiến (trong các tác phẩm văn học viết), đến văn học thời kỳ hiện đại

ngày nay - hình tƣợng ngƣời phụ nữ luôn là hình tƣợng trung tâm, là một đối

tƣợng thẩm mỹ đặc biệt, nổi bật trong đời sống thi ca dân tộc.

Khái quát về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong lịch sử thơ ca nƣớc nhà, ta

thấy rõ: ngƣời phụ nữ đƣợc hiện lên với những phẩm chất tuyệt vời. Họ luôn

mang vẻ đẹp kết tinh truyền thống văn hóa của dân tộc – dù phải chịu bao vất

vả, khổ đau, thử thách và cả sự hy sinh nữa.

Trong ca dao cổ truyền của ngƣời Việt, vấn đề thân phận con ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trƣớc hết là số phận ngƣời dân nô lệ và ngƣời phụ nữ lao động là chủ đề

29

chính. Ca dao đã làm tròn sứ mạng của nó trong việc lƣu giữ những nỗi lòng,

những số phận của những ngƣời phụ nữ bình dân xƣa và mang đến cho ta cái

nhìn toàn diện về họ trong nỗi khổ đau cũng nhƣ vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.

Trong các tác phẩm trữ tình dân gian của các dân tộc thiểu số (ca dao,

truyện thơ...) vấn đề ngƣời phụ nữ - đặc biệt là số phận ngƣời phụ nữ trong đề

tài tình yêu là một vấn đề nổi bật. Ta có thể thấy điều này trong đa số truyện

thơ của các dân tộc: Nam Kim - Thị Đan, Lƣu Đài - Hán Xuân...của ngƣời

Tày - Nùng; Tiễn dặn ngƣời yêu, Chàng Lú - Nàng Ủa, Hiến Hon - Cầm

Đôi...của ngƣời Thái; Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối, Nàng Ờm -

chàng Bồng Hƣơng...của ngƣời Mƣờng, Tiếng hát làm dâu, Nhàng Dợ - Chà

Tăng...của ngƣời H‟Mông...

Nhƣ đã biết, xã hội Việt Nam xƣa là xã hội phong kiến mang nặng tƣ

tƣởng Nho giáo. Những quan niệm khe khắt với ngƣời phụ nữ nhƣ “tại gia

tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, hay “nhất nam viết hữu, thập nữ

viết vô” đã giành quyền ƣu đãi cho ngƣời đàn ông và đẩy ngƣời phụ nữ xuống

địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng nhƣ trong xã hội. Nỗi niềm ấy đƣợc

họ gửi gắm trong những câu ca dao than thân mang âm điệu buồn tẻ, chán

ngán, chất chứa nỗi lo lắng khôn nguôi:

- Thân em nhƣ thể bèo trôi

Gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu

- Thân em nhƣ tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

- Thân em nhƣ lá đài bi

Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sƣơng

Có bao nỗi đau khổ mà ngƣời phụ nữ phải chịu đựng, từ nỗi vất vả về

thể xác “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sƣơng” đến nỗi khổ về tinh thần của

thân phận mong manh bị phụ thuộc. Giá trị của ngƣời phụ nữ đƣợc đánh giá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bằng vật chất cụ thể và vô cùng nhỏ bé nhƣ: Gạo, muối, một chiếc thìa hay

30

chỉ bằng một cuộn lá dong...mà thôi. Cô gái H‟Mông Nhàng Dợ trong truyện

thơ Nhàng Dợ - Chà Tăng đã tự nhủ cho thân phận của mình khi phải sống

kiếp làm dâu: “Đời ngƣời nhƣ em khác chi dơi treo cánh/ Tấm thân em sống

kiếp ăn gửi ở nhờ/ Giá không bằng chiếc thìa cũ ngƣời ta vứt bỏ”

Hôn nhân của ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ thƣờng không có tình yêu

làm cơ sở mà do chính cha mẹ của họ quyết định. Cô gái trong bài ca dao

Mƣờng khi bị ép gả đã thở than cho hoàn cảnh của mình:

Bố nhà em

Đã nhận quà nhà đạo

Mẹ nhà em

Đã nhận rƣợu nhà ngƣời !(...)

Trong lòng em bời bời(...)

Em nói ra những điều đứt ruột, xót lòng

Nơi đẹp lòng, bố nhà em không gả

Nơi đẹp dạ, mẹ nhà em không ƣng

Cuộc hôn nhân không có tình yêu là nỗi đau mở đầu cho cuộc đời

ngƣời phụ nữ. Khi lấy chồng, họ phải gánh vác thay chồng tất cả các công

việc nặng nhọc lại vừa phải làm hết những công việc thuộc phận sự của mình.

Quan niệm “hôn nhân gả bán” cho phép ngƣời ta “mua” vợ cho con mà

không khác nào mua ngƣời làm không công và lạnh lùng bóc lột họ. Khi lấy

chồng, ngƣời phụ nữ phải chịu bao điều cay cực. Họ lấy chồng để là nghĩa vụ

gánh vác giang sơn nhà chồng để rồi bị biến thành một công cụ lao động thực

sự - bị đối xử tàn nhẫn: “Bà mất tiền mua mâm thì bà đâm cho thủng/ Bà mất

tiền mua thúng thì bà đựng cho mòn”

Cùng chủ đề ấy, ca dao Mƣờng đã cụ thể hóa nỗi khổ của ngƣời phụ nữ:

Ƣớc gì mẹ có mƣời tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tay kia bắt cá, tay này bắt chim

31

Một tay chuốt chỉ, luồn kim

Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau

Một tay ôm ấp con đau

Một tay vo gạo, một tay cầu cúng ma

Một tay khung vải, guồng xa

Một tay lo bếp nƣớc, lo cửa nhà nắng mƣa

Một tay đi củi, muối dƣa

Còn một tay để van lạy, để bẩm thƣa đỡ đòn

Tay nào để giữ lấy con

Tay nào lau nƣớc mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay

Bồng bồng con ngủ cho say

Dƣới sông con cá lội, con chim bay trên ngàn

Nỗi khổ ải, vất vả của ngƣời phụ nữ trong cuộc sống gia đình thiếu

ngƣời đỡ đần hôm sớm đƣợc thể hiện sâu sắc qua niềm ƣớc ao có mƣời tay

của ngƣời mẹ. Biết bao công việc phải làm để đời sống gia đình tồn tại. Nếu

nhƣ Phật Bà Quan Âm có nghìn tay, nghìn mắt để nhìn khắp thế gian đặng

giúp đỡ những số phận bất hạnh thì ở bài ca dao này ngƣời mẹ ƣớc có mƣời

tay để chăm sóc cho gia đình và con cái, nhƣng dù mẹ có mƣời tay thì mẹ vẫn

thiếu tay để giữ con, thiếu tay lau dòng nƣớc mắt chảy tràn hai bên má. Thế

mới biết, ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ có lúc nào đƣợc nghỉ ngơi và chăm

sóc cho bản thân mình. Có thể thấy: cần cù, chịu thƣơng chịu khó, hết lòng vì

chồng con, nỗ lực vƣợt lên hoàn cảnh là phẩm chất đáng quý của ngƣời phụ

nữ Việt Nam - dù họ thuộc bất cứ dân tộc nào.

Mặc cho cuộc sống còn nhiều bất hạnh nhƣng vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ

trong ca dao xƣa vẫn sáng lên lấp lánh. Vẻ đẹp đó toát lên từ con ngƣời:

khuân mặt, mái tóc, làn da, cánh tay, đôi chân, đôi lông mày...và phụ trợ tôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vinh vẻ đẹp đó là những trang phục truyền thống. Họ dịu dàng, duyên dáng

32

với “lông mày lá liễu” hay “đôi mày xanh cong, đôi mắt lúng liếng sắc nhƣ

dao cau, má lúm đồng tiền”, “bàn tay trắng ngần/ bàn tay trắng ngà/ đeo

vòng, đeo hoa”, đội nón quai thao, mặc yếm thắm, áo tứ thân”…Vẻ đẹp của

họ mang quan niệm thẩm mỹ truyền thống, vẻ đẹp mang tính chuẩn mực để

các chàng trai lựa chọn ngƣời thƣơng:

Một thƣơng tóc bỏ đuôi gà

Hai thƣơng ăn nói mặn mà có duyên

Ba thƣơng má lúm đồng tiền

Bốn thƣơng răng lánh hạt huyền kém thua...

hay:

Trời ơi, là vía

Có ai ngờ gặp tiên giữa bái

Gặp đƣợc bạn gái vóc ngọc mình ngà

Nhƣ cành cây hoa

Trời đƣa ra cho con ngƣời ta ao ƣớc

(Út Lót - Hồ Liêu - Truyện thơ Mƣờng)

Từ khổ đau bất hạnh, ngƣời phụ nữ vẫn vƣơn lên với tinh thần lạc

quan, tỏa sáng. Họ chủ động xây đắp hạnh phúc cho cuộc đời mình. Ngƣời

phụ nữ bao giờ cũng giành trọn vẹn tình cảm cho chồng con. Dù cuộc sống

trong cảnh cơ hàn, tình cảm của ngƣời vợ đối với ngƣời chồng thân yêu

nhƣng nghèo khó không bao giờ đổi thay:

Chồng em áo rách em thƣơng

Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời

Hai biểu tƣợng “áo rách” và “áo gấm” đã tạo đƣợc sự tƣơng phản của

hai hoàn cảnh sống giữa một bên là cuộc sống nghèo khổ với một bên là cuộc

sống giàu sang, phú quý. Sự đối lập này càng làm nổi bật giá trị và phẩm hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đáng quý của ngƣời phụ nữ. Họ luôn khéo léo vun vén cho hạnh phúc gia

33

đình: “Chồng giận thì vợ làm lành/ Miệng cƣời tủm tỉm: Rằng anh giận gì ?”

Ngƣời phụ nữ có lúc sẵn sàng nhận phần thua thiệt về mình với sự nhẫn

nhịn có phần đáng thƣơng: “Chàng ơi phụ thiếp làm chi/ Thiếp nhƣ cơm

nguội đỡ khi đói lòng”

Nhƣng không phải lúc nào họ cũng cam chịu, có lúc sức phản kháng

của họ rất mạnh mẽ. Họ đả phá tƣ tƣởng “trọng nam khinh nữ”, đòi quyền

bình đẳng và chủ động cho mình: “Từ ngày tôi ở với anh/ Anh đánh, anh chửi,

anh tình phụ tôi/ Đất xấu nặn chẳng nên nồi/ Anh đi lấy vợ để tôi lấy chồng”

Sức phản kháng của ngƣời phụ nữ dân tộc cũng đƣợc thể hiện ở lòng

chung thủy, đấu tranh chống lại các thế lực (trong gia đình và ngoài xã hội) để

bảo vệ tình yêu của mình. Có lúc, họ chịu đựng sự ngƣợc đãi của cha mẹ,

thậm chí tìm đến cái chết để bảo vệ tình yêu của mình:

Em muốn cùng anh nên cửa

Nhƣng bố không cho nên cửa;

Em muốn cùng anh nên nhà

Nhƣng mẹ không cho nên nhà

Ta cùng về bên ma cho khỏi bận

Ta đi ăn lá ngón cho nó hại thân

Cửa nhà không nên là vì bố mẹ

(Nàng Ờm - Bồng Hƣơng --Truyện thơ Mƣờng)

Tóm lại, qua thơ ca dân gian, ngƣời phụ nữ Việt Nam trong đó có

những ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số hiện lên với vẻ đẹp cao quý cả về phẩm

chất lẫn tâm hồn. Họ luôn phải chịu đựng những bất công, khổ cực trong xã

hội cũ nhƣng họ đã chủ động bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, đấu tranh với những

lề luật, bất công mà chế độ phong kiến đã gây ra.

Nền văn học viết của Việt Nam đƣợc hình thành vào khoảng thế kỷ X.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hình thành và tồn tại trong khoảng 10 thế kỷ, văn học trung đại đạt nhiều

34

thành tựu với những tác phẩm đạt tới đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ

nghĩa nhân đạo.

Đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam là vào

khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Các tác phẩm thơ nổi tiếng trong

thời kỳ này nhƣ “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm”, “Lục

Vân Tiên” hay những vần thơ của Hồ Xuân Hƣơng… đều mang giá trị nhân

đạo sâu sắc và đều là những tác phẩm thơ viết về ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ

hiện lên với nét phẩm chất tuyệt vời với vẻ đẹp kết tinh truyền thống của dân

tộc- dù phải chịu đựng nhiều vất vả, khổ đau, thử thách. Một nàng Kiều tài

sắc vẹn toàn đã hy sinh mối tình đầu đẹp đẽ, thơ mộng của mình để làm tròn

chữ hiếu. Trong mƣời lăm năm lƣu lạc, nàng luôn đau đáu một lòng hƣớng về

gia đình. Một nàng chinh phụ mòn mỏi chờ chồng đi chinh chiến nơi miền

biên ải xa xôi. Một nàng Cúc Hoa (Tống Trân- Cúc Hoa) thủy chung nhất

mực, chịu thƣơng chịu khó, tần tảo nuôi mẹ, nuôi con trong lúc cùng đƣờng

đói khát đã hy sinh một phần thân thể để cứu mẹ già trong cơn hoạn nạn, một

“Bà chúa thơ Nôm” - Hồ Xuân Hƣơng khát khao đến cháy bỏng tình yêu và

hạnh phúc lứa đôi nhƣng thật cao ngạo, coi thƣờng những kẻ tiểu nhân nam

tử...Những ngƣời phụ nữ đó đã hiện lên sống động và để lại cho chúng ta bao

tình cảm mến yêu, trân trọng.

Hơn một trăm năm sau, hình ảnh ngƣời phụ nữ trong văn học dƣới ngòi

bút của các nhà thơ có cách nhìn nhận khác. Không còn thấy những tiếng than

thân trách phận; những lời thở than đau buồn… ngƣời phụ nữ Việt Nam trong

phong trào thơ Mới hiện lên nhƣ một hình ảnh đẹp nhất. Họ tƣợng trƣng cho

cái Đẹp, cho Tình yêu, cho thiên nhiên rực rỡ...Hình ảnh ngƣời thiếu nữ hiện

lên thật lãng mạn, bay bổng:

Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hôm xƣa em đến mắt nhƣ lòng

35

Nở bừng ánh sáng em đi đến

Gót ngọc dồn hƣơng, tỏa bƣớc hồng(...)

Em đẹp bàn tay ngón thon thon

Em duyên đôi má nắng hoe tròn

Em lùa gió biếc vào trong tóc

Thổi lại hồn anh cả nƣớc non

(Áo trắng - Huy Cận)

Vẻ đẹp của ngƣời thiếu nữ khiến mọi vật phải mờ nhạt:

Nàng đẹp, đẹp từ hai khóe mắt

Làm mờ những ánh ngọc trân châu

Làm phai ánh nƣớc hồ thu thắm

Làm nhạt bao nhiêu ánh nhiệm màu

Một cƣời héo cả trăm hoa nở

Say cả non sông, đắm cả giời

(Bao nhiêu đau khổ của trần gian trời đã dành riêng để tặng nàng -

Nguyễn Bính)

Các nhà thơ Mới đã lấy vẻ đẹp của chính ngƣời phụ nữ để làm chuẩn

mực cao nhất để đo mọi vẻ đẹp khác của thế gian. Xuân Diệu - nhà thơ mới

nhất trong các nhà thơ Mới chính là đại diện tiêu biểu cho tƣ tƣởng đậm chất

nhân văn này: “Và này đây ánh sáng chớp hàng my/ Mỗi sáng sớm thần vui

hằng gõ cửa/ Tháng giêng ngon nhƣ một cặp môi gần(...)/ Hỡi xuân hồng, ta

muốn cắn vào ngƣơi” (Vội vàng - Xuân Diệu).

Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại ấy trong thơ của các nhà thơ Xuân Diệu, Huy

Cận, Hàn Mặc Tử...các nhà thơ Mới khác nhƣ Nguyễn Bính, Lƣu Trọng Lƣ,

Đoàn Văn Cừ, Nguyễn Nhƣợc Pháp...còn khắc họa một vẻ đẹp chất phác,

mang tính truyền thống thấm đƣợm bản sắc văn hóa dân tộc của ngƣời phụ nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, mặn mà, kín đáo

36

qua:“Nét cƣời đen nhánh sau tay áo/ Trong ánh trƣa hè trƣớc giậu thƣa”

trong thơ Lƣu Trọng Lƣ, càng không thể quên đƣợc nét đằm thắm, dịu dàng,

dáng ngƣời thon thả, mau mắn, đảm đang của ngƣời mẹ trẻ:“Thúng cắp bên

hông, nón đội đầu/ Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu” trong “Đƣờng về quê

mẹ” - Đoàn Văn Cừ. Hay vẻ đẹp chịu thƣơng, chịu khó, tần tảo của ngƣời con

gái quê hƣơng trong thơ Hàn Mặc Tử:“Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc

bờ sông trắng nắng chang chang” (Mùa xuân chín)

Ngƣời phụ nữ còn là ngƣời gìn giữ, lƣu truyền cho con cháu những

phong tục, tập quán đẹp mang tính văn hóa văn minh của dân tộc:

Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều

Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều

Sân gạch, tƣờng hoa ngƣời quét lại

Vẽ cung, trừ quỷ, trồng cây nêu

Cho tôi sang lễ bên quê ngoại

Ngƣời dặn con đừng uống rƣợu say

(Tết của mẹ tôi - Nguyễn Bính)

Có thể nói rằng, ngƣời phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX mang đậm vẻ

đẹp truyền thống văn hóa dân tộc - dịu dàng, duyên dáng mà say đắm hồn

ngƣời.

Kết thúc phong trào thơ Mới, cả dân tộc bƣớc vào cuộc kháng chiến vĩ

đại: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà. Những

ngƣời phụ nữ Việt Nam từ đời thƣờng bƣớc vào cuộc chiến với tinh thần dũng

cảm, bất khuất, anh hùng. Vốn chỉ quen với công việc bếp núc, ruộng đồng,

chăm sóc gia đình, giờ đây họ tích cực tham gia những công tác kháng chiến

với tinh thần giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ đƣợc

phác hoạ bằng những nét vẽ dung dị, mộc mạc mà không kém phần đằm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thắm, trữ tình. Họ là những con ngƣời thoát ly công việc gia đình bình

37

thƣờng, tham gia vào các đoàn dân công tải đạn, tải lƣơng:

Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát

Dù bom đạn, xƣơng tan thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)

Họ là những ngƣời vợ góp sức với dân làng đánh giặc cứu nƣớc mà

không hề thua kém đức lang quân: “Nhà em phơi lúa chƣa khô/ Ngô chửa vào

bồ, sắn thái chƣa xong/ Nhà em con bế con bồng/ Em cũng theo chồng đi phá

đƣờng quan”.(Phá đƣờng - Tố Hữu)

Với tấm lòng bao dung, họ kêu gọi ngƣời chồng lỡ lầm đƣờng, lạc lối

trở về bản mƣờng xây lại cuộc đời:

Hỡi anh ơi! Ngƣời chồng em ngàn năm yêu dấu

Nghĩ tới anh em những héo hon lòng(...)

Anh ơi, em khóc trong lòng!

Ngủ không đƣợc em chong đèn viết

Vài dòng đây tâm huyết cùng anh

Chính phủ Cụ Hồ rất thƣơng dân

Có chính sách khoan dung với ngƣời lầm đƣờng lạc lối

(Vợ lính ngụy mong chồng - Cầm Biêu)

Họ là những ngƣời mẹ đã nhƣờng cơm sẻ áo, che giấu cán bộ, không

quản vất vả khó khăn, không ngại hiểm nguy gian khổ. Có những ngƣời mẹ

đã hy sinh thật anh dũng và xúc động: “Sống trong cát, chết vùi trong cát/

Những trái tim nhƣ ngọc sáng ngời!” (Mẹ Tơm - Tố Hữu)

Đến kháng chiến chống Mỹ, ngƣời phụ nữ lại đƣợc khắc hoạ bằng

những nét vẽ khoẻ khoắn, trẻ trung, dũng cảm, gan dạ một cách lạ thƣờng. Ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sẽ còn nhớ mãi nỗi xúc động, bàng hoàng của nhà thơ Tố Hữu khi đứng trƣớc

38

ngƣời con gái Việt Nam:

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên

Em có tuổi hay không có tuổi

Mái tóc em đây, hay là mây là suối

Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông

Thịt da em hay là sắt là đồng?

(Ngƣời con gái Việt Nam - Tố Hữu)

Và nhà thơ đã tìm thấy lời giải đáp giản đơn mà không hề đơn giản. Đó

là chí anh hùng: “Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung/ Không giết đƣợc em

ngƣời con gái anh hùng!”(Ngƣời con gái Việt Nam - Tố Hữu). Đó là lòng

yêu nƣớc: “Mấy cô con gái cùng bàn tính/ Ta cùng đánh giặc cứu xóm

làng/...Bàn nhau nhất trí về hỏi mẹ/ Về nhà xin mẹ đi tòng quân” (Con gái

Quan Lang – Bàn Tài Đoàn)

Những phẩm chất tốt đẹp ấy luôn tồn tại trong những con ngƣời Việt

Nam - đặc biệt là những ngƣời phụ nữ Việt Nam nhỏ bé, kiên cƣờng:

O du lích nhỏ giƣơng cao súng

Thằng Mỹ lênh khênh bƣớc cúi đầu

Ra thế! To gan hơn béo bụng

Anh hùng đâu cứ phải mày râu!

(Tấm ảnh - Tố Hữu)

Họ sẵn sàng hy sinh vì đất nƣớc, vì Tổ Quốc; dƣới làn mƣa bom, lửa đạn,

họ đã dũng cảm quên mình bảo đảm cho những đoàn xe ra trận. Những con

ngƣời mà cái chết của họ đã hoá thân vào quê hƣơng, đất nƣớc để rồi họ trở

thành bất tử, vĩnh hằng: “Hỡi mặt trời hay chính trái tim em trong ngực/ Soi cho

tôi bƣớc tiếp quãng đƣờng dài” (Khoảng trời hố bom- Lâm Thị Mỹ Dạ).

Chiến tranh không chỉ không khuất phục nổi những cô gái đôi mƣơi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mƣời tám mà còn phải cúi đầu trƣớc những ngƣời mẹ, ngƣời bà mái tóc đã

39

pha sƣơng. Đi dọc chiều dài lịch sử dân tộc, không đâu là không thấy bóng

của ngƣời phụ nữ Việt Nam; đi dọc chiều dài lịch sử thơ văn, không đâu là

không thấy bóng những con ngƣời đảm đang, bất khuất. Đúng nhƣ nhà thơ

Huy Cận đã từng ngợi ca ngƣời phụ nữ:” Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

/Nắng cho đời và cũng nắng cho thơ”. (Ca ngợi ngƣời phụ nữ Việt Nam -

Huy Cận)

Trong thời kỳ Đổi mới (khoảng sau 1976) cái nhìn về ngƣời phụ nữ của

các nhà thơ đa diện hơn. Họ vẫn mang vẻ đẹp có sức hút kỳ diệu qua cái nhìn

lãng mạn. Có thể chỉ vì một màu áo rực rỡ, tƣơi tắn:

Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh nhƣ cũng ánh nắng hồng

Em đi lửa cháy trong bao mắt

Anh đứng thành tro em biết không

(Áo đỏ - Vũ Quần Phƣơng)

và Dẫu chẳng gặp em bên bờ gang thép,

Rằng anh vẫn yêu em ! Vì em là ngƣời đẹp.

Cô gái Mƣờng ơi ! Một cánh áo chàm tƣơi.

(Đi tìm em ở thành phố Thái Nguyên – Pờ Sảo Mìn)

Cuộc sống của ngƣời phụ nữ nói chung và ngƣời phụ nữ dân tộc nói

riêng vẫn còn nhiều khó khăn vất vả. Viết về ngƣời phụ nữ với cái nhìn từ

nhiều phƣơng diện, các nhà thơ dân tộc thiểu số không có ý định che giấu một

hiện thực còn nhiều khó khăn, vất vả của quê hƣơng mình. Ở nơi đây, những

ngƣời thân yêu của họ ngày đêm lao động chăm chỉ, chịu thƣơng, chịu khó,

vất vả, cực nhọc mà cái nghèo vẫn còn đeo đẳng mãi chƣa thôi. Trong kháng

chiến chống Pháp, họ chịu nỗi khổ thiếu muối, đói cơm, mất ngƣời thân...khi

hòa bình, ta vẫn thấy còn đó một dáng ngƣời nhỏ nhoi, còm cõi đầy vất vả,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cực nhọc, một dáng đi “chậm chạp”, “nặng nhọc”: “Ngƣời đàn bà vùng cao/

40

Thân hình gầy và nhỏ/ Địu trên lƣng cái địu rất to” (Ngƣời đàn bà vùng cao -

Cao Sơn Hải)

Hơn nữa, khi chiến tranh đã qua đi, ngƣời phụ nữ lại phải bƣớc vào một

cuộc chiến mới: tìm kiếm, giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình và tình yêu lứa

đôi. Cuộc sống hiện đại với sự phong phú, phức tạp của nó đã thức tỉnh ý thức

cá nhân của con ngƣời. Tiếng nói của các nhà thơ về tình yêu, cuộc sống (của

ngƣời phụ nữ) phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Mảng thơ tình trong giai

đoạn này khá phát triển. Chính trong thời gian này, số lƣợng các nhà thơ nữ

và các bài thơ viết về ngƣời phụ nữ không ngừng tăng lên - nhất là về ngƣời

phụ nữ dân tộc thiểu số. Có thể kể tới hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ

Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn,

Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ...; Y Phƣơng, Dƣơng Thuấn, Dƣ Thị Hoàn,

Bùi Thị Tuyết Mai. Thời đại tự do đã cho phép ngƣời phụ nữ nói rõ những

cung bậc của lòng mình. Họ hiện lên trong thơ nhƣ con ngƣời giữa đời

thƣờng tâm sự với ta về cuộc đời, tình yêu về sự sống. Họ yêu mãnh liệt, yêu

đắm say rồi lại có lúc cô đơn đầy xót xa:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thƣờng ai chẳng có

Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhƣng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

(Tự hát - Xuân Quỳnh)

Bây giờ chỉ một mình ta

Một mình ta với bao la một mình

(Một mình - Lâm Thị Mỹ Dạ)

Cũng phải tới thời gian này đời sống tâm hồn ngƣời phụ nữ dân tộc

thiểu số đã đƣợc thể hiện rõ nét hơn - sáng ngời và vô cùng đẹp đẽ. Nhất là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi đƣợc sống hết mình với các cung bậc của tình yêu - tình yêu mạnh mẽ và

41

dữ dội nhƣ bão lửa. Khi yêu, ngƣời phụ nữ dân tộc thƣờng không nhiều

những lo âu, trăn trở, day dứt nhƣ: “Đốt lòng em câu hỏi / Yêu em nhiều

không anh” (Xuân Quỳnh) mà tình yêu của họ vừa đằm thắm thiết tha lại vừa

hoang sơ, hoang dã - một tình yêu dữ dội, sôi nổi và cuồng nhiệt. Họ không

ngại ngần, e dè mà sẵn sàng bộc lộ tình yêu, chủ động đến với tình yêu và

sống hết mình cho tình yêu: “Bất ngờ/ Em đổ vào tôi/Củi mục cành khô lại

đâm chồi/ Hòn đá vỡ mọc lên cây nghiến” (Yêu muộn - Y Phƣơng)...

Với quan niệm về tình yêu nhƣ vậy nên ngƣời dân tộc mới có chợ tình -

một phiên chợ đặc biệt. Trai gái đến chợ để tìm lại cảm giác của ngày xƣa,

của mối tình cũ hoặc để gặp gỡ một cuộc tình trong tƣơng lai. Lƣu giữ và trân

trọng tình yêu đã lùi vào quá khứ là một việc làm có ý nghĩa nhân văn thật

cao cả. Đây là một nét đẹp trong đời sống tâm hồn, tính cách mang bản sắc

văn hóa của ngƣời dân tộc.

Và đặc biệt, chƣa bao giờ ta thấy khát khao hạnh phúc, khát vọng tình

yêu đích thực của ngƣời phụ nữ trong muôn mặt của cuộc sống hiện đại lại

hiện lên rõ nét nhƣ trong thời kỳ này khi đến với thơ của Phan Huyền Thƣ

hay Vi Thùy Linh… Nếu xƣa kia, Hồ Xuân Hƣơng đã từng tung hê, nhạo

báng tất cả… mà rốt cục, vẫn không khỏi ngao ngán, ngậm ngùi vì muốn

vùng vẫy, muốn bứt phá mà không đƣợc; thì ngày hôm nay, ngƣời phụ nữ có

quyền đƣợc sống đúng với xúc cảm và bản năng yêu đƣơng của mình. Tự do

ấy đã cho phép Vi Thùy Linh viết lên những câu thơ kiểu nhƣ: “Trong dữ dội

em khát khao bình yên/ Em muốn ngủ trong anh nhƣ rễ cây trong đất/ Em trổ

nhịp mong từ căn phòng trống/ Hằn nơi em, cả mảng trời bầm tím/ Em ép

mình trong tiếng khóc khô”( Một mình tháng Tƣ)

Trong nền thơ ca Việt Nam, từ xƣa cho tới nay, ngƣời phụ nữ luôn là

một hình tƣợng nổi bật, luôn thu hút đƣợc cảm hứng sáng tạo của các thi sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc qua mọi thế hệ. Những câu thơ, bài thơ, truyện thơ hay nhất - những

42

tác phẩm thành công nhất của Việt Nam hầu nhƣ đều viết về những ngƣời phụ

nữ. Thông qua việc thể hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ ca chứng tỏ:

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất trọng tình cảm, giàu chất nhân văn và rất

Vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam đƣợc thể hiện ở nhiều phƣơng diện

yêu thƣơng kính trọng, biết ơn đối với những ngƣời phụ nữ.

thể hiện sinh động sâu sắc bản sắc dân tộc, truyền thống dân tộc và khát vọng

dân tộc: luôn yêu chuộng sự bình yên, tôn trọng cái Đẹp và luôn hƣớng tới cái

Đẹp. Tuy nhiên, hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ ca dân tộc Kinh và thơ ca

các dân tộc thiểu số- ngoài những đặc điểm giống nhau thì cũng có những đặc

điểm riêng. Chúng tôi muốn tìm hiểu một cách kỹ hơn về những đặc điểm này

với mục đích: chỉ ra những vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của những ngƣời phụ

nữ dân tộc thiểu số, những sáng tạo đặc sắc của nghệ sĩ ngƣời dân tộc thiểu số

đó đã tô điểm thêm, làm hoàn thiện thêm hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong thời kỳ hiện đại.

43

CHƢƠNG 2

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ MIỀN NÚI -

MỘT VẺ ĐẸP MANG ĐẬM BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

2.1 Bản sắc văn hóa các dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số hiện đại.

2.1.1 Bản sắc văn hóa dân tộc

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề có liên quan

tới sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu bản sắc

văn hóa của dân tộc là một việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cho đến

nay, văn hóa và bản sắc văn hóa đang là một trong những vấn đề có tính thời

sự, thu hút đƣợc sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xã hội nhân

văn trong nƣớc và quốc tế.

Bắt đầu từ khái niệm văn hóa thì có thể thấy rằng: Văn hóa là một khái

niệm rất phức tạp, hiện nay theo nhiều nguồn tài liệu cho biết: đã có tới vài

trăm cách định nghĩa về văn hóa. Dƣới đây là một số định nghĩa mà theo

chúng tôi là khá đầy đủ và có thể áp dụng vào việc nghiên cứu bản sắc văn

hóa trong thơ.

UNESCO định nghĩa về văn hóa nhƣ sau: “Văn hóa là tổng thể những

nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách

của một xã hội hay của một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ

thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những

hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngƣỡng.” [44, tr. 1153]

PSG, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm đã khẳng định trong cuốn Cơ sở văn hóa

Việt Nam “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các các giá trị vật chất và tinh

thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy trong hoạt động thực tiễn, trong sự

tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội” [69, tr.10].

Từ cách tiếp cận hệ thống, tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gồm có 4 thành tố cơ bản là: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng,

44

văn hóa ứng xử với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã

hội. [75, tr. 40]

Có thể thấy: khái niệm văn hóa hiện nay đƣợc sử dụng với rất nhiều

nghĩa. Nó có thể chỉ trình độ học vấn, chỉ nếp sống, chỉ sự phát triển của một

xã hội ở một giai đoạn nào đó trong lịch sử. Theo nghĩa rộng hơn thì văn hóa

bao gồm tất cả những sản phẩm vật chất (từ thô sơ đến hiện đại), tín ngƣỡng,

phong tục, lối sống, lao động, ứng xử...những giá trị hình thành trong các mối

quan hệ ứng xử căn bản: ứng xử xã hội, ứng xử tự nhiên và ứng xử với bản

thân.[78, tr 25]. Nói tới văn hóa là nói tới những yếu tố ổn định, bất biến

trong cuộc sống của con ngƣời trong quá trình phát triển của lịch sử, tuy nhiên

nó cũng chỉ mang tính tƣơng đối cố định.

Bản sắc văn hóa dân tộc chính là những đặc điểm văn hóa độc đáo của

một dân tộc và để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. “Bản sắc văn hóa là

cái riêng biệt, độc đáo của một nền văn hóa, bao gồm những giá trị bền vững,

những tinh hoa văn hóa, văn mạch của dân tộc đƣợc vun đắp nên qua lịch sử

tạo thành phong cách dân tộc”.[ 87, tr 33]

Bản sắc văn hóa dân tộc là bản sắc văn hóa của một dân tộc, thuộc về

một chủ thể dân tộc xác định. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc vì vậy:

“Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm nhiều nét đặc trƣng: Có nét chung của

văn hóa ngƣời Việt (còn gọi là ngƣời Kinh), có nét riêng của văn hóa các dân

tộc thiểu số. Những nét ấy biểu hiện trong cách lao động, cách sống, cách

kiến trúc nhà cửa, cách ứng xử giữa ngƣời với ngƣời...những nét riêng ấy

không mâu thuẫn với nét chung, nó đang có sự hài hòa” [10]

Văn hóa nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù của văn hóa, là một thành

tố của bản sắc văn hóa dân tộc và phản ánh toàn diện cái bản sắc văn hóa

đó.[4, tr. 5]. Bởi văn học phản ánh tƣ tƣởng tình cảm một cách trực tiếp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xuyên suốt và toàn diện. Văn học nghệ thuật chính là một trong những

45

phƣơng tiện thể hiện, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống văn chƣơng - đặc biệt

là tình yêu đặc biệt với thơ ca. Lịch sử nghìn năm văn học của Việt Nam có

thể nói là lịch sử thơ ca. Qua văn học có thể có thể nhận định về bản sắc dân

tộc Việt Nam là “lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chí tự cƣờng dân tộc, tinh thần

đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc; lòng

nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong

lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...”. [61, tr. 21].

Những yếu tố bản sắc này không chung chung mà nằm ở các tác giả, tác phẩm

cụ thể. Có thể nói, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật thì những nét chung của

các tác phẩm, tác giả xuất chúng thể hiện rõ nhất “bản sắc văn hóa dân tộc”

và ngƣợc lại - những tác giả, tác phẩm mang “đậm đà bản sắc dân tộc” cũng

chính là những tác giả, tác phẩm có giá trị trƣờng tồn, bất tử với thời gian.

2.1.2 Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số hiện đại.

Trên đất nƣớc Việt Nam có hơn 50 dân tộc cùng chung sống, mỗi dân

tộc có một nguồn gốc lịch sử khác nhau, tiếng nói, chữ viết, phong tục tập

quán, trình độ phát triển xã hội không đồng đều, nhƣng quá trình tiếp xúc lâu

dài trong cùng một không gian văn hóa, khu vực địa lý của một quốc gia đã

tạo nên một nền văn hóa thống nhất - văn hóa Việt Nam. Tuy vậy, bên cạnh

những đặc điểm văn hóa chung của các dân tộc Việt Nam thì văn hóa các dân

tộc thiểu số lại có những đặc điểm riêng.

Bản sắc dân tộc vừa là cái chung (của dân tộc) vừa là cái riêng (sự sáng

tạo của ngƣời nghệ sĩ) thông qua ý thức dân tộc nên nó mang đậm màu sắc

dân tộc và cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ.

Thơ ca các dân tộc thiểu số là thơ do các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số

(ngoài dân tộc Kinh) sáng tạo ra. Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

số vừa có thống nhất với bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam nói chung

46

vừa có nét riêng, độc đáo, đặc sắc. Thơ các dân tộc thiểu số mang hai lần bản

sắc, trƣớc hết nó là những nét riêng biệt, độc đáo trong truyền thống lâu đời

của các dân tộc thiểu số đƣợc kết tinh, biểu hiện trong thơ, sau đó nó cũng

đồng thời mang những nét riêng mang giá trị bền vững, những tinh hoa văn

hóa của dân tộc Việt Nam.

Vấn đề bản sắc dân tộc cũng nhƣ vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ các dân

tộc thiểu số là vấn đề thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các

nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: bản sắc dân tộc thể hiện ở nội dung và hình

thức nghệ thuật của văn học. Về phương diện nội dung: Bản sắc dân tộc thể hiện

ở đề tài và chủ đề của tác phẩm văn học. Chủ đề, đề tài là những vấn đề cốt lõi của

một tác phẩm đồng thời tự bản thân nó đã phần nào thể hiện đƣợc cá tính sáng tạo,

chiều sâu tƣ tƣởng, khả năng nhận biết và nắm bắt cuộc sống của nhà văn.

Về phương diện nghệ thuật: Bản sắc văn hóa còn biểu hiện ở hình thức

nghệ thuật của tác phẩm. Trƣớc hết, đó là việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc để sáng

tác, sau đó là việc khai thác triệt để hệ thống thể loại truyền thống của dân tộc

mình, kết cấu của tác phẩm cũng mang khuynh hƣớng thẩm mỹ của dân tộc.

Nhƣ vậy, bản sắc văn hóa dân tộc đƣợc thể hiện khá đầy đủ trong nội

dung sáng tác, phƣơng thức biểu đạt của các tác phẩm văn chƣơng. Việc giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa đƣợc chính các chủ thể sáng tác - nhà văn thể

hiện trong các tác phẩm của mình.

Các phương diện cụ thể của bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số.

- Phƣơng diện đầu tiên thể hiện bản sắc dân tộc là chủ thể sáng tác. Nhà thơ

là ngƣời dân tộc thiểu số - đƣợc sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc nên có

cách cảm nhận, cách nghĩ, cách đánh giá thể hiện đƣợc tâm hồn, tính cách,

truyền thống văn hóa của dân tộc mình. Dù viết về vấn đề gì nhƣng khi mang

cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình thì trong sáng tác thơ ca của các nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ dân tộc vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Chẳng hạn thế giới tâm hồn của

47

ngƣời phụ nữ trong tình yêu của các nhà thơ ngƣời Kinh có điểm khác biệt so

với ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Với thi sĩ Xuân Quỳnh, tình yêu chân

thành, mãnh liệt của chị thƣờng gắn với nỗi lo âu, day dứt và khát khao hạnh

phúc đời thƣờng, còn với Vi Thùy Linh, tình yêu thƣờng gắn với niềm khát

khao nhục cảm. Tình yêu của ngƣời ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số thật mãnh

liệt, dữ dội nhƣ bão cuốn, nhƣng không quá nhiều những đắn đo, day dứt. Họ

yêu với một tình yêu bản năng, chủ động mà không sợ, không ngại bất kỳ

điều gì.

- Bản sắc dân tộc còn đƣợc thể hiện qua đối tƣợng phản ánh. Hai hình tƣợng

chủ đạo chi phối nội dung nhiều sáng tác thơ của các nhà thơ ngƣời dân tộc

thiểu số là hình tƣợng thiên nhiên miền núi và con ngƣời miền núi.

Hình tƣợng thiên nhiên miền núi đƣợc khắc họa với cảnh thiên nhiên

hoang vu, hùng vĩ, tƣơi đẹp và thơ mộng; con ngƣời miền núi với vẻ đẹp đậm

sắc màu dân tộc. Thơ ca các dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại đã khắc họa rõ nét

hình tƣợng con ngƣời miền núi với những phẩm chất tốt đẹp, cao quý: rất thật

thà, hiền lành, thô mộc, bản năng những cũng rất mạnh mẽ, quyết liệt, dũng

cảm và cũng rất đa tình, rất lãng mạn, rất hồn nhiên, “tự nhiên nhƣ nhiên”

Viết về quê hƣơng, nếu nhƣ các nhà thơ ở miền xuôi có cảm giác gắn

bó với sắc xanh ngút ngàn của “bãi mía, bờ dâu, ngô khoai biêng biếc”

(Hoàng Cầm), với “một con đò nhỏ, một chùm khế ngọt” (Đỗ Trung Quân) thì

các nhà thơ dân tộc thiểu số lại thƣờng nhắc tới những hình ảnh; rừng núi, bản

mƣờng, dòng sông thƣợng nguồn, con suối, chiếc guồng nƣớc, chiếc cầu vào

bản, ngôi nhà sàn...Đó là “mƣờng Vó, mƣờng Vang” trong thơ của Vƣơng

Anh; “bếp nhà sàn đỏ lửa” trong thơ Mai Liễu; đó là “Núi mọc trong mặt

gƣơng” trong thơ Mùa A Sấu; đó là “ruộng bậc thang cuốn vành khăn” trong

thơ Đinh Lâm; là “Cầu vào bản” trong thơ Cầm Biêu; là “vòng quay cọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nƣớc” trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai...

48

Viết về hình tƣợng con ngƣời miền núi, các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu

số thƣờng nhắc tới những sinh hoạt văn hóa đậm bản sắc dân tộc. Những nét

sinh hoạt văn hóa ấy đƣợc thể hiện một cách cụ thể và hết sức sinh động trong

tác phẩm của các tác giả ngƣời dân tộc thiểu số. Cộng đồng các dân tộc thiểu

số luôn sống hòa mình với thiên nhiên, hòa mình vào những lễ hội truyền

thống, và cũng chính những sinh hoạt văn hóa đó đã ăn sâu vào tâm thức của

các nhà thơ, thôi thúc họ sáng tạo nên những tác phẩm đậm chất văn hóa dân

tộc. Ví dụ nhƣ: trong những ngày xuân mới, đồng bào các dân tộc Việt Bắc

luôn có các hình thức hoạt động văn hóa đặc sắc nhƣ: hội tung còn, hát then,

hát si, hát lƣợn, hát páo dung, thổi khèn, múa chiêng, múa trống, lễ hội nhảy

lửa, lễ hội lồng tồng...

Những nét đẹp văn hóa ấy đã đi vào thơ ca các dân tộc thiểu số một

cách tự nhiên và đã phản ánh một cách sinh động đời sống tinh thần phong

phú của họ.

Bản sắc dân tộc còn đƣợc thể hiện ở phƣơng thức phản ánh (Cách

thức, chất liệu để nhà thơ hiện thực hóa nội dung).

Sáng tác bằng tiếng dân tộc là một biểu hiện sâu sắc của bản sắc dân

tộc vì đã biểu hiện trực tiếp tƣ duy dân tộc, tâm hồn dân tộc. Vì vậy ngôn ngữ

ở đây không đơn thuần là một phƣơng tiện mà đã trở thành một nét bản sắc

văn hóa dân tộc. Mỗi từ ngữ đƣợc nhà thơ sử dụng trong sáng tác của mình

trở thành kết tinh của truyền thống văn hóa dân tộc. Về sau, các nhà thơ dân

tộc thiểu số (Y Phƣơng, Dƣơng Thuấn, Pờ Sảo Mìn...) sáng tác bằng tiếng

Kinh ngày càng nhiều nhƣng họ vẫn thể hiện chân thực, sinh động tƣ tƣởng,

tình cảm dân tộc bằng cách kế thừa những tinh hoa trong vốn văn hóa truyền

thống của dân tộc mình. Vì vậy, tuy sử dụng tiếng Kinh để sáng tác nhƣng các

nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số vẫn không làm mất đi bản sắc dân tộc bởi

những suy nghĩ, cảm nhận và đánh giá của nhà thơ vẫn mang đậm bản sắc của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc.

49

Bản sắc dân tộc còn thể hiện ở sự vận dụng các hình thức thể loại thơ

ca truyền thống. Thơ ca các dân tộc thiểu số hiện đại có sự thấm nhuần sâu

đậm của văn hóa, văn học dân gian bởi thơ ca dân tộc thiểu số đƣợc phát triển

thẳng từ thơ ca dân gian lên thơ ca hiện đại. Mỗi dân tộc có những làn điệu

dân ca, điệu thơ riêng nhƣ: ngƣời Tày có điệu Sli, lƣợn, phong slƣ, quan lang,

cỏ láu...;ngƣời Thái có những điệu khắp, xòe...; ngƣời Mƣờng có mo, then...;

ngƣời Dao có páo dung, sơn ca, pút tồng...Thơ ca hiện đại đã kế thừa và phát

huy sáng tạo những thể thơ ca truyền thống đó.

Nhƣ vậy, bản sắc dân tộc biểu hiện ra bằng các sáng tác cụ thể của từng

tác giả trên phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Nghiên cứu bản

sắc văn hóa dân tộc là đi tìm cái độc đáo, riêng biệt đƣợc thể hiện trong thế

giới hình tƣợng, nội dung tác phẩm, phƣơng thức biểu hiện mang đậm phong

cách dân tộc.

2.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi với vẻ đẹp khỏe mạnh, hồn

nhiên và đầy tính phồn thực

Nhƣ đã biết, ngƣời phụ nữ luôn là biểu tƣợng cho cái Đẹp - là sự kết

tinh của những gì đẹp nhất trên thế gian này. Ngƣời nghệ sĩ nói chung - nhà

thơ nói riêng là những ngƣời đắm say và có cảm hứng mãnh liệt trƣớc cái

Đẹp. Những nhà thơ dân tộc thiểu số của chúng ta cũng nhƣ vậy, họ đã viết về

những ngƣời phụ nữ miền núi với cả một niềm say đắm, sự ngƣỡng mộ, lòng

yêu thƣơng tha thiết và cả sự biết ơn sâu sắc, chân thành.

Hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi đƣợc hiện lên trong những trang thơ

của họ thật đẹp đẽ, hấp dẫn, sinh động, đáng yêu và gắn bó biết bao! Đó là

những ngƣời con gái có vẻ đẹp “tự nhiên nhi nhiên”,một vẻ đẹp hết sức khỏe

khoắn và đầy tính phồn thực.

Khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của ngƣời phụ nữ, các nhà thơ ngƣời dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tộc thiểu số thƣờng ví họ với các loài hoa đặc trƣng của vùng sơn cƣớc. Cách

50

so sánh này đƣợc các nhà thơ dân tộc sử dụng khá đậm đặc trong nhiều bài

thơ viết về ngƣời phụ nữ miền núi. Có lẽ, bởi họ nhìn bông hoa nào của núi

rừng cũng mang một vẻ đẹp của chính ngƣời phụ nữ mà họ yêu quý, đắm say

Vì vậy, ngƣời đọc dễ hình dung về một vẻ đẹp hoang sơ, khỏe khoắn mà

không kém phần rực rỡ nổi bật trên nền thảm núi rừng xanh tƣơi của một loài

hoa đặc biệt - những ngƣời phụ nữ miền núi: “Hoa đào đỏ giống má của em”,

“ Hoa lê trắng giống da của em”, “Hoa bjoóc mạ giống tóc của em” (Tháng

nào hoa cũng giống em – Dƣơng Thuấn); “Em nhƣ bông ban/ Nở trong mƣa

nắng” (Tây Bắc - Lò Ngân Sủn); “Môi em thơm nức hoa dại non ngàn” (Đêm

say Tam Đảo - Pờ Sảo Mìn) ...

Hoặc khi miêu tả đôi mắt của ngƣời phụ nữ - cửa sổ tâm hồn của các cô

gái miền núi, các tác giả luôn so sánh, ví von với những hình ảnh của thiên

nhiên núi rừng, của những sản vật đặc sắc vùng cao, khiến ngƣời đọc cảm

nhận đƣợc một cách hết sức rõ rệt, cụ thể, nhƣ có thể chiêm ngƣỡng, có thể

cầm, có thể nếm...đƣợc cái ngọt ngào, cái mặn mà, cái duyên dáng, cái nóng

bỏng và dịu dàng của nó: “ Đôi mắt ƣớt nhƣ mỡ nóng trong chảo/ Đôi mắt

ngọt nhƣ mật ong trong rừng/ Đôi mắt giòn nhƣ mía mòi ấy” (Yêu - Lò Ngân

Sủn); “ Đôi mắt em ấm nóng nhƣ một hàng rào những con kiến lửa”(Kiến lửa

- Bùi Thị Tuyết Mai); “ Đôi mắt lúng liếng lúng la”(Em gái Mƣờng Khoòng

- Bùi Nhị Lê)...

Khi miêu tả vẻ đẹp cơ thể của ngƣời phụ nữ, các nhà thơ ngƣời dân tộc

thiểu số của chúng ta thƣờng nhấn mạnh vẻ đẹp tự nhiên - một vẻ đẹp đƣợc

hun đúc từ thiên nhiên, từ tinh hoa của con ngƣời - một vẻ đẹp rực rỡ, tƣơi

mát và đầy sự “hấp dẫn”, khiến cho lá, cây phải run rẩy, đá núi phải ngất ngây

và con ngƣời phải sững sờ, ngạc nhiên: “ Em một mình xuống tắm/ Bồng bềnh

và dịu êm/ Ngực đầy lên nhịp sóng/ Một vầng mây nõn trắng/ Rơi giữa lòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sóng chao/ Lá ngồi run trên đầu/ Đá ngồi ngây dƣới vực” (Suối vắng – Mai

51

Liễu); “Sao anh lại rình / Trộm xem em tắm/ Da của em ngần trắng/ Da của

cha của mẹ” (Em tắm – Bạc Văn Ùi); “Không biết bố mẹ em ăn gì sinh ra/ Để

anh ngắm nhìn em mải miết/ Cứ thấy đôi mắt đôi má em/ Trắng đẹp trắng

xinh nhƣ hoa mạch lan nở ở lƣng rừng” (Anh lại về - Hùng Đình Quý)...

Sau những buổi lao động cực nhọc trên nƣơng rẫy, vào những buổi

chiều tà những cô gái bỏ công cụ lao động rồi hồn nhiên trút xiêm y nhƣ giữa

chốn không ngƣời. Các sơn nữ phơi làn da trắng ngần, ngồi trên những tảng

đá khiến cảnh đại ngàn âm u đẹp nhƣ một câu chuyện cổ tích. Đó là một bức

họa thiên nhiên tuyệt tác. Nhìn từ xa mọi thứ đều mờ ảo trƣớc mắt, chỉ có làn

da của các cô gái là nổi bật giữa cảnh hoang sơ của bóng chiều tà. Chiêm

ngƣỡng vẻ đẹp của suối nguồn Tây Bắc trong buổi chiều các cô gái tắm tiên

bằng đôi mắt nghệ thuật chẳng những khiến con ngƣời ngỡ ngàng mà còn

khiến thiên nhiên cũng phải run rẩy, ngây ngất. Vẻ đẹp chân chất, trong sáng

tự nhiên đến mức thánh thiện của các cô gái đã trở thành đề tài và nguồn cảm

hứng vô tận cũng nhƣ làm nên sức sống cho bao tác phẩm thơ ca.

Những ngƣời phụ nữ dân tộc miền núi cao đẹp tự nhiên nhƣ thiên nhiên

thơ mộng mà hoang sơ, đồng thời mang một sức sống mạnh liệt và đầy tính

phồn thực. Họ không yểu điệu nhƣ dáng liễu mảnh mai theo quan niệm của

một số dân tộc khác mà mang một vẻ đẹp đầy sức sống, đầy sự sinh sôi, nảy

nở. Các nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp phồn thực ấy thật cụ thể và gợi cảm bằng

những hình ảnh đặc biệt, mang hƣơng sắc núi rừng. Họ chẳng hề ngại ngần

khi rất nhiều lần nhắc tới hình ảnh của bộ ngực, của cặp mông, của thịt da,

thân hình của ngƣời phụ nữ mà họ yêu quý, đắm say...

- Da thịt em mịn màng làn mây trắng

Mái đầu em mƣợt mà bông tóc

Khuôn ngực em căng phồng hai trái núi mùa xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tây Bắc - Lò Ngân Sủn)

52

- Ơi cô gái Mƣờng ngực tròn căng trái núi

(Nỗi nhớ Mƣờng Khƣơng - Pờ Sảo Mìn)

- Lũ con gái ngực nhƣ quả núi

(Bụng ta đỏ lửa - Sầm Nga Di)

- Ngực em nhƣ bầu rƣợu trắng ngần

(Hơi thở nhẹ - Bùi Thị Tuyết Mai)

- Thân hình em trông nhƣ một bó củi chắc nịch

Da thịt em hừng hực nhƣ lửa...

(Con gái bản Tông - Lò Ngân Sủn)

...

Vẻ đẹp cơ thể của ngƣời phụ nữ đƣợc miêu tả một cách rất trần tục

nhƣng không hề thô tục, một vẻ đẹp đầy sức sống khiến ai cũng muốn chiêm

ngƣỡng và đắm say. Viết về ngƣời phụ nữ nhƣ vậy đã thể hiện khá rõ nét

những quan niệm riêng của các nhà thơ dân tộc thiểu số về vẻ đẹp của ngƣời

phụ nữ. Trƣớc hết đó phải là ngƣời khỏe mạnh, đầy sức sống, có khả năng lao

động và đầy khả năng làm tròn thiên chức giữ gìn và duy trì sự sống - làm vợ,

làm mẹ. Một vẻ đẹp tự nhiên, hồn nhiên - nhƣ thiên nhiên; một vẻ đẹp nồng

nàn, dữ dội, đầy sức sống và sức cuốn hút với ngƣời khác giới. Đây chính là

vẻ đẹp mang tính tiêu chuẩn để các chàng trai tìm và chọn vợ: “Chọn vợ chỉ

chọn hai bắp chân/ Để đi nƣơng khỏe chân gác nằm”(Lên Đồng Văn –

Dƣơng Thuấn)...

Viết về hình thể ngƣời phụ nữ miền núi, các nhà thơ ngƣời dân tộc đã

thể hiện một quan niệm về vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ. Đó là một vẻ đẹp khỏe

mạnh, đầy tính phồn thực, gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống con ngƣời.

Vì thế, nó luôn đƣợc ví với những hình ảnh thân thuộc, đẹp đẽ, hết sức cụ thể;

với những thứ sản vật quê hƣơng đầy đặc sắc, mang tính miền núi. Ví dụ nhƣ:

“Hai môi em nhƣ hai miếng thịt nƣớng/ Thân hình em nhƣ một bó củi chắc

nịch /Con gái bản Tông/ Đẹp nhƣ một vầng trăng non/ Ngon nhƣ một tấm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cơm lam” (Con gái bản Tông - Lò Ngân Sủn)...

53

Bằng tƣ duy trực cảm của mình các nhà thơ có những khám phá, liên

tƣởng bất ngờ. Tất cả những gì đẹp đẽ và giá trị trên thế gian này đều thuộc về

ngƣời Đẹp, đều chính là ngƣời Đẹp. Ngƣời đẹp là vậy đấy: vừa gần gũi lại xa

xôi “Con gái vùng cao/ Nhƣ sao trên trời/ Nhƣ đào trên cây”(Con gái vùng

cao - Lò Ngân Sủn). Tƣởng chừng nhƣ chạm đƣợc tay vào ngƣời đẹp, nhìn

thấy rõ ràng ngƣời đẹp mà vẫn không nắm bắt đƣợc. Ngƣời đẹp có những

“sức mạnh thiên bẩm” có khả năng “cứu rỗi thế giới”. Bài thơ Ngƣời đẹp của

nhà thơ Lò Ngân Sủn là một phát hiện độc đáo, mang lại cho ngƣời đọc

những xúc cảm thẩm mỹ sâu sắc bởi tính triết lý tài tình. Nhà thơ không miêu

tả ngƣời đẹp một cách chi tiết, cụ thể mà tả bằng những cảm giác đối lập mà

chính mình đã trải nghiệm: “Ngƣời đẹp trông nhƣ tuyết/ Chạm vào lại thấy

nóng/ Ngƣời đẹp trông nhƣ lửa/ Sờ vào lại thấy mát”(Ngƣời đẹp - Lò Ngân

Sủn). Để rồi, từ đó nhà thơ phát hiện một chân lý về ngƣời đẹp trong cuộc

sống thƣờng ngày:

Ngƣời không khát - nhìn thấy ngƣời đẹp cũng khát

Ngƣời không đói – nhìn thấy ngƣời đẹp cũng đói

Ngƣời muốn chết – nhìn thấy ngƣời đẹp lại không muốn chết nữa

(Ngƣời đẹp - Lò Ngân Sủn)

Qua việc khắc họa vẻ đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên và đầy tính phồn thực

của ngƣời phụ nữ miền núi, các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã thể hiện

một quan niệm thẩm mỹ về Cái Đẹp và Ngƣời Đẹp. Với họ, vẻ đẹp của ngƣời

phụ nữ phải chứa đựng sự khỏe mạnh, tính phồn thực và gắn bó mật thiết với

thiên nhiên, với cuộc sống con ngƣời. Ngƣời phụ nữ Đẹp chính là ngƣời có

đầy khả năng lao động, đầy khả năng làm vợ, làm mẹ. Đó là những Ngƣời

Đẹp luôn khiến họ ngƣỡng mộ, đắm say và ngây ngất. Chính những con

ngƣời ấy còn đang hàng ngày, hàng giờ lƣu truyền vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tộc trong những ứng xử của cuộc sống thƣờng ngày

54

2.3. Những con ngƣời gìn giữ và lƣu truyền vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc

2.3.1. Vẻ đẹp trong trang phục truyền thống dân tộc của ngƣời phụ nữ

Y phục là biểu hiện của bản sắc văn hóa cộng đồng - văn hóa tộc ngƣời.

Đặc biệt là trang phục của nữ giới. Chính những ngƣời phụ nữ là ngƣời sáng

tạo, bảo tồn, lƣu truyền vẻ đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc từ những trang

phục truyền thống của mình.

Qua những sáng tác thơ ca viết về trang phục của ngƣời phụ nữ miền

núi, ta thấy: màu chàm là màu sắc phổ biến nhất. Nhà thơ Tố Hữu trong bài

thơ Việt Bắc đã sử dụng hình ảnh áo chàm làm biểu tƣợng cho ngƣời dân Việt

Bắc: “Áo chàm đƣa buổi phân ly/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”(Việt

Bắc - Tố Hữu).

Với nhiều dân tộc miền núi, màu chàm là phổ biến và điều đó đã mang

lại một dáng vẻ đằm thắm rất đặc trƣng cho trang phục. Nhà thơ Pờ Sảo Mìn

đã mải miết đi tìm “suốt tháng năm” cánh áo chàm tƣơi giữa lòng thành phố:

Dẫu chẳng gặp em bên bờ gang thép

Rằng anh vẫn yêu em - vì em là ngƣời đẹp

Cô gái Tày ơi ! một cánh áo chàm tƣơi

(Đi tìm em ở thành phố Thái Nguyên – Pờ Sảo Mìn)

Chiếc áo chàm đã trở thành vật thiêng liêng ghi dấu tấm lòng thủy

chung của con ngƣời: “Em vẫn mặc chiếc áo chàm thơm lá/ Trên mũi hài thêu

đôi cánh hoa xinh ?” (Đợi em bên mùa xuân – Dƣơng Thuấn).

Công việc dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa, may trang phục...gắn bó

mật thiết với cuộc đời của ngƣời phụ nữ dân tộc. Những ngƣời phụ nữ chăm

chỉ, khéo léo trong các công việc này là một trong những tiêu chuẩn cho các

bà mẹ chồng kén chọn nàng dâu, cho các chàng trai đi tìm vợ: “Anh chỉ chọn

cô có cổ tay đen nhuộm chàm/ Có bàn chân nẻ vì chăm nƣơng rẫy lội khe”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Năm xƣa vô tình – Dƣơng Thuấn).

55

Ngƣời phụ nữ Mông đôi bàn tay lúc nào cũng xanh màu chàm, đó là

dấu ấn sau những lần nhuộm chàm – công việc mà họ gắn bó cả cuộc đời. Chỉ

cần nhìn màu áo chàm thân quen, đôi bàn tay xanh màu chàm là con ngƣời

nhƣ đã biết nhau từ lâu: “Ấy ơi ở bản nào về/ Váy áo thơm mùi chàm mới/

Bàn tay xanh từ bé/ Đến bây giờ vẫn xanh/ Quanh năm nhuộm màu chàm/

Quanh năm se lanh”(Ấy ơi – Nông Thị Ngọc Hòa).

Hoa văn trang trí trên trang phục của ngƣời phụ nữ dân tộc là một công

trình nghệ thuật tài tình. Nó không chỉ đơn thuần là yếu tố làm đẹp mà còn là

mối giao cảm giữa con ngƣời với thiên nhiên. Những ngƣời phụ nữ dân tộc

thêu hoa văn trên váy, áo của mình không cần mẫu nhƣng những hoa văn

đƣợc tạo nên rất hài hòa, trang nhã. Đây là nét hoa văn e ấp của ngƣời con gái

Mƣờng: “Là gái Mƣờng/ Em chẳng rực rỡ đâu/ E ấp nét hoa văn/ Ẩn mình

trong cánh áo” (Một nét hoa văn – Lƣu Xuân Lý).

Còn đây là những nét hoa văn rực rỡ sắc màu, mang đậm hƣơng sắc

vùng cao trong váy áo của cô gái H Mông:

Cô gái ngƣời Mông

Thêu cả bốn mùa vào gấu váy

Vạt đằng trƣớc thêu mùa nƣớc chảy(...)

Vạt đằng sau dùng dằng đi hội(...)

Vạt bên phải thêu mùa nếp xôi(...)

Vạt bên trái thêu mùa đào hé nụ(...)

(Thêu cả bốn mùa – Lâm Quý)

Để có thể dệt nên những tấm áo, váy rực rỡ, đẹp đẽ nhƣ vậy, những ngƣời

con gái các dân tộc thiểu số đã phải mất rất nhiều công sức, thời gian. Họ phải là

những ngƣời vốn chịu khó, hay lam, hay làm, vừa phải khéo tay, kiên trì và có

óc thẩm mỹ. Chính vì vậy, một trong những vẻ đẹp đặc trƣng của ngƣời phụ nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miền núi thƣờng đƣợc các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số miêu tả là: sự chăm

56

chỉ, khéo léo trong việc dệt vải, xe lanh, khâu áo, thêu thùa:

- Dệt khung cửi, kéo tơ thi với vì sao

Dệt vải kẻ thi với sao bay

(Sao – Lƣơng Quy Nhân)

-Một chốc đã đầy nhà tiếng cƣời

Đám con gái đôi mƣơi mƣời bảy

Mong có mƣa là xe bông dệt vải

Tiếng thoi truyền rộn rã rong reng

(Mƣa đến - Lò Cao Nhum)

Và chính từ sự kiên trì khéo léo của các cô gái mà bao bộ trang phục -

tác phẩm nghệ thuật độc đáo đã ra đời: “Hàng cúc bạc long lanh/ Nhƣ rồng

bay, đẹp hơn phƣợng múa” (Chiếc guồng xa – Cầm Biêu).

Nhƣ nhiều dân tộc khác, những đồ trang sức cũng góp phần tạo nên vẻ

đẹp hài hòa mang tính thẩm mỹ cao trang phục của những ngƣời phụ nữ dân

tộc. Những ngƣời phụ nữ đã khéo léo gắn hạt cƣờm, đồng xu bạc lên mũ áo.

Nền thổ cẩm rực rỡ ở cổ áo, nẹp ngực, ống tay đƣợc sáng lấp loáng nhờ trang

sức bạc với hoa văn tinh xảo càng làm tăng vẻ đẹp của trang phục. Trang sức

của phụ nữ Tây Bắc chủ yếu làm bằng bạc trắng, đa số là khuyên tai, vòng cổ,

vòng tay, bộ xà tích và nhẫn. Mùa xuân đến - khi hoa đào hoa mận nở bừng

trong các thung lũng, bản làng, cũng là thời điểm các cô gái vùng cao mặc

những bộ váy áo với trang sức thật đẹp, rộn rã cùng nhau đến những phiên

chợ tết để mua sắm và gặp gỡ. Sắc màu của váy áo thổ cẩm, của trang sức hòa

lẫn sắc màu của thiên nhiên thể hiện nét độc đáo rất riêng. Nét đẹp và chiều

sâu văn hóa ẩn chứa trong mỗi nụ cƣời của con ngƣời vùng cao, trên mỗi

trang sức mà họ mang trên ngƣời. Vẻ đẹp những bộ trang phục, những trang

sức trên ngƣời của các cô gái khi xuống chợ xuân đã thu hút bao ánh nhìn của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các thi sĩ vùng cao: “Cô gái Dao từ Tu Lý xuống/ Vòng trằm, dây bạc sáng

57

long lanh” (Phiên chợ tết - Đinh Đăng Lƣợng); “Ngày xuân đi hội hoa ban/

Cúc bạc - giàn then lửa/ Váy buông - làn mây mƣa/ Ngực phập phồng bông

lửa/ Bồng bềnh tòa ƣớc mơ”(Ngày xuân đi hội hoa ban - Lò Ngân Sủn)...

Trang sức, phục sức của dân tộc thiểu số gắn liền với từng lễ nghi và

phong tục tập quán của mỗi tộc ngƣời, dòng họ. Ví nhƣ búi tóc – tằng cẩu của

ngƣời phụ nữ Thái - là một tín hiệu đáng tin cậy để thông báo cho ta biết

ngƣời phụ nữ đó có chồng hay chƣa: “Thì tằng cẩu em cứ búi cao lên/ Có sao

đâu, bản đêm nay mở hội/ Mừng xuân mới, mừng khách xa vừa tới/ Vòng xòe

náo nức mải mê say” (Hẹn cùng Tây Bắc – Mai Liễu).

Trông những trang sức của ngƣời vùng cao còn ẩn chứa một khát vọng

lớn lao về niềm vui và sức khỏe. Chính vì vậy, theo quan điểm của ngƣời

Mông những phụ nữ chăm làm, khỏe mạnh là phụ nữ đeo hoa tai thật to.

Trong những lễ hội của ngƣời dân vùng cao, những cô gái rực rỡ trong những

bộ váy áo mới, nhiều trang sức rung rinh theo mỗi nhịp bƣớc chân họ đã làm

lên một bức tranh xuân đầy màu sắc, họ là thần thái của hội xuân :

Lƣng xanh, váy lĩnh, áo troòng

Trái đào, dây bạc, vòng trằm rung reng

(Hội cồng mùa xuân – Đinh Đăng Lƣợng)

Thung lũng ra cô em khoe đôi bung đầy nếp hạt

Tiếng cúc bạc, tiếng vòng ngà xô nhau vang chan chát

(Cầu vào bản – Cầm Biêu)

Trang phục, trang sức của của các cô dâu trong lễ cƣới cũng chứa đựng

giá trị văn hóa truyền thống nổi bật. Trang phục của cô dâu - nhân vật chính

của buổi lễ rất độc đáo và ấn tƣợng. Hầu nhƣ cô dâu của dân tộc nào cũng có

những bộ trang phục đẹp nhất, những trang sức quý nhất trong ngày cƣới.

Nhìn vào váy áo cô dâu, ngƣời ta có thể biết đƣợc ít nhiều về điều kiện kinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gia đình, sự khéo léo, chăm chỉ của chính cô dâu, bởi một cô gái siêng năng,

58

biết dệt thổ cẩm, khéo léo thêu thùa sẽ biết làm cho mình những trang phục

thật đẹp. Nhà thơ Dƣơng Thuấn ca ngợi cô dâu ngƣời Tày:

Em mặc bộ áo chàm dài

Thắt dải lƣng cũng xanh nhƣ áo

(Làm dâu - Dƣơng Thuấn)

Cô dâu nón trắng, áo chàm dài

Xà tích đeo bên hông líc tíc

Đôi bƣớm xinh bay trên má hài

(Đám cƣới trong bản - Dƣơng Thuấn)

Ngƣời phụ nữ mỗi dân tộc lại có một trang phục truyền thống riêng tạo

nên nét bản sắc phong phú trong trang phục của ngƣời phụ nữ dân tộc. Bộ

trang phục rực rỡ nhất có lẽ thuộc về ngƣời phụ nữ Dao đỏ. Các họa tiết trên

trang phục dày đặc và sặc sỡ với màu đỏ là màu sắc chủ đạo. Màu đỏ có trên

chiếc khăn đội đầu: “Cô gái Dao/ Chiếc khăn/ Quấn đầu/ Đỏ nhƣ mặt trời”

(Cô gái Dao - Lò Ngân Sủn)

Màu đỏ có trên áo là hai dải quả bông đỏ bằng len - “bông gình gâu”

xếp dọc theo chiều dài thân áo. Những chùm bông đỏ trên ngực áo cô gái Dao

đƣợc nhà thơ Triệu Kim Văn ví nhƣ tình yêu mãnh liệt và cháy bỏng của

ngƣời phụ nữ Dao mà các chàng trai đi tìm trong mùa sa nhân: Những bông

“gình gâu”/Mọc lên từng chùm/ Mọc lên ngực non”(Mùa sa nhân - Triệu

Kim Văn).

Trang phục của cô gái ngƣời Dao cuốn hút đến độ trong phiên chợ

đông năm ấy nhà thơ Mai Liễu đã phải thốt lên: “Phố đông cứ mải tìm nhau/

Cô gái Dao nào cũng đẹp/ Vòng bạc rung rinh cổ tay/ Gù hoa mơn mởn ngực

đầy” (Nếu mai em về Chiêm Hóa - Mai Liễu).

Nếu nhƣ vẻ rực rỡ trong trang phục của các cô gái Dao nằm ở màu đỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của những bông gình gâu thì điểm ấn tƣợng trong trang phục của các cô gái

59

Mông lại ở chiếc váy. Chiếc váy Mông đã từng níu giữ hồn những chàng trai

Mông đến mức khi họ “lê bƣớc về nhà / Mà hồn nhƣ còn ngủ ở thắt lƣng em”

(Dân ca Mông). Váy của các cô gái Mông là loại váy mở, có nhiều nếp gấp

rộng, xòe ra mềm mại nhƣ những cánh hoa, cánh bƣớm. Nhà văn Tô Hoài khi

viết tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã thấy mùa xuân đến ở Hồng Ngài qua những

chiếc váy Mông “phơi trên những mỏm đá xòe ra nhƣ những con bƣớm sặc

sỡ”. Màu sắc chiếc váy Mông phong phú, hài hòa bởi sự kết hợp tài tình của

các màu xanh, đỏ, đen, vàng. Các cô gái Mông đã “thao thức”,” thêu cả bốn

mùa vào gấu váy” với khát khao, mơ ƣớc thầm kín và mãnh liệt. Chiếc váy ấy

làm cho cả đất trời cũng ngây ngất: “Cô gái Mông đem váy ra phơi/ Những

chiếc váy trùm lên đá/ Đá xòe muôn bông hoa/ Mặt trời cao nguyên ngái ngủ/

Vén sƣơng, vén mây/ Nhìn không chớp mắt/ (Cao nguyên - Mai Liễu).

Hình dáng, trang phục của ngƣời phụ nữ Mông là sự biểu hiện nét chân

thực, hồn nhiên, dƣờng nhƣ chƣa có sự pha trộn của cuộc sống hiện đại.

Những cô gái Mông với gò má ửng hồng, bắp chân to khỏe và dáng đi mềm

mại, uyển chuyển trong chiếc váy Mông rực rỡ trông tựa nhƣ những bông hoa

di động trên đỉnh non cao.

Trang phục của các cô gái Thái lại là sự kết hợp tài tình giữa yếu tố

truyền thống và hiện đại, vừa giản dị lại vô cùng tinh tế. Họ mặc váy dài, đen

nhánh kết hợp với chiếc áo ngắn bó sát và chiếc thắt lƣng màu hoa thiên lý

làm tôn thêm thân hình thon thả, cân đối của ngƣời mặc. Phụ nữ Thái đen mặc

áo màu đen và phụ nữ Thái trắng mặc áo trắng. Hai hàng cúc bạc lấp lánh trên

ngực áo của các cô gái Thái sống động nhƣ nhƣ những cánh bƣớm bay rập

rờn, màu đỏ của gấu váy kết hợp với màu đen của thân váy làm tăng sự uyển

chuyển nhƣ sóng lƣợn mỗi khi họ bƣớc đi. Tất cả sự hài hòa ấy đã thu hút bao

ánh nhìn, làm sống dậy bao cảm xúc. Nhà thơ Lƣu Xuân Lý đã phải ngẩn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngơ: “Hội Tây Bắc em cƣời sáng hoa ban/ Em và bạn rập rờn bƣơm bƣớm

60

trắng” (Ngẩn ngơ trƣớc tằng cẩu - Lƣu Xuân Lý).

Nhìn ngƣời phụ nữ Thái trong trang phục “xửa cóm”, ta nhƣ đƣợc

ngắm một pho tƣợng có bố cục chặt chẽ hài hòa vừa thon thả, vừa vững chãi.

Những đƣờng cong, nét lƣợn mềm mại nhƣ đƣợc phô ra mà vẫn kín đáo.

Trong những ngày lễ hội, trong những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng ngƣời

Thái, hình ảnh ngƣời phụ nữ Thái trong trang phục áo cóm truyền thống, khăn

Piêu đội đầu đã trở thành trung tâm: “Em buông váy/ Cho hoàng hôn mau tắt/

Xòe ngàn hoa/ Chao đảo cả trời sao”(Đêm lễ hội - Lƣơng Định).

Nói tới trang phục truyền thống của của phụ nữ Thái không thể không

nói đến chiếc khăn Piêu - khăn đội đầu mà ngƣời Thái rất trân trọng. Chiếc

khăn Piêu là đồ trang sức làm đẹp của phụ nữ Thái, là kỷ niệm của những đôi

trai gái đang yêu, là vật phẩm quý giá để nàng dâu kính biếu gia đình chồng

trong đám cƣới. Khăn Piêu mang vẻ đẹp tâm hồn và tính thẩm mỹ của một

dân tộc qua đôi bàn tay ngƣời phụ nữ. Khăn Piêu đã góp phần tạo nên một nét

đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn của trang phục dân tộc Thái. Trong những bộ

trang phục ấy các cô gái Thái càng thêm duyên dáng, mềm mại, thƣớt tha

khiến bao ngƣời chao đảo, đắm say: “Váy hoa rực rỡ/ Bàn chân bƣớc theo/

Khăn piêu mới dệt/ Lòng đà ngẩn ngơ” (Mƣờng Cuông - Lò Cao Nhum).

Còn trang phục truyền thống của các cô gái Tày lại khá giản dị bởi trên

trang phục hầu nhƣ không trang trí, thêu thùa. Màu sắc cũng đơn giản bởi

màu chàm là chủ yếu. Phụ nữ Tày thƣờng mặc áo ngắn bên trong và áo dài ở

bên ngoài. Nhƣng chiếc áo dài mềm mại cùng chiếc thắt lƣng xanh đã tạo nên

một vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kín đáo của những ngƣời phụ nữ Tày trong

con mắt của bao ngƣời khác giới nơi đây:

Con sông Cầu mơ mộng tháng giêng hai

Gặp em rất duyên trong bộ áo chàm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Về Thái Nguyên - Dƣơng Thuấn)

61

Những cô gái áo chàm nhƣ mộng

Dẫu là tiên cũng muốn nhập cõi trần

(Ngƣợc miền ca dao - Triệu Kim Văn)

Ngƣời Mƣờng cũng rất tự hào về bộ trang phục truyền thống của mình.

Phụ nữ mƣờng mặc áo ngắn “áo Pắn” - cánh ngắn, xẻ ngực, tay dài. Trƣớc

đây áo Pắn chỉ có màu nâu và màu trắng nhƣng hiện nay những phụ nữ

Mƣờng mặc áo pắn đủ màu sắc, rất phong phú. Họ mặc áo Pắn với váy đen

dài, đầu váy đƣợc trang trí bằng hoa văn thổ cẩm nổi bật. Cạp váy ôm sát

ngực là một điểm nhấn tạo nên nét duyên dáng, mềm mại cho ngƣời phụ nữ

và thể hiện sự khéo léo của ngƣời mặc váy:

Áo viền thắt đáy lƣng ong

Ngọt nhƣ hƣơng cốm giữa đồng quê ta

Gái Mƣờng đẹp tựa trăng sa

Dịu êm trời đất câu ca điệu xòe

(Gái Mƣờng - Lò Ngân Sủn)

Trang phục của những ngƣời phụ nữ đâu chỉ có chức năng bảo vệ cơ

thể còn thể hiện thế giới tâm hồn của con ngƣời. Sự đổi thay của trang phục

chính là một sự dự báo, sự biểu hiện cho sự đổi thay của lòng ngƣời và sâu xa

hơn là sự mai một của truyền thống văn hóa. Chính vì vậy mà chàng trai

Mƣờng không dám chạm tay khi ngƣời yêu mình mặc chiếc áo dài. Bởi có lẽ

chàng đã nhận thấy tình yêu của cô gái Mƣờng mình yêu đã bay đi ít nhiều.

Chẳng thế mà từ thế kỷ trƣớc chiếc áo cài khuy bấm đã làm cho thi sĩ Nguyễn

Bính phải thốt lên “Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi”. Chiếc áo Pắn của cô gái

Mƣờng đã trở thành biểu tƣợng cho tấm lòng chung thủy của con ngƣời: “Vạt

áo Pắn/ Chẳng lấy gì làm đẹp/ Sao bàn tay anh thích nắm” (Nói với em - Bùi

Thị Tuyết Mai).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Điểm qua việc miêu tả một cách sinh động của những bộ trang phục

62

độc đáo của những ngƣời phụ nữ miền núi, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã

cho chúng ta thấy một vẻ đẹp rất đặc trƣng của những ngƣời phụ nữ đó trong

các bộ trang phục mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Họ chính là

những ngƣời làm nên những bộ trang phục độc đáo ấy. Họ cũng chính là

những ngƣời làm tăng vẻ đẹp đó lên rất nhiều lần khi khoác lên mình những

bộ trang phục đó. Và họ cũng chính là ngƣời đã gìn giữ, đã lƣu truyền lại cho

các thế hệ sau một vẻ đẹp vô cùng độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc - từ

những bộ áo, váy đƣợc làm từ các chất liệu truyền thống, từ đôi bàn tay khéo

léo, từ tâm hồn và trái tim của những ngƣời phụ nữ - những bông hoa của núi

rừng, của làng bản luôn yêu quê hƣơng, yêu con ngƣời một cách sâu sắc, thiết

tha. Tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, có lẽ bắt nguồn từ một trong những hành

động của những ngƣời phụ nữ vẫn hàng ngày, hàng giờ sáng tạo và lƣu giữ

bản sắc văn hóa dân tộc trên từng sắc màu thổ cẩm, từng bông gình gâu, từng

chiếc khăn Piêu...Lòng tự tôn dân tộc có thể bắt đầu từ những điều tƣởng

chừng nhƣ thật giản dị ấy. Đó là những giá trị văn hóa rất cần đƣợc bảo tồn

trong ngay sinh hoạt thƣờng ngày của đời sống.

2.3.2. Vẻ đẹp trong lối ứng xử văn hóa dân tộc

Nhƣ đã biết, những ứng xử căn bản của con ngƣời với xã hội, với tự

nhiên và với bản thân tồn tại trong một thời gian nhất định sẽ hình thành nên

những giá trị văn hóa. Những giá trị ấy ở mỗi dân tộc lại có những biểu hiện

khác nhau và điều đó tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Viết về những con

ngƣời miền núi, các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã giành nhiều bài thơ để

phản ánh về những ứng xử giàu bản sắc của đồng bào dân tộc mình với một

niềm tự hào sâu sắc. Đồng thời, họ cũng đã hiểu rất rõ rằng: ngƣời giữ ngọn

lửa bản sắc văn hóa dân tộc trong mỗi ngôi nhà, mỗi làng bản...chính là

những ngƣời phụ nữ. Trong những ngày lễ, tết, hội hè, hay trong cuộc sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thƣờng ngày thì những ứng xử của những ngƣời phụ nữ đó với những ngƣời

63

thân yêu của mình, với gia tộc và với cộng đồng đều mang những yếu tố bản

sắc văn hóa.

Những nét đẹp của lối ứng xử văn hóa trong tình yêu mà những ngƣời

phụ nữ dân tộc đã thể hiện trong cuộc sống hàng ngày đã là nguồn cảm hứng

cho các thi sĩ dân tộc thiểu số nơi đây. Viết về tình yêu nói chung, mỗi nhà

thơ lại có một tiếng nói riêng, một cách biểu hiện riêng với những đối tƣợng

thẩm mỹ của mình. Khi viết về tình yêu của những ngƣời phụ nữ miền núi,

nhà thơ Lò Ngân Sủn đã đƣa ra một nhận xét thật tinh tế và chính xác: “Tình

yêu đôi lứa của những ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số thật là đằm thắm, thiết

tha, dữ dội, hoang dã, nhƣ bão nổi, nhƣ lốc quấn, nhƣ lửa bốc...”[65, tr 58].

Phải là ngƣời am hiểu sâu sắc, phải là ngƣời đƣợc sống, đƣợc hòa mình vào

thế giới tình yêu của những ngƣời phụ nữ dân tộc miền núi - thì mới có thể

đƣa ra đƣợc một nhận xét chính xác đến nhƣ vậy. Trong tình yêu, những

ngƣời phụ nữ miền núi dƣờng nhƣ không hề bị chi phối, tác động bởi yếu tố

bên ngoài (dƣ luận, gia đình và xã hội). Điều họ đề cao nhất chính là những

cảm xúc của chính bản thân mình. Ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số yêu đắm

say, mãnh liệt, sống thật mình, hết mình với những khát khao đầy tính nhân

bản! Khi yêu, họ sẵn sàng và chủ động đến với tình yêu để có thể sống chết

hết mình vì tình yêu. Nỗi nhớ trong tình yêu của họ cũng thật khác thƣờng,

thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng khát khao:

Nỗi nhớ anh ngân vang át tiếng cồng

Cháy một khoảng trăng rằm chín đỏ

Khát khao anh cuồn cuộn trăng mùa lũ

Núi ủ mặt trời chín đỏ mùa đông

(Tình núi - Bùi Thị Tuyết Mai)

Nỗi nhớ anh luôn là âm thanh ngân vang, là sức nóng đến cháy bỏng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tâm can, là sức mạnh cuồn cuộn của dòng thác lũ...và tất cả từ niềm khát khao

64

anh. Niềm khát khao ấy có lúc đƣợc bộc bạch một cách tự nhiên, chân thành:

“Đừng bảo tôi lăng nhăng/ Bởi thấy những ngƣời đàn ông đẹp/ Chẳng lẽ

không đƣợc khao khát điều gì” (Mƣa xuân - Bùi Thị Tuyết Mai).

Khi đã yêu, họ luôn muốn đƣợc sống và cháy hết mình trong cảm giác

của sự hòa hợp ở mức độ cao nhất “muốn đƣợc ôm rất chặt, đƣợc hôn nhƣ đốt

cháy đôi môi, đƣợc nép mình cho hơi ấm xoa dịu trái tim”...(Bùi Thị Tuyết

Mai). Những khát khao ấy làm nên sức mạnh kỳ diệu để họ có thể giành

quyền chủ động hoàn toàn cho mình trong mùa hoa, mùa sự sống sinh sôi,

mùa ân ái: “Mùa hoa /Mùa đàn bà /Đủ sức vác ông chồng/ Chạy phăm phăm

lên núi”(Mùa hoa - Y Phƣơng).

Đã có nhiều nhà thơ viết về sự chủ động này của ngƣời phụ nữ trong

tình yêu mà mỗi câu thơ vẫn mang đến cho ngƣời đọc một cảm xúc riêng,

đánh thức những gì nhân bản nhất của mỗi con ngƣời: “Bất ngờ em đổ vào tôi

/ Củi mục cành khô lại đâm chồi”; “Em đội chum rƣợu đến với anh”; “Em

lao mạnh về phía màu anh...” Những câu thơ mang đầy yếu tố bản năng của

con ngƣời, hiển hiện một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt. Đó là tình yêu có

“nhịp điệu hoang sơ / Hừng hực ngọn lửa / Đổ xuống cơn mƣa / Nhƣ mơ nhƣ

thực” (Con gái vùng cao - Lò Ngân Sủn). Những ngƣời phụ nữ miền núi đã

dám sống đúng với tình cảm, với cảm xúc của mình mà không bị chi phối bởi

những lễ giáo phong kiến đã từng trói buộc con ngƣời trong vòng cƣơng tỏa

của nó. Trong những phiên chợ, trong những lễ hội của ngƣời miền núi,

những cô gái mặc những bộ đồ đẹp nhất, do chính tay mình làm ra, và ngoài

việc giao lƣu, trao đổi mua bán hàng hóa thì điều mà các chàng trai cô gái

mong muốn nhất, chờ đợi nhiều nhất là đi tìm bạn tình: “Chợ Lồng Tổng/

Ngƣời sao mà đông(...)/ Sao không kẻ bán/ Không ngƣời mua/ Chỉ rặt ngời

ngời môi đỏ/ Những con mắt liếc nhau/ Chập vào nhau/ Dính vào nhau(...)/

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Họ làm gì mà vòm lá rung/ Họ nói gì mà chùm quả chín” (Chín tháng - Y

65

Phƣơng). Khi tìm đƣợc ngƣời yêu ƣng ý thì họ có thể hát ngay khúc tình ca

lều nƣơng - thiên đƣờng và ăn bữa tình yêu:

Cái ngày đi chợ đung đƣa bên đƣờng

Cái ngày đối đáp trong sƣơng

Bụi cây cũng trở thành giƣờng lứa đôi

(Thiên đƣờng - Lò Ngân Sủn)

Nhƣng các dân tộc khác, mà cụ thể ở đây là ngƣời dân tộc Kinh thì

không có những cách ứng xử nhƣ vậy. Trong ca dao cổ truyền của ngƣời Việt,

đã từng ghi lại nỗi lo sợ, băn khoăn của những cô gái trong tình yêu. Bởi nếu

không có sự đồng ý của cha mẹ, thì tình yêu của ngƣời phụ nữ không bao giờ

có thể đi đến hôn nhân. Hôn nhân của ngƣời phụ nữ đƣợc hình thành trên cơ

sở lựa chọn của cha mẹ, của gia tộc: “Em thƣơng anh nhƣng không dám nói

/Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời” (Ca dao).

Sau này, ngƣời phụ nữ dù đƣợc chủ động hơn trong việc bộc lộ tình

yêu của mình - tình yêu mãnh liệt, nồng nàn và cháy bỏng cuồng si nhƣng vẫn

đƣợc biểu hiện một cách khái quát, lãng mạn và ít bộc lộ sự khát khao, chủ

động cụ thể, đầy tính bản năng có yếu tố nhục cảm nhƣ những ngƣời phụ nữ

dân tộc thiểu số. Ví nhƣ thơ viết về tình yêu của hai tác giả đƣợc coi là những

đại diện tiêu biểu của dòng thơ tình nữ ở giai đoạn sau cách mạng: Xuân

Quỳnh và Đoàn Thị Lam Luyến cũng thể hiện sự say đắm, nồng nàn, mãnh

liệt nhƣng kín đáo, cũng thể hiện khát vọng nhƣng đó là khát vọng yêu và

đƣợc yêu sâu sắc, về một hạnh phúc lứa đôi thật sự, thơ của họ còn chất chứa

cả một nỗi niềm suy tƣ day dứt trƣớc những đổi thay của con ngƣời trong

cuộc sống hiện đại: “Lời yêu mỏng mảnh nhƣ màu khói/ Ai biết tình ai có đổi

thay” (Hoa cỏ may - Xuân Quỳnh).

Nhƣng sau năm 1975, việc khám phá con ngƣời bản năng - phản ánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một cái tôi mang tính nhục thể là một trong những khuynh hƣớng tƣ tƣởng

66

của nghệ thuật thơ. Trong thơ ca nƣớc ta từ xƣa đến nay, cái tôi nhục thể vẫn

đƣợc thể hiện tuy màu sắc và mức độ khác nhau. Sau những năm đổi mới, các

nhà thơ trẻ nhƣ Phan Huyền Thƣ, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Hồng

Minh, Lƣơng Ngọc An...đã không ngần ngại nói lên những điều ấp ủ, những

khao khát cháy bỏng của mình. Nhƣng những yếu tố bản năng, nhục thể của

những tác giả này và của cả những tác giả ngƣời Kinh trong giai đoạn trƣớc

không phải là ứng xử mang yếu tố văn hóa truyền thống mà là sự biểu hiện

của con ngƣời cá nhân đƣợc giải phóng khi xã hội có nhiều thay đổi hay

trong một bộ phận con ngƣời của xã hội đƣợc tiếp xúc rộng rãi với lối sống

bên ngoài, nhất là lối sống phƣơng Tây.

Nhƣ đã nói, ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số thƣờng rất chủ động đến với

tình yêu đôi lứa và họ yêu với một tình yêu mãnh liệt, nồng nàn, yêu đến

chóng mặt. Vì vậy, nếu bị ngăn cản, bị chia cắt, họ hết mình bảo vệ tình yêu,

thậm chí có những phản ứng tiêu cực nhƣ tìm đến cái chết hoặc bỏ nhà ra đi

theo tiếng gọi của tình yêu. Chàng trai trong bài thơ Bài hát tỏ tình của

Dƣơng Thuấn khi gặp sự phản ứng của ông bố ngƣời yêu thì “chạy cắm cổ, vù

qua ruộng”, nhƣng cô gái đã “Chui qua liếp hở” đến bên ngƣời yêu và an ủi:

“Mới có thế thôi / Mà anh đã sợ”. Cách ứng xử của cô gái khiến ngƣời đọc

phải ngỡ ngàng, thán phục cho thứ tình yêu mạnh mẽ đến quyết liệt của cô gái

Tày này. Nàng Éng trong truyện thơ Ing - Éng của Vƣơng Trung cũng nhƣ

vậy, nàng quyết đi theo tiếng gọi của tình yêu dù có bị chém thân đứt đôi, bị

chặt xƣơng đốt lửa cũng quyết không thay lòng đổi dạ:

Nếu không đƣợc vắt áo cùng sào với bạn tình cũ

Bố chém, thân đứt đôi cũng đành(...)

Bố chặt xƣơng đốt lửa cũng mặc

(Ing - Éng - Vƣơng Trung)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số đã viết về hình ảnh những cô gái miền

67

núi đã bỏ nhà theo chồng, mặc cho những lời chê cƣời của làng bản nhƣ trong

bài thơ “Chị tôi” - Triệu Kim Văn, “Có một mối tình” - Y Phƣơng... Những

cô gái đó sau này khi đã trở thành bà nội, bà ngoại rồi mà mặt họ vẫn “hồng

lên” khi nhớ cái đêm liều mình ấy - cái đêm họ đã dũng cảm lựa chọn tình

yêu làm lẽ sống cho cuộc đời mình.

Nhƣng trong tình yêu, ngoài sự sôi nổi, bạo liệt, chủ động (mang tính

bản năng), các cô gái miền núi cũng rất tế nhị, kín đáo. Cô gái thẹn thùng, e lệ

trao vật đính ƣớc cho chàng trai rồi lại sợ “có ngƣời nhìn thấy - lại cƣời

cho”:“Sớm mai anh xuống núi/ Lá giầu em rọc đôi/ Nửa em ủ dƣới gối/ Nửa

anh mang về xuôi (Lá giầu - Dƣơng Thuấn). Đó chỉ có thể là một lá giầu rọc

đôi, hay một câu lƣợn cắn đôi trong “Câu hát chia tay” - Ma Phƣơng Tân,

nhƣng chứa đựng bao sự tin cậy, hy vọng và bao nỗi nhớ của cô gái Tày khi

phải xa ngƣời yêu.

Có thể thấy rằng, qua cách ứng xử tế nhị, đầy ý nghĩa của các cô gái

dân tộc thiểu số đó trong tình yêu thể hiện rõ sự khát khao về một tình yêu say

đắm, cháy bỏng, thiết tha, mãnh liệt và thủy chung về cuộc sống hạnh phúc

lứa đôi. Đây cũng là một nét đẹp trong trong đời sống tâm hồn, trong tình yêu

của những con ngƣời miền núi.

Khi bƣớc vào cuộc sống hôn nhân (dù cho cuộc hôn nhân ấy có đƣợc

xuất phát từ cơ sở nào) thì ngƣời phụ nữ dân tộc vẫn hết lòng yêu thƣơng,

chăm sóc chồng con và thu vén cho gia đình - với sự hy sinh, chịu đựng có

lúc đến mức nhẫn nhục mà không bao giờ oán trách hay đòi hỏi một sự đền

đáp nào từ những ngƣời thân yêu của mình. Tuy trong xã hội hiện đại, vị thế

của ngƣời phụ nữ đã từng bƣớc đƣợc thay đổi, nhƣng tâm lý tôn trọng, đề cao

và phục tùng ngƣời chồng vẫn còn tồn tại trong nhiều ngƣời vợ, nhiều gia

đình ngƣời dân tộc thiểu số. Các nhà thơ ngƣời dân tộc đã viết về nét tâm lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yêu chồng, chiều chồng của những ngƣời phụ nữ miền núi bằng những câu

68

thơ đầy chất hiện thực và lãng mạn. Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai đã ví họ với

hình ảnh: “Ta / Con chim bay cao, con cá bơi sâu/Mạnh nhƣ con hổ con báo”

nhƣng đến khi lấy chồng thì vẫn: “ Đi ngoan nhƣ câu hát về nhà anh” (Bài

hát nhỏ - Bùi Thị Tuyết Mai).

Nhà thơ Lò Ngân Sủn lại viết về sự chăm sóc chu đáo, sự chiều chuộng

hết lòng của ngƣời phụ nữ Hmông với chồng của mình từ những sinh hoạt

trong nhà đến các buổi đi nƣơng, đi chợ. Trên những con đƣờng đầy đèo dốc

và gập ghềnh đá núi, ngƣời vợ Hmông luôn là ngƣời cầm đuôi ngựa đi sau

trong khi ngƣời chồng thong dong ngồi trên lƣng ngựa:

Khi chợ vãn cuộc vui

Ngƣời chồng ngồi lắc lƣ trên yên ngựa

hai tay vợ nắm chặt đuôi ngựa bƣớc theo sau

(Vợ chồng ngƣời Mông - Lò Ngân Sủn)

Họ chăm chút cho chồng trong từng bữa ăn, giấc ngủ với sự dịu dàng

hết mực của một ngƣời vợ đảm đang, một ngƣời tình đắm say: “Những ngƣời

đàn bà nhƣ những con ong.../Nựng chồng lả lơi/ Yếm thắm nâng bầu rƣợu

ngọt” (Những ngƣời đàn bà - Bùi Thị Tuyết Mai).

Nhà thơ Lâm Quý đã khắc họa lòng chung thủy tuyệt đối của những

ngƣời phụ nữ dân tộc qua bài thơ “Nếu em bỏ ôm chồng”. Ở bài thơ này,

ngƣời phụ nữ dân tộc đã chẳng hề mảy may bị lay động trƣớc những lời tán

tỉnh đƣờng mật của ngƣời đàn ông khác: “Nếu em bỏ ôm chồng / Anh sẽ trả

cả ngàn cái hôn / ...Nâng em lên thành bà chúa rừng. ..”. Họ không nói nhiều

bởi đã giành trọn vẹn một tấm lòng sắt son với ngƣời chồng đầu gối tay ấp

của mình. Thái độ, hành động của ngƣời phụ nữ dân tộc ấy thật mạnh mẽ và

kiên quyết: “Anh mà nói câu nữa/ Mời ra uống nƣớc lã ngoài sân” (Nếu em

bỏ ôm chồng - Lâm Quý).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Qua một số bài thơ viết về ngƣời phụ nữ dân tộc của các nhà thơ miền

69

núi, ta thấy: Sự chăm sóc, chiều chuộng, phục tùng chồng đến mức tỉ mỷ và

toàn tâm toàn ý của ngƣời phụ nữ dân tộc đã trở thành một nét bản sắc riêng

trong văn hóa ứng xử của ngƣời phụ nữ miền núi. Nếu nhƣ một số đối tƣợng

phụ nữ dân tộc Kinh và nhiều phụ nữ dân tộc khác trên thế giới luôn đƣợc

quan tâm, chăm sóc và ƣu ái đặc biệt - thì những ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu

số luôn giành sự quan tâm chu đáo cho những ngƣời thân yêu của mình mà

không bao giờ đòi hỏi một sự đền đáp nào cả. Hành động ấy, tâm lý ấy không

chỉ là công việc, là nghĩa vụ mà họ còn coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc

trong cuộc sống thƣờng ngày của những ngƣời phụ nữ nơi miền rừng núi xa

xôi này.

Nhƣ đã biết, trƣớc khi lấy chồng những cô gái ngƣời dân tộc thiểu số

đã sống và yêu thật sôi nổi, nhiệt thành đến mức có thể cháy đến tận cùng cho

tình yêu. Nhƣng khi họ lấy chồng - trở thành ngƣời vợ, ngƣời con dâu trong

gia đình - họ đã giành toàn bộ sự quan tâm của mình để chăm sóc, vun vén, lo

lắng, gìn giữ gia đình thân yêu của mình. Từ những ứng xử văn hóa đó mà

bao nền nếp gia phong, tập quán tốt lành của dân tộc đƣợc giữ gìn: “Không

dám đi qua trƣớc bàn thờ/ Không dám ngồi ở mặt trên bếp lửa/ Không dám

ăn chung mâm với bố chồng” (Con dâu nhà sàn - Dƣơng Thuấn).

Họ là những ngƣời lặng lẽ hàng ngày, hàng giờ săn sóc từng ngƣời

trong gia đình với một tình cảm yêu thƣơng, kính trọng và hiếu thảo đến vô

cùng:

Cô dâu mới mỗi ngày thƣờng dậy sớm

Nắm cơm, pha trà, rót nƣớc mời chồng

(Buổi sớm bản Hon - Dƣơng Thuấn)

Hay Gà trống gáy gọi ngƣời con gái

Gọi nàng dậy sớm để chải đầu(...)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Gánh nƣớc xong rồi về nhóm lửa

70

Nhóm lửa đun nƣớc đón mẹ cha

Mẹ cha có nƣớc dậy rửa mặt

Mới là con gái chăm cửa nhà

(Gà trống vỗ cánh - Bàn Tài Đoàn)

Ngày nối ngày, mùa nối mùa, những ngƣời phụ nữ lao động chăm

chỉ, cần cù, chịu khó đến nhẫn nại. Họ tảo tần trên những nƣơng ngô, ruộng

lúa từ sáng sớm đến tối mịt, chịu đựng bao nắng mƣa của cuộc đời để lo cho

cuộc sống của gia đình: “Mẹ về nƣơng/ Từ núi/ Đen nhẻm cây lồ ô cháy/ Mặt

trời lăn từ trán qua vai” (Chiều núi - Lò Cao Nhum); Ngƣời đàn bà soi bóng

mình trên tứ mùa cánh đồng” (Hơi ấm bàn tay - Bùi Thị Tuyết Mai); “Ngƣời

đàn bà vùng cao/ Địu nắng, gùi mƣa/ Chở đầy sớm trƣa năm tháng” (Ngƣời

đàn bà vùng cao - Cao Sơn Hải).

Các nhà thơ miền núi và đặc biệt là nhà thơ ngƣời dân tộc Dao - Triệu

Kim Văn đã lựa chọn hình ảnh chiếc gùi để khắc họa cuộc đời đầy vất vả, lo

toan của những bà mẹ miền núi một cách xúc động. Lƣng mẹ mỗi ngày một

còng xuống, chiếc gùi mỗi ngày một nặng thêm và càng đen bóng lên vì giọt

giọt mồ hôi của mẹ. Chiếc gùi là vật chứng cho niềm vui đƣợc mùa, cho niềm

hạnh phúc của tình mẫu tử, cho nỗi vất vả của đoạn đƣờng đời đầy chông

gai...trong cuộc đời mẹ.

- Nặng nhọc cƣời

Nặng nhọc ngƣời đàn bà đeo gùi

(Chín tháng - Y Phƣơng)

- Mẹ tôi

Đã gùi mòn chiếc gùi ấy

Chiếc gùi

Óng vàng những nan trúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đen bóng giọt giọt mồ hôi(...)

71

Mỗi ngày lƣng mẹ thêm còng

Mỗi ngày gùi càng thêm nặng

(Điểm tựa - Triệu Kim Văn)

- Chiếc gùi của mẹ

Gùi những buồn vui của rừng của núi

Gùi nặng công lao

(Mẹ gùi - Triệu Kim Văn)

- Mẹ địu con trên lƣng

Chiếc gùi lệch bờ vai

(Con của núi - Triệu Kim Văn)

Hình ảnh những ngƣời mẹ còn đƣợc hiện lên với những đƣờng nét,

dáng hình, những việc làm hết sức cụ thể, sống động... tới mức tƣởng nhƣ

đang diễn ra ngay trƣớc mắt. Ta có thể dễ dàng hình dung những ngƣời mẹ

dân tộc thiểu số đã lao động cực nhọc, mẹ đã lo toan vất vả nhƣ thế nào để

nuôi sống cả gia đình của mình:

Ngày ngày

Mẹ vẫn thắt vỏ bao ngang bụng lên nƣơng

Tay cầm chiếc cào uấn bằng con dao mòn vẹt

Lƣng mẹ còng trên lƣng đồi đỏ nắng

Gối mùa bao nỗi lo toan

(Mùa màng của mẹ - Mai Liễu)

Trong những ngày lễ, tết truyền thống của dân tộc nhƣ: tết Năm mới,

tết Thanh minh, lễ hội Cầu an, lễ hội Cầu tự...chính những bàn tay của những

ngƣời phụ nữ ấy là đã trực tiếp chuẩn bị chu đáo mọi thứ lễ vật cho lễ hội để

duy trì những phong tục tập quán đó của dân tộc mình.

Cũng nhƣ ngƣời Kinh, ngày tết năm mới (theo âm lịch) là một trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những ngày tết quan trọng nhất của đồng bào dân tộc thiểu số. Sau cả một

72

năm lao động vất vả, lo lắng cho cuộc sống thì những ngày tết là những ngày

lễ hội tràn đầy niềm vui đối với những con ngƣời miền núi vùng cao. Không

khí lễ tết đến trong sự rực rỡ của núi rừng với hoa đào đỏ tƣơi, hoa mận trắng

ngần và sự vui tƣơi và háo hức của lòng ngƣời. Chính trong những ngày này,

những ngƣời phụ nữ chính là những ngƣời tích cực nhất đối với việc chuẩn bị

lễ vật và thủ tục cần thiết cho các lễ nghi trong gia đình cũng nhƣ trong những

lễ hội của làng, của bản. Những cô gái vui vẻ vào rừng hái lá dong mang về

làm bánh để ăn tết: “Tháng chạp em lên rừng hái lá dong/ Mang về gói bánh

trƣng ngày tết/ Một mình trong khe cạn em hát” (Cháy vì lửa sông sâu -

Dƣơng Thuấn).

Sinh ra và lớn lên trong nguồn mạch văn hóa vùng miền núi vì thế

những phong tục, tập quán nơi đây đã thấm sâu vào tâm hồn con ngƣời, làm

thành những nét đặc trƣng trong tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của những

ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Trong ngày tết, ngƣời phụ nữ không những là

ngƣời trực tiếp làm cỗ, làm bánh... chuẩn bị các lễ vật để cúng tổ tiên, thần

linh mà còn là ngƣời trực tiếp thực hiện những phong tục quan trọng nhƣ: tục

dán giấy đỏ lên cửa để mong điều tốt lành sẽ đến trong năm mới, dán giấy lên

cây cối để mong mùa màng tốt tƣơi, đi gánh nƣớc trong sáng mồng một tết...

Chiều ba mƣơi tết

Em dán lên trƣớc cửa

Hồng phúc khách đến sớm mai

Em dán lên từng cây quả

Cầu mong mùa sau quả sai

(Năm mới - Dƣơng Thuấn)

Các nhà thơ đã miêu tả những việc làm lặng thầm, cần mẫn của ngƣời

phụ nữ dân tộc miền núi cho gia đình, làng bản của mình với một lòng trân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trọng và biết ơn sâu sắc. Với họ, năm mới đem đến cho con ngƣời tuổi trẻ, sự

73

trƣởng thành nhƣng quan trọng hơn cả thì: để có những mùa xuân mới ấy,

chính những ngƣời phụ nữ đã làm nên năm mới từ những việc làm tƣởng

chừng nhƣ rất đỗi bình dị ấy: “Ngày mai/ Mùa xuân lấy của mình một tuổi/

Ngày mai/ Mùa xuân cho con trai một tuổi/ Đêm mai/ Vợ mình cặm cụi làm

năm mới” (Cây hoa biết nói - Y Phƣơng).

Trong những ngày lễ của năm, nếu chồng, con họ không có mặt ở nhà,

họ chính là ngƣời sẽ thay mặt chồng con mình làm lễ cho ông bà, tổ tiên một

cách chu đáo: “Tháng ba anh bận không về đƣợc/ Em cùng họ hàng đi tảo

mộ” (Tháng ba không về - Dƣơng Thuấn)...

Trong giao tiếp hàng ngày, những ngƣời phụ nữ dân tộc thƣờng là

những chủ nhà mến khách và khéo léo:

Khách đến Sơn la

Chối không biết uống rƣợu

Cô gái Thái vít cần nâng bát

Cất lời ngọt hƣơng men

Khách say lời trƣớc rƣợu

(Cầm Hùng - Lời mời cô gái Thái)

Họ đã mang những sản vật của quê hƣơng đƣợc chuẩn bị công phu

nhất, chứa đựng cả tinh hoa đất trời và cái tâm của lòng ngƣời trong đó để

đón tiếp khách chơi đến nhà. Đó có thể là một bình rƣợu quý đƣợc “ủ từ sắc

lá gai rừng / Chắt từ củ mài hốc đá” đƣợc những ngƣời phụ nữ “nấu thơm từ

lửa đỏ đêm dài” (Rƣợu núi - Lò Cao Nhum); hay là những gói xôi nếp nƣơng

thơm dẻo “Nếp nƣơng thơm dẻo lắm / Tình nghĩa quê hƣơng, tấm lòng em

đó” (Anh đƣợc về thăm - La Quán Miên). Có lẽ, không ngƣời khách nào

không cảm thấy xúc động và đủ sức từ chối lời mời rƣợu của các cô gái nhƣ

thế này:

Uống đi anh !

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Uống cho tay nắm tay bén lửa

74

Uống cho mắt nhìn nhau nên sấm chớp đổ trời

Uống cho cạn lời Ông Mo bà Mỡi

Uống cho sông suối ông bà về lại tuổi xuân

(Mời rƣợu - Bùi Thị Tuyết Mai)

Lời mời thiết tha, khéo léo và hấp dẫn đến nhƣ vậy cũng bởi nó đƣợc

bắt nguồn từ chiều sâu của văn hóa chứa đựng trong những ứng xử hàng ngày

của ngƣời phụ nữ dân tộc.

Cũng chính những ngƣời phụ nữ là ngƣời tha thiết giữ gìn bản sắc văn

hóa của dân tộc, từ nền nếp, truyền thống gia đình, phong tục tập quán tốt đẹp

của dân tộc đến tiếng nói dân tộc. Vì thế, khi những đứa con của họ xa quê rồi

quên đi tiếng nói dân tộc thì mẹ đau đớn tới mức thắt cổ tự tử và không sao

nhắm mắt nổi nếu đứa con đó không cất nổi tiếng gọi: Mé ơi: “ Hồi ấy/ Ở

làng tôi/ Có ngƣời đi lính về/ Mới ba tháng mà đã quên hết tiếng Tày/ Sau đó

/Chừng vài ngày/ Ngƣời mẹ thắt cổ/ Ngƣời lính vật vã khóc/ Gọi/ Mé ơi/

Đúng giọng ngƣời làng tôi/ Ngƣời mẹ khẽ mỉm cƣời / Rồi từ từ nhắm mắt”

(Tiếng mẹ đẻ - Y Phƣơng).

Các nhà thơ cũng đã dành nhiều câu thơ, bài thơ để ca ngợi tình mẫu tử

của các bà mẹ dân tộc thiểu số. Với những đứa con thân yêu, lúc nào ngƣời

mẹ cũng luôn ở bên cạnh, yêu thƣơng chăm sóc, dạy bảo con với một tình

thƣơng yêu vô hạn và một tấm lòng bao dung, độ lƣợng mang đậm bản sắc

văn hóa dân tộc.

Hình ảnh con cò bay lả bay la trên những những đồng lúa mênh mông

đã đi vào tiềm thức của những đứa trẻ dân tộc Kinh qua lời ru à ơi dịu dàng

của mẹ thuở ấu thơ. Lời ru của các bà mẹ ngƣời dân tộc miền núi đƣợc các

nhà thơ dân tộc thiểu số tái hiện cụ thể và mang một bản sắc riêng: Bà mẹ

ngƣời dân tộc Dao đã truyền điệu hát dân tộc cho con từ những lời “Páo

dung” say sƣa: “Truyện cổ tích con nghe mẹ kể / Đoạn vui mẹ “Páo dung”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

say sƣa” (Con của mẹ - Bàn Tài Đoàn); điệu ru con nè né ơ / nè né ờ của dân

75

tộc Giáy đƣợc các cô giữ trẻ ru những em bé trong nôi cũng đã góp phần hình

thành thế giới tâm hồn của những đứa trẻ dân tộc Giáy; lời ru của bà mẹ

ngƣời dân tộc Cao Lan cũng có ngọn nguồn từ văn hóa dân gian bởi nó đƣợc

diễn ra trong khung cảnh, con ngƣời thật hƣ ảo, thần tiên nhƣ bức tranh thờ

của dòng họ đã gợi tứ cho nhà thơ Lâm Quý: hai đầu nôi đƣợc treo vào hai

đỉnh núi, phía dƣới nôi là những làn mây đẹp trôi bồng bềnh, đằng sau nôi là

hình ảnh bà mẹ ngồi, toát lên vẻ nhân hậu và yêu thƣơng:

Ơi à...con ngủ(...)

Lời ru của mế là dây gắm vàng

Treo hai đầu nôi vào hai đỉnh núi

Vồng lên quả đồi mế ngồi đƣa nôi

(Huyền thoại lời ru - Lâm Quý)

Ngƣời mẹ xứ Mƣờng - Bùi Thị Tuyết Mai tâm sự: “Con trai tôi đêm

nào cũng bắt tôi ru bằng thơ...Quê tôi leo dốc cứ vóng lên cao.”, vì vậy,

những lời ru của chị luôn mang dáng hình quê hƣơng xứ sở đất Mƣờng: “Ngủ

đi/ Đôi chân quen leo dốc ngƣợc/ Ngủ ngoan/ Con chim chích tìm mồi quanh

hiên”(Ru con - Bùi Thị Tuyết Mai).

Không chỉ vỗ về chăm con bằng những lời ru ngọt ngào, các bà mẹ dân

tộc thiểu số lúc nào cũng luôn ở bên cạnh các con, yêu thƣơng chăm sóc, dạy

bảo con với một tình thƣơng yêu lớn lao và một tấm lòng bao dung, độ lƣợng.

Bƣớc chân chập chững đầu tiên con đi đã khiến lòng mẹ sung sƣớng vô hạn.

Mong muốn đƣợc chở che cho con đã khiến họ có một sức mạnh lớn lao tới

mức dám ra lệnh cho trái đất: “Trái đất, hãy quay chậm/ Đừng để chiếc mầm

run” (Bƣớc đi - Bùi Thị Tuyết Mai).

Những ngƣời mẹ Tày thì dạy bảo khuyên răn con cái một lối ứng xử

văn hóa về nhân cách của một con ngƣời chân chính nhƣ: không run sợ trƣớc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cƣờng quyền, nhƣng lại cần biết trân trọng, nâng niu ngay cả những sự vật -

76

dù nhỏ bé - mà thiên nhiên ban tặng:

Những bà mẹ xứ mây mỗi sớm bình minh

Thơm má con và dặn rằng

Mắng quan tham đừng run sợ

Trƣớc khi hái quả

Thì hãy chắp hai tay

(Bà mẹ xứ mây - Dƣơng Thuấn)

hay Làm đàn ông phải chí lớn gan to

Dám nghe lời chát đắng, chẳng sợ vấp bụi gai

Nói lời mật ngọt sa hố thì không leo lên đƣợc

(Khi con trai vỡ giọng - Dƣơng Thuấn)

Chính vì đƣợc thấm đẫm điệu hồn dân tộc từ lời “ru êm ái đƣa con vào

giấc ngủ đêm khuya”, đƣợc chăm sóc bằng tình thƣơng yêu vô hạn, đậm bản

sắc của dân tộc của những ngƣời mẹ nên dù những ngƣời con của núi có lúc

tạm rời xa quê hƣơng đến mấy ngàn dặm thì “hồn vía” của họ cũng bị níu giữ

bởi một sợi dây vô hình khiến họ không thể nào quên đi nguồn cội của mình.

Khi đã trƣởng thành, những đứa con lúc nào cũng đau đáu, day dứt một nỗi

niềm hƣớng về quê hƣơng, hƣớng về bóng hình mẹ, nghĩ về những bài học

mẹ dạy dỗ, nhớ về sự chăm sóc ân cần của mẹ - sự chăm sóc đặc biệt mang

đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà thơ Triệu Kim Văn nhớ về quê hƣơng với

những hình ảnh gần gũi, thân yêu: “Con sinh ra trên núi / Mẹ tắm con trong

chậu gỗ / Nƣớc máng hứng từ ruột đá / Ba lần mặt trời mọc đặt tên” (Con

của núi - Triệu Kim Văn). Nhà thơ còn luôn ao ƣớc một điều: một mai đi sang

cõi khác, hồn anh sẽ đƣợc đƣa về núi để “tìm lại chiếc nhau mình / Trong

lồng nhỏ mẹ tôi treo bờ suối / Cành cây giờ đã vƣơn xanh” (Nếu tôi chết -

Triệu Kim Văn).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hình tƣợng những ngƣời phụ nữ trong thơ ca các dân tộc thiểu số hiện

77

lên với sự hy sinh lớn lao và lặng lẽ cho những ngƣời thân yêu của mình. Họ

không hề nghĩ tới những niềm vui, sự nghỉ ngơi và hạnh phúc cho bản thân

mà niềm vui của họ chính là đƣợc chăm sóc, hy sinh cho những ngƣời mình

yêu quý. Họ cũng không bao giờ đòi hỏi một sự đền đáp từ những ngƣời thân

yêu. Chính vì thế, khi đã già yếu tất cả những vất vả, khổ đau, cơ cực đã in

dấu trên hình hài của những ngƣời phụ nữ này. Ngƣời mẹ, ngƣời vợ nào cũng

già đi một cách nhanh chóng, chiếc lƣng còng gập xuống, những nếp nhăn cứ

chéo ngang, chéo dọc trên khuân mặt của họ: “Chỉ thƣơng mẹ/ Lƣng cong

bông lúa vàng/ Chân tẽ dảnh lúa thơm (Mùa rẫy - Triệu Kim Văn); “Trên

khuôn mặt gày gò bé nhỏ của mẹ/ Đầy những nếp nhăn của năm tháng” (Đời

mẹ - Lò Ngân Sủn); “Chai sạn sần sùi bàn tay của mẹ” (Đòn gánh - bàn tay -

Cầm Bá Lai); “Mẹ tôi/ Vừa đi vừa ôm ngực/ Toàn thân cúi gập/ Nhƣ con sâu

đo”(Chín tháng - Y Phƣơng); “Cuộc đời em là tháng năm vất vả(...)/ Nếp nhăn

nheo chéo ngang, chéo dọc/ Cái nhọc nhằn in ở bàn chân” (Xuân nhớ về

thăm vợ - Pờ Sảo Mìn)...

Cuộc đời ngƣời phụ nữ dân tộc không chỉ bó hẹp trong những quan hệ

gia đình. Trong những sinh hoạt văn hóa cộng đồng - những lễ, hội truyền

thống, trò chơi dân gian ngƣời phụ nữ nhƣ những ngọn lửa thu hút, lôi cuốn

ngƣời chơi, làm rạng ngời cả sân chơi. Trong cộng đồng ngƣời Thái, ngƣời

phụ nữ có vị trí và vai trò rất lớn trong tổ chức cuộc sống - nhất là những sinh

hoạt tinh thần. Họ là nhân vật chính trong những trò chơi dân gian nhƣ ném

còn, múa xòe, múa sạp, là ngƣời “dẫn dắt” của sân chơi “Hạn khuống”.

“Hạn khuống” là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất đặc trƣng và

gần gũi với ngƣời Thái. Đây là sân chơi để nam thanh nữ tú đua tài văn nghệ,

vừa lao động sản xuất buổi tối, cũng là nơi trai gái tìm hiểu nhau mọt cách

công khai, lành mạnh. Nhà thơ Cầm Biêu đã tái hiện lại không khí “hạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khuống” qua câu thơ: “Hạn khuống nhỏ nhóm lửa đua tài/ Và trên sàn, sánh

78

trăng rằm, đôi lứa, lứa đôi” (Nhớ bản cũ - Cầm Biêu).

Trong đời sống của các chàng trai cô gái dân tộc Mông, những buổi

giao lƣu, gặp gỡ trong các lễ hội truyền thống làm nên bản sắc văn hóa đậm

nét của dân tộc. Trong các buổi chợ phiên, trong những đêm trăng hay trong

lễ hội “gầu tào” các chàng trai múa khèn tài hoa nhƣ những nghệ sĩ đích thực,

còn các cô gái Mông lại gửi bao tâm sự vui buồn trong tiếng đàn môi dìu dặt:

“ Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi / Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt”.

Mỗi dân tộc lại có một điệu múa riêng mang bản sắc văn hóa và phong

cách độc đáo của dân tộc mình. Điệu múa sạp là điệu múa phổ biến mà dân

tộc nào cũng có (trừ dân tộc Mông); điệu múa chuông nhịp nhàng, khỏe

khoắn của ngƣời Dao, vũ điệu xòe tinh tế, nồng say của ngƣời Thái, múa sênh

tiền của ngƣời Mông... Các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã ghi lại sinh

động những hoạt động này của những ngƣời phụ nữ trong các lễ hội nhƣ:

Nhớ năm nào mùa xuân đi chơi tết

Thấy em mặc váy xòe rực rỡ nét hoa văn

Anh thổi khèn bè cho em nhảy múa

Đôi bắp chân xinh thon thon trắng ngần

(Năm xƣa vô tình - Dƣơng Thuấn)

Em ! Những lớp gai mƣa

Lộng lẫy mùa sàn

Vẫy chào sinh linh

Vũ điệu xòe Thái

(Vũ điệu xòe Thái - Bùi Thị Tuyết Mai)

...

Hãy thử tƣởng tƣợng rằng: nếu không có sự tham gia của các cô gái

trong những điệu múa, những hoạt động tập thể ấy thì sự vui tƣơi, hấp dẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của các lễ hội ấy sẽ kém đi nhiều lắm. Bởi việc tham gia các hoạt động lễ hội

79

sẽ giúp cho mọi ngƣời xích lại gần nhau hơn, đem lại không khí đầm ấm, vui

tƣơi cho cả làng, cả bản, thúc đẩy lao động sản xuất phát triển...Khi tham gia

giao lƣu, hoạt động tập thể tình cảm con ngƣời còn đƣợc gắn kết, làm cho

ngƣời gần ngƣời hơn, thân thiện hơn trong vòng tay nhân ái.

Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, những ngƣời phụ nữ miền

núi đã không chỉ quanh quẩn với “bếp lửa nhà sàn” hay một con suối vắng

nữa mà đã tích cực tham gia vào công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Họ

đã “cùng đoàn, cùng tổ”sản xuất lƣơng thực tiếp tế cho bộ đội để mong ƣớc

tới một “chân trời sáng” cho những đứa con thơ của mình: “Con ở nhà cùng

với bà/ Để mẹ đi cùng đoàn cùng tổ/ Các anh cày đi trƣớc/ Mẹ cầm hạt theo

sau” (Chân trời sáng - Bàn Tài Đoàn).

Khi đất nƣớc hòa bình, hình tƣợng những cô gái tích cực học tập để

tiếp cận khoa học kỹ thuật mới, để đem cái chữ đến cho con em dân tộc trên

những đỉnh núi xa xôi đã trở thành một hình tƣợng đẹp đƣợc các nhà thơ ca

ngợi. Đó là “Hoa trong Mƣờng” của Vƣơng Anh, “Chị em công nhân cầu

đƣờng” của Hoàng Nó, “Bông hoa trắng đất Mƣờng” của Đinh Thị Mến, “Cô

giáo Mƣờng” của Lò Ngân Sủn, “Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải” của Hùng

Đình Quý “Con đi dạy học vùng cao”, “Mái trƣờng rẻo cao” của La Quán

Miên...

Tóm lại, qua việc khảo sát hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ ca các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, chúng ta nhận thấy rằng: Những ngƣời

phụ nữ miền núi - những bông hoa của núi rừng - mang một vẻ đẹp khỏe

mạnh, hồn nhiên và rực rỡ. Không những thế, họ còn là những ngƣời thƣơng

yêu hết mực, hy sinh hết thảy vì gia đình, chồng con và những ngƣời thân yêu

của mình; họ cũng là những ngƣời gìn giữ, bảo tồn, thể hiện và truyền lại

những vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ sau; hơn nữa, những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời phụ nữ miền núi còn luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt - dù cuộc

80

sống của họ còn muôn vàn những khó khăn, gian khổ. Sức sống ấy đã giúp họ

có một sức mạnh để duy trì và phát triển cuộc sống của những ngƣời dân tộc

miền núi cao. Chính vì vậy, hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc trong thơ các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là một hình tƣợng nghệ thuật lớn, có vai

trò quan trọng trong sáng tác của các nhà thơ, có ý nghĩ lớn lao về tƣ tƣởng và

nghệ thuật biểu hiện. Nó phản ánh quan niệm của các nhà thơ dân tộc thiểu số

nói chung về cái đẹp, về tình yêu, về hạnh phúc, đồng thời thể hiện đƣợc một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách sinh động tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn.

81

CHƢƠNG 3

NGÔN NGỮ THƠ GIÀU CHẤT TẠO HÌNH - MỘT NÉT ĐẶC SẮC

TRONG NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ

DÂN TỘC THIỂU SỐ

3.1 Ngôn ngữ thơ

* Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ nghệ thuật

Nhƣ đã biết, ngôn ngữ là “hệ thống ngữ âm, những từ và quy tắc kết

hợp chúng mà những ngƣời trong cùng một cộng đồng dùng làm phƣơng tiện

để giao tiếp với nhau”[50; tr. 666]. Trong văn học thì ngôn ngữ chính là yếu

tố thứ nhất, nghĩa là ngôn ngữ là chất liệu, là phƣơng tiện biểu hiện mang tính

đặc trƣng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không có văn học.

Ngôn ngữ nghệ thuật “là một hệ thống các phƣơng thức, phƣơng tiện

tạo hình, biểu hiện, hệ thống các quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mỹ

của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Ngƣời ta cũng có thể nói đến ngôn

ngữ ba lê, ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ

nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó”[48, tr.186]. “Ngôn ngữ

mang tính nghệ thuật đƣợc dùng trong văn học” là ngôn ngữ văn học.

Vấn đề đặc trƣng của ngôn ngữ nghệ thuật cho đến nay vẫn có nhiều ý

kiến tranh luận, cùng với các quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có thể đƣa

ra một số những đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật nhƣ sau: Tính cấu

trúc, tính hình tƣợng và tính cá thể.

Tính cấu trúc của ngôn ngữ nghệ thuật là quan hệ của một yếu tố ngôn

ngữ nào đó với các yếu tố ngôn ngữ khác trong văn bản nghệ thuật để đạt hiệu

quả thẩm mĩ.

Tính cấu trúc là đặc trƣng của ngôn ngữ nghệ thuật vì ngôn ngữ nghệ

thuật là ngôn ngữ tự nhiên đƣợc lựa chọn, sắp xếp, kết hợp với nhau trong hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thống chặt chẽ để tạo thành văn bản nghệ thuật. Các yếu tố ngôn ngữ trong

82

một tác phẩm phải gắn bó qua lại với nhau, phải phù hợp với nhau, giải thích

và hỗ trợ cho nhau để thể hiện hình tƣợng nghệ thuật, đạt tới hiệu quả chung.

Tính cá thể hay chính là dấu ấn riêng của tác giả trong sáng tạo nghệ

thuật. Tác phẩm văn học là sự sáng tạo không lặp lại của ngƣời cầm bút.

Ngôn từ văn học đƣợc lạ hóa - kết hợp, tổ chức, cắt tỉa, cấu tạo lại - tạo thành

nét riêng trong diễn đạt làm nên dấu ấn của tác giả.

Trong các đặc trƣng trên thì tính hình tƣợng là đặc trƣng quan trọng

nhất của ngôn ngữ nghệ thuật.

Tính hình tƣợng của ngôn ngữ nghệ thuật là khả năng gợi nên các hoạt

động, trạng thái, tính chất, của mọi hiện tƣợng trong thế giới nghệ thuật của

nhà văn, gợi lên ở ngƣời đọc những biểu tƣợng về thị giác, thính giác, vị

giác...về những đối tƣợng đó. Ngôn ngữ có tính hình tƣợng là ngôn ngữ có

khả năng “tái hiện lại những hiện tƣợng của cuộc sống một cách cụ thể, sinh

động bằng những từ ngữ gợi cảm, gợi hình, gợi thanh. Nói cách khác, ngôn

ngữ có tính hình tƣợng là ngôn ngữ rất giàu hình ảnh, đƣờng nét, âm thanh,

nhạc điệu...có khả năng gây ấn tƣợng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tƣởng

tƣợng và cảm nghĩ của ngƣời đọc” [51;tr. 150].

Tính hình tƣợng của ngôn ngữ nghệ thuật chứng tỏ rằng ngôn ngữ nghệ

thuật là một loại của ngôn ngữ tạo hình. Ngôn ngữ mang tính hình tƣợng là

phƣơng tiện xây dựng hình tƣợng nghệ thuật

* Tính tạo hình trong ngôn ngữ thơ

Tính tạo hình của ngôn ngữ thơ ca còn thể hiện ở khả năng gợi mở, liên

tƣởng, tƣởng tƣợng đến ngƣời đọc đến vô cùng trên cả hai phƣơng diện.

Phƣơng diện thứ nhất: nó là chiếc cầu nối đƣa ngƣời đọc tìm về miền ký ức,

tìm lại những hình ảnh, hình tƣợng đã gặp, đã thấy trong quá khứ. Phƣơng

diện thứ hai: nó giúp ngƣời đọc tƣởng tƣợng ra một thế giới kì diệu, đẹp và

thật hơn cả sự thật ngoài đời dựa trên những hình ảnh, biểu tƣợng thơ mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tính tƣợng trƣng, siêu thực hoặc chỉ là những ẩn dụ đặc sắc của nhà thơ.

83

Nét nổi bật của phƣơng thức tạo hình trong nghệ thuật là trực tiếp miêu

tả các hiện tƣợng của hiện thực, vẽ nên bức tranh về cuộc sống, mở ra trƣớc

mắt ngƣời xem những tác phẩm giống với các đối tƣợng trong thực tế theo

nguyên tắc điển hình hóa.

Một đặc điểm nổi bật của phƣơng thức tạo hình là phản ánh trực tiếp

đối tƣợng, nghĩa là miêu tả đối tƣợng nhƣ nó vốn có trong thực tế khách quan.

Một tác phẩm thơ ca có tính chất tạo hình là một tác phẩm đem đến cho ngƣời

đọc những bức tranh sinh động về cuộc sống và hiên thực thực tế khiến ngƣời

ta có thể cảm nhận đƣợc. Với tƣ cách là chất liệu của ngành nghệ thuật tạo

hình thì chức năng định danh của ngôn ngữ sẽ nổi lên hàng đầu.

Tính tạo hình của ngôn ngữ thơ còn đƣợc biểu hiện ở chỗ nó đƣợc vật

chất hóa, hình tƣợng hóa những đối tƣợng thẩm mỹ vốn vô hình nhƣ các trạng

thái cảm xúc, tình cảm và suy tƣ của con ngƣời. Chỉ có văn học nói chung và

ngôn ngữ thơ nói riêng bằng ngôn ngữ là vật chất hóa, hình tƣợng hóa đƣợc

những đối tƣợng vốn vô hình ấy.

Ngôn ngữ tạo hình trong thơ không những có khả năng biểu hiện nội

dung của sự vật, hiện tƣợng mà còn làm cho chúng hiện lên với tính tạo hình

cụ thể.

3.2 Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình -nét đặc sắc trong nghệ thuật

khắc họa hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số

3.2.1 Hệ thống từ vựng giàu tính tạo hình

Nói về ngôn ngữ tạo hình, không thể không nhắc tới hệ thống ngôn từ -

yếu tố tạo thành cơ sở ngôn từ của ngôn ngữ tạo hình - ngôn ngữ mang tính

hình tƣợng. Chúng tôi thấy rằng: hệ thống từ ngữ mà các nhà thơ ngƣời dân

tộc thiểu số sử dụng để khắc họa hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi rất tinh

tế, giàu tính tạo hình, phù hợp với cách nghĩ, cách cảm và cách diễn đạt của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời dân miền núi.

84

Hệ thống từ vựng giàu tính tạo hình đƣợc sử dụng nhiều hầu hết là

những từ địa phƣơng miền núi, đặc biệt là hệ thống từ láy. Những từ ngữ

mang màu sắc cụ thể, chân thật, giản dị, bình dân; những danh từ, tính từ,

động từ gợi cảm đƣợc sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày - thuộc khẩu ngữ tự

nhiên nhƣng có tác dụng lớn trong việc tái tạo hiện thực.

3.21.1 Từ địa phƣơng giàu tính tạo hình

“Từ địa phƣơng là những từ đƣợc dùng hạn chế ở một vài địa phƣơng.

Nói chung từ địa phƣơng là một bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hàng ngày

của bộ phận nào đó của dân tộc, chứ không phải từ vựng của ngôn ngữ văn

học”[22; tr. 30]

Viết về những ngƣời phụ nữ dân tộc, các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số

hay đƣa vào lời thơ những từ ngữ mộc mạc, cụ thể, hữu hình mà đồng bào các

dân tộc hay sử dụng trong cuộc sống khiến cho mỗi câu thơ giàu chất trữ tình,

tự nhiên, sinh động, dễ hiểu. Ngôn ngữ đƣợc sử dụng luôn phù hợp với đối

tƣợng đƣợc nói đến, từ ngữ đƣợc lựa chọn, sử dụng góp phần phong phú cho

lời thơ nghệ thuật đem lại sự mới mẻ cho hệ thống ngôn từ. Có thể nhắc tới

một số từ ngữ nói về ngƣời mẹ nhƣ: “mẹ mừng ngây nhƣ đá”, “Lời ru hóm

hém”, “xụt xịt ăn nhƣ khóc”, “quặn lùng bùng nơi bụng mẹ”, “mẹ nhằm nhì

nói”, “mẹ nằm khe khẽ buồn”, “đèo đầy thƣơng nhớ - cong cả đƣờng cái

quan”, “mẹ nằm nhƣ trận mạc””bà cụ trắng nhƣ mƣa - lầm lì bên ngọn

lửa”...; một số từ ngữ nói về những cô gái nhƣ: “em ngút ngát vầng trăng”,

“em múa lung liêng mắt”, “túm tím cƣời”, “đôi mắt thẫn thờ, nhác ngơ”,

“lim dim nghe”, “bƣớc lầm rầm”, “đi kìn kịt”, “trai leo gái lẻo”, “bạn gái

cƣời - răng hổng hểnh”, “chân em đi nhƣ con dao mài đá”, “đôi mắt ƣớt nhƣ

mỡ nóng trong chảo”, “thân hình em trông nhƣ một bó củi chắc nịch”, “hai

môi em nhƣ hai miếng thịt nƣớng”, “vai em khỏe nhƣ vai con trâu”, “bụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

em khỏe nhƣ lƣng con ngựa”, “ngon nhƣ một tấm cơm lam”, “cho anh dính

85

em nhƣ khảu tan”, “xênh xang áo váy”, “em nhƣ cái ớp pu quanh năm ôm

lƣng mẹ”...; một số từ ngữ nói về các em bé: “nừng nực nuốt - sung sƣớng

cong vênh”, “ngung ngoăng khắp nhà”, „non nỏn nhƣ vầng trăng”, “tiếng

trẻ trâu long lanh hoi hoi nhƣ đồng cỏ”, cháu của bà còn bé kin kin”...

Bên cạnh đó, các tác giả rất chú ý sử dụng các từ ngữ gắn liền với các

nét đặc trƣng của vùng núi, tạo nên những hình ảnh thân thiết, quen thuộc đối

với đồng bào các dân tộc thiểu số nhƣ: nƣơng ngô, bếp nhà sàn, con suối,

mƣa nguồn, lƣng đèo, cầu thang bảy bậc, áo chàm...trong thơ của nhà thơ

Mai Liễu; ông Mo, bà Mỡi, Pố, Mế, xứ Mƣờng, vũ trụ Mƣờng, ngƣời Mƣờng,

mƣờng Ma, mƣờng Trời, mƣờng Thàng, tiếng cồng, tiếng chiêng, cái cọn

nƣớc, cái Ớp-pu, cái áo Pắn...trong thơ của nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai; tấm

cơm lam, quả đào chín, hoa ban, măng non, trăng non, ngô non, tiếng pí lè, đá

núi, hoa rừng...trong thơ của nhà thơ Lò Ngân Sủn; chiếc gùi, mùa sa nhân,

bông gình gâu, chẩy chấu... trong thơ của nhà thơ Triệu Kim Văn; em bé non

nỏn, nuốt nừng nực, quả túng tính, quả nhúm nhím, mẹ mùi măng chua, mẹ nói

nhằm nhì, tùm hum hát, ngời ngời môi đỏ...trong thơ của Y Phƣơng.

Các từ địa phƣơng đƣợc sử dụng trong việc khắc họa hình tƣợng ngƣời

phụ nữ miền núi đã tạo nên sắc thái riêng biệt mang đậm chất dân tộc và miền

núi, đồng thời cũng thể hiện sự sáng tạo đặc biệt về mặt từ ngữ của các nhà

thơ dân tộc thiểu số. Họ đã sáng tạo những từ ngữ thơ giàu chất tạo hình từ cơ

sở những lời ăn tiếng nói, cách cảm, cách nghĩ của ngƣời dân tộc thiểu số, tạo

ra màu sắc mới, gây ấn tƣợng khó quên với ngƣời đọc.

3.2.1.2 Từ láy giàu tính tạo hình

“Từ láy là những từ đƣợc cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo

những quy tắc nhất định sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp,

vừa đối, hài hòa với nhau về âm và về nghĩa có giá trị tƣợng trƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hóa”[22,tr. 33].

86

Trong các bài thơ viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi, các nhà

thơ đã sử dụng khá nhiều từ láy trong các câu thơ của mình và họ đã đặc biệt

thành công khi dùng các từ láy tƣợng thanh, tƣợng hình, biểu thái để miêu tả

hình dáng, hoạt động, tâm trạng, tình cảm của ngƣời phụ nữ. Nhờ việc sử

dụng từ láy, hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc hiện lên nổi bật, cụ thể và sinh

động. Một trong những thành công của các tác giả khi khắc họa hình tƣợng

ngƣời phụ nữ dân tộc chính là việc sử dụng từ láy để tạo ra những bức tranh

sống động và thấm đẫm tình ngƣời. Ví dụ nhƣ những từ láy miêu tả tiếng

cƣời: “rúc rích”, “mủm mỉm”, “cheo leo”, “túm tím”, “ríu rít”...; miêu tả

tiếng nói “rì rầm”, “nhằm nhì”, “ngon ngọt”, chan chát”, “thủ thỉ”...; miêu

tả bƣớc chân: “ngung ngoăng”, “hừng hực”, “phăm phăm”, “rào rào”, “vù

vù”, lầm rầm”, “rầm rộ”, “bình bịch”, “chồng chéo”...; miêu tả lời ru “ngọt

ngào”. “đau đáu”; miêu tả tiếng ru “hóm hém”; tiếng hát “xôn xao”...

Hệ thống từ láy mà các nhà thơ đã sử dụng trong các câu thơ đã góp

phần khắc họa rõ nét, chân thực, sinh động hình ảnh, tính cách, tình cảm...của

ngƣời phụ nữ miền núi, đồng thời còn biểu hiện thái độ, tình cảm của các nhà

thơ với những ngƣời phụ nữ miền núi thân yêu của họ.

Với tài quan sát tinh tế và sự vận dụng từ ngữ thích hợp, các nhà thơ đã

đƣa vào sáng tác của mình nhiều từ láy tƣợng hình và từ láy biểu thái để làm

nổi bật hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc. Họ chú ý sử dụng hữu hiệu những

loại từ này để dựng nên chân dung con ngƣời ở từng lứa tuổi khác nhau. Bằng

hai câu thơ sử dụng liên tiếp những từ láy tƣợng hình, biểu thái mà nhà thơ Pờ

Sảo Mìn đã thể hiện xúc động dáng vẻ cùng sự hy sinh thầm lặng của ngƣời

vợ chịu thƣơng, chịu khó của mình:

“Nếp nhăn nheo chéo ngang chéo dọc

Cái nhọc nhằn in ở bàn chân”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Xuân nhớ về thăm vợ - Pờ Sảo Mìn)

87

Từ láy teo tóp lại giúp nhà thơ Lò Ngân Sủn viết về cuộc đời bất hạnh

của cô gái Pa Tần một cách tạo hình cụ thể :

Em nhƣ một cây nứa non teo tóp lại

(Cô gái Pa Tần - Lò Ngân Sủn)

Nhà thơ Mai Liễu lại sử dụng các từ tƣợng hình miêu tả cảm giác, trạng

thái, khiến cho hình tƣợng ngƣời mẹ đƣợc hiện lên một cách sống động với

những chi tiết, đƣờng nét cụ thể nhƣ: còm cõi, lui cui, ngơ ngẩn, tất tả..:

Mẹ còm cõi nhƣ quê nghèo ven núi

Sớm tối ra vào góc bếp lui cui

(Gọi vía - Mai Liễu)

Bếp nhà sàn mẹ tôi vừa đỏ lửa

Khói lan ngơ ngẩn mấy gian nhà

Mái tóc mẹ cũng ngẩn ngơ sợi khói

Chập chờn bông lửa mắt nhòa cay

(Chiều quê - Mai Liễu)

Cái vía trong mình có nhƣ đứa trẻ ham chơi bị lạc

Mà mẹ ta tất tả đi tìm

(Gọi vía - Mai Liễu)

Sử dụng từ láy một cách chính xác và sáng tạo cũng là một trong những

yếu tố giúp nhà thơ Y Phƣơng có nhiều câu thơ hay viết về mẹ. Trong trƣờng

ca Chín tháng, nhà thơ đã xây dựng nhiều nhân vật: ngƣời lính, em bé...nhƣng

hình tƣợng ngƣời mẹ vẫn là một hình tƣợng sâu đậm nhất, thành công nhất

của trƣờng ca. Các từ láy nhằm nhì, long lanh, rì rầm, nhƣng nhức, êm

êm...mà nhà thơ đã sử dụng đã góp phần khắc họa hình tƣợng bà mẹ miền núi

bình dị, âm thầm hy sinh cả cuộc đời cho con, cho đất nƣớc với một sức chịu

đựng bền bỉ:

-Mẹ nhằm nhì nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

-Đọng lại niềm vui long lanh mắt mẹ

88

-Rì rầm đêm đêm

Mẹ khêu đèn ngồi kể

-Mẹ cƣời

Hàm răng nhƣng nhức đen

-Nặng nhọc cƣời

Nặng nhọc ngƣời đàn bà đeo gùi

Âm ấm một bên vú phì nhiêu - Đất

Nong nóng một bên vú mọng căng - Nƣớc

-Mẹ nhƣ trăng sao

Êm êm đi vào miền ngƣời đời

Bình dị

(Chín tháng - Y Phƣơng)

...

Có thể nói, bằng cách sử dụng các từ láy khác nhau, mỗi nhà thơ đều

có một tiếng nói riêng, một cách thể hiện riêng để thể hiện những tình cảm

tràn đầy yêu thƣơng và trĩu nặng nghĩa tình của mình với mẹ. Nhà thơ Bàn

Tài Đoàn viết về ngƣời mẹ dân tộc Dao với lòng biết ơn sâu sắc vì sự hy sinh,

sự tận tụy hết mình để chở che, nuôi dậy các con nên ngƣời - trong những

năm tháng khó khăn của đất nƣớc:

Đêm đêm mẹ thao thức năm canh

Lo sao cho đời con của mẹ

Áo ấm thân mùa đông tháng giá

Bốn mùa cơm đầy bát con ăn”

(Chân trời sáng- Bàn Tài Đoàn)

Gƣơng mặt gày gò của ngƣời mẹ với bao nếp nhăn thời gian - vì những

nỗi vất vả mà cả đời mẹ phải chịu đựng mà vẫn cố gắng vƣợt qua, khiến lòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời con trai tái tê...trong thơ Lò Ngân Sủn:

89

Trên khuôn mặt gày gò bé nhỏ của mẹ

Đầy những nếp nhăn của năm tháng

Và đời mẹ cứ âm thầm tỏa sáng bên con

(Đời mẹ - Lò Ngân Sủn)

Nhà thơ ngƣời Thái Cầm Bá Lai lại viết về đôi bàn tay chai sạn sần sùi

của mẹ - vật chứng cho tình yêu thƣơng hết lòng của mẹ với con cái với một

nỗi xúc động, xót xa:

Theo nhịp gánh bàn tay phẩy phẩy

Không phải móng son tháp bút đâu em

Chai sạn sần sùi bàn tay của mẹ

Thƣơng ôi bao nhiêu mà hiếm phút xoa đầu

(Đòn gánh - bàn tay - Cầm Bá Lai)

Nhƣng, những bà mẹ dân tộc thiểu số âm thầm trong những nỗi vất vả

của cuộc sống đầy khó khăn ấy không chỉ hy sinh cả cuộc đời cho gia đình và

cho những ngƣời thân yêu của mình - mà còn cao hơn thế - mẹ đã hy sinh

những đứa con dứt ruột của mình cho quê hƣơng, đất nƣớc. Trong cơn mƣa

ngâu dai dẳng và lạnh lẽo, ngƣời mẹ với nỗi cô đơn và đau đớn ấy vẫn không

hề nghĩ đến bản thân mà chỉ rƣng rƣng một nỗi nhớ thƣơng, lo lắng cho con:

Mẹ

Gió thổi mƣa rơi

Giọt lúng liếng đầy vơi trong mắt

Mẹ rƣng rƣng chiều bếp

Tìm đốm than soi lòng mƣa ngâu

Đứa ra trận chờn vờn tấm ảnh

Nén hƣơng thầm: con trú mƣa đâu

(Mƣa - Lò Cao Nhum)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Các từ láy đƣợc sử dụng hiệu quả cũng đã giúp nhà thơ Mai Liễu miêu

90

tả thành công hình ảnh cô gái ngƣời Dao với vẻ đẹp tƣơi tốt, đầy sức sống

trong sự chuyển động uyển chuyển của mỗi bƣớc chân xuống chợ:

Vòng bạc rung rinh cổ tay

Ngù hoa mơn mởn ngực đầy

(Nếu mai em về Chiêm Hóa - Mai Liễu)

Miêu tả hình thể của các cô gái, những từ láy cũng giúp các nhà thơ

khắc hoạ đƣợc vẻ đẹp khoẻ mạnh, sống động và có sức lan toả và tác động

mạnh mẽ, sức thu hút lớn lao:

Đôi mắt lúng liếng lúng la

Phƣơng trời xa cũng có chòm sao lúng liếng

(Em gái Mƣờng Khoòng – Bùi Nhị Lê)

Da thịt em hừng hực nhƣ lửa

(Con gái bản Tông – Lò Ngân Sủn)

Sóng ngực em phập phồng hơi thở

(Ƣớc mơ – Lò Ngân Sủn)

Hoa đẹp của anh ơi, da trắng mịn màng nhƣ trứng gà bóc

Trái thơm của anh ơi, hàm răng tăm tắp hạt bắp trên nƣơng

(Trƣớc ngày cƣới - Đinh Đăng Lƣợng)

...

Nói tới trạng thái tâm hồn của những ngƣời phụ nữ dân tộc, các nhà thơ

cũng sử dụng từ láy khiến cho hiệu quả biểu đạt đƣợc tăng lên. Ví dụ nhƣ

những từ láy đƣợc nhà thơ ngƣời Mƣờng - Bùi Thị Tuyết Mai sử dụng giúp

nhà thơ thể hiện rõ cái hồn của bản sắc văn hoá của dân tộc mình: vừa chân

thành, tha thiết lại vừa hoang sơ, mạnh mẽ:

Lao xao

Rì rào

Ngƣời con gái nào đang yêu mà không trăn trở

Những nụ hoa trong vƣờn mơ ngủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Mƣa xuân – Bùi Thị Tuyết Mai)

91

Đừng bảo tôi lăng nhăng

Bởi thấy những ngƣời đàn ông đẹp

Chẳng lẽ không đƣợc khao khát điều gì

(Tôi tìm – Bùi Thị Tuyết Mai)

Ánh mắt đầu tiên

Run rẩy trên mịn màng hoang đảo

(Dấu - Bùi Thị Tuyết Mai)

...

Nhà thơ Y Phƣơng cũng đã góp một tiếng nói riêng về tình cảm vợ

chồng của những ngƣời dân tộc thiểu số khi viết:

Mùa hoa

Mùa đàn bà

Đủ sức vác ông chồng

Chạy phăm phăm lên núi

(Mùa hoa - Y Phƣơng)

Với từ láy tƣợng hình “phăm phăm”kết hợp với động từ “chạy, vác" là

những từ gợi cảm, gợi hình, nhà thơ đã miêu tả rõ nét sự mãnh liệt trong tình

cảm của ngƣời đàn bà trong “mùa hoa”.

Những từ láy tƣợng hình, từ láy biểu thái cũng góp phần dựng lên hình

ảnh một em bé dân tộc thiểu số bú mẹ một cách hăm hở, vồ vập - từ đó toát ra

ý tứ sâu xa của bài thơ: những bà mẹ miền núi rất vất vả, rất chăm chỉ - họ

phải lao động ngay sau khi sinh con; và con của họ cũng chỉ có một nguồn

sữa duy nhất - đó là sữa mẹ. Tác giả đã phản ánh một cách chính xác điều đó

qua việc khắc họa cách bú mẹ của em bé với những từ láy đầy sáng tạo:

Ngấu nghiến ăn

Nừng nực nuốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Chín tháng - Y Phƣơng)

92

Hoặc trong một câu thơ tả em bé vừa đầy tháng tuổi vô cùng đáng yêu

bằng một từ láy rất lạ:

Cháu bé vừa đầy tháng

Non nỏn nhƣ vành trăng

(Lời chúc– Y Phƣơng)

Các từ láy lạ và đặc biệt đó có còn đƣợc các nhà thơ sử dụng một cách

rất phù hợp và hiệu quả để tả những con ngƣời ở miền núi: “toàn trai leo gái

léo”, hát “tùm hum”, “nừng nực nuốt”, “khe khẽ buồn”, niềm vui “long

lanh” “ùn ùn vui”, nỗi buồn “nhỡ nhàng” “buồn buồn lằng lặng nén”, đi

“lúc lắc”, bƣớc “lầm rầm”, cƣời “túm tím”, yêu “bịn rịn”...Do khả năng

khai thác vốn từ láy giàu có trong ngôn ngữ dân gian và trong đời sống sinh

hoạt đời thƣờng mà các nhà thơ đã phác họa nên trong các sáng tác của mình

những bức tranh rực rỡ sắc màu với những hình ảnh đặc trƣng của miền núi.

Để tăng tính tạo hình cho câu thơ của mình, các nhà thơ không chỉ sử

dụng thích hợp hệ thống từ vựng mà còn sử dụng thành công các phƣơng thức

tu từ một cách linh hoạt, uyển chuyển đặc biệt là biện pháp tu từ so sánh.

3.2.2 Các phƣơng tiện và biện pháp tu từ

Nhƣ đã biết, “Phƣơng tiện tu từ là những phƣơng tiện ngôn ngữ mà

ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - lo gic) ra chúng còn có ý nghĩa bổ

sung, còn có màu sắc tu từ” [22; tr11]

“Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời

nói các phƣơng tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không trong

một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tƣợng về

hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh) [22; tr 142].

Tìm hiểu các phƣơng tiện và biện pháp tu từ là tìm hiểu cái làm nên

điều kỳ diệu của ngôn ngữ. Trong tiếng Việt có tới 99 phƣơng tiện và biện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

pháp tu từ [22]. Tuy vậy, trong luận văn này, chúng tôi không có điều kiện

93

khảo sát toàn bộ các phƣơng tiện và biện pháp tu từ, từ vựng, ngữ nghĩa và cú

pháp đƣợc các nhà thơ sử dụng mà chỉ dừng lại ở biện pháp tu từ so sánh. Bởi

biện pháp này xuất hiện trong ngôn ngữ tạo hình, lời văn nghệ thuật của các

nhà thơ dân tộc thiểu số khá cao và nó là một trong những yếu tố quan trọng

làm nên sức hấp dẫn, sự độc đáo trong sáng tác thơ của các nhà thơ miền núi.

Hơn nữa, biện pháp so sánh tu từ cũng là phƣơng thức tạo hình hiệu quả trong

ngôn ngữ văn chƣơng. Nếu sự so sánh luận lý có mục đích xác lập sự tƣơng

đƣơng giữa hai đối tƣợng cùng loại [22, tr154] thì so sánh tu từ nhằm diễn tả

bằng hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của ngƣời

đọc, ngƣời nghe. So sánh tu từ cũng làm cho sự vật cụ thể hơn và cung cấp

một quan niệm rõ ràng cho ngƣời đọc. Do chức năng nhận thức, chức năng

biểu cảm và lối cấu tạo tƣơng đối đơn giản; do tƣ duy cụ thể của ngƣời miền

núi nên nhiều nhà thơ ngƣời dân tộc đã sử dụng rất nhiều so sánh tu từ.

“Trong văn chƣơng, so sánh là phƣơng thức tạo hình, phƣơng thức gợi cảm.

Nói đến văn chƣơng là nói đến so sánh. Trong lời nghệ thuật, so sánh tu từ đã

biều hiện đầy đủ những khả năng tạo hình diễn cảm của nó” [22, tr158]

Theo sự khảo sát và thống kê sơ bộ chúng tôi thấy: số lần các tác giả dùng

biện pháp so sánh tu từ và biện pháp điệp từ, điệp ngữ, liệt kê trong các bài thơ

viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ khá phổ biến và dày đặc, cụ thể nhƣ sau:

Tác giả % %

Số tập thơ Số bài thơ viết về ngƣời phụ nữ Số lần sử dụng BPTT so sánh

Lò Ngân Sủn 4 257 81 Số lần sử dụng BPTT điệp từ, điệp ngữ, liệt kê 34 13,2 31,5

Dƣơng Thuấn 1 154 25 12 7,8 16,2

Y Phƣơng 1 79 22 16 20,2 27,8

Mai Liễu 1 74 11 4 5,4 14,9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bùi Thị Tuyết Mai 4 117 30 19 16,2 25,6

94

Qua bảng thống kê, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:

Các nhà thơ dân tộc thiểu số đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật khác

nhau để khắc họa chân dung ngƣời phụ nữ miền núi nhƣ: so sánh, điệp từ, điệp

ngữ, liệt kê... Nhƣng trong đó việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh là rất phổ

biến, có tần số xuất hiện cao 169 lƣợt/ 681 bài thơ ( trong khi đó tổng số lần các

biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ, liệt kê xuất hiện 85 lƣợt / 681 bài thơ).

Biện pháp tu từ so sánh đã đƣợc các nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng

đến mức tối đa để diễn tả những trạng thái cảm xúc, tạo dựng khách thể và

bộc lộ cách nhìn của mình. Họ đã thành công khi sử dụng biện pháp tu từ so

sánh để xây dựng hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Những ngƣời

phụ nữ hiện lên trong thơ vừa cụ thể, chân thực lại vừa sống động, hấp dẫn.

Đó là những ngƣời phụ nữ có vẻ đẹp khỏe mạnh, rực rỡ, đầy sức sống; yêu

thƣơng chồng con, xây dựng, gìn giữ hạnh phúc gia đình, phong tục, tập quán,

lễ nghi của dân tộc. Đó là những ngƣời mẹ vất vả, hy sinh cả cuộc đời cho

chồng, cho con của họ.

Trên cơ sở đối chiếu giữa hai đối tƣợng (đối tƣợng đƣợc so sánh và đối

tƣợng đƣợc đƣa ra làm chuẩn để so sánh), trong các bài thơ viết về ngƣời phụ

nữ dân tộc thiểu số, chúng ta thấy: Đối tƣợng đƣợc so sánh (ngƣời phụ nữ dân

tộc thiểu số) luôn đƣợc miêu tả ở hai phƣơng diện cụ thể: từ nhan sắc bên

ngoài đến nhan sắc bên trong.

Trƣớc hết phải nói tới việc so sánh làm nổi bật vẻ đẹp ngoại hình (nhan

sắc bên ngoài) của ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số: đó là đôi mắt, làn môi,

nƣớc da, khuôn mặt, mái tóc, cánh tay...

- Đôi mắt em ấm nóng nhƣ một hàng rào những con kiến lửa

(Kiến lửa - Bùi Thị Tuyết Mai)

Váy em buộc thắt đáy lƣng ong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngực em căng hai bầu sữa ngọt

95

Tóc em chảy xuống nhƣ một dòng suối

Mắt em tỏa ánh sao mơ

Hai má em nhƣ hai quả đào chín

Hai môi em nhƣ hai miếng thịt nƣớng

Thân hình em trông nhƣ một bó củi chắc nịch

Da thịt em hừng hực nhƣ lửa

(Con gái bản Tông - Lò Ngân Sủn)

-Đôi mắt ƣớt nhƣ mỡ nóng trong chảo

Đôi mắt ngọt nhƣ mật ong rừng

Đôi mắt giòn nhƣ mía mòi ấy

(Yêu - Lò Ngân Sủn)

...

Thông qua hình ảnh so sánh, chúng ta thấy rất rõ, rất cụ thể và rất sinh

động vẻ đẹp cơ thể khỏe mạnh, đầy sức sống, đầy khả năng làm vợ, làm mẹ

và đầy hấp dẫn của ngƣời con gái miền núi với các chi tiết gợi cảm và cũng

thật hình ảnh. Tất cả càng diễn tả rõ nét vẻ đẹp riêng của ngƣời thiếu nữ miền

núi: xinh đẹp, khỏe khoắn, đáng yêu, hấp dẫn và gợi cảm:

-Đôi núm vú nhƣ cơ pái nở

Nhƣ cánh chim a rin nhấp nhô buổi sáng

(Yêu em - Lò Ngân Sủn)

-Lũ con gái ngực nhƣ qủa núi

(Bụng ta đỏ lửa - Sầm Nga Di)

- Ngực em căng nhƣ một cánh rừng đầy

(Em là con gái Sơn La - Dƣơng Thuấn)

- Ngực em nhƣ bầu rƣợu trắng ngần

(Hơi thở nhẹ - Bùi Thị Tuyết Mai)

- Da thịt ngƣời yêu nhƣ than lửa bỏng tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Ca dao mùa đông - Dƣơng Thuấn)

96

- Da thịt em hừng hực nhƣ lửa

Ngực em căng hai bầu sữa ngọt

Thân hình em trông nhƣ một bó củi chắc nịch

(Con gái bản Tông - Lò Ngân Sủn)

- Da thịt em mịn màng làn mây trắng

Khuôn ngực em căng phồng hai trái núi mùa xuân

- Đôi tay em nhƣ hai tấm cơm lam

Đôi chân em nhƣ hai cái bắp chuối

Đôi má em nhƣ hai quả đào chín

-Con gái ở đây đẹp nhƣ thân cây chuối rừng bóc vỏ

(Tây Bắc - Lò Ngân Sủn)

...

Vẻ đẹp của ngƣời con gái miền núi đƣợc so sánh nhƣ “thân cây chuối

rừng bóc vỏ”, khuân ngực căng, đôi núm vú nhƣ “cơ pái nở”, “cánh chim a

rin nhấp nhô buổi sáng”, da thịt “nhƣ than lửa bỏng tay”...Không chỉ đẹp ở

hình thể mà ngƣời con gái đẹp còn phải là ngƣời có sức khoẻ, thật cụ thể mà

cũng thật gợi hình, gợi cảm về một vẻ đẹp xinh tƣơi, tràn đầy sức sống. Cách

nói, cách so sánh ví von, quan niệm về vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ dân tộc phải

là ngƣời khoẻ mạnh, đầy sức sống, đầy khả năng làm mẹ, làm vợ. một vẻ đẹp

tự nhiên – nhƣ thiên nhiên vốn có - nồng nàn, dữ dội và mãnh liệt. Các từ ngữ

đƣợc sử dụng nhƣ “bắp chuối”. “hai quả đào chín”, “hai miếng thịt nƣớng”,

“nhƣ một bó củi chắc nịch”, “nhƣ lửa”, “căng hai bầu sữa ngọt”.. đầy tính

tạo hình, biểu cảm để diễn tả nổi bật đầy sức sống, đầy sự hấp dẫn của ngƣời

phụ nữ dân tộc một cách độc đáo, đặc sắc.

Hiệu quả của biện pháp so sánh còn đƣợc tăng lên khi các nhà thơ miền

núi sử dụng kết hợp so sánh với biện pháp tu từ điệp ngữ và liệt kê. Họ đã sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dụng nhiều và đan xen lẫn nhau ba phép tu từ này để thể hiện dụng ý nghệ

97

thuật trong những câu thơ của mình. Các bài thơ có sự kết hợp này thƣờng

nhằm mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng ý đồng thời gợi ra những cảm xúc

riêng trong lòng ngƣời đọc. Ta gặp các từ đƣợc điệp nhƣ: “em nhƣ” (36/ 164

lần); Các cấu trúc đƣợc điệp nhƣ: cấu trúc “Em nhƣ...làm anh..”, “Em

nhƣ...để cho anh...”, “em nhƣ...anh vừa trông thấy”..., “Hoa...giống ...em”;

“Gái non...trông nhƣ”...:

Gái non

Trông nhƣ ngô non

Trông nhƣ măng non

Trông nhƣ trăng non

(Gái non - Lò Ngân Sủn)

Con gái vùng cao

Nhƣ sao trên trời

Nhƣ đào trên cây

(Con gái vùng cao - Lò Ngân Sủn)

Hoa đào đỏ giống má của em

Hoa lê trắng giống da của em

Hoa bjóoc mạ thơm giống tóc của em

(Tháng nào hoa cũng giống em - Dƣơng Thuấn)

Em nhƣ khe suối bên rừng

Anh vừa trông thấy muốn dừng uống ngay

Em nhƣ đào mận trên cây

Anh vừa trông thấy muốn tay vịn cành

Em nhƣ một cánh rừng xanh

Anh vừa trông thấy mát êm dịu lòng

(Xứ tình yêu- Lò Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

...

98

Các nhà thơ miền núi đã sử dụng một cách triệt để biện pháp tu từ so

sánh để khắc họa vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ miền núi - một vẻ đẹp nguyên sơ,

nõn nà, ngọt ngào nhƣ mơ nhƣ thực, gần gũi đấy lại xa xôi đấy; một vẻ đẹp

khó có thể diển tả hết, khó có thể nắm bắt đƣợc nếu chỉ sử dụng một đối

tƣợng đƣợc đƣa ra làm chuẩn để so sánh.

Tất cả những gì liên quan tới con ngƣời, tồn tại xung quanh con ngƣời

hay chỉ tồn tại trong ý nghĩ của những con ngƣời miền núi đều có thể làm vật

chuẩn trong phép so sánh của các nhà thơ dân tộc. Có thể chỉ là thiên nhiên,

sản vật núi rừng nhƣ: “mật ong rừng”, “bắp chuối rừng”, “ống nếp lam”,

“thịt nƣớng”, “quả đào”, “hoa ban”, cây sậy”, “chum rƣợu”, “bánh trƣng”,

“ thịt trâu sấy”, “thịt bò non”, “ngô non”, “măng non”...; có thể là những đồ

vật rất đỗi bình thƣờng nhƣ: “con dao phay”, “cái cƣa”, “tấm bia‟, “thùng

gỗ”, ”bó củi”, ” cái bấc ngọn đèn” ...; có thể là những âm thanh nhƣ “làn

điệu khắp”, “tiếng pí lè”, “tiếng chiêng ngân”, “tiếng chim hót”...; có thể là

thiên nhiên kỳ vĩ , tƣơi đẹp nhƣ: “sao trên trời”, “vầng trăng non”, ”trăng

rằm tỏa rạng”, ”áng mây trời”, “cánh rừng xanh”, “hoa nở mùa xuân”,

“ngọn gió”...; có thể xa xôi, trừu tƣợng đến mức không thể nắm bắt đƣợc

nhƣ: “ phép thần tiên”, “cổ tích xa xôi”, ”nắng đợi trong cây”, ”cơn mƣa

dịu dàng”...hay quý giá nhƣ một “kho báu trong nhà”. Điều thú vị là những

vật chuẩn này có giá trị gợi hình rất cao bởi nó đã tác động trực tiếp đến cảm

xúc và cả cảm giác của con ngƣời – con ngƣời có thể cảm nhận đƣợc cái đẹp,

cái ngon, cái gần gũi, cái kỳ vĩ, cái du dƣơng, cái quý giá... của đối tƣợng

đƣợc so sánh - ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Đặc biệt là các chàng trai,

chính họ là ngƣời chiêm ngƣỡng, cảm nhận vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ miền núi

để rồi mong nhớ, xốn xang trong sự đắm say đến ngất ngây và khát thèm:

- Em nhƣ chum rƣợu ắp đầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Để cho anh uống anh say suốt đời

99

- Em nhƣ con đƣờng dốc

Làm lòng anh rối bời

- Em nhƣ tấm mía trong vƣờn

Để anh ngấu nghiến trong cơn khát thèm...

(Em nhƣ - Lò Ngân Sủn)

Những ngƣời phụ nữ ấy, họ không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà còn đẹp ở

trong thế giới tâm hồn của họ. Miêu tả thế giới nội tâm của ngƣời phụ nữ

bằng ngôn ngữ tạo hình qua phép tu từ so sánh là một thành công của các nhà

thơ ngƣời dân tộc thiểu số.

Các nhà thơ đã viết về sự trẻ trung, yêu đời, yêu cuộc sống của những

ngƣời phụ nữ miền núi qua việc sử dụng phép tu từ so sánh: Các cô gái hiện

lên vô cùng sống động nhƣ đang hiện hữu trƣớc mắt ngƣời đọc:

- Em múa hay em nhảy

Em đi hay em bay

Mà nhƣ mây nhƣ gió

(Áp sa ra - Lò Ngân Sủn)

- Con gái nói nhƣ chim hót

Rót vào tai, vào mắt, vào tim lũ con trai

(Nơi mặt trăng mặt trời gặp nhau - Lò Ngân Sủn)

Có thể nói, tình yêu lứa đôi là mảng đề tài không bao giờ vơi cạn, là

nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật của mọi thời đại. Sống trong

những trạng thái, cung bậc của tình yêu và viết về tình yêu không bao giờ có

giới hạn của lứa tuổi, giới tính hay dân tộc...Trong trải nghiệm yêu đƣơng,

con ngƣời thƣờng hay tìm tới thơ ca, mƣợn thứ ngôn ngữ cô đọng của nó để

lƣu giữ các trạng thái, các cung bậc tình cảm mà mình đã trải qua trong tình

yêu. Trong thời kỳ hiện đại và nhất là ở giai đoạn sau 1975 trở lại đây, mảng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ tình ngày càng phát triển - điều đó cũng không là ngoại lệ với văn học các

100

dân tộc thiểu số. Trong dòng chảy của văn chƣơng hiện đại, các nhà thơ dân

tộc thiểu số viết nhiều hơn về tình yêu - đặc biệt là tình yêu của ngƣời phụ nữ.

Ta có thể thấy, giờ đây các nhà thơ - nhất là các nhà thơ nữ ngƣời dân tộc đã

trang trải lòng mình nhiều hơn trên những trang thơ và vì vậy ta có thể bắt

gặp nhiều hơn thế giới tâm hồn của ngƣời phụ nữ dân tộc trong thơ của Bùi

Thị Tuyết Mai, Dƣ Thị Hoàn, Nông Thị Tô Hƣờng, Nông Thị Ngọc

Hòa...Mảng thơ viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ cũng chiếm khối lƣợng khá

lớn trong thơ của các nhà thơ nhƣ: Y Phƣơng, Dƣơng Thuấn, Mai Liễu, Lò

Ngân Sủn...Bởi tình yêu thì muôn đời vẫn vậy, khát vọng về tình yêu thì

muôn đời vẫn thế chỉ có cách thể hiện, cách biểu đạt của ngƣời miền núi là có

phần khác với ngƣời miền xuôi mà thôi. Viết về tình yêu, không thể không

nói đến nỗi nhớ vì yêu và nhớ chính là hai mặt của tình yêu, yêu càng say

đắm thì nhớ càng thiết tha. Tình yêu của ngƣời phụ nữ miền xuôi cũng tuân

theo quy luật tình yêu ấy:

Tôi đi giữa bao mùa lá non

Sững sờ bao dáng lá

Nhớ ai

Tôi gửi nụ hôn lên trời

(Nhƣ lá - Lâm Thị Mỹ Dạ)

Một ngày xa anh

Bằng một năm thƣơng nhớ

(Châm nỗi nhớ - Đoàn Thị Lam Luyến)

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Sóng - Xuân Quỳnh)

101

Nỗi nhớ có thể chỉ là một thoáng sững sờ khi đi dƣới vòm cây xanh lá

nơi xƣa hò hẹn, một hình ảnh gửi nụ hôn lên trời trong thơ của Lâm Thị Mỹ

Dạ; có thể cùng cách đo nỗi nhớ đặc biệt: tình thƣơng nỗi nhớ em dành cho

anh trong một ngày xa cách bằng tất cả tình cảm thƣơng nhớ của một năm

dồn lại ; có thể nỗi nhớ lại đƣợc gắn với khái niệm thời gian vô tận và không

gian vô cùng. Với thời gian, nỗi nhớ không có ngày đêm. Với không gian, nó

chẳng có nhiều phƣơng hƣớng.

Điểm khác biệt lớn nhất trong thơ của ngƣời miền núi có lẽ là tất cả

những gì họ cảm nhận và biểu hiện đều gắn bó với thiên nhiên, cuộc sống,

sinh hoạt của những con ngƣời ở miền núi.

Viết về nỗi nhớ của ngƣời phụ nữ miền núi, các nhà thơ dân tộc thiểu

số thƣờng so sánh nỗi nhớ ấy với các sự vật rất quen thuộc, mang hơi thở

cuộc sống, lao động hàng ngày của những ngƣời dân nơi đây. Ví dụ nhƣ:

Mùa em

Mùa thiếu nữ

Lần đầu biết nhớ

Vì em nhƣ cái ớp pu quanh năm ôm lƣng mẹ

(Mùa em - Bùi Thị Tuyết Mai)

Với những ngƣời phụ nữ dân tộc, tình yêu gắn với sự quấn quýt, say

đắm và ngất ngây, có chút gì đó hoang dã, tự nhiên của núi rừng:

- Cho anh say em nhƣ say rƣợu

- Cho anh dính em nhƣ khảu tan

(Về Mƣờng - Bùi Thị Tuyết Mai)

- Các cô gái

Nhƣ những tấm bia

Tẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tình yêu

102

Đón

Đỡ

Vồ vập

(Tình yêu - Lò Ngân Sủn)

- Tuổi ba mƣơi

Thèm trẻ ra đƣờng

Yêu mỏi mệt

Yêu nồng nàn nhƣ lửa

(Nón mùa thu - Y Phƣơng)

Tình yêu cũng có lúc đƣợc thổi bùng lên thành khát vọng. Khát vọng

yêu “nồng nàn nhƣ lửa” nhƣng vẫn khiêm nhƣờng, giản dị và đầy nữ tính:

Tôi muốn Ngƣời nâng lên

Dịu dàng nhƣ mẹ

Hơi ấm đàn ông từng trải

Xoa dịu trái tim này

(Về ngƣời đàn ông trẻ tuổi – Bùi Thị Tuyết Mai)

Có lúc là sự bộc bạch, trang trải nỗi lòng của những ngƣời phụ nữ luôn

sống với một tâm hồn đẹp đẽ, một sức sống mãnh liệt, mà dù cuộc sống có

khó khăn, khắc nghiệt đến bao nhiêu đi chăng nữa thì tình yêu ấy vẫn tồn tại

vô cùng bền bỉ:

Em yêu anh nhƣ là cây sậy

Mùa nƣớc cạn bò lên bãi cát

Mùa nƣớc to nối mọc ngang bờ

Dù nắng cháy cũng không chết

Dù nƣớc to cuốn mãi chẳng rời đi

(Bên ngòi Thia - Dƣơng Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Các nhà thơ dân tộc thiểu số còn dùng hình ảnh các con vật thân thuộc

103

ở miền núi nhƣ: con trâu, con ngựa, con sóc, con chim rừng, con hổ báo, con

cá, con nai nhỏ, con ong...để so sánh với hành động, phẩm chất của ngƣời phụ

nữ khiến họ hiện lên một cách cụ thể, sinh động và tạo giá trị thẩm mỹ cao:

- Ta nhƣ con chim bay cao, con cá bơi sâu

Mạnh nhƣ hổ báo

(Bài hát nhỏ - Bùi Thị Tuyết Mai)

- Em yêu anh nhƣ chim xanh yêu tổ

(Bình minh Si Ma Cai - Pờ Sảo Mìn)

- Cháu của bà còn bé kin kin

Chạy trốn nhanh nhƣ sóc

(Con ốc của bà - Y Phƣơng)

- Nhớ vòng quay cọn nƣớc

Vì em nhƣ con nai nhỏ hay ra bờ suối...

(Mùa em - Bùi Thị Tuyết Mai)

...

Nhiều bài thơ, câu thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số đã sử dụng

những hình ảnh so sánh để khái quát về cuộc đời còn nhiều khổ đau, vất vả

của ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Nhà thơ Triệu Kim Văn viết mƣợn hình

ảnh lá cây rừng để nói về sự vất vả, hy sinh không thể đo đếm đƣợc của

ngƣời mẹ dân tộc Dao:

Đời mẹ khổ buồn nhƣ lá cây rừng

(Con của núi - Triệu Kim Văn)

Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai thì tổng kết cuộc đời của những ngƣời phụ

nữ dân tộc thiểu số âm thầm chăm lo xây dựng, vun vén cho tổ ấm hạnh phúc

gia đình mình bằng hình ảnh con ong chăm chỉ:

Những ngƣời đàn bà lầm lụi xây tổ(...)

Những ngƣời đàn bà nhƣ những con ong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Những ngƣời đàn bà - Bùi Thị Tuyết Mai)

104

Nhà thơ Dƣơng Thuấn vẫn còn thấy ở đâu đó trên những vùng đất của

tổ quốc thân phận mong manh, phụ thuộc của những ngƣời phụ nữ dân tộc:

Đàn bà giống nhƣ hạt gắm trôi suối lũ

Dạt vào nơi sỏi cằm sẽ héo khô mục rữa

Dạt vào bãi bồi nẩy mọc đơm hoa

(Nhà có bốn ngƣời đàn bà - Dƣơng Thuấn)

Những cách nói, cách so sánh ví von nhƣ trên đã thể hiện những đặc

điểm trong lối sống, trong tƣ duy, trong cách diễn đạt và quan niệm của ngƣời

miền núi. Trƣớc hết, cuộc sống của những con ngƣời miền núi luôn gắn bó

chặt chẽ với thiên nhiên núi rừng nên họ đã lấy thiên nhiên làm chuẩn mực

cho vẻ đẹp của con ngƣời. Những hình ảnh thiên nhiên còn chồng chất, trùng

điệp, kéo dài nhƣ vô tận tạo ra sự bề bộn thông tin, thể hiện sự đa dạng, phong

phú, phức tạp của cuộc sống. Hơn nữa, ngƣời miền núi sống rất giản dị, chân

thành và mộc mạc nên tuy lối nói rất hình ảnh nhƣng đó không phải là những

hình ảnh đƣợc gọt rũa một cách trang trọng mà rất tự nhiên, mộc mạc nhƣ nó

vốn tồn tại vậy. Do vậy, biện pháp tu từ so sánh đã giúp các tác giả thành

công trong việc biểu thị thái độ, tình cảm trƣớc cuộc sống, đặc biệt là với

những ngƣời phụ nữ miền núi.

Không chỉ sử dụng biện pháp tu từ so sánh để khắc họa vẻ đẹp khỏe

mạnh, tự nhiên rực rỡ; tâm hồn đẹp đẽ, sức sống mãnh liệt của ngƣời con gái

dân tộc thiểu số, các nhà thơ miền núi còn sử dụng biện pháp nghệ thuật này

viết về hình ảnh những bà mẹ dân tộc vất vả, hy sinh cả cuộc đời cho gia đình

và ngƣời thân yêu của mình. Nghĩ về mẹ, viết về mẹ, nỗi niềm ám ảnh và in

đậm trong tâm trí các nhà thơ là dáng hình mẹ gày gò, bé nhỏ, yếu ớt mà cả

cuộc đời lao động vất vả hy sinh cho gia đình; là tình yêu thƣơng đầy ắp và

cao cả của mẹ khi đã chăm sóc và nuôi dƣỡng các con trƣởng thành. Hình ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời mẹ, ngƣời bà miền núi với tấm lƣng còng rất quen thuộc với ngƣời dân

105

miền núi và chính các nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh so sánh giàu tính

tạo hình để khắc họa lại những hình ảnh gần gụi ấy. Nhà thơ Y Phƣơng viết:

- Mẹ còng lƣng nhƣ lúa

(Chín tháng - Y Phƣơng)

- Bà lê tấm thân ra tận cửa

Giơ cả hai tay ra đón cháu

Trông nhƣ cọng lá gianh

(Con ốc của bà - Y Phƣơng)

Hình ảnh “cây lúa”, “lá gianh” thật khiến ngƣời ta liên tƣởng tới hình

ảnh những bà mẹ với tấm lƣng còng xuống vì cả cuộc đời mẹ là sự hy sinh hết

thảy cho con cháu mà không một chút đòi hỏi sự đền đáp nào cả. Mẹ nhƣ cây

lúa, lá gianh cứ uốn cong rạp xuống mặt đất để che chở, vỗ về cho những đứa

con với một sức lực bền bỉ và dẻo dai.

Nhà thơ Y Phƣơng có lúc không cần nhắc tới tấm lƣng còng của mẹ mà

sử dụng hình ảnh so sánh có sức gợi hình lớn lao để diễn tả đƣợc hoàn chỉnh

và ấn tƣợng về một ngƣời mẹ với tấm lƣng còng và dáng hình nhỏ bé đến tội

nghiệp nhƣ con sâu, cái kiến:

Mẹ tôi

Tám mƣơi tuổi

Vừa đi vừa ôm ngực

Toàn thân cúi gập

Nhƣ con sâu đo

(Chín tháng - Y Phƣơng)

Cũng nói về dáng hình mẹ, nhà thơ Y Phƣơng đã sử dụng một hình ảnh

có sức gợi hình cao về những ngƣời phụ nữ mà cuộc đời gắn bó với cái khung

cửi. Họ hàng ngày, hàng giờ tạo ra những bộ trang phục truyền thống cho cả

gia đình để rồi sự sống của những ngƣời thân yêu và bản sắc văn hóa của cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc đƣợc vun trồng bền vững:

106

Ngƣời đàn bà vun trồng

Toàn thân cúi xuống nhƣ khung cửi

(Vun trồng - Y Phƣơng)

Nhà thơ Mai Liễu cũng hay sử dụng các từ, cụm từ so sánh, ví von làm

nổi bật lên, sinh động hơn những hình ảnh về một ngƣời mẹ miền núi vất vả,

nghèo khó nhƣng chứa chan tình cảm vì cả cuộc đời mẹ đã chắt chiu, dành

toàn bộ sức lực của mình cho con:

-Mẹ còm cõi nhƣ quê nghèo ven núi,

(Gọi vía - Mai Liễu)

- Mẹ cha cứ khô dần nhƣ củi

(Nỗi nhớ nhà sàn - Mai Liễu)

- Mẹ nhƣ cây ngô cuối mùa rũ xuống

Những bắp ngô phun râu trắng dần đen

Mái tóc mẹ tóc đen dần trắng

(Mùa màng của mẹ - Mai Liễu)

Giống nhƣ mọi ngƣời mẹ khát, tất cả niềm vui, nỗi buồn, sự quan tâm,

lo lắng lớn nhất của ngƣời mẹ dân tộc miền núi đều hƣớng về những ngƣời

con, ngƣời cháu của mình. Họ đã dành trọn vẹn cả tình cảm lớn lao của mình

cho con cháu. Nhà thơ Y Phƣơng đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh kết hợp

với hình thức câu hỏi tu từ để nói về điều này:

Không biết những bà mẹ khác

Có yêu con nhƣ mẹ không

Có thƣơng ngƣời nhƣ mẹ không

Có thèm cháu nhƣ mẹ không

(Chín tháng - Y Phƣơng)

Khi con còn nhỏ tình mẹ đƣợc gửi vào vòng tay nâng niu và những lời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ru tha thiết của mẹ. Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai so sánh:

107

Mẹ ầu ơ...Cái giọt sƣơng treo nắng

Ru con êm hơn cơn mƣa dịu dàng

(Ru con - Bùi Thị Tuyết Mai)

Tình mẹ cao cả ấy lại đƣợc nhà thơ Mai Liễu so sánh với nguồn suối

trong trẻo, mát lành và không bao giờ vơi cạn cho những đứa con tha hồ ngụp

lặn trong những trƣa hè oi ả của cuộc đời:

Tình mẹ vẫn đầy nhƣ nguồn ấy

Thỏa thuê ta vục buổi hè oi

(Mƣa chiều - Mai Liễu)

Ngƣời Mẹ ấy đã yêu thƣơng, chăm sóc con theo cách riêng của mình

với mong muốn một điều duy nhất: con mình lớn lên rồi trở thành một con

ngƣời sống có tình, có nghĩa dù có thể đứa con ấy sẽ rời xa vòng tay yêu

thƣơng của mẹ, dù mẹ có phải lui cui, run rẩy một mình nơi vùng đất quê

hƣơng :

Mế yêu con bằng trời

Nhƣng không giữ

Mế thả con mình theo nƣớc về xuôi

(Ngƣời vùng cao - Y Phƣơng)

Các nhà thơ ngƣời dân tộc còn biết tiếp thu văn hóa của các dân tộc

khác cùng chính yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc mình để sáng tạo

nên những hình ảnh so sánh có giá trị biểu cảm cao:

Con ơi !

Mẹ yêu con nhƣ nắng

Nắng chẳng bao giờ buồn

Con yêu mẹ nhƣ mƣa

Mƣa một ngày đã nhạt

Mƣa cả tháng thì sao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

( Lời mẹ - Y Phƣơng)

108

Những hình ảnh so sánh trong bài thơ “Lời mẹ” có lẽ đƣợc bắt nguồn

từ ý nghĩa câu tục ngữ của ngƣời Tày: “Bố mẹ thƣơng yêu con luôn chất nặng

trong lòng, con thƣơng yêu mẹ khi khuất là thôi” và cả câu tục ngữ của ngƣời

Kinh: “Cha mẹ thƣơng con bằng trời bằng bể, con thƣơng cha mẹ con kể

từng ngày” hay “ Nƣớc mắt chảy xuôi”... Bài thơ tuy ngắn, hình ảnh so sánh

trong thơ tuy thật giản dị nhƣng đã để lại cho ngƣời đọc bao suy nghĩ, bao nỗi

niềm về tình yêu thƣơng vô bờ bến của mẹ đã dành cho những đứa con của

mình - mà những đứa con ấy có khi đã trƣởng thành, có khi mẹ đã khuất núi

mới xót xa nhận ra những điều ấy.

Trong các bài thơ viết về mẹ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, bao giờ

ngƣời mẹ cũng là điểm tựa, là chốn bình yên - để con nƣơng náu và tìm về khi

con gặp những va vấp, ƣu phiền trong cuộc đời mình. Vì vậy, mẹ đã luôn

động viên mình để không bao giờ tan chảy trƣớc những nỗi đau khổ mất mát:

Con ơi

Mẹ gắng sức

Đừng nhƣ sáp ong

Đừng nhƣ chì nƣớng

Mẹ nhủ lòng phải vững

(Chín tháng - Y Phƣơng)

Khi những đứa con dứt ruột của mình đã hy sinh cho quê hƣơng, đất

nƣớc, mẹ đau đớn đến héo hon: “Mẹ nhƣ cây ngô cuối mùa rũ xuống”. Nhƣng

mẹ vẫn giấu những giọt buồn vào trong tim và âm thầm gây dựng cuộc sống

mới:“Gieo tiếp mùa/ Thầm lặng / Cây lên”( Mùa màng của mẹ - Mai Liễu).

Cuộc đời mẹ đã thành biểu tƣợng của núi rừng, của quê hƣơng, của Tổ

quốc - biểu tƣợng của đức hy sinh, của lòng dũng cảm, của ý chí bất khuất

không bao giờ gục ngã trƣớc mọi gian lao, bão tố của cuộc đời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Qua những bài thơ, câu thơ và đặc biệt là những hình ảnh so sánh mà

109

các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã viết, ta thấy: những ngƣời mẹ dân tộc

thiểu số suốt đời chịu thƣơng, chịu khó, lam lũ, vất vả, hy sinh hết mình đến

những năm tháng cuối cùng cho con cháu mà không hề oán trách, đòi hỏi bất

kỳ một điều gì từ những ngƣời thân yêu của mình. Tình mẹ không có giới

hạn, bến bờ nào cả. Những ngƣời mẹ miền núi vốn rất chân thật, ít nói, chỉ

lặng thầm nhƣ những dòng suối quanh năm chảy mải miết từ đầu nguồn

xuống những ruộng lúa, nƣơng ngô để làm nên những mùa lúa, vụ ngô xanh

tốt. Chính điều đó đã khiến cho các nhà thơ khi xa quê, khi tách biệt hẳn với

không gian địa lý miền núi cao xa thăm thẳm kia mới càng cảm thấy, càng

thấm thía hơn nỗi thƣơng nhớ, nỗi xót xa, tiếc nuối và pha chút ân hận khi

nghĩ về ngƣời mẹ miền núi nhiều vất vả, hy sinh của mình. Cả cuộc đời mẹ đã

âm thầm, vất vả, đã hy sinh tất cả - mà những đứa con - dù đã trƣởng thành

nhƣng vẫn chƣa một ngày đền đáp đƣợc công ơn của mẹ. Họ đã xa quê hƣơng,

xa ngƣời mẹ thân yêu đã đi biền biệt cùng năm tháng để “mải mê sống, mải mê

vui chơi, mải mê làm lụng” và họ có “ngờ đâu lại có lúc vô tình” (Lời mẹ -

Mai Liễu). Nhƣng mẹ vẫn không một lời trách móc, mà vẫn lặng thầm, nhẫn

nại, bao dung trƣớc sự vô tâm ấy của các con mình. Hình tƣợng ngƣời mẹ dân

tộc thiểu số trở nên cao quý và đáng kính trọng biết bao khi những ngƣời mẹ

giản dị và đời thƣờng ấy đã để lại tình yêu thƣơng, nỗi nhớ nhung và lòng biết

ơn sâu sắc - dù muộn màng từ những đứa con của mình.

Nghĩ và viết về cuộc đời của những bà mẹ ngƣời dân tộc thiểu số, các

nhà thơ miền núi đã sử dụng các hình ảnh so sánh chân thực, sinh động và gợi

nhiều xúc cảm của ngƣời đọc. Điều đó một phần là do các hình ảnh, từ ngữ so

sánh đƣợc kết hợp với một giọng điệu da diết, đầy hoài niệm, đầy xót xa, tiếc

nuối: “Mẹ còm cõi nhƣ quê nghèo ven núi/ Sớm tối ra vào góc bếp lui cui”

(Gọi vía - Mai Liễu); “: “ Trên gƣơng mặt mẹ bốn bề nếp nhăn / Lƣng còng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

uấn tựa vành trăng/ Mắt mờ mẹ lẫn giữa đêm với ngày” (Đời mẹ - Lò Ngân

110

Sủn); “ Mẹ tôi/ Vừa đi vừa ôm ngực / Toàn thân cúi gập/ Nhƣ con sâu đo”

(Chín tháng - Y Phƣơng)...Phần lớn các tác giả ngƣời dân tộc thiểu số viết về

hình tƣợng ngƣời mẹ miền núi khi họ đã trƣởng thành, khi đã xa quê hƣơng

(nơi có ngƣời mẹ yêu dấu của họ). Nhƣng càng đi xa càng nhớ, càng trƣởng

thành càng thƣơng, càng gặp khó khăn thử thách càng đắng đót nhớ về mẹ

xƣa - mẹ nhƣ nguồn suối mát, nhƣ bến đậu bình yên cho cuộc đời của con.

Các nhà thơ dân tộc thiểu số viết về mẹ cũng nhƣ viết về quê hƣơng đất

nƣớc có thể bắt nguồn từ tình cảm rất cụ thể, rất riêng tƣ của bản thân nhƣng

trên chính cơ sở đó mà hình tƣợng ngƣời mẹ trong các bài thơ của họ đã mang

ý nghĩa điển hình cho biết bao ngƣời mẹ dân tộc thiểu số - những con ngƣời

nhỏ bé, bình dị luôn phải đối mặt với những gian khó, và phải vƣợt lên chính

mình để tồn tại nơi vùng núi cao đầy thử thách, nhƣng tâm hồn vẫn chan chứa

yêu thƣơng và giàu đức hy sinh. Họ là những ngƣời đã sinh ra những đứa con,

những thế hệ mới của các dân tộc thiểu số Việt Nam; họ đã góp phần bảo tồn

và gìn giữ những nét bản sắc văn hóa dân tộc; họ đã hiến dâng cả cuộc đời

mình và hiến dâng cả những đứa con thân yêu của mình cho Tổ quốc, cho quê

hƣơng, làng bản. Từ lòng biết ơn sâu sắc, từ trái tim thổn thức yêu thƣơng, từ

nỗi nhớ diết da và sự xót xa, đắng đót các nhà thơ miền núi đã nói hộ tiếng

lòng của những ngƣời con miền núi nói riêng và những ngƣời con nói chung

với ngƣời mẹ thân yêu của mình.

Ngôn ngữ trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và thơ

viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc nói riêng rất giàu chất tạo hình. Điều

đó góp phần làm cho ngôn ngữ thơ dân tộc thiểu số mộc mạc, dễ hiểu nhƣng

vẫn hay và đầy ám ảnh (Lò Ngân Sủn). Từ đặc điểm tâm lý của ngƣời miền

núi: chỉ nói những gì nhìn thấy, ít nói cái gì cảm thấy nên các nhà thơ dân tộc

thiểu số thƣờng sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tộc mình. Lối nói so sánh ví von một cách hình ảnh, trùng điệp và khá trực

111

quan cũng là một đặc điểm trong ngôn ngữ thơ của các nhà thơ dân tộc. Sự

lặp lại một hình ảnh, một kết cấu khiến cho diện mạo, nội tâm và hành động

của nhân vật trữ tình đƣợc hiện lên rõ rệt, ấn tƣợng, sinh động và biểu cảm

hơn. Tuy vậy, đây cũng chính là hạn chế trong ngôn ngữ thơ của các nhà thơ

dân tộc. Đôi lúc, các hình ảnh, từ ngữ đƣợc sử dụng còn dễ dãi, thiếu sự chọn

lọc cần thiết nên gây nên sự nhàm chán, sáo mòn và mang màu sắc tự nhiên

chủ nghĩa.

Bằng cách sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình một cách chính xác, cụ

thể, tỉ mỉ, giản dị, gần gũi và thân quen với ngƣời dân các dân tộc miền núi

phía Bắc, các nhà thơ miền núi đã cuốn hút ngƣời đọc vào bức chân dung

ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số. Đó là những cô gái dân tộc khỏe mạnh, hồn

nhiên, tràn đầy sức sống; những ngƣời vợ chịu thƣơng chịu khó, yêu thƣơng,

chăm sóc chồng con hết mực; đó là những bà mẹ cần cù, nhẫn nại, giàu đức

hy sinh. Việc sử dụng một cách sinh động và đầy sáng tạo ngôn ngữ tạo hình

khi viết về những con ngƣời miền núi đã khẳng định đƣợc tài năng sử dụng

ngôn ngữ của các nhà thơ ngƣời dân tộc góp phần khắc họa nên một vẻ đẹp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

độc đáo cho bức chân dung về ngƣời phụ nữ Việt Nam.

112

PHẦN KẾT LUẬN

Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền

núi trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (khu vực phía Bắc),

bƣớc đầu chúng tôi có một số nhận xét nhƣ sau:

1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số đã thực sự trở thành hình

tƣợng nghệ thuật trung tâm của nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam thời

kỳ hiện đại. Ngƣời phụ nữ miền núi với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên nhƣ những

bông hoa rừng; với những phẩm chất tốt đẹp, cao quý - đã trở thành nguồn cảm

hứng lớn, không bao giờ vơi cạn trong tâm hồn và trái tim của các nhà thơ

ngƣời dân tộc thiểu số. Và cũng chính hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt này đã

góp phần quan trọng làm nên nét đặc sắc, sự thành công cho các nhà thơ dân

tộc miền núi. Cũng qua cách khắc họa, cách thể hiện hình tƣợng nghệ thuật đặc

sắc này mà tƣ tƣởng nghệ thuật, cũng nhƣ phong cách nghệ thuật của các nhà

thơ dân tộc thiểu số đƣợc khẳng định một cách cụ thể và sinh động.

2. Thông qua việc xây dựng hình tƣợng nhân vật phụ nữ trong các tác

phẩm thơ dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại, chúng ta nhận thấy: Các nhà thơ

đã thể hiện đƣợc tình cảm mền yêu, say đắm và lòng biết ơn sâu sắc của mình

đối với những ngƣời phụ nữ - những ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời yêu dân tộc

thiểu số của mình. Đó là những ngƣời con gái khỏe mạnh, rực rỡ, hồn nhiên,

mãnh liệt - một vẻ đẹp đầy tính phồn thực. Đó là những ngƣời vợ chịu

thƣơng, chịu khó, yêu thƣơng hết mực, thủy chung hết lòng đối với chồng,

con. Đó là những ngƣời mẹ già miền núi cả một đời hy sinh cho gia đình, cho

con, cháu mà không bao giờ đòi hỏi một điều gì ở cháu con! Những ngƣời

phụ nữ miền núi ấy cũng chính là những ngƣời đã và đang gìn giữ, lƣu truyền

cho con cháu những nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc trong thời hiện đại.

Từ những bộ trang phục truyền thống đến lối ứng xử đậm chất văn hóa miền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

núi; từ tiếng hát ( sli, lƣợn, páo dung, hạn khuống...), điệu múa (múa xòe, múa

113

chuông..), đến những công việc hàng ngày nhƣ: xe lanh, dệt vải, thêu váy, áo,

lên nƣơng, đi chợ, nấu ăn...;từ cách chiều chồng, yêu chồng, thƣơng con, cách

làm dâu...đến những việc chuẩn bị chu đáo cho những ngày lễ, ngày hội của

làng, của bản...Có thể nói, ngoài vai trò của ngƣời vợ, ngƣời mẹ trong gia

đình, ngƣời phụ nữ miền núi còn là những ngƣời góp phần quan trọng vào

việc bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp của bản sắc quê hƣơng miền núi.

3. Về nghệ thuật thể hiện và khắc họa hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong

thơ ca các dân tộc thiểu số, chúng tôi thấy nổi bật lên một số đặc điểm nhƣ:

các nhà thơ dân tộc thiểu số đã rất chú ý đến cách sử dụng ngôn ngữ thơ giàu

tính tạo hình để miêu tả một cách cụ thể, sinh động hình tƣợng ngƣời phụ nữ

với những vẻ đẹp bên ngoài, cũng nhƣ vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm ở họ. Bên

cạnh việc sử dụng một cách hiệu quả, sáng tạo, mang đầy sắc màu miền núi

của hệ thống ngôn ngữ giàu tính tạo hình, các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng

rất thành công trong việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, hệ thống từ láy,

điệp từ, điệp ngữ...và các từ ngữ địa phƣơng, dân tộc miền núi. Chính việc sử

dụng một cách sinh động, sáng tạo và hiệu quả ngôn ngữ giàu tính tạo hình

trong thơ viết về ngƣời phụ nữ mà các nhà thơ ngƣời dân tộc đã thể hiện tính

sáng tạo, khả năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ bản địa phù hợp, hiệu

quả (cách nói, cách cảm, cách nghĩ của đồng bào miền núi); đồng thời thể hiện

đƣợc tƣ tƣởng nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà thơ - những con

ngƣời luôn trân trọng ngôn ngữ, cách tƣ duy, cách diễn đạt của ngƣời dân tộc

thiểu số - trân trọng, giữ gìn và phát huy những nét đẹp của bản sắc văn hóa tộc

ngƣời. Hơn nữa, việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình còn thể hiện ý thức tiếp thu

các yếu tố văn hóa, văn học, vốn ngôn ngữ tiếng Việt để góp phần hoàn chỉnh,

nâng cao khả năng diễn đạt của ngôn ngữ thơ dân tộc miền núi.

4. Có thể nói rằng: Các nhà thơ dân tộc thiểu số trong thời kỳ văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã thành công trong trong việc khắc

114

họa hình tƣợng con ngƣời miền núi nói chung và hình tƣợng ngƣời phụ nữ

miền núi nói riêng. Khắc hoạ hình tƣợng nhân vật này một cách chân thực,

sinh động với một thái độ vừa yêu thƣơng, trân trọng vừa ngợi ca và khẳng

định - các nhà thơ ngƣời dân tộc thiểu số đã thể hiện đƣợc một cách rõ nét vẻ

đẹp, ý nghĩa, vai trò, vị trí của ngƣời phụ nữ miền núi trong văn học thiểu số

Việt Nam hiện đại; đồng thời qua đó đã khẳng định tài năng và phong cách

nghệ thuật của chính mình. Với những bài thơ viết về hình tƣợng ngƣời phụ

nữ dân tộc thiểu số, các nhà thơ cũng đã có những đóng góp đáng kể vào việc

hoàn chỉnh vẻ đẹp của hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam trong đời sống văn

học nƣớc nhà - từ truyền thống đến hiện đại, góp phần tạo nên sự đa dạng,

phong phú cho diện mạo nền văn học của đất nƣớc, đồng thời góp phần quan

trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển mau chóng của nền văn học Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hiện đại.

115

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

Bùi Thu Trà - Trần Thị Việt Trung (2011), “Hình tƣợng ngƣời mẹ dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tộc thiểu số trong thơ Mai Liễu”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (200), tr. 48 - 52.

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Văn An (2008), Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân

tộc, Nxb Mỹ thuật, Tập 3 - Hƣơng rừng, H.

2. Vƣơng Anh (1983), Đến hẹn, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

3. Vƣơng Anh,(1996), Lá đắng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

4. Nguyễn Duy Bắc (1994), “Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà

thơ dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn học số 9/ 1994

5. Cầm Biêu (1984), Ánh hồng Điện Biên, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

6. Cầm Biêu (1991), Hạn khuống, Nxb Văn hóa dân tộc, H

7. Cầm Biêu (1994), Ngọn lửa không tắt, Nxb Văn hóa, H.

8. Nông Quốc Bình (2006), “Nhìn lại văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu

số”, Báo Nhân dân (Số 8)

9. Lò Văn Cậy (1986), Hạt muối hạt tình, Nxb Văn hóa, H

10. Nông Quốc Chấn (2000), Hành trang sang thế kỷ XXI, Nxb Văn hóa dân

tộc, H

11. Đỗ Kim Cuông (2006), “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số trong

quá trình đổi mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

12. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, H

13. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

thế kỷ XX, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

14. Bàn Tài Đoàn (2006), Tuyển tập thơ văn, Nxb Văn hóa dân tộc, H

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, H.

16. Minh Hiệu (1999), Tục ngữ dân ca Mƣờng Thanh Hóa, Nxb Văn hóa dân

tộc, H.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

17. Dƣ Thị Hoàn (1988), Lối nhỏ, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng, HP.

117

18. Thu Huyền (2008), “Thơ ca Tày hiện đại qua một số gƣơng mặt tiêu biểu”,

Tạp chí nghiên cứu văn học, Số 5/ 2008.

19. Thu Huyền (2011), “ Bùi Thị Tuyết Mai đến với phố phƣờng thi ca bằng vị

chanh non”, tttp:www, toquoc. gov.vn, cập nhật ngày 13/1/2011

20. Tố Hữu (2002), Tuyển tập thơ, Nxb Giáo dục, H

21. Cầm Bá Lai (2005), Hoa nắng, Nxb Giáo dục, H.

22. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phƣơng tiện và biện pháp tu từ, Nxb Giáo

dục,H.

23. Mai Liễu (1994), Suối làng, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

24. Mai Liễu (1995), Mây vẫn bay về núi, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

25. Mai Liễu (2001), Giấc mơ của núi, tập thơ, Nxb Văn học, H.

26. Mai Liễu (2004), Đầu nguồn mây trắng, thơ chọn, Nxb Hội nhà văn, H

27. Mai Liễu (2009), Bếp lửa nhà sàn, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

28. Mã A Lềnh (1995), Bên suối Nậm Mơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

29. Mã A Lềnh (2002), Mã A Lềnh thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

30. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca, ca dao, Nxb Văn hóa thể thao.

31. Bùi Huy Mai (2002), Dân tộc và bản sắc văn hóa vùng Văn Chấn - Mƣờng

Lò, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

32. Bùi Thị Tuyết Mai (1998), Mƣa trong nhà, thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

33. Bùi Thị Tuyết Mai (1999), Trầu đỏ môi ai, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

34. Bùi Thị Tuyết Mai (2003), Nơi cất rƣợu, thơ, Nxb Văn học, H.

35. Bùi Thị Tuyết Mai (2006) Mƣờng trong, Nxb Hội nhà văn, H.

36. Pờ Sảo Mìn (1992), Cây hai ngàn lá, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

37. Pờ Sảo Mìn (1993), Bài ca hoang dã, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

38. Pờ Sảo Mìn (2002), Cung đàn biên giới, tập thơ, Nxb Hội nhà văn,H.

39. Hoàng Nam (2004), Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam (giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trình đại học), Trƣờng Đại học văn hóa, H.

118

40. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, H.

41. Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam- Đời và văn ( 2003,2004), Nxb Văn

hóa dân tộc, H.

42. Hoàng Anh Nhân ( 1986), Tuyển tập truyện thơ Mƣờng, tập 2, Nxb Khoa

học xã hội, H.

43. Lƣơng Quy Nhân (1994), Độ dày tình yêu, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

44. Nhà xuất bản sự thật (1965), Văn hóa là gì, trích dịch trong bộ “Đại bách

khoa toàn thƣ của Liên Xô”

45. Nhiều tác giả (1978), Các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, H

46. Nhiều tác giả (1980), Rừng sáng, tập thơ, Nxb Văn hóa, H.

47. Nhiều tác giả (1996), Tình rừng, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc,H.

48. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ văn học, Nxb

Giáo dục, H.

49. Nhiều tác giả (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc, H.

50. Nhiều tác giả (1997), Từ điển biểu tƣợng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.

51. Nhiều tác giả (1998), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.

52. Nhiều tác giả (1999), Văn hóa các dân tộc - từ một diễn đàn, Hội văn học -

nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, H.

53. Lò Cao Nhum ( 1995), Giọt sao trở về, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

54. Lò Cao Nhum ( 1996), Rƣợu núi, Tập thơ,Nxb Văn hóa dân tộc,H.

55. Vũ Ngọc Phan (2000), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, H.

56. Y Phƣơng (1986), Tiếng hát tháng giêng, Sở văn hóa thông tin Cao Bằng.

57. Y Phƣơng (1996), Đàn then, Nxb Tác phẩm mới, H.

58. Y Phƣơng (2002), Thơ Y Phƣơng, tuyển thơ, Nxb Hội nhà văn, H

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

59. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb văn hóa dân tộc, H.

119

60. Lò Ngân Sủn (1992), Đám cƣới, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

61. Lò Ngân Sủn (1993), Đƣờng dốc, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

62. Lò Ngân Sủn (1995), Chợ tình, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

63. Lò Ngân Sủn (1997), Con của núi, thơ chọn - II, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

64. Lò Ngân Sủn (1998), Hoa văn thổ cẩm I, Nxb Văn hóa dân tộc, H

65. Lò Ngân Sủn (2002) Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số, tiểu

luận phê bình, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

66. Lò Ngân Sủn (2005), Bữa tình yêu, Nxb Hội nhà văn, H.

67. Lò Ngân Sủn (2003), Nơi mặt trăng mặt trời gặp nhau, tập thơ, Nxb Văn

hóa dân tộc, H.

68. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lƣu văn học, Nxb

Đại học quốc gia, H.

69. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H

70. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb

Văn hóa dân tộc, H.

71. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

72. Lâm Tiến ( 2002), Văn học và miền núi, phê bình - tiểu luận, Nxb Văn hóa

dân tộc, H.

73. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, phê bình tiểu luận,

Nxb Văn hóa - thông tin, H.

74. Tinh tuyển văn học Việt Nam (2003), tập 2 - quyển 2, Văn học các dân tộc

thiểu số, Nxb Khoa học xã hội, H

75. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trƣng văn hóa - dân tộc của ngôn

ngữ và tƣ duy ở ngƣời Việt (trong sự so sánh với dân tộc khác), Nxb Đại

học quốc gia, H.

76. Tuyển tập Thơ Mới 1932 - 1945- Tác giả và tác phẩm (1998), Nxb Hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhà văn, H

120

77. Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi (2007), tập 1 - thơ, Nxb Giáo dục, H.

78. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam.

79. Dƣơng Thuấn (1993), Đi tìm bóng núi, Nxb Văn học, H.

80. Dƣơng Thuấn (1995), Đi ngƣợc mặt trời, Nxb Văn học,H.

81. Dƣơng Thuấn (2001), Hát với sông Năng, Nxb Văn học,H.

82. Dƣơng Thuấn (2004), Đêm bên sông yên lặng, Nxb Hội nhà văn,H.

83. Dƣơng Thuấn (2010), Tuyển tập Dƣơng Thuấn, tập 2, Nxb Hội nhà văn, H

84. Bùi Thu Trà - Trần Thị Việt Trung (2011), “Hình tƣợng ngƣời mẹ dân tộc

thiểu số trong thơ Mai Liễu” Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, 200, tr.

48-52

85. Trần Thị Việt Trung (2005), “Hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt Nam trong thơ

ca dân tộc và trong thơ Thơ Mới trƣớc năm 1945”, Tạp chí khoa học và

công nghệ - Đại học Thái Nguyên - Số 13/2005.

86. Trần Thị Việt Trung (2008), Hình tƣợng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi

Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên, TN.

87. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên, TN.

88. Vƣơng Trung ( 1979), Sông Nậm Rốm, Nxb Văn hóa, H.

89. Vƣơng Trung (1967), Ing - Éng, truyện thơ, Nxb Văn học, H

90. Hoàng Quảng Uyên (2000), Một mình trong cõi thơ, tiểu luận chân dung

văn học, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

91. Triệu Kim Văn (1994), Mùa sa nhân, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

92. Triệu Kim Văn (1999), Lá tìm nhau, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

93. Triệu Kim Văn (2002), Con của núi, Nxb Văn hóa dân tộc, H

94. Triệu Kim Văn (2002), Lửa của mồ côi, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

95. Lò Vũ Vân (2000), Đi từ miền gió hoang, Nxb Văn hóa dân tộc, H.

121

PHẦN PHỤ LỤC

BẢNG THỐNG KÊ NHỮNG CÂU THƠ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH

TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ TIÊU BIỂU

1. Thơ Lò Ngân Sủn

1. Đôi mắt ƣớt nhƣ mỡ nóng trong chảo [114]

2. Đôi mắt ngọt nhƣ mật ong rừng [114]

3. Đôi mắt giòn nhƣ mía mòi ấy [114]

4. Ngƣời đẹp trông nhƣ tuyết

Chạm vào lại thấy nóng [117]

5. Ngƣời đẹp trông nhƣ lửa

Sờ vào lại thấy mát[117]

6. Ơi cô giáo vùng cao

Chân em đi nhƣ con dao mài đá [37]

7. Đàn bà trông thấy đàn ông

Nhƣ là dòng suối lũ [110]

8. Đàn bà trông đẹp nhƣ một bông hoa[110]

9. Hai bắp đùi em

Nhƣ hai bắp chuối rừng

Tƣng bừng bốc lửa[119]

10. Hai bắp tay em

Nhƣ hai ống nếp lam

Tròn căng mịn màng[119]

11. Hai làn môi em

Nhƣ hai miếng thịt nƣớng

Treo cửa miệng[119]

12. Cái lƣỡi của em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhƣ miếng giò luộc

122

Đính chặt trong cổ họng[119]

13. Hai mỏm ngực em

Nhƣ hai mỏm núi

Hứng đầy mƣa gió [119]

14. Hai má em

Nhƣ hai quả đào chín

Giòn tan mát rƣợi[119]

15. Con gái nhƣ chim rừng[56]

16. Già nhƣ voi đầu đàn[56]

17. Trẻ nhƣ hoa mùa xuân[56]

18. Em nhƣ cây ban

Mọc lên từ đất[75]

19. Em nhƣ bông ban

Nở trong mƣa nắng[75]

20. Đôi mắt em sáng ngời[75]

Đôi tay em nhƣ hai tấm cơm lam[75]

21. Đôi chân em nhƣ hai cái bắp chuối[75]

22. Đôi má em nhƣ hai quả đào chín[75]

23. Mặt tròn nhƣ trăng rằm[82]

24. Con gái đẹp nhƣ hoa[90]

25. Con gái vùng cao

Nhƣ sao trên trời

Nhƣ đào trên cây[112]

26. Mặt cô em nhƣ trăng sáng[118]

27. Dáng cô em nhƣ bông chàm[118]

28. Em nhƣ khe suối bên rừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Anh vừa trông thấy muốn dừng uống ngay[124]

123

29. Em nhƣ đào mận trên cây

Anh vừa trông thấy muốn tay vịn cành[124]

30. Em nhƣ một cánh rừng xanh

Anh vừa trông thấy mát êm dịu lòng[124]

31. Em nhƣ ngọn lửa mùa đông

Anh vừa trông thấy ƣớc mong lại gần[124]

32. Em nhƣ hoa nở mùa xuân

Anh vừa trông thấy âm thầm bén duyên[124]

33. Em nhƣ câu hát tháng giêng

Anh vừa trông thấy ngả nghiêng đất trời[124]

34. Em nhƣ cổ tích xa xôi

Anh vừa trông thấy nổi trôi sớm chiều[124]

35. Em nhƣ một cây nứa non teo tóp lại[127]

36. Mông em tròn mập nhƣ bắp chuối[132]

37. Tóc chảy xuống nhƣ một dòng suối[132]

38. Hai má em nhƣ hai quả đào chín[132]

39. Thân hình em nhƣ một bó củi chắc nịch[132]

40. Da thịt em hừng hực nhƣ lửa[133]

41. Vai em khỏe nhƣ vai con trâu[133]

42. Bụng em khỏe nhƣ lƣng con ngựa[133]

43. Con gái bản Tông

Đẹp nhƣ một vầng trăng non

Ngon nhƣ một tấm cơm lam[133]

44. Cởi áo ra

Em nhƣ một vầng trăng[139]

45. Mặc áo vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Em nhƣ một rừng hoa

124

Nhƣ một dòng suối trong

Làm mát anh mùa hạ

Nhƣ một cái chăn bông

Làm ấm anh mùa đông[139]

46. Em nhƣ tiếng pí lè

Anh nghe lòng xốn xang[139]

47. Em nhƣ làn điệu then

Anh nghe hồn tƣơi xanh[139]

48. Em nhƣ làn điệu khắp

Thắp ngọn lửa trong anh[139]

49. Em nhƣ chum rƣợu ngọt

Uống mãi không biết cạn[139]

50. Em nhƣ tấm cơm lam

Ăn mãi không biết hết[139]

51. Em nhƣ là ngày tết

Đẹp nhƣ cái bánh trƣng[139]

52.Em nhƣ con đƣờng dốc

Làm lòng anh rối bời ![ 139]

52. Em múa hay em nhảy

Em đi hay em bay

Mà nhƣ mây nhƣ gió [140]

53. Tình già

Nhƣ là thịt trâu sấy[141]

54. Tình trẻ

Nhƣ là thịt bò non[141]

55. Gái non

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trông nhƣ ngô non

125

Trông nhƣ măng non

Trông nhƣ trăng non [145]

56. Em nhƣ cái bấc ngọn đèn

Để anh khẽ chạm lửa bèn cháy luôn [58]

57. Em nhƣ tấm mía trong vƣờn

Để anh ngấu nghiến trong cơn khát thèm [58]

58. Em nhƣ là cái que kem

Để cho anh cắn mát êm dịu lòng [58]

59. Em nhƣ chum rƣợu ắp đầy

Để cho anh uống anh say suốt đời [ 58]

60. Em nhƣ sao tỏ giữa trời

Để cho anh ƣớc đầy vơi nỗi niềm [58]

61. Con gái ở đây đẹp nhƣ cây chuối rừng bóc vỏ [15]

62. Đôi núm vú nhƣ cơ pái nở, nhƣ cánh chim a rin nhấp nhô buổi sáng [15]

63. Con gái nhanh nhƣ chim rừng làm tổ

Mau nhƣ gió thổi qua thung [16]

64. Em nhƣ thể một vì sao

Cháy lên bao nỗi ƣớc ao vơi đầy [49]

65. Em nhƣ một con dao phay

Liếc ai một cái đã ngây cả ngƣời [49]

66. Em nhƣ một cái cƣa thôi

Kẽ đƣa một cái đến trời cũng lay [49]

67. Em nhƣ áng mây trời

Nổi sấm sét trong anh [72]

68. Em nhƣ mặt trời mọc

Bốc cháy ở trong anh[72]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69. Em nhƣ sóng nƣớc biển Đông

126

Độ sâu không đáy, rộng không bến bờ [72]

70. Em nhƣ nắng, gió, mây, mƣa

Để anh tha thiết mộng mơ cõi lòng[ 72]

71. Em nhƣ trời đất mênh mông

Để anh ôm mãi cũng không tới cùng [ 72]

72. Tiếng em nhƣ tiếng chiêng ngân bồng bềnh[46]

73. Con gái Nà Rin đẹp nhƣ đào mận chín cây[22]

74. Các cô gái

Nhƣ những tấm bia

Tẩm

Tình yêu

Đón

Đỡ

Vồ vập[36]

75. Ngƣời đàn bà rỗng nhƣ một cái thùng gỗ

Chứa đựng trong đó ngƣời đàn ông[64]

76. Đàn bà ngon nhƣ phở

Nuôi sống ƣớc mơ ngƣời đàn ông[65]

77. Đàn bà trông đẹp nhƣ một bông hoa [65]

78. Điệu páo dung(...)

Con gái đầu đỏ nhƣ mặt trời[40]

79. Con gái nhƣ mặt trăng[104]

80. Con gái nói nhƣ chim hót

Rót vào tai, vào mắt, vào tim lũ con trai [104]

81. Gái Mƣờng đẹp tựa trăng sa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dịu êm trời đất câu ca điệu xòe [86]

127

2. Thơ Dƣơng Thuấn.

82. Ánh trăng đêm sáng nhất trên trời cao

Đƣợc ví nhƣ khuân mặt tròn của em [4]

83. Hoa là thứ đẹp nhất ở dƣới mặt đất

Đƣợc ví nhƣ nụ cƣời rất xinh của em [4]

84. Hồn của em trong trắng tựa hoa lê [9]

85. Ôi sáng mai dậy là em tròn mƣời tám

Tuổi thơm nhƣ hƣơng cốm hƣơng rừng [9]

86. Mỗi lời nàng nhƣ một phép thần tiên [26]

87. Tôi có một tình yêu mới

Nhƣ suối róc rách

Nhƣ trăng êm đềm

Nhƣ đang trên thuyền

Sóng vỗ nhịp khôn nguôi [29]

88. Hoa đào đỏ giống má của em [37]

99. Hoa lê trắng giống da của em [37]

90. Hoa bjóoc mạ thơm giống tóc của em [37]

91. Tháng nào hoa cũng giống em [37]

92. Đôi mắt của em xinh

Tròn đen nhƣ hột nhãn [65]

93. Đôi má của em hồng

Thơm nhƣ mùa xuân đang đến [65]

94. Ngực em căng nhƣ một cánh rừng đầy [69]

95. Em trẻ trắng nhƣ màu hoa mác bát [70]

96. Da thịt ngƣời yêu nhƣ than lửa bỏng tay [82]

97. Tóc mãi mãi xanh nhƣ sắc suối rừng [86]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

98. Em nhƣ một kho báu trong nhà [93]

128

99. Em yêu anh nhƣ là cây sậy

Mùa nƣớc cạn bò lên bãi cát

Mùa nƣớc to nối mọc ngang bờ

Dù nắng cháy cũng không chết

Dù nƣớc to cuốn mãi chẳng rời đi [94]

100. Em đẹp nhƣ trăng rằm tỏa rạng [108]

101. Đàn bà

Nhƣ bờ mƣơng

Lúa gặt rồi rậm cỏ [120]

102. Cô lặng lẽ ngồi dệt bên khung cửi

Soi mặt tròn xuống nƣớc nhƣ hoa [137]

103. Đàn bà giống nhƣ hạt gắm trôi suối lũ

Dạt vào nơi sỏi cằn sẽ héo khô mục rữa

Dạt vào bãi bồi nẩy mọc đơm hoa [166]

104. Một cô con gái

Xinh tựa bông hoa mai [179]

105. Em hãy ngủ nhƣ trăng sao ngủ

106. Em là con gái Sơn La

Tóc em xanh nhƣ sông Mã ấy

3. Thơ Y Phƣơng

107. Mẹ yêu con nhƣ nắng [224]

108.Mẹ ngủ mềm

Ngát nhƣ hoa[9]

109.Cháu bé vừa đầy tháng

Non nỏn nhƣ vành trăng [201]

110.Đôi mắt đen nhƣ chữ Hán[ 202]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

111.Bà lê tấm thân ra tận cửa

129

Giơ cả hai tay run run nhƣ cọng lá gianh[205]

112.Cháu của bà còn bé kin kin

Chạy trốn nhanh nhƣ sóc [205]

113.Ngƣời già trầm ngâm lâu nhƣ cơn mƣa [40]

114.Mẹ mừng ngây nhƣ đá [9]

115.Tóc chị vàng nhƣ nắng [23]

116 Mẹ còng lƣng nhƣ lúa [37]

117. Mẹ nhƣ bó đuốc

Cháy hết rồi

Nay phải về trời [40]

118 Không biết những bà mẹ khác

Có yêu con nhƣ mẹ không

Có thƣơng ngƣời nhƣ mẹ không

Có thèm cháu nhƣ mẹ không [41]

119.Mẹ tôi

Vừa đi vừa ôm ngực

Toàn thân cúi gập

Nhƣ con sâu đo [44]

120.Tuổi ba mƣơi thèm trẻ ra đƣờng

Yêu mỏi mệt

Yêu nồng nàn nhƣ lửa [109]

121.Em nhƣ rƣợu ngọt làm anh say

Anh sơ ý em tuồn qua kẽ hở [129]

122. Mẹ nằm nhƣ trận mạc[ 182]

123.Mẹ nằm nhƣ đất [182]

124.Ngƣời đàn bà vun trồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Toàn thân cúi xuống nhƣ khung cửa [222]

130

125. Con ơi

Mẹ gắng sức

Đừng nhƣ sáp ong

Đừng nhƣ chì nƣớng

Mẹ nhủ lòng phải vững

126. Mẹ nhƣ trăng sao

Êm êm đi vào miền đời

127. Bà cụ trắng nhƣ mƣa

128. Em mủm mỉm cƣời nhƣ lửa

Ấm lên tôi

4. Thơ Mai Liễu

129. Con gái bản Tày duyên quá

Sắc chàm nhƣ cũng pha hƣơng [57]

130. Tóc em mƣớt lá xanh nhƣ suối [87]

131. Mắt ai buồn nhƣ đêm [94]

132.Em có gặp những đám mây đeo đầy bụng đá ?

Mà mắt em nhƣ nắng đợi trong cây [97]

133. Sang ngang em tựa gió mƣa

Lênh đênh anh tựa vào mùa nắng nôi [98]

134. Gƣơng mặt mịn nhƣ trăng rằm [114]

Hồn ta xanh mềm nhƣ dải lụa

Tay em cầm dáng múa tựa tiên bay [129]

135. Tóc mềm nhƣ ánh mắt

Mắt buồn nhƣ tóc buông [139]

136. Mẹ còm cõi nhƣ quê nghèo ven núi [153]

137. Mẹ cha cứ khô dần nhƣ củi [156]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

138. Mẹ nhƣ cây ngô cuối mùa rũ xuống [82]

131

139.Tình mẹ vẫn đầy nhƣ nguồn ấy [83].

5. Thơ Bùi Thị Tuyết Mai

140. Cho mùa tiếp mùa yêu nhau nhƣ khăn áo quấn lấy ngƣời [7]

141. Cho anh say em nhƣ say rƣợu [7]

142. Cho anh dính em nhƣ khảu tan [7]

143. Mùa em xa Mƣờng

Bƣớc nhƣ chân con nai nhỏ [8]

144.Nhớ vòng quay cọn nƣớc

Vì em nhƣ con nai nhỏ hay ra bờ suối [8]

145. Mùa em

Mùa thiếu nữ

Lần đầu biết nhớ

Vì em nhƣ cái ớp pu quanh năm ôm lƣng mẹ [8]

146. Ta lại mơ về

Bờ vai màu đồng nhƣ Cha ta [10]

147. Ơi ! Cành gai và chú dế

Chẳng có nỗi đau nào thấu

Và lóng lánh nhƣ em[11]

148. Chiếc điện thoại di động của tôi gừ gừ nhƣ con mèo đang bị ngƣời

khác dọa lấy con chuột nó vừa vồ đƣợc [12]

149. Chiếc máy vi tính của tôi đã nhiều giờ lách cách nhƣ tiếng thoi dệt

của Bà tôi [12]

150. Bài hát cũ cứ ngày ngày qua lại trong tôi nhƣ những đƣờng cày [13]

151. Tối muốn Ngƣời nâng lên

Dịu dàng nhƣ Mẹ [17]

152. Ngƣời nhƣ cỏ [18]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

153. Đau nhƣ ngƣời xa xứ [20]

132

154. Bây giờ nhƣ ở trên trời [29]

155. Trƣớc màn hình nhƣ con cua lâu ngày [29]

156. Bây giờ

Ta

Nhƣ con chim bay cao, con cá bơi sâu

Mạnh nhƣ con hổ con báo

Đi ngoan nhƣ câu hát về nhà anh[ 53]

157. ( Nỗi nhớ) thơm nhƣ hơi thở [10]

158. Em đứng

Nhƣ cái cột đèn

Nở hoa vàng hoa xanh hoa đỏ [12]

159. Anh không đến

Thời gian nhƣ ngựa vía dồn chân [12]

160. Ánh mắt đầu tiên

Run rẩy trên mịn màng hoang đảo

Gập mình nhƣ cánh buồm trong bão [20]

161. Mẹ ầu ơ...Cái giọt sƣơng treo nắng

Ru con êm hơn cơn mƣa dịu dàng [21]

162. Tiếng anh gọi nhƣ sông hát [30]

163. Mắt ngƣời tinh hơn mắt rắn [49]

164. Nhƣ chiếc lá non

Em rung lên chiều vàng [53]

165. Cô bé

Nhƣ củ khoai

Long lanh màu đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mắt tròn xoe nhƣ chú ếch [25]

133

166. Cô bé

Thon nhƣ cổ bình gốm [25]

167. Những ngƣời đàn bà nhƣ những con ong [28]

168. Ngực em nhƣ bầu rƣợu trắng ngần [56]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

169. Đôi mắt em ấm nóng nhƣ một hàng rào những con kiến lửa [59]