BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN ĐỨC NHÂN

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2015

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN ĐỨC NHÂN

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60.31.01.02

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN: TS NGỌ VĂN DUY

HÀ NỘI - 2015

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH

Chương trình Thành ủy CTr/TU

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Nxb CTQG

Nghị quyết Trung ương NQ/TU

Quyết định Thủ tướng QĐ – TTg

Quyết định Ủy ban nhân dân QĐ – UBND

Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Ủy ban nhân dân UBND

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

3

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

10

N NH N N N HI Ở TH NH HỐ HỒ CHÍ MINH

1.1 Quan niệm về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp 10

1.2 Quan niệm; nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố

Hồ Chí Minh 20

Chương 2 THỰC TRẠN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

N NH N N N HI Ở TH NH PHỐ HỒ CHÍ MINH

34

V NHỮN VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN IẢI QUYẾT

2.1 Tổng quan ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh 34

2.2 Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và

những vấn đề đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh 39

Chương 3 QUAN ĐIỂM V IẢI HÁ ĐẨY NHANH CHUYỂN

DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ N NH N N N HI P Ở

59

TH NH HỐ HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN TỚI

3.1.

Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

3.2.

ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới 59

Những giải pháp đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới 68

87

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC T I LI U THAM KHẢO

93

PHỤ LỤC

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là một trong

những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Việc

đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát huy tiềm năng, thế

mạnh của nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá đói,

giảm nghèo. Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế

quốc dân và là một bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển

nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn

chú trọng khai thác thế mạnh về nông nghiệp với rất nhiều chương trình trọng

điểm khác nhau.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế,

chính trị và đầu mối giao lưu quốc tế có vị trí quan trọng của vùng kinh tế

trong điểm phía Nam và cả nước. Những năm vừa qua, nhờ có sự quan tâm

của chính quyền Thành phố và Trung ương, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng có những thay đổi và đạt

được nhiều thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành tựu đạt được,

ngành nông nghiệp của Thành phố đang đứng trước những thách thức

mới: Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh nông sản

hàng hóa; đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, manh mún và suy

thoái nghiêm; tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp còn thấp, cơ cấu kinh

tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý. Sự lạc hậu của cơ cấu

kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng đang là một

trong những cản trở lớn đối với sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh.

4

Do vậy, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Thành

phố nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế, tăng sức cạnh tranh của

nông sản hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu

quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, đóng góp tích

cực vào CNH, HĐH của Thành phố là một trong những nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu, là khâu then chốt trong bối cảnh hiện nay. Xuất phát từ

những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn thạc

sỹ kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Liên quan đến đề tài đã có nhiều công trình được công bố nghiên cứu

dưới các góc độ tiếp cận khác nhau:

Đề tài, “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam - Thông tin

chung” của PGS,TS Bùi Tất Thắng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2009.

Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành, những tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tác giả

đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực hiện

chính sách đổi mới nền kinh tế, bao gồm cả chuyển dịch cơ cấu giữa các

ngành và trong nội bộ các ngành. Phân tích, khái quát tác động của những

nhân tố mới cả trên thế giới và trong nước đối với xu hướng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển những ngành trọng

điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” của Đỗ Hoài Nam, sách do Nxb Khoa học - xã

hội, Hà Nội, 1996. Ở công trình này, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận

chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế, trên cơ sở đó

xem xét, đánh giá nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ cấu

ngành kinh tế với cơ cấu vùng kinh tế, gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

5

với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam.

“Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam” của PGS, TS Bùi Tất Thắng, sách

do Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội 1997. Tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu

các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Trong đó đặc biệt

nhấn mạnh đến nhân tố khoa học - công nghệ.

Đề tài, “Nghiên cứu, đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã

hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 –

2004” - Đề tài khoa học của Cục thống kê Thanh Hoá năm 2005. Trên cơ sở

số liệu thể hiện mức độ hoàn thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội, đề tài tập trung

nghiên cứu làm rõ tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trên địa bàn

tỉnh Thanh Hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001 -

2004. Trong đó, tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, bao gồm cả

sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và chuyển dịch trong nội bộ ngành. Đề

tài tập trung phân tích rõ những ưu điểm, hạn chế của chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở đó chỉ ra những nguyên nhân và kiến nghị giải

pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công nghiệp hoá, hiện đại

hoá khu vực miền núi Thanh Hoá hiện nay”, luận văn thạc sỹ Kinh tế chính

trị của Phạm Hữu Hùng, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, năm 2012.

Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành khu vực miền núi Thanh Hoá, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá những năm qua. Chỉ rõ những

nguyên nhân hạn chế và những mâu thuẫn đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành, tác giả đã đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm

6

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá.

“Chuyển ịch cơ cấu nông nghiệp ở Cộng h a ân ch nhân ân

ào hiện nay”, luận án Tiến sĩ kinh tế chính trị của Hum Pheng Xay Na

Sin, bảo vệ năm 2001, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án

nêu ra nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và những vẫn đề có

tính quy luật của quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp của nước Lào,

đánh giá thực trạng những năm qua đến năm 2000, từ đó đề xuất một số

giải pháp chính sách phù hợp để thúc đẩy nông nghiệp theo hướng tiến bộ.

“ ảng Cộng ản ãnh đạo chuyển ịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

1996 - 2006”, luận án tiến sĩ lịch s của Đặng Kim anh, bảo vệ năm

2011, Học viện Khoa học ã hội và Nhân văn. Nghiên cứu chỉ đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 199 đến năm 200 về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp, tổng kết các kết quả đạt được của ngành nông

nghiệp trong 20 năm và rút ra bài học kinh nghiệp của Đảng trong quá

trình lãnh đạo.

“Những phương hướng và giải pháp ch yếu nh m chuyển chuyển

cơ cấu kinh tế nông - âm nghiệp tỉnh H a ình”, Luận án Phó tiến sĩ kinh

tế của Nguyễn Ngọc Hồng, bảo vệ năm 199 . Luận án trình bày cơ sở lý

luận về chuyển cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và nội bộ ngành nông

nghiệp, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chuyển dịch nông - lâm nghiệp,

đánh giá thực trạng từ năm 1990 đến năm 1994 và đề xuất giải pháp

chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp của tỉnh đến năm 2000.

Dưới dạng các bài báo khoa học, có các công trình:

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng và những vấn đề đặt ra” của

TS Trần Anh Phương, Tạp chí Cộng sản, số 1(1 9), năm 2009. Tác giả cho

rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường nhanh chóng đưa nước ta ra

khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển, đồng thời khái quát nội dung chuyển

7

dịch cơ cấu kinh tế, kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi

mới, chỉ rõ những mâu thuẫn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó đề xuất

và kiến nghị năm giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời

kỳ mới.“Cơ cấu ngành kinh tế: mục tiêu, tiến độ và cảnh báo”, của tác giả

Đào Ngọc Lâm, Tạp chí Cộng sản, số 1 năm 2005. Tác giả đã tập trung

nghiên cứu về cơ cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thời

kỳ đổi mới. Khái quát tính tất yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Trên

cơ sở đó đề xuất những mục tiêu đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành và chỉ tiêu cụ thể đối với các ngành kinh tế. “Chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế tỉnh Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”

của tác giả Phan Ngọc Mai Hương, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 5, năm

2006. Tác giả tập trung trình bày về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế, phân tích những ưu, khuyết điểm của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh

tế của tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đề xuất các

quan điểm có tính chất định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh

Thái Nguyên. “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Gia

ai” của tác giả Hải Thu, Tạp chí Ngoại thương, số 34 năm 2004. Theo tác

giả, Gia Lai là một tỉnh miền núi, có điều kiện tự nhiên, khí hậu rất thuận lợi

cho việc phát triển nông, lâm nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng

chủ yếu trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tác giả khẳng định vai trò của ngành

Nông nghiệp và phát triển nông thôn Gia Lai. Vì vậy, tác giả đã luận giả và

đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Gia Lai, từ

đó đề xuất những định hướng nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế trong giai đoạn mới trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

Các công trình khoa học trên đây đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau

của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp nói riêng; những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn ở nhiều địa

8

phương và một số nước mà tác giả có thể kế thừa một cách có chọn lọc... Tuy

nhiên, việc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp ở thành

phố Hồ Chí Minh dưới góc độ là một luận văn Kinh tế chính trị thì chưa có

tác giả nào đề cập nghiên cứu.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu:

Luận giải cơ sở lý luận và thực trạng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất một số quan điểm và

giải pháp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

Thành phố thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

Phân tích cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh.

Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

ở thành phố Hồ Chí Minh.

Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm đẩy nhanh chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh trong

thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp dưới góc độ kinh tế

chính trị

* Phạm vi nghiên cứu:

- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh.

- Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu, khảo sát số

liệu, tư liệu từ năm 2011 đến nay.

9

5. hương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp luận

Luận văn s dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch s của chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

* Phương pháp nghiên cứu

Đề tài s dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp với

một số phương pháp khác như: Thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và

khảo sát thực tiễn để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.

Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp của các tác giả trong nước, vận dụng vào điều kiện

cụ thể của thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, dựa vào các Nghị quyết của

Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh qua các kỳ Đại hội, Báo cáo sơ, tổng kết, số

liệu thống kê kinh tế của UBND, Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Thành phố đã được công bố từ năm 2005 đến nay.

6. Ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của công trình có thể là cơ sở cho việc hoạch định

các chính sách, chủ trương của lãnh đạo, chính quyền và các cơ quan chức

năng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương khác, góp phần

nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Đồng thời, kết quả

nghiên cứu của luận văn cũng có thể được s dụng làm tài liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy bộ môn kinh tế chính trị liên quan đến vấn

đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận,

danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10

11

Chương 1

CƠ CỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

N NH N N N HI P Ở TH NH HỐ HỒ CHÍ MINH

1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.

1.1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế

* Cơ cấu kinh tế

Lịch s phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, khi lực

lượng sản xuất phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.

Theo đó, nền sản xuất xã hội được phân chia thành các ngành, các lĩnh vực

khác nhau; khi đó tất yếu đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa chúng với

nhau. Chính sự phân công lao động xã hội và mối quan hệ tương tác giữa các

ngành, các lĩnh vực là cơ sở hình thành cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận cấu thành nền kinh tế của mỗi

nước. Các bộ phận đó gắn chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu

hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng, phản ánh tính

chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội

trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện

kinh tế - xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Khi nghiên cứu quá trình phân công lao động xã hội, trong tác phẩm

“Góp phần phê phán kinh tế chính trị học”, C.Mác viết: Cơ cấu kinh tế xã hội

là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định

của lực lượng sản xuất vật chất. Theo C.Mác đó là: Sự phân chia về chất

lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình xã hội. Tính thống nhất

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong khái niệm cơ cấu kinh tế

cũng được C.Mác chỉ ra một lần nữa khi Người khẳng định rằng: Do tổ chức

quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ cho nên làm đảo

12

lộn kết cấu kinh tế của xã hội.

Cho đến nay, ở nước ta có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu kinh tế

với những cách tiếp cận khác nhau.

Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các

ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp

thành. Như vậy, nói đến cơ cấu kinh tế là nói đến sự phân chia các ngành, các

lĩnh vực, các bộ phận và mối liên hệ giữa chúng trong nền kinh tế.

Theo quan điểm lý thuyết hệ thống thì: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể

hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động

qua lại với nhau trong những không gian và thời gian, những điều kiện kinh tế

- xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số

lượng và chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.

Cũng có quan niệm: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều

yếu tố của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tác

động qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều

kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động và hướng vào những mục tiêu nhất

định. Hiểu một cách đầy đủ là một hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có

quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những không gian

và thời gian nhất định, trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được thể

hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phục

hợp với những mục tiêu được xác định của nền kinh tế

Mặc dù tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, song nhìn chung các quan

niệm cơ cấu kinh tế đều được biểu hiện như là sự tập hợp những mối liên hệ,

liên kết hữu cơ giữa các bộ phận, các lĩnh vực, các ngành kinh tế. Theo đó, cơ

cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế

quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những mối quan hệ tương

tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện

13

kinh tế - xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định.

Trên cơ sở kế thừa các quan điểm trên đây, có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế

à tổng thể các ngành, ĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng

và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định giữa chúng hợp thành.

Với những biến động của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của mỗi

quốc gia, mỗi khu vực hay từng địa phương đòi hỏi cơ cấu kinh tế không phải

là một hệ thống tĩnh, bất biến, mà phải luôn vận động chuyển dịch cần thiết và

thích hợp. Do đó sự duy trì quá lâu hoặc thay đổi quá nhanh chóng của cơ cấu

kinh tế mà không tính đến sự tương thích với những biến đổi của điều kiện tự

nhiên và kinh tế - xã hội đều có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của nền kinh tế.

Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục tiêu, mà chỉ là

phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế vận

động chuyển dịch nhanh hay chậm không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan

mà còn phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết cho sự chuyển đổi, sự vận động

và phát triển của lực lượng sản xuất, các mục tiêu kinh tế - xã hội. Sự biến đổi

của cơ cấu kinh tế chính là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội,

nó phản ánh mối quan hệ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của nền kinh

tế. Vì vậy, khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế, chúng ta cần tiếp cận trên cả hai

góc độ đó là vật chất - kỹ thuật và kinh tế - xã hội.

Một à, ưới góc độ vật chất - kỹ thuật thì bao gồm:

Cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh tế: Nó phản ánh số lượng, vị trí, tỷ

trọng các ngành nghề, lĩnh vực bộ phận cấu thành nền kinh tế; trình độ lực lượng

sản xuất hiện có. Trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân

công lao động xã hội sẽ hình thành cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực tương ứng.

Cơ cấu theo quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ

chức sản xuất: Nó phản ánh chất lượng của các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu

thành nền kinh tế.

14

Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Nó phản ánh khả năng kết hợp, khai

thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế - xã hội của các vùng, phục vụ cho mục tiêu

phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.

Hai à, ưới góc độ kinh tế - xã hội, bao gồm:

Cơ cấu thành phần kinh tế: Phản ánh khả năng khai thác, năng lực tổ

chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên trong xã hội. Biểu hiện mối

quan hệ giữa các bộ phận, thành phần kinh tế dựa trên chế độ, hình thức sở

hữu khác nhau. Mặt kinh tế - xã hội của cơ cấu kinh tế thể hiện trình độ phát

triển xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình phát

triển; trình độ hoàn thiện quan hệ sản xuất của nền kinh tế.

Khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế, bao gồm những đặc trưng chủ yếu sau:

Tính khoa học, điều đó có nghĩa nó phản ánh đúng các quy luật khách

quan, nhất là quy luật kinh tế.

Cơ cấu kinh tế phải bảo đảm mối quan hệ cân đối và đồng bộ giữa các

bộ phận kinh tế nằm trong một tổng thể. Nói cách khác, nó mang tính hệ thống.

Cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động, biến đổi vì nó gắn với sự biến đổi,

phát triển không ngừng của những mối quan hệ giữa chúng.

Cơ cấu kinh tế không "khép kín" mà mang tính "mở" cả trong nước và

ngoài nước.

Cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều cơ cấu bộ phận khác nhau, có cơ cấu bộ

phận kinh tế chủ yếu, có cơ cấu bộ phận kinh tế thứ yếu, sắp xếp theo thứ tự

ưu tiên khác nhau, tùy theo vị trí của chúng. Trong toàn bộ hệ thống cơ cấu

kinh tế thì cơ cấu ngành: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là bộ phận có

tầm quan trọng "bộ xương" của cơ cấu kinh tế, phản ánh trình độ văn minh

của mỗi nước.

Trong nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường, cơ cấu

kinh tế được hoàn thiện trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh theo cơ chế thị

15

trường có sự quản lý của Nhà nước. Các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các

thành phần kinh tế trong quá trình phát triển phải lựa chọn cho mình cơ cấu

kinh tế hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế cao. Trong quá trình đó các ngành kinh

tế, các vùng kinh tế vừa hợp tác với nhau trên nhiều mặt như: ây dựng cơ

cấu hạ tầng, bố trí sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ, tiêu thụ

sản phẩm… đồng thời cũng vừa cạnh tranh với nhau trong việc bố trí sản

xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nhằm đạt hiệu quả cao.

* Cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ

lệ giữa các ngành thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể

nền kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế là sự biểu hiện trung thành của phân công

lao động xã hội trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học

và công nghệ của một quốc gia. Cơ cấu ngành kinh tế là một chỉnh thể liên

kết chặt chẽ nhau như một kiểu cấu trúc mà mọi bộ phận cấu thành (các

ngành kinh tế) có thuộc tính riêng, đặc trưng riêng nhưng cùng tồn tại và phát

triển, tuỳ thuộc vào nhau.

Khi nghiên cứu về cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia, người ta

thường phân tích 3 nhóm ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ

(ngành cấp I). Tuỳ theo mục đích, tính chất, mức độ nghiên cứu mà có thể

chia ra các phân ngành (ngành cấp II) như: Trồng trọt, chăn nuôi… trong

nông nghiệp; cơ khí, luyện kim, năng lượng … trong công nghiệp; ngành cấp

III (lúa, màu…) trong trồng trọt .v.v… cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận

cơ bản cấu thành cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Nó là một phạm trù trừu

tượng, có quan hệ phức tạp với các bộ phận kinh tế khác,...

1.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất lâu đời nhất của nhân loại trong

hệ thống ngành kinh tế quốc dân, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển

16

xã hội loài người, là tổng hợp các ngành sản xuất của cải vật chất mà còn

người phải dựa vào các quá trình, quy luật sinh học (đối tượng sản xuất là

những cơ thể sống) để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Nó là ngành sản xuất

khởi đầu của quá trình sản xuất vật chất của xã hội loài người.

Nói cách khác nông nghiệp là một hệ thống phức hợp của đời sống kinh

tế - xã hội gắn bó chặt chẽ với kinh tế nông thôn và nông dân, là một bộ phận

cấu thành của nền kinh tế; việc sản xuất ra các sản phẩm không chỉ gắn liền

với quá trình kinh tế mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất;

nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: Trồng

trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp,

thủy sản.

Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu

theo tỷ lệ về số lượng và chất lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế

– xã hội có liên quan đến sản xuất nông nghiệp trong khoảng thời gian và

không gian nhất định.

Ngành trong nông nhiệp theo nghĩa rộng đó là tổ hợp các ngành gắn

liền với các quá trình sinh học gồm: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Do

sự phát triển của công lao động xã hội, nên các ngành này tương đối đốc lập

nhau, nhưng lại gắn bó mật thiết nhau trên địa bàn nông thôn.

Theo nghĩa hẹp: Nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi

Trong trồng trọt được phân ra: Cây lương thực, cây hoa màu, cây công

nghiệp, cây ăn trái; Chăn nuôi có: Gia súc, gia cầm,…

Ngành lâm nghiệp: Trồng và bảo vệ rừng, cây lấy gỗ, cây lấy củi,…

Ngành thủy sản: Nuôi trồng và khai thác, đánh bắt thủy - hải sản.

1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng,

17

tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế ngành, vùng và thành phần kinh

tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tạo thế và lực mới cho tăng

trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.

Chúng ta thấy rằng quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân

công lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề của nền

kinh tế. Cơ cấu kinh tế ngành luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi

các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế luôn vận động, phát triển. Sự thay đổi đó

bao gồm cả về số lượng và về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành. Vì vậy, Chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành à ự thay đổi về số ượng, vị trí, tỷ trọng và mối

quan hệ tương tác giữa các ngành trong nền kinh tế cho phù hợp với sự phát

triển c a lực ượng sản xuất và phân công ao động xã hội.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành vừa là thay đổi về số lượng, vị trí, tỷ

trọng và mối quan hệ giữa các ngành; vừa là sự thay đổi về lượng và chất

trong nội bộ các ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành làm cho cơ cấu cũ,

lạc hậu, không phù hợp thành cơ cấu mới hoàn thiện và phù hợp hơn. Như

vậy, thực chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự điều chỉnh mối quan hệ,

tỷ trọng giữa các ngành cho phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác

định cho từng thời kỳ phát triển.

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp:

Ngành là tổng thể các đơn vị kinh tế thực hiện một loạt chức năng trong

hệ thống phân công lao động xã hội. Ngành phản ánh một loạt hoạt động nhất

định của con người trong quá trình sản xuất xã hội, nó được phân biệt theo

tính chất và đặc điểm của quá trình công nghệ, đặc tính của sản phẩm sản xuất

ra và chức năng của nó trong quá trình tái sản xuất.

Vì vậy, có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp à

quá trình àm thay đổi các quan hệ số ượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ

tương tác c a các ngành kinh tế trong nông nghiệp phù hợp với sự tiến bộ

18

c a khoa học, công nghệ, nhu cầu thị trường nh m sử dụng có hiệu quả mọi

yếu tố nguồn lực c a đất nước.

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nó thể hiện ở việc

đa đạng hóa, tập trung hóa các ngành sản xuất của nông nghiệp một cách toàn

diện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng lên của xã cả về chất lượng

và số lượng, phát triển các ngành s dụng nguyên liệu đầu vào từ nông

nghiệp, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, tăng thu nhập của người

nông dân.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp có những đặc điểm cơ

bản sau:

Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp chịu sự tác

động to lớn, mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.

Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những đối tượng sống và môi

trường của chúng, những tiến bộ khoa học và công nghệ trực tiếp tác động

vào các ngành của nông nghiệp, giải quyết các luật sinh trưởng của sinh vật,

biến đổi đặc tính của vật nuôi, cây trồng, điều kiện môi trường giúp nâng

cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí, giá thành

sản xuất, rút ngắn chu kỳ sinh học, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ

lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm, … theo thời gian vai trò của khoa học -

kỹ thuật - công nghệ càng trở lên quan trọng, nhất là trong những giai đoạn

khủng hoảng và sự phục hồi chậm của kinh tế gần đây khiến mức đầu tư vào

nông nghiệp bị sụt giảm, eo hẹp; sự giảm xuống tương đối và tuyệt đối của

lao động nông nghiệp trong tiến trình phát triển chung. Những công nghệ

trọng điểm của thời đại như: Công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới,

công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thủy canh, công nghệ nhà

có mái che, công nghệ sau thu hoạch, cơ khí hoá dụng cụ nông nghiệp, ứng

dụng quy trình nông nghiệp tốt VietGAP... đã làm thay đổi phương thức sản

19

xuất nông nghiệp, phát huy lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của mỗi tiểu

ngành trong nông nghiệp, khai thác hiệu quả các lợi thế tự nhiên, hình thành

các vùng chuyên canh nông sản hàng hóa, chuyển đổi từ nền sản xuất nhỏ lẻ

lên phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp xanh, nông

nghiệp đô thị, từng bước hiện đại mang lại sự tối ưu hóa năng xuất và lợi

nhuận, điều này không chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh

tốc độ của một số ngành, làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể mà còn

tạo ra một số tiểu ngành mới trong nông nghiệp. Làm chủ được những ứng

dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp sẽ đóng

góp vô cùng quan trọng vào sự thành công của chuyển dịch kinh tế ngành

nông nghiệp.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phụ thuộc hết

sức chặt chẽ vào điều kiện kinh tế - xã hội, những điều kiện tự nhiên nhất

định cũng như sự thay đổi của nó.

Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp được hình thành và vận động trên cơ

sở điều kiện tự nhiên và mức độ lợi dụng, khai thác cải thiện điều kiện tự

nhiên (độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa… tức là những nguồn lực của đầu vào

được cung cấp bởi tạo hoá) nhằm khai thác tối ưu và cải thiện điều kiện tự

nhiên để có lợi cho con người nhất. Việc xác lập và biến đổi chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành nông nghiệp như thế nào là phụ thuộc vào các điều kiện

kinh tế - xã hội, những điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nhất định chứ không

phụ thuộc vào ý kiến chủ quan. Con người chỉ có thể nhận thức để tác động

thúc đẩy hoặc hạn chế vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp này

theo hướng ngày càng có hiệu quả cao theo mục tiêu đã xác định. Vì vậy, tuỳ

theo điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp phản ánh sự tác động của các quy luật phát triển khách quan, bởi nó

hình thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động chi

20

phối. Nó phản ánh quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế xã hội

nhưng ở mỗi vùng, địa phương lại có một cơ cấu khác nhau, do đó ta thấy cơ

cấu kinh tế ngành nông nghiệp mang tính “vùng, khu vực” rõ rệt. Xuất phát từ

việc tôn trọng đặc điểm cơ bản này để xây dựng cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp, nhất thiết không thể theo một khuôn mẫu chung mà phải có tính linh

hoạt, mềm dẻo, phù hợp với không gian và thời gian thì mới đảm bảo được

hiệu quả kinh tế.

Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp không bó hẹp

trong một không gian lãnh thổ, mà luôn gắn liền với quá trình phân công lao

động và hợp tác với bên ngoài.

Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động trong nông

nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với địa bàn nông thôn,

hay một lãnh thổ nào đó. Tuy nhiên chuyển dịch cơ kinh tế ngành nông

nghiệp không bó hẹp, gói gọn, độc lập ở địa bàn nông thôn hay một địa

phương nào đó. Mà hoạt động của nó luôn gắn liền với khu vực bên ngoài,

đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa cùng với đó

là quá trình phân công lao động trong nước và quốc tế ngày càng chuyên

sâu. Việc chuyển dịch kinh tế ngành nông nghiệp tại Thành phố theo hướng

trồng cây gì, nuôi con gì, thu hẹp diện tích ở đâu, mở rộng thêm khu vực

nào… chịu sự chi phối mạnh mẽ trong quy hoạch tổng thể của Thành phố,

các tỉnh lân cận, cả nước và thị trường xuất khẩu. Sự thay đổi trong nhu cầu

tiêu dùng nông sản trên địa bàn, các tỉnh khác và nước ngoài là cơ sở cho

định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo đúng nhu

cầu của thị trường. Phân công lao động trong nước và quốc tế làm thay đổi

lực lượng tham gia vào sản xuất nông nghiệp cùng với thay đổi tỷ trọng giữa

các nhóm ngành trong nông nghiệp của Thành phố theo hướng tăng dần

21

những nhóm ngành hàm lượng chất xám cao, s dụng ít diện tích, bảo vệ

môi trường sinh thái...

1.2. Quan niệm; nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

1.2.1. Quan niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh

Cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng

không phải là bất biến mà sẽ vận động, phát triển và chuyển hóa từ cơ cấu

kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới. Sự chuyển dịch đó đòi hỏi phải có thời

gian và phải trải qua những bậc thang nhất định của sự phát triển.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng

đang đặt ra cho Thành phố những cơ hội và thách thức mới. Sự xuất hiện các

ngành nghề mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự thay đổi về tỷ

trọng giữa các ngành đang trở thành xu hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở quan niệm

chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã trình bày ở trên,

vận dụng vào thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh có thể hiểu:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí

Minh à hoạt động ch động c a các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế

nh m thay đổi số ượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác c a các

ngành kinh tế trong nông nghiệp phù hợp với xu thế chung c a sự phát triển.

Quan niệm trên đây cho thấy:

Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố

Hồ Chí Minh là tạo ra một hệ thống các tiểu ngành, nghề mới trong ngành

nông nghiệp phù hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng trong

Thành phố, chuyển từ sản xuất nông nghiệp manh mún, sức cạnh tranh thấp

22

sang nền nông nghiệp đô thị, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hợp lý cơ cấu

giữa các ngành trong nông nghiệp. Từ đó để xây dựng một nền nông nghiệp đô

thị hiện đại, bền vững, có hàm lượng chất xám cao, công nghệ hiện đại, được

đầu tư toàn diện và đồng bộ, mang lại năng xuất, chất lượng, hiệu quả và khả

năng cạnh tranh cao, phù hợp đặc thù nông nghiệp của một đô thị lớn.

Chủ thể của quá trình này: Đảng bộ và chính quyền thành phố Hồ Chí

Minh là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, định hướng; xây dựng kế hoạch, cơ chế,

chính sách, xác định phương thức cho phù hợp đồng thời là người cùng trực

tiếp tham gia vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên địa bàn.

Đối tượng: Người nông dân vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, là

lực lượng trực tiếp tham gia, lực lượng quyết định đến kết quả của quá trình

này.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí

Minh là quá trình phát triển, tổ chức sản xuất dẫn đến sự tăng trưởng khác

nhau giữa các ngành nông nghiệp và làm thay đổi quan hệ tương quan giữa

chúng so với một thời điểm trước đấy. Nói các khác đó là sự thay đổi cả về

mặt tương đối và tuyệt đối giữa các ngành và các bộ phận trong ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi dậy và

khai thác mọi tiềm năng của địa phương, của các thành phần kinh tế, để đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần của cư dân, góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, kinh

tế - xã hội.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí

Minh làm xuất phát điểm, là bộ phận quan trọng trong chuyển chuyển cơ cấu

nông nghiệp và cơ cấu kinh tế của Thành phố và cả nước.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp giúp đảm bảo cho việc

23

khai thác hợp lí mọi tiềm năng, lợi thế của thành phố Hồ Chí Minh để sản

xuất hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Trong hoạt động sản xuất nông

nghiệp rất cần các yếu tố nguồn lực: Đất đai, lao động, vốn, khoa học - kĩ

thuật… để duy trì các hoạt động sản xuất diễn ra bình thường; việc sản xuất

hàng hoá gắn với việc tập trung ruộng đất quy mô lớn đòi hỏi trình độ lao

động có tay nghề kĩ năng sản xuất hiện đại và công nghệ sản xuất tiên tiến,

tính chuyên môn hóa cao… Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp sẽ giúp giảm giá thành, tăng giá trị nông sản và từ đó nâng cao sức

cạnh tranh trên thị trường.

1.2.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí

Minh là chuyển từ sản xuất nông nghiệp manh mún, sức cạnh tranh thấp sang

nền nông nghiệp đô thị, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hợp lý cơ cấu giữa

các ngành trong nông nghiệp. Cụ thể trên các nội dung sau:

Thứ nhất, chuyển ịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố

Hồ Chí Minh à bảo đảm quan hệ chuyển dịch giữa nông nghiệp với âm

nghiệp, ngư nghiệp.

Nông nghiệp một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đóng góp trực tiếp

vào tăng trưởng kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh (GDP). Nông nghiệp vẫn

là nguồn việc làm và thu nhập chính của cư dân nông thôn của thành phố Hồ

Chí Minh, là nhân tố kinh tế chi phối các hoạt động sản xuất, đời sống, việc

làm, văn hoá - xã hội của nhân dân nông thôn ngoại thành. Cơ cấu ngành

trong nông nghiệp là nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển các ngành

của nông nghiệp và là hạt nhân của cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Việc xác lập

cơ cấu ngành hợp lí, thích ứng với từng giai đoạn phát triển có ý nghĩa cực kì

quan trọng đối với sự phát triển của mỗi ngành.

24

Việc chuyển đổi sang các loại vật nuôi, cây trồng có giá trị gia tăng cao

một cách hợp lý sẽ làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông

dân, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, nâng

cao thu nhập, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng trên địa bàn Thành

phố, tạo điều kiện phát triển năng lực sản xuất, khuyến khích mọi lực lượng lao

động trong các thành phần kinh tế hướng vào việc sản xuất nông sản hàng hóa,

giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thu nhập tăng,

nhu cầu của người tiêu dùng tăng sẽ kích thích hoạt động sản xuất mở rộng quy

mô, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng, nâng cao chất lượng; sự thay đổi này tạo

động lực thúc đẩy dẫn tới thay đổi cơ cấu của nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ

sản và cơ cấu kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh và cả nước.

Thứ hai, chuyển ịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh à bảo đảm mối quan hệ chuyển dịch giữa trồng trọt, chăn nuôi và

ngành nghề.

Nội dung này phản ánh mối quan hệ phát triển một cách toàn diện

nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm của trồng trọt là

có tính thời vụ cho nên phải phát triển chăn nuôi, ngành nghề là vừa hỗ trợ

cho trồng trọt phát triển như cung cấp phân bón, tiêu thụ sản phẩm. Trên cở

sở đó làm tăng mức thu nhập cho các hộ nông dân, nâng cao hiệu quả kinh

doanh nông nghiệp.

Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh bao gồm

các nhóm ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy

sản. Trong mỗi nhóm ngành lại chia thành những ngành hẹp hơn. Trong trồng

trọt có cây lương thực, cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây

cảnh,… Trong chăn nuôi được phân chia thành: Đại gia súc, tiểu gia súc, gia

cầm, sinh vật cảnh… Lâm nghiệp có trồng rừng, tỉa thưa, khai thác cây

rừng,… Ngành thủy lại chia thành: Nuôi trồng và khai thác, nước ngọt, nước

25

mặn, nước nợ,…

Trong ngành chăn nuôi sự thay đổi về cơ cấu, những loài vật nuôi theo

hướng có hàm lượng dinh dưỡng tốt, giá trị thương mại cao, phù hợp với

những yêu cầu của thị trường được chú trọng phát triển. Tốc độ tăng trưởng

của chăn nuôi tăng nhanh hơn so với trồng trọt cả về tuyệt đối và tương đối.

Gia tăng diện tích, tỷ lệ trồng rừng tập trung và trồng cây phân tán, duy trì sự

đa dạng sinh học của các chủng loài, kết hợp tỉa thưa với khai thác cây rừng.

Giá tăng giá trị và sản lượng ngành thủy sản, tăng tỷ trọng về nuôi trồng so với

đánh bắt, phát triển mạnh các đối tượng nuôi trồng ở nước ngọt và nước lợ.

Thứ ba, chuyển ịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh à bảo đảm mối quan hệ chuyển dịch giữa sản xuất nông nghiệp với

các ngành chế biến và ịch vụ.

Nội dung này phản ánh các mối quan hệ được xác lập theo một tỷ lệ

cân đối cả về số lượng và chất lượng, giữa các khâu của quá trình tái sản xuất

nông nghiệp. Quan hệ này phải được cân đối lại một cách thường xuyên, liên

tục khi trình độ sản xuất trong nông nghiệp được nâng lên. Có thể hiểu đây là

cấp độ thấp (cùng loại) của cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ,

nhưng được khu biệt lại ở địa bàn nông thôn. Trong hệ thống kinh tế nông

nghiệp, khâu sản xuất nông nghiệp là khâu quan trọng hàng đầu, nó cung cấp

sản phẩm cho đời sống xã hội. Khâu chế biến bao gồm chế biến các sản phẩm

cho người, sản phẩm cho vật nuôi và có phân bón cho cây trồng. Đồng thời nó

là thị trường tiêu thụ các hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp. Dịch vụ

vừa là khâu cung cấp các yếu tố sản xuất cho đầu vào, vừa đảm nhiệm khâu

tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất (đầu ra).

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đáp ứng sự phát triển của nền

kinh tế thị trường, tạo điều kiện đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã

hội về nông sản, là phương thức để nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu của

26

Thành phố và cả nước, tăng thu nhập quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường thì

thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó ảnh

hưởng quyết định đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và

cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Trong khi xã hội không ngừng

phát triển nhu cầu của con người về nông sản cũng theo đó mà không ngừng

tăng lên về số lượng, chất lượng và chủng loại, điều đó chính là đòi hỏi thị

trường mà sản xuất đáp ứng. Để sản xuất nông nghiệp đáp ứng được yêu cầu

đó, đòi hỏi phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Vì thế không dừng

lại ở cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hiện có mà đòi hỏi phải chuyển đổi đa

dạng hoá sản phẩm và dịch vụ tương thích với nhu cầu thị trường.

Thứ tư, chuyển ịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh à bảo đảm mối quan hệ chuyển dịch cơ cấu ao động giữa trồng

trọt - chăn nuôi - âm nghiệp và ịch vụ phục vụ nông nghiệp.

Nội dung này phản ánh sự phân công lao động xã hội theo ngành gắn

với sản xuất nông nghiệp trên địa bàn trong quá trình công nghiệp hoá nông

nghiệp - nông thôn. Sự phân công lao động theo ngành trong nông nghiệp là

cơ sở hình thành cơ cấu ngành trong nông nghiệp. Phân công lao động phát

triển ở trình độ ngày càng cao, tỷ mỷ thì sự phân chia ngành càng đa dạng và

sâu sắc. Tiền đề của sự phân công lao động là năng suất lao động trong nông

nghiệp ngày càng tăng. Trước hết phải đảm đảm bảo chất lượng và số lượng

lương thực cần thiết cho xã hội mới tạo ra sự phân công giữa người sản xuất

lương thực với người sản xuất nguyên liệu nông nghiệp, người làm lĩnh vực

chăn nuôi… tạo nên sự phân công giữa người sản xuất nông nghiệp với phi

nông nghiệp và trong nội bộ ngành nông nghiệp. Ngành nghề trong khu vực

nông thôn đã mở rộng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu lao động. Lao động

trong nhóm hộ nông - lâm nghiệp - thuỷ sản đã có sự chuyển dịch theo hướng

tỷ lệ hộ thuỷ sản, lâm nghiệp tăng lên, còn tỷ lệ hộ nông nghiệp giảm đi.

27

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp làm tăng trưởng nông

nghiệp cao liên tục về mọi mặt, từ đó tạo sự bình ổn về mặt chính trị - xã hội,

đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn Thành phố. Trong giai đoạn khủng hoảng

kinh tế, sự tăng trưởng của nông nghiệp như một tấm đệm che đỡ những biến

động, tạo thăng bằng cho nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp sẽ góp phần giải quyết kịp thời và tạo bước chuyển căn bản trong kinh

tế nông nghiệp của Thành phố.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp tạo cơ sở bước đầu cho

việc thay đổi bộ mặt nông thôn ngoại thành nói chung và nông nghiệp nói

riêng. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp không chỉ sản xuất

trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt… được phát triển trên nên tảng khai thác lợi

thế của mình mà cơ sở hạ tầng nông thôn được tăng cường đầu tư xây dựng,

vấn đề y tế, giáo dục cũng được cải thiện, trình độ dân chí cũng được nâng

cao một bước.

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

* Nhân tố về vị trí địa ý, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên

Hoạt động sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất mà đối tượng của nó

là thế giới sinh vật, bị phối rất mạnh bởi các yếu tố của tự nhiên nên cơ cấu

các ngành trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố: Vị trí địa lý,

khí hậu, đất đai, nguồn nước, biển, rừng…

Nằm trong nhiệt đới gió mùa, khí hậu ổn định, lượng mưa nhiều, ít chịu

ảnh của thiên tai hơn so với miền Bắc, miền Trung, thành phố Hồ Chí Minh

có điều thuận lợi cho việc phát triển các loại hình nông nghiệp khác nhau, hạn

chế rủi ro về thời tiết. Tuy nhiên tình trạng ngập úng cục bộ, ảnh hưởng

hưởng mạnh mạnh của chiều cường do tiếp với biển gây thiệt hại, khó khăn

cho sản xuất nông nghiệp và lựa chọn loại hình nông nghiệp phù hợp với điều

28

kiện tự nhiên vốn có.

Bên cạnh thế mạnh về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thành phố Hồ

Chí Minh còn có vùng nông thôn hết sức phong phú và đa dạng về thổ

nhưỡng, ngành nghề, lao động, nơi sinh sống của hơn 1,5 triệu dân; đồng thời

là nơi bảo đảm môi sinh và cân bằng sinh thái cho một đô thị lớn. Trước yêu

cầu mở rộng thành phố, đô thị hóa, kinh tế nông nghiệp trên địa bàn đã

chuyển sang sản xuất nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế hướng tới nền nông

nghiệp sinh thái và kỹ thuật cao, phù hợp với chiến lược phát triển đô thị văn

minh, hiện đại, bền vững về môi trường.

* Nhân tố về điều kiện xã hội c a sản xuất và tác động c a khoa học -

công nghệ.

Một à, nhân tố thị trường :

Thị trường có thể được hiểu là lĩnh vực trao đổi trong đó người mua và

người bán các loại hàng hoá nào đó tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá

cả và số lượng hàng hoá mua bán. ã hội càng phát triển triển thì nhu cầu tiêu

dùng của con người ngày càng cao và đa dạng, đòi hỏi thị trường phải đáp

ứng cho được nhu cầu đó nên cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, càng phải

phong phú, đa dạng và tương thích với nhu cầu thị trường hơn. Bên cạnh đó

các quan hệ thị trường ngày càng mở rộng thì người sản xuất ngày càng đi

vào chuyên môn hoá và tự lựa chọn thị trường. Như vậy các quan hệ thị

trường góp phần cực kì quan trọng vào việc thúc đẩy phân công lao động

nông nghiệp.

Đối với thành phố Hồ Chí Minh, việc chuyển sang nền nông nghiệp đô

thị để phù hợp với bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng là

quyết định kịp thời của ngành nông nghiệp và lãnh đạo, chính quyền Thành

phố. Lợi thế của nông nghiệp đô thị là tập trung sản xuất những loại hàng hóa

có giá trị kinh tế cao nhưng trên diện tích nhỏ (như nuôi cá cảnh, có thể nuôi 2 -

29

3 tầng nên giúp giảm diện tích s dụng; trồng hoa kiểng, lan cắt cành Mokara,

Dendriobium, Cattleya…) gắn với thị trường tiêu thụ tại chỗ khá lớn và ổn định

với dân số Thành phố lên đến cả chục triệu người. Nhờ đó, giá trị sản xuất

nông nghiệp trên 1ha ở Thành phố hiện nay vào loại cao nhất cả nước.

Thứ hai, vốn đầu tư và cơ ở hạ tầng.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành có thể chưa phù hợp với

nhu cầu của thị trường, chưa phù hợp với nguồn lực của mỗi vùng. Do vậy

cần chuyển đổi cho phù hợp, việc chuyển đổi này đòi hỏi phải có những điều

kiện vật chất nhất định, tương ứng với các yêu cầu hình thành và chuyển đổi

của nó. Muốn đáp ứng sự đòi hỏi về điều kiện vật chất này nhất thiết phải đầu

tư và phải có vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư để hình thành và chuyển đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm: Nguồn vốn tự có của các chủ thể kinh tế

nông nghiệp, nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn đầu tư trực

tiếp hay gián tiếp của nước ngòai. Các nguồn vốn này có ảnh hưởng trực tiếp

to lớn tới sự hình thành và phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các

thành phần kinh tế, ảnh hưởng tới việc nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ

nông nghiệp. Do đó ảnh hưởng tới sự hình thành và chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông nghiệp hợp lí, phù hợp để khai thác tốt các nguồn lực của khu vực kinh

tế nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là thủy lợi, giao thông được các cấp trên

địa bàn Thành phố quan tâm đầu tư với phương châm Nhà nước và nhân dân

cùng làm, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn. 99% số xã có đường ô-tô

đến trung tâm xã, trong đó đường bê-tông nhựa chiếm 4 %, đường bê-tông

xi-măng 0, %, đường đá nhựa 14,8%, 100% số xã có điện và 100% số xã, thị

trấn đạt tỷ lệ phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung học. 5% số xã có cán bộ

y tế, 90% số hộ dân s dụng nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 95% số

UBND cấp xã kết nối internet [12].

30

Thứ ba, sự phát triển c a khu công nghiệp và đô thị.

Sau khi phát triển các khu công nghiệp, đô thị sẽ làm tăng nhu cầu và

làm nảy sinh những nhu cầu mới về các loại sản phẩm kéo theo sự phân bố lại

sản xuất để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm. Sự phát triển của khu công

nghiệp và đô thị tạo ra khả năng cung cấp kĩ thuật công nghệ ngày càng tiên

tiến, đội ngũ tri thức, chuyên viên kỹ thuật, tạo ra các nguồn vốn đầu tư ngày

càng dồi dào cho khu vực kinh tế nông nghiệp, góp phần thúc đẩy quá trình

hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hơn. Mặt khác việc

phát triển các khu công nghiệp và đô thị hóa cũng thu hẹp diện tích đất đai

cho sản xuất nông nghiệp, sự ô nhiễm từ rác thải của khu công nghiệp và đô

thị tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất nông nghiệp ở các vùng lân cận.

Thứ tư, nhân tố khoa học - công nghệ.

Việc cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa và áp dụng các giống mới

có năng suất cao nông nghiệp được tiến hành rộng rãi. Nghiên cứu về sản

phẩm nông nghiệp theo không gian và thời gian sẽ tạo điều kiện cho sự

chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Tiến bộ khoa học kĩ thuật giúp hạn chế ảnh

hưởng của các điều kiện tự nhiên, nâng cao tính chủ động của sản xuất nông

nghiệp, làm tăng năng suất, chất lượng và sản lượng nông sản, giúp nền nông

nghiệp được đầu tư phát triển theo chiều sâu.

Theo Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao Thành phố, gần

98% diện tích đất kêu gọi đầu tư tại huyện Củ Chi đã được triển khai khi có

13/14 dự án được UBND Thành phố cấp giấy chứng nhận đầu tư đạt yêu cầu.

Hiện còn 1 dự án “ ây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ và xưởng

đóng gói rau quả phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”. Ngoài ra, Ban quản lý còn

tiếp nhận nhiều hồ sơ đăng ký đầu tư vào Khu Nông nghiệp công nghệ cao

mở rộng trong các lĩnh vực trồng trọt, thủy sản… Trung tâm Công nghệ sinh

học Thành phố Hồ Chí Minh (HCMBI TECH) đi vào hoạt động tháng

31

01/2005 đến nay đã nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa sản phẩm công

nghệ sinh học trong nông nghiệp [3]

* Nhân tố thuộc về trình độ phát triển c a phân công ao động trong

nước và quốc tế

Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, trong độ tuổi quy định,

thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích

cực tìm kiếm việc làm. Đây là nhân tố quyết định trong sự hình thành và

biến đổi nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp lý của cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hoàn thiện đến đâu,

nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ

thuật của lực lượng lao động. Ở những vùng người lao động có trình độ tay

nghề cao, có trình độ canh tác cao hơn thì sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhanh hơn và đặc biệt nó sẽ có

điều kiện thuận lợi cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo

hướng hiện đại. Ngoài ra mật độ dân số và số lượng lao động của từng vùng

nhiều hay ít cũng ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Những

vùng có mật độ lao động cao sẽ tạo điều kiện để lựa chọn các ngành sản xuất

đòi hỏi nhiều lao động. Nếu mật độ dân số, mật độ lao động quá cao đòi hỏi

cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phải chuyển đổi nhanh nhằm giải quyết

việc làm và khai thác, s dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực khác của vùng.

Ngược lại, ở những vùng mật độ lao động thấp thì thường chọn những ngành

đòi hỏi s dụng ít lao động.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh đều

nằm trong hệ thống phân công lao động của thế giới và khu vực. Các hoạt

động xuất khẩu lao động và nhập khẩu lao động (thuê các chuyên gia nước

ngoài) là góp phần trong việc sắp lại lao động của nông nghiệp, giải quyết lao

32

động dư thừa, tiếp thu các khoa học, kỹ thuật, công nghiệp mới, tăng nguồn

thu ngoại tệ, đào tạo lực lượng lao động mới có kỹ năng, kỷ luật đáp ứng yều

cầu của nền sản xuất nông nghiệp hiện đại.

* Nhân tố thuộc về các ợi thế tuyệt đối và ợi thế o ánh, tác động

không nhỏ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành nông nghiệp

Là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước nên thành phố Hồ Chí Minh

có những lợi thế nhất là về nguồn nhân lực đồi dào, đây là một lợi thế tương

đối quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp. Trình

độ của lực lượng lao động cao hơn so với địa phương khác.

Hệ thống khuyến nông, các nông hội, lực lượng cán bộ kỹ thuật dồi

dào, có trình độ cao.

Học tập của nước đi trước từ những thành công và thất bại từ đó rút ra

được kinh nghiệm thực tiễn cho mình.

Do phát triển sau, việc mở của hội nhập kinh tế quốc tế chưa sâu, rộng

nên ít chịu tác động từ các cuộc khủng kinh tế thế giới hơn các phát triển khác.

Hiện Thành phố có tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tiếp,

đồng thời duy trì một nền chính trị ổn định từ việc kiên trì chính sách kinh tế

theo hướng hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, phù hợp với một quốc gia

có nền kinh tế còn yếu như Việt Nam, đây là một trong những yếu tố không

thể thiếu, góp phần giúp chúng ta có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế.

Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam nói chung, Thành phố nói riêng có

được một nền hoà bình và thịnh vượng, là lợi thế để thu hút đầu tư nước ngoài

vào phát triển các ngành kinh tế.

Việc hội nhập muộn sẽ phân loại mức độ ưu tiên trong buôn bán, hợp

tác để đầu tư có trọng điểm nhất là với các nước lớn để phát huy lợi thế so

sánh của thành phố Hồ Chí Minh trong phân công lao động quốc tế.

Tuy nhiên, nằm trong một quốc gia phát triển muộn về kinh tế, thành

33

phố Hồ Chí Minh cũng gặp những trở ngại như: Trình độ nhân lực thấp, khả

năng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hạn chế, năng xuất lao động thấp, tình dư

thừa lao động do tính chất thời vụ diễn ra phổ biến; Quy mô sản xuất nhỏ,

manh mún, thiếu tập trung nên không phát huy được lợi thế sản xuất theo quy

mô; Phương thức canh tác mang tính kinh nghiệm, tập quán, truyền thống, lạc

hậu, chuyên môn hóa thấp; Những ngành có ít lợi thế so sánh sẽ bị sức ép

nhiều hơn do sự tiến bộ công nghệ, kỹ thuật, mức vôn đầu, trợ cấp cho nông

nghiệp của các nước đi trước...

* Nhân tố thuộc về cơ chế chính ách

Các chính sách kinh tế nhằm phát triển nông nghiệp, cùng với hệ thống

pháp luật kinh tế nếu ban hành kịp thời, đồng bộ và phù hợp với từng giai

đoạn phát triển nhất định, sẽ có tác dụng làm chuyển biến mạnh tạo điều kiện

để các quy luật của thị trường phát huy tối đa mặt tích cực, hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực, nhằm tạo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc độ

cao hoặc ngược lại.

Trong những năm qua Thành phố đã ban hành các chính sách khuyến

nông, trong đó phải nói đến Quyết định số 3 /2011/QĐ-UBND, sau đó thay

thế bằng Quyết định số 13/2013/QĐ-UBND và Quyết định điều chỉnh

40/2014/QĐ-UBND đã giúp các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất nông

nghiệp tiếp cận vốn, chính sách này tác động trực tiếp đến chuyển đổi từ trồng

lúa và các cây kém hiệu quả khác sang cây trồng, vật nuôi có hiệu quả, chất

lượng cao (bò sữa, bò thịt, heo, cây kiểng, bắp lai, cá sấu). Nhằm tiếp tục phát

huy hiệu quả của chính sách này, ngày 23 tháng 02 năm 201 Thành phố ban

hành Quyết định số 04/201 /QĐ-UBND quy định về chính sách khuyến khích

chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016

- 2020. Chính sách về xây dựng nông thôn mới đã giúp Thành phố có 54/5

xã đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.

34

*

* *

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một sự thay đổi mang

tính phổ biến và thường xuyên vì vậy phải nhận thức được quy luật phát triển

và biến đổi nó, những nhân tố ảnh hưởng đến nó, tác động vào nó, làm cho nó

nhanh chóng biến đổi và tạo ra một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp mới

phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thành phố, đất nước và thế giới,

nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học – kỹ

thuật, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp được cải biến nhanh chóng theo hướng

sản xuất hàng hóa, theo hướng CNH, HĐH. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông nghiệp thành công hay không phụ thuộc và rất nhiều yếu tố, trong đó có hệ

thống chính sách tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để chúng phát triển, đồng

thời: Đảm bảo sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội; thúc đẩy sự hình thành và

phát triển thị trường đảm bảo cho thị trường hoạt động có sự cạnh tranh một

cách lành mạnh; Nhà nước và chính quyền Thành phố cần phải có biện pháp

khắc phục những khuyết tật của thị trường và đưa ra thể chế chính sách khuyến

khích các ngành cần ưu tiên phát triển phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong

từng giai đoạn cụ thể và dài hạn.

35

Chương 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ N NH

N N N HI P Ở TH NH HỐ HỒ CHÍ MINH V NHỮNG VẤN ĐỀ

ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT

2.1. Tổng quan ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Tổng quan ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích gần 209. 00 ha, gồm 19 quận và

5 huyện ngoại thành. Đất nông nghiệp gần 105.200 ha, chiếm gần 50% tổng

diện tích toàn Thành phố, trong đó đất sản xuất nông nghiệp khoảng 57.900

ha, đất lâm nghiệp 3 .300 ha, đất nuôi trồng thuỷ sản 9.400 ha, còn lại là đất

làm muối [9]. Địa hình là vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam bộ và miền

Tây Nam Bộ, có tiếp giáp với biển cho phép đa đạng hóa loại hình sản xuất,

nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, sản xuất muối. Tuy nhiên cũng cần phải chọn

lựa loại hình canh tác tương thích cùng với việc cải tạo đất cho phù hợp với

giống vật, cây trồng.

So với tỉnh, thành phố khác trong cả nước thành phố Hồ Chí Minh có

số lượng cán bộ khuyến nông, trung tâm hỗ trợ nông nghiệp, các hội nông dân

hoạt động mạnh và nổi bật, có trình độ nhờ vậy năng lực và trình độ sản xuất

của nông dân sẽ được nâng cao hơn, thông qua các chương trình, dự án đầu

tư, hoạt động khuyến nông chuyển giao tiến bộ khoa học, tư vấn hỗ trợ nông

dân, cụ thể như: Trong năm 2014, tổ chức 132 lớp tập huấn cho 3.850 nông

dân về quy trình VietGAP; cấp 211 giấy chứng nhận tập huấn cho nông dân

và 282 giấy chứng nhận cho đơn vị; tổ chức 71 chuyến tham quan học tập,

trao đổi kinh nghiệm về các mô hình nông nghiệp trong và ngoài thành phố

cho hơn 1.930 lượt nông dân; tổ chức 7 cuộc hội thảo cho gần 3.800 lượt

nông dân; xây dựng 125 mô hình với hơn 845 hộ tham gia [11].

36

Là địa phương năng động, đầu tàu về kinh tế cả nước, thị trường nội địa

rộng, trung tâm khoa học - kỹ thuật - công nghệ c a ngõ giao thương nước và

quốc tế với gần 100.000 doanh nghiệp, hơn 3 trung tâm thương mại, rất

nhiều các hệ thống siêu thị, 9 chợ đầu mối của quận huyện và Thành phố và

hàng trăm ngàn c a hàng bán lẻ là lợi thế quan trọng cho hỗ trợ các hoạt tiêu

thụ, cập nhật thông tin thị trường, dự báo nhu cầu nông sản và các dịch vụ

kinh tế nông nghiệp khác [9]. Trong năm vừa qua, Thành phố xuất sang các

nước như Hà Lan, Ý, lãnh thổ Đài Loan, Campuchia 415 tấn hạt giống các

loại như bắp, rau, đậu, hoa, cây ăn trái… bước đầu xuất khẩu gần 300.000 lan

cắt cành sang Campuchia và xuất 1.000 cây sứ ghép sang Nhật Bản; gần

1.000 tấn rau quả sang các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á và Dubai, xuất

khẩu 11 triệu con cá cảnh và gần 1 .000 cá sấu sống sang Trung Quốc, Hàn

Quốc, Georgia và các nước châu Âu. Thành phố còn cung ứng trên 900.000

heo giống, 24.000 con giống bò sữa đến các nhà chăn nuôi nhiều tỉnh, thành

cả nước [11].

Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng lao động trong nông nghiệp

chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 3 - 4% dân số. Thời gian qua cùng với quá trình

đô thị hóa cơ cấu lao động nông thôn, ngoại thành có sự chuyển dịch khá

nhanh sang các ngành công nghiệp và dịch vụ khác, lực lượng lao động trong

nông nghiệp của Thành phố giảm cả về mặt tương đối và tuyệt đối.

Sản xuất nông nghiệp phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất

hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Nhưng phần lớn các

doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp có quy mô nhỏ, số doanh nghiệp chế

biến nông - lâm - thuỷ sản còn ít, có giá trị gia tăng thấp, lợi ích từ các sản

phẩm nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Một vấn đề nữa đang diễn ra, đó là

diện tích đất sản xuất nông nghiệp ở vùng ven đô ngày càng giảm do chuyển

37

đổi ngành nghề, xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, đầu cơ đất đai…

cụ thể giai đoan từ 2000 - 2008 diện tích đất nông nghiệp giảm từ 130.720 ha

xuống còn 121.313 ha, giảm bình quân 1.17 ha/năm; đến cuối năm 2013 chỉ

còn khoảng 105.200 ha. Theo quy hoạch sản xuất nông nghiệp, phát triển

nông thôn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 đã được phê duyệt theo

Quyết định số 5930/QĐ-UBND ngày 28 tháng 12 năm 2009, dự kiến quỹ đất

nông nghiệp đến năm 2015 còn 95.429 ha, trong đó: đất sản xuất nông

nghiệp: 48.183 ha, đất lâm nghiệp: 3 .28 ha (không kể 5.2 0 ha cây lâm

nghiệp trồng phân tán), đất nuôi trồng thủy sản: 8. 08 ha, đất nông nghiệp

khác: 1.352 ha, đất ruộng muối: 1.51 ,8 ha tập trung tại huyện Cần Giờ, dự

kiến sẽ bảo vệ quỹ đất nông nghiệp đến năm 2020 là 82. 00 ha và tầm nhìn

đến năm 2025 là 80.5000 ha [2].

Mặc dù có lợi thế về các dịch vụ và cơ sở hạ tầng nhưng mức độ hỗ trợ

sản xuất nông nghiệp và nông thôn chậm phát triển so với nhu cầu chung; các

chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ chưa chặt chẽ; hệ

thống phân phối, tiếp thị nông sản ở ngoại thành còn nhiều hạn chế.

2.1.2. Tổng quan về cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố

Hồ Chí Minh

Phải mất nhiều năm, ngành nông nghiệp Thành phố mới xác định được

nếu muốn phát triển phải tìm những cây, con phù hợp với thị trường tại đây

và có giá trị cao hơn cây lúa. Khởi đầu với tập trung chuyển hướng sản xuất

rau an toàn, dứa Cayen, phát triển đàn bò sữa và nuôi tôm sú, đến nay thành

phố Hồ Chí Minh đã định hình được thế mạnh về rau an toàn, hoa kiểng, cá

cảnh, bò sữa, tôm nước lợ và cỏ chăn nuôi. Nhờ định hướng chuyển dịch cơ

cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng này từ những năm 2000 đến nay, sản xuất

nông nghiệp đã khởi sắc trở lại.

Trong 5 năm trở lại đây, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

38

trên địa bàn Thành phố luôn được sự chỉ đạo, đôn đốc, đánh giá của các cấp

chính quyền với việc UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số

3 /2011/QĐ-UBND ngày 10/ /2011 về việc quy định chính sách khuyến khích

chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn

thành phố giai đoạn 2011 - 2015; triển khai Quyết định số 13/2013/QĐ-UBND

ngày 20/3/2013 của UBND Thành phố quy định về khuyến khích chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2013 -

2015; Ủy ban nhân dân các cấp phê duyệt phương án được hỗ trợ lãi vay với

tổng vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng và nhiều chương trình, kế hoạch khác.

Khu vực ngoại thành với hơn 1,5 triệu dân sinh sống, là căn cứ cách

mạng thời kháng chiến, là vành đai thực phẩm và vành đai cây công nghiệp

ngắn ngày cung cấp cho Thành phố và một phần công nghiệp chế biến. Trong

các năm qua, cùng với chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung, Thành

phố đã không ngừng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao với mục

tiêu hướng đến xây dựng một nền nông nghiệp đô thị hiện đại, bền vững, có

hàm lượng chất xám cao, công nghệ hiện đại, được đầu tư toàn diện và đồng

bộ, mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, phù

hợp đặc thù nông nghiệp của một đô thị lớn. Cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh dần chuyển dịch theo hướng phát triển sản

xuất hàng, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, phát triển các ngành phi

nông nghiệp và các chuỗi sản xuất liên kết; chủng loại, số lượng các mặt hàng

nông sản xuất khẩu gia tăng, đáp ứng được nhu cầu thị trường trong và ngoài

nước, từng bước hội nhập vào thị trường thế giới. Hình thành khu sản xuất

nông nghiệp công nghệ cao với diện tích 88ha, thu hút được 14 dự án đầu tư

với số vốn 190 tỷ đồng, đã nhân giống được 510.380 cây lan cấy mô các loại,

ươm cây giống và chuyển giao 28.100 cây cà tím, 382.000 cây ớt giống,

39

42.800 cây bí giống, cung cấp cho thị trường 59,5 tấn hạt giống chất lượng

cao, 8.100 tấn thành phẩm, 11.438 lít chế phẩm sinh học [43].

Năm 2014, tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn Thành phố đạt 852.523

tỷ đồng, tăng 9, %, trong đó, dịch vụ chiếm 59, %, công nghiệp và xây dựng

39,4%, nông nghiệp 1%. Tỷ trọng nội bộ ngành nông nghiêp tính đến năm

2013 cơ bản như sau: Trồng trọt chiếm 28%, chăn nuôi: 39,1%, dịch vụ nông

nghiệp: 6,3%, thủy sản: 25,7%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển

dịch theo hướng giảm diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang các các loại cây

trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện của thành phố như

hoa kiểng, rau an toàn, bò sữa, cá cảnh… Trong đó, các nhóm cây trồng chính

gồm: Rau củ, hoa kiểng, lúa, cây cao su, cây ăn trái; vật chăn nuôi chủ yếu:

Heo, bò, cá sấu và cá cảnh; thủy sản có hoạt động nuôi trồng, đánh bắt; Tổng

diện tích rừng, đất lâm nghiệp và cây lâm nghiệp là 42.492,82 ha và tỉ lệ che

phủ rừng là 1 ,42%; tỉ lệ che phủ rừng và cây xanh trên địa bàn thành phố đạt

39,6%; hoạt động diêm nghiệp tập trung trên địa bàn huyện Cần Giờ có 720

hộ tham gia sản xuất muối với tổng diện tích là 1 ha [12].

Giá trị gia tăng nông lâm ngư nghiệp trên địa bàn Thành phố cả năm

2013 đạt 7.767 tỉ đồng, tăng 5, % so với năm 2012 (cả nước tăng 2, 7%). Giá

trị sản xuất đạt 14.633,5 tỉ đồng (giá thực tế) tăng ,1% so năm 2012, bằng

2,07 lần so mức tăng của cả nước (tăng 2,95%), trong đó trồng trọt tăng 3,7%,

chăn nuôi tăng 4,2%, dịch vụ nông nghiệp tăng 4,7%, thủy sản tăng 9,9%.

Bình quân giai đoạn 200 – 2013, nông nghiệp thành phố tăng trưởng với tốc

độ bình quân 5%/năm trong khi cả nước chỉ tăng 3,2%/năm. Giá trị và hiệu

quả sản xuất trên 1 ha không ngừng tăng lên, từ 3 triệu đồng/ha/năm (2005)

đã tăng lên hơn gấp 2 lần, đạt 155 triệu đồng/ha/năm vào năm 2010. Trong cơ

cấu kinh tế nông nghiệp thành phố, trồng trọt và chăn nuôi chiếm tỉ trọng

đáng kể, lần lượt đạt 2 ,2% và 44,7%; kế đến là thủy sản với tỉ trọng 21,3%,

40

lâm nghiệp chiếm tỉ trọng rất ít [43].

Việc chuyển đổi các cây trồng và vật nuôi theo nhu cầu thực tiễn của

thị trường, gia năng suất, mở rộng quy mô các đàn gia cầm, gia súc, thay đổi

phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, hiện đại, các mặt hàng nông

sản xuất khẩu đã tăng lên về số lượng, giá trị, tỷ trọng cho thấy việc ngành

nông nghiệp của Thành phố đã và đang chuyển đổi từ sản xuất truyền thống,

nhỏ lẻ sang tập trung, quy mô lớn.

2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và

những vấn đề đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

ở thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Thành tựu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

ở thành phố Hồ Chí Minh

Thứ nhất, sự chuyển dịch trong nông nghiệp với âm nghiệp và ngư

nghiệp theo hướng tích cực và ngày càng tăng về tỷ trọng và giá trị.

Sản xuất nông nghiệp của Thành phố những năm vừa qua gặp không ít

khó khăn trở ngại do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến lượng

hàng xuất khẩu bị hạn chế… tuy nhiên, với sự quan tâm của các ngành chức

năng, nỗ lực của nông dân nên giá trị tăng thêm của nông - lâm - thủy sản

được duy trì ổn định và không ngừng gia tăng từ năm 2000 - 2014. Đến hết

năm 2014, khu vực nông - lâm - thủy sản đạt giá trị 8.778 tỷ đồng (theo giá

thực tế) tăng 5,9% so với cùng kỳ mặc dù những năm trước đó chịu ảnh

hưởng suy thoái kinh tế và các đợt dịch bệnh [12].

Mặc dù tỷ trọng của ngành nông - lâm - thủy sản trong tổng GDP

của thành phố Hồ Chí Minh giảm dần qua các năm nhưng đây là một xu

thế mang tính cực nói chung trong việc bảo vệ tài nguyên, giảm mức khai

thác nhưng tỷ trọng vẫn duy trì khá ổn định đạt mức 1% - 2% do sự gia

tăng không ngừng về giá trị sản xuất thực tế của ngành, trong đó đáng chú

41

ý là giá trị sản suất của ngành nông nghiệp đã đạt 16.505 tỷ đồng, dự kiến

năm 2015 đạt 17.485 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp - lâm

nghiệp - thủy sản từ năm 2000 đến nay được duy trì ở mức trung bình là

5% cao hơn mức chung của cả nước và xu hướng chung là tăng dần qua

các năm, cụ thể: Giai đoạn từ năm 2000 - 2005 là 4,97%/năm, giai đoạn

2006 - 2010 là 4,8 %/năm; giai đoạn 2010 - 2014 có tốc độ tăng trưởng

của ngành nông nghiệp có nhiều thành tích hơn là 5,4%/năm. Tỷ trọng

nông nghiệp - lâm - thủy sản trong cơ cấu GDP của Thành phố giảm từ

1,9 % năm 2000 xuống còn 1,15% năm 2012, giảm còn 1,02% năm 2013

và năm 2014 là 1% [12]. Điều này cho thấy thành phố Hồ Chí Minh đã

vận dụng, thực hiện tốt các chính sách trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp, mạng lại những kết quả tích cực.

Cơ cấu sản xuất nông - lâm - thuỷ sản chuyển dịch theo hướng nâng cao

năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường, giá trị sản xuất của

các ngành thì nông nghiệp thuần chiếm tỷ trọng cao đã và đang giảm dần từ

83,1% năm 2000 xuống còn 73,4% năm 2013 đến cuối năm 2014 còn 71%.

Cùng với đó là sự tăng lên về mặt tỷ trọng của ngành thủy sản từ 12,7% năm

2000 tăng lên còn 27,8% năm 2014; ngành lâm nghiệp giảm nhẹ nhưng vẫn

duy trì sự gia tăng giá trị sản xuất qua các năm nhờ đó ổn định ở mức 0,9 -

1,2% về mặt tỷ trọng đóng góp toàn ngành nông nghiệp [12].

Như vậy có thể thấy rằng cơ cấu nhóm ngành nông nghiệp của Thành

phố đang chuyển dịch tích cực với việc sự gia tăng tỷ trọng giá trị các mặt

hàng thủy sản, vốn có giá trị cao và lợi thế phát triển chưa được khai thác hết;

hoạt động sản xuất nông nghiệp thuần được đẩy mạnh, duy trì tốc độ phát

triển đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng cộng đồng. Đồng thời vẫn

duy trì diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng góp phần bảo tồn đa dạng sinh

42

học, cảnh quan, sinh thái bền vững và các giá trị truyền thống, phát triển các

ngành nghề, dịch vụ gắn liền với lâm nghiệp.

Thứ hai, sự tăng trưởng đáng kể tỷ trọng c a ngành chăn nuôi và ịch

vụ nông nghiệp so với trồng trọt, bảo đảm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp c a Thành phố.

Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng liên tục qua các năm dù chịu ảnh

không nhỏ của các đợt như cúm gia cầm, heo tai xanh, nở mồm long móng…

bình quân tăng 48,8%/năm, đến năm 2014 giá trị sản xuất chăn nuôi của

Thành phố đạt mức 6.532.774 triệu đồng theo giá thực tế. Nhờ vậy đã nâng tỷ

trọng của chăn nuôi trong nông nghiệp từ 35% của năm 2000 lên đến 53,4%

(theo gia so sánh 2010). Trong khi đó, tỷ trọng của trồng trọt giảm dần từ

56,9% xuống còn 37,8%, trung bình giảm 1,5%/năm (theo giá so sánh 2010)

[9]. Hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại thay thế dần mô hình chăn nuôi tận

dụng nhỏ lẻ ở gia đình với các nhóm vật nuôi chính như sau:

Trâu b : Giá trị sản xuất chăn nuôi trâu, bò gia tăng không ngừng

trong giai đoạn 2000 - 2013, bình quân 30,8%/năm (theo giá so sánh 2010);

năm 2013 đạt giá trị sản xuất theo giá thực tế là 2.758.103 triệu đồng, chiếm

48,2% tổng giá trị sản xuất chăn nuôi. Năm 2014 vừa qua tổng đàn bò đạt

129 2 con, tăng 15,7% so năm 2013; trong đó, đàn bò sữa 103.200 con,

tăng 1 ,5%. Năng suất sữa bình quân 15,23 kg/con/ngày, giai đoạn 2005 -

2014 tăng số lượng bò sữa bình quân 9,5%/năm. Sản lượng sữa bò tươi năm

2013 đạt 257.576 tấn, chiếm tỷ trọng 60,5% sản lượng sữa cả nước (425.400

tấn). Lượng thịt bò, trâu cung ứng ra thị trường mỗi năm từ 8,9 - 10,5 ngàn

tấn, chiếm tỷ trọng 10 - 12 % tổng lượng thịt cung ứng ra thị trường của

Thành phố [11].

Heo: Giá trị sản xuất chăn heo tăng liên tục trong giai đoạn 2000 -

2013, đặc biệt từ năm 2008 đến nay tăng mạnh, bình quân 20,1%/năm (theo

43

giá so sánh 2010); năm 2013 đạt giá trị sản xuất theo giá thực tế là 2832113

triệu đồng, chiếm 49,5% tổng giá trị sản xuất chăn nuôi. Tổng đàn heo trên 02

tháng tuổi là 291.128 con tăng 1,5% so với năm 2013; sản lượng thịt heo cung

ứng ra thị trường năm 2014 ước đạt 77.875 tấn thịt heo, chiếm khoảng 80%

tổng lượng thịt các loại [11].

Gia cầm: Giá trị sản xuất ngành gia cầm đã phục hồi lại sau đợt cúm

gia cầm, năm 2013 đạt giá trị sản xuất theo giá thực tế là 85.032 triệu đồng,

chiếm tỷ trọng 1,5% tổng giá trị ngành chăn nuôi. Tính riêng giai đoạn 2008 -

2013, bình quân tăng trưởng 24,7%/ năm (theo giá so sánh 2010). Năm 2014

đàn gia cầm được tập trung mở rộng nhờ vậy nâng số lượng gia cầm lên

55. 00 con, tăng 2,15 lần so với 2013 [11].

Th y sản:

Giá trị sản xuất ngành thủy sản năm 2014 tính theo giá so sánh đạt

2.569.500 triệu đồng, trong đó nuôi trồng đạt 1.923.100 triệu đồng chiếm tăng

bình quân 28,4% trong đoạn 2000 - 2014, nâng tỷ lệ nuôi trồng trong tổng giá

trị từ 5 % lên đến 74,8%, giá trị sản xuất từ khai thác thủy sản tăng về tuyệt

đối từ 324.809 của năm 2000 lên 615.200 triệu đồng vào năm 2014 nhưng

giảm tương đối về cơ cấu giá trị giảm từ 40,3% xuống còn 23,9% [9].

Mặc dù diện tích nuôi trồng thủy sản thu hẹp dần nhưng sản lượng thủy

nuôi trồng liên tục tăng trong các năm từ 21.797 tấn năm 2009 chỉ chiếm 50%

tổng sản lượng thủy sản, đã tăng lên 3 .365 tấn vào năm 2014 vừa qua chiếm

tỷ trọng 65,9% tổng sản lượng thủy sản. Trong đó sản lượng cá vẫn duy trì ổn

định, sản lượng tôm và thủy sản khác tăng cao, nâng tỷ trọng nhóm này trong

tổng sản lượng thủy sản từ 47,2% năm 2010 lên 57,8% vào năm 2013; sản

lượng vật nuôi nước ngọt tăng nước khoảng 25% trong 4 năm từ 2010 - 2013,

vật nuôi nước lợ (chủ yếu tại huyện Cần Giờ và Nhà Bè) đã tăng mạnh từ

44

6.154 tấn của năm 2010 tăng lên 22.804 tấn vào năm 2013, chiến 74,9% tổng

sản lượng nuôi trồng thủy sản của Thành phố [11].

Nhìn chung, cơ cấu ngành thủy sản của Thành phố đã có chuyển biến

tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của nuôi trồng, giảm tỷ trọng khai thác, năng

suất nuôi trồng tăng cao, tăng mức độ thâm canh, phát triển mạnh các đối

tượng nuôi cả ở nước ngọt, nước lợ mặn và các vật nuôi có giá trị kinh tế cao.

Cơ cấu giá trị cây trồng tuy có giảm so với chăn nuôi nhưng đã và đang

có sự chuyển dịch đúng hướng với tăng tỷ trọng giá trị các loại rau, đậu, cây

kiểng từ 26,5% của năm 2000, đến năm 2013 đã tăng lên 42,5% với tổng giá

trị sản xuất đạt 1.396,9 tỷ đồng (giá so sánh 2010) thay thế tỷ trọng của cây

lương thực có hạt từ 44,8% năm 2000 xuống còn 11,3% vào năm 2013 với

tổng giá trị sản xuất đạt 432,2 tỷ đồng. Năm 2014, giá trị sản xuất bình quân

trên 1 ha đất canh tác là 325 triệu đồng, tăng 15,2% so với năm 2013 và tăng

2 lần so với năm 2010 là 158 triệu đồng (Trong khi đó, bình quân cả nước

hiện đạt 100 triệu đồng/ha/năm). Kết quả này có được là do Thành phố

chuyển dịch diện tích và tăng năng suất các loại cây trồng [12].

Như vậy có thế thấy rằng, sự chuyển dịch giữa cơ cấu của trồng trọt,

chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp đã có chuyển biến phù hợp với tính chất

của nông nghiệp đô thị. Trong đó, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp đã tăng

dần và chiếm tỷ trọng lớn (62,3%), trở thành ngành chính trong nông nghiệp;

giá trị này gấp đôi toàn quốc (24,5%) và là cao nhất so với các địa phương

khác trong cả nước.

Thứ ba, cấu ao động giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp có sự chuyển dịch mạnh mẽ.

Cùng với sự thay đổi về tỷ trọng và quy mô các ngành trong nông

nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh, cơ cấu lao động của các ngành trong

nông nghiệp tuy có sự dịch chuyển khá nhanh sang các ngành công nghiệp

45

và dịch vụ như một hệ quả tất yếu trong quá trình CNH, HĐH, song lực

lượng lao động trong ngành kinh tế nông nghiệp ở Thành phố có sự gia tăng

mạnh mẽ.

Tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế nông - lâm -

ngư nghiệp hiện chiếm tỷ lệ 2, % tổng lực lượng lao động đang làm việc. So

năm 2013, tỷ lệ lao động trong khu vực kinh tế này tăng 0, %, cho thấy khu

vực kinh tế nông - lâm - thủy sản đang tiếp tục phát triển theo hướng chuyên

môn hóa cao. Vì vậy, trong những năm sắp tới khu vực kinh tế nông - lâm -

ngư nghiệp sẽ có nhu cầu lao động tập trung nguồn lao động có chuyên môn

trình độ cao. Qua khảo sát ở các ngành nghề cho thấy: Khu vực nông - lâm -

thủy sản, tỷ lệ lao động tuyển vào doanh nghiệp 37,47% tập trung ở lao động

có trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động ra khỏi doanh nghiệp chiếm

51,15% tập trung ở lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật [11].

Thực hiện Quyết định số 13 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về

khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp giai đoạn 2013 -

2015 đã giúp hơn 15.000 lao động có việc làm, trong đó gần 2.000 lao động

thuộc diện hộ nghèo, hơn 2.700 phương án sản xuất, kinh doanh được phê

duyệt hỗ trợ với tổng vốn vay gần 1,8 tỷ đồng… Số lượng việc làm tạo ra

thông qua các phương án vay vốn để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp

từ ngày 10/ /2011 đến ngày 12/ /2015 là 401 5 lao động, chiếm tỷ lệ 39%

việc làm trong nông nghiệp của Thành phố [12].

Như vậy có thể thấy rằng, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành

phố Hồ Chí Minh đã có sự thay đổi tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của

chăn nuôi, thủy sản, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Trong từng nội bộ ngành

cũng chuyển biến theo hướng gia tăng các sản phẩm mang tính giá trị hàng

hóa cao, quy mô lớn, khai thác được các lợi thế về điều kiện tự nhiên và xã

hội, s dụng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến, hướng đến thị trường xuất khẩu,

46

đồng thời đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, đổi mới, cải thiện, phát

triển điều kiện sống của dân cư đất đai được s dụng hiệu quả hơn, giá trị sản

xuất nông nghiệp/ha canh tác không ngừng gia tăng.

2.2.2. Hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong thời gian qua nhưng về căn bản,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp còn chậm và thiếu ổn định,

chưa thoát khỏi độc canh và thuần nông. Tác động của một thành phố trung

tâm công nghiệp lớn để thúc đẩy sự phát triển vùng nông nghiệp và nông thôn

ngoại thành chưa tương xứng. Công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến, tiểu

thủ công nghiệp, cụm công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển còn chậm,

còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong kinh tế nông nghiệp thành phố. Ðội ngũ lao động

trong ngành kinh tế nông nghiệp chưa được đào tạo để bổ sung cho lực lượng

lao động công nghiệp, dịch vụ của thành phố. Khoảng cách về các điều kiện

sinh sống của nhân dân nội thành và ngoại thành chưa được thu hẹp, khoảng

cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành đang có chiều hướng gia tăng.

Thứ nhất, ự chuyển ịch c a sản xuất nông nghiệp, các ngành chế

biến và ịch vụ c n chậm, không ổn định.

Thực tế trên địa bàn Thành phố cho thấy, trong những năm gần đây

kinh tế trang trại, hợp tác xã tuy có tăng về số lượng nhưng lại chiếm một tỷ

trọng không đáng kể trong sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn,

diện tích trung bình mỗi trang số trang trại tính theo tiêu chí cũ (trước 2011)

thành phố Hồ Chí Minh có 2.294 trang trại nhưng chỉ có .370 ha, chiếm

chưa tới 10% diện tích đất sản xuất nông nghiệp (khoảng 2,7 ha thấp hơn so

với cả nước: 5,7ha/trang trại), giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng

.700 lao động, chiếm khoảng % lao động trong nông nghiệp; số lượng tham

47

gia hợp tác nông nghiệp đến 31/12/2014 mới có 3983 thành viên (tương ứng

khoảng 12,5% nông hộ) [12].

Đối với Thành phố, nhóm ngành nông sản chính gồm cây lương thực,

rau, hoa kiểng và nhóm chăn nuôi (chủ yếu là gia súc). Nếu tính chung sản

lượng của những sản phẩm này mới chỉ đáp ứng 20% - 30% nhu cầu tại chỗ

nhưng không phải nông sản nào cũng suôn sẻ trong sản xuất và tìm đầu ra, các

dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và nông thôn chậm phát

triển, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch còn lớn, chất lượng và vệ sinh an toàn thực

phẩm thấp, các chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ chưa chặt chẽ,

hệ thống phân phối, tiếp thị nông sản ở ngoại thành còn nhiều hạn chế; chẳng

hạn, nông sản bán vào siêu thị phải mất hơn n a tháng sau mới được thanh

toán; chi phí mà nông dân tự đưa nông sản đi tiêu thụ lên đến 20% tổng chi

phí sản xuất (nếu thông qua hợp tác xã tiêu thụ chỉ mất khoảng %); việc sản

xuất theo tiêu chuẩn VietGAP còn thấp, qua thống kê cho thấy chỉ 7/10 hợp

tác xã chuyên sản xuất rau, sản lượng bình quân, lũy tiến đến tháng /2015

mới 438 tổ chức, cá nhân (hộ gia đình) được cấp chứng nhận của VietGAP,

tương đương 1.233 ha diện tích gieo trồng, chiếm chưa tới 11,9% diện tích rau

gieo trồng, trung bình mỗi năm cung cấp 27. 37,48 tấn/năm, chỉ chiếm 11%

lượng rau sản xuất mỗi năm của Thành phố (năm 2014 rau các loại 253702

tấn); tổn thất sau thu hoạch với lúa gạo từ 11 - 13%, rau từ 10 - 30%, khai thác

thủy sản khoảng 20%, muối khoảng 15% [3]; số doanh nghiệp tham gia sản

xuất nông sản còn hạn chế nên tỷ lệ doanh nghiệp nông - lâm - thủy sản năm

2012 chỉ chiếm 0,27% thấp hơn năm 2009 là 0,43%; số doanh nghiệp tham

gia lĩnh vực chế biến nông sản tăng thấp hơn các lĩnh vực khác nên tỷ lệ giảm

từ 8,23% xuống còn 5,82% trong giai đoạn 2005 - 2012 [9].

Thứ hai, sự chuyển dịch giữa nông nghiệp, âm nghiệp, th y sản c n

mất cân đối, chất ượng chuyển dịch không đồng đều.

48

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố tương đối chậm trong ngành

Nông, lâm, thủy sản thì nông nghiệp thuần luôn chiếm tỷ trọng cao ở mức

trên 71%, trong khi lâm nghiệp chỉ chiểm tỷ trọng 1% là rất nhỏ, mặc dù tiềm

năng cho phát triển nhóm ngành này còn rất lớn. Ngành thủy cũng chỉ chiếm

tỷ trọng về giá trị từ dưới 28%, thậm chí còn giảm so với giai đoạn 2003 -

2007 đã đạt tỷ trọng từ 28 - 31% [9].

Về nông nghiệp:

Cây ương thực: Mặc dù đã có kế hoạch chuyển đổi diện tích lúa, đặc

biệt là giảm tỷ trọng lúa mùa nhưng năng suất vẫn thấp hơn so với cả nước,

việc thực hiện chuyển đổi so với kế hoạch đề ra chậm, chưa đạt yêu cầu so

với hoạch định ban đầu, diện tích cây lương thực vẫn chiếm trên 50% tổng

diện tích đất nông nghiệp nhưng tỷ trọng giá trị sản xuất của nhóm này trong

vài năm gần đây chỉ ở mức 11,3 - 12,7% [9].

Cây rau đậu hoa kiểng: Dù có những số liệu khả quan về phát triển của

ngành nhưng tốc độ tăng của nhóm này kém ổn định, kém bền vững, biên độ

dao động tăng trưởng lớn, có năm còn bị sụt giảm (năm 200 giảm 22% tính

theo giá so sánh). Mức đóng góp trong tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt

của rau, đậu, hoa, cây cảnh chỉ đạt đến 42,5% trong 15 năm qua. Tỷ trọng

sinh vật cảnh trong cơ cấu kinh tế chung của ngành nông nghiệp thành phố

còn thấp, diện tích sản xuất hoa, cây kiểng chỉ hiện chiếm khoảng 3,5% diện

tích trồng trọt của thành phố và sản xuất không tập trung, quy mô sản xuất

nhỏ lẻ nên việc áp dụng các công nghệ tiên tiến còn gặp rất nhiều khó khăn

trở ngại, chưa đáp ứng được những hợp đồng tiêu thụ với số lượng lớn. Mặt

khác về giá trị sản xuất nhóm cây cảnh năm 2013 chỉ đạt 1.138 tỷ đồng,

chiếm tỷ trọng 7,9% trong sản xuất trồng trọt giảm nhiều so với năm 2011.

Tiềm năng cho xuất khẩu nhóm hàng này là rất lớn tuy nhiên việc hình thành

49

các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh gắn với xuất khẩu còn

nhiều hạn chế [11].

Chăn nuôi: Tỷ trọng gia cầm trong chăn nuôi thấp do tốc phục hồi

đàn gà, vịt của Thành phố chậm, người nông dân e ngại trong việc tái đầu tư

trở lại số lượng gia cầm năm 2014 chỉ bằng 1/5 với năm 2000. Tốc độ phát

triển của đàn heo trong 10 năm trở lại đây không phát triển thêm, bị dừng lại

quanh mức 300.000 con. Việc phát triển đàn bò còn mang tính quảng canh

nên số lượng bò sữa không tăng thêm và dừng lại khi đạt mức gần 100.000

con, tỷ lệ cái vắt sữa năm 2013 và 2014 đạt mức 45% thấp hơn so với năm

2008, 2009, 2010 khi tỷ lệ này là 54 - 55%. Chăn nuôi bò sữa còn mang tính

tự phát chưa đi đúng theo kế hoạch định hướng. Chăn nuôi nhỏ lẻ và tự phát

còn chiếm tỷ lệ cao, hiện trên địa bàn có hơn 1.000 hộ chăn nuôi bò sữa

nhưng trong đó có khoảng 20 - 30% số hộ nuôi dưới 10 con và hàng trăm hộ

chăn nuôi tự phát [11,12].

Về th y ản: Sản lượng thủy sản cung ứng chủ yếu vẫn là tôm, cá sản

lượng các loại thủy sản khác có dấu hiệu giảm so với năm 2005 từ 18.0 2 tấn,

chiếm tỷ lệ 33% giảm xuống còn 10.791 tấn chiếm tỷ lệ 20, % tổng sản

lượng thủy sản trên địa bàn [9].

Tiềm năng kinh tế biển khai thác chưa nhiều, đầu tư khai thác tiềm

năng kinh tế biển chưa lớn và chưa đồng bộ, giá trị sản xuất kinh tế biển còn

chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế nông - lâm - thuỷ sản, nguy cơ nguồn

lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt do s dụng các phương pháp khai thác triệt để,

ô nhiễm nguồn nước, đánh bắt gần bờ là chủ yếu, số lượng tàu khai thai thác

gần bờ chiếm 93 - 9 % số lượng tàu khai thác của Thành phố. Tuy năm 2012

số tàu đán bắt xa bờ tăng lên 4 tàu, chiếm tỷ lệ ,1% cao nhưng đến năm

2013 thì con số này giảm xuống 24 tàu, chiếm tỷ 3, %, số lượng này còn thấp

50

hơn năm 2011 với 33 tàu khai thác xa bờ nhiều nhiên số tàu đánh bắt xa bờ

mỗi năm không ổn định năm 2011 là 33 tàu xa bờ [12].

Nuôi thủy sản còn thói quen sản xuất theo kinh nghiệm, ý thức cộng

đồng để quản lý sản xuất bền vững còn hạn chế trong một bộ phận khá lớn

nông, ngư dân. Nuôi tôm theo mô hình VietGAP mang lại hiệu quả kinh tế,

bền vững, ít gây hại môi trường chưa được áp dụng rộng rãi, đến năm 2013

mới chỉ được thí điểm có ha tại Cần Giờ tương đương 0,17% diện tích nuôi

tôm của Thành phố.

Sản xuất cá cảnh còn mang tính tự phát nên quy mô sản xuất phần lớn

còn nhỏ lẻ, gia đình nên không đáp ứng được các đơn hàng có số lượng lớn,

đòi hỏi chất lượng đồng đều nhất là các đơn hàng xuất khẩu; thị trường xuất

khẩu rộng nhưng không tập trung, số lượng xuất khẩu có tăng nhưng tỷ trọng

vẫn thấp chỉ chiếm 12,4% sản lượng cá cảnh [12].

Về lâm nghiệp: Giá trị sản xuất chủ yếu vẫn là khai thác gỗ và lâm sản

chiếm tỷ trọng lên đến 81,1% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, do vậy chất

lượng chuyển dịch chưa cao [12].

Thứ ba, chất ượng và tốc độ chuyển ịch cơ cấu cơ cấu ao động trong

ngành nông nghiệp c n bất cập.

Tốc độ chuyển dịch lao động trong nông nghiệp diễn ra chậm, số lao

động trong nông nghiệp thay đổi sang lĩnh vực khác chưa nhiều, thậm chí

trong năm 2014 số lượng này còn tăng nhẹ. Số việc lao động làm việc trong

nông – lâm – thủy sản giảm cả về số lượng tuyệt đối và tương đối, cụ thể:

Năm 2000 là 142.091 người, chiếm ,4% lao động của Thành phố nhưng

đến năm 2014 chỉ còn 105.248 người, chiếm 2, % lao động của Thành phố.

Số hộ nông dân của Thành phố cũng giảm dần từ 48.284 hộ nông - lâm -

thủy sản và diêm nghiệp chiếm 5% hộ dân nông thôn năm 2009, xuống còn

32.1 1 hộ vào năm 2013, chiếm 10% của 314.892 hộ nông dân nông thôn.

51

Mức đầu tư cho nông - lâm - thủy sản hằng năm đạt chưa tới 1% tổng số vốn

đầu tư trên địa bàn Thành phố [11].

Trình độ, chuyên môn, tay nghề của người sản xuất còn hạn chế nên

việc tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều

khó khăn. Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, dù có tập trung, đạt

một số kết quả ban đầu, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn. Số lao động đã được đào tạo trong lĩnh vực nông

nghiệp và ngành nghề nông thôn chỉ tương đương 50% không đạt yêu cầu

theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần I , đến hết năm 2015 chỉ

tiêu đào tạo nghề trong lao động nông nghiệp và nông thôn từ 70% trở lên.

Lao động làm việc trong các doanh nghiệp nông - lâm - thủy sản chiếm số

lượng ít chỉ không ổn định do tỷ lệ lao động tuyển vào nhóm doanh nghiệp

này 37,47% tập trung ở lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động ra

khỏi doanh nghiệp chiếm 51,15% tập trung ở lao động không có trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ trình độ dân cư chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm

9,5% dân cư nông thôn, số người tốt nghiệp phổ thông trung học người chiếm

31,8% dân cư nông thôn, cùng với đó là xu hướng hướng lựa chọn ngành học

của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào ngành phi nông nghiệp

là chủ yếu gây nguy cơ thiếu hụt lực lượng lao động trình độ chuyên môn cao

cho nông nghiệp trong hiện tại và tương lai [9].

2.2.3. Nguyên nhân

* Nguyên nhân thành tựu

Nguyên nhân khách quan:

Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có vị trí đặc biệt quan trọng,

trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất của cả nước, là c a ngõ giao lưu với quốc

tế, có tiềm lực về khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nhiều

doanh nghiệp có quy mô lớn và kinh nghiệm kinh doanh, thị trường tiêu thụ

52

hàng hóa lớn… nhờ đó ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, có điều kiện đa

dạng hoá sản xuất nông nghiệp, thu hút vốn đầu tư, tiêu thụ nông sản, phát

huy năng lực của công nghiệp chế biến.

Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc được phát triển

phù hợp các vùng nông nghiệp, công nghiệp chế biến tại chỗ của thành phố

Hồ Chí Minh. Mặt bằng dân trí cao, số lượng các nông hội, tổ chức khuyến

nông, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, các trung tâm giống cây, nông nghiệp công

nghệ cao… thành phố Hồ Chí Minh có khí hậu và thổ nhưỡng rất phù hợp

với nông nghiệp nhiệt đới đa dạng, địa hình chuyển tiếp Đông và Tây Nam

Bộ, tài nguyên đất, nước, biển phong phú có thể phát triển nhiều loại cây

trồng, vật nuôi và thủy sản. Là vùng hội cư của nhiều người từ nơi khác

đến, do đó không chỉ là nơi hội tụ ý chí lập nghiệp, làm giàu của nhiều

người, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp từ nhiều vùng trong cả nước và

thế giới.

Sản xuất công nghiệp, dịch vụ của thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ

tăng trưởng cao trong đó sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp chế

biến, dịch vụ nông nghiệp, vận tải hàng hóa, c a hàng và siêu thị… làm động

lực thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển.

Nguyên nhân ch quan:

Một à, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã

nhận thức sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp và vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn

của địa phương và đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp tạo mọi điều

kiện thuận lợi cho các ngành, các cấp và người nông dân thực hiện tốt nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Hai à, thành phố Hồ Chí Minh đã biết phát huy tối đa lợi thế là trung

53

tâm kinh tế của cả nước, đã sớm xác định cơ cấu kinh tế phù hợp với từng vùng

trong đó có cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, mạnh dạn đầu tư vốn chuyển

dịch cơ cấu sản xuất, quyết tâm đưa ngành nông nghiệp thành ngành kinh tế có

giá trị gia tăng cao, hiện đại, thỏa mãn càng tốt hơn các nhu cầu của thị trường;

điều chỉnh hợp lý các nguồn lực, khai thác tiềm năng và lợi thế tự nhiên, hỗ trợ

lao động từ ngành nông nghiệp thuần chuyển sang ngành thủy sản, từ trồng trọt

sang chăn nuôi, từ khai thác sang nuôi trồng, chăm sóc. Đồng thời đã nêu cao

tinh thần tự lực, tự cường luôn tìm biện pháp phát huy có hiệu quả các nguồn

lực tại chỗ và thu hút đầu tư từ bên ngoài, không trông chờ và ỷ lại vào Trung

ương. Toàn bộ hệ thống chính trị đoàn kết, thống nhất, trách nhiệm trong công

tác lãnh đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ sát với thực tiễn cơ sở. Nhân dân

lao động có khát vọng thoát nghèo, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và

Chính quyền Thành phố. Đồng thời được sự quan tâm của Trung ương về công

tác lãnh, chỉ đạo và tạo điều kiện về vốn để thực hiện phát triển kinh tế xã hội.

Vận dụng sáng tạo Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VIII, IX, X vào thực tiễn phát

triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn trong thời kỳ mới.

*Nguyên nhân c a những hạn chế

Nguyên nhân khách quan:

Ảnh hưởng của thiên tai, các đợt dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, nguy

cơ dịch bệnh từ các tỉnh thành lân cận và trong cả nước, biến đổi khí hậu ngày

càng rõ nét với tần suất thiên tai ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy

mô ngày càng lớn tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người

dân Thành phố.

Nhu cầu, giá cả thị trường biến đổi khó lường, thiếu thông tin cho sản

xuất và tiêu thụ nông sản, mức độ hội nhập ngày càng sâu, rộng với kinh tế

thế giới và khu vực nên những biến động, phức tạp và khó lường cả về chính

54

trị - kinh tế - xã hội cũng tăng theo, trong khi khả năng cạnh tranh và ứng phó

của ngành nông nghiệp của Thành phồ còn thấp.

Quỹ đất để phát triển rừng, cây xanh, sản xuất nông nghiệp của thành

phố Hồ Chí Minh là có giới hạn, nhưng tốc độ đô thị hóa tại một số quận,

huyện khá nhanh, nhất là Quận 12, huyện Hóc Môn, quận Thủ Đức làm thu

hẹp đất nông nghiệp, khó chủ động trong sản xuất, cùng với đó giá trị trực

tiếp của sản xuất nông nghiệp thành phố còn thấp so với các ngành kinh tế

khác nên chưa khuyến khích được người dân, doanh nghiệp.

Để trở thành một nền nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh thái, sản

xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với xuất khẩu thì xuất phát điểm của nông

nghiệp thành phố Hồ Chí Minh còn thấp, trong khi nguồn lực của Nhà nước

và nhân dân còn hạn hẹp, sản xuất, kinh doanh vẫn còn mang tính sản xuất

hàng hóa nhỏ, tự phát, phân tán, chủ yếu theo qui mô hộ gia đình; công nghệ,

cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp kém, nhân lực

ít được đào tạo, trình độ kiến thức sản xuất hàng hóa của đại bộ phận nông

dân còn có khoảng cách xa, so với yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp. Mặt

khác, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải tuân theo các quy luật sinh

học của cây trồng, vật nuôi nên phải có thời gian mới đem lại kết quả.

Nguyên nhân ch quan:

Các cấp, các ngành trong Thành phố còn tư duy của kinh tế nhỏ lẻ, quá

chú trọng vào sản xuất công nghiệp, dịch vụ chưa thật sự sâu sát với chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp của địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan trung

ương và chính quyền địa phương còn kém hiệu quả trong nhiều hoạt động như:

Bảo vệ rừng, phòng chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm...

Công tác quy hoạch, chính sách phát triển nông nghiệp bộc lộ những bất

cập như: Kế hoạch s dụng đất, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, áp dụng các chính sách

chưa tương xứng, chưa nhìn đúng và giải quyết kịp thời những mối quan hệ

55

trong các mặt kinh tế, giữa sản xuất nông nghiệp với văn hóa, xã hội, quốc

phòng và an ninh; chậm điều chỉnh phù hợp với cơ chế thị trường; những quy

định về mức hạn điền gây trở ngại cho quá trình tích tụ ruộng đất để phát triển

sản xuất hàng hoá quy mô lớn... Việc chuyển đổi cây, con có hiệu quả cao hơn,

việc hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chưa được làm triệt để.

Còn người nông dân vì chạy theo lợi nhuận hàng chục năm qua, bài toán luẩn

quẩn với nay trồng cây này, nuôi con này mai lại trồng cây khác, con khác

không theo định hướng, phá vỡ quy hoạch chung của Thành phố.

Trình độ dân trí, trình độ canh tác của nông dân nhìn chung còn thấp,

trình độ văn hoá của người nông dân còn thấp. Tư duy bảo thủ, lạc hậu, tập

quán sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất thủ công, theo kinh nghiệm vẫn còn ở

nhiều hộ gia đình nông dân. Nhận thức của nông dân về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp, chuyển biến thích nghi kịp thời với cơ chế thị

trường còn hạn chế. Lực lượng lao động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn

tuy đông nhưng vẫn thiếu những lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề

cao, thiếu các nhà doanh nghiệp, các chuyên gia có tri thức và kinh nghiệm

quản lí kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây là những bất lợi đặc biệt

lớn đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội

nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới.

Công tác chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, công tác

hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân còn chậm được đưa vào sản xuất, mới nặng

về thí điểm và xây dựng mô hình ứng dụng ở diện hẹp, việc nhân rộng mô hình

chưa được coi trọng, đẩy nhanh nên chưa tạo được sự tăng nhanh, mạnh về

năng suất, chất lượng vật nuôi, cây trồng. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông

nghiệp, nông thôn chưa phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa,

mức đầu tư cho lĩnh vực này chỉ đáp ứng 1/3 nhu cầu nên gây nhiều khó khăn

trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Công nghệ chế biến, bảo quản sau thu

56

hoạch chưa được quan tâm đúng mức nên tỷ lệ thất thoát về số lượng và chất

lượng nông sản sau thu hoạch lớn, khả năng mở rộng thị trường, khả năng cạnh

tranh của nông sản hàng hoá bị hạn chế.

2.2.4. Những vấn đề đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Một à, mâu thuẫn giữa mục tiêu chuyển ịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp với thực trạng đất đai, kết cấu hạ tầng đáp ứng cho quá trình

chuyển ịch trên địa bàn c n hạn chế.

Có thể thấy khi mới bước vào công cuộc đổi mới, chính sách đất đai

phù hợp với lực lượng lao động và quản lý của hộ gia đình quy mô nhỏ, nên

đã tạo nên sự đột phá về phát triển nông nghiệp cả nước nói chung, Thành

phố nói riêng. Nhưng hơn 20 năm qua, nhất là sau 5 năm thực hiện Nghị

quyết số 2 -NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, lực lượng sản xuất

nông nghiệp đã lớn mạnh hơn, cả về quy mô và trình độ công nghệ, trình độ

quản trị. Vai trò nông nghiệp và quan hệ thị trường có nhiều thay đổi, trong

khi quan hệ sản xuất nông nghiệp nói chung và chính sách ruộng đất cho nông

nghiệp chậm được đổi mới, đây chính là lực cản đối với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp của Thành phố. Quy mô đất canh tác nhỏ và manh

mún đã làm tăng chi phí cơ giới hóa, nhất là khi người nông dân phải thuê

dịch vụ nông nghiệp tư nhân trong các khâu canh tác. Do đất sản xuất quy mô

nhỏ, manh mún nên vùng sản xuất hàng hóa tập trung, kinh tế nông trại quy

mô lớn rất khó hình thành và phát triển bền vững, chưa hình thành được nền

kinh tế nông trại có quản trị chuyên nghiệp, kể cả ở những nơi có điều kiện

phát triển. Vai trò, lợi thế của kinh tế quy mô lớn không được phát huy, chi

phí sản xuất, chi phí quản lý chất lượng, chi phí giao dịch thương mại của

ngành nông nghiệp cao hơn nhiều nước, thu nhập của nông dân thấp, khả

năng cạnh tranh quốc tế rất hạn chế. Bài toán cấp bách đối với nông nghiệp

57

Thành phố là trong năm năm tới, chuyển đổi 24 nghìn ha đất trồng lúa hiệu

quả thấp sang nuôi trồng các loại cây, con hiệu quả kinh tế cao hơn, trong khi

sản xuất nông nghiệp ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong những năm

qua tuy có tăng trưởng nhưng chưa ổn định và thiếu bền vững. Một số huyện

còn bỏ hoang chưa khai thác hết quỹ đất nông nghiệp hoặc chuyển mục đích

sang xây dựng đô thị nhưng triển khai rất chậm.

Hai à, mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp với chất ượng ao động đáp ứng cho quá trình chuyển

dịch trên địa bàn c n nhiều bất cập.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là quá trình mở rộng hoặc thu hẹp

một ngành kinh tế nào đó. Cùng với đó là sự phát triển của một số ngành nghề

mới. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành nghề mới trong giai đoạn hiện nay là

những ngành nghề có trình độ công nghệ cao. Đồng nghĩa với điều đó, để đẩy

nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phải có đội ngũ lao

động có trình độ cao. Trong khi đó, ở thành phố Hồ Chí Minh đang có sự

chậm chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành khác nhất là ở khu

vực đô thị hóa. Ðội ngũ lao động nông nghiệp chưa được đào tạo cơ bản, chủ

yếu là lao động phổ thông, chưa đủ khả năng đảm nhiệm những công đoạn kỹ

thuật cao; cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ

trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng,

nhất là tại các xã (bộ máy ở xã không có cán bộ chuyên trách nông nghiệp).

Khoảng cách về các điều kiện sinh sống của nhân dân nội thành và ngoại

thành chưa được thu hẹp, khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại

thành đang có chiều hướng tăng lên. Mặt khác, tình trạng lao động qua đào

tạo, có bằng cấp lại đang đứng trước tình trạng thất nghiệp vì quá trình đào

tạo chưa căn cứ nhu cầu thị trường và yêu cầu của sự phát triển. Công tác

định hướng đào tạo nghề cho thanh niên chưa được chú trọng đúng mức, dẫn

58

đến tình trạng tự phát trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên.

Mâu thuẫn trên là lực cản không nhỏ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh.

a à, mâu thuẫn giữa nhu cầu thu hút nguồn vốn đầu tư để hiện đại

hóa kinh tế ngành nông nghiệp với hiệu quả đầu tư c n thấp, r i ro cao.

Có thể thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành

phố Hồ Chí Minh cần huy động tối đa, s dụng tối ưu các nguồn nhân, tài,

vật lực phục vụ cho quá trình đó. Tuy nhiên, trong thực tế, nguồn lực tài

chính, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp trên địa bàn còn nhiều khó khăn bất cập. Do năng suất lao động

trong ngành nông nghiệp nhìn chung còn thấp, nên khả năng tích lũy từ nội

bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp còn khó khăn. Vì vậy, đây là ngành rất

khó thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp, do những nguyên nhân chủ yếu là

hiệu quả đầu tư thấp, rủi ro cao; đầu tư vào nông nghiệp sự an toàn không

cao do thời gian giao đất còn ngắn, quy hoạch s dụng đất không ổn định và

tính pháp lý thấp...

*

* *

Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm khu vực Nam bộ, kinh tế

phát triển năng động, nơi tập trung nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học;

hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, tiềm năng đất – nước cây trồng vật nuôi đa

dạng, phong phú, có nhiều nguồn lực để phát triển nông nghiệp theo đặc thù

nông nghiệp đô thị. Tuy diện tích đất canh tác giảm nhanh nhưng tốc độ tăng

trưởng ngành nông nghiệp vẫn khá cao, đạt bình quân 5,5 - ,5 %/ năm, cơ

cấu các tiểu ngành có chuyển dịch tích cực theo định hướng thị trường, phát

huy lợi thế so sánh. Trong trồng trọt đã chuyển dần từ lúa sang các cây trồng

59

có thị trường và lợi nhuận cao hơn như rau màu, cây cảnh... cơ cấu các loại

thực phẩm từ ngành chăn nuôi cũng có sự thay đổi hợp lý, theo đúng nhu cầu

thị trường. Tuy nhiên, quá trình sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường

đất và nước tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và đời sống

nhân dân, giá nhân công nông nghiệp trên địa bàn Thành phố cao hơn so với

các tỉnh khác. cơ sở hạ tầng một số vùng sản xuất chưa hoàn chỉnh, chưa đồng

bộ dẫn đến hạn chế quá trình cơ giới hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học và

sản xuất nông nghiệp,... Đó cũng chính là những hạn chế và khó khăn đặt ra

cần có những giải pháp phù hợp, để thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị.

60

Chương 3

QUAN ĐIỂM V IẢI HÁ ĐẨY NHANH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH

TẾ N NH N N N HI P Ở TH NH HỐ HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới

3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phải nằm

trong tổng thể của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh

Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt đảm bảo cho chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp theo đúng mục tiêu, định hướng phát triển, nằm

trong tổng thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù hợp với qui hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là

một trong sáu chương trình đột phá mà Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX

(Nhiệm kỳ 2010 - 2015) đã xác định: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói

chung, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng là yêu cầu bức thiết, bởi

vừa do đòi hỏi của sự phát triển lực lượng sản xuất vừa mang yếu tố chủ quan

của chủ trương, chính sách ở mỗi địa phương. Tại Đại hội Đảng bộ Thành

phố lần thứ X (Nhiệm kỳ 2016 - 2016) đồng chí Tổng Bí thư đề nghị trong 5

năm tới: Làm tốt công tác quy hoạch, quy hoạch đồng bộ,... huy động cao

nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế để tạo sự đột phá

trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung tái cơ cấu kinh tế

gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển nhanh ngành dịch vụ, các

ngành có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao, công nghiệp công nghệ cao,

công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp công nghệ cao. Chính điều này đặt ra cho

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phải nằm trong tổng thể của

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thành phố cũng như của quốc gia, nhằm góp

phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của Thành phố.

Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố nói chung và

61

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng đã được đại hội đại

biểu Đảng bộ Thành phố lần VIII xác định là 1 trong 5 chương trình đòn bẩy

của thành phố. Qua 5 năm thực hiện chương trình, trong bối cảnh chịu tác

động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kinh tế - xã

hội và nông nghiệp, nông thôn của thành phố đã đạt được nhiều thành tựu tích

cực, cơ cấu kinh tế thành phố và cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển dịch

đúng định hướng.

Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố đã được đại hội đại

biểu Đảng bộ Thành phố lần I xác định là 1 trong chương trình trọng điểm

trong giai đoạn 2010 – 2015, đồng thời thực hiện theo Nghị quyết Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X và Kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 201 – 2020, trong năm 201 Thành

ủy và Ủy ban Nhân dân Thành phố sẽ hoàn chỉnh, ban hành: Chương trình cơ

giới hóa trong nông nghiệp, đề án phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đề

án đánh giá tác động, chương trình hoa kiểng và đề xuất giải pháp nhằm nâng

cao năng lực cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp khi Hiệp định đối tác xuyên

Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực, nên chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,

nông thôn là một phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của

thành phố, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn

2010 - 2020 theo Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy tối

đa lợi thế, tạo đà phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp không phải là sự áp đặt chủ

quan duy ý chí. Quá trình đó phải dựa trên cơ sở khoa học, dựa trên trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của mỗi địa

62

phương. Quán triệt quan điểm này, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Một à, quán triệt tốt phương châm: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,

nhân dân làm chủ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phải phù

hợp với chủ trương, định hướng của Thành phố và quốc gia. Điều đó có

nghĩa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhằm góp phần đẩy

mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, quá trình đó phải đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố thông qua các nghị quyết, chủ trương của

các cấp uỷ Đảng.

Hai à, thành phố Hồ Chí Minh cần bám sát tình hình thực tiễn, chủ

động tìm kiếm và tổ chức thực hiện các giải pháp đẩy nhanh chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành nông nghiệp có hiệu quả. Tính chủ động, sáng tạo của Đảng

bộ, chính quyền Thành phố sẽ là yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi các

nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn.

a à, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng như

phát triển kinh tế - xã hội, các địa phương của thành phố Hồ Chí Minh phải

bám sát các văn kiện, nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của Thành phố. Trên cơ sở đó, vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể

của địa phương mình, ngành mình. Kinh tế - xã hội của Thành phố chỉ có hiệu

quả khi biết phát huy lợi thế riêng có của mình một cách sáng tạo, có hiệu

quả. Mỗi địa phương của Thành phố sẽ có những lợi thế riêng, vấn đề đặt ra là

trên cơ sở quy hoạch, chương trình phát triển chung, mỗi địa phương cần chủ

động đề xuất những chương trình phát triển cụ thể cho phù hợp với địa

phương mình.

Bốn à, cấp uỷ và chính quyền các cấp của Thành phố phải có kế hoạch

và tổ chức quán triệt sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm được ý

nghĩa tầm quan trọng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

của Thành phố cũng như chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và

63

Nhà nước; các tổ chức đoàn thể tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên

tích cực tham gia ủng hộ chủ trương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp trên địa bàn. Nâng cao hiệu quả của các phương tiện thông tin

đại chúng tăng cường phổ biến các chủ trương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng.

Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố, UBND các cấp cụ thể

hoá thành kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng giai đoạn

phát triển.

Năm à, phát huy tính năng động, sáng tạo của các địa phương, khuyến

khích tính tự chủ trong việc thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành. Đồng thời, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, có những

điều chỉnh phù hợp tình hình thực tiễn tại địa phương mình. Nâng cao năng

lực chịu trách nhiệm cho mỗi địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện

các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.

3.1.2. Bảo đảm hài hòa giữa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững

trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh

Bảo đảm tính hài hòa giữa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh là

quan điểm có vị trí quan trọng, chỉ đạo toàn bộ chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp của Thành phố. Theo đó, việc chuyển dịch phải dựa trên

cơ sở tiềm năng và thế mạnh của ngành, khu vực. Đó chính là điều kiện tiên

quyết, cơ sở quan trọng để hình thành một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

hợp lý và hiện đại. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X đã xác

định: “Phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng

nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, à trung tâm ản xuất giống

cây trồng, giống vật nuôi có năng uất, chất ượng, giá trị gia tăng cao, an

64

toàn c a khu vực, bảo vệ môi trường và đáp ứng tốt hơn nhu cầu về rau sạch,

hoa tươi, cá kiểng, sữa c a thị trường và gắn với phát triển du lịch mang đặc

trưng thành phố; bổ ung chính ách hỗ trợ phát triển kinh tế trong ĩnh vực

nông nghiệp; phát triển dịch vụ bảo hiểm trong nông nghiệp; tăng năng uất,

chất ượng và ức cạnh tranh, xây ựng các chuỗi iên kết và chuỗi cung ứng

trong nông nghiệp” [17, tr.126].

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thực chất là quá trình

cải tạo từ cơ cấu cũ, lạc hậu, chưa phù hợp sang cơ cấu mới hoàn thiện và phù

hợp hơn. Quá trình đó đồng nghĩa với việc thu hẹp một ngành nghề này, mở

rộng một ngành nghề khác ngay trong ngành nông nghiệp. Tất nhiên đồng

thời với quá trình đó là phát triển thêm những ngành nghề mới.

Thành phố Hồ Chí Minh có vùng nông thôn hết sức phong phú và đa

dạng về thổ nhưỡng, ngành nghề, lao động, nơi bảo đảm môi sinh và cân bằng

sinh thái cho một đô thị lớn; đồng thời đây là căn cứ kháng chiến, là vùng

nghèo, nơi sinh sống của hàng triệu dân làm nông nghiệp, chịu bao đau khổ

trong suốt 30 năm chiến tranh, trong đó biết bao gia đình thương binh, liệt sĩ,

gia đình chính sách, người có công. Thành phố Hồ Chí Minh đã có vùng nông

nghiệp, nông thôn ngoại thành khá lớn, chiếm 50% diện tích tự nhiên của

Thành phố, tuy chỉ chiếm 1% GDP của kinh tế Thành phố, nhưng nông

nghiệp, nông thôn ngoại thành có tầm quan trọng đặc biệt. Trước yêu cầu mở

rộng thành phố, đô thị hóa, nông nghiệp ngoại thành đã chuyển sang sản xuất

nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế hướng tới nền nông nghiệp sinh thái và

kỹ thuật cao, phù hợp với chiến lược phát triển đô thị văn minh, hiện đại, bền

vững về môi trường.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Thành ủy khóa I và khóa đã đề

ra những định hướng rõ ràng, cụ thể. Thành phố tiếp tục chỉ đạo, triển khai

Quyết định số 10/2009/QĐ - UBND ngày 22 tháng 01 năm 2009 của Ủy ban

65

nhân dân Thành phố về ban hành kế hoạch của UBND Thành phố thực hiện

Chương trình hành động của Thành ủy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

theo Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa ; đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia

xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 theo 19 tiêu chí quốc gia của

Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 491/QĐ - TTg ngày 1 tháng 4 năm

2009). Quán triệt quan điểm này, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Một à, thành phố Hồ Chí Minh cần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế

nhanh trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ phát triển, tạo

bước đột phá trong các ngành, lĩnh vực chủ chốt như kết cấu hạ tầng, công

nghiệp và du lịch theo hướng CNH, HĐH nói chung và nông nghiệp nông

thôn nói riêng.

Hai à, phát triển nông nghiệp của Thành phố theo hướng nông nghiệp

đô thị hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, ổn định, bền vững;

chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.

Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp bình

quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt trên %/năm, giá trị gia tăng trên 5%/năm.

Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đạt 220 triệu đồng/năm.

a à, thực hiện tốt chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, chương trình giống, cây, con chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu

CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn ngoại thành. Tập trung thực hiện Ðề án

tái cơ cấu ngành nông nghiệp; chiến lược phát triển chăn nuôi tạo nguồn thực

phẩm bình ổn giá. Bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chính sách bồi thường hỗ trợ, tái định cư,

dạy nghề, chuyển đổi nghề khi Nhà nước thu hồi đất. Bảo đảm tiến độ, hiệu

quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn Thành phố, nhất là

chương trình xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm. Ðẩy nhanh tiến độ

66

xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao, Trung tâm công nghệ sinh học, dự

án xây dựng hệ thống cấp nước sạch Nhà Bè - Cần Giờ, đê bao ven sông Sài

Gòn, các công trình chống ngập, giao thông, thủy lợi, các dự án hạ tầng phục

vụ sản xuất nông nghiệp tại 13 xã chuyển đổi và các dự án sản xuất giống.

Mở rộng liên kết các tỉnh bạn xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp cho ngành

công nghiệp chế biến của Thành phố. Phát triển giáo dục, y tế, văn hóa gắn

với cải thiện nâng cao chất lượng môi trường nông thôn. Có chính sách phù

hợp để huy động cao các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế nông

thôn nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nông dân. Nâng cao

năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các huyện

bổ sung các nguồn lực, đặc biệt là nguồn cán bộ có năng lực, trình độ đáp ứng

yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ðồng thời tăng cường kiểm tra,

kiểm soát các cơ sở gây ô nhiễm, có biện pháp ngăn chặn các nguồn gây ô

nhiễm phát sinh, góp phần cải thiện môi sinh, môi trường Thành phố.

Bốn à, gắn kết chặt chẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; kinh

tế nông thôn và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch; hình

thành và phát triển những vùng sản xuất giống chất lượng cao, sản xuất nông

sản hàng hóa tập trung và chuyên canh; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học

kỹ thuật và công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học để lai tạo giống, nâng

cao năng suất, chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và khả năng

cạnh tranh của nông sản.

3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh phải dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại

Đây là quan điểm có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp trên địa bàn Thành phố. Sự thành công của quá

trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong đó then chốt là chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành nông nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả, mục tiêu đề ra

67

trên cơ sở ứng dụng những kết quả của khoa học công nghệ hiện đại cho phép

phát huy tối đa các nguồn lực, tạo ra thị trường sản phẩm hàng hóa đa dạng,

phong phú. Các sản phẩm làm ra có chất lượng cao sẽ là tiền đề góp phần

nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm. Đồng thời còn là tiền đề quan

trọng để phát huy những lợi thế so sánh của Thành phố. Quán triệt quan điểm

này, cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:

Một à, nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ các cấp, các ngành và

nhân dân về vai trò của khoa học công nghệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh.

Nhận thức đúng là cơ sở cho hành động đúng vì vậy, cần phải nhất quán

về nhận thức đối với việc ứng dụng khoa học, công nghệ mới, tiên tiến, hiện

đại là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

trên địa bàn đạt hiệu quả cao đáp ứng xu thế mở c a hội nhập kinh tế khu vực

và quốc tế. Thống nhất về nhận thức thì Đảng bộ, chính quyền, các sở, ban,

ngành và nhân dân trên địa bàn Thành phố mới hiểu rõ được vai trò ngày càng

tăng và tính chất quyết định của khoa học, công nghệ đối với quá trình tăng

trưởng, phát triển của các ngành kinh tế trong đó có nông nghiệp trong điều

kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.

Vì vậy, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho người

dân khu vực nông nghiệp, nông thôn Thành phố thấy được sự cần thiết, tầm

quan trọng và vai trò to lớn của việc ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến,

hiện đại vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp; xóa bỏ tập tục, tập

quán của nền kinh tế hiện vật, tự cấp tự túc với cách thức sản xuất nhỏ lẻ, phân

tán, thủ công; từ đó phát huy được tính năng động sáng tạo của họ trong sản

suất kinh doanh, tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, đề

án, dự án để thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền

vững có hàm lượng chất xám cao, công nghệ hiện đại, được đầu tư toàn diện

68

và đồng bộ, mang lại năg suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh

cao, phù hợp đặc thù nông nghiệp của một đô thị lớn trước những yêu cầu của

nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hai à, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp dựa trên nền

tảng ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, chính là thực hiện tốt mục tiêu

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố. Theo quan điểm

này thì cần phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học,

công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo

đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn. S dụng

những thành tựu của khoa học, công nghệ để đổi mới công nghệ sản xuất, chế

biến, đổi mới các phương thức, biện pháp bảo vệ môi trường, s dụng tiết

kiệm tài nguyên, bảo đảm hiệu quả cao.

a à, hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh nhằm tạo điều

kiện thuận lợi để ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất,

thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông phẩm. Cần phải làm tốt công tác

quy hoạch mà trọng tâm là quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,

theo các chương trình giống cây, giống con chất lượng cao, phát triển rau

an toàn, bò sữa, thủy sản, hoa - cây cảnh - cá kiểng, cá sấu...; các đề án nâng

cao chất lượng quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nông sản thực

phẩm, đề án giám sát dịch tễ; bảo vệ và phát triển các loại rừng, cây xanh;

chương trình khuyến nông, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học công

nghệ cho các hộ sản xuất nông nghiệp….Trên cơ sở đó mới khai thác lợi thế về

thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn từng vùng để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất

nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả

kinh tế, tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích, giảm hao phí lao động cá biệt để

tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

69

3.2. Những giải pháp đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới

3.2.1. Thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Quy hoạch là một trong những công cụ quản lý của cơ quan nhà nước

nhằm bảo đảm cho sự phát triển của nền kinh tế, bảo đảm hiệu quả cao nhất

cho mỗi ngành, vùng cũng như từng địa phương. Là một lĩnh vực chuyên

môn, qui hoạch có tính mục đích nhằm đảm bảo cho các ngành phát triển

đúng hướng, thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã định.

Đối với thành phố Hồ Chí Minh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp nhất thiết phải có sự hoạch định quy hoạch, kế hoạch phát triển

mang tính chiến lược, mục tiêu rõ ràng cho từng thời kỳ và quan điểm phát

triển đúng đắn trên cơ sở khoa học phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa

phương, từng vùng; trên cơ sở tiến hành điều tra có quy hoạch từng vùng

trọng điểm để bố trí cây trồng, vật nuôi một cách phù hợp; cần nhân rộng

những mô hình có hiệu quả để phổ biến trong nhân dân; có kế hoạch tổ chức

cho nông dân tiếp cận với tiến bộ khoa học - kỹ thuật và ứng dụng vào lĩnh

vực sản xuất, kinh doanh.

Để thực hiện giải pháp này, cần làm tốt những nội dung, biện pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc thực hiện các quyết định c a U N Thành

phố như: Quyết định số 5930/QĐ - UBND ngày 28 tháng 12 năm 2009 của

Ủy ban nhân dân Thành phố phê duyệt quy hoạch sản xuất nông nghiệp, phát

triển nông thôn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025; Quyết định số

2011/2010/QĐ - UBND ngày 07 tháng 5 năm 2010 của Ủy ban nhân dân

Thành phố phê duyệt chương trình phát triển nông nghiệp đô thị đến năm

2020, tầm nhìn năm 2025 và kế hoạch của Ủy ban nhân dân Thành phố thực

hiện chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới theo Quyết định số

70

800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; các quận, huyện khẩn trương tổ chức

nghiên cứu xây dựng các loại quy hoạch: Khoanh vùng xác định các vùng sản

xuất nông nghiệp ổn định đến năm 2020, 2025; quy hoạch chi tiết các vùng

sản xuất giống cây, giống con, các loại cây trồng, vật nuôi, vùng sản xuất

nông sản hàng hóa. Tổ chức công khai, phổ biến các quy hoạch được phê

duyệt và quản lý chặt chẽ các vùng nông nghiệp ổn định.

Thứ hai, phát triển không gian cụ thể từng tiểu ngành trong ngành

nông nghiệp c a Thành phố:

Hoàn thành việc nghiên cứu, xây dựng và trình UBND Thành phố phê

duyệt các quy hoạch chuyên ngành. ây dựng, triển khai chương trình phát

triển các loại nông sản chủ yếu đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020. Tổ

chức điều tra, xây dựng (và cập nhật hàng năm) cơ sở dữ liệu về các loại đất

nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, sản xuất muối, ñất nông nghiệp khác; tình

hình sản xuất các loại nông sản chủ yếu, cơ sở dịch vụ về giống, phân bón, vật

tư nông nghiệp, kinh doanh, sơ chế, tiêu thụ, xuất nhập khẩu nông sản trên địa

bàn Thành phố. Cụ thể trên các lĩnh vực sau:

Một à, đối với lĩnh vực trồng trọt:

Tăng cường công tác khuyến nông, tư vấn và hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu

nông nghiệp ứng dụng giống mới, chuyển giao kỹ thuật về giống cho người

nông dân, tập trung các giải pháp để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản

phẩm, sản xuất nông sản sạch, phòng chống sinh vật hại cây trồng, đảm bảo

chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng và chế biến, đảm bảo vệ sinh môi

trường. Cụ thể là tiếp tục tập trung triển khai hoàn thành mục tiêu các chương

trình rau an toàn, hoa kiểng, trồng cỏ cao sản giai đoạn 2011 - 2015 và các

năm tiếp theo; khuyến khích s dụng giống lai F1, đảm bảo cung cấp giống

chất lượng tốt, hạn chế dần phương thức tự để giống trong nuôi trồng; xây

dựng và huấn luyện chuyển giao cho người nông dân các cẩm nang về kỹ

71

thuật trồng, chăm sóc, thâm canh cho từng loại cây chuyển đổi chủ lực (các

loại rau an toàn, hoa - cây kiểng…); cẩm nang kỹ thuật về thiết bị, công nghệ

mới như màng phủ, nhà lưới, giống mới, hệ thống tưới tiết kiệm nước, tiêu

thoát nước, thu hoạch, bảo quản. Cùng với đó phải xây dựng mô hình và xác

định các công thức luân canh, xen canh hợp lý cho từng vùng sinh thái, đảm

bảo việc tổ chức sản xuất hiệu quả, đáp ứng và phục vụ tốt cho nhu cầu đa

dạng của người tiêu dùng Thành phố và khu vực lân cận. Kết hợp với việc

thực hiện có hiệu quả dự án nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh sản

phẩm trồng trọt và khí sinh học (QSEAP - BPD, vốn vay Ngân hàng Châu Á -

ADB), dự án hỗ trợ của tổ chức SIDA (Canada), các mô hình sản xuất nông

sản sạch (rau, cây ăn trái). Hỗ trợ nông dân, các tổ hợp tác, hợp tác xã nông

nghiệp thực hiện có hiệu quả các biện pháp giảm tổn thất sau thu hoạch.

Hai à, đối với lĩnh vực chăn nuôi:

Cần đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng năng suất cao, chi phí thấp, phát

triển bền vững. Phát triển chăn nuôi gia súc (bò sữa, heo), các vật nuôi khác

phù hợp với nông nghiệp đô thị theo hướng chuyên nghiệp, CNH, HĐH, cải

tiến chuồng trại chăn nuôi đảm bảo thông thoáng và có công trình x lý chất

thải (biogas). Theo đó Cần phải cải tiến phương thức chăn nuôi theo hướng

tăng quy mô đàn trên từng hộ nuôi gia súc, xây dựng cơ cấu đàn hợp lý, thực

hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng tiên tiến, có hiệu quả, tăng năng suất

lao động, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Tăng cường và thực hiện tốt, có hiệu quả công tác quản lý, kiểm định

giống; ứng dụng các phương pháp, công nghệ mới để đánh giá tiềm năng di

truyền. Chủ động tổ chức và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống dịch, bảo

vệ thú y, đảm bảo an toàn dịch tễ cho đàn gia súc, gia cầm và các loại vật nuôi

khác; xây dựng vùng và cơ sở an toàn dịch bệnh; giảm chi phí điều trị, thuốc

thú y để góp phần giảm giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

72

Cùng với đó, thực hiện tốt các biện pháp kiểm soát chặt chẽ theo chủ

trương không khuyến khích chăn nuôi gia cầm của Thành phố, thực hiện

chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm, áp dụng quy trình thực hành sản xuất

tốt (GAP) trong chăn nuôi, tạo sản phẩm chăn nuôi an toàn. Tiếp tục chiến

lược phát triển chăn nuôi, bình ổn giá, dự án nâng cao chất lượng và năng lực

cạnh tranh (LIFSAP, vốn vay ngân hàng thế giới - WB), dự án đầu tư trại thực

nghiệm nuôi bò sữa công nghệ cao hợp tác với Israel.

a à, đối với lĩnh vực thủy sản:

Tập trung thực hiện chương trình kinh tế biển và chiến lược biển theo

chương trình hành động của Thành ủy và kế hoạch của UBND Thành phố,

công tác phòng, chống dịch bệnh tôm, kiểm dịch giống thủy sản. Theo đó tiếp

tục phát triển nghề nuôi tôm theo quy hoạch và hướng phát triển bền vững,

năng suất cao quy trình GAP (tôm sú, tôm thẻ chân trắng); một số đối tượng

thủy sản nước lợ, nước mặn tại huyện Nhà Bè, Cần Giờ, nuôi thủy sản nước

ngọt ở khu vực kênh đông Củ Chi, vùng ven sông Sài Gòn (Củ Chi, Hóc

Môn, Thủ Đức), vùng ven sông Đồng Nai (Quận 9), Bình Chánh. Đồng thời

phát triển nghề nuôi và dịch vụ cá cảnh; các hình thức nuôi thủy sản công

nghiệp, bán công nghiệp theo mô hình GAP. Đầu tư tái tạo và phát triển

nguồn lợi thủy sản vùng ven biển Cần Giờ; tiếp tục thực hiện nghiêm công tác

kiểm tra tạp chất trong tôm nguyên liệu, kiểm tra dư lượng thuốc kháng sinh

và vệ sinh an toàn thực phẩm các loại thủy hải sản theo chỉ đạo của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn và UBND Thành phố.

Bốn à, đối với lĩnh vực lâm nghiệp:

Đẩy mạnh triển khai thực hiện đề án quản lý, bảo vệ, phát triển các loại

rừng và mảng xanh Thành phố đến năm 2020, đảm bảo mục tiêu tăng độ che

phủ rừng (19,1%), độ che phủ rừng và cây xanh hết năm 2025 (trên 40%); xây

dựng kế hoạch và thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phòng, chống cháy

73

rừng theo các phương án cụ thể, thực hiện có hiệu quả chương trình chuyển

hóa rừng, trồng rừng mới; công tác phòng, chống sâu bệnh hại cây rừng; công

tác quản lý giống cây lâm nghiệp, hướng dẫn nông dân s dụng các loại giống

cây lâm nghiệp có nguồn gốc rõ ràng để trồng rừng.

Năm à, đối với lĩnh vực sản xuất muối:

Tổ chức quản lý và thực hiện quy hoạch các vùng sản xuất muối ở

huyện Cần Giờ theo hướng ổn định, duy trì ở mức khoảng 1.000 ha; đẩy

nhanh tiến độ đầu tư dự án cơ sở hạ tầng vùng muối xã Lý Nhơn, mở rộng sản

xuất muối theo phương pháp kết tinh trên vải bạt.

3.2.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Cơ chế, chính sách có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển

chung, tác động trực tiếp đến sự phát triển của mỗi ngành, thông qua đó ảnh

hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong đó có ngành nông

nghiệp. Thông qua cơ chế chính sách, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh

tế thể hiện rõ được mục tiêu quản lý đã đề ra. Vì vậy, phải xây dựng cơ chế

chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế thuộc các ngành

nông nghiệp phát triển, từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng, hiệu quả.

Thực tế trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hệ

thống cơ chế chính sách nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở Thành phố vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của địa

phương, trong đó một số cơ chế chính sách phát triển lĩnh vực nông nghiệp,

nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, việc hướng dẫn triển khai có nhiều điểm

chưa sát với thực tế cuộc sống của người nông dân. Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ Thành phố lần thứ I (Nhiệm kỳ 2010 - 2015) đã chỉ rõ: “Các chính ách,

giải pháp hỗ trợ chuyển ịch cơ cấu kinh tế đã ban hành chưa đ mạnh, chưa

74

tạo được ự đột phá” [16, tr.30]. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần

thứ (Nhiệm kỳ 2010 - 2015) cũng kết luận: “ ãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 6

chương trình đột phá có một ố mặt triển khai chậm, có chương trình hiệu

quản chưa cao,..” [17, tr 23]. Vì vậy, để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành nông nghiệp ở Thành phố một cách đúng hướng, trong thời gian tới

cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một à, cơ chế, chính ách về đất đai

Cần tập trung và tích tụ đất đai có quy mô đủ lớn, ổn định lâu dài, phù

hợp với các mô hình sản xuất trên địa bàn, hướng tới một nền nông nghiệp

hiện đại, triển khai các quy hoạch đất đai theo vùng. Nghiên cứu cơ chế,

chính sách quy hoạch và quản lý quy hoạch đất, bảo đảm có chiến lược phát

triển theo vùng, khắc phục nhược điểm không gian kinh tế bị không gian hành

chính chia cắt như hiện nay. Liên kết giữa các lĩnh vực khác như công nghiệp,

dịch vụ với nông nghiệp và giữa các lĩnh vực nông nghiệp trong một vùng,

cần tiếp tục hoàn thiện chính sách mới về đất đai, theo đó:

Ban hành cơ chế, chính sách làm rõ cơ sở pháp lý về hộ nông dân, nhất

là hộ kinh tế nông trại quy mô lớn và quyền, lợi ích trong s dụng đất, thu hồi

đất, s dụng quyền s dụng đất trong thừa kế, vay vốn tín dụng, tham gia liên

doanh, liên kết, đóng góp cổ phần. Quy hoạch đất đai nông nghiệp ổn định,

đồng bộ với quy hoạch dịch vụ, tổ chức khoa học và công nghệ, thương mại,

công nghiệp chế biến... thành những cụm công - nông nghiệp.

Quy hoạch quy mô lớn/hộ sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ tích tụ và tập

trung ruộng đất để phát triển mô hình nông nghiệp hiện đại, tập trung quy mô

ớn. Chính quyền Thành phố cần đẩy mạnh quy hoạch vùng nông nghiệp hiện

đại riêng biệt, hình thành kinh tế nông trại có quy mô lớn, sản xuất và quản lý,

thương mại hoàn toàn theo tiêu chuẩn hiện đại. Có các biện pháp thúc đẩy

mạnh nông dân tự nguyện “dồn điền, đổi th a”, tích tụ và tập trung ruộng đất

75

thành “cánh đồng mẫu lớn”. Thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất cùng với

phát triển liên kết ngang giữa nông dân cũng như giữa nông dân và doanh

nghiệp. Cần có quy định công nhận đơn vị sản xuất hộ nông dân, kinh tế nông

trại, định nghĩa rõ và xác định ai là nông dân thì sẽ giao đất, không là nông

dân thì Nhà nước có thể thu hồi và đền bù theo quy định của Luật Đất đai để

giao đất cho nông dân là người trực tiếp và liên tục làm nông nghiệp, hạn chế

việc có quyền s dụng đất nhưng không trực tiếp sản xuất mà “phát canh thu

tô”, kể cả ở một số công ty nông, lâm nghiệp hiện nay.

Hai à, cơ chế, chính ách về thị trường

Thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa luôn là vấn đề nóng bỏng, bức

xúc vì nó liên quan trực tiếp đến thu nhập và đời sống của người dân, các tổ

chức sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế - chính trị - xã

hội. Thị trường nông sản Thành phố hiện nay vẫn là thị trường của nền kinh tế

sản xuất hàng hoá nhỏ với cơ cấu phân tán, sự cạnh tranh trên thị trường còn

thấp nên tình trạng “ứ đọng” sản phẩm không tiêu thụ được là hiện tượng khá

phổ biến, vai trò của thương mại chưa thật sự thúc đẩy sản xuất. Điều này đã

có những tác động tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp, gây lãng phí về lao động

và tài nguyên, có ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động; đồng thời cũng làm

cho người nông dân kém phấn khởi, không có hướng đầu tư, có hiện tượng tự

cân đối, quay trở lại tự cấp tự cấp, khép kín trong hộ. Do vậy, cần tập trung

giải quyết tốt một số vấn đề về thị trường đó là:

Nâng cao năng lực dự báo về thị trường nông sản, trình độ tiếp thị

trường (Marketing), giá cả đối với từng loại nông sản, để định hướng cho sản

xuất cả về qui mô, chất lượng và tốc độ phát triển cho từng loại nông sản.

Phát triển mạnh thị trường ở Thành phố, mà trước hết cần mở rộng và

phát triển giao lưu hàng hoá cũng như các hoạt động thương mại ở nông thôn,

nhằm từng bước xác lập mối liên kết và quan hệ lâu dài giữa sản xuất và nhà

76

phân phối thông qua các chợ các hoạt động kinh tế chợ nhất là các chợ Đầu

mối, kiểm soát an toàn thực phẩm đến hệ thống bán lẻ, các c a hàng tiện ích,

đưa sản phẩm nông nghiệp tiếp cận người tiêu dùng thuận lợi, qua đó cung

cấp cho nông dân các cơ hội đầu tư để họ nhìn thấy và lựa chọn việc sản xuất

và cung ứng các loại hàng hoá, dịch vụ có lợi, trên cơ sở đó mà làm biến đổi

dần cơ cấu sản xuất theo hướng tăng dần các loại nông sản, dịch vụ nông

nghiệp có giá trị kinh tế cao cho thị trường trong và ngoài Thành phố.

Nâng cao vai trò quản lý của chính quyền các cấp của Thành phố thông

qua việc xây dựng và thiết lập các chính sách kinh tế, khuyến khích sản xuất

nông sản phẩm như chính sách kinh tế nông thôn, chính sách bảo trợ, hỗ trợ

quảng bá xúc tiến thương mại, các dự án và mô hình khuyến nông, hỗ trợ

hoạt động cho Trung tâm Công nghệ sinh học, Trung tâm Giao dịch và triển

lãm nông sản, Khu nông nghiệp công nghệ cao... giúp người dân tiếp cận kỹ

thuật - công nghệ để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi trọng điểm, có

hiệu quả cao, sản xuất theo quy trình đáp ứng điều kiện ưu đãi tại các hiệp

định thương mại (FTA, WTO, TPP...) và các yêu cầu xuất - nhập khẩu.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên

dùng hàng Việt Nam” xây dựng hình ảnh nông sản thông qua chất lượng, đảm

bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và phù hợp với thị yếu người tiêu dùng đối với

thị trường nội địa; xây dựng thương hiệu cho nông sản, nghiên cứu và vượt

qua các rào cản của các nước đối với thị trường xuất khẩu. Hình thành thị

trường nông thôn toàn diện, tạo điều kiện cho quá trình chuyển hoá các yếu tố

sản xuất và đầu tư như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tư liệu

sản xuất… Đây cũng chính là điều kiện hết sức quan trọng cho chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đạt được hiệu quả.

Ba à, cơ chế, chính ách đầu tư cho nông nghiệp và hỗ trợ nông ân

Thành phố cần hình thành các quỹ đầu tư cho nông nghiệp theo các

77

định hướng ưu tiên trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, các quỹ này có thể

tài trợ các dự án, tín dụng đầu tư cho ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp và

cả hộ nông dân trên cơ sở quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp được phê duyệt. Quỹ đầu tư nông nghiệp cần tách bạch giữa quản lý

nhà nước và quản lý vốn đầu tư; cơ chế đầu tư được đấu thầu theo cơ chế thị

trường và có tính chất khuyến khích các hộ nông dân, doanh nghiệp tuân thủ

các điều kiện sản xuất nông nghiệp hiện đại, theo quy hoạch ưu tiên của

Thành phố. Kêu gọi các nhà tài trợ quốc tế tài trợ vốn cho các quỹ này.

Đầu tư của doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố cần được khuyến

khích trên cơ sở phát triển chuỗi nông nghiệp hiện đại, gắn với nông dân, hình

thành liên kết chuỗi giữa nông dân và doanh nghiệp, xây dựng quản trị bền

vững toàn chuỗi về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, logistics, thương

hiệu... đồng thời có chính sách cho vay vốn hình thành các nông trại hiện đại,

trên cơ sở thế chấp đất đai và máy móc, trang thiết bị, hợp đồng của nông trại.

Nghiên cứu thay đổi căn bản cách cho vay hiện nay, từ cho vay theo hình thức

thế chấp tài sản với sổ đỏ quyền s dụng đất là chủ yếu, sang cho vay theo

hình thức thế chấp trang thiết bị sản xuất và dự án sản xuất, kinh doanh.

Thay thế dần cơ chế hỗ trợ gián tiếp thông qua doanh nghiệp hiện nay

sang chính sách hỗ trợ trực tiếp người nông dân theo một tỷ lệ phần trăm trên

tổng chi phí đầu vào mỗi hộ nông dân đã bỏ ra. Cùng với đó thực hiện tốt việc

bảo hiểm trong nông nghiệp theo Quyết định số 315/QĐ-TTg, ngày 01 tháng

3 năm 2011, của Thủ tướng Chính phủ; tổng kết, rút kinh nghiệm để triển

khai chính thức bảo hiểm nông nghiệp trên địa bàn Thành phố nhất là đối với

các đối tượng, các ngành hàng, đối với các hộ nông dân nghèo, cận nghèo.

ốn à, cơ chế, chính ách phát triển chuỗi ngành hàng nông ản .

Tiếp tục củng cố các chuỗi ngành hàng đã hình thành; xây dựng các

chuỗi rau, thịt, thủy sản an toàn, hình thành mối liên kết giữa người sản xuất

78

với các kênh tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo sản phẩm được tiêu thụ kịp thời và

quyền lợi của các bên liên quan. Tập trung các giải pháp để cải thiện, nâng

cao hiệu quả các kênh phân phối đã hình thành, tăng sản lượng rau quả các

hợp tác xã, các tổ hợp tác vào các siêu thị Metro Cash and Carry, Co.op

Mart… và tiếp tục mở rộng các sản phẩm khác; từng bước nâng tỉ lệ nông sản

tiêu thụ qua các doanh nghiệp, hợp tác xã, siêu thị; giảm dần hình thức người

nông dân phân phối trực tiếp cho hộ tiêu dùng. Nhân rộng phương thức sản

xuất, tiêu thụ theo các đơn đặt hàng từ nhu cầu thị trường, tạo nguồn thực

phẩm cho thành phố, tham gia vào bình ổn giá cả.

ây dựng cơ chế, chính sách khép kín từ sản xuất đến thị trường cho

từng nhóm ngành hàng, gắn với từng vùng, từng thị trường và đối tượng sản

xuất để hỗ trợ phát triển các chuỗi giá trị đa dạng (chuỗi sản phẩm bình dân;

chuỗi sản phẩm cao cấp; chuỗi sản phẩm sinh thái; chuỗi sản phẩm thương

mại công bằng; chuỗi sản phẩm gắn với chỉ dẫn địa lý và đặc sản; chuỗi gắn

với phát triển bền vững...). Hình thành chuỗi ngành hàng chiến lược có dư địa

thị trường, có liên kết quốc tế mạnh, có thương hiệu toàn cầu, có sự tác động

và ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội.

Có chính sách nhằm minh bạch hóa, kiểm soát giao dịch toàn bộ chất

lượng, giá cả các chuỗi vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón, thức ăn giá

súc, thương mại hóa nông sản trong nước và nội địa hóa nông sản nhập khẩu,

làm cơ sở điều phối giá trị gia tăng, thuế, quản trị chất lượng theo truy suất

nguồn gốc, bảo hiểm nông nghiệp. Đồng thời đổi mới cơ chế điều hành xuất

nhập khẩu, theo hướng minh bạch, bình đẳng, có quản trị tốt theo chuỗi ngành

hàng nông sản, xác định rõ vai trò của chính quyền các cấp và các tổ chức

nghề nghiệp của doanh nghiệp, của nông dân. Kiện toàn các hiệp hội ngành

hàng của Thành phố thực sự có vai trò quan trọng đối với nông dân.

Năm à, đẩy mạnh cải cách hành chính.

79

Cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho mọi thành phần

kinh tế tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Tuyên

truyền, phổ biến cho người nông dân, đặc biệt là các doanh nghiệp, có nhận

thức sâu sắc, đầy đủ về các cơ hội, thách thức hiện nay. Hỗ trợ, tư vấn về

pháp lý, thủ tục hành chính giúp nông dân và các chủ thể sản xuất kinh doanh

có điều kiện thuận lợi trong hoạt động nông nghiệp. Đồng thời, rà soát, hoàn

thiện hệ thống quản lý nhà nước trong nông nghiệp từ Thành phố đến cơ sở

theo hướng phân công, phân cấp phù hợp và phân định rõ chức năng, nhiệm

vụ, trách nhiệm người đứng đầu. Bảo đảm minh bạch hóa, kiểm soát chặt chẽ

chất lượng và giá cả các vật tư nông nghiệp đầu vào, quản trị dịch bệnh và vệ

sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường theo dõi giám sát, đặc biệt tập trung vào

các khâu trọng yếu là quản lý đất đai, thị trường tài chính, kho bạc ngân hàng,

chống thất thu thuế và cấp phép đầu tư, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu…

nhằm giải quyết nhanh chóng, hiệu quả công việc và chống lãng phí. Đẩy

mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với hoàn thiện quy chế quản

lý Nhà nước ở cấp cơ sở.

3.2.3. Tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Đây là một trong những giải pháp quan trọng để tăng nguồn vốn đầu tư

cho nền kinh tế nói chung và cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp nói riêng; bởi trên cơ sở nguồn vốn hiện có tạo ra điều kiện thực tế để

có thể thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế. Vì vậy, thành phố Hồ Chí

Minh cần phải tận dụng khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi, các nguồn

vốn dư thừa chưa s dụng đến. Mặt khác, cần điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư,

tập trung vốn đầu tư cho các dự án khả thi có hiệu quả kinh tế xã hội cao đặc

biệt ưu tiên cho nông nghiệp - nông thôn.

Để thực hiện giải pháp này, cần làm tốt các nội dung sau:

80

Thứ nhất, vốn ngân ách:

Sở Tài chính phối hợp Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn nghiên cứu, đề xuất UBND Thành phố bổ sung và tăng kinh

phí phân cấp đầu tư cho các quận, huyện theo chủ trương của Thành ủy

(Chương trình hành động số 43-CTr/TU ngày 20 tháng 10 năm 2008 của

Thành ủy) và Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2009

của Ủy ban nhân dân Thành phố về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trước

mắt là bổ sung vốn, đảm bảo tiến độ đầu tư xã trong chương trình thí điểm

xây dựng nông thôn mới và 22 xã bổ sung trong giai đoạn 2011 - 2015, các

công trình đê bao phòng chống triều cường, lũ lụt, ngập úng kết hợp với giao

thông nông thôn.

Tập trung và đầu tư đúng mức để hoàn thành chương trình, dự án cung

cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2011 - 2015, chương trình vệ sinh môi

trường nông thôn đến năm 2015. Đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu,

chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, khuyến

nông; giống mới, giống gốc; đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp,

nông thôn (thủy lợi, trại sản xuất giống…); các hoạt động và dịch vụ hỗ trợ

như kiểm dịch, phòng chống dịch bệnh, thú y, bảo vệ thực vật, bảo vệ nguồn

lợi thủy sản; quản lý, bảo vệ rừng; quản lý khai thác, bảo vệ công trình thủy

lợi; xúc tiến thương mại, tiêu thụ nông sản…

Hỗ trợ, bù lãi suất tín dụng cho các đối tượng tham gia chương trình

khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh.

Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất thành phố bổ sung, điều chỉnh cơ chế,

chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển

nông nghiệp đô thị; chính sách phát triển cơ giới hóa, điều chỉnh chính sách

khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ khoa học, ứng dụng công nghệ

81

sinh học trong nông nghiệp.

Thứ hai, vốn tín ụng, vốn khác:

Tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương về tín

dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhất là Quyết

định số 497/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nông dân mua máy

móc, thiết bị, hỗ trợ xây dựng và s a chữa nhà ở. Tiếp tục triển khai các chủ

trương, chính sách của thành phố về quản lý, khuyến khích việc vay vốn, trả

nợ vay, hỗ trợ lãi vay của các dự án thuộc chương trình kích cầu thông qua

đầu tư; về tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ khuyến khích chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp; Nghị định số 1/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng năm

2010 của Chính phủ chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông

nghiệp, nông thôn.

Phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng triển khai hình thức vay

vốn có thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay; vay bằng tín chấp, vay

theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát việc

vay, cấp vốn đầu tư để đảm bảo nguồn vốn được s dụng có hiệu quả, đúng

mục tiêu và thanh toán đúng kỳ hạn.

Phối hợp với các Sở, ngành, đoàn thể và địa phương để huy động, s

dụng các nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ óa đói giảm nghèo, giải

quyết việc làm, quỹ của các Hội, đoàn thể; vốn đóng góp của doanh nghiệp, tổ

chức, cá nhân để hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất và chuyển đổi cây trồng,

vật nuôi, chuyển đất trồng lúa sang trồng các loại cây khác, nuôi thủy sản, xây

dựng các công trình cấp nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường nông thôn. Tạo

điều kiện để khuyến khích các doanh nghiệp bán trả góp vật tư, thiết bị nông

nghiệp cho nông dân, ứng vốn cho dân vay sản xuất nguyên liệu.

82

3.2.4. Đẩy nhanh xây dựng kết cấu hạ tầng, ứng dụng khoa học công

nghệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ

Chí Minh

Kết cấu hạ tầng luôn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-

xã hội. ây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng (cả hạ tầng kinh tế kỹ thuật và hạ

tầng xã hội) góp phần để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp và nông

thôn trong đó có việc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp trên địa bàn. Do vậy, cần tạo lập và phát triển nhanh chóng kết cấu hạ

tầng những vùng động lực có tiềm năng kinh tế hàng hóa lớn; đồng thời với

việc ưu tiên cho những vùng kinh tế kém phát triển, vùng có điều kiện sản

xuất và đời sống khó khăn.

Trên thực tế thì đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình

trọng điểm, các công trình kết cấu hạ tầng kết nối với các địa phương trong

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thực hiện chậm, thiếu đồng bộ; sự gia tăng

dân số cơ học và phương tiện giao thông quá nhanh dẫn đến sự quá tải kết cấu

hạ tầng vốn đã yếu kém, gây ra tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô

nhiễm môi trường... Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ

(Nhiệm kỳ 2016 – 2020) đã nêu: “kết cấu hạ tầng chưa đáp nhu cầu phát

triển kinh tế - văn hóa, cải thiện ân inh, bảo vệ môi trường” [17, tr 180].

Cùng với đó, hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật của Nhà nước và

Thành phố đã thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước và Chính phủ đến sự

phát triển khoa học công nghệ, đã áp dụng cơ chế khoán (theo Thông tư 93),

tăng mức chi cho các công trình nghiên cứu khoa học (Thông tư 44), đầu tư

cho hạ tầng nông nghiệp – nông thôn (Quyết định 07/2007/NQ-HĐND của

Hội đồng Nhân dân Thành phố). Tuy nhiên, các cơ chế chính sách vẫn chưa

hoàn thiện, vẫn còn nhiều bất cập và là rào cản rất lớn cho sự sáng tạo, nghiên

cứu và ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học vào thực tiễn, cụ thể

83

như các hợp đồng nghiên cứu cũng chỉ đánh giá các vấn đề liên quan về khoa

học mà thiếu sự ràng buộc về khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu. Các đề

tài nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhỏ lẻ, tự phát từ các

viện, trường và khả năng ứng dụng không cao. Vì vậy, đẩy nhanh xây dựng

cơ sở hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ là giải pháp vừa mang tính cấp

bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở Thành phố. Để giải pháp này trở thành hiện thực cần thực hiện

tốt các nội dung, biện pháp cụ thể sau đây:

Thứ nhất, về xây kết cấu hạ tầng

Chính quyền Thành phố các cấp hỗ trợ các chủ đầu tư tập trung chỉ đạo,

tháo gỡ khó khăn, nhất là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để đẩy

nhanh tiến độ đầu tư các công trình, dự án trọng điểm như Khu Nông nghiệp

công nghệ cao, Trung tâm Giao dịch, Triển lãm nông sản Thành phố, Trung

tâm Công nghệ sinh học, Trung tâm Thủy sản Thành phố; các công trình

phòng, chống lụt, bão, triều cường, xâm nhập mặn kết hợp giao thông nông

thôn…

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, triển khai các giải

pháp để nâng cao hiệu quả khai thác cơ sở vật chất đã được đầu tư của Trung

tâm Quản lý, Kiểm định giống cây trồng, vật nuôi; Trạm Kiểm dịch thực vật

nội địa, Trạm kiểm dịch Thủy sản Cần Giờ và các công trình phục vụ chuyển

dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi…

Tập trung thực hiện các chương trình giống cây, giống con, rau an toàn,

hoa cây kiểng. Tập trung cho 58 xã ngoại thành, các xã thuộc chương trình xây

dựng nông thôn mới, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt).

Phối hợp, hỗ trợ các quận, huyện đầu tư đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng nông

nghiệp và nông thôn theo tiêu chí quốc gia về nông thôn mới ban hành theo

Quyết định số 491/QĐ-TTg, trọng tâm là công trình thủy lợi, điện, giao thông

84

nông thôn, các cơ sở bảo quản và chế biến sau thu hoạch; kiên cố hóa hệ

thống thủy lợi nội đồng tại các xã, phát triển nông thôn mới toàn diện.

Nghiên cứu và thực hiện các biện pháp ứng phó, thích nghi với biến đổi

khí hậu; nước biển dâng, ngập úng, triều cường, cải tạo, bồi dưỡng đất sản

xuất; hạn chế ảnh hưởng xâm nhập mặn; chống xói lở. Các Sở ngành (nhất là

Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính) và các quận, huyện thực hiện có hiệu

quả chủ trương của Thành ủy và UBND Thành phố về tăng vốn ngân sách

đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, tăng vốn phân cấp cho ngoại thành theo

Chương trình hành động số 43-CTr/TU ngày 20 tháng 10 năm 2008 của

Thành ủy, Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 22 tháng 01 năm 2009 của

UBND Thành phố. Phối hợp với Trung tâm chống ngập, các Sở, ngành và

quận, huyện tổ chức thực hiện quy hoạch thủy lợi chống ngập theo quyết định

phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 1547/QĐ-TTg ngày 28

tháng 10 năm 2008); xây dựng và triển khai chương trình bảo vệ, cải thiện

môi trường tại các vùng sản xuất nông nghiệp.

Thứ hai, về ứng dụng khoa học công nghệ

Trước áp lực gia tăng dân số thế giới và dưới tác động mạnh mẽ của sự

biến đổi khí hậu toàn cầu, nông nghiệp thế giới đang hướng tới việc ứng dụng

công nghệ cao trong để giải quyết vấn đề an ninh lương thực. Đối với nước ta

nói chung, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, sự phát triển mạnh mẽ của

ngành công nghiệp với việc xây dựng các nhà máy và theo đó là chất thải

công nghiệp, đã làm huỷ hoại môi trường và đa dạng sinh học, diện tích đất

nông nghiệp bị thu hẹp, đòi hỏi phải nhanh chóng ứng dụng những công nghệ

mới, giống mới để đạt năng suất cây trồng cao, chất lượng tốt. Đặc biệt, trong

điều kiện hiện nay, nền nông nghiệp đang chủ yếu dựa vào phương thức sản

xuất truyền thống với năng suất và chất lượng thấp, khó có thể phù hợp với

nền kinh tế thị trường trong sự cạnh tranh gay gắt của xu thế hội nhập kinh tế

85

quốc tế và yêu cầu đi tắt - đón đầu, đảm bảo cân bằng sinh thái, bảo vệ môi

trường trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, ứng dụng khoa học công

nghệ (nhất là công nghệ cao) là một tất yếu lịch s mang tính thời đại và nông

nghiệp truyền thống cần thiết phải được thay thế bằng phương thức sản xuất

mới có hiệu quả kinh tế cao với năng suất cao, chất lượng tốt. Có thể nói đây

là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp ở Thành phố.

Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong cả nước về nghiên

cứu đầu tư xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao, trước khi Luật công

nghệ cao ra đời. Trước sức ép về đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, diện tích đất

sản xuất nông nghiệp đang thu hẹp dần hàng năm thì việc ứng dụng khoa học

công nghệ, nhất là công nghệ cao trong nông nghiệp là cần thiết. Khu nông

nghiệp công nghệ cao sẽ đóng vai trò đầu tầu để dẫn dắt nông nghiệp Thành

phố. Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang triển khai xây dựng Khu Nông

nghiệp Công nghệ cao đa ngành kinh tế kỹ thuật gồm: Trồng trọt, chăn nuôi

và thủy sản. Hiện nay, Thành phố đã xây dựng xong Khu nông nghiệp công

nghệ cao về trồng trọt với diện tích 88,17 ha tại huyện Củ Chi. Dự án xây

dựng Khu Nông nghiệp Công nghệ cao về thủy sản đang được triển khai tại

huyện Cần Giờ với quy mô diện tích 89 ha, còn dự án Khu Nông nghiệp Công

nghệ cao về chăn nuôi sẽ được thực hiện tại huyện Bình Chánh với diện tích

100 ha. Vì vậy cần phải:

Đổi mới cơ chế, chính sách nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động khoa học và công nghệ, đồng

thời thu hút, phát huy năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ nông

nghiệp, chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ của sản xuất nông nghiệp,

nông dân, nông thôn.

Gắn kết khoa học và công nghệ với thực tiễn và nhu cầu phát triển kinh tế

86

- xã hội Thành phố thông qua các chương trình nghiên cứu, chuyển giao phục

vụ các ngành kinh tế - xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, an ninh lương

thực, môi trường, y tế; đồng thời phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ

trọng điểm như công nghệ sinh học nông nghiệp; đồng thời phát triển các lĩnh

vực khoa học công nghệ trọng điểm như công nghệ sinh học nông nghiệp.

Tiếp tục phát triển mối liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và

nhà doanh nghiệp) mang tính chiều sâu, có chất lượng trên tinh thần hài hòa

lợi ích trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhằm sản xuất,

chế biến những sản phẩm có lợi thế của địa phương, giúp đầu ra nông sản

thuận lợi, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ nhằm hỗ trợ nông dân,

các doanh nghiệp nông nghiệp đẩy nhanh quá trình hình thành sản phẩm

thương mại trong ngành nông nghiệp như: Hỗ trợ công nghệ chế biến bảo

quản nông sản, các sản phẩm thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy

sản…từ đó ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào nông nghiệp nông thôn.

Tập trung nghiên cứu triển khai ứng dụng, thúc đẩy hỗ trợ nghiên cứu

khoa học và đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông

nghiệp và nông thôn, áp dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp. Nâng

cao ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp gắn trực tiếp với nông

thôn; nông dân. Triển khai nghiên cứu ứng dụng và gắn kết với các chương

trình triển khai của Thành phố như chương trình nông thôn mới; hoa lan cây

kiểng; bò sữa; cá kiểng; rau sạch...

Phổ cập kiến thức và áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ làm kinh

tế hộ gia đình cho nông dân, chuyển giao công nghệ, truyền đạt kinh nghiệm

cho nông dân nhằm nâng cao việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu, tận dụng

khai thác các kinh nghiệm trong nông nghiệp cho nông dân nhằm nâng cao

vai trò của kinh tế nông nghiệp, cải thiện và phát triển kinh tế nông thôn và

87

qui mô hộ gia đình.

*

* *

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là khâu then chốt trong

phát kinh tế nông nghiệp của Thành phố, là một vấn đề cần thiết cấp bách có

ý nghĩa quan trọng to lớn cả về lí luận và thực tiễn trong quá trình phát triển

kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế ngày càng hoàn thiện và hợp lí hơn

trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực của Thành phố, đất nước và

quốc tế. Những quan điểm và giải pháp trên là một thể thống nhất, cần phải

nhận thức và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện và liên tục. Có

như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí

Minh mới thực sự có hiệu quả để khai thác tốt nhất các nguồn lực, góp phần

hoàn thành mục tiêu công CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn.

88

KẾT LUẬN

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hiện nay là yêu cầu

khách quan, khâu then chốt, phù hợp với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn trong đó có thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, đẩy

nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là vấn đề có ý nghĩa hết

sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cả trước mắt và lâu dài

ở thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước.

Trong thời gian qua, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thành tựu đó

đã tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của vùng theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời góp phần nâng cao đời sống

cho nhân dân nói chung, cư dân địa bàn nông nghiệp nói riêng ở Thành phố

Hồ Chí Minh. Mặc dù đã có sự chuyển dịch tương đối rõ nét, song nhìn

chung những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng vốn có

của Thành phố, vẫn còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế đó do nhiều

nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu vẫn là nguyên nhân

chủ quan.

Để thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở

thành phố Hồ Chí Minh cần quán triệt các quan điểm: Chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành trong nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh phải nằm trong

tổng thể của chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế; Bảo đảm hài hòa giữa phát triển

nhanh, hiệu quả, bền vững và mở rộng hợp tác trong chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành trong nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh; Gắn kết chặt chẽ giữa

phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với

đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: ây dựng, hoàn thiện và thực hiện có

hiệu quả các quy hoạch, kế hoạch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

89

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh; Hoàn thiện cơ chế, chính sách chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh; Tăng cường thu

hút và s dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh; ây dựng, hoàn thiện kết cấu

hạ tầng, ứng dụng công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh.

90

DANH MỤC T I LI U THAM KHẢ

1. Trần uân Châu (2002), ẩy nhanh sự phát triển nền nông nghiệp hàng hoá

ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

2. Chương trình hành động số 43 - CTr/TU ngày 20/10/2008 của Thành ủy

và Quyết định Số 10/2009/QĐ - UBND ngày 22/01/2009 của UBND

thành phố Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông

thôn Thành phố đến năm 2020.

3. Chi cục Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh (2015), Tình hình

thực hiện chính ách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô

thị đến 12/6/2015.

4. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2009), Niên giám thống kê năm

2008, Nxb Thanh Niên.

5. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2010), Niên giám thống kê năm

2009, Nxb Thanh Niên.

6. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2011), Niên giám thống kê năm

2010, Nxb Thanh Niên.

7. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2012), Niên giám thống kê năm

2011, Nxb Thanh Niên.

8. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2013), Niên giám thống kê năm

2012, Nxb Thanh Niên.

9. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2014), Niên giám thống kê năm

2013, Nxb Thanh Niên.

10. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2013), áo cáo tình hình kinh tế

xã hội Thành phố Hồ Chí Minh tháng 2 và 2 tháng năm 20 , Thành

phố Hồ Chí Minh..

11. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2014), áo cáo tình hình kinh tế

91

xã hội thành phố Hồ Chí Minh tháng 2 và 2 tháng năm 20 4, thành

phố Hồ Chí Minh.

12. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2015), áo cáo tình hình kinh tế

xã hội thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 và 12 tháng năm 20 5, thành

phố Hồ Chí Minh.

13. Nguyễn Chí Cường (2005), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện

C Chi trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ

kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

14. Lương Minh Cừ - Đào Duy Huấn - Phạm Đức Hải (2012), Chuyển ịch

cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trường kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và

Việt Nam theo hướng cạnh tranh đến năm 2020, Nxb Tổng hợp thành

phố Hồ Chí Minh.

15. Phạm Ngọc Dũng (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở

vùng đồng b ng Sông Hồng, thực trạng về giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh

tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (2010), Văn kiện ại hội ại biểu lần

thứ IX.

17. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện ại hội ại biểu lần

thứ X.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm an

Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện ại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. ảng Cộng sản Việt Nam (20 ), Văn kiện ại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Được Mùa: Chọn lựa chiến lược để phát triển nông nghiệp và nông thôn

Việt Nam (tháng 3 năm 2012), Quỹ châu Á - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

92

22. Trần Ngọc Hiên (1998), "Đặc điểm kinh tế - xã hội nông thôn nước ta trên

con đường phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí

Nghiên cứu ý uận, số 4.

23. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biện soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn

khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình kinh tế

Chính trị Mác- ênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Phạm Hữu Hùng (2012), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công

nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực miền núi Thanh Hoá hiện nay”, luận

văn thạc sỹ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.

25. Phạm Hùng (2002), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn miền ông

Nam Bộ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

26. Phan Ngọc Mai Hương (2006), “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh

Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Kinh

tế và Dự báo số 5.

27. Hỏi đáp và hướng dẫn xây dựng nông thôn mới các chính sách quốc gia về

nông nghiệp, nông dân, nông thôn và việc làm (2012), Nxb Lao động.

28. Nguyễn Ngọc - Đỗ Đức Định, Nông nghiệp, nông ân, nông thôn ở Việt

Nam và một ố nước (2000), Nxb Văn hóa Dân tộc

29. Nguyễn Ngọc - Đỗ Đức Định, Một ố vấn đề nông nghiệp, nông ân,

nông thôn ở các nước và Việt Nam (2000), Nxb Thế giới.

30. Vũ Văn Phức (2012), Xây ựng nông thôn mới những vấn đề ý uận và

thực ti n, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật.

31. Trần Anh Phương (2009), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng và

những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, số 1.

32. C.Mác (1995), Tư bản, quyển 4, phần 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia,

93

Hà Nội.

34. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

35. Bùi Tất Thắng (2009), Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt

Nam - Thông tin chung”, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2009.

36. Hà Tiến Thăng (200 ), Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát

triển nông nghiệp hàng hoá ở tỉnh Thái ình, Luận văn thạc sĩ kinh tế,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

37. Hải Thu (2004), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở

Gia ai”, Tạp chí Ngoại thương, số 34.

38. Trần Văn Trường (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở

huyện Hoà Vang - Thành phố à Nẵng, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

39. Viết Ly (2010), Phát triển chăn nuôi bền vững trong quá trình chuyển

ịch cơ cấu nông nghiệp, Nxb Nông ngiệp.

40. Đặng Kim Sơn, Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng giá trị

gia tăng cao (2012), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật

41. Phạm Anh Tuấn (2004) Chuyển ịch cơ cấu ao động trong nông nghiệp,

nông thôn và tác động c a nó đến c ng cố an ninh, quốc ph ng nước ta

hiện nay, Luận án tiến sĩ - Học viện chính trị quân sự, Hà Nội.

42. UBND thành phố Hồ Chí Minh (2013), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội

năm 2012.

43. Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2002), Hướng chuyển ịch cơ cấu

kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.

94

PHỤ LỤC 1

Cơ cấu GDP của thành phố Hồ Chí Minh theo giá thực tế (tỷ đồng)

Tổng số

Dịch vụ

Nông - lâm - thủy sản

Công nghiệp - xây dựng

Năm

iá trị

iá trị

%

iá trị

%

iá trị

%

2000

75.863

1.487

1,96

34.446

45,41

39.929

52,63

2001

84.852

1.595

1,90

39.190

46,20

44.067

51,90

2002

96.403

1.632

1,70

45.060

46,70

49.711

51,60

2003

113.326

1.821

1,60

55.668

49,10

55.837

49,30

2004

136.488

1.987

1,50

66.152

48,40

68.349

50,10

2005

165.297

2.121

1,28

79.538

48,12

83.638

50,60

2006

190.561

2.442

1,20

90.324

47,50

97.795

51,30

2007

228.795

3.057

1,30

106.052

46,40

119.686

52,30

2008

287.513

4.111

1,40

126.900

44,10

156.502

54,40

2009

337.040

4.358

1,20

150.020

45,30

182.662

53,50

2010

422.270

5.098

1,21

191.246

45,29

225.926

53,50

2011

512.721

6.306

1,23

228.332

44,53

278.080

54,24

2012

591.863

6.824

1,15

268.329

45,34

316.710

53,51

2013

764.561

7.769

1,02

310.641

40,63

446.151

58,35

2014

852.523

8.778

1.03

508.174

59,60

335.571

39,36

Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh

95

PHỤ LỤC 2

Giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản theo giá thực tế (triệu đồng)

Nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thủy sản

Năm

Tổng

iá trị

%

iá trị %

iá trị

%

2000

2.584.390

2.149.052 83,16

106.433

4,12

328.905 12,73

2001

2.790.359

2.169.226 77,74

93.363

3,35

527.770 18,91

2002

2.915.483

2.218.442 76,09

110.218

3,78

586.823 20,13

2003

3.238.830

2.292.819 70,79

96.452

2,98

849.559 26,23

2004

3.459.066

2.365.222 68,38

84.704

2,45

1.009.140 29,17

2005

3.825.121

2.583.264 67,53

95.200

2,49

1.146.657 29,98

2006

4.688.110

3.142.957 67,04

59.120

1,26

1.486.033 31,70

2007

5.729.159

4.006.774 69,94

69.532

1,21

1.652.853 28,85

2008

7.270.530

5.624.720 77,36

70.982

0,98

1.574.828 21,66

2009

8.184.115

6.372.773 77,87

80.131

0,98

1.731.211 21,15

2010

9.009.551

6.989.367 77,58

116.429

1,29

1.903.755 21,13

2011

11.113.219

8.801.492 79,20

119.918

1,08

2.191.809 19,72

2012

13.365.122 10.144.654 75,90

115.473

0,86

3.104.995 23,23

2013

14.633.523 10.742.155 73,41

132.073

0,90

3.759.295 25,69

2014

16.505.300 11.728.500 71,06

173.900

1,05

4.602.900 27,89

Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh

96

PHỤ LỤC 3

Giá trị sản xuất nông nghiệp thuần theo giá thực tế (triệu đồng)

Trồng trọt

Chăn nuôi

Dịch vụ NN và các hoạt động khác

Năm

Tổng

iá trị %

iá trị %

iá trị

%

2000

2.149.052 1.014.475 47,2

892.286

41,5

242.291

11,3

2001

2.169.226 1.003.443 46,3

916.783

42,3

249.000

11,5

2002

2.218.442

962.518

43,4

995.940

44,9

259.984

11,7

2003

2.292.819

940.618

41,0 1.085.547 47,3

266.654

11,6

2004

2.365.224

996.437

42,1 1.093.545 46,2

275.242

11,6

2005

2.583.264 1.017.770 39,4 1.283.238 49,7

282.256

10,9

2006

3.142.957 1.355.426 43,1 1.477.031 47,0

310.500

9,9

2007

4.006.774 1.550.137 38,7 2.090.111 52,2

366.526

9,1

2008

5.624.720 1.804.906 32,1 3.373.010 60,0

446.804

7,9

2009

6.372.773 2.082.898 32,7 3.748.551 58,8

541.324

8,5

2010

6.989.367 2.402.740 34,4 3.977.859 56,9

608.768

8,7

2011

8.670.977 2.751.779 31,7 5.184.660 59,8

734.538

8,5

2012 10.144.654 3.712.344 36,6 5.530.323 54,5

901.987

8,9

2013 10.742.155 4.096.510 38,1 5.718.536 53,2

927.109

8,6

2014 11.728.500 4.092.500 34,9 6.534.700 55,7

1.101.300

9,4

Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh

97

PHỤ LỤC 4

Giá trị sản xuất và cơ cấu theo giá so sánh năm 2010 ngành thủy sản (triệu đồng)

Khai thác

Nuôi trồng

Hoạt động thủy sản khác

Năm

Tổng số

iá trị %

iá trị %

iá trị %

2000

804.168

324.809

40,4

450.900

56,1

28.459

3,5

2001

1.107.037

331.126

29,9

747.855

67,6

28.056

2,5

2002

1.314.320

266.145

20,2 1.018.624 77,5

29.551

2,3

2003

1.664.947

267.979

16,1 1.344.774 80,8

52.194

3,1

2004

1.692.937

242.510

14,3 1.376.930 81,3

73.497

4,3

2005

1.743.273

228.245

13,1 1.438.332 82,5

76.696

4,4

2006

1.970.783

223.010

11,3 1.634.831 83,0

112.942

5,7

2007

2.050.994

189.708

9,2

1.740.011 84,8

121.275

5,9

2008

1.798.995

167.990

9,3

1.522.490 84,6

108.515

6,0

2009

1.683.115

287.514

17,1 1.288.923 76,6

106.678

6,3

2010

1.793.809

277.835

15,5 1.410.680 78,6

105.294

5,9

2011

1.929.042

308.098

16,0 1.511.536 78,4

109.408

5,7

2012

2.134.773

377.039

17,7 1.687.111 79,0

70.623

3,3

2013

2.339.912

428.369

18,3 1.839.911 78,6

71.632

3,1

2014

2.569.500

615.200

23,9 1.923.100 74,8

31.200

1,2

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh

98

PHỤ LỤC 5

Giá trị sản xuất và cơ cấu theo giá thực tế các nhóm cây trong ngành trồng trọt của (triệu đồng)

Lương thực có hạt Rau, đậu, cây cảnh

Năm

Tổng

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1.014.475 1.003.443 962.518 940.618 996.437 1.017.770 1.355.426 1.550.137 1.804.906 2.082.898 2.402.740 2.751.779 3.712.344 4.096.510

Cây hàng năm % iá trị 80,5 816.955 78,5 787.903 76,0 731.558 74,7 702.889 75,0 747.701 73,4 747.069 74,4 1.007.815 66,4 1.028.517 68,7 1.240.635 71,1 1.480.205 71,9 1.728.027 74,0 2.035.644 72,5 2.690.484 74,7 3.059.161

iá trị 454.853 410.156 349.232 331.540 345.380 322.246 281.973 354.594 445.186 478.912 480.095 492.988 472.620 464.535

% 44,8 40,9 36,3 35,2 34,7 31,7 20,8 22,9 24,7 23,0 20,0 17,9 12,7 11,3

iá trị 268.342 278.258 270.176 273.377 271.284 283.403 438.547 467.651 548.349 715.558 908.566 1.130.575 1.578.109 1.853.397

Cây lâu năm % 19,5 21,5 24,0 25,3 25,0 26,6 25,6 33,6 31,3 28,9 28,1 26,0 27,5 25,3

iá trị 197.520 215.540 230.960 237.729 248.736 270.701 347.611 521.620 564.271 602.693 674.713 716.135 1.021.860 1.037.349

% 26,5 27,7 28,1 29,1 27,2 27,8 32,4 30,2 30,4 34,4 37,8 41,1 42,5 45,2

Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh

99

PHỤ LỤC 6

Giá trị sản xuất và cơ cấu theo giá thực tế của các vật nuôi chính (triệu đồng)

Tổng nhóm

Trâu bò

Lợn

ia cầm

Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Giá trị 892.286 916.783 995.940 1.085.547 1.093.545 1.283.238 1.477.031 2.090.111 3.373.010 3.748.551 3.977.859 5.184.660 5.530.323 5.718.536

% 97,5 97,3 97,2 95,9 96,1 95,6 94,1 98,1 97,1 97,8 98,9 98,2 99,2 99,2

iá trị 190.419 230.305 254.087 372.439 478.321 560.403 655.630 1.080.495 1.450.546 1.515.197 1.601.435 2.008.420 2.306.133 2.758.103

% 21,3 25,1 25,5 34,3 43,7 43,7 44,4 51,7 43,0 40,4 40,3 38,7 41,7 48,2

iá trị 419.802 404.984 455.956 433.605 496.496 605.239 731.736 965.920 1.774.080 2.099.736 2.300.801 3.019.716 3.109.349 2.832.113

% 47,0 44,2 45,8 39,9 45,4 47,2 49,5 46,2 52,6 56,0 57,8 58,2 56,2 49,5

iá trị 259.618 256.896 258.096 234.525 75.539 61.276 3.177 3.557 52.000 52.880 31.197 62.235 72.748 85.032

% 29,1 28,0 25,9 21,6 6,9 4,8 0,2 0,2 1,5 1,4 0,8 1,2 1,3 1,5

Nguồn: Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh

100

PHỤ LỤC 7

Giá trị sản xuất và cơ cấu theo giá thực tế của ngành lâm nghiệp (triệu đồng)

trồng & chăm sóc rừng

dịch vụ nghiệp

Khai thác gỗ và các lâm sản khác

Năm

Tổng số

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

106.433 93.363 110.218 96.452 84.704 95.200 59.120 69.532 70.982 80.131 116.429 125.549 115.473 132.073

iá trị 719 942 713 13.187 1.764 11.896 8.460 5.893 3.627 2.913 3.988 7.020 16.955 14.429

% 0,7 1,0 0,6 13,7 12,7 12,5 14,3 8,5 5,1 3,6 3,4 5,6 14,7 10,9

iá trị 103.544 89.805 107.135 72.654 63.471 73.379 41.160 57.271 57.703 66.694 101.917 96.154 86.984 107.102

% 97,3 96,2 97,2 75,3 74,9 77,1 69,6 82,4 81,3 83,2 87,5 76,6 75,3 81,1

iá trị 2.170 2.616 2.370 10.611 10.469 9.925 9.500 6.368 9.652 10.524 10.524 22.375 11.534 10.542

% 2,0 2,8 2,2 11,0 12,4 10,4 16,1 9,2 13,6 13,1 9,0 17,8 10,0 8,0

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh