BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _______________ Đặng Thị Thùy Dương

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

LÔØI CAÛM ÔN

Em xin traân troïng caûm ôn coâ Nguyeãn Thò Ngoïc Ñieäp, ngöôøi ñaõ

taän tình höôùng daãn em hoaøn thaønh luaän vaên naøy.

Xin chaân thaønh caùm ôn caùc ngheä nhaân ñaõ hoã trôï tích cöïc cung

caáp tö lieäu cho toâi trong quaù trình ñieàn daõ, söu taàm.

Xin gôûi lôøi caùm ôn ñeán thaày coâ, gia ñình, ñoàng nghieäp vaø baïn

beø thaân höõu ñaõ giuùp ñôõ, taïo ñieàu kieän thaät toát cho toâi trong quaù trình

thöïc hieän ñeà taøi luaän vaên.

Ñaëng Thò Thuøy Döông

DANH MUÏC CAÙC CHÖÕ VIEÁT TAÉT

Ñeå haïn cheá söï laëp laïi, chuùng toâi xin ñöôïc pheùp vieát taét moät soá töø:

- CD-DC : ca dao- daân ca

- VHDG : vaên hoïc daân gian

- ÑVTP : ñôn vò taùc phaåm

- NXB : nhaø xuaát baûn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu

Bến Tre là một trong những mảnh đất được khai sinh trong hành trình lịch sử Nam tiến của dân tộc. Là một tỉnh nhỏ thuộc Nam bộ nhưng nơi đây thường được gọi là vùng đất "?địa linh nhân kiệt" với những danh nhân trung - kiên - ái quốc đã góp phần không nhỏ vào sự hưng vong của quốc gia. Và trong tiến trình lịch sử, mảnh đất này cũng đã để lại những dấu ấn văn hóa riêng. Những dấu ấn văn hóa ấy được thể hiện rõ qua bộ phận văn học dân gian vùng đất này.

Văn học dân gian Bến Tre rất phong phú về thể loại gồm: truyện cổ, truyện cười, truyện trạng, CD-DC, vè, tục ngữ, câu đố… Đáng chú ý trong văn học dân gian Bến Tre là CD-DC bởi nó được xem là thể loại ổn định, phản ánh rõ nét đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con người nơi đây. Vì vậy, chúng tôi chọn CD-DC Bến Tre là đối tượng nghiên cứu cho đề tài này.

Hơn nữa, hiện nay, chương trình Ngữ văn trung học phổ thông yêu cầu giảng dạy phần văn học địa phương. Là giáo viên trung học phổ thông, tôi thiết nghĩ nghiên cứu về CD-DC Bến Tre cũng là điều cần thiết và bổ ích trong quá trình giảng dạy của mình.

Đề tài là sự khái quát có lý giải về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của CD-DC Bến Tre dựa trên tài liệu đã có và bản thân người viết sưu tầm. Chúng tôi lấy tên đề tài là: "Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre". Tìm hiểu đề tài này là tìm hiểu nét tương đồng cũng như khác biệt của CD-DC Bến Tre về nội dung, nghệ thuật so với CD-DC các vùng miền khác trên đất nước.

Là người con của đất Bến Tre, tôi muốn góp thêm tiếng nói của mình vào công việc nghiên

cứu, sưu tầm VHDG mà cụ thể là thể loại CD-DC ở quê hương Đồng Khởi.

2. Lịch sử vấn đề

Theo Nguyễn Phương Thảo, một nhà nghiên cứu văn học dân gian, thì một trong những người sớm nhất sưu tầm VHDG Bến Tre thời Pháp thuộc là Trương Vĩnh Ký. Trong phần sưu tầm của ông có công trình: Hát, lý, hò An Nam (1886), nhưng "khó có thể xác định được rạch ròi đâu là văn học dân gian Bến Tre, đâu là văn học dân gian của vùng khác" [87,tr.24].

Công trình Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến năm 1945) (1971) của Nguyễn Duy Oanh do Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản. Công trình này có chương Văn chương bình dân để giới thiệu VHDG Bến Tre. Tác giả có 35 trang giới thiệu 11 truyện dân gian, gần 100 bài tục ngữ, ca dao, câu đố.

Công trình Dân ca Bến Tre (1981) của Lư Nhất Vũ - Lê Giang, do Ty Văn hóa và Thông tin Bến Tre xuất bản. Đây là công trình giới thiệu bao quát các thể loại của dân ca Bến Tre như hò, lý, hát ru, hát sắc bùa, nói thơ, chú trọng nghiên cứu phần âm nhạc. Đồng thời, hai tác giả công bố những làn điệu sưu tầm được.

Công trình Ca dao dân ca Nam Bộ (1984) của nhóm tác giả Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình này có những bài nghiên cứu chung về CD-DC Nam Bộ. Phần sưu tầm CD-DC có một số câu về địa danh, con người Bến Tre nhưng nhóm tác giả không ghi nơi sưu tầm.

Công trình Văn học dân gian Bến Tre (1988) của Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên, NXB Hà Nội. Phần đầu của công trình là tiểu luận với những nội dung như: hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, tình hình sưu tầm nghiên cứu, một vùng văn học dân gian, đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của VHDG Bến Tre. Trong công trình này, tác giả đã tách ca dao và dân ca thành hai tiểu loại riêng. Riêng ở đặc điểm nghệ thuật ca dao, tác giả chú ý nét riêng và nhấn mạnh "một hiện tượng phải lưu ý khi xem xét ca dao Bến Tre về mặt hình thức là hiện tượng là những bài ca có ba dòng lời" [87,tr.60]. Tác giả có nêu số liệu khảo sát nhưng không lý giải. Về ngôn ngữ ca dao, tác giả khái quát "mang đặc điểm của phương ngữ, nhất là phương ngữ Nam bộ", " ngôn ngữ đầy sức sống, tươi rói, tác động mạnh vào cách nhìn, cách nghe của con người" [87,tr.61]. Đối với vấn đề này, tác giả chỉ dừng lại bằng việc nêu ví dụ. Tuy nhiên, đây là những gợi ý quý báu mà trong luận văn này chúng tôi sẽ tìm hiểu sâu hơn. Phần sau là công bố những tư liệu đã sưu tầm về các thể loại. Trong đó ca dao là 88 trang (với 900 bài). Phần dân ca gồm 38 trang với các tiểu loại như: hò (89 bài), lý (9 bài), đồng dao (9 bài), hát sắc bùa Phú Lễ (8 bài), hát đưa linh (3 đoạn hát), hát huê tình (17 bài). Ở phần này, ngoài một số bài dân ca sưu tầm, một số bài tác giả dẫn lại ở sách "Dân ca Bến Tre" của Lư Nhất Vũ- Lê Giang.

Công trình Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long (1999) của Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Cần Thơ, NXB Giáo Dục. Công trình này chủ yếu công bố những tư liệu đã sưu tầm được về các thể loại văn xuôi dân gian và các thể loại văn vần dân gian ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở thể loại CD-DC, căn cứ phần ghi xuất xứ, nhóm tác giả có sưu tầm 54 bài CD-DC ở Bến Tre.

Công trình Địa chí Bến Tre (2001) của Thạch Phương- Đoàn Tứ chủ biên, NXB Khoa học xã hội Hà Nội. Ở chương I của phần 4 về Văn hóa giới thiệu về 8 thể loại của VHDG Bến Tre, trong đó có thể loại ca dao. Ca dao được giới thiệu gồm hai mảng cũ và mới với hai nội dung là công cuộc chinh phục thiên nhiên và công cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả lao động. Tiếp theo là phần phân tích một cách khái quát hai nội dung. Có lưu ý thêm mảng ca dao về đề tài tình yêu lứa đôi, tình vợ chồng, hạnh phúc gia đình. Trong phần phụ lục về Văn hóa có 18 trang nêu 192 bài ca dao Bến Tre. Phần lớn những bài ca dao này trùng với những bài ca dao trong "Văn học dân gian Bến Tre" của Nguyễn Phương Thảo- Hoàng Thị Bạch Liên.

Công trình Các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre (2005) của Lư Văn Hội, Sở Văn hóa - Thông tin Bến Tre xuất bản. Công trình này viết về 6 hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre là: hát ru, hò, hát lý, hát sắc bùa Phú Lễ, nói vè, nói thơ vân Tiên. Đồng thời, tác giả cũng công bố một số tư liệu sưu tầm. Tuy nhiên, phần sưu tầm này cũng có một số bài trùng với các tài liệu trước.

Như vậy, qua những công trình giới thiệu trên đây chúng tôi không thấy công trình nghiên cứu riêng về CD-DC Bến Tre mà chỉ có công trình nghiên cứu về dân ca (2 công trình). Phần lớn những nghiên cứu về CD-DC Bến Tre được viết chung trong phần VHDG Bến Tre hoặc trong CD-DC Nam Bộ, CD-DC đồng bằng sông Cửu Long. Công trình Văn học dân gian Bến Tre của Nguyễn Phương Thảo- Hoàng Thị Bạch Liên có một số gợi ý để luận văn tìm hiểu sâu hơn. Các công trình còn lại có giá trị tham khảo, nhất là về tài liệu sưu tầm. Việc khảo sát nội dung và nghệ thuật của CD-DC Bến Tre vẫn chưa trở thành đề tài nghiên cứu trọn vẹn. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi cố gắng khảo sát nội dung và nghệ thuật CD-DC Bến Tre một cách có hệ thống.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về khái niệm, ca dao được định nghĩa: "Ca dao là lời các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy… hoặc ngược lại là những câu thơ có thể "bẻ" thành những làn điệu dân ca" [46, tr.436]. Còn dân ca là: "những bài thơ dân gian hàm chứa tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy, phần nhiều có tính địa phương và tính nghề nghiệp, được diễn xướng theo nhiều làn điệu và môi trường khác nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần" [13, tr.18]. Các nhà nghiên cứu đã dùng khái niệm ca dao hoặc ca dao- dân ca để gọi phần lời của bài hát dân gian. Trong luận văn này, thuật ngữ CD-DC cũng được hiểu là phần lời của bài hát dân gian. Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát CD-DC Bến Tre về nội dung, nghệ thuật ngôn từ, không khảo sát diễn xướng, âm nhạc.

Theo định hướng đã đề ra như trên, đối tượng mà người viết khảo sát là những bài CD-DC

trữ tình của dân tộc Việt ở đất Bến Tre, không khảo sát CD-DC lao động và nghi lễ.

Việc gọi câu hát dân gian, bài hát dân gian, bài ca, lời thơ dân gian, đơn vị tác phẩm trong

luận văn này đều là một, chỉ bài ca dao- dân ca.

Khi khảo sát, chúng tôi thường chọn chủ đề tình yêu lứa đôi vì đây là chủ đề tiêu biểu của

CD-DC.

Về tài liệu khảo sát, chúng tôi chọn:

- Văn học dân gian Bến Tre của Nguyễn Phương Thảo- Hoàng Thị Bạch Liên, NXB Hà Nội, 1988. Đây là tài liệu tập hợp được số lượng bài hát dân gian ở đất Bến Tre tương đối nhiều so với các tài liệu khác hiện có về CD-DC Bến Tre, gồm 1006 ĐVTP

- Tài liệu sưu tầm qua quá trình điền dã của chúng tôi, gồm 353 ĐVTP.

Một số tài liệu để đối chiếu so sánh:

- Dân ca quan họ Bắc Ninh của Văn Phú- Lưu Hữu Phước- Nguyễn Viêm, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962. Chọn tài liệu này là đại diện cho CD-DC miền Bắc vì trong số tư liệu về CD-DC ở miền Bắc, chúng tôi chỉ tìm được Ca dao ngạn ngữ Hà Nội [ 20] và Tục ngữ ca dao dân ca Vĩnh Phú [119] , Dân ca quan họ Bắc Ninh [113], song tài liệu [20] và tài liệu [119] có số lượng bài CD-DC tương đối ít hơn tài liệu [113], chưa đủ số lượng để khảo sát.

- Ca dao- dân ca đất Quảng của Hoàng Hương Việt, Bùi Văn Tiếng

(chủ biên), NXB Đà Nẳng, 2006. Chọn tài liệu này là đại diện cho CD-DC miền Trung vì đây là tài liệu chúng tôi có được. Hơn nữa, đất Quảng (cụ thể hơn là Quảng Nam- Đà Nẳng) về phương diện địa lí là thuộc trọn vẹn miền Trung từ trước đến nay. Số lượng CD-DC đất Quảng rất phong phú, khi có đối chiếu so sánh chúng tôi chọn ngẫu nhiên từ vần A đến hết vần C, gồm 549 bài về chủ đề tình yêu lứa đôi.

- Ca dao- dân ca Nam bộ của Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát…, NXB TP.HCM, 1984. Khi đối chiếu, chúng tôi chọn ngẫu nhiên từ vần A đến hết vần B, gồm 330 bài CD-DC thuộc chủ đề tình yêu lứa đôi.

- Ca dao Đồng Tháp Mười của Đỗ Văn Tân chủ biên, Sở VH-TT Đồng Tháp xuất bản, 1984.

Khi đối chiếu, chúng tôi chọn chủ đề tình yêu lứa đôi gồm 635 bài CD-DC.

- Văn học dân gian Bạc Liêu, Chu Xuân Diên chủ biên, NXB Văn nghệ TP HCM, 2005. Khi

đối chiếu, chúng tôi chọn chủ đề tình yêu lứa đôi gồm 354 bài CD-DC.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

sau:

" Phương pháp sưu tầm:

Văn học dân gian ra đời sớm và được lưu lại trong trí nhớ của nhân dân bằng con đường truyền miệng. Trước đây, việc sưu tầm CD-DC đã được tiến hành nhưng chưa thể nào tập hợp hết những bài CD-DC tồn tại trong trí nhớ của nhân dân. Để có thêm tư liệu trong quá trình khảo sát, cũng như góp phần nhỏ trong công tác sưu tầm tập hợp, chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm.

Thời điểm mà chúng tôi sưu tầm là vào các tháng đầu năm 2008. Chúng tôi tiến hành sưu tầm theo 2 cách. Cách 1 là hỏi thăm những người bạn cùng làm việc ở cơ quan, công ty ở thị xã Bến Tre (nơi chúng tôi công tác) về những người lớn tuổi mà thuộc nhiều CD-DC ở quê họ (phần lớn có quê ở các huyện). Những người bạn này sẽ giới thiệu cho chúng tôi một vài tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở quê mà họ biết để chúng tôi liên hệ. Sau khi gặp trực tiếp trao đổi, gợi ý, chúng tôi ghi chép lại những bài CD-DC mà họ còn nhớ. Đồng thời, chúng tôi cũng đặt vấn đề nhờ các cụ tìm gặp lại những người bạn xưa (vốn là những người hò hát giỏi, thuộc nhiều CD-DC) để nói về yêu cầu của chúng tôi. Hẹn thời gian khoảng vài tuần, chúng tôi trở lại và cùng các cụ đến nhà những người bạn cũ mà các cụ đã giới thiệu. Chúng tôi lại tiếp tục ghi chép, trao đổi. Trao đổi trực tiếp đã giúp chúng tôi giải tỏa những điều thắc mắc về câu chữ (nhưng cũng không hoàn toàn tất cả) hay có thêm kiến thức về sinh hoạt ca hát của người dân lao động ngày trước. Cũng có điều đáng tiếc, chúng tôi đã tìm gặp được các cụ vốn trước đây là một trong những vạn cấy nổi tiếng hò hát nhưng nay do tuổi cao, sức yếu họ không còn nhớ nữa. Cách 2 là thông qua dự án "Sưu tầm, truyền dạy dân ca tại Mỏ Cày, Bến Tre" của anh Phạm Văn Luân - giảng viên trường Cao Đẳng Bến Tre, chúng tôi tiến hành sưu tầm CD-DC. Dự án này có tổ chức 3 lớp truyền dạy dân ca tại 3 xã, mỗi lớp khoảng 15 thành viên là những người dân sinh sống tại địa phương. Kết hợp với ban tổ chức lớp, chúng tôi nhờ những người học này sưu tầm ghi ra giấy về những bài CD-DC lưu truyền tại Bến Tre. Sau đó họ gởi lại cho ban tổ chức lớp. Cách sưu tầm này tập hợp được số lượng bài CD- DC khá lớn nhưng chúng lại trùng nhau nhiều. Vì chúng tôi không gặp trực tiếp người cung cấp nên việc ghi nhận thông tin người cung cấp cũng không đầy đủ như thiếu họ, tuổi tác, hình ảnh…

Chúng tôi đã sưu tầm chủ yếu ở các huyện Giồng Trôm, Bình Đại, Mỏ Cày. Đây là những nơi mà trước 1975 sinh hoạt hò hát phát triển mạnh như hò cấy, hò chèo ghe…do địa hình là những cánh đồng rộng và sông rạch chằng chịt. Tổng số chúng tôi sưu tầm được 353 ĐVTP.

" Phương pháp thống kê:

Việc sử dụng phương pháp thống kê giúp chúng tôi tính toán được số lượng nhiều hay ít của các từ ngữ, công thức, hình ảnh… trong CD-DC. Phương pháp này giúp đưa ra được những số liệu cụ thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận khách quan.

" Phương pháp hệ thống:

Phương pháp hệ thống là cách đặt những bài CD-DC Bến Tre trong cùng một hệ thống như hệ thống CD-DC Nam bộ hoặc CD-DC cả nước để thấy được nét chung cũng như nét riêng của nó.

" Phương pháp phân tích, so sánh:

Tìm ra những điểm giống và điểm khác của CD-DC Bến Tre với CD-DC của vùng miền khác, người viết phải phân tích, đối chiếu những bài CD-DC Bến Tre với những bài CD-DC vùng khác.

" Phương pháp nghiên cứu liên ngành:

Phương pháp này dùng để lý giải cho những đặc điểm CD-DC Bến Tre. Kiến thức của nhiều ngành khác nhau như: lịch sử, địa lí,dân tộc học, văn hóa học… sẽ rất hữu ích trong việc nghiên cứu.

4. Đóng góp của luận văn

- Phác họa diện mạo chung của CD-DC Bến Tre.

- Làm rõ đặc điểm nội dung, nghệ thuật của CD-DC Bến Tre và qua đó hiểu thêm đời sống

văn hoá tinh thần của con người Bến Tre.

- Góp phần bảo tồn bộ phận VHDG ở Bến Tre nói riêng và VHDG cả nước nói chung.

5. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương:

Chương I: Vài nét về vùng đất Bến Tre. Đây là chương nền của luận văn giới thiệu về tên gọi,

vị trí địa lý, những nét nổi bật về lịch sử, văn hóa, văn học… của vùng đất.

Chương II: Đặc điểm nội dung CD-DC Bến Tre. Chương này đi vào khảo sát những nội dung mà CD-DC Bến Tre phản ánh như cảnh quan thiên nhiên, con người, những sự kiện trong đời sống thường ngày, trong lịch sử.

Chương III: Đặc điểm nghệ thuật CD-DC Bến Tre. Chương này khảo sát các khía cạnh như

thể thơ, ngôn từ, kết cấu mà CD-DC Bến Tre thể hiện.

Ngoài ra, luận văn còn có thêm phần Phụ lục, phần này giới thiệu 353 đơn vị tác phẩm mà chúng tôi sưu tầm được, những bài CD-DC có hình thức gồm 3 dòng, có đề cập đến hình ảnh cây bần, cây dừa hay sinh hoạt hò hát của người dân nơi đây. Cuối cùng của phần Phụ lục là một số hình ảnh minh họa về quê hương Bến Tre.

Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẾN TRE VÀ CA DAO - DÂN CA BẾN TRE

1.1. Giới thiệu chung về Bến Tre

1.1.1. Tên gọi - hành chính

Bến Tre trước kia là một sóc của người Cao Miên với tên là Sóc Tre (SROK TRÉY hay TRÂY) thuộc Thủy Chân Lạp. Trong đó từ "TRÉY" có nghĩa là cá, để chỉ đây là một sóc có nhiều cá. Giả thuyết khác thì cho rằng: Sóc Tre là vùng có nhiều tre. Vùng này có nhiều giồng đất cao mà trên đó tre mọc um tùm, xanh tốt. Và vì Sóc Tre có nhiều tre nên ghe thuyền gần xa ghé bến này chở tre mà thành ra danh từ Bến Tre.

Cũng có cách giải thích khác: Năm 1727, vùng đất Bến Tre bắt đầu có tên trên bản đồ hành chính nước Nam, được sáp nhập vào dinh Long Hồ, phủ Gia Định. Bấy giờ, ở hữu ngạn rạch Bến Tre, còn gọi là Bến Lở, quan địa phương có cất cái trạm để kiểm soát và thâu thuế các ghe thuyền buôn bán qua lại trên sông. Vì thế, danh từ Bến Tre là cách nói rút ngắn của những chữ "Bến thuế của Sóc Tre".

Giới hạn vùng đất Bến Tre ngày nay khác với giới hạn vùng đất Bến Tre trước đây. Bến Tre trước đây chỉ gồm 2 cù lao: Bảo và Minh. Cù lao An Hóa thuộc tỉnh Tiền Giang. Năm 1948, cù lao An Hóa mới nhập vào Bến Tre. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), cù lao An Hóa lại tách về Tiền Giang. Năm 1956 cho đến nay, Bến Tre gồm cả 3 cù lao: Bảo, Minh và An Hóa.

Danh từ hành chính Bến Tre cũng có nhiều thay đổi. Trước năm 1757, vùng đất Bến Tre và Trà Vinh còn gọi là đất Trà Vang thuộc Thủy Chân Lạp. Khi được sáp nhập vào bản đồ Việt Nam, tên gọi vùng đất này cũng qua nhiều lần thay đổi. Cụ thể là tổng Tân An (năm 1779) thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định; huyện Tân An (năm 1808) thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, Gia Định thành; phủ Hoằng An (năm 1823) thuộc trấn Vĩnh Thanh; phủ Hoằng An (năm 1823) thuộc tỉnh Vĩnh Long; phủ Hoằng An và phủ Hoằng Đạo (năm 1837) thuộc tỉnh Vĩnh Long; phủ Hoằng Trị và phủ Hoằng An (năm 1844) thuộc tỉnh Vĩnh Long; phủ Hoằng Trị (năm 1851) thuộc tỉnh Vĩnh Long; sở tham biện Bến Tre và sở tham biện Mỏ Cày (năm 1867) trong số 24 sở tham biện ở Nam kỳ; sở tham biện Mỏ Cày (năm 1871) trong số 18 sở tham biện ở Nam kỳ; hạt Bến Tre (năm 1876) thuộc hạt III (tức Vĩnh Long); quận Bến Tre (năm 1886) thuộc tham biện Vĩnh Long; tỉnh Bến Tre (năm 1900) thuộc Nam kỳ; tỉnh Đồ Chiểu (tháng 9 năm 1945) thuộc Nam bộ; tỉnh Bến Tre (năm 1948) thuộc Nam bộ; tỉnh Kiến Hòa (năm 1956) thuộc Nam phần (chính quyền Sài Gòn) đồng thời phía cách mạng gọi là tỉnh Bến Tre thuộc Nam bộ. Năm 1975 cho đến nay được gọi là tỉnh Bến Tre trong số hơn 60 tỉnh thành cả nước.

Về hành chính, Bến Tre có 8 đơn vị cấp huyện gồm: thị xã Bến Tre (nay là thành phố Bến

Tre) và các huyện Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú.

1.1.2. Điều kiện tự nhiên

Là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre được hợp thành bởi 3 cù lao: Bảo, Minh và An Hóa do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long là sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ qua nhiều thế kỷ.

Nhìn trên bản đồ, Bến Tre có hình rẽ quạt. Đầu nhọn nằm hướng Tây Bắc, phần đuôi xòe rộng ở hướng Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía Đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh khoảng 2315 km2.

Bến Tre có địa hình t??ng ?ơ?i bằng phẳng, có những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn. Ngược về quá khứ trên 2000 năm trước, khi biển bắt đầu lùi dần thì toàn bộ đồng bằng tiến nhanh ra khơi. Trên những chặng đường rút lui của biển, những dãy giồng cát bắt đầu hình thành. Bến Tre có nhiều giồng cát chạy song song từ trong ra ngoài, đánh dấu những chặng đường lấn biển của vùng cửa sông. Một số giồng như: Giồng Chuối, Giồng Chàm, Giồng Quéo, Giồng Dứa, Giồng Bà Tang… (Ba Tri); Giồng Võ, Giồng Văn, Giồng Keo… (Mỏ Cày); Giồng Chùa, Giồng Miễu, Giồng Bồn Bồn, Guồng Chanh, Giồng Ớt… (Thạnh Phú); Giồng Giếng, Giồng Cây Me, Giồng Tre, Giồng Kiến… (Bình Đại). Với chiều cao từ 3 đến 5 mét, các giồng cát ở Bến Tre đã tạo thành địa mạo rất đặc trưng của vùng cửa sông ngày nay. Giữa các dãy giồng cát là những trũng giữa giồng hay phẳng giữa giồng và chiều rộng chênh lệch khá nhiều.

Đất Bến Tre chủ yếu là dạng đất phù sa, chia thành ba tiểu loại phù sa theo thứ tự lắng tụ. Dạng đất cao và ổn định, không chịu ảnh hưởng của nước mặn, thích hợp với cây ăn trái (như huyện Chợ Lách, phía tây huyện Châu Thành). Dạng đất chịu ảnh hưởng của nước mặn, theo hiện tượng thẩm thấu, thích hợp cho cây dừa (huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Bình Đại, phía đông Châu Thành, thị xã Bến Tre). Dạng đất mới hơn hai loại trên, còn nhiều màu mỡ thích hợp cho trồng lúa (huyện Ba Tri, Thạnh Phú). Ngoài ra, do cấu tạo địa hình gồm nhiều con giồng chạy song song nên giữa những giồng là vùng trũng hình thành khu vực đất phèn. Nhưng do công tác thủy lợi được chú trọng trong việc đào kênh, đê bao cũng như do việc lập vườn, lên liếp, đào mương nên ngày nay tầng sinh phèn ít nhiều bị rửa trôi.

Bến Tre có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một chế độ nhiệt độ cao quanh năm ít biến động. Có hai mùa: mùa mưa và mùa nắng. Sự phân hóa các mùa khí hậu thể hiện sự tương phản của hai mùa gió. Mùa mưa trùng với gió mùa Tây Nam, mùa khô trùng với gió mùa Đông Bắc. Thời tiết Bến Tre nói chung rất thuận lợi cho việc sản xuất, ít có diễn biến đột ngột thất thường.

Các sông lớn và hệ thống sông rạch chằng chịt tạo cho tỉnh có một nguồn nước dồi dào quanh năm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nó cung cấp cho Bến Tre một nguồn thủy sản phong phú. Nằm kề bên Biển Đông, những con sông Bến Tre không những tiếp nhận nguồn nước từ Biển Hồ đổ về mà hằng ngày sông ở đây còn tiếp nhận nguồn nước biển do thủy triều đẩy vào. Vì thế chế độ dòng chảy ở các con sông Bến Tre là chế độ bán nhật triều không đều. Với hệ thống sông dày đặc, Bến Tre thuận lợi trong việc phát triển giao thông đường thủy nhất là khi hệ thống giao thông đường bộ chưa được mở mang.

Thảm thực vật ở Bến Tre rất phong phú và đa dạng, gồm có quần thể thực vật trên các bãi lầy ven biển (với các cây mắm trắng, bần đắng, vẹt, đước, sú, cóc kèn, ô rô…); quần thể thực vật trên các giồng cát (với các loài cây như tra, mù u, cui, rau muống biển, cỏ chông…); quần thể thực vật ven sông rạch (với các loài cây như dừa nước, bần chua, mướp xác, quao nước, trâm bầu, cà na, lau, sậy, dây lùn…); quần thể thực vật vùng bưng trũng (với các loài cây như tràm, bần chua, gừa, bòng bong, mây nước, lác hến, lúa ma, sen, súng…). Thảm thực vật ngoài việc che phủ và bảo vệ

đất, chống lở bờ, rửa trôi, điều hòa khí hậu, tạo nơi sinh sống của nhiều loài động vật hoang dại… còn là nguồn cung cấp tài nguyên rất quý phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế.

Nguồn động vật ở Bến Tre cũng khá phong phú. Nhưng so với thời trước, những loài động vật ở Bến Tre trải qua những biến đổi lớn. Các loài thú lớn như cọp, voi, cá sấu... hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại trong các câu chuyện kể, một số di tích và các huyền thoại. Hiện nay, chúng ta chỉ gặp những loài thú nhỏ như chuột, dơi, rái cá... Ở vùng đất giồng có các loại như chồn, cáo, các loại bò sát không chân như: trăn, rắn, hay có chân như: kỳ đà, kỳ nhông, rắn mối, tắc kè, tắc ké... Loài động vật sống trên không như chim thì khá phong phú về chủng loại. Bến Tre có sân chim Vàm Hồ, Cồn Đất, Cồn Nhàn (Ba Tri) - nơi các loài chim gần như có mặt đầy đủ nhưng không loài chim nào có số lượng lớn. Trong các sinh vật trên cạn, nhóm đa dạng, phong phú là côn trùng như: sâu, kiến, ong (đặc biệt là ong vò vẽ từng là vũ khí lợi hại của nhân dân Bến Tre trong cuộc kháng chiến chống Mỹ). Nhóm động vật sống dưới nước ở Bến Tre rất phong phú do sự chi phối của sông và biển. Đáng chú ý nhất là các loài cá. Căn cứ vào điều kiện sinh thái, có thể phân thành các nhóm như: nhóm cá nước lợ (cá kèo, cá bống…), nhóm cá biển, nhóm cá nước ngọt (cá mè, cá rô, cá trê…), nhóm cá sống trên đồng ruộng (cá lóc, cá sặc…), các loại tôm (tôm thẻ, tôm sú, ôm càng xanh…). Ngoài ra còn có nghêu, sò. Đây là nguồn lợi lớn cho tỉnh nhà và giúp Bến Tre có điều kiện phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản.

Điều kiện tự nhiên như trên tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Bến Tre làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, chúng cũng tạo ra những bất lợi, nhất là sự hạn chế trong giao thông đường bộ do sự ngăn cách sông nước. Chính sự bất tiện này mà Bến Tre hạn chế trong giao lưu phát triển kinh tế dẫn đến mặt bằng kinh tế của tỉnh còn thấp. Còn đối với CD-DC, những hình ảnh thiên nhiên là chất liệu, là cội nguồn cảm xúc tạo nên bài ca, góp phần diễn đạt tâm tình của người bình dân.

1.1.3. Lịch sử

Cũng như các tỉnh Nam bộ khác, Bến Tre là một vùng đất mới. Theo các tài liệu lịch sử cho đến thế kỷ XIII, XV, vùng đất Nam bộ trong đó có Bến Tre về cơ bản là vùng đất hoang vu, chưa được khai phá. Châu Đạt Quan, một sứ thần nhà Nguyên (Trung Quốc) trong chuyến đi sứ bằng đường thủy sang kinh đô Angkor của nước Chân Lạp vào năm 1296 qua ngõ sông Cửu Long đã miêu tả lại quang cảnh của vùng này:

"… Những cửa rộng của dòng sông lớn chạy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum suê. Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy những cánh đồng hoang không có một gốc cây nào. Xa nửa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm" Dẫn theo 76, tr.24-25 .

Năm 1757 (năm Đinh Sửu), vua Chân Lạp là Nặc Nguyên chết. Chú là Nặc Nhuận xin hiến đất Trà Vang (gồm Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu) để được Võ vương Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua. Bắt đầu từ đây, Bến Tre có tên trên bản đồ Việt Nam, sáp nhập vào dinh Long Hồ, phủ Gia Định.

Có thể chia lịch sử vùng đất Bến Tre từ đầu thế kỷ XVII đến nay thành các thời kì sau: thời kỳ khai phá (từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX), thời kỳ chống giặc ngoại xâm Pháp, Mỹ (từ năm 1858 đến năm 1975), thời kỳ cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến nay).

Thời kỳ khai phá (từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX):

Vùng đất Bến Tre được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII. Nhưng trước đó người Việt đã đến vùng đất này cư trú, sinh sống. Nguồn gốc người Việt ở Bến Tre là từ miền Trung. Họ đến Bến Tre vì nhiều lý do khác nhau: để kiếm sống (như những người nông dân nghèo khổ phải chịu nạn chiến tranh phong kiến kéo dài), để trốn tránh (như những người trốn lính, lính trốn và những tù nhân bị lưu đày), để làm giàu (như những người có tiềm lực kinh tế, có kinh nghiệm sản xuất mà Lê Quý Đôn gọi là: "dân có vật lực" - theo lời kêu gọi của chúa Nguyễn vào đây khai phá làm kinh tế). Những lưu dân này đến Bến Tre bằng đường thủy hoặc đường bộ, theo cách thức đi lẻ tẻ từng cá nhân, từng gia đình hoặc theo nhóm gia đình. Khi đến vùng đất mới, họ thường chọn nơi định cư là những vùng đất cao dọc theo các con sông lớn hoặc các khu đất giồng cao.

Bên cạnh lưu dân người Việt, trên đất Bến Tre thời ấy còn có lưu dân người Hoa. Cuối thế kỷ XVII, một bộ phận quân nhà Minh (Trung Quốc) do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đứng đầu, bất mãn triều đình Mãn Thanh sang Việt Nam xin tị nạn. Chúa Nguyễn đã cho họ vào vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Nhóm Trần Thượng Xuyên đến định cư ở Biên Hòa, nhóm Dương Ngạn Địch định cư ở Mỹ Tho. Theo lịch sử xã Phước Thạnh (thuộc huyện Châu Thành) thì trong nhóm lưu dân người Hoa cư trú ở Mỹ Tho chắc chắn có một bộ phận sang cù lao An Hóa vì nơi đây chỉ cách Mỹ Tho một con sông. Họ cư trú cùng với người Việt ở các ấp ven sông Ba Lai, về sau trở thành người Minh Hương, rồi trải qua nhiều đời thành dân bản địa.

Với nhiều đợt chuyển cư liên tục diễn ra trong suốt thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, Bến Tre đã có đông người đến ở. Sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam năm 1757, đến năm 1759 chính quyền nhà Nguyễn có lệnh lập làng. Người dân nơi này ban đầu khai phá, trồng trọt trên diện tích nhỏ, chủ yếu khai thác những nguồn lợi thiên nhiên sẵn có. Cùng với sự hợp tác của những người dân có "vật lực" thì vùng đất khai hoang ngày càng mở rộng, sản xuất ngày càng phát triển. Thời này Bến Tre nổi tiếng với những sản phẩm: lụa Ba Tri, cau Xẻo Sâu, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, mắm còng Châu Bình …

Từ vùng đất hoang vu đầy thú dữ, những lưu dân nơi đây đã biến chúng thành một vùng ruộng vườn tươi tốt. Thế nhưng họ không được hưởng những thành quả lao động mà họ tạo ra vì bọn điền chủ được sự hậu thuẫn của nhà Nguyễn ra sức bóc lột người dân. Nhiều người dân bị bần cùng hóa, bị phá sản. Mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị phong kiến, bọn điền chủ và nông dân nghèo trở thành mâu thuẫn cơ bản. Năm 1776, phong trào Tây Sơn phát triển mạnh ở Trung bộ và lan rộng đến Nam bộ. Nhân dân Bến Tre cũng hưởng ứng mạnh mẽ phong trào này vì đã từ lâu họ mất niềm tin vào chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Nhân dân nơi đây còn tham gia chống quân Xiêm, làm thất bại âm mưu xâm lược nước ta mà chúng núp dưới chiêu bài giúp Nguyễn Ánh. Có thể nói, trong buổi đầu khai phá và xây dựng, người dân nơi đây chịu nhiều gian khổ vì vừa chống áp bức bóc lột, chống ngoại xâm vừa khai phá đất đai sản xuất.

Thời kỳ chống ngoại xâm Pháp và Mỹ (từ năm 1858 đến năm 1975):

Tinh thần chống ngoại xâm của người dân xứ dừa rất mạnh mẽ. Khi Pháp xâm chiếm đến Bến Tre, nhiều cuộc kháng cự của nhân dân địa phương diễn ra khắp nơi. Tiêu biểu là khởi nghĩa hương giáo Phan Công Tòng, khởi nghĩa Phan Tôn, Phan Liêm (con của Phan Thanh Giản), khởi nghĩa Tán Kế… Bên cạnh đó còn có những trận đánh với quy mô nhỏ diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Do lực lượng nghĩa quân ban đầu hình thành còn quá yếu, không được huấn luyện và tổ chức, trang bị vũ khí thô sơ nên họ đã thất bại. Dù thế ý chí, tinh thần yêu nước của người dân nơi đây như ngọn đuốc vẫn âm ỉ cháy không bao giờ tắt, chỉ chờ cơ hội là bùng lên. Trải qua nhiều khó

khăn, sự khổ luyện cộng với sự dũng cảm, mưu trí, người dân Bến Tre đã dành được chính quyền vào tháng 8 năm 1945 trong không khí thắng lợi chung của cả nước.

Sau thắng lợi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập nhưng phải đối đầu với nạn thù trong giặc ngoài. Pháp lại nổ súng xâm lược nước ta lần nữa. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2, nhân dân Bến Tre đã thể hiện tinh thần xung kích với trận đánh tiêu diệt căn cứ Vàm Nước Trong ở Định Thủy, huyện Mỏ Cày (năm 1947), với chiến thắng Thạnh Phú (năm 1953) … Chiến thắng ở Bến Tre và các tỉnh Nam bộ khác có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Sài Gòn buộc Pháp phải ngồi vào bàn kí hiệp định Giơ-ne-vơ vào năm 1954.

Hết chống Pháp, nhân dân Bến Tre tiếp tục chống Mỹ. Bến Tre đã mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang trong toàn miền Nam chống chế độ Ngô Đình Diệm với phong trào Đồng Khởi ngày 17 tháng 01 năm 1960 mà người lãnh đạo là nữ tướng Nguyễn Thị Định. Với lòng căm thù giặc sâu sắc, chấp nhận hi sinh, gian khổ, nhân dân xứ dừa tiếp tục cùng với nhân dân cả nước đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bằng cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975.

Thời kỳ cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến nay):

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Bến Tre bắt tay vào công cuộc xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh và không ngừng phát triển. Đời sống nhân dân cơ bản đã ổn định, mặt bằng văn hóa được nâng cao, kinh tế phát triển theo chiều hướng đi lên. Đạt được những thành tựu nhất định, Bến Tre không ngừng chủ động hội nhập với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh thành Việt Nam và quốc tế. Điều đó thể hiện qua công trình cầu Rạch Miễu bắc qua sông Tiền. Đây là công trình thế kỷ được nhiều người dân mơ ước, nó sẽ xóa bỏ vị thế cô lập của vùng đất cù lao với các tỉnh khác. Hay công trình cầu Hàm Luông nối liền cù lao Bảo và cù lao Minh, xóa bỏ sự chia cắt giữa các vùng trong tỉnh. Có thể nói, mang trong mình tinh thần "đồng khởi" của năm xưa, Đảng bộ, nhân dân Bến Tre quyết tâm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa quê hương mình đến ấm no, hạnh phúc. Tìm trong CD-DC, dấu ấn những về sự kiện lịch sử phản ánh đậm nét, nhất là lịch sử chống ngoại xâm. Nó là tiếng nói góp vào truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam trên một vùng đất mới.

1.1.4. Con người

Do chịu tác động của điều kiện tự nhiên và môi trường sống nên con người nơi đây rất chân chất, bộc trực, cởi mở và hào hiệp. Họ là những con người tự lực, tự cường, thông minh vượt khó, chinh phục miền đất hoang vu từ buổi đầu khai thiên lập địa. Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, báo chí, vùng đất "địa linh nhân kiệt" đã sinh ra những con người mà tên tuổi của họ đã góp phần làm rạng danh nền văn hóa nước nhà. Lịch sử báo chí Việt Nam đã được khởi đầu bởi những con người có trình độ uyên thâm như: học giả Phan Thanh Giản - vị tiến sĩ đầu tiên của Nam kỳ; nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký - người làm báo đầu tiên ở Việt Nam, thông thạo 27 thứ tiếng nước ngoài; nữ sĩ Sương Nguyệt Anh - người con gái tài ba của nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, chủ bút tờ "Nữ giới chung"… Mảnh đất này còn đóng góp những nghệ sĩ tài năng cho đất nước như: nghệ sĩ nhân dân Lê Long Vân (Ba Vân) - người đã toàn tâm toàn ý dâng trọn cuộc đời cho sân khấu cải lương; nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Phi Hoành; họa sĩ Lê Văn Đệ; nhà điêu khắc Diệp Minh Châu - một gương mặt lớn của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam và tên tuổi của ông đã được giới thiệu trong Bách khoa toàn thư của châu Âu … Trong kháng chiến, Bến Tre nổi tiếng với tên tuổi của thiếu tướng Dương Văn Dương- thiếu tướng đầu tiên của Nam bộ; trung

tướng Đồng Văn Cống; thiếu tướng Nguyễn Thị Định - nữ tướng chiến trường duy nhất trong kháng chiến chống Mỹ; đại tướng Lê Văn Dũng- đại tướng đầu tiên của Nam bộ trong thời kỳ bảo vệ tổ quốc; liệt sĩ Trần Văn Ơn, liệt sĩ Nguyễn Ngọc Nhật…. Không chỉ là những con người có tên cụ thể như kể trên, còn biết bao những con người không tên khác đã cống hiến vào sự nghiệp đánh đuổi thực dân đế quốc, góp sức giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Cụ thể Bến Tre có 2141 Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng (số lượng đông nhất ở Nam bộ), trên 35000 liệt sĩ, gần 19000 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh. Những tài năng kể trên là cơ sở để CD-DC Bến Tre khắc họa phẩm cách nổi bật con người Bến Tre trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt đời thường.

1.1.5. Tín ngưỡng

Thờ phụng tổ tiên:

Người Việt Nam ta có phong tục thờ phụng tổ tiên, ông bà. Đây là một bổn phận và đã trở thành một lẽ tự nhiên theo quan niệm "cây có cội, nước có nguồn". Thờ cúng tổ tiên vừa để tưởng nhớ những người đã sinh ra mình vừa là dịp để ông bà, anh em, con cháu trong gia đình sum họp với nhau. Ở Bến Tre, tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên hầu như diễn ra khắp nơi từ thị trấn đến nông thôn, từ miệt vườn cho đến miệt đồng, miệt biển. Thờ phụng tổ tiên hay còn gọi là đạo thờ ông bà của người Việt vốn đã tồn tại hàng chục thế kỷ. Vì thế cách thờ cúng ông bà, tổ tiên vùng này không có gì khác biệt so với cả nước. Thường thì mỗi gia đình có bàn thờ gia tiên, tùy theo giàu nghèo, tùy theo kiểu nhà bố trí nơi thờ tự mà sự bày biện các đồ thờ trên bàn thờ có sự khác nhau. Trước ngày cúng giỗ chính, nhiều nhà còn làm lễ cúng tiên với nhưng lễ vật đơn sơ từ chiều hôm trước. Ngày giỗ chính người dân có tập quán dành những món ngon nhất từ vật nuôi đến trái cây theo mùa vụ như nếp, đậu (để nấu xôi, gói bánh) cho đám giỗ người thân. Ngoài ông bà, anh em, con cháu có mặt trong ngày giỗ thì bà con láng giềng, bạn bè cũng được mời dự.

Thờ Thành hoàng:

Nếu như việc thờ phụng tổ tiên tượng trưng cho gia đình, là sự nối dõi tổ tông, nơi thờ cúng là nhà thì thờ phụng Thành hoàng tượng trưng cho làng xã, là sự trường tồn của thôn ấp và nơi thờ tự là đình. Theo quan niệm dân gian, Thành hoàng là một vị thần linh cai quản toàn thể thôn xã, che chở, phù hộ dân làng được bình yên, thịnh vượng. Người dân rất tôn kính và tin tưởng vào sự phù hộ của Thành hoàng. Đình làng Bến Tre ra đời gắn với quá trình khai phá đất đai, mở làng lập ấp. Bến Tre có nhiều đình nổi tiếng như đình Bình Hòa (huyện Giồng Trôm), đình Phú Lễ (huyện Ba Tri), đình Tân Thạch (huyện Châu Thành), đình An Hội (thị xã)…. Đình thường gắn với lễ hội Kỳ yên, được tổ chức đúng lệ kỳ, đa phần tổ chức 1 năm 2 lần: lễ hạ điền vào trung tuần tháng 3, tháng 4 và tháng 5 âm lịch, lễ thượng điền vào trung tuần tháng 11 và tháng 12 âm lịch. Lễ Kỳ yên là dịp người dân bày tỏ lòng biết ơn đối với thần linh đã phò trợ và tiếp tục cầu mong thần linh phò trợ để họ có sự an lành, hạnh phúc. Đây cũng là dịp để mọi người gặp nhau bàn công việc làm ăn, trao đổi kinh nghiệm, bày tỏ tình cảm….

Thờ cúng cá voi (cá Ông):

Đây là tín ngưỡng của cư dân làm nghề biển. Việc thờ cúng cá Ông là cách đền đáp, trả nghĩa thần hộ mạng giữ biển khơi đầy sóng gió. Trên địa bàn tỉnh Bến Tre có tất cả 9 lăng thờ cá Ông dọc theo chiều dài ven biển của 3 huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Tục thờ cúng cá Ông gắn với lễ hội nghinh Ông được tổ chức hằng năm vào khoảng các ngày giữa tháng 6 âm lịch. Trong ngày này, tất cả các tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống.

1.1.6. Văn học

Cũng như văn học dân gian các tỉnh Nam bộ nói chung, văn học dân gian Bến Tre là sản phẩn tinh thần của vùng đất mới. Bước phát triển của nó gắn với cuộc định cư khai phá thiết lập làng, ấp. Các thể loại văn học dân gian Bến Tre cũng đầy đủ như các thể loại văn học dân gian của cả nước. Thế nhưng độ dày của từng thể loại khác nhau. Ở Bến Tre thể loại thần thoại rất hiếm do đặc trưng riêng của nó (điều kiện và hoàn cảnh xã hội mà nó xuất hiện). Truyện cổ tích xuất hiện để giải thích cho sự vật, sự việc hay địa danh vùng đất này. Ở thể loại này, yếu tố thần kỳ không đậm nét như truyện cổ vùng đồng bằng sông Hồng vì ngoài những truyện người dân khai phá mang theo trong ký ức thì truyện cổ xuất hiện ở Bến Tre khi tư duy người Việt đã ở mức cao.Thể loại truyện cười, truyện trạng (như truyện Ông Ó, truyện Ông Me, truyện Ông Bảy Lẹ) phát triển mạnh do tiến trình khai phá của người Bến Tre nằm trong giai đoạn cuối của thời kì phong kiến suy tàn với nhiều thói hư, tật xấu. CD-DC cũng là một thể loại phổ biến. Hình thức diễn xướng của nó như hò, lý, ru… được người dân xứ dừa ưa chuộng. Và đặc biệt nơi đây, người ta còn tìm thấy thể loại hát sắc bùa, một loại dân ca nghi lễ mà các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu Long ít thấy bóng dáng của chúng. Câu đố, vè phát triển mạnh và mang dấu ấn địa phương.

Văn học viết Bến Tre gắn với các tên tuổi như Lê Văn Đức, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị…(văn học Hán Nôm); Trương Vĩnh Ký (người đi đầu trong văn học chữ quốc ngữ); Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Trương Gia Mô…( văn học yêu nước chống Pháp); Lê Anh Xuân, Chim Trắng, Đoàn Tứ, Trang Thế Hy, Thanh Vũ, Kim Ba…(văn học hiện đại). Có thể nói, văn học viết Bến Tre phát triển theo tiến trình của văn học viết Việt Nam. Và khi nhắc đến văn học viết Việt Nam, người ta vẫn không quên nhắc đến một số tên tuổi nổi tiếng của văn học viết Bến Tre.

Như vậy, vùng đất Bến Tre là vùng đất trẻ so với vùng Bắc bộ nước ta. Điều đó thể hiện qua lịch sử, điều kiện tự nhiên. Đặc biệt, nó còn là vùng đất văn hóa với những nét riêng về văn học, tín ngưỡng cũng như những con người tài năng làm nên lịch sử vùng đất.

1.2. Giới thiệu chung về ca dao - dân ca Bến Tre

1.2.1. Các hình thức diễn xướng của CD-DC

CD-DC Bến Tre được sưu tầm bắt đầu từ những năm 70 của thế kỉ XX. CD-DC Bến Tre có

các hình thức diễn xướng là hò, lý, hát ru, hát huê tình.

Hò:

Hò là một hình thức diễn xướng của CD-DC, có vai trò quan trọng trong đời sống lao động và tâm hồn của người dân. Phát sinh từ môi trường lao động và đặc biệt khung cảnh thiên nhiên bốn bề sông nước nên hò Bến Tre cũng như hò Nam bộ nói chung đều mang dáng dấp ung dung với nhịp điệu khoan thai hơn so với một số điệu hò ở miền Trung và miền Bắc dù cùng cội nguồn, gốc gác.

Tổng số lượng bài hò sưu tầm ở Bến Tre là 205 bài trong các tài liệu [110], tài liệu [87], tài

liệu [37].

Đề tài mà hò Bến Tre đề cập vô cùng phong phú phản ánh đời sống tinh thần của người lao động. Đó là các cung bậc nhớ, thương, hờn trách trong tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình và xã hội.

Về hình thức và nghệ thuật rất đa dạng như hò có hò chèo ghe, hò mái đoản, hò mái trường , hò cấy, hò lờ, hò đối đáp… (theo môi trường diễn xướng), hò truyện, hò thơ, hò quốc sự…(theo nội dung).

Nổi bật hơn hết ở Bến Tre là hò cấy (hò trong lúc cấy). Hò cấy là hình thức giúp vui, khiến người thợ cấy cấy chậm, đều tay, mạ mau bén rễ, đẻ nhánh nhanh… có lợi cho chủ ruộng. Đồng thời, hò cũng thỏa mãn nhu cầu văn nghệ của đội ngũ thợ cấy. Cứ đến vụ cấy, ngoài các vạn cấy ở ruộng thì trên bờ ruộng dập dìu những đàn ông, thanh niên. Những người này vì ham vui, vì thích hò nên bỏ cả công việc đến hò giúp vui, thể hiện khả năng ứng tác của mình và cũng có thể tìm một người bạn đời. Trong những cuộc hò như vậy, đã có nhiều cặp trở thành vợ chồng, sống với nhau đến "răng long đầu bạc". Hò cấy Bến Tre có nét riêng biệt, theo chúng tôi là nét riêng về mặt âm nhạc:

"Hò cấy Bến Tre vì vậy không thể coi là một trong những dị bản của hò cấy Sông Bé, hò cấy Tân Uyên hoàn toàn khác với hò cấy Bến Cát. Ở Bến Tre, giọng hò cấy tại năm huyện: Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú, có những nét riêng biệt và chẳng có quan hệ gì đến hò cấy bên Tiền Giang hoặc bên Cửu Long." 112, tr. 22-25)

Lý:

Lý là những ca khúc ngắn gọn, là những bài hát của tầng lớp bình dân. Nó đã trở thành một loại hình nghệ thuật có mặt trong sinh hoạt đời sống tinh thần của mỗi gia đình, trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Có thể nói, lý là người bạn đồng hành của người lao động. Lý theo người lao động ra đồng, đi biển, đi dạo… và theo cả giấc ngủ trẻ thơ.

Qua hai đợt sưu tầm của các nhà nghiên cứu dân ca thì Bến Tre có đến 75 điệu lý. Điều này

chứng tỏ sự phong phú, đa dạng của "vườn lý ngào ngạt hương hoa".

Lời của lý thường là những bài CD-DC, phổ biến là thể thơ sáu tám, gồm một cặp cho đến năm cặp thơ lục bát. Để thành bài hát lý, tùy theo điệu lý mà sẽ có thêm những tiếng đệm lót ( như phú lý, rượng ơ, tình bằng, lý tú lý tiên…), tiếng láy, tiếng đưa hơi (như í a, ư ứ ư ư ừ, thố a, ơ ờ ớ…) hay tiếng phụ đệm.

Đề tài của lý rất phong phú, liên quan đến sinh vật, sự việc, lao động, thiên nhiên và sinh hoạt xã hội. Một số điệu lý quen thuộc ở Bến Tre như lý con cua, lý con cúm núm, lý con nhái, lý con mèo, lý cây ổi, lý dừa tơ, lý bánh ít, lý bánh canh, lý đương đệm, lý ba xa kéo chỉ, lý cảnh chùa, lý nàng dâu, lý ông hương, lý ăn giỗ…Không chỉ phản ánh sự vật, sự việc, con người, lý còn là tiếng nói của tình cảm. Nó là tiếng nói của tình yêu lứa đôi hồn nhiên, mộc mạc; là ước mơ trong sáng, lạc quan; là sự ngợi ca lao động và cả sự bất bình trước những điều bất công trong cuộc sống.

Lý có mặt khắp nơi trên đất Bến Tre vì lý là những khúc hát dân gian ngắn gọn, rất dễ thuộc,

dễ nhớ. Lư Nhất Vũ đã nhận xét về mức độ đặc sắc của lý ở Bến Tre:

"Các điệu lý mà chúng ta tã từng nghe ở các nơi như lý chim chuyền, lý đươn đệm, lý lu là, lý con cua, lý con sáo, lý con quạ, lý ngựa ô, lý cảnh chùa…. Khi chúng đã xâm nhập vào đất Bến Tre thì chúng đã biến hóa ít nhiều qua sức sáng tạo của nhân dân và lần hồi đã trở thành "cư dân" của đất Bến Tre. Số bài lý còn lại gồm một đội ngũ đông đảo vô cùng, làn điệu của loại này thấm vị ngọt của dừa, phả cái hơi thở của nước, của nắng, của gió, của phù sa từ các con sông Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Chúng có thể là đặc sản của Bến Tre nếu sau này ta chưa phát hiện được thêm các điệu lý có chất lượng nghệ thuật tương tự ở các nơi khác" 110, tr.45 .

Hát ru (hát đưa em):

Hát ru là hình thức diễn xướng của CD-DC trữ tình, được hình thành và phát triển trên cơ sở những sinh hoạt gia đình và xã hội mang tính chất phong tục tập quán. Hát ru là cách để đưa trẻ vào giấc ngủ. Người ru có thể là mẹ, bà, chị nhưng chủ yếu nhất là mẹ. Mẹ rát ru để con đi vào giấc ngủ đồng thời hát ru cũng là cách người mẹ giãi bày tâm sự, ru cảnh ngộ của mình.

Tùy theo từng địa phương có thể có những điệu ru khác nhau, song hát ru ở Bến Tre về giai điệu tương đối thuần nhất. Một câu hát ru thường được chia thành 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc. Phần mở đầu thường là: "Ươm ớ ơ ơ ườm, ua ừa ua ươm, ứa ưa ưa ườm, ươm…ườm" khác với phần kết thúc: "Ươm ớ ơ ờ ườm". Phần nội dung chủ yếu là lời thơ dân gian với các thể lục bát, lục bát biến thể. Khi diễn xướng lời thơ được phân ra thành hai hoặc ba đoạn với đầy đủ ý tứ. Và người hát có thể thêm từ bớt chữ để câu hát nhẹ nhàng êm ái hơn. Nếu hát nhiều câu, phần kết thúc của câu hát trước đồng thời cũng là sự chuẩn bị cho câu ru sau.

Ngày trước, hát ru có mặt khắp nơi trên đất Bến Tre. Chúng ta có thể nghe những câu hát ru của những người bà, người mẹ, người chị vào tất cả thời điểm trong ngày miễn khi nào người lớn cần trẻ ngủ. Ngày nay với nhịp sống hiện đại, loại hình diễn xướng này dần dần mai một vì để trẻ ngủ thì chỉ cần ru bằng băng, bằng đĩa hát….Tuy nhiên, thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những câu hát ru từ người mẹ, người bà nhất là ở vùng nông thôn.

Hát huê tình:

Hát huê tình cũng là một hình thức diễn xướng, là hát đối đáp của nam nữ thanh niên được diễn ra vào mùa cấy, mùa gặt, ngày xay lúa, đêm giã gạo….Thủ tục và lề lối của hát huê tình cũng trải qua các chặng như ướm hỏi, xe kết, từ giã nhưng thường hát huê tình khai thác ở chặng thứ hai, tức là chặng hát trao gởi duyên tình. Do vậy, các bài hát huê tình thường nghiêng vào khía cạnh của tình yêu lứa đôi, vấn đề hôn nhân trong xã hội cũ. Với thể loại này, Nguyễn Phương Thảo trong tài liệu [87] sưu tầm được 17 bài. Ngày nay, do quá trình đô thị hóa, hình thức diễn xướng này không thấy xuất hiện ở đất Bến Tre.

Như vậy, hò, lý, hát ru, hát huê tình là những hình thức diễn xướng phổ biến của CD-DC Bến Tre ngày trước. Xét về nội dung thể hiện, vừa có sự dung nạp giữa các thể loại với nhau, vừa có sự khu biệt và sáng tạo trong quá trình diễn xướng. Về hình thức diễn xướng, mỗi loại có một cách riêng trong một hoàn cảnh nhất định. Các hình thức diễn xướng đa dạng góp phần tạo ra số lượng bài hát dân gian nhiều hơn, đề tài, nội dung cũng phong phú hơn. Cụ thể ở CD-DC người đọc tìm thấy nhiều đề tài như thiên nhiên, tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình….Sự đa dạng về hình thức diễn xướng làm yếu tố nghệ thuật bài ca ít nhiều được chú ý trau chuốt.

CD-DC Bến Tre có hình thức diễn xướng đa dạng. Điều đó góp phần cho CD-DC Bến Tre trở nên phổ biến sâu rộng, được mọi người yêu thích, đáp ứng nhu cầu sáng tác và thưởng thức nghệ thuật của người dân mọi lúc mọi nơi. Từ lời hát dân gian đó, người đọc, người nghe cảm nhận được tâm hồn, tư tưởng hay những ước mong, khát khao của người bình dân.

1.2.2. Tình hình tư liệu

Cho đến thời điểm hiện nay, không kể dân ca nghi lễ như hát sắc bùa, hát đưa linh…, CD-DC Bến Tre sưu tầm trên sách vở là 1925 ĐVTP, cụ thể trong các tài liệu sau (nêu theo năm xuất bản):

1. Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1577 đến năm 1945) [73]: 38 ĐVTP.

2. Dân ca Bến Tre [110]: 78 ĐVTP.

3. Văn học dân gian Bến Tre [87]: 1006 ĐVTP.

4. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long [47]: 54 ĐVTP (căn cứ phần ghi xuất xứ).

5. Địa chí Bến Tre [76]: 192 ĐVTP.

6. Các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre [37]: 195 ĐVTP.

7. Tài liệu chúng tôi sưu tầm : 362 ĐVTP.

Tất nhiên, các đơn vị tác phẩm ở các tài liệu này có sự trùng nhau. Theo chúng tôi ước lượng nếu bỏ đi các ĐVTP trùng nhau, CD-DC Bến Tre có khoảng 1600 ĐVTP. Đây không phải là con số lớn. Chúng tôi nghĩ rằng, vốn CD-DC vẫn còn lưu giữ nhiều trong trí nhớ của người dân lao động Bến Tre, chỉ có điều chúng ta chưa có điều kiện tập hợp, sưu tầm. Ngày trước, CD-DC có vai trò quan trọng trong đời sống người lao động. Bởi những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XIX, trên đồng ruộng Bến Tre vẫn âm vang rộn rã tiếng hò cấy lúa. Trong mỗi căn nhà, những buổi trưa hè oi bức, những chiều mưa bong bóng ngập sân, trong tiếng võng ầu ơ…những điệu lý, bài ca được cất lên. Những bài hát đó luôn lắng đọng trong tâm hồn người Bến Tre từ tuổi ấu thơ cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Ngày nay, do nhu cầu cuộc sống, các loại hình giải trí mới ra đời nhiều khiến loại hình CD-DC bị bỏ quên. Tuy nhiên, đó chỉ là so sánh bề nổi, thực sự CD-DC vẫn sống trong lòng người dân lao động. Bởi đôi lúc gặp hoàn cảnh trớ trêu, khó khăn, chúng ta lại nghe những lời than thân, trách phận (vốn là CD-DC) cất lên mà đơn giản chỉ là một sự giãi bày, bộc lộ để vơi đi nỗi niềm. Có một điều, chúng tôi cũng thấy rằng, thế hệ trẻ hôm nay đa số thích nghe nhạc trẻ hay nhảy hip hop nhưng họ vẫn không hề quay lưng với những gì là truyền thống. Những giờ giảng dạy CD-DC trên lớp luôn được học sinh đón nhận rất hào hứng, nhiệt tình. Phải chăng, chúng ta cần có hình thức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi loại hình VHDG này. Đặc biệt hơn, cần góp nhặt, tập hợp vốn CD-DC lớn từ người dân lao động.

CD-DC Bến Tre nằm trong hệ thống CD-DC cả nước, chịu sự chi phối về cách xây dựng hình ảnh, quy tắc thể thơ. Mặt khác, CD-DC Bến Tre cũng có những nét riêng được quy định bởi điều kiện địa lý, lịch sử, văn hóa, con người….ở vùng đất mới này. Là một bộ phận máu thịt của CD- DC cả nước, CD-DC Bến Tre góp phần làm phong phú kho tàng CD-DC Việt Nam.

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CA DAO - DÂN CA BẾN TRE

CD-DC có nội dung phong phú, sâu sắc, có tác dụng lớn trong đời sống tinh thần và tình cảm của dân tộc ta. Là một bộ phận CD-DC cả nước, CD-DC Bến Tre phản ánh cuộc sống, sinh hoạt và cả tập quán của nhân dân Bến Tre trong hàng trăm năm. Nó là những suy nghĩ, mơ ước về tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng, là nhận thức về thế giới xung quanh như cỏ cây, sông núi, đất trời.... Nổi bật hơn hết ở nội dung CD-DC Bến Tre là sự phản ánh về cảnh quan thiên nhiên, về con người, về những sự kiện lịch sử, sự kiện trong đời sống thường ngày.

2.1. CD-DC phản ánh sinh động cảnh quan thiên nhiên

2.1.1. Địa hình

CD-DC là tấm gương phản ánh chân thật, sinh động nhất về vùng đất và con người nơi đây.

Đặc điểm địa hình đặc biệt của Bến Tre được CD-DC Bến Tre nhắc đến trong hai lần:

- Quê em ba dãy cù lao

Có dừa ăn trái, có cau ăn trầu.

- Bến Tre ba đảo dừa xanh

Quê hương Đồng Khởi mát lành phù sa.

Là vùng đất được tạo nên từ ba cù lao nên nói một cách khác, Bến Tre cũng giống như ba hòn đảo giữa bốn bề sông nước. Chính vì thế, "sông" được CD-DC Bến Tre nhắc khá nhiều (37/577 bài, tỉ lệ 6%). Tuy nhiên, khi so sánh với CD-DC đất Quảng và Dân ca Quan họ Bắc Ninh thì CD- DC Bến Tre nhắc về "sông" ít hơn. Cụ thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh có 44/281 bài, tỉ lệ 15,6%, CD-DC đất Quảng là 45/546 bài, tỉ lệ 8,2%. Có lẽ vì miền Bắc và Trung xuất hiện trước trên bản đồ Việt Nam, con sông đã gắn với tâm thức của người dân nơi đây từ buổi đầu tiên bởi nó là nguồn sống cho con người. Đặc biệt là trên mảnh đất miền Bắc, quá trình lịch sử diễn ra dài hơn nên dấu ấn về "sông" cũng đậm hơn.

"Sông" ở CD-DC Bến Tre hiện lên với các dạng như "con sông", "vùng sông", "khúc sông", "bãi sông"… và gắn với các tính chất: "sông dài", "sông sâu", "sông rộng", "sông đầy", "sông bên lở bên bồi"…. Hơn ai hết, người dân Bến Tre phải thường xuyên tiếp xúc với sông nên họ có sự hiểu biết sâu sắc và tường tận. "Sông" được nhắc tới là những con sông cụ thể ở vùng đất này như sông Tiền (2 lần), sông Cửa Đại (1 lần), sông Ba Lai (3 lần), sông Hàm Luông (3 lần), sông Bến Tre (6 lần). Ở Bến Tre, sông thường là ranh giới giữa các vùng và là ranh giới giữa tỉnh này với tỉnh khác. Mỗi con sông được nhắc trong CD-DC với đặc điểm riêng. Sông Tiền có lượng nước dồi dào, có sóng mạnh:

- Bước xuống "bắc" Mỹ Tho thấy sóng xô nước đẩy

Bước lên bờ Rạch Miễu thấy nước chảy cây xanh…

Sông Tiền là ranh giới giữa Tiền Giang và Bến Tre. Sự qua lại giữa hai tỉnh ngày trước được

hỗ trợ bằng "bắc" (còn gọi phà).

Còn sông Cửa Đại là dòng chảy hai chiều: "Sông Cửa Đại hai chiều nước chảy…". Sỡ dĩ có

dòng chảy như thế vì sông Bến Tre theo chế độ bán nhật triều.

Sông Ba Lai với đặc điểm sóng ngược, nhiều nước:

"Sông Ba Lai sóng ngược

Chẳng bao nhiêu nước cho vừa

Sông Ba Lai sóng đánh tối ngày…".

Sông này là ranh giới giữa cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Thời trước, con sông này từng gắn

với hiện tượng sóng thần dữ dội và được người dân thêu dệt thành huyền thoại.

Đặc tính sâu rộng và bất biến là đặc điểm sông Hàm Luông: "….Sông Hàm Luông lấp cạn mới quên lời thề". Đây là ranh giới giữa cù lao Bảo và cù lao Minh, con sông này trong chiến tranh từng là mồ chôn kẻ thù xâm lược.

Sông Bến Tre gắn với đặc sản là cá ngát: "Sông Bến Tre nhiều hang cá ngát…". Con sông

này nằm giữa thị xã, nối sông Hàm Luông và sông Ba Lai.

Nhắc đến sông, ở CD-DC Bến Tre cũng không quên nói về biển. Biển được miêu tả thật cụ thể: "biển sâu", "biển rộng", "biển cạn"…. Cũng có khi nhắc về biển là người dân lao động nghĩ ngay đến "biển bạc", "biển cá"…. Bởi biển là nguồn lợi tự nhiên khổng lồ cho con người. Ấn tượng chung của người lao động Bến Tre cũng như người lao động ở các vùng miền khác về biển vẫn là "Biển Đông". Bởi vị trí địa lý nước Việt Nam giáp biển Đông. Trong tâm thức người dân Việt Nam, "Biển Đông" thật rộng lớn, mênh mông, nơi con người luôn khao khát khám phá, chinh phục. Vì vậy, khi muốn diễn tả không gian rộng lớn, người lao động thường nghĩ đến Biển Đông:

- Cắn lưỡi nhào xuống Biển Đông

Thấy trời, thấy nước nhưng không thấy mình.

Gắn với sông, biển là hình ảnh của những con sóng. CD-DC các vùng miêu tả những con sóng khác nhau. DC quan họ Bắc Ninh nhắc tới "sóng" với chỉ với nghĩa chung như "sóng gió", "sóng cả" (3/281 bài, tỉ lệ 1,06%). CD-DC đất Quảng miêu tả cụ thể hơn như "sóng bão", "sóng vỗ", "sóng lớn", "sóng ngả nghiêng"… (6/546 bài, tỉ lệ 1,09%). Đó là "sóng" của biển dữ dội và đe dọa tính mạng con người. CD-DC Bến Tre miêu tả những con sóng phóng khoáng, mạnh mẽ với số lượng nhiều hơn hai vùng đã kể (18/577 bài, tỉ lệ 3,11%) như "sóng bủa ba đào", "sóng bủa lao xao", "sóng dậy cát đùa", "sóng bủa ào ào", "sóng dậy cát nhào", "sóng dồn cuồn cuộn", "sóng đánh tối ngày"…

- … Ai chớ nghe ai sóng bủa ba đào

Em đây giữ niềm tiết hạnh chớ lãng xao em buồn.

- Ở dưới sông sóng dậy cát đùa

Em gá dơn không đặng em vô chùa em tu.

Sóng nước phóng khoáng, mạnh mẽ như thế đôi khi cũng là sự nguy hiển cho con người. Nhưng qua đó, chúng ta thấy được sự sôi nổi nhưng không kém phần yên bình của vùng đất mới Bến Tre.

Còn với hình ảnh "núi" thì tần số xuất hiện ở CD-DC Bến Tre rất thấp (2/577 bài, tỉ lệ 0,34%). Do địa hình các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long phần lớn là đồng bằng bằng phẳng, ít đồi núi. Có lẽ, vì thế mà hình ảnh "núi" hiếm xuất hiện trong CD-DC Bến Tre.

Nhưng bù lại, CD-DC Bến Tre đã nhắc đến những yếu tố đặc trưng khác của địa hình đồng bằng sông Cửu Long như: rạch (4 lần), kinh (1 lần), mương ( 3 lần), bưng ( 3 lần), bàu ( 1 lần), rẫy ( 2 lần), giồng (7 lần).

- Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng…

- Bậu chê nước sông bậu uống nước bàu…

- Đèn treo trong quán, tỏ rạng bờ kinh…

Trong số những yếu tố đặc trưng của địa hình Bến Tre, có lẽ "giồng" được nhắc đến nhiều nhất. Không chỉ là những từ "giồng" chung chung như đất giồng mà là tên những con giồng cụ thể như: Giồng Trôm, Giồng Keo, Giồng Giá, Giồng Giếng, Giồng Miễu, Giồng Chanh….

- Em về Giồng Giếng em coi…

- Ai về Giồng Miễu qua sông...

- Tiếng đồn con gái Giồng Chanh...

Giồng là dãy đất cao ven các cửa con sông, có nhiều phù sa lắng đọng từ trước. Thuở ban đầu khai phá, người dân nơi đây chọn giồng để cư trú vì giồng có nước ngọt, cao ráo, tránh được muỗi mòng, rắn rết, có đất cát thích hợp trồng hoa màu ngắn ngày. Sau đó dần dần họ mới tiến xuống chinh phục những vùng còn đang ngập nước, còn bãi dọc theo giồng.

Khi nhắc đến "giồng" là cách chỉ vùng chuyên canh hoa màu khác với vùng ruộng:

- Mẹ mong gả thiếp về giồng

Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.

- Thương con mẹ cũng chiều lòng

Sợ gả về giồng gánh nước chai vai.

Như vậy, CD-DC Bến Tre đã phản ánh thật cụ thể về địa hình vùng đất Bến Tre. Đây là vùng đất cù lao, có nhiều sông, rạch, giáp biển, đặc biệt là những con giồng mang nét đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

2.1.2. Cây cối

CD-DC Bến Tre có cả một thế giới loài cây quen thuộc, gần gũi với cuộc sống lao động người dân Nam bộ như dừa, chuối, chanh, cam sành, khổ qua, mù u, bần…. Thống kê các bài CD- DC cùng chủ đề tình yêu lứa đôi ở các vùng miền, chúng tôi có số liệu sau:

Hình ảnh khảo sát CD-DC Bến Tre (577 bài) CD-DC đất Quảng (546 bài) Dân ca

quan họ Bắc Ninh (281 bài)

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Dừa 25 4,33% 1 0,18% 0 0%

Chuối 7 1,21% 5 0,91% 3 1,06%

Cam sành 2 0,34% 0 0% 0 0%

Khổ qua 3 0,51% 0 0% 0 0%

Bần 14 2,42% 0 0% 0 0%

Mù u 2 0,34% 0 0% 0 0%

Con số thống kê cho thấy CD-DC miền Trung và Bắc ít xuất hiện những loài cây này, có loài hầu như không có. Theo số lần xuất hiện ở CD-DC Bến Tre phải kể đến hình ảnh cây dừa và cây bần.

Có 25 bài có liên quan đến hình ảnh cây dừa. Ở Bến Tre, dừa chiếm vị trí hàng đầu trong các loại cây trồng, phát triển liên tục mạnh mẽ và dẫn đầu về diện tích dừa trong cả nước (năm 2007, tổng diện tích trồng dừa là 43.083 ha). Dừa gắn chặt với đời sống vật chất như làm thức ăn, làm nhà ở, hàng thủ công mỹ nghệ, làm hàng công nghiệp và đời sống tinh thần của người dân Bến Tre. Trong những năm chiến đấu chống ngoại xâm, thân dừa được sử dụng trong việc xây hầm tránh đạn bom, ngọn dừa lão (cao) làm trạm gác giặc, làm cột treo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.... Ở CD-DC Bến Tre, "dừa' được xem là biểu tượng của quê hương:

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang.

"Dừa" được nhắc đến như là sự giới thiệu về đặc sản của vùng đất:

- Quê anh ba dải cù lao

Có dừa ăn trái có cau ăn trầu.

- Ai về xứ bến quê tôi

Núi đồi không có nhiều xôi lắm dừa.

"Dừa" còn là nơi hò hẹn, là khung nền để những người yêu nhau bộc lộ tình cảm thương nhớ

của mình:

- Giả ơn ai có cây dừa

Cho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương.

- D??a xanh trn b?n hai ha?ng

D??a bao nhiu tra?i th??ng cha?ng b?y nhiu.

"Dầu dừa" được nhắc đến như một phương pháp cổ truyền dùng để làm đẹp tóc. Ngày trước,

người ta dùng dầu dừa thoa lên tóc cho tóc bóng mượt và giữ nếp:

- Mài dừa đạp bã cho nhanh

Nấu dầu mà chải tóc anh tóc nàng.

- Mài dừa dưới ánh trăng vàng

Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh.

Và như vậy, "dừa" không chỉ là niềm tự hào của người dân mà nó luôn chiếm vị trí quan

trọng trong tâm thức các thế hệ người Bến Tre.

Bên cạnh cây dừa, CD-DC nhắc đến cây bần (còn gọi là thủy liễu). Tên gọi này gắn với giai thoại Nguyễn Ánh trong những năm lẫn trốn Tây Sơn đã đến Bến Tre được những người dân ở đây cho ăn bữa cơm đạm bạc là "mắm sống" với "vài trái bần mới vừa chín cây". Cảm thấy món ăn rất ngon miệng nhưng thấy tên của loài cây này quá nôm na nên Nguyễn Ánh đặt tên lại :

"- Cây này xanh xanh giống như cây liễu, trong thi phú đời Đường, đời Tống. Cây liễu bên Trung Hoa mọc trên đất cao ráo. Cây liễu xứ ta mọc trên bãi bùn, dầm chân dưới nước mặn cũng không héo lá. Ta gọi cây bần là thủy liễu, loại liễu mọc dưới nước!"[52, tr.55].

Bần có lá màu xanh, bông màu trắng, không có hương thơm và nó có tác dụng chống xói, lở đất. Bần thường giòn, dễ gãy, có hai dạng. Dạng thấp, um tùm, có nhánh gie ra ngoài sông (gọi bằng hình ảnh "bần gie") do môi trường nó sống ven bờ sông nhưng rễ thường bị ngập nước. Dạng cao, to cũng sống ven bờ sông nhưng rễ không bị ngập nước. Có nhiều loại bần như bần đắng, bần ổi, bần chua, bần chát…. So với CD-DC các tỉnh ở miền Tây thì CD-DC Bến Tre nhắc nhiều về "cây bần":

Tên sách Tác giả - NXB Số lượng khảo sát Số lượng bài nhắc đến từ "bần" Tỷ lệ

(%)

VHDG Tiền Giang Sở VH-TT Tiền Giang xuất bản (1985) 549 bài 1 0,2%

CD, hò, vè Vĩnh Long Nguyễn Chiến Thắng (chủ biên)

(NXB Trẻ, TP.HCM, 2005) 503 bài 1,2% 6

VHDG Bạc Liêu Chu Xuân Diên (chủ biên)

(NXB Văn nghệ TP.HCM, 2005) 354 bài 0% 0

CD-DC Nam bộ Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát…

(NXB TP.HCM, 1984) 863 bài chọn ngẫu nhiên từ vần A đến hết vần Đ 7 0,8%

VHDG Bến Tre Nguyễn Phương Thảo - Hoàng Thị Bạch Liên

(Sở VH-TT Bến Tre xuất bản, 1988) 577 bài 14 2,4%

Điều này có thể lý giải từ đặc điểm địa lý của vùng đất. Bần là loài cây sống ở vùng nước lợ, ven các cửa sông. Bến Tre có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển (chiếm 4/9 cửa của sông Cửu Long), nên vùng nước lợ nhiều, là điều kiện để cây bần phát triển. Cây bần gắn đời sống người dân vùng sông nước:

- Mồ cha ai đốn cây bần

Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.

- Cây bần soi bóng ghe nghèo

Qua sông gặp gió em chèo dùm anh.

Nếu như hình ảnh "dừa" xuất hiện ở CD-DC Bến Tre theo nghĩa đen thì hình ảnh "bần" ngoài nghĩa đen còn xuất hiện với nghĩa bóng. "Bần" còn dùng để so sánh trực tiếp hoặc gián tiếp để thể hiện phẩm chất, tính cách con người:

- Mỹ An bần chát mà chua

Chẳng hay người ấy có chua như bần.

- Cây bần ơi hỡi cây bần

Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.

Hoặc dựa vào thực tế, bần sống ven sông, trái rụng trôi theo dòng nước khiến ta có thể liên

tưởng thân phận bấp bênh của con người, đặc biệt là người phụ nữ:

- Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

"Bần" còn là hình ảnh gợi hứng, đưa đẩy, bắt vần:

- Cây bần gie con đóm đậu một mình…

- Bướm vàng đậu ngọn cây bần…

- Các thứ hoa anh chỉ chuộng hoa bần…

- Bần gie đóm đậu chòm nhom…

- Bần gie đóm đậu sáng trời…

- Trèo lên chót vót ngọn bần…

CD-DC đất Quảng và DC quan họ Bắc Ninh có nhắc đến hình ảnh cây chanh với nhiều dạng như "hoa chanh", "trồng chanh", "vườn chanh", "chanh chua"…. Nói đến "chanh", người đọc nghĩ đến tính chất của nó là "chua". Ở CD-DC Bến Tre cũng nhắc đến hình ảnh của "chanh" nhưng "chanh" thường đi chung với hình ảnh "khế":

- Chợ chiều nhiều khế ế chanh…

- Giả đò mua khế bán chanh…

- Chanh chua thì khế cũng chua…

- Vỗ vai cô bán khế, rồi anh vỗ vế cô bán chanh…

Có lẽ khi nhắc đến hai hình ảnh này, dân gian đã dựa trên sự gần nhau về tính chất chua của

hai loại quả. Có khi hình ảnh "chanh" đi kèm với hình ảnh "cam sành":

- Đắng khổ qua, chua đà chanh giấy

Dù ngọt mấy cũng tiếng cam sành…

"Cam sành" có vỏ hơi xù xì, nhưng rất ngọt. Ở Bến Tre, cam sành được trồng nhiều vì "cam sành" thích hợp đất cù lao. Người lao động so sánh trực tiếp tính chất hai loại quả này để chỉ phẩm chất, tính cách con người:

- …Vợ anh ở nhà có chua như chanh cũng tiền với của

Em có ngọt như cam sành cũng kẻ bần y.

Bài ca trên có thể hiểu là lời của người trong cuộc: chàng trai đã có vợ hoặc cô gái. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh trớ trêu. Cụm từ "chua như chanh" chỉ sự đanh đá, dữ …, "ngọt như cam sành" chỉ sự dịu dàng, hiền lành. Vậy, ý cả bài là vợ anh có đanh đá, dữ tợn cũng là người giàu có, còn em có dịu dàng, hiền lành cũng là kẻ nghèo hèn. Sự so sánh này làm nổi bật ý chủ đạo của bài ca, đôi khi giá trị vật chất được coi trọng hơn phẩm chất, tính cách con người.

Có một điều thú vị là ở CD-DC đất Quảng, chúng tôi bắt gặp bài hát sau:

- Chanh chua quệt ngọn bòng the

Thấy em còn nhỏ anh ve để dành.

thì ở CD-DC Bến Tre lại là:

- Cam sành lột vỏ còn the

Thấy em còn nhỏ anh ve để dành.

Hai bài giống nhau về nội dung biểu đạt chỉ khác nhau hình ảnh câu mở đầu. Câu mở đầu cả hai bài đều là câu đề dẫn, bắt vần. Nhưng việc xuất hiện như thế chứng tỏ hình ảnh "chanh" rất đỗi quen thuộc với người dân miền Trung, còn với miền Nam nói chung hay Bến Tre nói riêng là hình ảnh "cam sành". Bởi khi cần bắt vần, đưa đẩy, người lao động mỗi vùng đều nghĩ ngay hình ảnh cây trái quen thuộc với cuộc sống của mình.

Những loài cây khác như chuối, khổ qua, mù u… đến những loài cây hoang dại như ô rô, cóc kèn, cỏ chỉ, bìm bìm… cũng ùa vào CD-DC Bến Tre làm những câu hát dân gian trở nên phong phú, hấp dẫn hơn và chí ít góp phần bày tỏ tâm tình của người lao động.

Người nông dân thường xuyên tiếp xúc thiên nhiên, đặc biệt là thế giới cây cỏ. Chúng hiện hữu trong từng bữa ăn hằng ngày cũng như trong sinh hoạt, công việc lao động của họ. Vì thế mà ở CD-DC Bến Tre luôn có mặt những loài cây thân thuộc và đặc trưng của vùng đất này, đặc biệt là hình ảnh cây dừa. Đây loài cây không chỉ đi vào thơ ca dân gian mà còn cả thơ ca hiện đại, trở thành biểu tượng cho vùng đất và con người Bến Tre. Qua đó, người đọc cảm nhận tình yêu thiên nhiên và cả niềm tự hào về vùng đất với bốn mùa cây xanh.

2.1.3. Loài vật

Là vùng đất mới nên dấu ấn thời kì khai phá vẫn còn lưu truyền qua CD-DC Bến Tre. Ở những câu hát này, người đọc thấy cả hình ảnh của những loài vật vốn là nỗi kinh hoàng cho người đi khai phá như cọp, sấu, đỉa…

- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma.

- Đứa nào được Tấn quên Tần

Xuống sông sấu ních, lên rừng cọp tha.

Có những bài ca, người lao động lấy đặc điểm "rất dữ" của cọp (còn gọi là hùm) để so sánh

tính cách con người, ở đây là "má chồng":

- Gió đưa bụi chuối tùm lum

Má dữ như hùm, ai dám làm dâu.

Hoặc lấy sự việc loài sấu hay ngủ thành nhóm để diễn tả sự có nhau của con người:

- Hai đứa mình như con sấu tắm ao sâu

Ban ngày xa cách nhưng tối đâu đâu cũng về.

Cả một thế giới loài vật hoang dại như rùa, khỉ, chim chóc… xuất hiện thật đông, thật nhiều

tạo cảm giác rợn ngợp cho người đi khai phá:

- Chiều chiều én liệng trên trời

Rùa bò dưới nước khỉ ngồi trên cây.

- Tới đây xứ sở lạ lùng

Con chim kêu cũng sợ con cá vùng tôi cũng ghê.

Đặc biệt, với vùng sông nước như Bến Tre phải kể các loài như tôm, cá. Bởi môi trường sông nước nơi đây là điều kiện lý tưởng để chúng sinh sống. Hình ảnh "tôm, cá" khi vào CD-DC như sự giàu có, trù phú của quê hương:

- Ai đi đâu xin nhớ Bình Châu (thuộc huyện Bình Đại)

Vùng sông không sâu nhưng nhiều tôm cá.

- Chiều chiều quạ nói với diều

Ngã ba sông Cái có nhiều cá tôm.

"Cá" ,"tép"là hình ảnh gần gũi với cuộc đời lao động của người nông dân. "Cá", "tép" được ví như người lao động chất phác mà cụ thể là người phụ nữ hiền lành thủy chung nhưng số phận bất hạnh:

- Thân em như cá rô thia

Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu.

- Anh về cưới vợ cho xong

Em như con tép lộn rong khó tìm.

Có khi "cá" là biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi dù chỉ là ngắn ngủi:

- Hai đứa mình như cặp cá ở đìa

Ngày ngao du giỡn bóng, tối lại lìa, hỡi ôi!

CD-DC đất Quảng nhắc về "cá" với số lượng nhiều (46/546 bài, tỉ lệ 8,42%). Trong 46/546 về hình ảnh "cá" có 18 lần nhắc đến tên loài cá cụ thể với 5 loài cá nước ngọt: bống, lóc, trê, lia thia, bã trầu; 7 loài cá nước mặn: thu, chuồn, chim, hồng, giếc, nục, rồng. Miền Trung giáp biển nên các loài cá biển xuất hiện nhiều trong CD-DC cũng là điều dễ hiểu. Riêng ở CD-DC Bến Tre, số bài nhắc về "cá" với số lượng ít hơn (34/577 bài, tỉ lệ 5,89%). Nhưng trong đó có đến 22 lần nhắc đến tên loài cá cụ thể với 11 loài cá nước ngọt (lia thia, bống, rô, lóc, kìm, he, trê) và cá nước lợ (thác lác, ngát, đối, kèo, chạch), chỉ có 4 loài cá nước mặn (hồng, nược, he, buôi).

Như vậy, ấn tượng của người Bến Tre về "cá" vẫn là những loài gắn với môi trường nước ngọt và nước lợ, nơi mà con người dễ tiếp xúc trong cuộc sống như kinh, rạch, mương, sông, cửa sông hơn là biển cả mênh mông (dù Bến Tre vẫn có nghề khai thác cá nước mặn). Sự phong phú trong các chủng loại loài vật sông, biển trong CD-DC góp phần thể hiện sự trù phú vùng đất xứ dừa cũng như sự đa dạng về nội dung phản ánh của CD-DC Bến Tre.

2.1.4. Đặc sản

Mỗi vùng quê đều có đặc sản riêng nổi bật. Hay có thể nói sản vật được xem là hương vị riêng biệt của mỗi địa phương. Sản vật địa phương bao giờ cũng gắn với những vùng, những huyện cụ thể không thể lầm lẫn vào đâu được.

CD-DC Bến Tre nhắc đến nhiều đặc sản của quê hương. Đáng chú ý nhất là các sản phẩm cây trái. CD-DC Bến Tre đã phản ánh khá nhiều chủng loại như cây nông nghiệp (dừa, lúa, cau, thuốc, mía…), cây ăn quả (sầu riêng, măng cụt, xoài, cam…), cây hoa màu (bắp, dưa, khoai…).

Khảo sát 68 bài CD-DC về chủ đề Cảnh vật và con người có 13/68 bài nhắc đến dừa là đặc

sản:

- Hòa Quý với tổng Hòa Thinh

Dừa khô thổ sản nổi danh Nam kì.

(Tổng Hòa Thinh nay là huyện Châu Thành và Bình Đại)

Dừa là loài cây trồng chủ yếu của Bến Tre và Bến Tre được nhắc đến trong CD-DC là xứ sở

của dừa. Cụm từ "lắm dừa" cho thấy rõ điều đó:

- … Bến Tre nước ngọt lắm dừa

- … Núi đồi không có nhiều xôi lắm dừa

Dừa Bến Tre nổi tiếng với vị ngọt thanh của nước:

- Bến Tre dừa ngọt sông dài…

- … Dừa Bến Tre ngọt nước, lúa Cần Thơ trĩu vàng.

Tính chất này càng đúng với loại dừa Xiêm, quả nhỏ có nước rất ngọt, dùng làm nước giải

khát rất bổ dưỡng.

CD-DC còn kể tính chất bổ dưỡng từ nước cốt dừa (còn gọi là mỡ dừa, được lấy từ cơm dừa).

Mỡ dừa có màu trắng, có vị béo thơm tho:

- Nước dừa ngọt tựa lòng dân

Mỡ dừa như sữa mẹ trắng ngần thơm tho.

Đây là phần có giá trị nhất của trái dừa, là nguồn dinh dưỡng cao.

Là một vựa lúa của đồng bằng sông Cửu Long nên Bến Tre là một vùng đất "giàu lúa", "lúa"

cũng được xem là một đặc sản:

- … Nơi đây giàu lúa lại nhiều dừa khô

Những thảm lúa mênh mông ở Giồng Trôm, Thạnh Phú được CD-DC miêu tả với sắc vàng

óng ánh, rực rỡ:

- … Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng

- … Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong

Riêng cây mía và cây thuốc được nhắc đến trong CD-DC Bến Tre gắn với vùng đất Mỏ Cày.

Cây mía đã trở thành biểu tượng của vùng đất Mỏ Cày:

- Bến Tre giàu mía Mỏ Cày

- … Thấy bông mía trắng nhớ quê Mỏ Cày

Mía Bến Tre nổi tiếng với hàm lượng đường nhiều "Bến Tre lắm mía nhiều đường". Từ chất ngọt của mía người ta làm ra đường, vốn là một gia vị quen thuộc trong ẩm thực của tất cả mọi người.

Bên cạnh cây mía, cây thuốc cũng là đặc sản của vùng đất này. CD-DC đã khẳng định:

- Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày

Tính chất thơm, say của thuốc được miêu tả:

- Thuốc rê chồng hút vợ say

Thằng nhỏ mồi thuốc lăn quay chín vòng.

Để diễn tả độ thơm, nồng, say của thuốc, tác giả dân gian đã phác họa cảnh một người hút mà đến ba người say. Đáng chú ý là thằng nhỏ (có thể là con của hai vợ chồng) không miêu tả bằng từ "say" mà là "lăn quay chín vòng", thế cũng là "rất say" hay "quá say" vì hương thơm của thuốc.

Các loại cây ăn quả là đặc sản của Bến Tre cũng xuất hiện trong CD-DC Bến Tre. Các loại trái cây này gắn với tên vùng đất cụ thể như: sầu riêng (Cái Mơn, Ba Vát), măng cụt (Cái Mơn, Hàm Luông), xoài, cam (Ba Lai)…. Giới thiệu các loại trái cây, bài hát dân gian đã nêu lên đặc điểm hình thức của loài trái cây như măng cụt là: "Vỏ ngoài nâu, trong trắng như bông gòn" hoặc tính chất của từng loại như: xoài chua, cam ngọt, quýt đường….

Thêm vào đó, còn có các loại cây hoa màu nổi tiếng với bắp (Chợ Giữa), khoai lang (Mỹ Hòa), khoai mì (Thạnh Phong), dưa (Phong Nẫm - Giồng Trôm) mà các bài hát dân gian ở Bến Tre đề cập đến. Việc trồng tỉa ở vùng đất này rất phát triển là do Bến Tre có thổ nhưỡng phù hợp. Đất Bến Tre có phù sa màu mỡ do sự bồi tụ của các nhánh sông lớn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Oanh dựa vào bảng số liệu, phân tích, so sánh về độ cứng, hàm lượng chất hữu cơ trong một lít nước của rạch ở Bến Tre, rạch ở Mỹ Tho, rạch ở Cần Thơ của tác giả Lapeyrève vào năm 1882 đã rút ra kết luận sau:

"Nếu so sánh nước ở rạch Bến Tre với nước rạch Mỹ Tho hay rạch ở Cần Thơ thì nước rạch Bến Tre có nhiều chất hữu cơ hơn. Do đó, ta có thể kết luận rằng đất ở Bến Tre tốt hơn đất hai tỉnh kia về phương diện trồng tỉa" [73, tr. 25].

Bởi vậy, cây trái ở Bến Tre tươi tốt, phong phú cũng là phù hợp.

Các sản phẩm là nguồn lợi của thiên nhiên từ sông, biển cũng là loại đặc sản khá quan trọng. Khảo sát 68 bài CD-DC chủ đề Cảnh vật và con người có 12/68 bài nhắc về "cá", 7/68 bài nhắc về "tôm" với tư cách là đặc sản của vùng đất:

- …Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm

- …Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm

Ngoài ra còn có nghêu, sò với nghêu, sò vùng Thạnh Phú, hay sản phẩm khai thác từ nước biển là muối với muối ở vùng Ba Tri. Muối Ba Tri khô và đạt độ mặn cần thiết, tính chất này được CD-DC miêu tả:

- Muối khô ở Gảnh mặn nồng…

- Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng…

Các sản phẩm thủ công như bánh tráng, bánh phồng, kẹo dừa, lụa cũng là những đặc sản nổi tiếng ở Bến Tre. Các loại này được phản ánh trong CD-DC Bến Tre với số lượng ít, có loại chỉ có một lần như: bánh tráng, bánh phồng, kẹo dừa nhưng đó là bài CD-DC tiêu biểu mà ai ở vùng đất này cũng thuộc. Và ai đến vùng đất này tham quan, cũng chí ít một lần mua chúng để làm quà:

- Bánh tráng Mỹ Lồng

Bánh phồng Sơn Đốc…

- Bến Tre dừa ngọt sông dài

Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh…

Với kẹo dừa, CD-DC nhắc đến đặc tính của nó là vị thơm và béo:

- Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo…

Đặc biệt, CD-DC Bến Tre còn nhắc đến sản phẩm thủ công là lụa Ba Tri:

- Ai về xứ lụa Ba Tri

Ngắm cô thôn nữ đương thì sắc hương…

Ngày trước, lụa Ba Tri nổi tiếng trên thương trường. Vào năm 1894 là một trong những sản phẩm xuất khẩu đứng hàng thứ ba sau lúa và cơm dừa khô [73, tr.117]. Có thuyết còn giải thích rằng địa danh Ba Tri bắt nguồn từ chữ: "Ba": sóng lụa, "Tri": đen nhánh, điều này cho thấy lụa là sản phẩm đặc biệt của vùng đất, tên của sản phẩm trở thành tên của vùng đất. Ngày nay, sản phẩm lụa không còn phổ biến nữa nhưng dấu ấn về một loại hàng thủ công nổi tiếng vẫn in bóng trong CD-DC Bến Tre.

Như vậy, CD-DC Bến Tre đã phản ánh thật phong phú về những đặc sản ở quê hương. Các loại đặc sản ấy một phần là do thiên nhiên ban tặng, một phần là do con người biết khai thác, tận dụng điều kiện thiên nhiên để sản xuất, sáng tạo phục vụ cho cuộc sống chính bản thân người lao động. Dần dà, do tính chất độc đáo và số lượng phong phú, chúng đã trở thành những đặc sản nổi tiếng của quê hương Bến Tre.

Tìm đến CD-DC Bến Tre, người đọc thấy rõ những nét nổi bật về điều kiện địa hình, loài động vật, thực vật tiêu biểu cũng như những đặc sản độc đáo của vùng đất phương Nam xa xôi. Có thể nói, CD-DC đã góp thêm tiếng nói của mình trong việc miêu tả cụ thể, phản ánh sinh động về cảnh quan thiên nhiên của một vùng đất.

2.2. CD-DC phản ánh đậm nét chân dung con người Bến Tre

2.2.1. Trong lao động sản xuất

Bến Tre là vùng đất mới, có nhiều "của chìm của nổi" do thiên nhiên ban tặng nhưng bù lại những khó khăn, hiểm trở của trở lực thiên nhiên không phải là nhỏ. Từ buổi đầu khai phá, mảnh đất này còn hoang vu, sình lầy, hiểm trở. Để trở thành vùng đất trù phú, ruộng đồng thẳng tắp, xóm ấp liền kề, con người nơi đây phải đổ không biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu. Và CD-DC đã ghi lại chân thật chân dung con người nơi đây trong quá trình lao động sản xuất, cải biến thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho đời sống của mình. Con người Bến Tre trong CD-DC được phác họa với vẻ đẹp hình thức như "trai lịch gái thanh", "gái xinh trai tài"… với vẻ đẹp ăn nói "nói

năng duyên dáng", "nói năng thuần hậu"…. Những con người ấy còn nổi bật với sự cần cù, chăm chỉ trong lao động. Những bài ca đã ngợi ca những chàng trai, cô gái, vốn là lực lượng lao động chủ yếu, họ thật giỏi, đảm đang:

- Bến Tre trai lịch gái thanh

Nói năng duyên dáng làm ăn cũng cừ.

- … Quý thay những tấm lòng vàng

Làm ăn chất phác đảm đang mọi điều.

Sự chăm chỉ trong công việc lao động hằng ngày được CD-DC khắc họa rõ nét. Hình ảnh cô

gái xứ lụa Ba Tri, cô gái Bình Đại không quản ngại khó khăn, vất vả:

- … Ngày thời dãi nắng dầm sương

Nhọc nhằn chẳng quản vì thương quê nhà.

- Sông Cửa Đại hai chiều nước chảy

Gái Bình Đại chẳng ngại gian nan.

Không chỉ thể hiện trực tiếp bằng những cụm từ cụ thể, sự cần cù, chịu khó của người lao động còn được thể hiện qua cách miêu tả như "suốt đêm lặn hụp" trên sông nước để mò tôm, bắt tép hay cấy đến "đỏ đèn", đến "chẳng thấy đường đi":

- Mênh mông sông rộng cồn dài

Suốt đêm lặn hụp nghèo hoài anh ơi.

- Bánh tét đậu đen, đỏ đèn còn cấy

Bước lên bờ chẳng thấy đường đi.

Ngoài cần cù chăm chỉ, người xứ dừa cũng rất dũng cảm, lạc quan trong lao động. Sự dũng

cảm thể hiện trong nghề đi biển:

- Em là con gái Bình Châu

Một thân vượt biển cho tàu ra khơi…

Bình Châu thuộc huyện Bình Đại, vùng này giáp biển nên người dân nơi đây hoạt động đánh bắt khá phát triển. Nghề biển là nghề khá nguy hiểm vì phải đối diện với sóng to gió lớn. Đây thường là nỗi lo sợ cho người làm nghề biển vì có khi bỏ mạng ở biển khơi: "Anh đi ghe cá cao cờ / Ai nuôi cha mẹ ai thờ tổ tiên ?". Thế nhưng cô gái Bình Châu này không hề ái ngại, vẫn gan dạ "một thân", "cho tàu ra khơi" đánh cá. Để rồi, sự dũng cảm đó được đền đáp. Niềm hân hoan của cô gái khi vượt qua trở lực thiên nhiên, thu được nguồn lợi lớn từ biển:

- … Bao ngày sóng nước chơi vơi

Thuyền em nhiều cá mọi nơi không bằng.

Sự lạc quan của người lao động được CD-DC phản ánh qua hình thức sinh hoạt hò hát trong lao động. Hò hát là cách để người lao động xua tan những mệt nhọc, quên đi những chặng đường dài:

- Ghe bầu dọn dẹp kéo neo

Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan.

- … Trước tui hò chơi đôi câu giải muộn

Vậy chị em mình hòa cùng tui hò nghen.

Bến Tre trước năm 1975 chủ yếu là hoạt động nông nghiệp, trong đó trồng lúa là hoạt động chủ yếu. Vì thế hò trên đồng ruộng vào vụ cấy có điều kiện phát triển. Có hò để giải trí giúp vui, người thợ cấy sẽ cấy chậm, đều tay, mạ mau bén rễ, đẻ nhánh nhanh…. Sự phong phú trong hình thức hò mà CD-DC phản ánh như hò khoan, hò môi, hò truyện, hò thơ,… cũng đã cho thấy người Bến Tre yêu ca hát, thật lạc quan trong lao động. Họ biết tự tìm cho mình hình thức giải trí để công việc lao động được tiến hành thuận lợi trong không khí vui tươi, sinh động nhất.

Một đặc điểm khác nữa của người Bến Tre trong lao động sản xuất là khéo léo, tài hoa. Sự khéo léo, tài hoa được biểu hiện qua công việc của những làng nghề truyền thống như nghề làm bánh tráng, bánh phồng, kẹo dừa…. CD-DC nói về cô gái Mỏ Cày như sau:

- … Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo

Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan.

Không "khéo" sao được khi nhìn những viên kẹo nhỏ nhắn, được gói vuông cạnh góc hay những chiếc bánh tráng, bánh phồng đều có độ dày mỏng như nhau và vị cũng rất vừa ăn, vừa thơm, vừa béo.

Bến Tre có nhiều làng nghề tồn tại nhưng không được nhắc trong CD-DC Bến Tre như nghề đóng ghe ở Bình Đại; nghề dệt chiếu ở Thuận Điền (Giồng Trôm), Nhơn Thạnh (Thị xã); nghề nấu rượu, nghề đan đát ở Ba Tri. nghề trồng cây hoa kiểng, chiết cây ở Chợ Lách.... Nhưng qua sản phẩm mà người lao động làm ra chúng ta thấy sự khéo kéo, tài hoa của họ, cả tư duy thẫm mỹ và sự sáng tạo.

Như vậy, trong lao động sản xuất, người Bến Tre hiện lên trong CD-DC với đầy đủ những phẩm chất truyền thống của người Việt Nam: vừa cần cù, chăm chỉ vừa khéo léo, tài hoa, cũng như rất dũng cảm, lạc quan. CD-DC đã giúp người đọc cảm nhận những phẩm chất ấy một cách chân thật, rõ ràng nhất.

2.2.2. Trong đời sống tình cảm

Sự phong phú và sâu sắc của CD-DC là ở chỗ thể hiện đầy đủ nhất những cung bậc tình cảm trong đời sống tình cảm của con người như hạnh phúc, sung sướng; đau buồn, sầu muộn; oán trách, thở than…. Qua những rung cảm tinh tế đó, người đọc có thể hình dung được tính cách của con người.

CD-DC Bến Tre cũng thế ! Tính cách của con người xứ dừa được cảm nhận qua mảng CD-

DC về chủ đề tình yêu lứa đôi và tình cảm gia đình.

Kế thừa phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam, điểm nổi bật của người Bến Tre trong tình cảm là đức tính thủy chung. Ở chủ đề tình yêu lứa đôi có khá nhiều bài đề cập đến vấn đề này. Dù chưa trở thành vợ chồng nhưng trong ý thức tình cảm họ vẫn một lòng một dạ chờ đợi nhau, đặc biệt là người con gái:

- … Lỡ thì chịu lỡ cũng chờ đợi anh.

- … Thương anh em vẫn đợi chơ.

- … Ngàn năm xa cách em vẫn chơ.

Sự bày tỏ tình cảm với nhau nghe như lời thề hẹn sẽ bên nhau suốt đời:

- Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng…

- … Thương em cho trọn bốn mùa còn thương.

Ở chủ đề tình cảm gia đình, sự thủy chung càng bộc lộ rõ nét hơn. Những cụm từ nghĩa phu thê, chữ phu thê, đạo vợ chồng, nghĩa can trường… đều là sự bày tỏ tình cảm hoặc nhắc nhở nhau hãy sống có trước có sau:

- … Cái nghĩa phu thê phải giữ từng ngày

Dẫu có nên danh phận hay đi ăn mày cũng theo nhau.

- … Đạo nào thương bằng đạo vợ chồng

Đêm năm canh hoài vọng, nước mắt hồng nhỏ tuôn.

Sự thủy chung còn thể hiện qua việc nhắc nhiều về từ "nghĩa". Nằm trong nét chung của CD- DC Nam bộ, CD-DC Bến Tre cũng nhắc nhiều về từ này. Từ "nghĩa" (còn được gọi là "ngãi", "ngỡi") được thể hiện dưới nhiều loại như "nhân nghĩa", "ngỡi nhân", "bạc nghĩa", "bất nghĩa", "gá nghĩa", "kết nghĩa", "có nghĩa", "ngãi trăm năm", "đạo vợ nghĩa chồng"…. Thống kê ở chủ đề tình yêu lứa đôi ở các sách, chúng tôi có số liệu sau:

Tên sách Tác giả - NXB Số lượng bài khảo sát Số lượng bài có từ "nghĩa"

Tỷ lệ (%)

Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam Vũ Ngọc Phan

(NXB Khoa học xã hội, in lần thứ 11) 467 bài 14 2,99%

Văn học dân gian Bạc Liêu Chu Xuân Diên (chủ biên)

(NXB Văn nghệ TP.HCM, 2005) 354 bài 11 3,10%

Ca dao Đồng Tháp Mười Đỗ Văn Tân (chủ biên)

(Sở VH-TT Đồng Tháp xuất bản, 1984) 635 bài 24 3,77%

Ca dao dân ca Nam bộ Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát…

(NXB TP.HCM, 1984) 330 bài (từ vần A đến hết vần B) 20 6,06%

Văn học dân gian Bến Tre Nguyễn Phương Thảo - Hoàng Thị Bạch Liên

(Sở VH-TT Bến Tre xuất bản, 1988) 577 bài 37 6,41%

Với số liệu thống kê trên, chúng tôi thấy CD-DC Bến Tre đề cập đến từ "nghĩa" có phần đậm hơn (6,41%). Điều này phải chăng do Bến Tre là vùng đất cù lao xa xôi, hẻo lánh. Ở một khía cạnh nào đó, có thể coi con người Bến Tre là người đất cù lao. Vị trí địa lý điều kiện tự nhiên sẽ tạo ra cho con người tâm thế phải luôn luôn tự vượt lên mình, tự giải quyết những khó khăn gay gắt, cấp thiết mà cuộc đời đặt ra. Đó là nghị lực đặc biệt của người Bến Tre, như nhà văn Trần Hiếu Minh khi nói về người dân Nam bộ đã khẳng định:

"Đây là sơn cùng thủy tận rồi. Đến đây chỉ có hai con đường, một là không đủ nghị lực sống nữa thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám lại đấu tranh để mà sống. Con người đến đây là con người liều, con người ngang tàng, nghĩa khí" [3, tr.20].

Như vậy, con người đến được nơi đây đã khó, muốn tồn tại lại càng khó hơn. Để tồn tại, họ cần phải tương trợ với nhau nhiều hơn. Chính vì vậy, họ thường đề cao lối sống tình nghĩa. Chỉ có cái nghĩa mới giúp người ta gắn kết với nhau, cùng nhau tồn tại. Lối sống có nghĩa cũng là một biểu hiện của tính cách thủy chung.

Một điểm không thể không nhắc tới là người Bến Tre rất bộc trực, thẳng thắn trong tình cảm. CD-DC Bến Tre cũng phản ánh được tính cách này nhất là các bài CD-DC về chủ đề tình yêu lứa đôi. Sự bộc trực, thẳng thắn biểu hiện qua cách nói vào thẳng vấn đề. Trong chặng tình cảm đầu tiên là gặp gỡ, ướm hỏi, CD-DC Bắc bộ bóng gió xa xôi bằng hình ảnh "mận", "đào", "vườn hồng":

- Đến đây mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?

Với người xứ dừa là những câu hỏi trực tiếp buộc người đối diện phải trả lời:

- … Nghe người ta bảo em chưa chồng phải hôn ?

- …Thương em hỏi thiệt có chồng hay chưa?

Cũng như CD-DC các vùng miền khác, CD-DC Bến Tre phản ánh thật rõ ràng, tường tận nỗi nhớ nhung, sầu khổ của con người nhất là trong chặng xe kết. Với CD-DC Bến Tre là nhớ đến "ăn cơm cũng nghẹn, uống nước cũng nghẹn", "đêm về nằm ngủ anh mớ, má anh rầy", là thương đến "lở núi tan rừng cũng thương"

Yêu thương là vậy nên khi bị phụ bạc, người trong cuộc cũng buồn giận ra mặt, bày tỏ sự đau

khổ, tức giận thẳng thừng. Đó là sự bộc trực, thẳng thắn của tính cách con người:

- … Từ khi trải chiếu bạn nằm

Gá dơn chẳng đặng nát bầm lá gan.

- Bậu nói với anh nhiều tiếng thăng trầm

Bây giờ bậu bỏ đi nơi khác anh giận bầm lá gan.

Dùng hình ảnh gan, ruột với các dạng thức cụ thể để diễn đạt tường tận, tận cùng tâm trạng của mình là nét chung của CD-DC các miền. Bởi gan, ruột vốn là hình ảnh khá cụ thể mà mọi sự biến đổi của chúng, mọi người đều có thể cảm nhận được.

Thêm nữa, ở CD-DC Bến Tre có nhiều bài nhân vật trữ tình nhắc đến từ "tiếc công" (6 bài), "uổng công" (6 bài) khi những chuyện tình không đi đến kết quả. Không phải nhân vật trữ tình ở đây tính toán, ích kỉ, kể lể tình cảm, mà lời trách "tiếc công, uổng công" là biểu hiện của tính cách bộc trực, một khi tình cảm chân thật không đủ sức xây dựng tình yêu thì họ phải nói ra cho hết bực bội trong lòng:

- Tiếc công anh lao nhạu chùi bình…

- … Tiếc công anh lận đận với nàng bấy lâu.

- … Uổng công lên xuống dứng ngồi bấy lâu.

Sự bộc trực, thẳng thắn còn biểu hiện qua quan niệm về tình yêu, hạnh phúc. Trong CD-DC

Bến Tre, tình yêu hạnh phúc được bày tỏ rõ ràng, nhất quán theo triết lý của người lao động:

- Gái xứ này biết cày biết cấy

Biết chèo ghe gánh lúa giữa đồng.

Anh nào chữ nghĩa không thông

Cuốc cày không giỏi, đừng hòng sánh duyên.

- Em với anh gá nghĩa chung tình

Đi ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng.

Đó là thái độ yêu quý lao động, đồng cam cộng khổ, trọng tình nghĩa hơn tiền tài danh vọng. Điều đó đã giúp những con người nơi đây chiến thắng những trở lực thiên nhiên để trụ lại ở mảnh đất cù lao này.

CD-DC Bến Tre còn phản ánh tính cách mãnh liệt, táo bạo của con người nơi đây. Họ quyết liệt trong việc bảo vệ hạnh phúc, tình yêu của mình. Một số bài CD-DC Bến Tre thường kết thúc ở câu cuối bằng quyết tâm không lìa nhau dù phải đổi cả tính mạng:

- …Chết thời anh chịu chớ buông bạn hiền anh không buông.

- …Chết thì chịu chết chứ buông nàng anh không buông.

- …Chết anh anh chịu buông nàng anh không buông.

Đối với người lao động, một khi đã yêu thương nhau thì dù trong hoàn cảnh "dao phay kề cổ", "cổ đóng trăn, cẳng lại đeo xiềng", hay "song song hai ngọn gươm trường" họ đều không sợ, không màng.

Ngay cả ba mẹ cũng không thể làm họ thay đổi, họ cam tâm sống chết có nhau:

- Ví dầu cha đánh mẹ treo

Đứt dây té xuống, em theo đến cùng.

Ở người miền Nam, do cá tính nên việc thể hiện cảm xúc có phần táo bạo. Người lao động Bến Tre có khi bộc lộ sự nhớ thương mà không cần đến sự ý tứ. Với người con trai, khi sự thương nhớ quá mức khiến họ bộc lộ thành hành động hơi "bất nhã":

- Ôm mình dẫu có la làng

Tui đây la xóm hai làng phạt chung

Ôm mình dẫu có nằm hung

Nhơn cùng tắc biến tui chun xuống sàn.

Còn với người con gái, tình cảm yêu thương bộc lộ khá mãnh liệt, bất chấp nét duyên của

người con gái:

- Anh về em nắm vạt áo em la làng

Bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng lại cho em.

Cả hai đối tượng ở hai bài trên đều vượt quá khuôn phép lễ giáo phong kiến nhưng suy cho

cùng cũng là bắt nguồn từ tình cảm chân thành, sự yêu thương sâu nặng.

Càng táo bạo hơn khi tìm thấy ở CD-DC Bến Tre một số bài nhắc đến động từ "hôn" (hun):

- … Cô kia mặt trắng mặt tròn dễ hun.

- … Cho hun một chút em hai đừng phiền.

- … Thương em bất tử muốn hun bây giờ.

CD-DC Bắc bộ khó tìm ra những bài nhắc đến động từ này. Các nhà nghiên cứu giải thích nguyên nhân mà người Việt ở Nam bộ có sự táo bạo, quyết liệt trong tình yêu là do làng Nam bộ không có "tổ chức tương đối ẩn tàng" (theo cách nói của Nguyễn Phương Thảo, có thể hiểu là lệ làng) để trói buộc con người từ suy nghĩ đến hành động như ở Bắc bộ. Thêm vào đó, thiên nhiên Nam bộ lại phong phú và dồi dào. Vì thế, tính ngang tàng, phóng khoáng của họ lại được dịp trỗi dậy. Và trong tình cảm, họ sẵn sàng bộc lộ ra tất cả tình cảm của mình, dù có khi là hơi sỗ sàng.

Như vậy, trong đời sống tình cảm, với một nội dung phong phú, đa dạng, CD- DC đã chuyển tải được tất cả nỗi lòng của con người. Trong muôn vàn tình cảm yêu thương, nhớ nhung, oán trách đó, CD-DC Bến Tre cho thấy được những tính cách tình cảm nổi bật của con người nơi đây: thủy chung, bộc trực, thẳng thắn, táo bạo, mãnh liệt.

2.2.3. Trong chiến đấu

Nổi tiếng với phong trào Đồng Khởi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bến Tre đã góp phần không nhỏ trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc. Những chủ nhân của vùng đất anh hùng này không chỉ tỏa sáng ngoài cuộc sống mà còn đi cả vào thơ văn, trong đó có CD-DC.

CD-DC đã khắc họa tinh thần yêu nước sâu sắc của người dân Bến Tre. Lòng yêu nước trước hết thể hiện ở lòng căm thù giặc. Trong tổng số 55 bài về chủ đề chống ngoại xâm (kể cả sưu tầm), có 3/55 bài nhắc đến lòng căm thù. Khi là lòng căm thù chung đối với bọn giặc xâm lược "Căm thù quân giặc bất nhân…", khi là căm thù kẻ cướp nước cụ thể "Căm thù giặc Mỹ bất nhân…". Có khi lòng căm thù là vấn đề được thế hệ trước nhắc thế hệ sau phải ghi nhớ "…Căm thù ghi nhớ từng giờ cháu ơi".

Càng căm thù giặc, họ ý thức được nhiệm vụ của mình, phải ra đi chiến đấu qua những cụm

từ như tòng quân, chiến đấu, đấu tranh…

- … Tòng quân nhập ngũ diệt phường hôi tanh.

- … Tòng quân là nhiệm vụ vinh quang của mình.

Yêu nước còn biểu hiện ở tinh thần đoàn kết, chung lòng, chung sức chống xâm lược. CD- DC diễn tả rất sôi động, lúc thì "…Trai Minh gái Bảo đua tài đấu tranh", khi thì "Trẻ già nam nữ hai mình / Thanh niên trai gái đồng tình ra đi", hay "…Theo lời Bác gọi lập công diệt thù"….. Những bài ca đó giúp người đọc hình dung không khí nhộn nhịp, vui vẻ của những con người hăng hái đấu tranh, ra đi vì nghĩa lớn.

Yêu nước còn được bộc lộ qua hành động cụ thể là ngăn cản bước tiến kẻ thù:

- Phá cho bứt lộ thành mương

Phá cho cầu sập hết đường Tây đi.

Trong tình cảm là thái độ dứt khoát, không vương vấn:

- Giặc Tây đánh đến Cần Giờ

Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công.

Đất chung đã mất, mọi thứ riêng tư phải gác lại để thực hiện nhiệm vụ cao cả. Tình yêu thời

kì này (nếu có) cũng được xây dựng bằng tiêu chí chiến đấu chống xâm lược:

- Yêu em anh phải nhớ ghi

Đánh Tây giữ nước mới bì trượng phu.

- Bây giờ cô nhớ cô thương

Cô không tranh đấu đừng hòng kiếm tui.

Có thể nói, CD-DC Bến Tre đã phản ánh lòng yêu nước của người Bến Tre thật sinh động,

với nhiều góc độ khác nhau.

Qua CD-DC Bến Tre, con người nơi đây còn nổi bật với sự dũng cảm. Từ những người nông dân chỉ biết cày bừa, biết cỏ lúa, họ trở thành những anh bộ đội hoặc anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân:

- Hoan hô bộ đội Ba Đào…

- … Đi lính cụ Hồ hạnh phúc muôn năm…

- … Nhớ anh giải phóng lập nhiều chiến công.

Trong chiến đấu, họ xuất hiện với tài đánh giặc giỏi như "đánh trận nào cũng thắng", "diệt trận nào cũng hay", "đánh Mỹ tan thây". Không chỉ là thanh niên nam nữ mà cả người già cũng tham gia đánh giặc:

- Già xưa đi chợ mua trầu

Già nay đi chợ nắm đầu Mỹ Ngô.

Có lẽ tình yêu nước mãnh liệt khiến những người lớn tuổi bất chấp sức khỏe, gan dạ đối đầu,

tiêu diệt kẻ thù.

So với CD-DC các tỉnh khác ở Nam bộ, CD-DC Bến Tre không có hệ thống những bài ca về lãnh tụ nghĩa quân nhưng lại có nhiều bài ngợi ca người phụ nữ trong chiến đấu (13/55 bài). Trong CD-DC họ xuất hiện với áo bà ba đen, chiếc khăn rằn. Đặc biệt, chiếc khăn rằn còn là vật dụng biểu trưng cho người phụ nữ Bến Tre:

- Thấy bóng khăn rằn anh biết rằng em tới

Màu khăn Đồng Khởi của phụ nữ Bến Tre…

Người phụ nữ nơi đây được ca ngợi không những với tài đấu tranh chính trị "vừa hăng vừa tài" như rải truyền đơn, làm giao liên… mà còn nổi tiếng với đấu tranh vũ trang. Các chiến công của họ được miêu tả:

- … Con sông Hàm Luông tàu Mỹ chạy ra

Cầu Ba Lai đó giặc lật xe chết hoài…

Họ đã từng phá tan tàu Mỹ cũng như đặt mìn khiến xe kẻ thù tổn thất nặng.

Thời chiến tranh, lòng chung thủy sâu sắc của họ được nhắc đến cụ thể "…Gái Mỏ Cày một lòng chung thủy" hay qua hình ảnh "…Đầu sông Tương em đợi/ Cuối sông Tương em chờ…". Họ

còn được ca ngợi với tinh thần san sẻ, chấp nhận hy sinh. Những câu bắt đầu bằng cụm từ "phải chi" diễn tả mong ước sẻ chia trách nhiệm với chồng:

- Phải chi em hóa đặng hai hình

Em đi đánh giặc thế cho mình ba năm…

- Phải chi em vác nổi cây súng đồng

Em đi bộ đội cùng chồng diệt ngoại xâm.

Họ đảm đang trong công việc gia đình một cách tự nguyện, thay chồng gánh vác trách nhiệm,

cốt để chồng yên tâm chiến đấu:

- … Anh đi kháng chiến việc nhà em lo…

- … Em ở nhà gìn giữ gia đình…

- … Anh đi kháng chiến em nuôi dưỡng mẹ già thay anh…

Sở dĩ, người phụ nữ Bến Tre được nhắc đến nhiều trong chiến đấu vì đây là vùng đất đã từng rạng danh với "vị tướng gái" Nguyễn Thị Định - người lãnh đạo thành công phong trào Đồng Khởi ngày 17/01/1960, với ý tưởng thành lập "đội quân tóc dài". Noi gương cô Ba Định, hàng ngàn phụ nữ Bến Tre đã anh dũng đi đầu trong tất cả phong trào đấu tranh chống kẻ thù. Vì thế, hình ảnh của người phụ nữ đã đi vào CD-DC như là một sự tất yếu.

Với một số lượng không nhiều nhưng CD-DC Bến Tre về kháng chiến có sự phong phú về nội dung, sâu sắc về ý nghĩa, sinh động trong hình thức diễn tả. CD-DC đã khắc họa những tính cách con người Bến Tre trong chiến đấu và góp thêm tiếng nói vào truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam trên một vùng đất mới.

2.3. CD-DC Bến Tre phản ánh chân thật những sự kiện lịch sử, sự kiện trong đời sống

hằng ngày

CD-DC không chỉ phản ánh về cảnh quan, về con người mà còn phản ánh về các sự kiện lịch sử, sự kiện trong đời sống thường ngày. Các sự kiện được phản ánh trong CD-DC Bến Tre là những sự kiện nổi bật trong quá trình phát triển của vùng đất này. Sự kiện trong đời sống thường ngày nổi bật là trận bão năm Giáp Thìn. Nạn ngoại xâm và việc chống giặc dốt là sự kiện lịch sử tiêu biểu.

Với trận bão năm Giáp Thìn, CD-DC miêu tả sự xuất hiện bất ngờ của nó "Năm Thìn trời bão thình lình…" và thời gian xảy ra là tháng 3 "Năm Thìn trời bão tháng ba…". Đây là cơn bão lớn xảy ra vào năm 1904, cách đây hơn trăm năm. Bão đã gây chết chóc, ly tán và làm thiệt hại nặng nề về kinh tế cho người dân các tỉnh Nam kỳ, trong đó đặc biệt là Bến Tre. Sự ly tán còn in dấu trong các bài ca:

- Gặp nhau đây mới biết em còn

Hồi năm Thìn bão lụt anh khóc mòn con ngươi.

- Năm Thìn trời bão thình lình

Kẻ trôi người nổi hai đứa mình còn đây…

Đến ngày nay, ở Nam bộ chưa có cơn bão nào lớn như vậy. Vì thế, trận bão này đã đi vào bài hát dân gian như là một chứng tích về sự tàn phá nặng nề từ thiên nhiên của vùng đất Bến Tre nói riêng và vùng đất Nam bộ nói chung.

Với nạn ngoại xâm, Bến Tre cũng không thoát khỏi dù có muộn hơn các tỉnh Nam kì khác. CD-DC Bến Tre đã gọi hoàn cảnh của quê hương, đất nước trong thời kì này là thời kì "quốc biến", "nước nhà trong lúc ngửa nghiêng", "nước mất nhà tan", "cơn nguy khốn"…

Những kẻ thù xâm lược cụ thể được đề cập đến như Pháp, Mỹ, Nhật Bổn và kẻ bán nước Ngô Đình Diệm. Bản chất của chúng được CD-DC khái quát là "bất nhân", "cuồng dâm", "bạo tàn". Có lẽ, CD-DC đã không phóng đại khi xác định như thế vì trong thực tế những di tích thảm sát để lại ở Bến Tre là bằng chứng sinh động nhất cho sự hung hăng, tàn bạo của kẻ thù. Có 10/55 bài CD- DC nhắc đến hai kẻ thù Mỹ, Diệm. Thái độ khinh thường của nhân dân bộc lộ rất rõ qua những bài hát này:

- Ai đưa Mỹ Diệm về đây

Nhân dân "ủng hộ" bằng cây súng trường.

- Ai đưa Mỹ Diệm về đây

Nhân dân "ủng hộ" bằng cây chổi chà.

Có khi, các bài ca đề cập đến sự thất bại thảm hại của chúng:

- ...Thấy quân Mỹ Diệm như gà bị thua.

- ...Già nay đi chợ nắm đầu Mỹ Ngô.

Những sự kiện đáng chú ý được phản ánh trong CD-DC như Pháp đi bố (càn quét, khủng bố) người, Pháp bắt thanh niên Việt Nam sang Pháp tham gia thế chiến. Tất cả đều được nhắc đến cụ thể, đích danh kèm theo thái độ mỉa mai, lên án… của người dân.

- Máy bay giặc Pháp bố dồn

Bố người không bố, bố dồn con trâu.

- Bước xuống tàu gan bào ruột thắt

Trời hỡi trời vợ Bắc chồng Nam.

Cả sự kiện chính sự Nhật Bản hất cẳng Pháp nhảy vào Đông Dương, sự việc Ngô Đình Diệm

cõng Mỹ về hại dân hại nước được nêu rõ ràng với thái độ phê phán:

- Diệm ham bơ sữa đô la

Đưa lưng cõng Mỹ về nhà giết dân.

Việc sử dụng chiến thuật dồn dân vào ấp chiến lược của Mỹ, Diệm khiến không ít người dân

bất bình, đau khổ:

- Trời chiều chiều chuyển mưa vần vũ

Tôi nhìn về quê cũ ruột thắt gan đau

Nhớ hồi nào cày cấy cùng nhau

Bây giờ Mỹ Diệm nhốt vào trong khu.

Đối phó với kẻ thù là kế sách thông minh của quân ta đánh giặc bằng "ong vò vẽ" kết hợp

"hầm chông":

- Ai xui thằng Mỹ đi càn

Vô sâu ong đốt, ra đàng gặp chông.

Đây là kế sách độc đáo của người anh hùng Nguyễn Văn Tư. Kế sách đã khai thác và tận

dụng có hiệu quả cả loài côn trùng tham gia vào chiến tranh.

Phong trào Đồng Khởi được nhắc đến trong các bài hát dân gian như là đỉnh cao của các cuộc

khởi nghĩa ở Bến Tre:

- Ta là con cháu Bác Hồ

Nghe tin Đồng Khởi reo hò đi ngay.

Chính vì vậy, Bến Tre còn được nơi khác biết đến vì tinh thần cách mạng này:

- Quê hương Đồ Chiểu rạng ngời

Tinh thần cách mạng đỏ trời vàng sao.

Sự kiện xóa mù chữ (còn gọi phong trào "Bình dân học vụ") cũng là sự kiện nổi bật trong CD-DC Bến Tre) (14 bài). Sau năm 1945 nước ta phải đối phó với ba thứ giặc: giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt. Chống giặc ngoại xâm là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Giặc đói và giặc dốt đều xếp ưu tiên hai. Thời điểm đó tỉ lệ mù chữ ở nước ta là 90%. Trước đó, nhân dân Việt Nam sống dưới ách thực dân, người dân phải làm lụng vất vả vì các loại thuế mà kẻ thù đặt ra, không có thời gian học hành. Cho nên, thời kỳ này CD-DC các vùng miền trong cả nước đều đề cập đến nội dung này. Lý do là CD-DC dễ đi vào lòng người nên được xem là một phương tiện đắc lực để tuyên truyền, vận động. Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan có đề cập phong trào "Bình dân học vụ" như sau:

- Rủ nhau đi học i tờ

Xem tin, đọc báo, làm thơ dễ dàng.

- Lấy chồng biết chữ là tiên

Lấy chồng mù chữ là duyên nợ nần.

CD-DC Bến Tre cũng không ngoại lệ. Tầm quan trọng của việc chống dốt được xác định

"…Giặc dốt nếu còn chiến dịch chưa xong". Phương pháp xóa mù hữu hiệu được vạch ra cụ thể:

…I tờ sắp ngửa ngày ngày em chuyên

…Sớm tối chuyên cần em thoát vòng ngu

Trong đó, sự đồng lòng, quyết tâm là phương pháp hữu hiệu nhất:

- Kẻ giúp của người giúp công

Thuận vợ thuận chồng giặc dốt phải tan.

Để thuyết phục mọi người, các bài hát nêu lên hậu quả của việc mù chữ như bị "chồng chê",

"ai thèm cưới", "cười chê"…

- …Bởi chưng mù chữ nên chồng chị chê.

- …I tờ không biết má hồng cười chê.

Việc vận động học chữ của nhà nước ta là cần thiết và đúng đắn vì biết chữ là cách tốt nhất để nâng cao nhận thức, phát triển tư duy, đặc biệt trong hoàn cảnh miền Bắc mới vừa độc lập còn bộn bề khó khăn.

Tóm lại, sự phát triển của mỗi vùng đất bao giờ cũng gắn với những sự kiện lịch sử. Người lao động nơi đây rất quan tâm với tất cả những gì đã xảy ra trên quê hương mình. Họ tái hiện các sự kiện đó trong CD-DC và đó cũng là cách họ thể hiện tình cảm, tâm trạng mình. CD-DC đã làm tròn chức năng của nó là phản ánh chân thật những gì diễn ra và liên quan đến đời sống con người.

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CA DAO - DÂN CA BẾN TRE

CD-DC là nơi bộc lộ rõ nhất tâm hồn người lao động. Ý nghĩa cơ bản CD-DC là biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc của người bình dân. Những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc đó được thể hiện qua các phương thức nghệ thuật cụ thể như việc sử dụng hình tượng, ngôn từ, thể thơ, kết cấu...ở các bài hát dân gian. Tìm hiểu nghệ thuật CD-DC Bến Tre là đi vào tìm hiểu cách thức biểu đạt chung ở CD-DC Bến Tre về các mặt như thể thơ, ngôn ngữ, kết cấu.

3.1. Thể thơ

3.1.1. Thể thơ truyền thống và các biến thể

Thể thơ truyền thống của CD-DC là thể thơ lục bát và song thất lục bát. Nhưng đối với từng địa phương cụ thể thì mức độ sử dụng các thể thơ truyền thống có khác nhau vì nó phụ thuộc vào tiến trình văn học dân gian ở vùng đất ấy.

Thể thơ lục bát chính thể là thể thơ mà chỉnh thể tối thiểu là cặp câu 6 tiếng và 8 tiếng. Trong đó, vần được gieo ở tiếng cuối của câu lục với tiếng thứ 6 câu bát. Ngoài ra có kiểu gieo vần khác: tiếng cuối câu lục vần tiếng thứ 4 câu bát. Trường hợp này có người cho là biến thể vần lưng.

Các nhà nghiên cứu trước đã khảo sát về việc dùng thể thơ lục bát chính thể trong cùng chủ

đề tình yêu lứa đôi kết quả như sau:

Tên sách Tác giả - NXB Số lượng khảo sát Số lượng bài ca theo thể lục bát Tỷ lệ

(%) Người khảo sát

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 1 Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu…

(NXB Văn học Hà Nội, 1977) 265 bài 236 89% Nguyễn Phương Thảo [87, tr.59]

Hát ví đồng bằng Hà Bắc Mã Văn Lân, Nguyễn Đình Bưu

(Ty VH và TT Hà Bắc xuất bản, 1976) 691 bài 609 87% Bùi Mạnh Nhị [25, tr. 70]

Ca dao dân ca Nam bộ Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát…

(NXB TP.HCM, 1984) 886 bài chọn ngẫu nhiên từ vần A đến vần E 365 41% Bùi

Mạnh Nhị [25, tr. 71]

Văn học dân gian Bến Tre Nguyễn Phương Thảo, Hoàng Thị Bạch Liên

(Sở VH-TT Bến Tre xuất bản, 1988) 577 bài 200 35% Người viết

Cũng như các nhà nghiên cứu trước, chúng tôi thấy rằng CD-DC Nam bộ có sử dụng thể lục bát nhưng mức độ ít hơn so với CD-DC Bắc bộ. CD-DC Bến Tre cũng vậy (35%). Phải chăng càng vào Nam sự phóng túng trong lời ăn, tiếng nói nên thể thơ lục bát chính thể không còn là sự lựa chọn hàng đầu mà chuyển sang biến thể của nó. Hầu như tất cả 35% bài CD-DC dùng thể lục bát chính thể vẫn những là câu hát uyển chuyển, có thể diễn đạt cảm xúc phong phú, biểu hiện nội dung hiện thực đa dạng:

- Nước ròng bỏ bãi xa cừ

Mặt em có thẹo anh trừ đôi bông.

- Sông sâu sóng bủa láng cò

Thương em vì bởi câu hò có duyên.

Thể lục bát chính thể ở CD-DC Bến Tre cũng phát huy hết những ưu điểm nổi bật của nó. Với số lượng câu không hạn định, thể này có khả năng chuyển tải các cung bậc tình cảm của con người:

- Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mẹ dắt con đi

Con đi trường học mẹ đi trường đời.

Bài ca là tâm sự trĩu nặng của người mẹ, chủ thể trữ tình. Cầu tre khó đi nhưng con còn có mẹ dắt đi để đến trường học. Còn mẹ phải một thân, một mình đi vào chốn trường đời lắm chông gai, thử thách.

Thể song thất lục bát chính thể là thể thơ mà chỉnh thể tối thiểu gồm bốn dòng, trong đó có hai dòng bảy tiếng, một dòng sáu tiếng và một dòng tám tiếng. Về vần, tiếng cuối dòng (1) vần tiếng thứ năm dòng (2); tiếng thứ năm dòng (2) vần tiếng cuối dòng (3); tiếng cuối dòng (3) vầ tiếng thứ sáu dòng (4). Trong 557 bài CD-DC khảo sát, thể song thất lục bát chính thể rất ít, chỉ có 3 bài. Nhìn chung, ba bài này đảm bảo về quy tắc về thể thơ:

- Sông Bến Tre nhiều hang cá ngát

Đường Ba Vát gió mát tận xương

Biết đâu là khách đài chương

Ngãi nhơn giữ được bậc thường vậy chăng?

- Trầu nào cay bằng trầu xà lẹt

Thịt nào khét bằng thịt kên kên

Đôi ta gá nghĩa không bền

Bứt đi cho rảnh xuống lên làm gì.

Theo Phan Ngọc "cấu trúc từng khổ 7+7+6+8 tiếng cho phép thể thơ này nói lên sự đi về của cảm xúc như những đợt sóng lên cao rồi xuống thấp rồi lại dàn ra đón lấy một đợt sóng khác" [dẫn theo 42, tr.139].

So với biến thể của song thất lục bát thì song thất lục bát chính thể ít hơn. Có lẽ do nhu bộc lộ, biểu hiện tình cảm của tác giả dân gian nên khuôn hình thể thơ này bị phá vỡ tạo thành biến thể.

Bùi Mạnh Nhị khảo sát 886 bài CD-DC thuộc chủ đề tình yêu lứa đôi từ vần A đến vần E

trong cuốn Ca dao dân ca Nam bộ đưa ra số liệu sau:

Thể thơ Số lượng Tỉ lệ

Lục bát 365 >41%

Lục bát biến thể, song thất lục bát và biến thể 216 >24%

Tổng hợp 305 ?35%

[25, tr. 71]

Với con số khảo sát được, Bùi Mạnh Nhị rút ra kết luận: "… Ngoài việc sử dụng các thể thơ lục bát, song thất lục bát, ca dao - dân ca Nam bộ có xu hướng chiếm lĩnh thể thơ tổng hợp". Riêng ở CD-DC Bến Tre, chúng tôi lại thấy lục bát biến thể và song thất lục bát chiếm ưu thế hơn các thể còn lại. Thống kê 577 bài về chủ đề tình yêu lứa đôi, có tỉ lệ sau:

Thể thơ Số lượng Tỉ lệ

Lục bát chính thể 200 34,66%

Song thất lục bát chính thể 3 0,52%

Lục bát biến thể và song thất lục bát biến thể 235 40,73%

Hỗn hợp 27 4,67%

Thể khác 112 19,41%

Điều này có thể lý giải từ cách ăn nói bộc trực, phóng khoáng của người xứ dừa mà nói rộng ra là người miền Nam (khi muốn diễn đạt điều gì thì phải diễn đạt rõ ràng, tường tận) và để đáp ứng cho thể thức diễn xướng (có thể thêm từ, bớt từ). Cho nên, dù có ý thức sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc nhưng do nhu cầu thể hiện, họ không theo quy tắc mà lại bớt từ, thêm từ, đặc biệt là thêm từ, cốt làm sao bộc bạch hết nỗi lòng.Vì vậy, các biến thể của lục bát và song thất lục bát xuất hiện và chiếm lĩnh nhiều ở CD-DC Bến Tre. Thay vì diễn đạt theo thể lục bát:

- Xa mình trời nắng nói mưa

Canh ba nói sáng trời trưa nói chiều.

Người Bến Tre lại diễn đạt dài hơn bằng lục bát biến thể:

- Tui xa mình trời nắng tui nói trời mưa (9 tiếng)

Canh ba tui nói sáng, ông trời trưa tui nói chiều.(11 tiếng)

Hay ở một bài khác có thể diễn đạt theo thể song thất lục bát:

- Ngó lên trời thấy đám mây bạch

Ngó xuống rạch cá chạch đỏ đuôi

Nước xuôi cá buôi lội ngược

Anh mảng thương nàng biết được hay chăng?

Lại được diễn đạt bằng song thất lục bát biến thể:

- Ngó lên trời thấy một đám mây bạch (8 tiếng)

Ngó xuống lòng rạch con cá chạch đỏ đuôi (9 tiếng)

Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược (8 tiếng)

Anh mảng thương nàng biết được hay chăng? (8 tiếng)

Biến thể của các thể thơ truyền thống có thể hiểu là so với thể chính thể của nó về mặt âm tiết có sự co giãn về số lượng, nghĩa là số tiếng ở từng dòng có ít thể hơn hoặc nhiều hơn số lượng tiếng quy định. Ở CD-DC Bến Tre, 100% các bài CD-DC theo các hình thức biến thể này đều là tăng âm tiết.

Có những bài được làm theo các biến thể với số tiếng ở mỗi câu khá nhiều:

- Trăng lên khỏi núi khuất bụi chuối con trăng mờ (10 tiếng)

Giàu sang như anh mà bất nghĩa ai thèm chờ uổng công.(12 tiếng)

- Thân em như nhạn một mình (6 tiếng)

Ngày ngao du ngoài ruộng tối đậu mé hiên đình kêu sương.(12 tiếng)

- …Ai biểu anh đến đây rồi lại đi ra (9 tiếng)

Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi nước mắt sa vắn dài. (14 tiếng)

Như vậy, với những sáng tạo đặc sắc trong hình thức thể hiện các dạng biến thể, người lao động Bến Tre mở rộng giới hạn của thơ lục bát, đem đến cho thể thơ này nét phóng túng, tự do. Đó cũng là cách hữu hiệu để người lao động bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình một cách đầy đủ, sâu sắc.

3.1.2. Thể hỗn hợp

Thể hỗn hợp là sự kết hợp các thể khác nhau thể vãn, thể song thất, thể lục bát. Thể hỗn hợp ở CD-DC Bến Tre thường tỉ lệ thấp (khoảng 4,67%), nhiều nhất là sự kết hợp thể vãn (vãn bốn, vãn năm, vãn sáu) với thể lục bát. Cuộc sống con người vốn phong phú và phức tạp , tâm hồn, cảm xúc con người lắm cung bậc mà đôi khi một mô hình cấu trúc ổn định không thể diễn tả được hết. Bởi vậy, thể hỗn hợp ra đời là cần thiết vì nó giúp diễn đạt tất cả những ngỏ nghách cảm xúc của tâm hồn. Có khi là sự kết hợp thể 5 chữ và thể lục bát:

- Lúc anh bước chân ra

Má ở nhà có dặn

Công sanh thành là nặng

Điều tình ái là khinh

Hãy đừng tham sắc đắm tình

Lánh xa tửu điếm trà đình chớ vô.

Bài ca bắt đầu bằng việc kể chuyện anh đi xa, lời nhắc nhở của má theo thể vãn 5 ngắn gọn, sau đó kết thúc bằng hai câu lục bát với âm điệu uyển chuyển. Bài ca vừa là lời răn vì nhắc đến lời dặn của má, vừa là lời nhắn gởi rất tha thiết, chân tình. Có được điều đó là do sự kết hợp hai thể vãn 5 và lục bát.

Hoặc là sự kết hợp thể 6 chữ và thể lục bát:

- Chẳng thà bậu rách bậu rưới

Để cho cha mẹ bậu lành

Chim kêu dưới suối trên nhành

Bỏ công cha mẹ sinh thành bậu ra.

Ngoài lục bát chính thể, lục bát biến thể cũng xuất hiện trong các kết hợp:

- Chiếc xuồng giăng câu

Dựa ngang cồn cát

Đậu sát mé nhà

Anh thấy em có một mẹ già (7 tiếng)

Muốn vô phụng dưỡng biết là đặng không? (8 tiếng)

- Ngó lên chữ ứ

Ngó xuống chữ ư

Anh có thương em thủng thẳng em ừ (8 tiếng)

Anh đừng thương vội mẫu từ em la (8 tiếng).

Bản thân các biến thể đã biểu hiện sự phóng túng, tự do. Các biến thể kết hợp với thể khác càng làm cho các bài ca có hiệu quả tối ưu hơn, đặc biệt trong bài hát trên về mặt hình thức hai câu lục bát biến thể làm cân bằng, mềm mại những câu 4 chữ ở trên. Tóm lại, cũng như các biến thể khác, thể hỗn hợp đã góp phần trong việc thể hiện nội dung đa dạng của hiện thực và những cảm xúc tinh tế của con người.

3.1.3. Thể ba dòng

Một nét riêng về hình thức của CD- DC Bến Tre là hiện tượng những bài ca chỉ có 3 dòng lời.

Khảo sát các bài cùng chủ đề tình yêu lứa đôi, chúng tôi có số liệu sau:

Tên sách Tác giả - NXB Số lượng khảo sát Số lượng bài ca có 3 dòng lời Tỷ lệ

(%) Người khảo sát

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 1 Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu…

(NXB Văn học Hà Nội, 1977) 265 bài 0 0% Nguyễn Phương Thảo [87, tr.60]

Ca dao dân ca Nam bộ Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát…

(NXB TP.HCM, 1984) 863 bài chọn ngẫu nhiên từ vần A đến hết vần Đ 27 3,1%

Người viết

Ca dao Đồng Tháp Mười Đỗ Văn Tân (chủ biên)

(Sở VH-TT Đồng Tháp xuất bản, 1984) 635 bài 45 7,1% Người viết

Văn học dân gian Bạc Liêu Chu Xuân Diên (chủ biên)

(NXB Văn nghệ TP.HCM, 2005) 462 bài 12 2,6% Người viết

Văn học dân gian Bến Tre Nguyễn Phương Thảo, Hoàng Thị Bạch Liên

(Sở VH-TT Bến Tre xuất bản, 1988) 577 bài 43 7,5% Người viết

Đối chiếu tỉ lệ các bài ca có 3 dòng lời đã khảo sát, chúng tôi thấy CD-DC Bến Tre chiếm tỉ lệ nhỉnh hơn (7,5%) so với CD-DC các tỉnh Nam bộ như Bạc Liêu, Đồng Tháp và cả CD-DC chung của Nam bộ. Nguyễn Phương Thảo cũng đã đề cập đến vấn đề này và đặt ra câu hỏi nhưng chưa giải thích: "Phải chăng đó là nét riêng của ca dao Bến Tre, ca dao Nam bộ về mặt hình thức?" [87, tr.60]. Theo chúng tôi, đây là nét riêng của CD-DC Nam bộ và CD-DC Bến Tre. Điều này có thể lí giải từ sinh hoạt hò hát của nhân dân Nam bộ. Như đã nói trên, hò Nam bộ xuất phát từ môi trường lao động nhưng không nhằm huy động hợp lực để lao động mà chỉ để thư giãn tâm hồn. Theo nghiên cứu của Lư Nhất Vũ và Lê Giang, phần lớn các bài hò có cơ cấu gồm 3 mái. Mái có thể hiểu là lời bài hò, gồm 3 đoạn câu. Ba đoạn câu này có thể dài hoặc ngắn:

Ví dụ 1:

- Mái 1: Chết rồi đầu thai thành con hoành hoạch

- Mái 2: Chung lòn tấm vách ngoặt đậu trước hồn mình

- Mái 3: Kêu anh ba bốn tiếng sao cựa mình anh không hay.

Ví dụ 2:

- Mái 1: Nhạn lạc bầy khó gầy duyên oanh én, em ôi nghĩa vợ chồng thì núp lén yêu nhau

- Mái 2: Em ôi, có gặp cảnh nghèo khó sớm cháo chiều rau thì em ôi hãy vui dạ

- Mái 3: Chớ anh có biết liệu làm sao hỡi mình.

Ngoài hò gồm 3 mái (gọi là hò đậu 3) còn có hò 2 mái (gọi là hò đậu 2). Các nghệ nhân thường chuộng lối "hò đậu 3". Lý do thì họ cho rằng "hò đậu 3" khó, đòi hỏi người hò phải giỏi, có khả năng sáng tác đến 3 đoạn câu có vần, có điệu khi diễn đạt điều muốn nói trong khi "hò đậu 2" chỉ cần 2 đoạn câu. Theo chúng tôi có hai lý do để giải thích sự hình thành những bài CD-DC 3 dòng:

- Những bài CD-DC 3 dòng là sự ghi lại từ những bài hò (gồm 3 mái). 3 mái của bài hò tương

ứng với 3 dòng lời khi viết.

- Do thói quen diễn xướng hò (gồm 3 mái) mà khi sáng tác thơ ca dân gian, nhân dân lao

động cho ra đời thêm một thể thơ mới là thể thơ chỉ có 3 dòng.

Nam bộ có diễn xướng hò nên có một số bài CD-DC có 3 dòng lời. Và Bến Tre cũng là một trong những nơi có diễn xướng hò diễn ra khá phổ biến (như đã giới thiệu). Phải chăng vì vậy mà số lượng bài CD-DC Bến Tre chỉ có 3 dòng lời có tỷ lệ nhỉnh hơn ở các vùng khác như đã khảo sát ?

Xét về nội dung, trong 43/577 bài CD-DC có 3 dòng lời chia thành 3 dạng:

- Dạng 1: câu (1) là câu đề dẫn, bắt vần. Đôi khi nội dung không liên quan với hai câu sau.

Câu (2) và (3) diễn đạt điều muốn nói.

- Cây thia lia lá cũng thia lia

Bậu không thương anh bậu nói tiếng nọ tiếng kia

Bậu vu oan giá họa đặng lìa nhau ra.

Dạng này chiếm số lượng nhiều nhất, có 18/43 câu, chiếm tỷ lệ 41,8%.

- Dạng 2: Hai câu đầu miêu tả sự việc để đề dẫn, bắt vần. Câu (3) diễn đạt ý cần nói.

- Dế kêu sầu gốc bưởi

Chim uốn lưỡi nhành chanh

Em có chồng rồi an phận cảm thương anh một mình.

Dạng này có 10/43 câu, chiếm tỷ lệ 23,2%.

- Dạng 3: Cả 3 câu đều nêu, kể lại sự việc, hành động, qua đó bộc lộ nỗi niềm tâm sự.

- Bước lên bàn án vỗ ván sầu riêng

Thấy anh lớn chức cao quyền

Em đây bần tiện không dám kết nguyền với anh.

Dạng này có 15/43 câu, chiếm tỷ lệ 35%.

Xét về vần, những bài CD-DC 3 dòng cũng chia 3 dạng:

- Dạng 1: tiếng cuối câu (1) vần với tiếng cuối câu (2) và tiếng giữa (có thể tiếng thứ 3 trở đi)

của câu cuối:

- Sông Bến Tre xáng múc, tàu "xà lúp" chạy cũng thường

Giang tay đưa bạn lên đường

Hột châu nhỏ xuống đoạn trường anh thấy không.

- Dạng 2: câu (1) không gieo vần mà gieo vần ở tiếng cuối câu (2). Tiếng cuối câu (2) hiệp

vần với tiếng cuối câu (3):

- Kìa vườn dừa cây cao cây thấp

Gió quặt quà cành lá xác xơ

Thương anh em vẫn đợi chờ.

- Dạng 3: tiếng cuối câu (1) vần tiếng giữa câu (2), đồng thời tiếng cuối câu (2) vần tiếng

giữa câu cuối:

- Phụ mẫu đánh tui cây roi quằn quại

Tui té đại xuống vườn huỳnh

Rủi mà tui có thác tui hỏi mình có để tang không?

Những bài CD-DC 3 dòng đã làm phong phú thêm hình thức thể loại của CD-DC và thể hiện tài năng của người bình dân. Để tạo được những bài hát dân gian 3 dòng, người bình dân phải có khả năng miêu tả, vận dụng vần sao cho phù hợp.

Ở thể 3 dòng, các câu đề dẫn, bắt vần thường miêu tả những phong cảnh đặc trưng cho quê hương Nam bộ nói chung và quê hương Bến Tre nói riêng (15/43 bài). Khi là miêu tả vườn dừa "Kìa vườn dừa cây cao cây thấp / Gió quặt quà cành lá xác xơ…", khi là sông nước "Sông Bến Tre xáng múc, tàu "xà lúp" chạy cũng thường…", "Nước chảy liu riu / Lục bình trôi líu ríu…", khi là vật dụng liên quan đến nghề nghiệp trên sông "Đèn treo cột đáy, nước chảy lồng đèn xoay…"…. Những hình ảnh xuất hiện ở thể 3 dòng là hình ảnh cụ thể có mối quan hệ với nhau được thể hiện trong một câu như "Cây lia thia" (vế 1) "lá cũng lia thia" (vế 2) (quan hệ cây- lá), "Ăn cơm cũng nghẹn" (vế 1) "uống nước cũng nghẹn" (vế 2) (quan hệ ăn- uống) hoặc trong hai câu "Nước chảy xuôi" (câu 1)/ "Con cá buôi lội ngược" (câu 2) (quan hệ nước- cá)…. Cách miêu tả cụ thể giúp

người đọc cảm nhận một cách đầy đủ trọn vẹn hình ảnh mà tác giả bài hát đề cập (nếu sự miêu tả chỉ mang tính chất đề dẫn, bắt vần) hoặc có tác dụng gây ấn tượng, nhấn mạnh dòng cảm xúc, ý tứ, nội dung mà bài CD-DC diễn tả. Ví như để bày tỏ quan điểm tình yêu, gắn với lao động, chàng trai hát:

- Một trăm con gái thủ

Một lũ con gái chợ anh không màng

Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa.

Hai câu đầu là hai hình ảnh cụ thể "một trăm con gái thủ" / "một lũ con gái chợ" có tác dụng nhấn mạnh, gây ấn tượng về đối tượng được đề cập là các cô gái giàu sang, quyền quý. Thế nhưng, trong tương quan so sánh các cô gái này (con gái thủ / con gái chợ) với các cô gái vất vả mưa nắng (con gái ruộng) thì tình cảm chàng trai lại nghiêng về con gái ruộng. Việc nêu cùng một lúc hai hình ảnh đã làm nổi bật quan điểm nhất quán của chàng trai trong việc lựa chọn bạn: tình yêu phải gắn với lao động.

Tóm lại, những bài CD-DC có 3 dòng lời là một nét riêng về mặt hình thức của CD-DC Nam bộ nói chung và CD-DC Bến Tre nói riêng. Chính nhu cầu giãi bày, bộc lộ tình cảm trong môi trường diễn xướng khiến cho khuôn hình cố định của các thể thơ bị phá vỡ, biến thành một hình thức mới phóng túng hơn. Thể thơ 3 dòng là một sáng tạo mới của người lao động.

3.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ ở CD-DC Nam bộ khác ngôn ngữ CD-DC Bắc bộ ở cái chất trau chuốt, gọt giũa. Xuân Diệu đã nhận xét ngôn ngữ của CD-DC Bắc bộ như "hòn đá lăn vạn năm, được trau chuốt" và do đó:

"hơi thơ thoải mái ngọt ngào, như không còn khập khiễng chỗ nào nữa. Tuy nhiên trong cái trau chuốt, nhiều khi xảy ra cái khuôn sáo… cái chất sáng tạo và phát hiện của nghệ thuật dường như mòn dần, và đó là nhược điểm của nhiều bài ca dao Bắc bộ" [dẫn theo 25, tr.87].

Ngôn ngữ CD-DC Nam bộ, cụ thể như CD-DC Bến Tre cũng có những câu chải chuốt, óng ả:

- Thương em tình gởi trong mơ

Nhớ em rạo rực như bờ sóng xa.

- Anh đi trên đường Ba Vát

Anh đạp cát cát nhỏ

Anh đạp cỏ cỏ mòn

Yêu nhau từ độ trăng tròn

Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau.

Nhưng mức độ và liều lượng của chúng không nhiều như CD-DC Bắc bộ. Ngôn ngữ CD-DC Nam bộ nói chung, CD-DC Bến Tre nói riêng là ngôn ngữ đời thường, đậm nét phương ngữ Nam bộ và giàu chất xông xáo, phóng túng.

3.2.1. Ngôn ngữ đời thường

Ngôn ngữ đời thường là ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, không cầu kì, hoa mỹ. Đặc biệt đây lại là ngôn ngữ của người Nam bộ, vốn bộc trực, thẳng thắn. CD-DC Bến Tre phần lớn là nói thẳng, rất cụ thể, rõ ràng bằng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày:

- Em có chồng chưa phải thưa cho thiệt

Để anh lầm tội nghiệp cho anh.

- Em có thương anh thì nói thiệt tình

Để anh lên xuống một mình bơ vơ.

Chúng tôi gặp rất nhiều bài CD-DC Bến Tre có lời thơ là câu nói hằng ngày của người Nam

bộ. Có khi là lời nói, lời hỏi của người con trai đối với cô gái:

- Ai đi ngoài lộ giống bộ cô Mười…

- … Nghe người ta biểu em chưa chồng phải hôn ?

- … Thôi về mai mốt ngày gần anh qua.

- … Bởi em ở bạc ông trời nào đành để em.

- … Em có chồng rồi thương sao được mà thương.

Hoặc là câu trả lời của cô gái khuyên lơn, dứt khoát, từ chối kể cả mong đều không may đến

với người mình thương khi anh ta bội bạc:

- Anh có thương em thì đừng có ngại, có ngại tình thì đừng thương…

- … Hổng phải căn duyên nhà ngói đôi ba tòa hổng ham.

- Tui hổng thương anh đừng đi xuống đi lên…

- … Vái anh đi nói vợ cho sóng thần nhận ghe.

Có khi là lời người mẹ trách, mắng con :

- … Má kêu anh dạ " mới chừng này mà mày mê tâm".

- … Vợ đâu mà cưới ban đêm cho mày.

Những câu trên là kiểu câu giao tiếp, đối đáp của người lao động miền Tây Nam bộ. Chúng

đã trở thành lời thơ dân gian một cách tự nhiên, ít thấy sự sửa sang, trau chuốt.

Hoặc nhiều từ, cụm từ là khẩu ngữ của người Nam bộ như "hết hơi", "thương tới giờ", "cũng không ham", "bứt đi cho rảnh", "mất tiêu", "ở không đâu", "huống gì", "sá gì", "uổng công", "phải dè"…

Ở văn nói, người Bến Tre nói riêng thường có kiểu nói tách từ mà mục đích là để nhấn mạnh

ý cần nói. Trong CD-DC, cách nói đó cũng xuất hiện:

- Chẳng thà bậu rách bậu rưới …

- Khó than khó thở lại khó phân trần…

- Anh thương em đừng dỗ đừng dành…

- Anh thương em dù tiếng thị lời phi…

- …Anh đừng giao đừng hẹn đừng thề uổng công

- …Ham nhân ham nghĩa không ham bạc tiền.

- …Lại đây bỏ thảm bỏ sầu cho anh.

- …Biểu anh một đợi hai chờ cũng không.

Ngôn ngữ đời thường còn biểu hiện qua việc sử dụng phương ngữ Nam bộ. Phương ngữ Nam bộ được biểu hiện trước hết qua những từ ngữ chỉ sinh hoạt hằng ngày như mần (làm), biểu (bảo), rầy (la mắng), đặng (được), hổng (không), gạt (lừa dối), vìa (về), chuộng (thích), để (bỏ), sình (bùn) …

- …Tôi mần thơ trái ấu tôi gởi thấu Ngọc hoàng…

- Anh tình em nghĩa biểu thôi sao đành…

- Tối về anh ngủ anh mớ má anh rầy…

- Gạt em em đợi em chờ…

- Cơm ăn hổng đặng, áo gài hở bâu…

- Mấy lời anh dặn em vìa đừng quên…

- Trắng như bông lòng anh không chuộng…

- …Năm nay chồng để như chưa có chồng

- Đường đi khúc sụp, năm bảy khúc sình…

Những từ địa phương được tạo thành do cách phát âm không chuẩn của người Nam bộ như chưn (chân), gá dơn (gá duyên), nhơn nghĩa (nhân nghĩa), linh đinh (lênh đênh), minh mông (mênh mông), nhưn (nhân), tầm (tìm), bịnh (bệnh) …được tìm thấy rất nhiều trong CD-DC Bến Tre:

- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn…

- Em gá dơn với anh gá đỡ không lẽ gá đời…

- Minh mông một dãy giang hà…

- Bỏ em ở lại linh đinh một mình…

- …Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa ngọt ngon.

- …Lên non tầm ngọc, bốn cửa sâu tui tầm mình.

- Ghe lui khỏi vịnh em thọ bịnh đau liền…

Có khi là cách nói rút gọn: ngoải (ngoài ấy), trển (trên ấy), ổng (ông ấy), bả (bà ấy), cổ (cô

ấy) …

- …Anh muốn theo em về ngoải để cất nhà gần kế bên.

- …Thôi anh về ở trển mà em ở trên này lạnh vách lạnh phên kêu trời.

- Quất ông tơ cái chót, ổng nhảy tót bụi trâm bầu…

Phương ngữ Nam bộ biểu thị qua cách xưng hô. Cách xưng hô của người miền Nam và người

Bến Tre nói riêng thường gần gũi, thân mật, tự nhiên "cha mẹ" được thay thế bằng "ba má":

- Đi ngang nhà má, tay tui sá chân tui quỳ

Tui thương con má sá gì tấm thân.

- Cửa song lam, trên ba khóa, dưới má gài

Em ở trong rơi lệ, anh ở ngoài cũng lệ rơi.

Người ta thường gọi nhau theo thứ bậc mà không gọi tên:

- Ai đi ngoài lộ giống bộ cô Mười…

- Em có chồng rồi phải nhớ nghĩa anh Ba…

- Làm thế tội lắm bé Ba…

Trong quan hệ tình cảm lứa đôi, cách xưng hô người Nam bộ ảnh hưởng từ vùng Nam Trung

Bộ, họ thường xưng mình là "qua", gọi đối tượng của mình là "bậu":

- Bậu nói với qua bậu không hái lựu bẻ đào

Chớ đào đâu bậu bọc lựu nào bậu cầm tay.

- Con đò bậu chớ nghi ngờ

Bậu đưa khách bậu, qua chờ khách qua.

Riêng ở Bến Tre, ngoài cách xưng hô trên còn có cách xưng hô đặc trưng khác "tui - mình". "Tui" đồng nghĩa với "tôi", "ta". Thực tế, người Nam bộ các tỉnh thường hay xưng "tui" khi nói chuyện với nhau nhưng trong CD-DC các tỉnh lại ít thấy. Thống kê các bài CD-DC cùng chủ đề tình yêu lứa đôi ở các địa phương Nam bộ, chúng tôi có số liệu:

Tên sách Tác giả - NXB Số lượng khảo sát Số lượng bài nhắc đến từ "tui" Tỷ lệ

(%)

VHDG Tiền Giang Sở VH-TT Tiền Giang xuất bản (1985) 549 bài 0 0%

VHDG Bạc Liêu Chu Xuân Diên (chủ biên)

(NXB Văn nghệ TP.HCM, 2005) 354 bài 0 0%

CD Đồng Tháp Đỗ Văn Tân (chủ biên)

(Sở VH và TT Đồng Tháp , 1984) 635 bài 2 0,3%

VHDG Bến Tre Nguyễn Phương Thảo - Hoàng Thị Bạch Liên

(Sở VH-TT Bến Tre xuất bản, 1988) 577 bài 27 4,7%

Số lượng thống kê cho thấy ở CD-DC Bến Tre, chủ thể trữ tình xưng "tui" khá nhiều. Trong 27 bài này thì từ "tui" được nhắc đến tổng cộng 53 lần. Việc xuất hiện nhiều từ "tui" trong CD-DC Bến Tre cho thấy mối quan hệ mật thiết ngôn ngữ CD-DC với ngôn ngữ đời thường. Từ "tui" mang sắc thái trung tính, dễ sử dụng. Nó có thể diễn tả quan hệ chưa đủ độ chín để thân mật hoặc quan hệ gần gũi, thân thiết. Chủ thể trữ tình có thể xưng "tui" khi nói chuyện làm quen, ngỏ lời:

- Hỡi người quay mặt anh nhìn

Tui coi có phải chung tình tui thương.

Hay có thể xưng "tui" khi mức độ tình cảm gắn bó, thân thiết hơn:

- Tui xa mình trời nắng tui nói mưa

Canh ba tui nói sáng ông trời trưa tui nói chiều.

Khi hai người là mối quan hệ phu- thê vẫn sử dụng đại từ "tui":

- Một chàng hai thiếp chắc chàng xử hiếp tui rồi

Tối phòng ai nấy ngủ gạo hai nồi nấu riêng.

Không chỉ là từ xưng hô cho hai người ở quan hệ lứa đôi, đại từ "tui" còn dành cho các mối

quan hệ khác: mẹ chồng -nàng dâu, mẹ vợ- con rể…

- Đi ngang nhà má, tay tui sá chân tui quì

Tui thương con má sá gì tấm thân.

- Con mèo trèo lên cây táo

Mẹ chồng khôn khéo đánh đuổi nàng dâu

Bà ơi tui hổng sợ bà đâu

Bà cưới tui về có rượu có trà

Có đưa có rước tui mới về tới đây…

Cách xưng hô này thân mật, đậm nét thô mộc, dân dã của vùng quê sông nước. Cách xưng hô cho thấy lời ăn tiếng nói của người bình dân thường đi vào câu hát dân gian mà không có sự sửa sang.

CD-DC Bến Tre có nhiều cặp từ xưng hô sử dụng đại từ "tui" như "tui - mình","tui - bậu",

"tui - anh", "tui - bạn", "tui - đó"…

- … Phải chi tui đặng hóa con chim huỳnh

Bay vô phòng bậu tỏ hết sự tình cho bậu nghe.

- Nhức đầu tui vặt lá tiền xanh

Tội trời tui chịu tui thương anh hơn chồng.

Không chỉ xưng hô với những từ ngữ riêng như thế, người bình dân miền Tây còn dùng từ "mèo" để chỉ người yêu. Tự điển "Từ ngữ Nam bộ" của Huỳnh Công Tín giải thích "mèo" là "tình nhân gái, từ dùng có ý nói đùa hoặc không trân trọng" [84, tr.818]. Trong CD-DC Bến Tre, từ "mèo" là cách nói dí dỏm chỉ người yêu, không phải là thái độ "không trân trọng":

- Cá rô, cá lóc, cá kèo

Cô nào kẹp tóc là mèo của tôi.

- Trời mưa khổ qua đắng, trời nắng khổ qua đèo

Thương em anh kí giao kèo

Thò tay điểm chỉ em mới thiệt con mèo của anh.

So với văn học viết, VHDG là nơi mà lời ăn tiếng nói hằng ngày dễ xuất hiện nhất. CD-DC là loại hình gắn với diễn xướng nên ngôn ngữ đời thường càng được thể hiện rõ nét. Sự phong phú đa dạng trong ngôn ngữ đời thường của CD-DC Bến Tre thể hiện qua việc sử dụng các kiểu câu giao tiếp hằng ngày, phương ngữ Nam bộ và đại từ xưng hô. Ngôn ngữ đời thường làm cho tác phẩm

VHDG trở nên gần gũi với mọi người nhưng cũng có những khó khăn nhất định nếu như người đọc không hiểu nhiều về phương ngữ vùng miền.

3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất xông xáo, phóng túng

Ngôn ngữ giàu chất xông xáo, phóng túng là ngôn ngữ đầy sức sống, tác động vào cách nhìn, cách nghe của con người. Chất xông xáo, phóng túng biểu hiện ở cách dùng những hình ảnh có sức gợi tả cao. Chúng rất rõ ràng, sinh động. Để diễn tả anh chàng quá vui khi được mẹ cưới vợ, CD-DC Bến Tre đã dùng hình ảnh tương quan:

- Chuồn chuồn bay bổng nhổng đuôi

Mẹ kêu cưới vợ anh vui nhổng đầu.

Nói về cách sống ở đời thì CD-DC cụ thể hóa bằng hình ảnh "mềm như chuối":

- Nhu thắng cương, nhược thắng cường

Em ở mềm như chuối mà thế thường còn chê.

Cũng nhắc về hình ảnh "lửa" nhưng CD-DC xứ Quảng chỉ là hình ảnh "lửa" chung chung. CD-DC Bến Tre là lửa trong tâm thế cụ thể như "lửa cận mái hiên", "lửa gần rơm", "lửa cháy phừng". Ai đã từng ở nhà bằng tranh, tre, nứa, lá mới hiểu được sự nguy hiểm của hình ảnh "lửa cận mái hiên". Thái độc bức xúc của chàng trai khi người yêu lấy chồng hàng xóm:

- Phải chi em có chồng xa anh đà không giận

Bởi em lấy chồng gần như lửa cận mái hiên.

Hay lời trách của người trong cuộc:

- Lửa gần rơm không thổi nó cũng lừng

Dẫu có xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi.

Hay lời hẹn sẽ trở về của chàng trai được CD-DC diễn tả:

- Anh ra đi phát một lời thề

Quần tận lai, áo tận sống anh cũng vìa thăm em.

Thực tế, quần có "lai", áo có "sống", nhưng không bao giờ có chuyện quần chỉ còn cái "lai", áo chỉ còn cái "sống". Nói như thế để thấy rằng chàng trai nhất định sẽ trở về thăm người yêu dù có bất cứ chuyện gì xảy ra. Chàng trai sẽ không bỏ đi biệt tăm, mà đó vốn là nỗi lo sợ của những cô gái trong tình yêu.

Như vậy, để biểu đạt ý tưởng, CD-DC Bến Tre đã cụ thể hóa bằng hình ảnh hết sức gần gũi,

chân tình.

Chất xông xáo, phóng túng còn biểu hiện qua cách sử dụng tính từ (còn gọi tính ngữ). Tính từ trong CD-DC Bến Tre rất phong phú và đa dạng. Mỗi một tính từ đều nói lên một mức độ cụ thể và chính xác về sự vật, hiện tượng như "đỏ" thì có "đỏ thẫm", "đỏ lắm lói":

- … Sông Ba Lai bên bồi bên hẩm

Đất Ba Lai đỏ thẫm phù sa…

- Em ơi đừng ham nhà ngói đỏ lắm lói chớ vỏ có ruột không

Ưng anh đây xứng vợ lại xứng chồng

Trời nực anh quạt, ngọn gió lồng anh che.

Hay "nhỏ" thì là "nhỏ xíu", "nhỏ thó", "nhỏ nhít":

- Thấy em nhỏ thó lại có duyên ngầm

Anh phải lòng thầm hơn mấy năm nay.

- Má ơi chuột chạy đám gừng

Thân con nhỏ nhít má đừng đánh con.

Hoặc "rộng" thì có "rộng rình", "rộng thình thình":

- Sáng trăng trải chiếu rộng rình

Lăn qua lộn lại không biết bạn chung tình tôi ở đâu.

- Nhà hai căn hai chái nó rộng thình thình

Ghế cẩm lai, giường chân tiện, em hỏi mình em ngủ đâu ?

Còn rất nhiều tính từ tác động mạnh vào nhận thức của con người như "ướt đầm", "mỏng dính", "buồn cha chả là buồn", "chua lét", "cao nghệu", "non nhớt", "tèm lem", "chòm nhom", "lững đững lờ đờ", "hườm hườm", "chàng ràng"…

- Cấy rồi mùa qua sông làm mướn

Ông trời ổng thổi ngọn gió chướng buồn cha chả là buồn…

- Buồn riêng rồi lại tủi thầm

Hai tay áo chẹt ướt đầm cả hai.

Với cách sử dụng tính từ như thế, lời bài thơ dân gian trở nên rõ ràng, cụ thể, góp phần bộc lộ tâm trạng trữ tình, biểu lộ tư tưởng thẫm mỹ một cách ưu việt. Người đọc có thể cảm nhận dễ dàng nỗi buồn của chủ thể trữ tình, buồn đến nỗi phải khóc và phải khóc nhiều lắm mới là ướt đầm cả hai tay áo chẹt vì nước mắt không chỉ thấm ướt áo mà nó còn bết dính vào cả da thịt.

Tính cách, tâm lý của con người trên cù lao này rõ ràng tác động mạnh đến ngôn ngữ CD-DC Bến Tre. Chất xông xáo, phóng túng góp phần làm CD-DC Bến Tre sinh động, hấp dẫn hơn. Nó thể hiện sự năng động, trẻ trung của con người trên vùng đất mới.

3.3. Kết cấu

Tự điển thuật ngữ văn học định nghĩa "Kết cấu là một phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng tác phẩm, triển khai, trình bày cốt truyện, cấu trúc hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ" [31, tr.107]. Thực ra, CD-DC không có cốt truyện đúng theo quan điểm và ý nghĩa của thuật ngữ này khi dùng cho tác phẩm tự sự. Có thể hiểu, ở CD-DC, kết cấu là cách sử dụng, tổ chức từ để tạo thành câu và phương cách liên kết câu để hình thành lời bài ca.

CD-DC Việt Nam thường có kết cấu ngắn gọn, mang dấu ấn của lối đối đáp diễn xướng dân

gian và sử dụng đậm đặc các công thức truyền thống.

Theo nhiều cách phân chia khác nhau, CD-DC có các hình thức kết cấu như: kết cấu đối thoại, kết cấu miêu tả, trần thuật, kết cấu thu hẹp hình tượng, kết cấu diễn đạt trực tiếp, kết cấu

song hành tâm lý, kết cấu theo kiểu công thức có sẵn, kết cấu miêu tả thiên nhiên ở phần mở đầu …. CD-DC Bến Tre có các kết cấu nổi bật sau:

3.3.1. Kết cấu đối thoại

Kết cấu đối thoại có thể hiểu là lời đối thoại hoàn chỉnh có đối đáp hoặc không đối đáp biểu hiện qua từ xưng hô hoặc cặp từ xưng hô "mình - ta", "anh - em", "thiếp - chàng"… hoặc những hình ảnh tượng trưng: "mận - đào", "thuyền - bến", "loan - phụng"….

- Đường xa thì thật là xa

Mượn mình làm mối cho ta một người…

- Chàng về thiếp cũng xin đưa

Xin trời đừng nắng chớ mưa quên đường.

Bên cạnh kết cấu đối thoại là kết cấu trần thuật miêu tả. CD-DC Bến Tre sử dụng kết cấu đối thoại với số lượng nhiều bởi CD-DC chủ yếu là sản phẩm hình thức diễn xướng dân gian. Khảo sát các bài CD-DC Bến Tre theo các chủ đề, chúng tôi có số liệu sau:

Chủ đề Kết cấu đối thoại Kết cấu trần thuật, miêu tả

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Cảnh vật và con người 29/68 42,6% 39/68 57,4%

Tình yêu lứa đôi 538/577 93,2% 39/577 6,8%

Tình cảm gia đình và quan hệ xã hội 219/281 77,9% 62/281 22,1%

Kết cấu đối thoại tập trung nhiều ở chủ đề tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình vì đây là kết cấu hướng tới một đối tượng để bày tỏ tình cảm của mình với những nỗi niềm. Sau đây là lời nhân vật trữ tình xin lỗi, năn nỉ người bạn đời của mình hoặc lời trách khi duyên nợ không tròn:

- Thò tay vuốt ngực chung tình

Nước sôi còn nguội huống chi mình giận tôi.

-… Bậu với qua duyên mãn tình rồi

Uổng công lên xuống đứng ngồi bấy lâu

Kết cấu đối thoại gồm đối thoại một vế và đối thoại hai vế.

Đối thoại một vế là hình thức thường thấy ở CD-DC, là lời đối thoại tương đối hoàn chỉnh một phía của chủ thể trữ tình. Đây là hình thức kết cấu đơn giản nhất và phổ biến hơn cả. Kết cấu này tiêu biểu cho phương pháp tự nhiên là biểu đạt thẳng trực tiếp tư tưởng tình cảm của nhân vật trữ tình. Bài hát theo lối kết cấu này là sự truyền đạt tình cảm của cô gái đến chàng trai hoặc ngược lại:

- Cây bần gie đom đóm đậu sáng ngời

Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than.

- Chọn nơi sang cả má gả em nhờ

Anh đây nghèo khổ biết chờ được không?

Tuy là một vế nhưng những bài ca trên đều in dấu lối trò chuyện của nhân vật trữ tình và đối

tượng trữ tình.

Đối thoại hai vế là lời đối đáp nhau của hai nhân vật trữ tình. Đây là kết cấu đặc thù của CD- DC vì nó liên quan đến môi trường thực hành, sinh hoạt của bài hát dân gian. Về nội dung, đối thoại hai vế có thể là hai lời đối thoại có nội dung tương đối hoàn chỉnh có thể hòa quyện vào nhau:

- Chuồn chuồn đậu ngọn mía bưng

Em đà có chốn anh đừng vãng lai.

- Anh muốn vãng lai sợ nàng mang tiếng

Giả khách đi đường sớm tối viếng thăm.

Bài ca trên gồm hai lời, lời của cô gái khuyên chàng trai đừng lui tới thăm nom vì cô đã có chồng. Cô muốn làm tròn bổn phận của người vợ, giữ đúng khuôn phép lễ giáo phong kiến. Chàng trai đáp lại ở lời hai, chàng hiểu điều đó nhưng biết rằng không thể dứt được tình cảm của mình nên đành làm khách đi đường mà ghé thăm. Và phải chăng cô gái này là cô chủ hàng nước?

Cũng có khi nội dung đối lập nhau, trình bày dưới hình thức đố - đáp, đối - đáp, đâm - bắt.

Hình thức đố - đáp gồm một vế đố và một vế giải.

Đố: Thấy anh ăn học Sài Gòn

Tui đây mới hỏi trăng tròn mấy đêm ?

Đáp: Qua đứng giữa trời qua chẳng dám nói thêm

Trăng rằm mười sáu hai đêm trăng tròn.

Hình thức đối - đáp gồm một vế ra đề hoặc đặt vấn đề, một vế đáp lại hoặc đối lại vấn đề.

Đối: Bánh nhiều quá cũng kêu bánh ít

Chuối non nhớt cũng gọi chuối già

Anh mà đối được mới là đáng khen.

Đáp: Canh chua lét sao kêu canh ngọt

Cây cao nghệu cũng gọi cây lùn

Đối chơi với bạn anh hùng há thua.

Hình thức đâm - bắt (Nam bộ gọi là quăng - bắt) nội dung hai vế khiêu khích, châm biếm

nhau:

Đâm: Đường xa diệu vợi

Xin hỏi em có chồng chưa thuật lại anh tường

Để bước vô hò người kêu chồng, người kêu vợ

Vậy lỗi đạo can thường của em.

Bắt: Nhật ngoạt hoài thai tam niên nhũ bộ

Sách có câu nam nữ giữ đồng

Trai như anh được quyền năm thê bảy thiếp

Gái như em không được hai chồng hả anh?

Cũng như các địa phương khác, ở CD-DC Bến Tre, hình thức đối thoại hai vế ít hơn hình thức đối thoại một vế. Cụ thể chủ đề Tình yêu lứa đôi có 11/577, bài có kết cấu đối thoại hai vế (tỉ lệ 1,9%), chủ đề Cảnh vật và con người không có bài nào. CD-DC chủ yếu là sản phẩm sinh hoạt diễn xướng như hò, hát đối đáp..., tức là hình thức của chúng là đối thoại hai vế. Nhưng trong quá trình sưu tầm có thể các nghệ nhân chỉ nhớ vế trước mà quên vế sau hay ngược lại hoặc khi sưu tầm người viết lại ghi hai vế tách biệt nhau vì cho rằng mỗi vế là một ý trọn vẹn. Chính vì vậy, kết cấu đối thoại một vế nhiều hơn kết cấu đối thoại hai vế.

Rất nhiều các câu mở đầu ở các bài CD-DC hướng đến người đối thoại:

- Thôi thôi em đừng chảy nước mắt gừng...

- Thương em chí quyết thương hoài...

- Bậu có thương anh thì thương cho rõ...

- Em có chồng chưa phải thưa cho thiệt...

Trong khi đối thoại, ngoài những cặp từ xưng hô như đã kể ở trên, CD-DC Bến Tre có thêm những cặp từ xưng hô khác, vốn là đặc trưng của người miền Nam như "qua - bậu", "tui - mình"....

- Tui thương mình tui giấu kín trong tâm

Giả tỉ như trái lựu chín thâm trên cành.

- Nước lên khỏi chậu tràn âu

Qua lo cho bậu làm dâu không rồi.

Các nhà nghiên cứu đã giải thích nguyên nhân của kiểu kết cấu đối thoại là do hầu hết CD- DC về tình yêu nam nữ là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ từ lúc gặp gỡ, ướm hỏi đến se kết, bộc lộ những nhớ nhung, hờn trách. Chính môi trường diễn xướng hò hát trong lao động hội hè là điều kiện để hai bên bày tỏ tình cảm với nhau. Hoặc cả khi không gặp nhau họ vẫn hướng về đối tượng của mình mà giãi bày, chia sẻ.

Kết cấu đối thoại trong CD-DC giúp người đọc cảm nhận hơi ấm nóng của lối trò chuyện giãy bày trực tiếp. Chính vì vậy, CD-DC trở nên gần gũi, thân thiết và là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống con người.

3.3.2. Kết cấu miêu tả thiên nhiên ở phần mở đầu

Kết cấu miêu tả thiên nhiên ở phần mở đầu có thể hiểu là thiên nhiên là đối tượng được nhắc đến trong những câu đầu. Cũng có những bài ca miêu tả trọn vẹn thiên nhiên (thường tập trung ở chủ đề Cảnh vật và con người) với cảm hứng tự hào, ngợi ca:

- Bến Tre ba đảo dừa xanh

Quê hương Đồng Khởi mát lành phù sa.

Khảo sát chủ đề Tình yêu lứa đôi có 272/577 (tỉ lệ 47%), chủ đề Tình cảm gia đình và các quan hệ khác có 75/281 (tỉ lệ 26,6%) bài theo kết cấu miêu tả thiên nhiên ở câu mở đầu. Các bài ca sử dụng kết cấu trên thường lấy thiên nhiên làm cái cớ để bộc lộ tâm trạng, nhưng thiên nhiên ít có sự liên hệ về mặt hình tượng mà chỉ là liên hệ về tạo vần. Ví như người lao động đã thương nhau, dù xa cách họ vẫn quyết tâm chờ đợi:

- Bông ngâu rụng xuống gốc ngâu

Hai đứa mình thương lỡ bao lâu cũng chờ.

Lúc xa nhau, họ nhớ nhung đến cả quên ăn mất ngủ. Nhân vật trữ tình đã thú thật lòng mình:

- Mặt trời chói lặn đỏ điều

Tôi xa người nghĩa bỏ cơm chiều không ăn.

Hai bài CD-DC trên, hình ảnh thiên nhiên ở câu đầu chẳng có liên quan gì đến nội dung bộc lộ ở câu sau. Với diễn đạt như thế, các nhà nghiên cứu cho rằng đó là hiện tượng đặc biệt trong cấu tứ của thơ trữ tình dân gian và hiện tượng này được giải thích bằng chính ngay những đặc điểm của quá trình sáng tạo trong CD-DC.

Chủ thể đích thực của những bài CD-DC ở Bến Tre là người nông dân, những người "trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn giao tiếp với xã hội" [89, tr.46]. Vì thế, người dân ở đây vẫn mang những đặc điểm của người nông dân Việt Nam trong quan hệ với thiên nhiên. Cho nên, thiên nhiên là đối tượng được nêu lên trong những câu mở đầu, là phần gợi hứng cho bài CD-DC.

Những hình ảnh xuất hiện ở câu mở đầu thường gắn liền với cuộc sống con người, có thể chia

thành các dạng sau:

Hệ thống hình ảnh thiên nhiên vũ trụ và môi trường địa lý:

Đó là những vật thể thiên nhiên vũ trụ như trời, đất, trăng, sao, sông, biển…

- Sao vua chín cái nằm kề…

- Trăng lên khỏi núi khuất bụi chuối con trăng lờ…

- Biển Đông sóng dậy cát đùa…

- Sông Hàm Luông có dòng nước bạc…

Đến các hiện tượng thiên nhiên như mây, gió, mưa, nắng, nước lớn, nước ròng, ngày, đêm,

sáng, chiều…

- Đêm đêm nằm dưới bóng trăng…

- Mưa sao ngọn cỏ li bì…

- Gió thổi re re…

- Nước ròng bỏ bãi xa cừ…

Khi là loài thực vật hoang dại như: bìm bìm, cỏ chỉ, ô rô… đến loài thực vật gần gũi cuộc

sống con người như: khổ qua, cam sành, chanh, khế, sung, đặc biệt là cây bần và cây dừa.

- Ô rô ba lá ô rô…

- Đắng khổ qua chua đà chanh giấy…

- Cam sành gọt vỏ còn the…

- Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm…

- Bần gie đom đóm đậu sáng ngời…

Khi là loài động vật nhỏ bé như: kiến, ong, chim … đến loài động vật gắn với đời sống hàng ngày như: cá, tép và cả những loài động vật là nỗi kinh hoàng cho người đi khai phá như: sấu, đỉa…

- Ước gì anh hóa kiến vàng…

- Chim nhàn chim nhạn có đôi…

- Nước mắm ngon dầm con cá đối…

- Chim quyên hút mật bông quì…

- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn…

Trong cách miêu tả thiên nhiên, tác giả dân gian sử dụng những công thức truyền thống. Hơn bất cứ thể loại nào, CD-DC sử dụng triệt để các công thức truyền thống. Công thức truyền thống là các mẫu đề ổn định, được sử dụng lặp đi lặp lại tạo nên cách nói quen thuộc, thành một kho "môtip" phong phú. Ở CD-DC Bến Tre, thiên nhiên được miêu tả dưới dạng thời gian có "môtip" quen thuộc như "đêm khuya", "đêm đêm", "chiều chiều"...

Môtip "chiều chiều" có khi mang sắc thái miêu tả trung tính:

- Chiều chiều én liệng trên trời

Rùa bò dưới nước khỉ ngồi trên cây.

- Chiều chiều gọt mướp nấu canh

Thấy anh qua lại bỏ hành cho thơm.

Có khi diễn tả nổi nhớ, nỗi buồn như là nhớ mẹ, nhớ con, nhớ quê của người xa xứ:

- Chiều chiều ra đứng ngã sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

- Chiều chiều chim vịt kêu chiều

Nhớ con quân dịch chín chiều ruột đau.

Thường khi viện dẫn thời gian, trạng thái tâm hồn của chủ thể trữ tình thường mang cảm xúc buồn. Môtip trên liên quan đến nỗi buồn tình yêu nhưng chỉ dừng lại là những mong nhớ, trông ngóng hoặc những lo lắng cho cuộc sống:

- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người áo trắng khăn đều vắt vai.

- Chiều chiều lo bảy lo ba

Lo cau trổ muộn lo nhà thiếu ăn.

Môtip "đêm khuya" thường mở đầu bài ca giãy bày tâm trạng ở mức độ cao hơn như đau khổ,

buồn thương của tình yêu sâu sắc:

- Đêm khuya gà gáy thẹn thùng

Bầm gan tím ruột vì lời anh than.

- Đêm khuya vạch vách trao thơ

Biểu anh lấy vợ đừng chờ uổng công.

Thiên nhiên được miêu tả cụ thể là thiên nhiên vũ trụ có công thức như "ngó lên", "ngó lên- ngó xuống"…. Các môtip này đều là sự bộc lộ tình cảm nhớ thương, có lẽ trong chặng đầu của tình cảm:

- Ngó lên trời thấy mây bay vần vũ

Ngó xuống biển thấy sóng vỗ lao xao

Em thương anh ruột thắt gan bào

Biết em có thương lại chút nào cho không?

- Ngó lên mây bạc trời hồng

Ở đâu cũng vậy ưng anh cho rồi.

- Ngó lên mây trắng trăng tròn

Em đây anh đó em còn thương ai?

Nói chung, các môtip miêu tả về thiên nhiên khá phong phú, đọng

sâu trong lối diễn tả dân gian tạo nên sự giàu có về số lượng và vẻ đẹp thẫm mỹ của CD-DC.

Hệ thống hình ảnh là vật dụng trong sinh hoạt của con người:

Những vật dụng này do con người sáng tạo, có nhà nghiên cứu đã gọi chúng là "thiên nhiên thứ hai", để thích ứng với môi trường thiên nhiên như ghe, xuồng, đò, cầu …, vốn là phương tiện để đi lại cũng như kiếm sống trên sông, rạch…

- Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi…

- Tàu lui ốc thổi vang đầy…

- Cách nhau một chuyến đò ngang…

- Phải chi quan bắc cầu liền...

Đến những thứ gắn bó thân thiết không thể thiếu trong cuộc sống của họ như nhà, áo, đũa,

trâm, khăn …hoặc dụng cụ lao động như dao phay, cái phảng, cù nèo…

- Nhà em cột trắc kèo lim…

- Dao phay cặp cổ…

- Áo may xếp để chờ khuy…

- Đũa mun một chiếc khó cầm…

- Trâm vàng giắt chặt tua rung…

Sự xuất hiện của thiên nhiên trong CD-DC Bến Tre phản ánh sự gắn bó người lao động Bến Tre với môi trường tự nhiên vì nơi đây vừa là môi trường lao động, vừa là môi trường sinh sống của họ. Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên cho rằng: "Cảm hứng thiên nhiên trong ca dao, dân ca phản ánh tính chất phát, hồn nhiên của những tâm hồn khoáng đạt nơi thôn dã" [46, tr.478].

Như vậy, kết cấu có phần đầu miêu tả thiên nhiên ở CD-DC Bến Tre góp phần khẳng định

một đặc điểm chung của cấu tứ trong bài hát dân gian.

KẾT LUẬN

CD-DC Bến Tre hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc khai phá và xây dựng của những lớp cư dân nơi đây suốt mấy thế kỉ qua. Nó là hoa trái tinh thần của vùng đất đai sông nước trù phú bị ngăn cách bởi sông lớn và biển. Nó cũng là một thể loại tương đối ổn định sẽ phản ánh trọn vẹn về vùng đất và con người nơi đây.

1. CD-DC Bến Tre là tấm gương phản ánh chân thực cảnh quan thiên nhiên và ghi nhận trung thực sự kiện lịch sử. Đến với CD-DC Bến Tre, người đọc tìm thấy được cảnh quan thiên nhiên vùng đất này. Cụ thể, địa hình được miêu tả với ba dãy cù lao bốn bề sóng nước, đặc biệt là những "con giồng" cao thuận lợi trong việc trồng hoa màu. Loài vật nổi bật là những loài một thời đã từng gây kinh hoàng cho người đi khai phá như cọp, sấu cũng như sự phong phú của các loài động vật dưới nước. Với cây cối, Bến Tre nổi bật với hình ảnh cây dừa và cây bần. Điều này do điều kiện thổ nhưỡng của vùng đất. Còn đặc sản vùng đất là những sản phẩm được người dân khai thác, nuôi trồng, chế biến từ điều kiện địa hình của vùng đất như hải sản (cá, tôm…), cây trái (dừa, lúa, sầu riêng, măng cụt…), sản phẩm thủ công (lụa, kẹo dừa, bánh tráng…). Không chỉ thế, CD-DC Bến Tre ghi dấu những sự kiện trong đời sống hằng ngày của vùng đất như trận bão lớn năm Giáp Thìn (1904) đến những sự kiện lịch sử chống xâm lược Pháp, Nhật, Mỹ và chống giặc dốt.

2. Một đối tượng phản ánh không thể thiếu trong CD-DC Bến Tre là con người. CD-DC đã khắc họa con người nơi đây với những phẩm chất truyền thống của người Việt Nam như cần cù, chăm chỉ, lạc quan, khéo léo, tài hoa trong lao động sản xuất. Trong chiến đấu, họ nổi bật với sự thông minh, gan dạ, đặc biệt hình tượng người phụ nữ Bến Tre được CD-DC quan tâm, chú ý. Trong đời sống tình cảm, ngoài sự thủy chung họ thể hiện cá tính phóng khoáng, mạnh mẽ. Chính vì vậy, CD-DC Bến Tre nhắc nhiều đến từ "nghĩa", vốn là một kiểu ứng xử của con người Nam bộ.

3. Về thể thơ, CD-DC Bến Tre sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc như thể lục bát và song thất lục bát nhưng mức độ ít hơn so CD-DC Bắc bộ. Xu hướng mà CD-DC Bến Tre chiếm lĩnh là các biến thể của lục bát và song thất lục bát (chiếm 40,73 %). Như vậy, dù có ý thức sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc nhưng do nhu cầu giãi bày nỗi lòng nên người lao động không rập khuôn theo những quy tắc. Thể hỗn hợp có nhưng số lượng không nhiều (4,67%). Xuất hiện ở CD-DC Bến Tre còn có những bài ca chỉ có 3 dòng lời. Đây là hiện tượng khá đặc biệt ở CD-DC Nam bộ, mà nguyên nhân có thể do sinh hoạt hò hát nơi đây. Thể 3 dòng là sự sáng tạo của nhân dân lao động, có yêu cầu về vần nhưng ở mức độ phóng khoáng hơn, giúp người sáng tác có thể dễ dàng, thoải mái diễn đạt tâm tình của mình trong khuôn khổ của 3 câu mà không hạn định về số tiếng.

4. Cũng như CD-DC Nam bộ, ngôn ngữ CD-DC Bến Tre là ngôn ngữ đời thường, đậm nét phương ngữ và giàu chất xông xáo, phóng túng. Chất đời thường thể hiện qua văn phong nói hằng ngày như dùng khẩu ngữ, kiểu nói tách tư, dùng phương ngữ Nam bộ, đặc biệt là sử dụng đại từ xưng hô "tui". Đó là chất dân dã ở con người Bến Tre. Nét thú vị của ngôn ngữ CD-DC Bến Tre là chất xông xáo, phóng túng biểu hiện ở cách dùng hình ảnh có sức gợi tả và cách dùng tính từ, trong đó mỗi một tính từ đều nói lên một mức độ cụ thể và chính xác về sự vật, hiện tượng. Chính tâm lý, tính cách của con người xứ cù lao đã tác động mạnh đến ngôn ngữ CD-DC.

5. Về kết cấu, CD-DC Bến Tre cũng có hai kiểu nổi bật: kết cấu đối thoại và kết cấu miêu tả thiên nhiên ở phần đầu. Cả hai kết cấu này đều là kết cấu phổ biến của các bài hát dân gian. Kết cấu đối thoại là sản phẩm của hình thức trao gởi tình cảm của nam và nữ từ lúc gặp gỡ đến khi thành vợ chồng. Họ đối đáp với nhau hay có khi chỉ là hát đơn phương để bộc lộ nỗi lòng. Kết cấu này chiếm tỉ lệ cao ở CD-DC Bến Tre, nhất là ở chủ đề Tình yêu lứa đôi (93,2%). Kết cấu miêu tả thiên nhiên ở phần mở đầu ở CD-DC cũng đáng chú ý. Việc thiên nhiên xuất hiện ở phần mở đầu của bài hát dân gian làm cho bài hát trở nên giàu hình ảnh, phản ánh sự gắn bó của người lao động với thiên nhiên vì đây là môi trường họ giao tiếp nhiều hơn giao tiếp với xã hội.

Tìm hiểu đề tài "Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre" là tìm hiểu cái chung và cái riêng của CD- DC Bến Tre so với CD-DC các vùng miền khác của đất nước. Cái chung và cái riêng ấy được quy định bởi những đặc điểm về địa lý, lịch sử, xã hội, văn hóa và con người… Dù có những điểm khác nhưng cơ bản CD-DC Bến Tre vẫn nằm trong dòng chảy chung của CD-DC dân tộc. Vì thế, sưu tầm, nghiên cứu CD-DC Bến Tre là góp phần trực tiếp vào việc nghiên cứu văn hóa dân gian, đóng góp vào kho tàng CD-DC chung của dân tộc những bài ca đậm hương sắc của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu thêm về đời sống tinh thần của người dân xứ cù lao cũng như hiểu được những giá trị tinh thần của người Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Triều An, Doãn Thanh, Hoàng Thao (2004), Ca dao dân ca Tày Nùng, H'Mông, NXB

Văn học, Hà Nội.

2. Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Nhị Hà, Nguyễn Phương Thảo (1996), Tuyển tập văn học

chữ viết Bến Tre (từ khởi thủy đến 1975), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Chí Bền (1997), Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Chí Bền (1991), "Miệt vườn và văn hóa miệt vườn", Tạp chí Nghiên cứu văn

hóa nghệ thuật, (5), tr. 46-50.

5. Tôn Thất Bình (1997), Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hoá, Huế.

6. Tôn Thất Bình (2006), Những đặc trưng của hò Trị Thiên, NXB Trẻ.

7. Ca dao Bảo Định Giang (1996), NXB Tổng hợp Đồng Tháp.

8. Ca dao ngoại thành 1955- 1966 (1967), Sở Văn hóa Hà Nội xuất bản.

9. Quế Chi (2005), Câu đố, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB Thanh niên.

10. Nguyễn Văn Châu (1991), "Lễ Kỳ Yên trong các đình làng xưa ở Bến Tre", Tạp chí

Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (5), tr.32-35.

11. Mai Ngọc Chừ (1991), "Ngôn ngữ ca dao Việt Nam", Tạp chí Văn học, (2), tr.24-28.

12. Việt Chương (2005), Từ điển thành ngữ tục ngữ ca dao Việt Nam, quyển Thượng và

quyển Hạ, NXB Tổng hợp Đồng Nai.

13. Lê Văn Chưởng (2004), Dân ca Việt Nam - Những thành tố của chỉnh thể nguyên

hợp, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB

14. Thanh Niên.

15. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, NXB Thành phố Hồ

Chí Minh.

16. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2005), Văn học dân gian Bạc Liêu, NXB Văn nghệ Thành

phố Hồ Chí Minh.

17. Chu Xuân Diên (2008), Nghiên cứu văn hóa dân gian, NXB Giáo dục.

18. Vũ Dung - Vũ Thúy Anh - Vũ Quang Hào (1998), Ca dao trữ tình Việt Nam, NXB

Giáo dục.

19. Vũ Quang Dũng (2006), Địa danh Việt Nam trong tục ngữ ca dao, NXB Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

20. Triệu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu Hà (1971), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội, tập

1, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản.

21. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống

người Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

22. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, dịch giả Đỗ Mộng Khương,

Nguyễn Ngọc Tỉnh, hiệu đính và chú thích: Đào Duy Anh, NXB Giáo dục.

Vũ Minh Giang (2008), Lược sử vùng đất Nam bộ, NXB Thế giới, Hà Nội. 23.

Bảo Định Giang (1987), Ca dao sau giải phóng, NXB Tiền Giang. 24.

Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao 25.

dân ca Nam bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Ninh Viết Giao (chủ biên) (1996), Kho tàng ca dao xứ Nghệ, tập 1 & 2, NXB Nghệ

An.

27. Nguyễn Thị Thu Hà (2006), Thị hiếu thẫm mỹ của người Việt qua ca dao dân ca,

Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Chu Hà - Trần Lê Vân - Nguyễn Vinh Phúc (1981), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội, tập 2,

Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản.

29. Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (2008), Bước đầu khảo sát văn học dân gian đảo Phú Quý,

Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Vũ Tố Hảo (1986), "Tìm hiểu một số trường hợp dùng chữ Hán và điển tích trong ca

dao - dân ca Nam bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.13-18.

31. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ

văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, NXB Trẻ, tập 1 & 2.

33. Ngô Quang Hiển (1991), "Tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và người

dân Bến Tre", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (5), tr.68-71.

34. Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên (1995), Ca dao dân ca tình yêu, NXB Thành phố Hồ

Chí Minh.

35. Đào Văn Hội (1961), Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao, NXB Khai Trí, Sài

Gòn.

Lư Văn Hội (2004), Dự án tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể ti?nh B?n Tre (Tài

36. liệu đánh máy).

37. Lư Văn Hội (2005), Các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre, Sở Văn hóa

Thông tin Bến Tre xuất bản.

Lư Hội (2006), Đình làng Bến Tre - Các giá trị văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc. 38.

39. Vũ Thị Thu Hương (2007), Ca dao Việt Nam và những lời bình, NXB Văn hóa thông

tin.

Văn Đình Hy (1991), "Đình làng ở Bến Tre", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật,

40. (5), tr.10-14.

Inrasara (2006), Ca dao tu?c ngữ thành ngữ câu đố Chăm, NXB Văn hóa dân tộc. 41.

Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 42.

43. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2000), Kho tàng ca dao người Việt,

NXB Văn hóa Thông tin, tập 1 & 2.

44. Châu Nhiên Khanh (1999), Ca dao Việt Nam, NXB Tổng hợp Đồng Nai.

45. Đinh Gia Khánh ( chủ biên) (1992), Ca dao Việt Nam, NXB Tổng hợp Đồng Tháp.

46. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1998), Văn học dân

gian Việt Nam, NXB Giáo dục.

47. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1999), Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu

Long, NXB Giáo Dục.

48. Võ Trường Kỳ (2003), Dân ca trên quê hương Long An, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh

Long An xuất bản.

Phạm Việt Long (2004), Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình, NXB Chính trị quốc

49. gia, Hà Nội.

50. Quách Xuân Luân (2006), 3000 câu ca dao trong trí nhớ, NXB Thanh Niên.

51. Ưng Luận (1995), Ca dao xứ Huế bình giải, tập 1 & 2, Sở Văn hóa Thông tin Thừa

Thiên - Huế xuất bản.

52. Huỳnh Minh (1965), Kiến Hòa xưa và nay, tác giả xuất bản.

53. Sơn Nam (1997), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

54. Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao Nam

bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.49-53.

55. Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của hình tượng thiên nhiên trong ca dao

Nam bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.72-75.

56. Trần Văn Nam (2004), Biểu trưng trong ca dao Nam bộ, Tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ

văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

57. Trần Văn Nam (2008), Cảm nhận ca dao Nam bộ, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí

Minh.

Nhiều tác giả (1984), Ba Tri, đất và người, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ba Tri

58. xuất bản.

Nhiều tác giả (2007), Nam bộ xưa và nay, NXB Thành phố Hồ Chí Minh - Tạp chí

59. xưa và nay.

60. Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), Đặc điểm ca dao xứ Nghệ, Luận văn thạc sĩ văn học,

Trương Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Văn Ngọc (1928), Tục ngữ phong dao, NXB Vĩnh Hưng Long. 61.

Trần Việt Ngữ, Thành Duy (1967), Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Văn học, Hà Nội. 62.

63. Triều Nguyên (1997), Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên Huế, NXB Thuận Hóa, Huế.

Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt, NXB Thuận Hóa, 64.

Huế.

65. Triều Nguyên (2003), Tiếp cận ca dao bằng phương pháp xâu chuỗi, NXB Thuận

Hóa.

66. Thạch Nguyễn (1991), "Phác thảo diện mạo Folklore của người Việt ở Bến Tre", Tạp

chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (5), tr.63-67.

Trần Quang Nhật (1980), Ca dao chống Mỹ cứu nước chọn lọc, NXB Quân đội nhân

67. dân, Hà Nội.

68. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2000), Văn học

dân gian - Những tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục.

69. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (1999), Văn học

dân gian - Những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục.

Bùi Mạnh Nhị (1998), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo dục An Giang

70. xuất bản.

71. Bùi Mạnh Nhị (1984), "Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao - dân ca Nam bộ", Tạp

chí Ngôn ngữ, (1), tr.26-32.

72. Bùi Mạnh Nhị (1998), "Thời gian nghệ thuật trong ca dao - dân ca trữ tình", Tạp chí

Văn học, (4), tr.30-36.

73. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1957 đến

năm 1945), Phủ quốc vụ khanh đặc trách xuất bản.

74. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.

Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian (sách bồi dưỡng thường xuyên),

75. NXB Giáo dục.

Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, NXB Khoa học xã hội,

76. Hà Nội.

77. Thạch Phương (1991), "Mấy suy nghĩ về truyền thống yêu nước và truyền thống văn

hóa của một vùng đất", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (5), tr.26-31.

78. Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Ca dao Nam Trung bộ, NXB Khoa học xã

hội.

79. Nguyễn Hoàng Phương (2001), Ca dao tục ngữ Việt Nam, NXB Thanh Niên.

80. Giang Quân (1994), Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ, NXB Hà Nội.

81. Vũ Tiến Quỳnh (1995), Ca dao tục ngữ, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

82. Nguyễn Đức Quyền (1997), Vẻ đẹp trong ca dao, NXB Giáo dục.

83. Đỗ Văn Tân (chủ biên) (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa và Thông tin

Đồng Tháp xuất bản.

84. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam bộ, NXB Khoa học xã hội.

85. Võ Thành Tân (1999), 1001 câu ca dao về người phụ nữ Việt Nam, NXB Thanh

Niên.

86. Tỉnh ủy Bến Tre (2008), Huyền thoại trên quê hương Đồng Khởi, NXB Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

87. Nguyễn Phương Thảo, Hoàng Thị Bạch Liên (1988), Văn học dân gian Bến Tre,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

88. Nguyễn Phương Thảo (1991), "Tục thờ cúng cá voi của ngư dân ven biển ở Bến Tre",

Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (5), tr.57-60.

89. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam bộ - Những phác thảo, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

90. Nguyễn Chiến Thắng (2005), Ca dao, hò, vè Vĩnh Long, NXB Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục. 91.

92. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Lê Ngọc Trà (1991), Lí luận và văn học, NXB Trẻ. 93.

Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, NXB Thanh 94.

niên.

Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Hát sắc bùa Phú Lễ (Ba Tri - Bến Tre), NXB Thành phố

95. Hồ Chí Minh.

96. Huỳnh Ngọc Trảng (2006), Ca dao dân ca Nam kỳ lục tỉnh, NXB Tổng hợp Đồng

Nai.

97. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian,

98. NXB Giáo dục.

99. Hoàng Tiến Tựu (1992), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy nghiên cứu văn học

dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

100. Hoàng Tiến Tựu (1992), Bình giảng ca dao, NXB Giáo dục, Hà Nội.

101. Kiều Văn (1997), Tình yêu trong ca dao tục ngữ dân ca, NXB Đồng Nai.

102. Lê Trí Viễn, Thơ văn Đồng Tháp, NXB Tổng hợp Đồng Tháp.

103. Lê Trí Viễn (chủ biên) (1986), Dạy và học thơ ca dân gian, Sở Giáo dục Nghĩa Bình

xuất bản.

104. Hoàng Hương Việt, Bùi Văn Tiến (chủ biên) (2006), Ca dao, dân ca đất Quảng, tập 1,

NXB Đà Nẵng.

105. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty Văn hóa Thông tin Bến Tre xuất

bản.

106. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1983), Tìm hiểu dân ca Nam bộ, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh.

107. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1985), Dân ca Kiên Giang, Sở Văn hóa và Thông tin Kiên

Giang xuất bản.

108. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1986), Dân ca Hậu Giang, Sở Văn hóa và Thông tin Hậu

Giang xuất bản.

109. Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Thạch An (1986), Dân ca Cửu Long, Sở

Văn hóa và Thông tin Cửu Long xuất bản.

110. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (2000), Dân ca Bến Tre, Sở Văn hóa Thông tin Bến Tre xuất

bản.

111. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Lê Anh Trung (2006), Lý trong dân ca người Việt, NXB Trẻ.

112. Lư Nhất Vũ (1991), "Nét riêng của dân ca Bến Tre", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa

nghệ thuật, (5), tr.22-25.

113. Nguyễn Viêm, Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Tú Ngọc, Dân ca quan họ Bắc

Ninh, NXB Văn hóa, 1962.

114. Văn học Tiền Giang, tập 1 (1985), Sở Văn hóa và Thông tin Tiền Giang xuất bản.

115. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học (1960 đến 1969), tập 1:

Văn học dân gian, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

116. Viện Văn học (2007), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập IV, quyển 1& 2,

NXB Giáo Dục.

117. Viện Văn hóa Việt Nam (2008), Văn học Bến Tre, tập 1, 2, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

118. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian -

những phương pháp nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

119. Nguyễn Khắc Xương (1994), Tục ngữ ca dao dân ca Vĩnh Phú, Sở Văn hóa thông tin-

thể thao Vĩnh Phú xuất bản.

120. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục, Hà Nội.

121. Monographie de la province de Bentre do Sociétes des Études del' Indonhinois, XB

1930 - Bản dịch của ông Nguyễn Văn Bá (tài liệu đánh máy), 1980.

122. www.vanchuongviet.org

123. www.bentre.gov.vn

124. www.hssvbentre.net

PHỤ LỤC

PHẦN SƯU TẦM CA DAO- DÂN CA BẾN TRE

Sưu tầm CD- DC Bến Tre theo chúng tôi nghĩa là sưu tầm những bài CD- DC truyền miệng ở vùng đất này, được chính những người dân sinh sống trong vùng đọc lại. Những bài ca này có thể là được cất giữ trong trí nhớ của những người đi mở cõi đồng thời cũng có thể được tập thể nhân dân lao động sáng tạo trong suốt mấy thế kỉ chung lưng đấu cật khai phá vùng đất này, mà nói rộng hơn là vùng đất Nam bộ. Trong quá trình sưu tầm, chúng tôi thu thập được một số bài CD- DC mà các nhà nghiên cứu trước đã sưu tầm và công bố ở các tài liệu về CD- DC Bến Tre. Những bài trùng nhau này chúng tôi sẽ loại ra. Chúng tôi chỉ giới thiệu những bài ca chưa công bố trong tài liệu nào về CD- DC Bến Tre.

Tổng số chúng tôi sưu tầm được 353 đơn vị tác phẩm. Chúng tôi sắp xếp chúng theo địa bàn sưu tầm, tác phẩm sưu tầm từ ai thì ghi dưới tên người đó. Sau đây là danh sách những người đã cung cấp tư liệu:

1. Bà Trần Thị Sánh, 77 tuổi (ấp 3, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

2. Bà Phạm Thị Chắt, 91 tuổi (ấp 4, xã Phong Phú, huyện Giồng Trôm)

3. Bà Huỳnh Thị Chúc, 78 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

4. Bà Nguyễn Thị Hiếu, 71 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

5. Chị Nguyễn Thị Cẩm Hồng, 34 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

6. Bà Nguyễn Thị Lai, 76 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

7. Ông Nguyễn Văn Bồi, 79 tuổi (ấp 3, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

8. Bà Võ Thị Kiểng, 74 tuổi (ấp 5, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm)

9. Bà Phan Thị Ba, 81 tuổi (ấp Phong Hòa, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

10. Bà Ngô Thị Vàng, 85 tuổi (ấp Long Thuận, xã Long Định, huyện Bình Đại)

11. Bà Lê Thị Mươi, 70 tuổi (ấp 2, Vang Quới Đông, huyện Bình Đại)

12. Bà Trần Thị Huyền, 50 tuổi (ấp 2, xã Vang Quới Đông, huyện Bình Đại)

13. Bà Nguyễn Thị Phán, 74 tuổi (xã Thanh Tân Tây, huyện Mỏ Cày)

14. Chị Lê Thị Bé Sáu (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

15. Ông Trần Thuận (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

16. Bà Đinh Thị Minh Tiến (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

17. Bà Nguyễn Thị Cẩm ( ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)

18. Bà Huỳnh Thị Tuyết, 51 tuổi (ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)

19. Ông Nguyễn Văn Đức, 68 tuổi (ấp Tân Đức, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)

Chị Nguyễn Thị Kim Loan, 36 tuổi ( ấp Tân Mỹ, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 20.

Bà Đỗ Thị Đá, 63 tuổi (ấp Hội Thành, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày) 21.

Bà Nguyễn Thị Ngãi, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 22.

Ông Võ Văn Thổ, 46 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 23.

Bà Huỳnh Thị Mỹ (ấp Tân Đức B, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 24.

Bà Phan Thị Tương, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 25.

Chị Trương Thị Huệ Em (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 26.

27. Chị Huỳnh Thị Lệ (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)

Chị Thu Hà (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) 28.

Bà Nguyễn Thị Hoàng, 54 tuổi (ấp Thanh Bắc,xã Tân Thanh Tây, huyện Mỏ Cày) 29.

Ông Hồ Trung Thành, 50 tuổi (Phường 6, thị xã Bến Tre) 30.

Bà Nguyễn Thị Phượng, 45 tuổi (xã An Điền, huyện Thạnh Phú) 31.

Bà Nguyễn Kim Quang, 75 tuổi (xã Phú Túc, huyện Châu Thành) 32.

Bà Trần Thị Sánh, 77 tuổi (ấp 3, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

- Cải lên ba lá ai nỡ ngắt ngồng

Ở vậy nuôi mẹ chứ có chồng bao lâu.

- Ngó lên đám mạ ông cai

Cấy thưa ổng ghét, cấy dày ổng thương.

- Bông xứng bông bình lại xứng bình

Mực tàu xứng giấy, hai đứa mình xứng đôi.

- Tiếc công anh lau nhạo chùi bình

Cậy mai rồi đến nói ba má nhìn bà con

- Trời mưa nhà ngói thiếc đổ bon bon

Ổng bả không thương rồi nói vậy chứ bà con hồi nào.

- Mặt nhìn mặt, mây tan khói tản

Anh nhìn em, mây rản từng chòm

Này anh ôi, anh có vợ rồi, an phận, đừng có dòm tới em.

- Anh bước xuống miếng ruộng này, tam sơn tứ hải

Này cô bác ôi, để cho tôi đối đãi cô bạn tình chung

Nếu em mà đáp đặng thì anh ưng em liền.

- Nước trong bình chiết lấy hai chai

Tiền nhật sao em nói vậy hậu lại thế nào ?

- Lăng xăng bướm đậu chéo khăn

Bởi anh vụng tính lăng quằng bướm bay.

- Gặp anh đứng bóng đang trưa

Tiếc cho ông trời dõi tối phân chưa hết lời.

- Phải chi tôi hóa đặng con giời

Bò vô bâu áo sáng ngời như sao.

- Đường đi khúc sụp, năm bảy khúc sình

Kề vai cho em vịn thoả tấm tình em chưa?

- Tôi tưởng tình mình tôi tới tôi chơi

Hay đâu trâm gãy họa rơi tới mình.

- Ngó lên mã đá còn lại tô vôi

Bìm bìm leo, ngọn cỏ chỉ mọc mà mình dứt nghĩa tôi sao đành ?

- Ngày nay anh đem gươm ra dựng ngoài thành

Chiều nay anh vận hỏi em đành hay không ?

- Thò tay em đỡ lấy ngọn gươm bông

Chuyện chi thời anh nói, chứ em không bằng lòng.

- Còn duyên anh ẵm anh bồng

Hết duyên anh bỏ buồng không một mình.

- Nước ròng sông cái chảy xuôi

Trời đà xây dựng mình với tui vợ chồng.

- Đưa tay phân chứng trước trời

Người này gá ngỡi ở đời với tôi.

- Ví dầu cá bống nấu canh

Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.

- Súng đồng cò máy vẫn đồng

Đôi ta như khóa với chìa đừng rơi.

- Tôi xa mình, thở chẳng ra hơi

Chồng nam vợ bắc mà trời ơi hỡi ông trời.

- Dong đồng gói chẳng đặng nem

Má em nói vậy mà em có thương lời nào.

- Anh đi ngang cửa má, anh chắp tay anh xá

Phụ mẫu nói: Thằng này phải quá, đứng lại cho tao nhìn

Em hai ơi ! Anh đứng lại mà anh chết nữa thân mình đó em.

- Công tử quán ta, đốt nhà ta không sợ tội

Công tử nhóm lửa vừa rồi, trời dội đám mưa giông.

- M???i gi?? ông chánh về Tây

Cô ba ở lại lấy thầy thông ngôn

Thông ngôn, ký lục, bạc chục không màng

Có chồng thợ bạc đeo vàng mỏi tay.

- Chuyện chi mà em biểu anh thề

Cầm dao lá liễu, dựa kề tóc mai

- Làm chi tội bớ anh hai

Anh đây em đó phải nhau xa lìa.

- Cau non có bửa cũng dày

Dầu thương cho lắm hội này cũng xa

Làm chi tội nghiệp lắm cô Ba.

- Lủi thủi, lúc nhúc

Tôi xúc con cá sặc làm mồi

Anh câu lạc chỗ, đứng ngồi không yên.

- Anh thương em quá, anh có cái áo lá hàng tây

Cho em mặc, em ở bạc, ra đây anh lột trần.

- Câu hò một thạp da bò

Đem ra hò cuộc, nó bò sạch trơn.

- Làm thơ anh nhét kẽ hàng rào

Chờ cho phụ mẫu ngủ, anh lén vào trao thơ

Câu thơ ba bốn câu thơ

Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương.

- Ngó lên trời thấy mây vần vũ

Mây bao vần vũ mà mây phủ mình rồng

Cô gái don don thương dữ, chứ cô gái có chồng ít thương.

- Tắt trăng con cá mới qua bờ

Em thương anh nói đại chớ đâu chờ duyên anh.

- Bươm bướm bay hoài bay huỷ, không đậu nghỉ vườn bông

Chuyện chi thì anh nói, chứ em không ưng anh liền.

Bà Phạm Thị Chắt, 91 tuổi (ấp 4, xã Phong Phú, huyện Giồng Trôm)

- Ngó lên trời thấy trời cao lồng lộng

Ngó xuống đất thấy đất rộng thinh thinh

Trách ai ăn ở bạc tình

Họ về xứ họ bỏ mình bơ vơ.

- Ngó lên trời thấy tầng cao tầng thấp

Dòm xuống biển thấy tầng cạn tầng sâu

Như anh đây dạo chơi mười tám nước chư hầu

Không ai mà ăn nói cơ cầu như em.

- Trống điểm ba, trăng đà gác núi

Dạ anh thương nàng như lưới bủa giăng

Lưới thưa mà bủa con cá kìm

Lòng qua thương bậu, bậu tìm nơi nao ?

- Em nói với anh cho có nhật có nguyệt, có đèn hầu kiệt, có núi sơn lâm

Giờ em có lỗi đạo tình thâm

Hồn về chín suối, xác cầm dương gian.

- Thấy em chúm chím miệng cười

Cũng bằng bạc bảy vàng mười trao tay.

- Tôi cám ơn lời nói người tình, ớ này người tình ôi

Sống dương gian em để dạ, thác xuống Diêm đình em đem theo.

- Ghe anh bóng láng, nhẹ ván dễ chèo

Xin anh bớt ngọn, thả lèo đợi em.

- Đèn treo cột đáy, nước chảy lồng đèn xoay

Dĩa nghiêng múc nước sao đầy

Ngày mai em lại khúc sông này gặp anh.

- Hai đứa mình như cặp cá ở đìa

Ngày ngao du giỡn bóng, tối lại lìa, hỡi ôi!

- Điệp tàu ngã ngọn qua mương

Một người một xứ náo nương đợi chờ.

- Lên xe xe hét xe gầm

Lòng tôi có bạn thương thầm nhớ thương.

- Buồm ra khỏi vịnh buồm bê

Hò cho trai nam nhân phải bỏ vợ, gái hiền thê thôi chồng.

- Anh có ở bạc tình thì có ông thần linh bẻ cổ

Còn em đây có bạc tình thì có con rắn hổ nó ở hang.

- Nay tôi xuống ruộng, tay tôi bắt nắm mạ, miệng tôi lại liền rao

Tôi hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ, phước tam điền

Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương.

- Trời mưa lác đác, hột cát nhảy nằm nghiêng

Rượu bình yên, em rót đãi chị Điêu Thuyền

Kiếp này chẳng đặng, em nguyền kiếp sau.

- Bước lên xe, thấy xe quằn xe quại

Bước xuống thuyền, thấy thuyền chích thuyền chinh

Anh đứng làm trai lấy chữ công bình

Thấy gái có chồng anh đừng có ghẹo, như vậy mới tình trai khôn.

- Vỗ vai cô bán khế, rồi anh vỗ vế cô bán chanh

Lòng anh sở mộ cô bán hành chợ Vinh.

- Bến Tre bảnh lắm anh ơi

Dây lưng nguyệt bạch, di dù kiến dơi.

- Lầu nào cao bằng lầu ông Thượng

Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê

Dầu anh có lạc Sở qua Tề

Trăm năm anh cũng trở về với em.

- Chết ba năm sống thử một giờ

Để xem người nghĩa phụng thờ ra sao ?

- Em thờ chồng một bộ lư cổ, một cặp chân đèn thau

Đồng bạc em để dưới, bộ bài cào để trên.

- Đèn nhà lầu, hết dầu đèn tắt

Nhang chùa ông, hết nhụy hết thơm

Em biểu anh đừng có lên xuống đêm hôm

Thế gian họ đàm tiếu, xóm chòm họ đều hay.

- Đường đi Sài Gòn, cây còn bóng mát

Đường đi rạp hát, gió mát tận xương

Dang tay anh xe sợi chỉ hường

Dầu không đặng bạn cũng còn đường xuống lên.

- Hai đứa mình như con sấu tắm ao sâu

Ban ngày xa cách nhưng tối đâu đâu cũng về.

- Anh đi vừa lúc trăng mờ

Ai trông, ai đợi, ai chờ đợi ai ?

Bà Huỳnh Thị Chúc, 78 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

- Đêm khuya gió lặng trăng mờ

Hỡi cô tát nước bên bờ ruộng sâu

Nhà cô ở chốn nào đâu ?

Mà cô còn đó canh thâu chưa về?

- Ruộng héo đồng khô lúa cháy đồng quê

Ruộng khô lúa cháy ai dè mặc ai

Một gàu dai, hai gàu dai

Gặp cơn nước cạn đem tài tăng gia

Đêm khuya xao xác canh gà

Gió bay bay bóng trăng ngà ngà sương

Em đây là gái hậu phương

Tăng gia sản xuất diệt trừ Mỹ - Ngô.

- Bìm bịp kêu, mo nang cũng nhịp

Phụng hoàng kêu bìm bịp cũng kêu

Trông anh nước lớn dựng nêu

Cha mẹ không gả anh kêu thấu đất

Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất

Anh thương nàng trời đất có hay ?

Bà Nguyễn Thị Hiếu, 71 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

- Trên nhà thức ngủ bớ người

Ra đây cho anh thấy mặt kẻo mà nhớ thương.

- Văng vẳng tiếng ai giống hình tiếng bạn

Ruột thắt gan bào từng đoạn héo hon.

- Tay bưng hộp thiếc, làng tôi chí quyết, cha mẹ biểu đừng

Hai hàng nước mắt rưng rưng

Phải chi hồi trước ai đừng biết ai.

- Ruộng sâu trâu cái mắc lầy

Bắt anh làm rễ năm này tháng kia.

- Chồng người biết chữ như tiên

Chồng em dốt nát có phiền hay không ?

Bớt ra lửa củi vài đồng

Mua giấy mua mực cho chồng học đi.

- Cô kia cấy lúa bên cồn

Tôi nghe tiếng đồn chữ nghĩa nhấp nhem

Sao không đi học cô em

Cô đẹp mà dốt ai thèm cưới cô ?

Chị Nguyễn Thị Cẩm Hồng, 34 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm)

- Lên non thiếp cũng lên non

Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau.

- Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa

Anh với em đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa

Tại cha với mẹ kén lừa suôi gia.

- Đèn nhà lầu còn dầu còn cháy

Lửa nhà máy hết cháy thành than

Anh biểu em về kiếm chỗ giàu sang

Kiếm chi thằng điếm dọn bàn Tây ăn.

- Nhạn đậu nhành sung, anh giương cung bắn nhạn

Nhạn lụy xuống rồi anh biết làm bạn với ai.

- Khoan khoan đôi cửa em gài

Dẫu mưa có tạt, tạt ngoài mé hiên.

- Anh ở sông bên đây, anh bắc cây cầu cao mười hai tấm ván

Em ở sông bên kia, em lập cái quán chín mươi hai từng

Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.

- Chú kia kìa vợ chú đâu

Chú đi bắt ốc cắm câu một mình

Một mình lo bảy lo ba

Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.

- Mẹ kêu bớ bảy súc bình

Bỏ trà cho đậm, bạn mình tới chơi.

- Mệ kêu bớ bảy xúc tép nuôi cò

Nuôi cho cò lớn, cò dò cò lên.

- Mệ kêu bớ bảy đưa đò

Đưa doi xuống vịnh, giọng hò bảy lanh.

- Tàu súp lê 1, anh còn than còn thở

Tàu súp lê 2, anh còn đợi còn trông

Tàu súp lê 3, anh ra biển bắc

Hai tay anh vịn song sắt, nước mắt anh chảy như ròng

Miệng kêu bớ chú tài công, lấy khăn hoàng long mà chậm

Tình vợ nghĩa chồng ngàn dặm chẳng quên.

Bà Nguyễn Thị Lai, 76 tuổi (ấp 2, xã Phong Mỹ, Giồng Trôm)

- Nhà anh hai căn hai chái nó rộng thình thình

Ghế cẩm lai, giường chân tiện, em hỏi mình em ngủ đâu ?

- Em hỏi chi nhiều tiếng thâm bâu

Ghế cẩm lai, giường chân tiện, phận làm dâu em ngủ phòng.

- Kiếng lâu năm trôi thủy

Anh nhìn cho kỹ mới thấy hình

Anh có thương em thì anh thương cho trọn đạo

Đừng đánh lưỡi đưa tình anh hại em.

- Khoan khoan quần tía xuống màu

Dây lưng mua chịu, khoe giàu với ai

Khoe giàu với chú bán khoai

Bán cho một củ ngày mai trả tiền.

- Mảng coi con bạn hạc tắm suối vàng

Mảng chơi lê lựu quên chào bạn xưa.

- Anh đi đâu cho thiếp đi hùn

Đói no có thiếp, túng cùng có đôi.

- Bảy khôn lanh để bảy súc bình

Bỏ trà liên tử, hai đứa mình uống chơi.

- Sông sâu chiếc "bắc" đưa đò

Phận em là gái biết phò mấy nơi ?

- Bạch ngọc tiểu thâu (ăn trộm vặt) đi đâu bị bối (ăn trộm chuyên nghiệp)

Em đi bổ hàng trời tối ngủ quên.

- Nước dưới sông đang chảy, sao lại bình

Em thấy bụp dừa trôi dợn dợn mà em tưởng bạn chung tình em lội theo.

- Che tay dưới gió, hỏi nhỏ cùng anh

Đồ nữ trang anh sắm đủ mà cái áo lọng xanh tạm nhờ

- Cái áo lọng xanh anh để sờ sờ

Anh may không kịp, anh tạm nhờ bớ em.

Ông Nguyễn Văn Bồi, 79 tuổi (ấp 3, xã Phong Mỹ, Giồng Trôm)

- Gió đẩy gió đưa, lược thưa uốn éo

Anh đem em về dạy khéo, dạy khôn.

- Tre trên bờ tre đang gieo lóng

Bèo dưới vũng bèo lóng tai nghe

Ngựa chạy đường dài, ngựa giông đuôi phụng

Voi chạy đường vắn, voi xếp vòi rồng

Em về, nhắn với Bát Bộ Bình Dương

Mạnh Lương, Tư Tán, Bá Vạn chư hầu

Chiều chiều chim quyên nó đáp nhành dâu

Tại ai làm cho trai thảm gái sầu?

- Tay bưng quả nếp vô chùa

Đốt nhang lạy phật, xin bùa em đeo.

- Cửa song lam, trên ba khoá, dưới má gài

Em ở trong rơi lệ, anh ở ngoài cũng lệ rơi.

- Con gái mười bảy, bẻ gảy sừng trâu

Đi đâu cái mặt tăn hăn tó hó, mà không chịu lấy chồng ?

- Chú ôn chú quỷ, chú ngồi trên ghế trường kỉ, mặt nhút nhát quá cha con khỉ, chú nói chú

không nghỉ

Cải lên ba lá ai ngỡ ngắt ngồng

Ở vậy nuôi mẹ chứ có chồng bao lâu.

Bà Võ Thị Kiểng, 74 tuổi (ấp 5, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm)

- Anh về Giồng Miễu qua sông

Hỏi thăm chị Yến có chồng hay chưa ?

- Em có chồng hồi thuở khi xưa

Năm nay chồng để (bỏ) như em chưa có chồng.

- Một mình năm liệu bảy lo

Ruộng sâu anh cấy trước, ruộng gò anh cấy sau.

- Một mai bóng xế cội tùng

Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang ?

- Bắp non mà nướng lửa lò

Đố ai mà de dặng con đò Bến Tre ?

- Một nhành tre đôi ba nhành trải, sáu bảy nhành gai

Anh có thương em thì anh bưng kĩ đỡ đày

Nếu không thương thì để xuống cho người ngoài họ bưng.

- Cá lia thia Tàu nằm trong chậu cúc

Quạt đuôi từ túc, cúc ngả ly bì

Em lo cho chàng lao khổ, chớ em không có lo gì cho em.

- Đói lòng anh mới ăn đỡ khổ qua

Chớ nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười

- Bạc bảy em đừng sánh với vàng mười

Miễn là anh chân thật ai cười mặc ai.

- Trầu Sài Gòn ăn chơi nhả bã

Thuốc bích tót hút đầy hơi

Tưởng rằng gá nghĩa mà chơi

Ngờ đâu vướng bận sự đời cho anh.

- Nhạn lạc bầy nhạn kêu thỏ thẻ

Răng anh mẻ anh nhét kẻ bằng vàng

Anh là người nông phu làm ruộng

Không phải điếm đường mà em cười chê.

- Ruộng năm dây cò bay thẳng cánh

Trâu anh một bầy con trắng con đen

Thương anh con cỡi con dòng

Lại thêm con nghé cực lòng cho anh.

- Thôi thôi ôm sách trở về

Học hành chi nữa lo bề vợ con.

- Gió năm non thổi lòn hang cốc

Tiếng anh học trò ngu ngốc hơn em.

- Chim khôn lựa nhánh nó chuyền

Gái khôn lựa chỗ trai hiền gửi thân.

- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Gái khôn nói tiếng dịu dàng dễ thương.

- Trai khôn tìm vợ chợ đông

Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân

Làm trai phải có tấm lòng đạo đức

Phận gái phải có tứ đức tam tòng.

- Con cá lý ngư sầu tư biếng lội

Con chim trên cành sầu cội biếng bay

Em sầu ai ra ngơ vào ngẩn

Anh sầu gì thơ thẩn một mình ?

- Chim quyên xuống suối tha mồi

Thấy anh lao khổ đứng ngồi không yên

Em về thưa lại mẹ hiền

Kết tình đôi trẻ lương duyên đôi mình.

- Đắng khổ qua, chua đà chanh giấy

Dù ngọt mấy cũng tiếng cam sành

Một mai ai dỗ ai dành

Chanh chua bậu chuộng, cam sành bậu chê.

- Chim thanh tiếng hót cũng thanh

Nghe anh phân tỏ ngọn ngành thiệt hơn

Gẫm câu một cây làm chẳng nên non

Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.

- Nước đục dòng sông buồn lòng con cá chép

Mây mịt mù biền biệt cánh chim

Nước nhà trong lúc ngửa nghiêng

Bởi quân xâm lược cuồng dâm bạo tàn.

- Nước mất nhà tan muôn ngàn đau khổ

Qua chiến tranh trùm phủ khắp nơi

Anh ơi, anh nghe em nói đôi lời

Làm trai quốc biến anh thời tính sau ?

- Nước đồng sâu, nhiều sòng tác cạn

Noi gương anh hùng dẹp loạn chống xâm lăng

Xá chi cực khổ gian nan

Tòng quân là nhiệm vụ vinh quang của mình.

- Cây da phủ lấy nóc đình

Bao nhiêu lá rụng bấy nhiêu tình nước non

Tuổi xuân chỉ có con đường

Tòng quân nhập ngũ diệt phường hôi tanh.

- Cha ơi, cha đi ba tháng nhớ về

Chớ nguồn cao nước độc, cha đừng ở lâu

- Con ơi, con đừng khóc nữa mẹ rầu

Để cha con đi chiến đấu lâu lâu cha về.

- Nền đỏ chung quanh sao vàng chói rọi

Khắp miền Nam phơi phới niềm tin

Trẻ già nam nữ hai mình

Thanh niên trai gái đồng tình ra đi.

- Chị tôi chuẩn bị lấy chồng

Chồng chị bản chất là người nông dân

Làm ăn hôm sớm chuyên cần

Của tiền đầy tủ lúa thì đầy kho

Vợ chồng chị được ấm no

Gia đình hạnh phúc chớ lo việc nghèo.

- Sông sâu sào vắn khó dò

Muốn qua thăm bạn sợ đò không đưa

Đò đưa đò chẳng qua sông

Gánh gạo đưa chồng chẳng biết làm sao.

- Rộng đồng mặc sức chim bay

Biển hồ lai láng một bầy cá đua.

- Cây da trốc gốc trôi rồi

Đò đưa bến khác anh ngồi đợi ai?

- Thiếp liều gồng gánh đôi quan

Bán buôn nuôi mẹ, chàng sang mặc chàng.

- Sông sâu biết bắc mấy cầu

Phận em làm gái biết sầu mấy nơi?

- Than rằng chày nặng cối nghiêng

Không ai dùa trộn nghiên triền khó đâm.

- Dốc lòng trồng cúc ngang hàng

Hay đâu cúc mọc mỗi hàng mỗi cây.

- Còn trời còn nước còn non

Còn cây cỏ mọc anh còn thương em.

- Phụng hoàng chấp cánh muốn bay

Thấy người thục nữ châu mày khó thương.

- Cây xanh trái nọ cũng xanh

Anh đừng ăn hết để dành cho em.

- Thương em vì dậm vì dày

Đâu đẹp chi lắm mà đòi của cao.

- Em như phụng hoàng chấp cánh nóc đình

Anh như rồng lộn uốn mình sánh đôi

- Anh ơi, phụng với rồng cũng đồng nhan sắc

Em đâu ngờ phụng bắc rồng nam.

- Sông Tiền Đường cá lội xòe đuôi

Chị Thuý Kiều sầu anh Kim Trọng cũng như tui sầu mình.

Bà Phan Thị Ba, 81 tuổi (ấp Phong Hòa, xã Phong Mỹ, Giồng Trôm)

- Nước ngược bỏ lấy ngọn sào xuôi

Khúc sông quạnh vắng bỏ mình tui chịu sầu.

- Vởn vơ con cá lội dưới cầu

Đó vui phận đó, đây sầu phận đây.

- Chiều chiều nguyệt lặn về tây

Trời xui đất khiến tôi đến đây gặp mình.

- Chừng nào nước ngập thình lình

Đỉa đeo chân hạc, hai đứa mình mới xa.

- Hai đứa mình như nước rọng trong chai

Đám mưa to không rã, ngọn gió dai không tàn.

- Đêm nằm ghế trắc cẩn vàng

Khăn bìa đôi đắp mặt mơ màng thấy anh.

- Trời xanh ba bốn phía cũng xanh

Để coi ngọn quế ngã nhành về đâu.

- Trà tàu đổ lộn bông ngâu

Đem ra đãi bạn trọn câu ân tình.

- Ngó vô tấm kiếng thấy hình

Khen ai khéo họa, hai đứa mình đứng chung.

- Chuồn chuồn đậu ngọn lúa bưng

Bởi anh có chốn Châu Hưng đã rồi.

- Anh xa em xa đỡ, đâu có nỡ xa đời

Lúc lâm nguy lánh nạn, lúc thảnh thơi anh tìm em.

- Làm thơ không giấy chậm thơ lem

Trai như em chịu thảm, gái như em chịu sầu.

- Đèn tà đăng, vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó mờ

Mảng sầu nhân nghĩa vật vờ như điên.

- Mình điên tôi lên núi tìm tiên

Tìm người đại sĩ chữa bệnh điên cho mình.

- Cúc sầu ai, cúc lại huỳnh huỳnh (vàng vàng)

Lan kia sầu huệ, giả như mình sầu tôi.

- Con cò trắng tợ như vôi

Hai đứa mình còn nhỏ, xứng đôi quá chừng.

- Lá lay vì bởi con gà

Bí đao sắc nhỏ tiêu cà để vô.

Bà Ngô Thị Vàng, 85 tuổi (ấp Long Thuận, xã Long Định, Bình Đại)

- Anh có vợ rồi khó lắm anh ôi

Giả như sông rộng bèo trôi vướng chà.

- Họ giàu thì khác, hai đứa mình nghèo ở bóng mát lều tranh

Phải duyên thì em cũng gá ngỡi dẫu có khổ cực với anh, em cũng đành.

- Phải duyên với anh, vách nát, bộ vạc sập em cũng ngồi

Không phải lương duyên, bộ ván gõ, trước năm bảy ông thợ ngồi em cũng không.

- Thân người ta có đôi có bạn, tối về nhà chiếu soạn mùng giăng

Em không đôi không bạn, tối về nằm ngủ ngoài trăng một mình.

- Nhật với Tàu còn đương giao chiến

Sao anh với em không giao quyến cho gần

Để anh một nơi em một ngã, nghĩa Châu Trần chắc phải xa nhau.

- Nhạn lạc bầy kêu thương biển Bắc

Đêm năm canh, nhớ anh quặn thắt gan vàng

Cây bần sầu, em vịn lỡ anh ôi

Em nghèo than thiệt, anh kiếm đôi đừng chờ.

- Trách ai ăn giấy bỏ bìa

Khi thương thương vội, khi lìa lìa thật xa.

- Anh ở gần sao anh chậm trễ, phụ mẫu em nhận lễ sơ giao

Mâm trầu khiên, tỉnh rượu gánh, em biết làm sao thối hồi

- Đời văn minh bó buộc, em về lập cuộc hồi chồng

Đồ nữ trang em xin trả hết, bạc một đồng em trả hai.

- Hồi nào thành sông sao anh không đắp

Để đến bây giờ thành biển anh bồi

Nam xuất cư, nữ xuất giá

Em có chồng rồi chắc phải xa nhau.

- Tối rồi chuông rung, kiểng đổ

Phòng loan đâu, em chỉ chỗ cho anh nằm

Để nữa đêm trời tối anh vào lầm phòng chị dâu.

- Anh giận day một chút, anh hạ bút để liền

Thấy em rơi lệ, anh liền bôi đi.

- Chuông nhà thờ đánh mạnh, đụng cạnh kêu tiếng bon

Phụ mẫu giận nói vậy, chứ đâu có dứt nghĩa con cho đành.

- Hờn trách bấy tạo hoá buồn riêng, sao lá chẳng gần nem

Để cho anh chịu thảm, để cho em chịu sầu.

- Thốn tâm hoài vọng, thốn tâm sầu

Em muốn mần chồng với vợ, anh buồn rầu làm chi.

- Ở trển xuống đây, không dơn tầm dơn không nợ tầm nợ

Không phải anh giàu đổi bạn sang đổi vợ, nói thiệt em qua không có người nội trợ trong gia

đình

Anh muốn làm chồng với vợ mà em có bằng tình không em ?

- Anh có vợ rồi anh còn gian giấu

Em vạch mây xanh, kêu thấu ông trời xanh

Em muốn mần chồng với vợ mà không biết vợ anh có bằng tình hay không ?

- Tảng sáng đi ngang qua cửa, thấy anh đề ba câu chữ: oan trái bất thành phu phụ

Em về ôm lòng sầu thắng dĩ thối nan

Đêm năm canh nghe con chim kêu thương, con gà gáy nhớ mà chốn phòng loan có một mình.

- Áo may xếp để chờ khuy

Giàu sang em không đợi mà khó hiểm nguy em chờ.

- Vợ xa chồng, em vui sao được mà vui

Em thò tay ngoắc nguyệt mà nguyệt lui xế chiều.

- Trai như anh hầu văn kiến sẻ

Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng

Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ?

- Trai như anh phò vua cho trọn đạo

Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta

Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình.

- Leo cây huệ, thốn vịn cây đào

Bụng anh có muốn cây nào chiết ra ?

- Em vào phòng loan than thầm khóc gối

Phụng xa loan bối rối anh chung tình

Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa.

- Cáo Tô Văn vốn thiệt rồng xanh

Bay ngang cửa biển phá thành hiền vương

Tiết Nhơn Quý giục ngựa buông cương

Bay qua cửa biển, cứu ông vua Đường Thế Dân.

- Võ Đông Sơn hồi thuở trước, có lời giao ước với Bạch Thu Hà

Kẻ chân trời, người góc biển, sum họp một nhà anh thấy không ?

- Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ

Nam bất cư như liệt mã vô cương

Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền.

- Thắng quân tử thối hề quân tử

Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời

Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng

đời anh thấy không ?

- Qua than với em phụ mẫu quá già yếu, đứa con qua còn nhỏ xíu khổ cực nhiều bề

Quần áo rách không ai vá, vải mua về không ai may

-Vải mua về, anh Mười ơi, anh để đó cho em may

Quần áo rách để cho em vá nhưng phụ mẫu hay anh tính thế nào ?

- Bình Đại thôn bản sở

Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày

Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh.

- Trèo lên chót vót cây khô

Ngó về xóm Giồng Trên mười sáu cô chưa chồng

Tư Bối lỡ hội mà xong

Hai Thảo không chồng báo ngáo bơ ngơ

Năm Hạ thiệt đã còn thơ

Cha mẹ sầm sờ ai nói mần chi

Tư Nhựt nhiều kẻ yêu gì

Trà ngon rượu ngọt thiếu gì vật ăn

Tư Điều chồng nói lăng xăng

Ba má không gả mấy trăng khóc ròng

Hai Kỉnh là gái có chồng

Trách ông tơ bà nguyệt đem lòng không xuôi

Hai Gấm trong dạ sụt sùi

Đêm nằm nước mắt lau chùi không khô

Hai Ngoan là gái bự cồ

Chồng con không có ra vô thêm phiền

Năm Chếnh là gái thuyền quyên

Đêm nằm chiếc bóng sầu riêng một mình

Trách ai lòng sắt dạ đinh

Mà tui phải chịu linh đinh múi trầu

Nhắc tới Hai Chiến thật rầu

Mồ côi luống chịu thâm sầu mồ côi

Cám thương Sáu Mão vô hồi

Chồng con lỡ dỡ giận thôi ra về

Hai Gấm thiệt đã nhiều bề

Chồng con không có ra về sao an

Tám Vàng là gái đông sàn

Lỡ duyên chịu lỡ, khép mình mùa đông

Chín Lê cũng chưa có chồng

Đêm nằm nước mắt ròng ròng chứa chan

Tư Phấn quần áo lang thang

Cha mẹ nghèo nàn ai thấy cũng thương

Chín Biểu xập xệ lẽ thường

Đi ra không áo đoạn trường hơn ai.

Bà Lê Thị Mươi, 70 tuổi (ấp 2, Vang Quới Đông, Bình Đại)

- Chị em đông có chồng bên Tống

Tay cầm dùi trống, tay khải đờn Liêu

Lòng dặn lòng ai dỗ dừng xiêu

Giả như Kim Trọng với chị Thúy Kiều thuở xưa.

- Thương hỡi thương gươm trường không sợ

Giáo đống hai hàng phải duyên nợ em cũng vô.

- Phụ mẫu tôi đánh tôi bằng roi tre nhặt mắt, nhịp cái cắt, lại thắt cái vòng

Anh làm trai quý tử mà sao để gái lòng trinh chịu đòn ?

- Thân tôi như cây cúc mọc dựa bờ rào

Khổ lao mà lao với khổ không biết chỗ nào náu nương.

- Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất

Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề

Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu?

- Hồi thuở xuân xanh, sao anh không đáp nghĩa hoàn tình

Bây giờ bạc không cai, vào ra nơi tửu sắc khó nổi nhìn lắm bớ anh.

- Em vô phần vô phước

Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh

Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng.

- Bần gie đóm đậu sáng ngời

Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than.

- Chưa có gì họ đồn thấu

Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình

Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh.

- Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít

Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên

Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì.

- Hò thì hò truyện, hò thơ

Ai mà hò bậy, tui quýnh mẻ ơ lên đầu

Xách bù lon tui đứng đầu cầu

Đứa nào hò bậy, quýnh cái đầu bằng cái nôm.

- Tiết Đinh San mắc vòng lao lý

Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành

Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ?

- Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San

Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng

Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư.

Bà Trần Thị Huyền, 50 tuổi (ấp 2, xã Vang Quới Đông, Bình Đại)

- Phá cho bứt lộ thành mương

Phá cho cầu sập hết đường Tây đi.

- Giặc Tây đánh đến Cần Giờ

Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công.

- Gái Mỏ Cày một lòng chung thủy

Trai Mỏ Cày đánh Mỹ tan thây.

- Anh chê em nhỏ thó mắc rầu

Chứ con thằn lằn bao lớn mà ôm cột đình sát vo ?

- Tiếng đồn cha mẹ anh hiền

Cắn hột cơm không bể, cắn đồng tiền bể đôi.

- Tiếng đồn cha mẹ anh giàu

Sao anh ăn mặc như tàu chuối te.

- Ngó lên thấy mặt thì thương

Ngó xuống cái bụng ễnh ương phát rầu.

- Sao anh lại nói rằng rầu

Nuôi cho nó lớn têm trầu anh ăn.

- Qua đình ngả nón trông đình

Hạc chầu thần đủ cặp, sao hai đứa mình lẻ đôi.

- Ăn dừa ngồi gốc cây dừa

Cho em ngồi với cho vừa một đôi.

- Dừa xanh trên bến hai hàng

Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.

- Cây bần ơi hỡi cây bần

Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.

- Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng

Anh thương em như lửa nọ cháy phừng

Dù cho núi lở tan rừng cũng thương.

- Phải chi em lấy chồng xa anh đà không giận

Chớ em lấy chồng gần như lửa cận mái hiên.

- Anh về cưới vợ cho xong

Em như con tép lộn rong khó tìm.

Bà Nguyễn Thị Phán, 74 tuổi (xã Thanh Tân Tây, Mỏ Cày)

- Bước lên cầu, cầu trơn như mỡ

Bước xuống đá, đá lạnh tận xương

Cả tiếng kêu người nghĩa lại đi đường

Lương dơn đây sao rồi không gá mà kiếm đường đi đâu ?

- Bên tao nấu cháo đầu heo

Bên bây nấu cháo đầu mèo chết trôi

- Bên tao năm đứa mà vui

Bên bây sáu đứa, đứa đui, đứa cùi

- Bên tao uống nước bằng tô

Bên bây uống nước bằng mo súc sình

- Bên tao đương bội nhốt gà

Bên bây đương bội nhốt bà nhốt con.

- Tay ôm mền ấm, tay nắm gối vàng cẳng khoắc mền lang, tay chàng cổ bậu

Miệng vái cùng trời đừng lậu tiếng ra.

- Nhất điện nhì điện (?) cám thương lỗ miệng em cười

Hàm răng em khít rịt ít người như em.

- Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ

Thôi quan xét lại cho em nhờ

Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây.

- Trầu lên nửa nọc trầu vàng

Thương cô áo chẹt vá quàng hai tay.

- Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất

Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi

Anh với em duyên nợ hết rồi

Kiếm nơi chỗ khác đứng ngồi cho yên.

- Ngó lên lầu, lầu nào cao bằng lầu Cao Lãnh

Gái nào bảnh sao bằng gái Sóc Trăng

Bước lên xe lửa, đầu đội khăn rằn

Nói chơi thả cửa anh nào cũng mê.

- Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao

Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng.

- Nhất nhật phu thê bá vạn tòng

Chị em người ta có đôi ra rả, sao em ôm lòng chờ anh ?

- Ba phen lên ngựa mà về

Dừng cương đứng lại xin đề câu thơ

Câu thơ ba bốn câu thơ

Câu đợi, câu chờ, câu nhớ câu thương.

- Sáng mai em xách dĩa mua tương

Thấy anh trong trường cầm viết ngó ra

Anh mua cùng tờ giấy gởi về

Gởi thời, gởi trách, gởi khăn

Gởi chi tờ giấy mà hai mươi lăm đồng tiền

Phải chi anh có tiền riêng

Anh mua áo gấm khăn điều cho em.

- Nhền nhện sa xuống nước nhền nhện nổi phình

Trước tôi kiếu huynh kiếu đệ mà kiếu bạn chung tình tui lui.

- Anh về sao đặng mà về

Dây giăng bốn phía tứ bề bắt anh

- Bắt anh thời phải nuôi anh

Cơm ăn ba bữa, rượu ấp xanh cho thường.

- Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ

Cái ngủ mày ngủ cho say

Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày

Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ.

- Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về.

- Sáng mai anh đi ngang nhà nàng

Anh thấy nàng ngồi ghế tràng kỉ

Ăn bánh bao chỉ, mũi chảy lòng thòng

Về cậy mai dong đến nói, cưới dòng ở dơ

- Bấy lâu em mũi dãi tèm hem

Bây giờ em lớn anh thèm chết cha.

Chị Lê Thị Bé Sáu (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời

Hồi tạo thiên lập địa ông trời ai sanh?

- Em về hỏi lại mẹ cha

Hồi tạo thiên lập địa có tụi mình đâu em

- Sao trên trời mấy cái ?

Nhái ngoài ruộng mấy con ?

Đất vuông mấy mẫu, mấy sào ?

Anh nào đáp được, má đào em xin dâng.

- Sao trên trời hằng hà sa số

Nhái ngoài ruộng năm bố bảy bao

Đất vuông trăm mẫu trăm sào

Vậy là anh đối được, má đào em đưa đây!

- Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn

Sông Sài Gòn chỗ cạn chỗ sâu.

- Rượu nằm trong nhạo, rượu lại chờ nem

Em nằm trong phòng vắng, trông anh bước vào.

- Anh về mai mốt anh qua

Em đừng bịn rịn, má la má rầy.

- Má ơi đừng đánh con đau

Để con bắt ốc, hái rau má nhờ

Má ơi đừng đánh con khờ

Để con hát bội, múa cờ má coi.

Ông Trần Thuận (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Cô kia xách nón đi đâu ?

Phận tôi là gái mần dâu mới về

Đi về dốt nát chồng chê

Trở về mà học a ê với người.

- Hỡi cô gặt lúa trên đồng

Cho anh gặt với tụi mình vần công

- Hỡi anh cuốc đất trên đồng

Gắng công em gặt một mình cũng xong

- Giúp em anh giúp thật lòng

Cho mau hết lúa không hề tiếc công

- Giúp em anh mới ươn trồng

Cà dưa chết héo, anh trồng uổng công.

Ba? ?inh Thi? Minh Ti?n, 52 tuơ?i ( ?p Tn ???c A, xa? Tn Bi?nh, Mo? Ca?y)

- Chữ rằng: "thiên võng khôi khôi

Sơ chi bất lậu" lưới trời bủa giăng

Xa xôi chưa kịp nói năng

Xin anh đừng có phũ phàng vải bô.

- Thân em như rau muống dưới hồ

Nay chìm, mai nổi, biết ngày mô cho thành ?

- Dốc lòng trồng cửu lý hương

Ba năm thay lá, người thương già đầu.

- Sông ngân chưa bắt nhịp cầu

Phận em là gái biết sầu mấy nơi ?

- Thương cha thương mẹ có khi

Thương em kịp thuở kịp thì xuân xanh.

- Bữa ăn cá cá cùng anh

Cũng không mát ruột bằng anh với nàng.

- Cha đời con gái mười ba

Đêm nằm với mẹ khóc la đòi chồng

Mẹ giận mẹ phát ngang hông

Đồ con "chết chủ" đòi chồng thâu đêm.

- Công cha ba năm tình thâm lai láng

Nghĩa mẹ đêm dài chín tháng cưu mang

Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn

Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn

Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.

- Tiếng anh ăn học cũng thông

Về đây em hỏi bánh bò bông bột gì ?

- Bánh bò bông anh biết làm bột với mì

Đủ cân, đủ lượng nó quỳ ra tay.

- Dẫu mà không lấy được em

Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu

- Tu đâu cho em tu cùng

May ra thành Phật thờ chung một chùa.

- Chim khôn mắc phải lưới hồng

Hễ ai gỡ được đền công lạng vàng

- Đền vàng anh chẳng lấy vàng

Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh.

- Bồng con đi dạo vườn dưa

Dưa đà có trái, chị chưa có chồng.

- Cá về chợ Vịnh hết mong

Em về Đồng Tháp, bỏ chồng cho ai ?

- Đêm nằm ôm gối thở than

Gối ơi là gối, bạn lang xa r?i.

Bà Nguyễn Thị Cẩm ( ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Tiếng anh ăn học thì thông

Về đây em hỏi khăn bàn lông mấy đường?

- Khăn bàng lông anh đã xài thường

Bây giờ nó cũ mấy đường anh quên.

- Tiếng anh ăn học xứ xa

Về đây em hỏi chợ Băng Tra mấy người?

- Em về em đếm tóc em

Tóc em mấy sợi chợ Băng Tra mấy người ?

- Tiếng anh ăn học thành tài

Về đây em hỏi cây xoài mấy bông?

- Em về đếm cá dưới sông

Để anh ở lại đếm bông cây xoài.

- Trời mưa ướt lá trầu lương

Ướt mình mình chịu, ướt người thương đau lòng.

Bà Huỳnh Thị Tuyết, 51 tuổi (ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Ngó ra ngoài biển mịt mù

Thấy tàu ông lớn chở tù về tây.

- Khế với sung, khế chua sung chát

Mật với gừng, mật ngọt gừng cay.

- Trách trời sao vội mưa giông

Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.

- Chú kia nhổ mạ bên cồn

Nước nôi không có miệng mồm tèm lem.

- Con cò nó mổ con lươn

Bớ chị đi đường muốn tía tôi không.

Tía tôi lịch sự quá chừng

Cái lưng mốc thít cái đầu chôm bơm.

- Chẻ tre lựa lóng đươn sàn

Chờ đôi năm nửa cho nàng lớn khôn.

- Khoan khoan bớ chị hái trầu

Khăn chéo đội đầu lắt lẻo ngọn thang.

- Ba năm tang chế mãn rồi

Đầu dơ em gội chuỗi vòng đeo vô.

- Tàu lui sáo thổi vang đầy

Anh xa em vì bởi quan thầy đổi đi.

- Mười giờ tàu lại Bến Thành

Xúp - lê vội thổi bộ hành lao xao.

- Ra về thấy cảnh thêm thương

Nhành mai ủ dột vách tường nhện giăng.

- Ngọc trầm thủy thượng anh ơi

Cầm đũa lên mời chúng bạn hồi hương.

- Củi đậu nấu đậu ra dầu

Cưới em không đặng cạo đầu đi tu.

- Chẵn chình để vậy lưu ly(?)

Chình ra tỏa rạng khác gì ngọc châu.

Ông Nguyễn Văn Đức, 68 tuổi (ấp Tân Đức, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Nước giữa sông một dòng biếng chảy

Tôi ngồi đợi mãi cho đến trăng lặn sao mờ

Làng tôi sớm nắng chiều mưa

Chớ ai đành theo giặc để dày bừa nước non.

- Giặc bắt anh đi giữa mùa cấy hái

Cày bừa bỏ lại cỏ lúa chưa mần

Căm thù quân giặc bất nhân

Làm cho gia đình ly tán chồng con chia lìa.

- Dòng sông nước chảy lờ đờ

Con thuyền lơ lững như chờ đợi ai.

Chị Nguyễn Thị Kim Loan, 36 tuổi ( ấp Tân Mỹ, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Ngó lên trời, anh thấy sao nguyệt bạch

Anh ngó xuống lòng lạch, anh thấy con cá chạch đỏ đuôi

Nước chảy xuôi, anh thấy con cá buôi lội ngược

Nước chảy ngược, anh thấy con cá nược lội theo

Này em ơi, anh than bổn phận anh nghèo

Vợ con chưa có cũng như bọt bèo trôi sông.

- Nhà em đây nhà anh đó

Cách đây, cách đó chẳng cách bao xa

Tại mẹ với cha phân đà không đặng

Đêm nằm thổn thức bốn bức châu rơi

Bấy lâu anh mang tiếng chịu lời

Bây giờ xa bạn, trời nào biểu xa.

- Hai đứa mình thương nhau qua

Sao ba vặn khóa, má lại bẻ chìa

Chìa hư rồi ống khóa liệt

Hai đứa mình từ biệt mấy năm.

- Khăn rằn một sọc thì khăn rằn Tây

Tôi thấy mình ốm yếu mình dây theo thương đùa

- Nước trong tôi múc lấy một vùa

Tôi thương người cho trọn một mùa tháng giêng.

- Em thấy anh hay chữ, lại đây em hỏi thử đôi lời

Cọng cỏ chi mà không lá, con cá gì không xương ?

- Em đố chi câu chữ bất bình

Cọng cỏ măng không lá, con cá họa hình không xương.

- Tiết Nhơn Quý nằm trên trại gỗ

Xuất tướng tinh bạch hổ rõ ràng

Chớ anh đăng bảng khoe tài

Chớ em vô mà gỡ bảng hai ngày với anh.

- Trai nào bảnh bằng trai thị trấn (Mỏ Cày)

Đầu thì hớt chải tóc tém bảy ba

Mặc pijama khăn bàn choàng cổ

Thấy em gái Giồng Keo ngồ ngộ muốn cùng ai thổ lộ đôi lời

Cấy cày cực lắm em ơi

Hãy theo anh về vườn ăn trái cuộc đời ấm no.

- Gái Giồng Keo tuy quê mùa dân dã

Tóc dài bỏ xõa ái vải bà ba

Nắng táp mưa sa mà mịn da dài tóc

Không đẹp bằng ai nhưng vừa vóc

Tuy quê quít nhưng không thích trai vườn

Trai mà dở dở ương ương

Ngồi không hái trái hết đường tương lai.

Bà Đỗ Thị Đá, 63 tuổi (ấp Hội Thành, xã Đa Phước Hội, Mỏ Cày)

- Anh đi bỏ mõ bỏ chuông

Bỏ ghè tương lạc, bỏ buồng chuối non.

- Tiếng đồn em ăn học nhà trường

Cho anh xin hỏi cỏ trong vườn mấy cây ?

- Anh về đổ bộ lư hương

Đếm tro mấy hột, cỏ trong vườn mấy cây.

- Thấy em ăn học Mỏ Cày

Cho anh hỏi thử cây xoài mấy bông ?

- Anh về đếm cá dưới sông

Để em ở lại đếm bông cây xoài.

- Ngó lên đám mạ năm gò

Thấy em còn nhỏ giữ bò anh thương

- Thò tay ngắt ngọn trầu lương

Bò em em giữ mà anh thương nỗi gì ?

- Anh thương vì bởi gánh ghi

Bạc lộn với chì đôi cũng xứng đôi

- Em còn nhỏ lắm anh ơi

Em chưa tính chuyện lứa đôi vợ chồng.

- Bước đi ba bước lại ngừng

Tuổi em còn nhỏ chưa từng làm dâu

Làm dâu khó lắm anh ơi

Vui chẳng dám cười cực chẳng dám than

- Bây giờ có cực em đừng than

Hồi đó anh biểu em khoan lấy chồng.

- Mía lau chặt lóng bỏ tàu

Anh qua cưới bậu bậu đòi bao nhiêu ?

- Bậu đòi chín chục một trăm

Quần áo một mớ vàng vòng một đôi.

- Đòi vàng anh cũng đi vàng

Anh cưới đặng nàng về đặng coi trâu.

- Coi trâu để má anh coi

Phận nàng là gái coi trong coi ngoài.

- Ngày xưa ông địa ăn chè

Ngày nay ông địa ăn xe nồi đồng.

- Gái xưa trông lớn lấy chồng

Gái nay trông lớn vào đoàn nữ thanh

- Gái xưa đi chợ ăn hàng

Gái nay đi chợ bán toàn đơn thơ.

- Già xưa đi chợ mua trầu

Già nay đi chợ nắm đầu Mỹ Ngô.

- Trăng sáng lộ trắng như ngà

Thấy quân Mỹ Diệm như gà bị thua.

Bà Nguyễn Thị Ngãi, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng

Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh

Đêm nằm lưng chẳng bén giường

Mong cho mau sáng ra đường gặp anh.

- Đêm nằm ở dưới bóng trăng

Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em.

- Đôi ta như chỉ mới xe

Như măng mới mọc như tre mới trồng

Đôi ta như lúa đòng đòng

Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha.

- Anh thương em trầu hết lá đươn

Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay

Dầu mà cha mẹ có hay

Nhứt đánh nhì đày, hai lẽ mà thôi

Gươm vàng để đó em ơi

Chết thì chịu chết lìa đôi anh không lìa.

- Ăn chanh ngồi gốc cây chanh

Khuyên cội, khuyên cành, khuyên lá, khuyên bông

Khuyên cho đó vợ đây chồng

Đó bế con gái, đây bồng con trai.

- Áo gài năm nút hở bâu

Em còn phụ mẫu đâu dám tư tình với anh.

- Mù u bông trắng lá quắn nhụy huỳnh

Phải chăng phu phụ ngàn năm anh cũng chờ.

- Anh còn son em cũng còn son

Ước gì ta được làm con một nhà.

- Lòng em đã quyết thì hành

Đã cấy thì gặt với anh một mùa.

- Ước ao anh ở một nhà

Ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương.

- Xa xôi xích lại cho gần

Làm thân con nhện mấy lần ươm tơ.

- Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

- Chuồn chuồn mắc phải tơ vương

Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng.

- Hồ nào sóng biết vỗ bờ

Ai mà thả kiếm rùa đưa đi dùm ?

- Hồ Hoàn Kiếm sóng biết vỗ bờ

Vua Lê thả kiếm rùa đưa đi dùm.

- Nơi nào gần chốn kinh đô

Nhiều thây giặc chết chất thành gò đống cao ?

- Gò Đống Đa gần chốn kinh đô

Nhiều thây giặc chết chất thành gò cao.

- Thân em như tấm lụa đào

Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai ?

- Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai.

- Cây kiềng vàng đeo lâu còn đỏ

Đôi đứa mình còn nhỏ còn thương

Dẫu cho cha mẹ không thương

Đôi ta trải chiếu ngoài đường lạy vô.

- Cha mẹ đòi ăn cá thu

Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.

Ông Võ Văn Thổ, 46 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Trời chuyển mưa cho mây phủ mình rồng

Phận anh bạc số nên em đi lấy chồng bỏ anh.

- Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên

Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền

Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau.

- Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần

Anh cách xa em như nhợ xa cần

Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em.

- Nhợ xa cần, nhợ lại nằm khoanh

Anh xa em một bữa cơm canh anh bỏ liều.

- Vui sao mà anh bảo em cười

Một ngày thấy mặt, chín mười ngày không.

- Không vui anh cũng muốn em cười

Cười cho quên hết những ngày mình không gặp nhau.

Bà Huỳnh Thị Mỹ (ấp Tân Đức B, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Chim tham ăn sa vào vòng lưới

Cá tham mồi mắc tại lưỡi câu

Ai ơi nên phải nghĩ sâu

Những ai tham thực ác là cực thân.

Bà Phan Thị Tương, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Chim bay về núi tối rồi

Chị em lo liệu lấy nồi nấu cơm.

- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai

Vắt vai chạy dài xuống chợ

Xin ba đồng tiền trả nợ bánh canh

Bánh canh con vắn con dài

Ai mua tôi bán, ai nài tôi thêm.

Chị Trương Thị Huệ Em (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Dạy con đọc sách thánh hiền

Còn hơn để lại bạc tiền đầy kho.

- Còn cha còn mẹ thì hơn

Không cha không mẹ như đờn đứt dây

Đờn đứt dây còn dây còn nối

Cha mẹ thác rồi con phải mồ côi

Mồ côi tội lắm ai ơi

Đói cơm khát nước biết người nào lo.

- Hoa xinh ai nỡ bỏ rơi

Người khôn ai nỡ nặng lời với nhau.

- Trầu xanh cau trắng cháy hồng

Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên

Trăm năm ghi tạc chữ đồng

Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.

- Trăm năm ai chớ bỏ ai

Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim.

- Ở hiền thì lại gặp lành

Những người nhân đức trời dành phúc cho.

Chị Huỳnh Thị Lệ (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)

- Anh về Giồng Miễu, mua một thước nhiễu nhị tấc

Về con ba cắt, con tư may

Con năm đột, con sáu viền

Con bảy đơm nút, con tám đơm khuya

Anh bận ra đi, con chín níu, con mười tỳ

Chín Mười ơi, em kéo vậy thì còn gì cái áo anh

Áo anh đơm nút con rồng

Đứng xa con phụng lại gần con quy.

- Chiều chiều ông Lữ đi câu

Cá ăn đứt nhợ mang dây chạy về.

Chị Thu Hà (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)

- Đội ơn cốt dục cao dày

Học cho đẹp mặt nở mày mẹ cha

Học đặng như gấm thêu hoa

Có chân có chất mới ra con người

Làm trai phải biết khổ người

Dại thời ra đứng hai bên cột đình.

Bà Nguyễn Thị Hoàng,54 tuổi (ấp Thanh Bắc,xã Tân Thanh Tây, Mỏ Cày)

- Rửa tay cho trắng, ngắt ngọn rau cho tươi

Tiền năm quan anh chuộc lấy tiếng cười

Vàng rơi anh không tiếc mà anh tiếc người có duyên.

- Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa xế

Em ơi về lập kế thôi chồng

Đồ nữ trang đừng trả, để kiện lo

- Tới đây không hát thì hò

Không phải con cò ngóng cổ mà nghe

- Con cò nó ở nhành tre

Chớ đâu dưới đất mà nghe anh hò.

- Anh kia vừa ốm vừa cao

Đi xa tôi tưông cái sào chống ghe.

- Cô kia vừa mập vừa lùn

Đi xa tôi tưởng cái thùng nó lăn.

- Thiếu chi rau mà ăn rau é

Chứ thiếu chi chồng mà làm bé người ta.

- Chiếu bông mà trải gốc dầu

Muốn vô làm bé phải hầu vợ anh.

- Nước ròng tép bạc lội xuôi

Ai về đồng ruộng theo tui mà về

- Đồng anh nhiều con ốc gạo

Gái đồng quê nhiều đạo văn minh

- Trai đây anh ở giá một mình

Qua đây kết nghĩa chung tình với anh.

- Tức mình đấm ngực lăn nhào

Đón em anh hỏi ông tơ nào xe dây ?

Tức mình hơn quá té cây

Té cây không tức cơ hội này tức hơn

Đũa vàng dọng xuống mâm son

Thương em đứt ruột từng cơn hội này

Anh đau riêng tư khó nỗi tìm thầy

Thuốc thang sắc uống cơ hội này bất thương

Có mặt em đây anh nói rằng thương

Không có mặt em anh gá nghĩa can thường lăng xăng

Nhất nhật bất kiến như mã đề văn

Thấy em có nghĩa mấy trăng em cũng chờ

Làm sao cho được bây giờ

Sông sâu khó lấp cao bờ khó ban

Bây giờ có cực đừng than

Xưa kia anh biểu em khoan có chồng

Từ khi đi lính hội đồng

Vai mang cây súng tay bồng giáo gươm

Bốn phía trời rựng mọc đỏ ươm

Trách lòng thương bạn cầm gươm phóng lìa

Trách ai vặn khóa bẻ chìa

Khi thương thương vội khi lìa lìa xa

Làm chi tội lắm bé ba

Can thường mới ngộ bỏ qua sao đành

Rút gươm ra đứng bờ thành

Sa cơ này anh tự vận chị em đành hay không ?

Anh đừng tự vận mênh mông

Để em than vãn đêm đông đôi lời

Anh đừng tự vận giữa trời

Để em than vãn nhiều lời bất thương

Một mình đứng giữa trung lương

Bên tình bên hiếu biết thương bên nào ?

Hai bên súng bắn giao sào

Súng bắn mặc súng em nhào theo anh

Khăn lau nước mắt ướt nhem

Tới lui không đặng thì em có chồng

Đứng gần em gan lại phập phồng

Dang tay hỏi nhỏ em có chồng rồi chưa?

Cúc nằm trong chậu cúc xanh

Có chồng dùng thẳng đợi anh lâu ngày

Phải chi anh hóa đặng cây cải tiền tài

Giăng dây bốn phía bắt người ngoài che nhau

Trên trời có cụm mây bao

Anh đây em đó không biết làm sao lại gần?

Biển đông có cặp sóng thần

Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu

Thương mình chẳng biết bao nhiêu

Mình về tôi ở lại xương tiêu nát lòng

Quạ kêu nam đáo nữ phòng

Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương

Nhạn kêu tiếng nhạn kêu thương

Ngày thời nhớ bạn đêm thời nhớ anh

Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò xanh

Hổng tin giở thử có anh rõ ràng

Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò vàng

Không tin giở thử có nàng đứng thơ

Gặp anh đây nhằm lúc lâm cơ

Cắn tay chảy máu làm thơ thề nguyền

Chim khôn núp bóng cội riềng

Vợ mà thấy đó lo tiền không ra

Sáng trăng có núp cội da

Sáng ra có đứng ngã ba chờ mình

Cong lưng chạy thẳng vô đình

Trượt năm bảy cái không thấy bạn chung tình đỡ tui

Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi

Còn lan sầu huệ như tui sầu mình

Than tiếng than tình đã động tình

Thiếu điều cắt ruột trao mình mình ơi

Bước lên trên ngựa sụt sùi

Bước xuống dưới đất ngùi ngùi nhớ em

Phụng hoàng ngậm bức thơ lem

Đôi ta chồng vợ cậy đem thơ này

Xem thơ nước mắt nhỏ đậm đầy

Có chồng còn gửi thơ này làm chi

Hạc chầu thần hạc đứng lưng qui

Đôi ta thương lén có khi khóc thầm

Ngọc trao tay áo sao anh không tầm

Để mai với mốt anh tầm ra sao?

Ông Hồ Trung Thành, 50 tuổi (Phường 6, thị xã Bến Tre)

- Anh về vườn, tìm đường tôm lội

Ở chi xứ này đầu đội, vai mang.

- Nước dừa ngọt tựa lòng dân

Mỡ dừa như sữa mẹ, trắng ngần thơm tho.

- Trời chiều chiều chuyển mưa vần vũ

Tôi nhìn về quê cũ ruột thắt gan đau

Nhớ hồi nào cày cấy cùng nhau

Bây giờ Mĩ Diệm nhốt vào trong khu.

- Chim quyên ăn trái bồ quân

Quýnh bạc cầm quần để dái tòn ton.

- Anh về cùng vợ con anh

Lá rụng về cội, bỏ nhành xơ rơ.

- Ví dầu lịch vắn lương dài

Quạ đen, cò trắng, chài chài xanh lông.

- Con gà, con vịt có lông

Ống tre có mắt, nồi đồng có quai.

- Chiều chiều vịt lội cò bay

Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.

- Anh đi ghe cá mũi son

Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay.

- Anh đi ghe cá cao cờ

Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên ?

- Anh về để áo lại đây

Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng

- Lạnh lùng em lấy mùng em đắp

Để áo anh về đi học đường xa.

- Khoan khoan bớ chị hai dâu

Chị đừng ngắt đọt để dâu lên chồi

- Thôi thôi chị đã ngắt rồi

Còn da lên mụt còn còn chồi lên cây.

- Đi lính quốc gia vàng đeo đỏ cổ

Đi lính vụ Hồ chịu khổ muôn năm

- Đi lính quốc gia vàng đeo có lúc

Đi lính cụ Hồ hạnh phúc muôn năm.

- Đến đây lạc miệng thèm chanh

Ở nhà đã có cam sành thiếu chi.

- Nhìn lên trời thấy cặp cu đương đá

Nhìn xuống nước thấy cặp cá đương đua

Anh với em tuổi tác cũng vừa

Ngại cha với mẹ kén lừa suôi gia.

- Chiều nay cắt cổ gà ô

Để chi nó gáy hai cô chưa chồng

Hai cô hùn lại hai đồng

Nuôi cho tui lớn làm chồng hai cô.

- Bảy với ba anh tính ra một chục

Tam từ lục anh tích lại cửu chương

Liệu bề đát đặng thì đương

Đừng gầy rồi bỏ nửa đường cho ai.

- Sông sâu sóng bủa láng cò

Thương em vì bởi câu hò có duyên.

- Tàu nhà Tây đi trước, tàu nhà nước theo sau

Hai chiếc gặp nhau, quăng neo cái rổn

Anh tưởng tàu Nhật Bổn lấy đất Châu Thành

Chiều chiều chim đậu nhành chanh

Trong cơn nguy khốn lòng anh đau buồn.

Bà Nguyễn Thị Phượng, 45 tuổi (xã An Điền, huyện Thạnh Phú)

- Chiều chiều vịt lội cò bay

Ông voi bẻ mía chạy ngay về rừng

Vô rừng bứt một sợi mây

Đem về thắt dóng mẹ mày bán buôn

Bán buôn không lỗ thì lời

Đi ra cho thấy mặt trời mặt trăng.

- Má ơi con má hư rồi

Còn đâu má gả má đòi heo quay.

- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ

Nắm canh chày thức đủ vừa năm

Gió mùa hè ai dè bạc phận

Chờ mấy con trăng này thời vận đảo điên.

- Người trồng cây cảnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời về sau.

- Người thanh nói tiếng cũng thanh

Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.

- Thức lâu mới biết đếm dài

Ở lâu mới biết là người có nhân.

- Sông sâu sào ngắn ngôn dò

Người khôn ít nói khôn đo tấc lòng.

- Sông sâu còn có kẻ dò

Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng

Đàn đâu mà gẩy tai trâu

Đạn đâu bắn sẻ gươm đâu chém ruồi

Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

- Anh đi đằng ấy xa xa

Để em ôm bóng trăng tà năm canh

Nước non một gánh chung tình

Nhớ ai, ai có nhớ mình hay không ?

- Gió đưa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

Con thơ tay ẳm tay bồng

Tay nào xách nước tay nào vo cơm.

Bà Nguyễn Kim Quang, 75 tuổi (xã Phú Túc, huyện Châu Thành)

- Cờ bạc là bác thằng bần

Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.

- Đố ai con rít mấy chân

Cầu ô mấy nhịp, chợ Vinh mấy người?

- Chanh chua thì khế cũng chua

Chanh bán có mùa, khế bán tư niên.

- Mồ côi cha ăn cơm với cá

Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ.

- Trời mưa lâm râm, ướt dầm lá hẹ

Cảm thương nàng có mẹ không cha.

- Thuyền thinh đôi chiếc thuyền thinh

Mình rồng, đuôi phụng vẽ vinh đôi đàng

Một chiếc anh chở năm nàng

Hai chiếc anh mười nàng, xinh đà quá xinh.

- Chị kia bới tóc cánh tiên

Ghe bầu đi nói một thiên cá mòi

Không tin dở hộp ra coi

Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên.

- Ngó lên Sở Thượng thêm buồn

Muốn dâm cội rễ, ngại đường xa xôi.

- Ghe lui khỏi bến còn dầm

Người thương đâu mất chỗ nằm còn đây.

- Ngọc sa xuống biển ngọc trầm

Anh thất ngôn lời hứa không tầm đặng em.

- Tưởng là đường vắng hát chơi

Hay đâu đường vắng có người vãng lai.

- Ruột thắt gan teo cũng bởi anh nghèo nên xa con bạn

Bực thạch kia lở rồi, chiếc thuyền cạn bơ vơ.

- Con ngoan đẹp mặt mẹ cha

Con hư đành chịu người ta chê cười.

- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng

Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.

NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3 DÒNG

( trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và

Hoàng Thị Bạch Liên)

Đây là hiện tượng khá đặc biệt của CD-DC Bến Tre nói riêng và CD-DC Nam bộ nói chung. Các bài ca này vẫn đảm bảo chức năng của bài hát dân gian là chuyển tải nỗi lòng của chủ thể trữ tình nhưng về hình thức, các bài CD-DC này gồm 3 dòng, giữa các dòng có sự hiệp vần với nhau.

- Đồng Văn Cống ở Bàu Dơi

Mời quan lớn xuống chơi

Đứa nào đốt nhà dân… chó đẻ. (Tr. 170)

- Nước chảy liu riu

Lục bình trôi líu ríu

Anh thấy em nhỏ xíu anh thương. (Tr. 173)

- Một trăm con gái thủ

Một lũ con gái chợ anh không màng

Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa. (Tr. 174)

- Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa

Khen ai khéo vẽ cục đá thêm tròn

Giận thì nói vậy chứ dạ còn thương em. (Tr. 176)

- Kìa vườn dừa cây cao cây thấp

Gió quặt quà cành lá xác xơ

Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176)

- Sáng trời vạch vách trao thơ

Bây giờ mình ước tôi mơ

Như chồng gặp vợ làm ngơ sao đành. (Tr. 178)

- Treo quằn treo quại treo trại cành dương

Phụ mẫu tôi đánh tôi cái chót, tôi nhảy vót hàng rào

Biểu xa người nghĩa lòng nào tôi xa. (Tr. 179)

- Sông Bến Tre xáng múc tàu "xà lúp" chạy cũng thường

Giang tay đưa bạn lên đường

Hột châu nhỏ xuống đoạn trường anh thấy không. (Tr. 180)

- Ăn cơm cũng nghẹn uống nước cũng nghẹn

Mấy lời mình hẹn tôi đứng cửa tôi trông

Cửa thời thấy cửa người không thấy người. (Tr. 181)

- Anh ở khác tổng em ở khác làng

Ưng không thời nói bữa đầu

Làm chi cho lỡ rượu lỡ trầu anh ra. (Tr. 185)

- Ban ngày gặp em anh thương anh nhớ

Tối về anh ngủ anh mớ má anh rầy

Má kêu anh dạ mới chừng nầy mà mầy mê tâm. (Tr. 190)

- Trời càng mưa càng gió

Nhật vị huỳnh kim kiếu lỗi bạn vàng

Chốn hương thôn em ở Lộc Thuận làng anh dời chân. (Tr. 191)

- Cây thia lia lá cũng thia lia

Bậu không thương anh bậu nói tiếng nọ tiếng kia

Bậu vu oan giá họa đặng lìa nhau ra. (Tr. 192)

- Chim khôn kiếm nơi lành mà đậu

Gái khôn kiếm trai nhơn hậu mà nhờ

Em mê chi đàng điếm nay dật mai dờ hư thân. (Tr. 193)

- Dao phay kề cổ

Máu đổ không màng

Chết thì chịu chết chớ buông nàng anh không buông. (Tr. 193)

- Nước chảy bon bon

Con vượn bồng con lên non hái trái

Cảm thương nàng phận gái mồ côi. (Tr. 194)

- Đèn treo cột đáy nước chảy đèn rung

Anh thương em thảm thiết vô cùng

Cớ sao em bội bạc lạnh lùng với anh. (Tr. 195)

- Kiến bất thủ như tầm thiên lý

Anh thương em nghĩ trí cho khôn

Kẻo vợ nhà anh hay được chữ hậu hôn oán thù. (Tr. 196)

- Nước chảy re re

Con cá he xòe đuôi phượng

Anh ở bạc tình trong bụng em hết thương. (Tr. 198)

- Nước chảy xuôi

Con cá buôi lội ngược

Em có chồng rồi thương sao được mà thương. (Tr. 198)

- Nếu em còn ngại qua thề lại cho em tường

Đứa nào được Tấn quên Tần

Xuống sông sấu bắt lên rừng cọp tha. (Tr. 199)

- Giọt nước mắt rớt xuống con đò

Em lấy nắp hộp đậy liền

Đôi ta thương trộm mà khắp láng giềng đều hay. (Tr. 200)

- Cái miếu thần linh con gà gáy tiếng

Trông bậu trông đứng trông ngồi

Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan. (Tr. 201)

- Đầu đường có một cây dúi (duối)

Cuối đường có một cây da

Làm chi tội nghiệp bỏ qua sao đành. (Tr. 201)

- Dế kêu sầu gốc bưởi

Chim uốn lưỡi nhành canh

Em có chồng rồi an phận cảm thương anh một mình. (Tr. 204)

- Nước trong không thấy cá lội

Ba bốn năm trời em lỡ hội chết chồng

Cửa nhạc môn khóa chặt chờ khách tang bồng em gá đôi. (Tr. 204)

- Đêm nằm đặt tay lên trán

Nước mắt chảy lai láng ướt bộ ván cẩm lai

Công em chờ đợi mà năm nay không thành. (Tr. 204)

- Phụ mẫu đánh tui cây roi quằn quại

Tui té đại xuống vườn huỳnh

Rủi mà tui có thác tui hỏi mình có để tang không ? (Tr. 206)

- Bước lên bàn án vỗ ván sầu riêng

Thấy anh lớn chức cao quyền

Em đây bần tiện không dám kết nguyền với anh. (Tr. 208)

- Cá rô ăn móng dợn sóng dưới đìa

Tại ba với má vặn khóa bẻ chìa

Chìa hư khóa liệt đôi ta sầu biệt ly. (Tr. 209)

- Dù ai gieo tiếng ngọc ai đọc lời vàng

Trớ trêu khúc phụng khúc hoàng

Lòng em không giống như nàng Văn quân. (Tr. 210)

- Hồi anh thương em em biểu lấy gang trời anh cũng lấy

Hết thương rồi năn nỉ cách mấy anh cũng không đi

Thôi thôi em giã từ cất bước cảnh hiểm nguy em về. (Tr. 210)

- Học đờn anh chưa có học bản

Bởi anh quá ham vui mà bao quản tiếng cười

Khi nào anh nhớ lại anh nhờ người đón em. (Tr. 210)

- Cảnh trời chiều đường chen bóng xế

Em lóng tai nghe tiếng dế thì em chắc lưỡi kêu trời

Chữ lương duyên ai gá nghĩa mà tiếng đời em mang. (Tr. 210)

- Trời cao hơn trán trăng sáng hơn đèn kèn kêu hơn quyển biển rộng hơn sông

Nghĩa nhân linh láng trán đồng

Biết ai là vợ là chồng của ai. (Tr. 211)

- Nhất nhựt bất kiến như tam ngoạt hề

Gần sông cột mới ngã kề

Tiếng xấu anh chịu em về tay ai. (Tr. 212)

- Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo

Thương em anh ký giao kèo

Thò tay điểm chỉ em đây mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 213)

- Bóng mát che lòn ố hô rồi khuất bóng

Em vẫn biết rằng cửa đóng then cài

Em đứng trong rơi lụy mà đứng ngoài lụy rơi. (Tr. 218)

- Ngọc dù non khôn vàng chìm nơi sông lệ

Mấy lời đan thệ em phủi sạch nhau rồi

Đò đưa bến khác em còn ngồi trông ai. (Tr. 218)

- Nhứt nhựt bất kiến như tam ngoạt hề

Anh đi đâu một chút phải về

Để khuya con trăng lặn bốn bề người dưng. (Tr. 219)

- Đèn treo cột đáy nước chảy ngọn đèn xoay

Dĩa để nghiêng đổ nước sao đầy

Lòng thương bạn ngọc cha mẹ rầy cũng thương. (Tr. 219)

- Em ơi đừng ham nhà ngói đỏ lắm lói chớ vỏ có ruột không

Ưng anh đây xứng vợ lại xứng chồng

Trời nực anh quạt ngọn gió lồng anh che. (Tr. 219)

- Chiều nay tui ra sông Cái tự ái cho rồi

Sóng làm chi biệt ly quân tử

Thác cho rồi đặng chữ thủy chung. (Tr. 220)

- Tửu bất túy nhân nhân tự túy

Mình thương hay không tự ý của mình

Không phải như anh Bùi Kiệm ép tình chị Nguyệt Nga. (Tr. 225)

- Trời mưa rỉ rả ướt lá sả

Ôi thôi cha chả chàng đã xa rồi

Chồng nam vợ bắc đứng ngồi không yên. (Tr. 230)

- Vợ xa chồng cơm không ăn đêm nằm không ngủ

Chẳng như ông Quan Công thất thủ Hạ Bì

Chồng mà xa vợ biết lấy nghĩa gì cho vui. (Tr. 231)

- Em ở với anh cực khổ quá

Mai sau em thác rồi đừng mả đá làm chi

Bạc đôi trăm để lại cho ấu nhi nó nhờ. (Tr. 233)

- Vợ chồng người ta giàu, ăn món nầy món khác

Hai đứa mình nghèo ăn rau mác chấm nước cua đồng

Bởi vì chữ đa ương thảm khổ gái thương chồng phải theo. (Tr. 233)

- Người ta có phần mẹ với cha chốn dương gian còn đủ

Em vô phần cha âm phủ mẹ dương gian

Cơm bữa no bữa đói nên chi bạn lang em không nhìn. (Tr. 233)

- Vợ chồng người ta giàu ở nhà kê nhà cặp

Anh với em nghèo tạo lập cái chòi tranh

Sớm mơi canh, chiều cháo mà em cũng ở với anh trọn đời. (Tr. 234)

- Sống trên dương trần em mần cù bơ cù bất

Thác dưới ba tất đất mà chưa được tấm bảng đề

Để nước vô lạnh lẽo làm sao em về thăm anh. (Tr. 234)

- Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo

Thương em anh ký giao kèo

Thò tay điểm chỉ em mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 234)

- Họa hổ họa bì nan họa cốt

Tri nhơn tri diện bất tri tâm

Bây giờ rõ được vàng cầm anh cũng buông. (Tr. 243)

- Con chim chi cái lông nó đỏ

Cái mỏ nó vàng

Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải buôn. (Tr. 243)

- Chùa hư ông Phật ngã

Ông Cả xả ông rầu

Chính chuyên chị bậu mà lập lầu treo chuông. (Tr. 246)

SƯU TẦM

- Mặt nhìn mặt, mây tan khói tản

Anh nhìn em, mây rản từng chòm

Này anh ôi, anh có vợ rồi, an phận, đừng có dòm tới em.

- Anh bước xuống miếng ruộng này, tam sơn tứ hải

Này cô bác ôi, để cho tôi đối đãi cô bạn tình chung

Nếu em mà đáp đặng thì anh ưng em liền.

- Anh đi ngang cửa má, anh chắp tay anh xá

Phụ mẫu nói: Thằng này phải quá, đứng lại cho tao nhìn

Em hai ơi ! Anh đứng lại mà anh chết nữa thân mình đó em.

- Cau non có bữa cũng dày

Dầu thương cho lắm hội này cũng xa

Làm chi tội nghiệp lắm cô Ba.

- Lủi thủi, lúc nhúc

Tôi xúc con cá sặc làm mồi

Anh câu lạc chỗ, đứng ngồi không yên.

- Ngó lên trời thấy mây vần vũ

Mây bao vần vũ mà mây phủ mình rồng

Cô gái don don thương dữ, chứ cô gái có chồng ít thương.

- Em nói với anh cho có nhật có nguyệt, có đèn hầu kiệt, có núi sơn lâm

Giờ em có lỗi đạo tình thâm

Hồn về chín suối, xác cầm dương gian.

- Đèn treo cột đáy, nước chảy lồng đèn xoay

Dĩa nghiêng múc nước sao đầy

Ngày mai em lại khúc sông này gặp anh.

- Nay tôi xuống ruộng, tay tôi bắt nắm mạ, miệng tôi lại liền rao

Tôi hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ, phước tam điền

Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương.

- Trời mưa lác đác, hột cát nhảy nằm nghiêng

Rượu bình yên, em rót đãi chị Điêu Thuyền

Kiếp này chẳng đặng, em nguyền kiếp sau.

- Tay bưng hộp thiếc, lòng tôi chí quyết, cha mẹ biểu đừng

Hai hàng nước mắt rưng rưng

Phải chi hồi trước ai đừng biết ai.

- Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa

Anh với em đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa

Tại cha với mẹ kén lừa suôi gia.

- Anh ở sông bên đây, anh bắc cây cầu cao mười hai tấm ván

Em ở sông bên kia, em lập cái quán chín mươi hai từng

Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.

- Một nhành tre đôi ba nhành trải, sáu bảy nhành gai

Anh có thương em thì anh bưng kĩ đỡ đày

Nếu không thương thì để xuống cho người ngoài họ bưng.

- Cá lia thia Tàu nằm trong chậu cúc

Quạt đuôi từ túc, cúc ngả ly bì

Em lo cho chàng lao khổ, chớ em không có lo gì cho em.

- Nhật với Tàu còn đương giao chiến

Sao anh với em không giao quyến cho gần

Để anh một nơi em một ngã, nghĩa Châu Trần chắc phải xa nhau.

- Tối rồi chuông rung, kiểng đổ

Phòng loan đâu, em chỉ chổ cho anh nằm

Để nữa đêm trời tối anh vào lầm phòng chị dâu.

- Ở trển xuống đây, không dơn tầm dơn không nợ tầm nợ

Không phải anh giàu đổi bạn sang đổi vợ, nói thiệt em qua không có người nội trợ trong gia

đình

Anh muốn làm chồng với vợ mà em có bằng tình không em ?

- Anh có vợ rồi anh còn gian giấu

Em vạch mây xanh, kêu thấu ông trời xanh

Em muốn mần chồng với vợ mà không biết vợ anh có bằng tình hay không ?

- Tảng sáng đi ngang qua cửa, thấy anh đề ba câu chữ: oan trái bất thành phu phụ

Em về ôm lòng sầu thắng dĩ thối nan

Đêm năm canh nghe con chim kêu thương, con gà gái nhớ mà chốn phòng loan có một mình.

- Trai như anh hầu văn kiến sẽ

Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng

Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ?

- Trai như anh phò vua cho trọn đạo

Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta

Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình.

- Em vào phòng loan than thầm khóc gối

Phụng xa loan bối rối anh chung tình

Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa.

- Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ

Nam bất cư như liệt mã vô cương

Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền.

- Thắng quân tử thối hề quân tử

Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời

Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng

đời anh thấy không ?

- Bình Đại thôn bản sở

Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày

Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh.

- Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất

Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề

Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu?

- Em vô phần vô phước

Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh

Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng.

- Chưa có gì họ đồn thấu

Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình

Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh.

- Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít

Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên

Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì.

- Tiết Đinh San mắc vòng lao lý

Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành

Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ?

- Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San

Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng

Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư.

- Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng

Anh thương em như lửa nọ cháy phừng

Dù cho núi lở tan rừng cũng thương.

- Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ

Thôi quan xét lại cho em nhờ

Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây.

- Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên

Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền

Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau.

- Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần

Anh cách xa em như nhợ xa cần

Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em.

- R?a tay cho tr?ng, ng?t ng?n rau cho t??i

Ti?n n?m quan anh chu?c l?y ti?ng c??i

Vng r?i anh khơng ti?c m anh ti?c ng??i cĩ duyn.

- M?t tr?i v?a l?n, m?t tr?ng v?a x?

Em ?i v? l?p k? thôi ch?ng

?? n? trang ??ng tr?, ?? ki?n lo?ng vo?ng coi ch?i.

NHỮNG BÀI CA DAO- DÂN CA SỬ DỤNG HÌNH ẢNH CÂY DỪA

(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và

Hoàng Thị Bạch Liên)

- Bến Tre ruộng đất phì nhiêu

Nơi đây giàu lúa lại nhiều dừa khô. (Tr. 164)

- Bến Tre nước ngọt lắm dừa

Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm…

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười. (Tr. 165)

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông mía trắng nhớ quê Mỏ Cày. (Tr. 165)

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang. (Tr. 165)

- Quê anh ba dải cù lao

Có dừa ăn trái có cau ăn trầu. (Tr. 165)

- Ai về xứ Bến quê tôi

Núi đồi không có nhiều xôi lắm dừa. (Tr. 165)

- Ai về chợ Mỹ qua sông

Thấy vườn dừa rộng ruộng đồng tiếp giăng. (Tr. 165)

- Ai về thăm xứ Bến Tre

Ghé qua Cái Cối thăm hàng dừa xanh. (Tr. 166)

- Ai về đất Trúc xa xăm

Viếng hồ Chung Thủy sau thăm xứ dừa. (Tr. 168)

- Bến Tre dừa ngọt sông dài

Khiến chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh

Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo

Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan

Anh đây muốn hỏi cùng nàng

Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng ? (Tr. 168-169)

- Bến Tre ba đảo dừa xanh

Quê hương Đồng Khởi mát lành phù sa. (Tr. 170)

- Thương thay thân phận cây dừa

Non thì khoét mắt già cưa lấy đầu. (Tr. 171)

- Ông tiên ngồi dựa gốc dừa

Dừa khô rớt xuống bể đầu ông tiên. (Tr. 171)

- Dừa Bến Tre ba đồng một trái

Chuối Bến Tre một nải đồng ba

Ai biểu anh đến đây rồi lại đi ra

Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài.

(Tr. 172)

- Giả ơn ai có cây dừa

Cho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương. (Tr. 172)

- Đầu làng có một cây da

Ở giữa cây quéo ngã ba cây dừa

Dù anh đi sớm về trưa

Thì anh nghỉ mát bóng dừa nhà em. (Tr. 172)

- Mài dừa đạp bã cho nhanh

Nấu dầu mà chảy tóc anh tóc nàng. (Tr. 172)

- Mài dừa dưới ánh trăng vàng

Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh. (Tr. 173)

- Còn duyên nón cụ quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng không. (Tr. 175)

- Trồng dừa ra đọt chặt tàu

Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh. (Tr. 176)

- Kìa vườn dừa cây cao cây thấp

Gió quặt quà cành lá xác xơ

Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176)

- Muốn trong bậu uống nước dừa

Muốn nên cơ nghiệp phải chừa lang vân. (Tr.240)

- Dừa tơ bẹ dún tốt tàng

Giảo ngôn có chỗ điếm đàng có nơi. (Tr. 241)

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ

Miền Nam mong nhớ Bác Hồ

Dừa Bến Tre ngọt nước lúa Cần Thơ trĩu vàng. (Tr. 250)

SƯU TẦM

- Ăn dừa ngồi gốc cây dừa

Cho em ngồi với cho vừa một đôi.

- Dừa xanh trên bến hai hàng

Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.

NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA DÙNG HÌNH ẢNH CÂY BẦN

(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và

Hoàng Thị Bạch Liên)

- ...Mắm bần ven đất phù sa

Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm...(Tr. 164)

- Mỹ An bần chát mà chua

Chẳng hay người ấy có chua như bần. (Tr. 173)

- Cây bần gie con đóm đậu một mình

Dẫu anh giàu cho lắm bạc tình em cũng không. (Tr. 184)

- Bần gie đóm đậu kia kìa

Đôi ta còn nhỏ đừng lìa mới hay. (Tr. 186)

- Bướm vàng đậu ngọn cây bần

Tui với mình lân cận chẳng cần ông mai. (Tr. 188)

- Bần che bóng mát cá thác lác quẫy đục ngầu

Anh hỏi em đã có nơi nào hay chưa. (Tr. 192)

- Cây bần soi bóng ghe nghèo

Qua sông gặp gió em chèo dùm anh. (Tr. 192)

- Bần gie đóm đậu sáng trời

Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang. (Tr. 193)

- Các thứ hoa anh chỉ chuộng hoa bần

Giàu nghèo anh không chuộng chỉ chuộng gần mà thôi. (Tr. 195)

- Bần gie đóm đậu chòm nhom

Hai đứa mình thương lén nên lo toan nhiều bề. (Tr. 196)

- Một ngày xuống bến ba lần

Ghe anh không thấy thấy bần xơ rơ. (Tr. 197)

- Trèo lên chót vót cây bần

Vái anh đi nói vợ cho sóng thần nhận ghe. (Tr. 198)

- Tàu Nam Vang chạy qua Vàm Tấn

Chiếc thuyền tui núp bóng ngọn bần

Đôi ta chút nữa thì gần

Cũng vì hai chữ phú bần mà xa nhau. (Tr. 207)

- Quất ông tơ đánh trót nhảy tót lên ngọn bần

Biểu xe lối xóm cho gần ổng không xe. (Tr. 212)

- Mồ cha ai đốn cây bần

Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm. (Tr. 243)

- Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. (Tr. 245)

SƯU TẦM:

- Cây bần ơi hỡi cây bần

Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.

- Nhạn lạc bầy kêu thương biển bắc

Đêm năm canh nhớ anh quặn thắt gan vàng

Cây bần sầu, em vịn lỡ anh ôi

Em nghèo than thiệt anh kiếm đôi đừng chờ.

- Bần gie đóm đậu sáng ngời

Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than.

- Biển đông có cặp sóng thần

Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu.

NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA VỀ LOẠI HÌNH HÒ, HÁT

(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và

Hoàng Thị Bạch Liên)

- Chiều nay loan phụng gặp bầy

Trước hò nhân nghĩa sau gầy lương duyên. (Tr. 254)

- Mở miệng ra cho quan yêu dân chuộng

Mở miệng ra cho đặng chữ thái bình

Tới đây hò hát kiếm người tình hò chơi. (Tr. 254)

- Khăn vuông bốn chéo cột chùm

Miệng mời người nghĩa hò dùm ít câu. (Tr. 254)

- Nói ra cô bác đừng cười

Để cho tui bắt bộ một người áo đen

Áo đen tra nút cũng đen

Tui hò với người lạ chứ người quen không hò. (Tr. 254)

- Tiếng đồn em bậu hò hay

Bữa nay gặp mặt nắm tay giao hò. (Tr. 255)

- Tiếng đồn cô Bảy hò lanh

Ngày nay mới biết mặt mình xanh như chàm. (Tr. 255)

- Tới đây rượu thịt bánh bò

Ai ca ca với ai hò hò chơi. (Tr. 255)

- Ghe bầu dọn dẹp kéo neo

Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan. (Tr. 255)

- Tới đây chỉ biết hò môi

Hò cho đủ cặp đủ đôi dắt về. (Tr. 255)

- Áo đen vá lại quàng đen

Hò chơi người lạ người quen đã nhàm. (Tr. 255)

- Hò chơi cho trọn buổi chiều

Keo sơn quấn chặt sợi chỉ điều xe xăn. (Tr. 255)

- Cách sông cách suối rồi lại cách đò

Chớ cách vài ba miếng ruộng nghe tiếng bậu hò anh tới đây.

(Tr. 255)

- Hò chơi bỏ ruộng bỏ đồng

Ai về đừng nói lại kẻo chồng tôi ghen. (Tr. 255)

- Ban ngày đi làm hò hát

Tối nằm sầu vạt lá gan vàng

Đặt lưng xuống chiếu dạ mơ màng nhớ em. (Tr. 255)

- Ở trển xuống được giả như con chim sút lồng con cá nằm trong chậu

Chị em ơi cho tui đùm đậu một hai ngày

Hò chơi một lát, hò hoài tui thua. (Tr. 255)

- Tui tới đây tứ cố vô luân lý

Không biết bà con chị em mưu trí thế nào

Xin mở lòng rộng rãi cho tui vào hò chơi. (Tr. 255)

- Xứ đông đảo lòng đừng yêu mến

Vì tui ham vui tui mới tới ruộng này

Trước tui hò chơi đôi câu giải muộn

Vậy chị em mình hòa cùng tui hò nghe. (Tr. 261)

- Gió nam non thổi lòn hang chuột

Em nghe anh hò đứt ruột đứt gan. (Tr. 261)

- Câu hò em đựng một thạp da bò

Em đi em quên đậy nắp nó bò lưu linh. (Tr. 261)

- Ở xa tôi nghe nói bậu hò

Cách sông tôi cũng lội cách đò tôi cũng sang…(Tr. 225)

- Em ôm bó mạ xuống đồng

Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai

Mạ xanh mơn mởn nên tình

Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu. (Tr. 263)

- Tui bước xuống miếng ruộng

Trước tui chào ông chủ ruộng

Sau chào cô với bác

Sau chào luôn người hò. (Tr. 261)

- Đường xa diệu vợi

Xin hỏi em có chồng chưa thuật lại cho anh tường

Để bước vô hò người kêu chồng người kêu vợ

Vậy lỗi đạo can thường của em. (Tr. 258)

SƯU TẦM

- Tới đây không hát thì hò

Không phải con cò ngóng cổ mà nghe.

- Buồm ra khỏi vịnh buồm bê

Hò cho trai nam nhân phải bỏ vợ, gái hiền thê phải thôi chồng.

- Nay tui xuống ruộng, tay tui bắt nắm mạ, miệng tui lại liền rao

Tui hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ phước tam điền

Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương.

- Câu hò đựng thạp da bò

Đem ra hò cuộc nó bò sạch trơn.

- Hò thì hò truyện hò thơ

Ai mà hò bậy tui quýnh mẻ ơ lên đầu

Xách bù lon tui đứng đầu cầu

Đứa nào hò bậy quýnh cái đầu bằng cái nơm.

- Mệ kêu bớ bảy đưa đò

Lên doi xuống vịnh, giọng hò bảy lanh.

- Sông sâu sóng bủa láng cò

Thương em vì bởi câu hò có duyên.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH

VỀ QUÊ HƯƠNG BẾN TRE

Sông nước Bến Tre

Dừa Bến Tre

Cầu Rạch Miễu (nối liền Tiền Giang- Bến Tre)

Trái cây Bến Tre

Cống đập Ba Lai

Vườn chim Vàm Hồ (Ba Tri)

Ruộng lúa

Vườn dừa

Cây bần

Cây chà là

Cây dừa nước

Cầu khỉ

Đường quê

Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri)

Đền thờ Bà Nguyễn Thị Định (Giồng Trôm)

Đình Phú Lễ (Ba Tri)

Lăng Cá Ông (Bình Đại)

Nhà truyền thống Đồng Khởi (Định Thủy - Mỏ Cày)

Tượng đài Đồng Khởi (Thị xã Bến Tre)

Thị xã Bến Tre ngày nay

Hoạt động tổ chức lớp truyền dạy dân ca ở Bến Tre

??ng - một phương tiện đánh bắt cá

Đội hát sắc bùa với nghi thức Mở ngõ

Từ trái sang phải : Nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng (69 tuổi), Bùi Văn Hứa (74 tuổi), Thái Văn Cấu (78 tuổi), Nguyễn Thanh Phong (49 tuổi), Nguyễn Văn Võ (82 tuổi), Bùi Văn Hứa (80 tuổi) - Ảnh chụp năm 1998

Nghi thức bài Xốc quách trước bàn thờ gia tiên

Hò cấy trên đồng ruộng

Vó- một phương tiện đánh bắt cá