ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

CHU THỊ THANH HƢƠNG Kü N¡NG KHëI KIÖN Vô ¸N D¢N Sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHU THỊ THANH HƢƠNG

Kü N¡NG KHëI KIÖN Vô ¸N D¢N Sù

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số

: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích

dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét

để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Chu Thị Thanh Hƣơng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG KHỞI KIỆN 8

VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án 8

dân sự

1.1.1. Khái niệm kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự 8

1.1.2. Đặc điểm của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự 13

1.1.3. Ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự 16

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kỹ năng khởi kiện 19

vụ án dân sự

1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự 19

1.2.2. Năng lực tham gia tố tụng của người khởi kiện vụ án dân sự 20

1.2.3. Sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 21

đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự

1.2.4. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức của Tòa án, Viện kiểm sát 22

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC 26

HIỆN KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

2.1. Thực trạng pháp luật bảo đảm thực hiện kỹ năng khởi kiện 26

2.1.1. Chủ thể khởi kiện 26

2.1.2. Đối tượng và phạm vi khởi kiện 38

2.1.3. Các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự 42

2.1.4. Hình thức và thủ tục khởi kiện 54

2.2. Kết quả đạt được từ thực trạng thực hiện kỹ năng khởi kiện 56

vụ án dân sự qua số liệu thống kê của ngành Tòa án

2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong thực hiện kỹ năng 58

khởi kiện vụ án dân sự

2.3.1. Hạn chế trong thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi kiện vụ án 58

dân sự

2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực 67

hiện kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG KHỞI 72

KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

3.1. Yêu cầu nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự 72

3.1.1. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và trách nhiệm 72

của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

mỗi người

3.1.2. Khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về khởi 73

kiện vụ án dân sự để nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

3.1.3. Khắc phục những hạn chế phát sinh trong quá trình áp dụng 76

các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự

3.2. Giải pháp nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự 78

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự 78

3.2.2. Các biện pháp nâng cao năng lực tham gia tố tụng của người 81

khởi kiện vụ án dân sự

3.2.3. Đảm bảo sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp 82

pháp của đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự

3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án, 84

Viện kiểm sát

3.2.5. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ 87

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN

90

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

TTDS : Tố tụng dân sự

VADS : Vụ án dân sự

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, bên cạnh những thành tựu

đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh cần giải quyết.

Một trong những vấn đề đó là các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động, hôn nhân và gia đình, cùng các tranh chấp liên quan các lĩnh vực này

ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp. Để giải quyết các mâu

thuẫn, tranh chấp liên quan đến lĩnh vực trên, các chủ thể của quan hệ pháp

luật dân sự đã phải lựa chọn giải pháp khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền

yêu cầu giải quyết các tranh chấp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Khởi kiện vụ án dân sự (VADS) được pháp luật ghi nhận là hoạt động

tố tụng đầu tiên bảo vệ quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp

pháp bị xâm phạm và các chủ thể được pháp luật trao quyền. Đồng thời, đây

là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự (TTDS).

Ở Việt Nam, vấn đề khởi kiện VADS được quy định trong các văn

bản pháp luật từ khá sớm và ngày càng được hoàn thiện. Ngày 25/11/2015,

Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành kể

từ ngày 01/07/2016. Với BLTTDS năm 2015, nội dung khởi kiện VADS đã

được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn, khắc phục được một số hạn chế của các

văn bản pháp luật trước đó. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 mới chỉ giải quyết

được phần nào vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về

khởi kiện VADS, vẫn còn có những quy định chưa minh bạch dẫn đến có

nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất.

Việc tuân thủ các điều kiện khởi kiện để các tranh chấp dân sự có thể

được thụ lý phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng của chủ thể khởi kiện. Chỉ có

xuất phát từ việc thực hiện tốt, đầy đủ các quy định của pháp luật về khởi kiện

thì tranh chấp đó mới được thụ lý và giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

1

Ngược lại, khi khởi kiện không thực hiện đúng các quy định thì bước cần thiết

tiếp theo chính là thụ lý đơn khởi kiện khó có thể được chấp nhận. Do vậy, kỹ

năng khởi kiện luôn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết

tranh chấp dân sự.

Quyền khởi kiện là vấn đề luôn được các nhà các nhà nghiên cứu về tố

tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới và Việt Nam quan tâm.

Hiện nay các quy định trong pháp luật TTDS của Việt Nam về cơ bản đã phần

nào thể hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, trên phương diện lý luận thì chưa có

công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học đề cập đến kỹ

năng khởi kiện. Thực tiễn thực hiện một số quy định của pháp luật TTDS hiện

hành chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc bảo đảm kỹ năng khởi kiện

VADS có hiệu quả. Bên cạnh đó, thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng phản ánh

trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện của đương sự đã không được tôn

trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm

quyền khởi kiện được quy định trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính

cụ thể, dẫn tới các Tòa án còn lúng túng, các chủ thể khởi kiện chưa thực hiện

được tốt kỹ năng khởi kiện của mình. Đây chính là một trong những nguyên

nhân làm cho kỹ năng khởi kiện VADS không được bảo đảm thực hiện triệt

để trên thực tế. Do vậy, cần nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về kỹ

năng khởi kiện VADS trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất

những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm

thực thi kỹ năng khởi kiện VADS trong thực tiễn.

Từ những thực trạng đó, việc nghiên cứu đề tài: "Kỹ năng khởi kiện

vụ án dân sự" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến nội dung khởi kiện VADS đã có một số luận văn, đề tài

khoa học, tiểu luận, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc

lồng ghép vào những nội dung liên quan.

2

Trước khi BLTTDS năm 2015 và Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015

có hiệu lực thi hành, có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu khoa học

tiêu biểu liên quan đến đề tài sau:

- Nhóm các luận văn đã bảo vệ có liên quan đến đề tài: Luận văn thạc

sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012, của Nguyễn

Thị Hương với nội dung "Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố

tụng dân sự năm 2004"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, năm 2012, của Trần Đức Thành về "Quyền khởi kiện và đảm bảo quyền

khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa

Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012, của Nguyễn Thu Hiền với nội dung

"Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,

năm 2014, của Trần Thị Lượt với nội dung "Khởi kiện vụ án dân sự". Kết quả

nghiên cứu của các đề tài này đã đề cập đến chế định khởi kiện và thụ lý VADS,

cũng như quyền khởi kiện của đương sự trong TTDS Việt Nam trên cả phương

diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung các công trình nghiên cứu chủ

yếu tiếp cận theo các quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm

2011. Mặt khác, toàn bộ nội dung về kỹ năng khởi kiện đều không được đề

cập đến ở các công trình nghiên cứu này. Mặc dù vậy, tổng quan của các công

trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo hữu hiệu cho tác giả trong việc vận

dụng cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật khi so sánh chế định khởi

kiện và thụ lý vụ án của BLTTDS năm 2015 so với pháp luật TTDS trước đây.

- Nhóm các bài báo có liên quan đến đề tài: bài "Những quy định mới

về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Bộ luật Tố tụng dân sự", của Nguyễn Thị Hương, Tạp chí Tòa án, số 19/2011;

bài "Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khởi kiện, khởi tố, đơn yêu cầu

trong giải quyết vụ án dân sự", của Duy Kiên, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2012;

bài "Các điều kiện cần và đủ khi khởi kiện vụ án dân sự", của Tưởng Duy

3

Lượng, Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xuân/2012; bài "Đảm bảo quyền khởi kiện

vụ án dân sự theo quy định của Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự",

của Đặng Thanh Hoa, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2012; bài "Một số ý

kiến về thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2004", của Lê Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2012;

bài "Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng", của Đặng Hoàng

Quân, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 23/2013; bài "Giải quyết việc

nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện trong vụ án dân sự nhiều nguyên đơn có

đúng yêu cầu", của Bùi Thị Tố Nga, Tạp chí TAND, số 01/2014... Các bài tạp

chí này, tuy chưa đề cập sâu đến nội dung kỹ năng khởi kiện VADS nhưng đã

giúp tác giả hiểu rõ hơn các nội dung liên quan đến khởi kiện VADS, là tài

liệu tham khảo giúp cho nội dung luận văn thêm phong phú, sinh động.

Sau khi BLTTDS năm 2015 và BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành,

có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu liên quan

đến đề tài sau:

- Nhóm các luận văn đã bảo vệ có liên quan đến đề tài: Luận văn thạc

sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Phan Thanh Dương: "Khởi

kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015"; Luận văn

thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Lê Thị Thu Thủy: "Quyền

khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân

sự 2015"; Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Nguyễn

Thị Hương, bảo vệ luận án năm 2019: "Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn"...

- Nhóm các bài báo có liên quan đến đề tài: bài "Khởi kiện vụ án dân

sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015", của Bùi Thị Huyền, Tạp

chí Kiểm sát, số 12/2017; bài "Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự",

của Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí Kiểm sát số 13/2017... và nhiều công trình

khoa học, bài báo đăng tải tạp chí khác.

4

Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, tác giả tổng hợp và kế thừa để

nghiên cứu một cách có hệ thống, từ đó phân tích và đưa ra những nhận định,

đánh giá của mình về các quy định pháp luật về khởi kiện VADS ở nước ta

hiện nay, để từ đó là một trong những phương thức thực hiện tốt kỹ năng khởi

kiện VADS của chủ thể khởi kiện.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài với mục đích đưa ra các luận cứ khoa học và

thực tiễn nhằm nhận diện tốt được kỹ năng khởi kiện VADS của người khởi

kiện, đảm bảo thực hiện có hiệu quả trên thực tế việc khởi kiện VADS, đồng

thời đưa ra các phân tích, kiến nghị, nhằm hoàn thiện các quy định của pháp

luật dân sự hiện hành về khởi kiện các VADS và đề xuất giải pháp nhằm nâng

cao kỹ năng khởi kiện VADS của chủ thể.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn phải hoàn

thành một số nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu và phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về

kỹ năng khởi kiện các VADS;

- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật về

khởi kiện VADS tiếp cận dưới góc độ của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành;

- Trình bày rõ thực trạng pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về khởi

kiện VADS và thực tiễn thực hiện nhằm đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn

diện, chỉ ra những điểm bất cập, chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật;

từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện các quy định của BLTTDS

năm 2015 về khởi kiện các VADS.

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:

- Về nội dung, kỹ năng khởi kiện VADS là một vấn đề nghiên cứu tương

đối rộng, được hiểu dưới nhiều phương diện, góc độ khác nhau cả về lý luận và

thực tiễn. Đó là các kỹ năng về pháp lý, lý luận, về thực tiễn, về xã hội, về tâm

5

sinh lý... Trong phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên

cứu về kỹ năng pháp lý trong khởi kiện VADS. Thực trạng pháp luật TTDS Việt

Nam hiện hành về khởi kiện VADS và thực tiễn thực hiện, định hướng hoàn

thiện pháp luật và kiến nghị nâng cao kỹ năng khởi kiện VADS theo nghĩa hẹp.

Về chủ thể, chủ thể của kỹ năng khởi kiện VADS bao gồm rất nhiều

chủ thể khác nhau: người khởi kiện (cá nhân, cơ quan, tổ chức...), người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, chủ thể khởi kiện vì lợi ích

chung, nội dung luận văn tác giả chỉ tập trung phân tích về kỹ năng khởi kiện

của chủ thể khởi kiện là các đương sự. Việc đề cập đến chủ thể khởi kiện là

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với vai trò là người hỗ

trợ giúp đương sự thực hiện kỹ năng khởi kiện.

- Về thời gian, không gian, đề tài đánh giá, phân tích thực tiễn thực

hiện kỹ năng khởi kiện của đương sự thông qua các bản án, quyết định trong

thời gian từ năm 2017 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình

nghiên cứu luận văn đã dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt

Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và

vì nhân dân. Đề tài được hoàn thành với việc sử dụng tổng hợp các phương

pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích,

tổng hợp, logic, lịch sử, so sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng

phương pháp khai thác, sử dụng các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được tác giả sử

dụng để phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận, việc áp dụng các quy định

pháp luật về khởi kiện VADS trên thực tiễn. Phương pháp này sẽ được sử

dụng ở Chương 1 và Chương 2 của đề tài.

Phương pháp lịch sử: Để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển các

quy định của pháp luật về khởi kiện VADS. Phương pháp này được sử dụng

tại Chương 1 của đề tài.

6

Phương pháp so sánh: Dùng để so sánh quy định của BLDS năm 2015

về khởi kiện VADS với quy định của các văn bản ban hành trước đó, các

văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Phương pháp này được tác giả sử

dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.

Phương pháp kế thừa: tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc những kết

quả nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến khởi kiện VADS của các tác

giả trước, sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của đề tài.

Phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn: dựa trên các

quy định của pháp luật, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện

VADS tìm ra những điểm bất cập, hạn chế, thiếu sót. Phương pháp này được

tác giả sử dụng chủ yếu ở Chương 2 của đề tài.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp

giải thích, bình luận để hoàn thành đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả đạt được của luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những

vấn đề lý luận về kỹ năng khởi kiện các VADS tại Việt Nam. Bên cạnh đó,

luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ luật sư, các

nhà khoa học, giảng viên, sinh viên nghiên cứu về luật học mà còn có ý nghĩa

đối với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, áp dụng pháp luật liên quan đến

kỹ năng khởi kiện các VADS.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự.

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi

kiện vụ án dân sự.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án

dân sự.

7

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án

dân sự

1.1.1. Khái niệm kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

Theo L.Đ.Lêvitôv, nhà tâm lý học Liên Xô cho rằng: "Kỹ năng là sự

thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn

bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những

điều kiện nhất định" [21, tr. 45 . Theo ông, người có kỹ năng hành động là

người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm

thực hiện hành động có kết quả. Ông còn nói thêm, con người có kỹ năng

không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải vận dụng vào thực tế.

Theo tác giả Vũ Dũng thì: "Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả

tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện

những nhiệm vụ tương ứng" [7, tr. 36]. Mỗi kỹ năng bao gồm một hệ thống

thao tác trí tuệ và thực hành, thực hiện trọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm

bảo đạt được mục đích đặt ra cho hoạt động. Điều đáng chú ý là sự thực hiện

một kỹ năng luôn luôn được kiểm tra bằng ý thức, nghĩa là khi thực hiện bất

kỳ một kỹ năng nào đều nhằm vào một mục đích nhất định.

Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu "kỹ năng" một cách khái quát nhất:

Kỹ năng là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó bằng

cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để

đạt được mục đích đề ra.

Nói đến kỹ năng là nói đến việc thực hiện thuần thục, thành thạo một

hoạt động, hành động nào đó. Như vậy, chủ thể khởi kiện VADS cần có kiến

thức, kinh nghiệm, năng lực để mục đích của mình đạt được hiệu quả cao nhất.

8

Để nhận diện được đặc thù của kỹ năng khởi kiện trong VADS, cần

làm sáng tỏ các nội hàm khái niệm có liên quan như: quyền khởi kiện, VADS.

Trong xã hội ngày nay, khởi kiện là một trong những quyền của con người

được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân

quyền năm 1948 của Liên hợp quốc ghi nhận về quyền khởi kiện một cách

gián tiếp như sau: "Mọi người đều có quyền được các Tòa án quốc gia có

thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại hành vi vi phạm

các quyền cơ bản của họ mà đã được Hiến pháp hay luật pháp quy định". Với

quy định này, có thể thấy rằng quyền khởi kiện được thừa nhận là một trong

những quyền cơ bản của con người và được pháp luật của mỗi quốc gia thừa

nhận và bảo vệ. Tuyên ngôn nhân quyền này được coi là cơ sở pháp lý để các

quốc gia thành viên cam kết, tuân thủ trong quá trình bảo đảm quyền tự do cơ

bản của con người, và được mỗi quốc gia thành viên nội luật hóa trong hệ

thống pháp luật của mình. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động về

quyền con người năm 1993 đã khẳng định:

Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể

chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải

luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh

khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, (thì) các quốc gia, không

phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, có nghĩa vụ đề cao và

bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản [45].

Qua tuyên bố này, có thể khẳng định rằng quyền khởi kiện cũng như

các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền khởi kiện được bảo vệ và thực thi hữu hiệu

trên thực tế, chính là một đòi hỏi đối với mỗi quốc gia thành viên.

Ở Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Con người là trung tâm của chiến

lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với

quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân" [12],

khẳng định này đã xác định cụ thể nhân dân là chủ thể của quyền và bảo đảm

9

quyền con người là mục tiêu của nước XHCN. Cương lĩnh bổ sung, phát triển

năm 2011 xác định:

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền

công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền

và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của

công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền

làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính

trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện [14, tr. 85].

Chính vì vậy, quyền khởi kiện luôn được Nhà nước bảo đảm và được

quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý.

Hiến pháp năm 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,

văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp

và pháp Luật" [24]. Theo đó, mọi công dân đều được quyền hành xử hoặc yêu

cầu người khác hành xử đối với mình theo đúng quy định pháp luật. Trong

quan hệ pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể là mối quan hệ ngang

hàng, bình đẳng tuyệt đối về mặt ý chí giữa các bên. Tuy nhiên, để đảm bảo

cho các quyền và lợi ích của các chủ thể này có thể được thực hiện một cách

có hiệu quả trên thực tế, thì Nhà nước cần phải trao cho họ phương tiện pháp

lý hữu hiệu để khi có tranh chấp phát sinh, họ có thể sử dụng phương tiện đó

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền khởi kiện chính là

quyền được pháp luật thừa nhận và bảo vệ để công dân, cơ quan, tổ chức có

thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tối đa.

Trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu

theo nghĩa rộng. Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước

cho phép công dân được yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc

yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân

10

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Sắc lệnh số 51/SL ngày

17/4/1946 về xác định thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án sơ cấp, Sắc

lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng... Thuật ngữ

vụ kiện dân sự được sử dụng để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu Tòa

án giải quyết. Đến Hiến pháp năm 1959, thuật ngữ vụ kiện được thay thế bằng

thuật ngữ vụ án. Tiếp đó, theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các

VADS năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh

Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động thì khi các đương sự có nhu cầu

đưa các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động để giải quyết theo thủ tục tố tụng thì

không có sự phân biệt giữa thủ tục giải quyết các quan hệ pháp luật có tranh

chấp và các quan hệ pháp luật không tranh chấp và chúng đều được gọi bằng

cách gọi chung là vụ án. Năm 2004, BLTTDS ra đời, khái niệm VADS đã có

sự thay đổi. Theo BLTTDS năm 2004 và sau này là sự kế thừa của BLTTDS

năm 2015, nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức có tranh chấp về quyền và nghĩa

vụ thì gọi là án dân sự; nếu cơ quan, tổ chức không có tranh chấp về quyền và

nghĩa vụ nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự thì là

việc dân sự. VADS bao gồm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh thương mại và lao động. Như vậy, khởi kiện lúc này được hiểu

theo nghĩa hẹp hơn. Theo đó, khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Tòa án

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong VADS.

Giáo trình Luật tố tụng dân sự năm 2018 của Trường Đại học Luật Hà

Nội khẳng định: "Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng

của các chủ thể. Nó cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác

bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án" [46, tr. 241]. Đồng

tình với điều này, TS. Phan Chí Hiếu cho rằng:

Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân,

pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định

của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi

11

ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác

đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm [17, tr. 246-247].

Theo đó, khởi kiện VADS là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân

và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, là cơ sở làm phát

sinh quan hệ pháp luật TTDS.

Quyền khởi kiện được xem xét theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, cụ thể:

Theo nghĩa hẹp, quyền khởi kiện VADS được hiểu là quyền của các

chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh

thương mại, lao động hoặc các chủ thể được pháp luật trao quyền trong việc

yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Quyền khởi kiện của các chủ thể trên được hiểu đơn giản là việc một

chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ

thể khác thông qua hành vi đầu tiên là nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để khởi

động cho quá trình tố tụng tại Tòa án. Việc nộp đơn khởi kiện chính là hành

vi thực tế thực thi quyền khởi kiện của người khởi kiện làm trực tiếp phát sinh

quan hệ TTDS tại Tòa án. Quyền khởi kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc

xác định tư cách của các đương sự trong VADS đã được người khởi kiện thực

hiện việc khởi kiện tại Tòa án.

Theo nghĩa rộng, quyền khởi kiện VADS được hiểu không những là

quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,

lao động hoặc các chủ thể được pháp luật trao quyền trong việc yêu cầu Tòa

án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hoặc xâm phạm, mà còn bao gồm cả

quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xuất phát từ quyền bình đẳng giữa

các đương sự tham gia TTDS, từ địa vị pháp lý của các chủ thể trong pháp

luật nội dung, pháp luật TTDS đã xây dựng nguyên tắc bình đẳng về quyền và

nghĩa vụ trong TTDS. Theo đó, chủ thể đều bình đẳng thực hiện quyền tố

tụng trước tòa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

12

Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề cập nội dung khởi kiện theo

nghĩa hẹp, tức là khởi kiện của nguyên đơn. Theo đó, khởi kiện VADS là việc

cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định pháp luật

TTDS yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình

hay của người khác, bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường

hợp lợi ích đó đang bị xâm phạm hay có tranh chấp với các chủ thể khác. Từ

việc thực hiện khởi kiện này, kỹ năng khởi kiện VADS được xác định là:

Kỹ năng khởi kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các

chủ thể khác có thẩm quyền vận dụng quy định của pháp luật về khởi kiện

VADS và những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để yêu cầu Tòa án có

thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo

vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị

xâm phạm hay có tranh chấp với các chủ thể khác.

1.1.2. Đặc điểm của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

Khởi kiện VADS được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ

các phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các

tranh chấp và mâu thuẫn lợi ích. Việc hiểu và thực hiện được các kỹ năng

khởi kiện VADS sẽ là phương thức để việc khởi kiện có thể đạt được kết quả

tốt như mong muốn. Kỹ năng khởi kiện VADS có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện kỹ năng khởi kiện: chủ thể thực hiện kỹ

năng khởi kiện VADS bao gồm rất nhiều chủ thể khác nhau: người khởi kiện

(cá nhân, cơ quan, tổ chức...), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự, chủ thể khởi kiện vì lợi ích chung. Đối tượng này có trình độ nhận thức pháp

luật khác nhau, tâm sinh lý, tư tưởng, tình cảm, khả năng tài chính khác nhau...

nhưng họ đều có một đặc điểm chung là muốn được bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp chính đáng của mình. Do vậy, họ sẵn sàng vận dụng mọi năng lực của

mình về kiến thức, vốn sống, trình độ chuyên môn, khả năng tài chính để thực

hiện kỹ năng khởi kiện VADS nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

13

Chủ thể thực hiện kỹ năng khởi kiện VADS là những chủ thể có

quyền lợi bị xâm phạm hoặc được pháp luật trao quyền thực hiện. Xuất phát

từ nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng của các chủ thể khi tham gia quan hệ

pháp luật dân sự nên khi một trong các bên của quan hệ xâm phạm đến quyền

lợi ích của các chủ thể khác thì pháp luật trao cho họ các quyền năng để tự

bảo vệ quyền lợi của mình. Theo đó, chủ thể khởi kiện cần phải có năng lực

pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS. Đối với người khởi kiện là cá nhân

thì năng lực hành vi TTDS của họ được xác định trên cơ sở khả năng nhận thức

và khả năng điều khiển hành vi của mình trong việc tham gia vào quan hệ pháp

luật TTDS. Tuy nhiên, đối với những đương sự có đủ năng lực hành vi TTDS

để thực hiện quyền khởi kiện vì những lý do khác nhau mà họ không thể thực

hiện được quyền khởi kiện thì pháp luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận

lợi cho họ thực hiện quyền này thông qua cơ chế ủy quyền cho người khác đại

diện thay mặt mình khởi kiện trước Tòa án. Việc cho phép đương sự thực

hiện quyền khởi kiện thông qua đại diện theo ủy quyền là phương tiện pháp lý

cần thiết tạo điều kiện cho đương sự bằng nhiều hình thức khác nhau có thể

thực hiện quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình. Bên cạnh việc pháp luật quy định những chủ thể có

quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích trực tiếp của mình thì còn có những

chủ thể được Nhà nước trao quyền để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của các

chủ thể khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Như vậy, chủ thể thực hiện

khởi kiện VADS có thể là một trong các bên tham gia quan hệ pháp luật dân

sự hoặc các chủ thể khác có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, đối tượng kỹ năng khởi kiện hướng tới: kỹ năng khởi kiện

VADS là một chuỗi các nhận thức, hành vi để tiến hành khởi kiện VADS. Kỹ

năng khởi kiện VADS giúp thực hiện hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan,

tổ chức khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS yêu cầu Tòa án bảo vệ các

quyền và lợi ích dân sự của mình hoặc của người khác khi xảy ra xâm phạm

14

hoặc tranh chấp. Khởi kiện chính là một cơ chế đảm bảo được Nhà nước xây

dựng dựa trên mối quan hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng. Tất cả các quan

hệ về tài sản hoặc nhân thân là đối tượng được pháp luật dân sự bảo vệ, khi bị

xâm phạm, thì các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đều có quyền khởi kiện

đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ ba, về nội dung và phạm vi khởi kiện: kỹ năng khởi kiện VADS

thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể, ý chí này được thể hiện trong nhận thức

và hành động, không bị ai ép buộc, các đương sự có quyền tự do định đoạt

trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt quá trình tố

tụng giải quyết VADS, quyền tự định đoạt của đương sự luôn được bảo đảm

thực hiện và được đặt trong mối quan hệ tương quan với pháp luật nội dung.

Pháp luật TTDS được xây dựng dựa trên những bản chất cốt lõi nhất của pháp

luật dân sự. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì

một trong các bên tranh chấp được quyền định đoạt, lựa chọn những phương

thức khác nhau để giải quyết tranh chấp và khởi kiện là một trong những

phương thức giải quyết tranh chấp đó. Việc các bên tranh chấp lựa chọn khởi

kiện đến Tòa án hoàn toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của họ mà không ai có

quyền quyết định hay hạn chế một cách tùy tiện kể cả nhà nước. Trong giao

lưu dân sự, khi có quyền và lợi ích bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp, các

chủ thể có quyền khởi kiện mà không bị bất kỳ một cá nhân, tổ chức hay cơ

quan nhà nước nào được phép cản trở, chi phối hoặc hạn chế một cách tùy

tiện. Việc khởi động, thay đổi, chấm dứt quá trình TTDS tại Tòa án hoàn toàn

phụ thuộc vào ý chí của các bên trong quan hệ tranh chấp. Đây cũng là một

đặc điểm giúp phân biệt TTDS với tố tụng hình sự.

Thứ tư, kỹ năng khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện khởi kiện: Khi

tham gia quan hệ pháp luật dân sự, quyền và lợi ích của các chủ thể khác

trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại,

lao động và các chủ thể được tự do thực hiện khởi kiện VADS khi quyền và

15

lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc xảy ra tranh chấp nhưng khởi

kiện cần phải tuân thủ các điều kiện khởi kiện theo luật định, xem xét đến các

chuẩn mực xử sự đạo đức và lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, giảm

thiểu sự lãng phí về công sức, tiền bạc, nhân lực của Tòa án cũng như của

những người có liên quan đến việc khởi kiện vụ án. Khởi kiện VADS tại Tòa

án chỉ thực sự có giá trị pháp lý khi các đương sự thực hiện đúng các yêu cầu

về điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ năm, về hình thức khởi kiện: việc cơ quan, tổ chức, cá nhân thực

hiện khởi kiện VADS phải làm đơn khởi kiện và nộp đơn khởi kiện kèm theo

hồ sơ khởi kiện. Người khởi kiện có thể nộp đơn khởi kiện trực tiếp tại Tòa

án, theo đường dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử

qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Hình thức đơn khởi kiện phải

rõ ràng, đầy đủ, nội dung trình bày được những vấn đề theo đúng quy định

của pháp luật. Trong trường hợp người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc

điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ

quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi

kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người

mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp

luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ.

1.1.3. Ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

Thứ nhất, kỹ năng khởi kiện là cách thức để việc khởi kiện được thực

hiện trên thực tế có hiệu quả, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự. Trên cơ sở quyền tự định đoạt của các chủ thể, đáp ứng yêu cầu

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân. Có thể nói nhà nước pháp quyền là một yếu tố tất yếu để xây dựng một

xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Theo A.I.Koovalenco, Nhà nước

pháp quyền cần phải bảo đảm các dấu hiệu sau: dựa trên tính tối cao của pháp

luật; phải có sự chấp hành và sự tuân thủ thường xuyên của pháp luật của tất

16

cả các công dân, những người có chức vụ, các cơ quan và tổ chức; quy định

trách nhiệm tương hỗ của công dân và Nhà nước trong phạm vi pháp luật hiện

hành; bảo đảm các quyền và tự do của công dân [6, tr. 33 . Muốn xây dựng

được nhà nước pháp quyền thì các hoạt động của đời sống xã hội cần có quy

định của pháp luật điều chỉnh. Thực hiện các kỹ năng khởi kiện VADS là một

biểu hiện của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Kỹ năng khởi kiện VADS

chính là việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của

mình khi bị xâm phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng quyền

và lợi ích của các bên khi xác lập giao dịch dân sự. Từ đó, có thể kịp thời bảo

vệ được các quyền lợi của con người cũng như góp phần duy trì sự ổn định,

cân bằng của xã hội.

Thứ hai, kỹ năng khởi kiện VADS là sự hiện thực hóa việc thực hiện

quyền con người, quyền công dân trong TTDS góp phần bảo đảm công bằng

xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án trong

nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế

độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân. Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án là một trong những cơ

chế hữu hiệu. Thông qua việc thực hành kỹ năng khởi kiện VADS, Tòa án sẽ

kịp thời bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, đáp ứng

được nguyện vọng, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của

Tòa án, vào chế độ, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thứ ba, kỹ năng khởi kiện VADS là việc thực hiện dân chủ trong TTDS.

Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, phát huy dân chủ XHCN

luôn là mục tiêu, động lực mà Đảng và Nhà nước hướng đến. Bởi vậy, việc

thực hiện dân chủ được diễn ra trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong

TTDS, khởi kiện VADS là một cơ chế pháp lý Nhà nước đưa ra để tạo điều

kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự tự do định đoạt, thực

hiện quyền tố tụng của mình. Theo đó, đương sự có toàn quyền khởi động

17

VADS thông qua hành vi khởi kiện, đồng thời khi tham gia vào quá trình giải

quyết VADS, đương sự có toàn quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu khởi kiện

của mình hoặc thỏa thuận với các đương sự khác về việc giải quyết VADS

một cách tự nguyện mà không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo

đức xã hội.

Thứ tư, kỹ năng khởi kiện VADS góp phần nâng cao ý thức tôn trọng

pháp luật, tôn trọng các quyền lợi ích dân sự hợp pháp của nhân dân, tạo

điều kiện cho việc củng cố an ninh trật tự xã hội và pháp chế XHCN. Để kỹ

năng khởi kiện VADS được thực hiện tốt, đòi hỏi chủ thể khởi kiện phải hiểu

biết pháp luật, nhận thức rõ hơn về việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình cũng như tôn trọng quyền của người khác. Kỹ năng khởi kiện

VADS còn góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với các đương sự

khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, bởi dù họ là ai, dù có địa vị xã hội như

thế nào thì họ đều phải tôn trọng quyền lợi của người khác và phải thực hiện

đúng nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận và quy định pháp luật. Ngoài ra,

thông qua thực hiện kỹ năng khởi kiện VADS, pháp luật còn thể hiện được

tính giáo dục, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân.

Thứ năm, kỹ năng khởi kiện VADS góp phần bảo vệ các lợi ích hợp

pháp trong quan hệ pháp luật dân sự và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong quá trình con người trao đổi lợi ích với nhau, việc xảy ra tranh chấp,

mâu thuẫn là một yếu tố khách quan mang tính quy luật. Tuy nhiên, khi tranh

chấp xảy ra, các bên đương sự sẽ có nhiều phương thức "xử sự" khác nhau để

giải quyết vấn đề. Việc Nhà nước quy định các vấn đề về khởi kiện VADS

một mặt trao quyền định đoạt cho đương sự, mặt khác hướng các chủ thể đó

về một chuẩn mực xử sự chuẩn mực hơn. Qua đó, xây dựng được thói quen

sử dụng pháp luật để giải quyết các mâu thuẫn xã hội, chống lại các hành vi

tiêu cực trong xã hội, bảo đảm được pháp chế XHCN.

18

1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thực hiện kỹ năng khởi kiện

vụ án dân sự

1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

Pháp luật TTDS là phương tiện pháp lý để các chủ thể bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, pháp luật về khởi kiện VADS là cơ sở

pháp lý cho Tòa án tiến hành các hoạt động thụ lý, giải quyết VADS để bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích

Nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy, pháp luật về khởi kiện VADS có vai

trò vô cùng quan trọng đối với tính hiệu quả của khởi kiện VADS:

- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đầy đủ, công khai, minh bạch là

cơ sở để các chủ thể có đầy đủ các phương tiện pháp lý bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ thể và đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ thể này

được thực hiện.

- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đáp ứng tính khả thi, phù hợp

sẽ làm cho các quy định này không chỉ có ý nghĩa trên văn bản mà sẽ phát

huy hiệu lực, hiệu quả trên thực tế đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ thể

được thực hiện.

- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đáp ứng tính thống nhất, đồng

bộ cũng như quy định cụ thể, rõ ràng, có cơ sở khoa học và không mẫu thuẫn

nhau thì Tòa án sẽ dễ dàng trong việc xem xét thụ lý để giải quyết VADS

cũng như các chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, thuận lợi

trong việc tiếp cận công lý.

Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Để thực hiện tốt

kỹ năng khởi kiện trước hết phải có những bảo đảm về mặt pháp lý. Vì vậy,

nếu hệ thống pháp luật là hành lang pháp lý trong giải quyết tranh chấp dân sự

nói chung và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự nói riêng không hoàn

thiện, thì chất lượng thực hành kỹ năng khởi kiện sẽ không cao, thậm chí

19

không thực hiện được. Vì vậy, sự đảm bảo về pháp lý, bao gồm sự hoàn thiện

của hệ thống pháp luật thực định; sự hoàn thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng

pháp luật; ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức ngành Tòa

án và nhân dân là vô cùng cần thiết.

Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định, nhất là các quy định

của pháp luật TTDS, pháp luật dân sự và luật chuyên ngành có liên quan như

như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ngân hàng, Luật

Kinh doanh bảo hiểm… được thể hiện ở những tiêu chuẩn như tính toàn diện,

tính đồng bộ, tính phù hợp, tính hiệu lực, hiệu quả và trình độ kỹ thuật pháp lý

của hệ thống pháp luật. Sự hoàn thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật

biểu hiện thông qua các vấn đề cơ bản như các văn bản pháp luật có liên quan

tới chức năng nhiệm vụ của TAND, các văn bản pháp luật về TTDS, việc ban

hành các văn bản chi tiết hướng dẫn thi hành pháp luật. Công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật trong xã hội; công tác tổ chức và chất lượng hoạt

động của cơ quan áp dụng pháp luật; năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ,

công chức trực tiếp tham gia áp dụng pháp luật; chất lượng của các văn bản áp

dụng pháp luật… Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức

và các tầng lớp nhân dân phụ thuộc không nhỏ vào công tác phổ biến, tuyên

truyền và giáo dục pháp luật cũng như chất lượng của pháp luật; chất lượng của

hoạt động thực hiện, áp dụng pháp luật. Điều này cho thấy có sự hoàn thiện

của hệ thống pháp luật thì việc thực hiện kỹ năng khởi kiện mới có hiệu quả.

1.2.2. Năng lực tham gia tố tụng của người khởi kiện vụ án dân sự

Năng lực của mỗi người trong xã hội là khác nhau, nhận thức và xử sự

của mỗi người cũng khác nhau. Khi bị gây thiệt hại, không phải chủ thế nào

cũng nhận thức được quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, cũng không

phải chủ thể nào cũng nhận thức được quyền khởi kiện của mình. Dù có nhận

thức được quyền khởi kiện của mình thì không phải chủ thể nào cũng biết

thực hiện quyền khởi kiện như thế nào có hiệu quả nhất. Khi khởi kiện VADS

20

tại Tòa án, sự thiếu hiểu biết pháp luật TTDS về khởi kiện VADS sẽ gây khó

khăn cho chính cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình trước Tòa án. Các chủ thể sẽ không biết bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình như thế nào.

1.2.3. Sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự

Khởi kiện VADS là hoạt động đầu tiên của quá trình giải quyết

VADS, người khởi kiện có toàn quyền định đoạt về việc khởi kiện của mình.

Nhưng không phải người nào khởi kiện cũng có đủ kiến thức pháp luật, kinh

nghiệm để quyết định vấn đề này, đặc biệt trong những vụ tranh chấp có giá

trị lớn liên quan đến uy tín, danh tiếng, hình ảnh, bí mật cá nhân... Trong

những trường hợp này, sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự là hết sức cần thiết. Với vai trò là người hỗ trợ, giúp đỡ,

có nền tảng kiến thức pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tố tụng,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ giúp người khởi kiện

có những quyết định, hướng đi đúng đắn, phù hợp với giai đoạn đầu tiên này.

Sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thể

hiện trong những nội dung sau:

Thứ nhất, tư vấn cho người khởi kiện về việc nên hay không nên quyết

định khởi kiện. Trong giai đoạn đầu, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự chưa có tư cách tố tụng chính thức trong giai đoạn này nhưng

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trao đổi và thu thập

thông tin từ khách hàng, sau đó phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề pháp

lý như: điều kiện khởi kiện của chủ thể, phạm vi khởi kiện, thời hiệu khởi

kiện, quan hệ pháp luật để khởi kiện,...; xác định căn cứ đối với yêu cầu khởi

kiện để tư vấn cho người khởi kiện quyết định khởi kiện hay không khởi kiện.

Thứ hai, soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong giai đoạn này có vai trò

21

hỗ trợ, giúp đỡ tư vấn cho khách hàng, quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc

về người khởi kiện. Sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự trong giai đoạn khởi kiện được thể hiện rõ nhất qua việc hỗ trợ

người khởi kiện soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện là các tài

liệu, chứng cứ kèm theo.

Thứ ba, nộp đơn khởi kiện. Sau khi đơn khởi kiện đã được soạn thảo,

hồ sơ khởi kiện đã đầy đủ và được sắp xếp theo thứ tự phù hợp, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trao đổi với người khởi kiện lần

cuối trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền. Bên cạnh thủ tục nộp đơn,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng cần hướng dẫn để

người khởi kiện biết được những quyền và nghĩa vụ của mình.

1.2.4. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức của Tòa án, Viện kiểm sát

Thực tế chứng minh, hiệu quả của việc thực hiện kỹ năng khởi kiện

phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố, những nguyên nhân chủ quan, khách

quan khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Một trong những yếu tố vô

cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hiện kỹ năng khởi

kiện là chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án, Viện kiểm sát mà

trước hết là trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, năng lực, tinh thần

trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên.

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… là những người trực tiếp được giao

nhiệm vụ xét xử, nhân danh Nhà nước để bảo vệ pháp luật. Ở họ cần phải có

những tố chất nghề nghiệp nhất định, họ vừa là người thay mặt cho quyền lực

nhà nước thông qua hoạt động xét xử, vừa phải là công dân gương mẫu trong

cuộc sống hằng ngày. Với vị trí và trách nhiệm xã hội đặc biệt của mình, đòi

hỏi họ phải có những tiêu chuẩn nhất định về trình độ chuyên môn, trình độ lý

luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp.

Chất lượng đội ngũ cán bộ tham gia xét xử là sự tổng hợp chất lượng

của từng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… tham gia xét xử được đánh giá

22

thông qua các tiêu chuẩn về chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức; khả

năng hoàn thành nhiệm vụ được giao theo qui định của pháp luật và theo qui

định của ngành. Là người giữ vị trí quan trọng trong hoạt động xét xử tại Tòa

án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải là những người am hiểu pháp luật, có

trình độ chuyên môn và kỹ năng xét xử. Thẩm phán là người được bổ nhiệm

theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải

quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Xét xử là một công việc

phức tạp, đòi hỏi người tham gia phải có trình độ am hiểu về pháp luật, có

tinh thần trách nhiệm, có kỹ năng sống, có khả năng nắm bắt được diễn biến

phức tạp của vấn đề. Vì vậy, ngoài những tiêu chuẩn "cứng" về điều kiện trở

thành Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã được pháp luật qui định thì họ còn

phải có những năng lực "đặc biệt" được hình thành thông qua quá trình giao

tiếp xã hội, qua học tập... có thể kể đến một số kỹ năng cơ bản như:

- Áp dụng được các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực được phân công

đảm nhiệm một cách chuyên sâu; thu nhận và xử lý thông tin để phục vụ việc

thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

- Có khả năng phân tích, đánh giá một cách chính xác, toàn diện

những tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ cho việc thụ lý, xây dựng hồ sơ vụ án

và ra các quyết định, bản án phù hợp với thực tiễn.

- Có khả năng lập luận, tranh luận, thu thập chứng cứ; kịp thời xử lý

các tình huống phát sinh tại phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật.

- Ngoài các điều kiện về chuyên môn, họ còn phải có trình độ lý luận

chính trị, phải thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp, coi đây là một yếu

tố quan trọng, có tác động trực tiếp đến quá trình xét xử của TAND. Mặt khác,

đây cũng là cơ sở quan trọng, mang tính pháp lý cho việc tuyển dụng, bổ

nhiệm và đào tạo cán bộ. Đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ tư pháp là tiêu

chuẩn tối quan trọng, bởi vì hoạt động nghề nghiệp của họ mang tính đặc thù,

có tác động trực tiếp đến đến danh dự, quyền tự do, tài sản,… của con người.

23

Trong hoạt động nghề nghiệp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm

sát viên và các cán bộ tư pháp khác phải đảm bảo được yếu tố khách quan,

công bằng, vô tư, không vụ lợi cá nhân, có lý, có tình. Sự công bằng, vô tư và

khách quan là hiện thân những giá trị của một nền tư pháp dân chủ. Trong quá

trình xét xử họ phải cương quyết tôn trọng nguyên tắc này, vượt qua những

tác động khách quan để đưa ra quyết định, bản án đảm bảo tính khách quan,

công bằng, vô tư, đúng pháp luật. Trong quá trình xét xử đòi hỏi họ phải có

lương tâm, sẵn sàng nhận và sửa chữa những sai sót gặp phải, có tinh thần

trách nhiệm trong xét xử, luôn đặt niềm tin vào công lý.

Sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia giám sát của Hội đồng nhân dân,

của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân, sự kiểm sát xét xử dân sự của Viện kiểm

sát trong hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những yếu tố tác động tới

chất lượng thực hiện kỹ năng khởi kiện. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với hoạt động của Tòa án, đối với công tác cán bộ của ngành Tòa án, Kiểm

sát nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, phát triển,

là những nhân tố hậu thuẫn tích cực, đảm bảo hiệu quả cao cho việc thực hiện

kỹ năng khởi kiện VADS.

Kết luận Chƣơng 1

Chương 1 của luận văn đã phân tích, luận giải để làm sáng tỏ một số

vấn đề lý luận về kỹ năng khởi kiện VADS. Theo đó, khởi kiện VADS là việc

các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích bị xâm phạm, yêu cầu Tòa

án chấp nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu của người khởi kiện khi đã thỏa

mãn các điều kiện khởi kiện. Hiểu rõ được các nội dung này, người khởi kiện

được trang bị đầy đủ các kỹ năng để có thể thực hiện tốt quyền khởi kiện trên

thực tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên cơ sở phân tích đặc điểm, ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện VADS,

nội dung nghiên cứu, tác giả khái quát hóa được các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ

năng khởi kiện VADS. Khởi kiện VADS xuất phát từ các cơ sở lý luận

24

(nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong TTDS, nguyên tắc bảo đảm

quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự...) và cơ sở thực tiễn.

Sau nhiều giai đoạn lịch sử, khởi kiện VADS đã thể hiện những ý nghĩa vô

cùng quan trọng. Đây không chỉ là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành các hoạt

động tố tụng, giải quyết VADS, cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo, mà

còn góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thực tế

của con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các nội dung của

Chương 1 chính là cơ sở lý luận định hướng để tác giả nghiên cứu, đánh giá

về thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi kiện tại chương 2 của luận văn.

25

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

2.1. Thực trạng pháp luật bảo đảm thực hiện kỹ năng khởi kiện

2.1.1. Chủ thể khởi kiện

Việc xác định ai là người có thể thực hiện quyền khởi kiện, có thể

khởi kiện ai và khởi kiện về vấn đề gì trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, có tranh chấp là một vấn

đề không đơn giản trên phương diện học thuật cũng như trong quá trình xây

dựng BLTTDS. Về nguyên tắc thì từ việc xác định đối tượng khởi kiện để có

thể xác định ai có thể thực hiện quyền khởi kiện và việc khởi kiện đó được

thực hiện đối với những chủ thể nào. Có nghĩa là dựa trên chính quan hệ pháp

luật có tranh chấp và tính chất của vụ kiện để xác định chủ thể có quyền khởi

kiện và chủ thể có thể bị khởi kiện.

* Quy định về điều kiện chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự

Thứ nhất, chủ thể khởi kiện VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình

Theo Điều 14 Hiến pháp năm 2013: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến

pháp và pháp luật". Trong đó, quyền dân sự có ý nghĩa rất quan trọng. Khi

quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm hay tranh chấp thì chủ thể đó có

quyền thực hiện những phương pháp mà pháp luật cho phép và một trong

những phương pháp đó chính là khởi kiện VADS.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, theo quy định tại Điều 186

BLTTDS năm 2015 thì "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc

thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là

26

người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình". Khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, chủ thể có

quyền và lợi ích bị xâm phạm có quyền tự định đoạt khởi kiện hoặc không

khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ và việc khởi kiện này phải tuân thủ quy

định pháp luật về năng lực chủ thể, thẩm quyền của Tòa án...

Điều 187 BLTTDS năm 2015 mở rộng quyền khởi kiện đối với một số

chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng

và lợi ích của Nhà nước đó là cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan

quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Tổ chức đại diện

tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động; Tổ chức xã hội tham gia

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình; Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình

để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật Hôn

nhân và gia đình.

Bộ luật TTDS năm 2015 đã quy định đầy đủ hơn các chủ thể có quyền

khởi kiện VADS so với quy định tại BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung

năm 2011). Việc mở rộng này đã đáp ứng được quyền tiếp cận công lý của

các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền

công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Việc bổ sung các chủ thể

có quyền khởi kiện trong BLTTDS năm 2015 đã tạo nên sự thống nhất giữa

các văn bản pháp luật với nhau. Điều này phù hợp với sự phát triển của xã hội

cũng như hướng đến sự ổn định về mặt pháp lý để các chủ thể có thể bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của người khác thông qua cơ chế

khởi kiện tại các hệ thống cơ quan Tòa án.

Như vậy, chủ thể của quyền khởi kiện được thừa nhận trong pháp luật

TTDS Việt Nam có thể phân chia thành các nhóm chủ thể sau:

Nhóm chủ thể thứ nhất: các chủ thể có quyền khởi kiện do quyền lợi

của họ bị tranh chấp hoặc vi phạm.

27

Nhóm chủ thể thứ hai: các chủ thể có quyền khởi kiện nhưng họ

không có quyền lợi trong vụ kiện (nhóm chủ thể có quyền khởi kiện vì lợi ích

công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc khởi kiện vì quyền, lợi ích hợp pháp

của người khác).

Việc phân chia thành hai nhóm chủ thể như trên là hoàn toàn phù hợp

với nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS, theo đó về nguyên tắc

chủ thể có quyền khởi kiện phải là chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm hay

tranh chấp, các chủ thể khác chỉ có quyền khởi kiện trong những trường hợp

mà nhà lập pháp ấn định.

Đối với người khởi kiện là cá nhân thì phải là người cụ thể, không

phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam, không phân biệt là nam

hay nữ. Khi thấy rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, họ có quyền

khởi kiện và việc khởi kiện VADS tại Tòa án chính là thực hiện quyền khởi

kiện. Khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì họ có thể tự mình thực

hiện quyền khởi kiện. Nếu cá nhân là người mất năng lực hành vi dân sự thì

việc thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp của họ.

Đối với cơ quan, tổ chức, khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của

mình bị xâm phạm hoặc tranh chấp thì cũng có quyền khởi kiện ra Tòa để yêu

cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Muốn thực hiện

quyền khởi kiện thì trước hết cơ quan, tổ chức đó phải có tư cách pháp nhân.

Cơ quan, tổ chức muốn khởi kiện phải thông qua người đại diện theo

pháp luật của pháp nhân hoặc người được người đại diện theo pháp luật ủy

quyền cho người khác. Cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình thì phải chứng minh quyền, lợi ích của mình bị xâm

phạm, tranh chấp thông qua các giấy tờ, văn bản, tài liệu liên quan.

Ngoài các chủ thể được quy định trên thì hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ

chức khác không có tư cách pháp nhân cũng có quyền khởi kiện VADS. Theo

Điều 101 BLDS năm 2015, trường hợp tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác

28

không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên tổ hợp

tác, hộ gia đình, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia

xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham

gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên, về vấn đề này cũng chưa

được quy định rõ xem phải do tất cả các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp

tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân khởi kiện hay một trong số các

thành viên đó hoặc người đại diện ủy quyền có quyền khởi kiện [20, tr. 31-36].

Thứ hai, chủ thể khởi kiện VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước

Bên cạnh chủ thể khởi kiện là người có quyền và lợi ích hợp pháp trực

tiếp bị xâm phạm, khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì

pháp luật còn quy định một số chủ thể có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khác. Đó là chủ thể khởi kiện với tư cách là

người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của đương sự. Trong một số

trường hợp để bảo đảm quyền khởi kiện của nhóm chủ thể yếu thế, BLTTDS

năm 2015 đã quy định một số chủ thể được đề cập ở Điều 187 Bộ luật này có

quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cụ thể:

+ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về

trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của những người quy định tại khoản 5 Điều 84, Khoản 2 Điều 86, Khoản 3

Điều 102, Khoản 2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đó là trường

hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con

chưa thành niên; xác định con cho cha mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực

hành vi dân sự và trường hợp buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ

cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Trong trường hợp này, người được các

cơ quan, tổ chức trên khởi kiện để bảo vệ quyền lợi là nguyên đơn trong

VADS. So với quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)

29

thì BLTTDS năm 2015 có sự thay đổi về mặt tên gọi của chủ thể khởi kiện trong

quy định này từ "cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em" nhằm thống nhất với

Luật Hôn nhân, gia đình và các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan.

+ Tổ chức đại diện tập thể người lao động có quyền khởi kiện vụ án

lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể

người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền. So với BLTTDS năm

2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì BLTTDS năm 2015 có sự thay đổi về

mặt tên gọi của chủ thể khởi kiện trong quy định này từ "Công đoàn cấp trên

của công đoàn cơ sở" thành "Tổ chức đại diện tập thể lao động" và bổ sung

thêm trường hợp khi được người lao động ủy quyền thì Tổ chức đại diện tập

thể lao động cũng có quyền khởi kiện vụ án lao động nhằm thống nhất với Bộ

luật Lao động và các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan.

+ Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền

đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc

tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật Bảo vệ người

tiêu dùng năm 2010. Đây là một chủ thể có quyền khởi kiện mới được bổ

sung vào BLTTDS năm 2015 nhằm phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ

người tiêu dùng cũng như điều kiện thực tế khi nhu cầu tiêu dùng của con

người ngày càng gia tăng, sự biến động phức tạp của thị trường cung cầu

trong và ngoài nước dẫn đến quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị ảnh

hưởng và cần được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời. Trên thực tế, đa

số các cá nhân tham gia quan hệ mua bán sản phẩm, hàng hóa trên thị trường

là với tư cách người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu với tư cách là người tiêu dùng

thì ngoài việc tự mình khởi kiện, cá nhân, tổ chức còn được tổ chức xã hội

tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện thay. Chính vì vậy, Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) cần đưa ra nghị quyết

nhằm hướng dẫn rõ trường hợp nào là khởi kiện với tư cách là người tiêu

dùng, trường hợp nào là khởi kiện với tư cách cá nhân thông thường.

30

Để trở thành tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

thì cần đáp ứng được các tiêu chí quy định tại Điều 27 Luật Bảo vệ người tiêu

dùng. Cụ thể là cần có hai điều kiện: (1) Được thành lập theo quy định của

pháp luật và hoạt động theo điều lệ được tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng; (2) Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức

xã hội phải tuân theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay, theo thống

kê của Bộ Công thương thì ngoài Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng (VINASTAS) đã có 41 Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng ở 41 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [51].

+ Bên cạnh việc quy định các chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác, BLTTDS năm 2015 kế thừa các quy định của

BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) ghi nhận quyền khởi kiện

của cơ quan tổ chức vì lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước. Theo đó, các cơ

quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quyền

khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà

nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật. Trong

trường hợp này, các cơ quan, tổ chức khởi kiện sẽ được xác định là nguyên

đơn trong VADS mặc dù không có quyền lợi bị xâm phạm hoặc tranh chấp.

Qua những phân tích trên, ta nhận thấy BLTTDS năm 2015 đã mở

rộng hay quy định đầy đủ hơn các chủ thể có quyền khởi kiện VADS so với

quy định tại BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Việc mở rộng

này đã đáp ứng được quyền tiếp cận công lý của các chủ thể tham gia quan hệ

dân sự nói chung và các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội nói riêng, bảo vệ

tốt hơn quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp

năm 2013 và đặc biệt là bảo đảm quyền lợi cho nhóm các chủ thể yếu thế

trong xã hội. Ngoài ra, việc bổ sung các chủ thể có quyền khởi kiện mới trong

BLTTDS năm 2015 đã tạo nên sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật với

nhau, đặc biệt là Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ

31

người tiêu dùng... phù hợp với sự phát triển của xã hội cũng như hướng đến

sự ổn định về mặt pháp lý để các chủ thể có thể bảo vệ được quyền và lợi ích

hợp pháp của mình và của người khác thông qua cơ chế khởi kiện tại các hệ

thống cơ quan Tòa án.

* Quy định về điều kiện để chủ thể thực hiện quyền khởi kiện VADS

Khi một chủ thể cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm,

theo quy định của pháp luật, chủ thể đó có quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa

án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, để yêu cầu của họ được

Tòa án thụ lý giải quyết thì chủ thể khởi kiện ngoài việc có quyền khởi kiện

theo quy định của pháp luật còn cần phải có đủ khả năng tự mình thực hiện

quyền khởi kiện. Chủ thể có quyền khởi kiện muốn tự mình khởi kiện thì cần

phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi TTDS. Năng lực pháp luật dân

sự là khả năng pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có các quyền

và nghĩa vụ trong TTDS. Năng lực pháp luật TTDS là điều kiện cần thì năng

lực hành vi TTDS là điều kiện đủ để một chủ thể tham gia vào quan hệ pháp

luật TTDS. Theo đó, năng lực hành vi TTDS là khả năng tự mình thực hiện

quyền, nghĩa vụ TTDS hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia TTDS.

Thứ nhất, cá nhân khởi kiện với tư cách là nguyên đơn để bảo vệ

quyền lợi của mình hoặc khởi kiện với tư cách là người đại diện để bảo vệ

quyền lợi của người khác.

+ Những người có đầy đủ năng lực hành vi TTDS là những người từ

đủ 18 tuổi trở lên và không mắc một số bệnh làm mất khả năng làm chủ hành

vi. Trong trường hợp này, họ có thể tự thực hiện quyền khởi kiện hoặc ủy

quyền khởi kiện vụ án cho một chủ thể khác. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hiện

nay đang không có sự thống nhất trong nhận thức về một số quy định của

pháp luật, trong đó có việc ủy quyền khởi kiện VADS.

Theo đó, Điều 186 BLTTDS năm 2015 về quyền khởi kiện quy định:

"Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện

32

hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án

có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình".

Khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015 về việc làm đơn khởi kiện của

cá nhân tại các điểm a và b quy định:

a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có

thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại

mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi

họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân

đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực

hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người

khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú

của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú

của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn,

người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ [25].

Với quy định này, hiện có những quan điểm khác nhau như sau:

Quan điểm thứ nhất, Điều 186 BLTTDS năm 2015 quy định về quyền

khởi kiện, theo đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua

người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án và người đại diện hợp pháp ở đây

bao gồm người đại diện theo ủy quyền và người đại diện theo pháp luật. Do

đó, người đại diện theo ủy quyền có thể trực tiếp ký đơn hoặc điểm chỉ vào

đơn khởi kiện. Tức là, người có quyền và lợi ích bị xâm hại có thể ủy quyền

cho người khác khởi kiện và tham gia tố tụng từ giai đoạn làm đơn khởi kiện

để nộp Tòa án [50].

Quan điểm thứ hai cho rằng, quy định tại Điều 189 BLTTDS năm

2015 đã xác định đối với cá nhân có quyền, lợi ích bị xâm hại là người có đầy

đủ năng lực hành vi dân sự thì phải trực tiếp ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi

33

kiện và cho rằng đây là quyền nhân thân của người khởi kiện, không thể

chuyển giao cho người khác. Chỉ trường hợp người khởi kiện là người chưa

thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận

thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ mới ký hoặc điểm

chỉ đơn khởi kiện vụ án. Nói cách khác, người có quyền, lợi ích bị xâm hại

phải trực tiếp ký, điểm chỉ vào đơn khởi kiện và việc ủy quyền tham gia tố

tụng giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của họ chỉ được thực hiện

sau khi khởi kiện và Tòa án đã thụ lý vụ án [50].

Quan điểm thứ hai này dẫn đến trong thực tiễn giải quyết các vụ án,

khi người khởi kiện là người đại diện hợp pháp theo ủy quyền nộp đơn khởi

kiện đến Tòa án thì một số Tòa án đã không nhận đơn khởi kiện để thụ lý và yêu

cầu bắt buộc người có quyền, lợi ích bị xâm hại phải trực tiếp ký hoặc điểm

chỉ vào đơn khởi kiện chứ không phải thông qua người đại diện theo ủy quyền.

Theo tác giả, quy định tại Điều 186 và Điều 189 của BLTTDS năm

2015 nêu trên là tương thích với các quy định của BLDS năm 2015. Tác giả

cũng đồng tình với quan điểm thứ nhất và cho rằng quan điểm thứ hai là

không đúng và không phù hợp với pháp luật dân sự về người đại diện và

không đúng với tinh thần Hiến pháp năm 2013. Quan điểm thứ hai đã hạn chế

quyền tự do định đoạt của người có quyền, lợi ích bị xâm hại vì họ có thể ủy

quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện. Bởi lẽ:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì quyền

con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong

trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã

hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Cụ thể hóa quy định của Hiến

pháp năm 2013, Khoản 2 Điều 2 BLDS năm 2015 quy định: "Quyền dân sự

chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý

do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức

khỏe của cộng đồng".

34

Theo quy định tại Điều 134 và Điều 135 BLDS năm 2015 thì đại diện

là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá

nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch

dân sự; cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông

qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu

pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

Đồng thời, BLDS năm 2015 cũng quy định quyền đại diện được xác

lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện; cá nhân, pháp

nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác cũng như hậu quả của hành

vi đại diện, thời hạn đại diện và phạm vi đại diện tại các điều 139, 140, 141

BLDS năm 2015. Theo các quy định này thì người đại diện thực hiện hành vi

đại diện trong thời hạn đại diện và phù hợp phạm vi đại diện sẽ làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện.

Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định:

4. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật

dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.

Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho

người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ,

người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy

định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là

người đại diện [25].

Với quy định tại Khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015 nêu trên thì

người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người đại diện theo

ủy quyền trong TTDS; luật chỉ quy định đối với việc ly hôn thì đương sự

không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Tuy

nhiên, trường hợp cha mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly

hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014 thì cha, mẹ, người thân thích đó là người đại diện.

35

Như vậy, ngoài quy định đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy

quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng thì không có quy định

nào của luật hạn chế việc ủy quyền khởi kiện VADS.

+ Những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi,

không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân

sự, đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng

tài sản của riêng mình, có thể thực hiện quyền khởi kiện gồm: làm đơn khởi

kiện, ký vào đơn hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án tranh chấp

có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó.

+ Cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường hợp nêu trên), người

mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự

có quyền khởi kiện nhưng việc khởi kiện phải thông qua người đại diện theo

pháp luật. Người đại diện theo pháp luật có thể tự mình khởi kiện hoặc ủy quyền

khởi kiện VADS. BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) chỉ quy định

việc Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự là người bị hạn chế năng

lực hành vi dân sự mà không có cơ chế tạo điều kiện cho đương sự là người chưa

thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền khởi kiện của

mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong quy định tại Điều 88 BLTTDS

năm 2015 về chỉ định người đại diện trong TTDS. Theo đó, khi tiến hành TTDS,

nếu đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp

luật của họ không đủ điều kiện đại diện cho họ thì Tòa án phải chỉ định người

đại diện để tham gia tố tụng. Đối với vụ, việc lao động mà có đương sự thuộc

trường hợp nêu trên hoặc người lao động là người chưa thành niên nhưng

không có đại diện và Tòa án cũng không chỉ định được người đại diện thì Tòa

án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người đó. Cần lưu

ý, khi làm đơn khởi kiện, tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện,

36

trong đơn phải ghi rõ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của

cá nhân đó và ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp phải ký tên hoặc điểm

chỉ đầy đủ theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 186 BLTTDS năm 2015.

Thứ hai, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của mình hoặc của người khác.

Các cơ quan, tổ chức khởi kiện VADS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra, các

cơ quan, tổ chức còn khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người

khác theo quy định của pháp luật. Tương tự như trường hợp cá nhân khởi

kiện, khi các cơ quan, tổ chức khởi kiện thì các chủ thể này thông qua người

đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức.

Hiện nay, BLTTDS năm 2015 và những văn bản pháp luật hiện hành

khác chưa quy định rõ về điều kiện chủ thể đối với nhóm chủ thể này. Tuy

nhiên, vấn đề này đã được đề cập trong Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP

ngày 03/12/2016 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Theo tinh thần của Nghị

quyết được áp dụng tương tự pháp luật, đối với các cơ quan, tổ chức thì người

đại diện của các cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm

hộ đơn khởi kiện vụ án. Người đại diện hợp pháp khởi kiện VADS trong

trường hợp này bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo

ủy quyền. Có sự khác biệt giữa người đại diện theo pháp luật và người đại

diện theo ủy quyền trong hoạt động ký và đóng dấu trong đơn khởi kiện:

+ Trường hợp người đại diện hợp pháp của các cơ quan, tổ chức là

người người đại diện theo ủy quyền thì khởi kiện vụ án, tại mục "Tên, địa chỉ

của người khởi kiện" sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi

tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Tại

mục "Người khởi kiện" ở cuối đơn cần ghi đầy đủ tên cơ quan, tổ chức, chức

vụ của người đại diện, ký tên của người người người đại diện và đóng dấu của

cơ quan, tổ chức đó.

37

+ Trường hợp người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức là người đại

diện theo ủy quyền khởi kiện vụ án, tại mục: "Tên, địa chỉ của người khởi kiện"

sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi tên, chức vụ của người

đại diện theo ủy quyền, văn bản ủy quyền và chức danh của người đại diện theo

pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Tại mục "Người khởi kiện", ghi tên của cơ

quan, tổ chức đó và có dòng chữ ký của người đại diện theo ủy quyền, và người

đại diện theo ủy quyền ký tên của mình và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.

+ Trường hợp văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân thực hiện

việc khởi kiện vụ án phát sinh từ giao dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh

pháp nhân xác lập thực hiện. Tại mục "Tên, địa chỉ của người khởi kiện", sau

khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức cần ghi tên, chức vụ của người đứng

đầu chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân, văn bản ủy quyền và chức

danh của người đại diện theo pháp luật ủy quyền, tại mục "Người khởi kiện"

cần ghi tên pháp nhân, chức vụ, họ và tên người đứng đầu văn phòng đại diện,

chi nhánh và đóng dấu của pháp nhân hoặc đóng dấu của văn phòng đại diện,

chi nhánh [33].

Như vậy, khi một chủ thể khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết

VADS nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc

tranh chấp thì trước hết chủ thể đó phải có quyền khởi kiện. Đây là điều kiện

tiên quyết để Tòa án xem xét việc thụ lý và giải quyết VADS nhằm bảo đảm

quyền và lợi ích của chủ thể đó. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân

không thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện thì có thể thông qua người đại

diện hợp pháp. Tuy nhiên, người đại diện hợp pháp trong trường hợp này chỉ

là người thực hiện thay quyền khởi kiện của các chủ thể có quyền và lợi ích

hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp.

2.1.2. Đối tượng và phạm vi khởi kiện

Bộ luật TTDS năm 2015 quy định cụ thể về đối tượng khởi kiện

VADS thông qua quy định về thẩm quyền của TAND các cấp (từ Điều 35 đến

38

Điều 40 BLTTDS năm 2015). Đó là các tranh chấp hoặc các yêu cầu về dân

sự, hôn nhân và gia đình; tranh chấp về kinh doanh, thương mại; tranh chấp

về lao động.

Phạm vi khởi kiện VADS là giới hạn những vấn đề khởi kiện trong

một VADS. Phạm vi khởi kiện VADS được quy định tại Điều 188 BLTTDS

năm 2015, so với quy định về phạm vi khởi kiện của BLTTDS năm 2004 sửa

đổi năm 2011 về cơ bản được giữ nguyên. Theo đó, phạm vi khởi kiện được

hiểu là giới hạn những vấn đề khởi kiện trong một VADS. Phạm vi khởi kiện

không bị hạn chế một người hay nhiều người được khởi kiện một người hay

nhiều người về cùng một quan hệ pháp luật mà được mở rộng hơn so với các

văn bản trước đây. Như vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một

hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều

quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án;

hay nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có thể cùng khởi kiện một cá nhân,

một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ

pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; hoặc cá

nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định tại Điều 187 Bộ luật này có

thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một

quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải

quyết trong cùng một vụ án. Hiện nay, Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của

Hội đồng thẩm phán TANDTC đã hết hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, theo tinh

thần Nghị quyết, những quan hệ pháp luật được coi là có liên quan với nhau để

giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

+ Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng

thời quan hệ pháp luật khác;

+ Việc giải quyết quan hệ pháp luật có cùng đương sự và cùng loại

tranh chấp quy định trong cùng một điều Luật tương ứng tại một trong các

điều 26, 28, 30, 32 của BLTTDS năm 2015.

39

Việc pháp luật tố tụng quy định phạm vi khởi kiện nhằm bảo đảm việc

giải quyết các VADS của Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, đồng thời bảo

đảm được quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án giải quyết vụ việc theo

yêu cầu của đương sự, không giải quyết vượt quá yêu cầu hoặc bỏ sót yêu cầu

của đương sự.

Tuy nhiên, việc quy định phạm vi này "quá rộng, không hợp lý, do

trong cùng một điều luật, dù có cùng đương sự và cùng loại tranh chấp nhưng

chúng được phát sinh từ những căn cứ khác nhau, tình tiết, những chứng cứ,

tài liệu là khác nhau" [19, tr. 242].

Ngoài ra, quyền tự định đoạt của các đương sự là một quyền tố tụng

quan trọng được thực hiện xuyên suốt quá trình tố tụng và được hình thành

dựa trên bản chất của quan hệ pháp luật nội dung. Để bảo đảm sự hợp lý và

tương thích trong toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự, khi ban hành đòi hỏi luật

TTDS với vị trí là luật hình thức, cần xây dựng các quy phạm pháp luật phù

hợp với bản chất cốt lõi của luật dân sự. Điều đó đồng nghĩa những đặc trưng

của lĩnh vực luật tư cần phải được kế thừa và chuyển hóa một cách phù hợp

trong pháp luật TTDS. Bởi vậy, việc tôn trọng sự tự nguyện, bình đẳng, tự do

thỏa thuận của các bên là một đặc trưng mà pháp luật TTDS hướng đến và

biểu hiện rõ nhất chính là việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự khi

tham gia các quan hệ tố tụng tại Tòa án. Quyền tự định đoạt trong TTDS

luôn gắn liền với quyền tự định đoạt trong pháp luật nội dung [47, tr. 39].

Theo đó, các chủ thể có quyền lựa chọn cách ứng xử trong phạm vi pháp

luật cho phép để đạt được những lợi ích dân sự nhất định. Quyền tự định

đoạt của đương sự được thực hiện ngay khi tham gia vào quan hệ pháp luật

TTDS thông qua hành vi khởi kiện vụ án. Chủ thể của quan hệ có tính chất

tự do, tự nguyện, bình đẳng nên người khởi kiện trong TTDS hoàn toàn chủ

động trong việc quyết định vấn đề cần hoặc không cần phát động một

VADS. Pháp luật TTDS tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự,

40

theo đó các bên có thể lựa chọn sử dụng hoặc không sử dụng quyền khởi

kiện VADS tại Tòa án để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, để việc thực hiện

quyền khởi kiện của đương sự trở nên linh hoạt hơn, các đương sự sẽ có thể

thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của

mình sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, phù hợp với các

chứng cứ của vụ án cũng như yêu cầu khởi kiện ban đầu nhằm bảo vệ tốt

nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ pháp luật dân sự,

hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động bị tranh chấp hoặc xâm

phạm. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự định đoạt này cũng có giới hạn

nhất định. Nhằm bảo đảm cho quá trình tố tụng được diễn ra theo thời hạn

luật định và nhằm bảo vệ lợi ích của đương sự khác thì việc thay đổi, bổ

sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa không được vượt quá phạm vi khởi kiện

ban đầu. Trên cơ sở so sánh, có thể thấy, quyền tự định đoạt của đương sự

khi thực hiện khởi kiện tại Tòa án là quyền có tính đặc trưng trong TTDS.

Đây cũng là điểm khác biệt so với tố tụng hình sự và tố tụng hành chính bởi

hai hình thức tố tụng này được hình thành để bảo vệ các quan hệ công. Luật

hình sự điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người được suy đoán là

phạm tội. Một vụ án hình sự được phát sinh theo trình tự, thủ tục mà luật tố

tụng hình sự quy định. Trong quá trình tố tụng, khi cơ quan có thẩm quyền

có đầy đủ chứng cứ để buộc tội và chứng minh được một người là có tội thì

người đã thực hiện tội phạm không có quyền thỏa thuận với nhà nước về

mức hình phạt, không có quyền định đoạt những vấn đề liên quan đến tội

phạm của mình. Trong tố tụng hành chính, mặc dù pháp luật cũng ghi nhận

nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, tuy nhiên do đối tượng mà vụ

án hành chính hướng đến giải quyết là các tranh chấp giữa người dân và cơ

quan nhà nước có thẩm quyền về các quyết định hành chính, hành vi hành

chính nên quyền tự định đoạt của đương sự không có tính chất tuyệt đối như

trong TTDS [16, tr. 28-30].

41

2.1.3. Các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự

Việc thực hiện chuẩn xác các điều kiện khởi kiện chính là việc thực

hiện các kỹ năng của việc khởi kiện VADS. Kỹ năng đầu tiên quan trọng nhất

khi khởi kiện VADS chính là việc xác định điều kiện khởi kiện, chỉ khi xác

định chính xác điều kiện khởi kiện mới có thể tiến hành được tiếp các bước

tiếp theo. Việc khởi kiện VADS phải bảo đảm điều kiện khởi kiện theo quy

định của pháp luật. Xác định điều kiện khởi kiện VADS căn cứ quy định tại

Điều 192 BLTTDS năm 2015 và các quy định khác của pháp luật.

2.1.3.1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án

Thẩm quyền giải quyết các vụ, việc của Tòa án là quyền xem xét, giải

quyết các vụ, việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các

vụ, việc đó theo thủ tục TTDS của Tòa án. Việc xác định một cách khoa học

và hợp lý thẩm quyền dân sự của Tòa án tránh được sự chồng chéo trong việc

thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan nhà nước, giữa các Tòa án

với nhau và xác định điều kiện cần thiết bảo đảm cho Tòa án thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ của mình.

Như đã phân tích ở Chương 1, khi khởi kiện VADS thì các chủ thể

phải thỏa mãn các điều kiện và cụ thể hơn là điều kiện về thẩm quyền của Tòa

án. Theo đó, thực chất để đáp ứng điều kiện khởi kiện thì các chủ thể khi thực

hiện việc khởi kiện phải xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo loại việc

nhằm phân định thẩm quyền giữa Tòa án với các cơ quan, tổ chức khác hay

phân định giữa việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn thông qua thủ tục tố

tụng tại Tòa án với cơ chế giải quyết của cơ quan, tổ chức khác. Tuy nhiên,

mục đích chính của các chủ thể khi khởi kiện VADS là để nhằm Tòa án thụ lý

vụ án dẫn đến việc giải quyết VADS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ

chứ không chỉ việc thực hiện quyền khởi kiện thông qua hoạt động nộp đơn

khởi kiện. Việc thụ lý giải quyết VADS cũng chính là yếu tố ảnh hưởng đến

hiệu quả của hoạt động khởi kiện VADS. Do đó, để đảm bảo việc khởi kiện

42

đúng quy định pháp luật để từ đó quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật

bảo vệ thì các chủ thể khi khởi kiện cũng phải tuân thủ các quy định về thẩm

quyền của Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ.

Khi tiếp nhận đơn khởi kiện thì Thẩm phán được phân công phải xem

xét đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc được quy

định tại các điều 26, 28, 30, 32 BLDS năm 2015 hay không hoặc trong trường

hợp các điều luật này không liệt kê đầy đủ thì những vụ việc đó phải không

thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác. Nếu đã thuộc thẩm

quyền của Tòa án thì phải đối chiếu với các điều 35, 36, 37, 38 để xem xét vụ,

việc đó thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh hay TAND cấp

huyện, vụ việc đó có thuộc thẩm quyền của Tòa án đã tiếp nhận đơn khởi kiện

hay thuộc thẩm quyền của Tòa án cùng cấp khác (thẩm quyền của Tòa án theo

lãnh thổ). Trong trường hợp vụ, việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì

tùy trường hợp Thẩm phán phải ra một trong các quyết định như trả lại đơn

khởi kiện, chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án khác, chuyển vụ việc cho Tòa án

có thẩm quyền hay đình chỉ giải quyết vụ án khi Tòa án đã thụ lý nhưng

không phát hiện vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Chính

vì vậy, khi khởi kiện cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thỏa mãn các yếu tố sau:

Thứ nhất, khởi kiện đúng thẩm quyền của Tòa án theo loại việc

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo loại việc là tổng hợp các loại

vụ việc về dân sự mà Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục

TTDS. Thẩm quyền về loại việc của Tòa án sẽ phân định với những vụ việc

dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác. Chủ thể khởi kiện

phải xác định tranh chấp dân sự của mình có phải loại việc thuộc phạm vi

thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không bởi không phải mọi tranh chấp

Tòa án đều có thẩm quyền giải quyết.

Bộ luật TTDS năm 2015 được xây dựng dựa trên Hiến pháp năm 2013

và theo đó, nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các

43

chủ thể được ghi nhận tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Đáng chú ý là sự bổ

sung khoản 2 Điều luật này: "Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc

dân sự vì lý do chưa có luật để áp dụng", đây có thể nói là sự thay đổi quan

trọng nhất của BLTTDS năm 2015 so với BLTTD năm 2004 (sửa đổi, bổ

sung năm 2011) nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp

cận công lý của người dân được thực hiện. Chính vì vậy, cách quy định của

BLTTDS năm 2015 khác với BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

Theo BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Tòa án chỉ có thẩm

quyền giải quyết các tranh chấp khác về dân sự nếu có một văn bản pháp luật

khác đang có hiệu lực thi hành quy định vụ việc đó thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tòa án. Khác với điều này, các điều 26, 28, 30, 32 BLDS năm 2015

quy định "... trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác theo

quy định của pháp luật". Điều này có nghĩa, Tòa án chỉ có quyền từ chối thụ

lý giải quyết các tranh chấp dân sự khi pháp luật quy định thuộc thẩm quyền

của cơ quan, tổ chức khác.

Thứ hai, khởi kiện đúng thẩm quyền của Tòa án theo cấp

Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 về hệ thống tổ

chức Tòa án thì TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm

đối với các VADS. Do vậy, việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo

cấp chính là đánh giá đối với một VADS cụ thể TAND cấp huyện hay TAND

cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án

theo cấp được quy định tại Điều 35, 37 BLTTDS năm 2015 dựa trên tính chất

phức tạp của từng loại vụ việc, dựa vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa án.

Theo đó, thẩm quyền của TAND cấp huyện hiện nay được quy định:

(i) tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26, Điều 28

của BLDS năm 2015, trừ tranh chấp quy định tại Khoản 7 Điều 26 Bộ luật

này; (ii) tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại Khoản 1 Điều 30

44

Bộ luật này; (iii) tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 Bộ luật này;

(iiii) những tranh chấp trên mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc

cần ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, cho

Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. Tuy

nhiên, theo Khoản 4 Điều 35 "Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công

dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh

chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con...", trường hợp này

xuất hiện yếu tố đương sự ở nước ngoài nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của

TAND cấp huyện. Thực chất, đây không phải vấn đề mới được đề cập đến

trong BLTTDS năm 2015 mà khi xây dựng BLTTDS năm 2015 các nhà làm

luật đã kế thừa quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP

về các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo Điều 37 BLTTDS năm 2015 thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền

giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương

mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo loại việc trừ tranh

chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Có thể nhận thấy

thẩm quyền của TAND cấp huyện và cấp tỉnh được phân định rõ ràng, tránh

tình trạng vượt cấp hay thụ lý nhầm. Các chủ thể khi khởi kiện cần nằm rõ

những quy định này để xác định tranh chấp của mình là tranh chấp gì, thuộc

thẩm quyền của Tòa án cấp nào, như vậy mới có thể gửi đơn khởi kiện đến

đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết, từ đó giúp tiết kiệm thời gian, công

sức trong việc đi kiện.

Thứ ba, khởi kiện phải đúng thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và

theo sự lựa chọn của các bên đương sự

Về nguyên tắc, việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

phải được tiến hành dựa trên cơ sở bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của

Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, một mặt bảo đảm việc bảo vệ lợi ích nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, mặt khác đảm bảo Tòa án có

45

thẩm quyền giải quyết là Tòa án thuận lợi nhất cho việc tham gia tố tụng của

đương sự, là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án. Về căn

bản, các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39, Điều 40 BLTTDS

năm 2015 đã kế thừa các quy định của BLTTDS trước đây.

Tuy nhiên, cũng có những điểm khác biệt nhất định. Theo quy định tại

điểm c Khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì

Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết các "tranh chấp về bất

động sản". Quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 thì theo

hướng cụ thể hơn là Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi

có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Quy định này của BLTTDS năm

2015 dường như đã đi theo hướng giới hạn hơn thẩm quyền của Tòa án nơi có

bất động sản chỉ đối với trường hợp có đối tượng tranh chấp là bất động sản

chứ không bao hàm cả trường hợp tranh chấp về quyền tài sản liên quan đến

bất động sản [47, tr. 54-59]. Quy định này thực chất được xây dựng trên quan

niệm cần phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho Tòa án trong việc giải quyết

tranh chấp. Xét về thực tế thì các hồ sơ, giấy tờ về bất động sản do cơ quan quản

lý nơi có bất động sản nắm giữ, cơ quan này nắm vững thực trạng, nguồn gốc

của bất động sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án có điều kiện

thuận lợi hơn trong việc tiến hành các biện pháp xác minh, đảm bảo cho việc giải

quyết vụ kiện sát với thực tế sự việc nhu xem xét, thẩm định tại chỗ; tiến hành

định giá tài sản; thu thập tài liệu từ cơ quan nhà đất... Hiện nay, BLTTDS

năm 2015 chưa có một quy định có tính định nghĩa chính thức như thế nào là

trường hợp "đối tượng tranh chấp là bất động sản" để khi vận dụng có thể bao

quát và xác định chính xác Tòa án có thẩm quyền đối với các tranh chấp dân sự.

Ngoài ra, điểm b Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: "Các

đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi

cư trú, làm việc của nguyên đơn...". Như vậy, quyền tự định đoạt của đương

sự đã được pháp luật đề cao, tôn trọng. Theo đó, nếu bị đơn đồng ý với

46

nguyên đơn về việc giải quyết vụ án tại Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm

việc thì Tòa án đó không được từ chối thụ lý. Tuy nhiên, đối với tranh chấp

mà đối tượng tranh chấp là bất động sản thì các bên không được thỏa thuận

mà vẫn là Tòa án nơi có bất động sản giải quyết.

Bên cạnh các quy định về xác định thẩm quyền như trên thì để đảm

bảo thuận tiện cho nguyên đơn trong việc tham gia tố tụng, Điều 40 BLTTDS

năm 2015 kế thừa và tiếp thu quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ

sung năm 2011) đã quy định một số trường hợp nhất định pháp luật cho phép

nguyên đơn được lựa chọn một trong số các Tòa án có thẩm quyền giải quyết

để yêu cầu giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, quy định này khác với quy định tại

Điểm b Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 ở chỗ nguyên đơn, người yêu cầu

có thể lựa chọn Tòa án mà không cần sự đồng ý của bị đơn, người yêu cầu. Quy

định này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt cho

chủ thể khởi kiện thực hiện việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết cho

mình, trao cho họ sự chủ động trong việc lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp

trong một số trường hợp nhất định như: nguyên đơn không biết nơi cư trú,

làm việc, trụ sở của bị đơn; tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...

Việc gửi đơn khởi kiện đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết là

một yếu tố rất quan trọng để xem xét việc thụ lý vụ án. Nếu vụ án thuộc thẩm

quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện,

nếu gửi đơn khởi kiện đến sai Tòa án có thẩm quyền xét xử theo cấp hay lãnh

thổ thì sẽ phải chuyển đơn khởi kiện sang đúng Tòa án có thẩm quyền. Do đó,

để tránh mất thời gian, công sức, người khởi kiện phải hết sức chú ý đến vấn

đề này để đảm bảo đơn khởi kiện của mình có thể được thụ lý nhanh chóng.

2.1.3.2. Vụ án chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án

hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật

Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của

Tòa án: Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi

47

hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ

quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án phải

nghiêm chỉnh chấp hành... Theo đó, khi một VADS đã được đưa ra giải quyết

bằng bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền khác và đã có hiệu lực thì cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến

VADS cần phải tôn trọng và thi hành. Đồng nghĩa với việc, đương sự không

được phép khởi kiện lại VADS đã được giải quyết trước đó, trừ một số trường

hợp pháp luật quy định.

Để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự, mặc dù bản

án, quyết định giải quyết vụ việc đó đã có hiệu lực pháp luật, pháp luật TTDS

vẫn quy định cho họ quyền khởi kiện lại vụ án theo quy định tại Khoản 3

Điều 192 BLTTDS năm 2015:

- Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi TTDS;

- Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng,

mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi

người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài

sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn,

cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của

pháp luật được quyền khởi kiện lại;

- Đã có đủ điều kiện khởi kiện.

Đây là trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện do chưa có đủ

điều kiện khởi kiện nên bị Tòa án trả lại đơn. Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị

quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn

về chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định pháp luật theo quy định tại

điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015:

Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật

là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định

về điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án

48

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà

nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu

một trong các điều kiện đó [40].

- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Đây là các trường hợp BLTTDS năm 2015 chưa quy định nhưng đã

được quy định trong Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm

phán TANDTC, các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều

ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, theo đó:

+ Đối với những VADS tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày

01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết"

nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS

năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền

nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS

năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015.

+ Đối với những VADS chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết

thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01/01/2017 Tòa

án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa

đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1

Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ

án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có

quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d

khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 và Tòa án

xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

+ Đối với trường hợp Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ

mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn

không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ

49

mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của

pháp luật. Nếu Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo

quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, người

khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng

địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc pháp luật quy định như vậy nhằm mục

đích bảo vệ tối đa quyền khởi kiện của người khởi kiện.

2.1.3.3. Tài liệu, chứng cứ chứng minh kèm theo đơn khởi kiện

Khi xảy ra tranh chấp hoặc có quyền và lợi ích hợp pháp bị chủ thể

khác xâm phạm thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện ra Tòa án

thông qua việc nộp đơn khởi kiện. Tuy nhiên, để chứng minh được cho yêu

cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, họ còn phải giao nộp các tài liệu,

chứng cứ có liên quan đến vụ việc để từ đó Tòa án có căn cứ giải quyết bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định tại khoản 5 Điều 189

BLTTDS năm 2015 quy định:

Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng

minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.

Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp

đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài

liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của

người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao

nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong

quá trình giải quyết vụ án [25].

Việc Tòa án yêu cầu chủ thể có quyền khởi kiện phải nộp tài liệu,

chứng cứ kèm theo là hoàn toàn phù hợp với tính chất của quan hệ pháp luật

TTDS cũng như nghĩa vụ chứng minh của đương sự khi yêu cầu Tòa án giải

quyết VADS. BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi cụm từ tài liệu, chứng cứ "ban

50

đầu" thành tài liệu, chứng cứ "hiện có" nhằm bảo đảm tốt hơn cho việc thực

hiện quyền khởi kiện của các chủ thể trên thực tế, tránh sự tùy tiện trả lại đơn

khởi kiện của Tòa án. Ngoài ra, tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016

của TANDTC về một số vấn đề hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, TTDS, có

hướng dẫn trong trường hợp khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện không

nộp kèm theo bất cứ tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho quyền và lợi ích

hợp pháp của mình bị tranh chấp hoặc xâm phạm thì phải có văn bản tường

trình, giải thích rõ tại sao không có tài liệu, chứng cứ để nộp cho Tòa án hoặc

không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập

tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp có lý do chính đáng về việc không nộp

được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và thực hiện việc thu

thập tài liệu theo quy định tại Khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015.

Tùy theo từng loại việc cụ thể, người khởi kiện phải kèm theo đơn

khởi kiện các chứng cứ, tài liệu cần thiết sau:

Thứ nhất, đối với tranh chấp về lao động, cần gửi kèm theo đơn khởi

kiện là bản hợp đồng do các bên ký kết hoặc giấy tờ xác nhận các bên đã giao

kết hợp đồng; các chứng cứ, tài liệu phản ánh quá trình thực hiện hợp đồng

của các bên; các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác.

Thứ hai, đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, kèm theo đơn

khởi kiện là giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; giấy khai sinh của các con;

giấy tờ chứng nhận sở hữu tài sản chung của vợ chồng hoặc của sở hữu riêng

của từng người; các chứng cứ tài liệu khác có liên quan.

Thứ ba, đối với tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, kèm

theo là các chứng cứ, tài liệu xác định có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt

hại, lỗi của người bị hại, bản kê những thiệt hại thực tế xảy ra kèm theo các

hóa đơn, chứng từ chi sửa chữa, khắc phục thiệt hại; các giấy tờ tài liệu khác.

Thứ tư, đối với tranh chấp về thừa kế gửi kèm theo đơn khởi kiện

gồm: di chúc nếu có, giấy chứng tử của người để lại di sản; bản kê khai các di

51

sản và các giấy tờ sở hữu của người để lại di sản; giấy khai sinh, giấy chứng nhận

kết hôn, hộ khẩu, giấy giao nhận con nuôi để xác định diện và hàng thừa kế.

2.1.3.4. Điều kiện tiền tố tụng trước khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự

Không phải trường hợp nào Tòa án cũng xem xét, thụ lý sau khi người

khởi kiện nộp đơn khởi kiện, pháp luật TTDS hiện hành quy định một số loại

vụ án mà Tòa án chỉ thụ lý nếu đương sự đã thực hiện thủ tục tiền tố tụng.

Tùy vào từng loại tranh chấp mà pháp luật yêu cầu thủ tục tiền tố tụng tương

ứng khác nhau. Cụ thể là những trường hợp sau đây:

Thứ nhất, đối với trường hợp tranh chấp về lao động

+ Ngoài những tranh chấp không bắt buộc phải thông qua hòa giải cơ

sở được quy định tại Khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012, thì theo

quy định tại Khoản 4 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012 thì tranh chấp lao

động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động phải thông qua

hòa giải cơ sở. Trong trường hợp hòa giải không thành, hoặc một trong các

bên không thực hiện hòa giải, hòa giải không trong thời hạn luật định, khi đó,

các bên tranh chấp mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động

với người sử dụng lao động theo quy định tại Khoản 3 Điều 205 Bộ luật Lao

động năm 2012, sau khi tranh chấp được chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)

cấp huyện giải quyết mà các bên tranh chấp không đồng ý với quyết định đó

hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện không giải quyết trong thời hạn pháp luật

quy định thì các bên tranh chấp mới được yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy, trong hai trường hợp tranh chấp lao động nêu trên, trước khi

các bên tranh chấp nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cần phải thực

hiện hoạt động hòa giải cơ sở hoặc được giải quyết bởi Chủ tịch UBND cấp

huyện tùy từng trường hợp tương ứng.

Thứ hai, đối với trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất

Hiện nay, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội

đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần

52

thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm" của BLTTDS đã

được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLTTDS

đã hết hiệu lực. Tuy nhiên, theo tinh thần của Nghị quyết này đã hướng dẫn

giới hạn các trường hợp bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải cơ sở quy

định tại Khoản 3 Điều 8 thì tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thì

không phải hòa giải tại UBND cấp xã trước khi khởi kiện, chỉ bắt buộc hòa

giải cơ sở trong trường hợp tranh chấp về việc ai đó có quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, khác với Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP, Điều 202 Luật Đất đai

năm 2013 quy định: "Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự

hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở" và

"tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn

đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải", nhưng lại

không quy định cụ thể những tranh chấp nào liên quan đến đất đai phải hòa

giải cơ sở và tranh chấp nào không phải hòa giải cơ sở dẫn đến tình trạng

người dân lúng túng khi sử dụng pháp luật.

Thứ ba, đối với trường hợp tranh chấp về bồi thường thiệt hại do

người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng gây ra

Khoản 1 Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước

năm 2009 quy định đương sự chỉ có thể khởi kiện tranh chấp bồi thường thiệt

hại tại Tòa án khi đã yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giải

quyết việc bồi thường mà cơ quan đó không ra quyết định trong thời hạn luật

định hoặc do không đồng ý với quyết định giải quyết đó. Tuy nhiên, Luật

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm 2017 lại quy định hoàn

toàn mới về quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường

trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi

thường, trong các trường hợp sau đây: (a) người yêu cầu bồi thường chưa yêu

cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết

yêu cầu bồi thường; (b) người yêu cầu bồi thường rút yêu cầu bồi thường quy

53

định tại Điều 51 của Luật này. Đồng thời, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày

nhận được quyết định giải quyết bồi thường mà người yêu cầu bồi thường không

đồng ý với quyết định đó hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng

thành mà cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không ra

quyết định giải quyết bồi thường hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả thương

lượng không thành thì người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu

Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường, quy định này tương tự với quy định tại

Điều 22 nêu trên của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

2.1.4. Hình thức và thủ tục khởi kiện

2.1.4.1. Hình thức khởi kiện vụ án dân sự

Bằng việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa án do cá nhân, pháp nhân thực hiện

quyền khởi kiện của mình mà VADS được phát sinh. Căn cứ tại Điều 189

BLTTDS năm 2015, cá nhân, cơ quan, tổ chức khi khởi kiện phải làm đơn

khởi kiện. Hình thức đơn khởi kiện phải rõ ràng, đầy đủ; nội dung cần trình

bày được những vấn đề cơ bản theo quy định tại Khoản 2 Điều 189 BLTTDS

năm 2015. Trong trường hợp người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc

điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ

quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi

kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, mất năng

lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của

những người này ký tên hoặc điểm chỉ.

2.1.4.2. Thủ tục khởi kiện

Căn cứ Điều 190 BLTTDS năm 2015 quy định về thủ tục gửi đơn

khởi kiện đến Tòa án, thì sau khi chuẩn bị đơn khởi kiện kèm tài liệu, chứng

cứ kèm theo, người khởi kiện sẽ gửi hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nơi có thẩm

quyền giải quyết vụ bằng các phương thức: nộp trực tiếp tại Tòa án; gửi đến

Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử

thông qua cổng thông tin điện tử của Tòa án.

54

Ngày khởi kiện là ngày đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hoặc

ngày được ghi dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi. Tòa án nhận đơn

khởi kiện, ghi vào sổ nhận đơn và cấp hoặc gửi giấy báo nhận đơn cho người

khởi kiện biết. Tuy nhiên, trên thực tế người dân đi nộp đơn thường gặp khó

khăn bởi một số đội ngũ cán bộ tiếp nhận đơn gây khó khăn, người nộp đơn

phải sửa lại đơn nhiều lần, bị sách nhiễu yêu cầu cung cấp chứng cứ phức tạp,

thậm chí nhiều trường hợp người khởi kiện đi gửi đơn tại bộ phận tiếp nhận

đơn nhưng không biết đến thủ tục cán bộ nhận đơn phải ghi vào sổ nhận đơn,

hoặc đưa giấy đã tiếp nhận đơn... cho mình nên cán bộ tiếp nhận đơn cũng vờ

đi không biết, không ghi, không đưa. Để khắc phục điều này tại một số Tòa

án đã lắp đặt camera ghi hình tiếp dân, nhưng dường như một số cán bộ vẫn

cố tình gây khó khăn cho người đi kiện, giải thích khó hiểu, nhiều nơi còn đùn

đầy trách nhiệm bằng cách từ chối đơn và kêu người dân gửi bằng đường bưu

điện, trong khi việc gửi trực tiếp hay gửi bằng đường bưu điện là quyền lựa

chọn của người dân.

Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu chính

nơi gửi thì ngày khởi kiện là ngày đương sự gửi đơn tại tổ chức dịch vụ bưu

chính. Đương sự phải chứng minh ngày mình gửi đơn tại tổ chức dịch vụ bưu

chính; trường hợp đương sự không chứng minh được thì ngày khởi kiện là

ngày Tòa án nhận được đơn khởi kiện do tổ chức dịch vụ bưu chính chuyển đến.

Trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện bằng phương thức gửi

trực tuyến thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn.

Trường hợp chuyển vụ án cho tòa án khác theo quy định tại Điều 141

BLTTDS năm 2015 thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn khởi kiện đến Tòa án

đã thụ lý nhưng không đúng thẩm quyền và được xác định theo quy định tại

Khoản 2 và Khoản 3 của Điều này. Sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày được

phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và ra một trong các quyết

định sau:

55

+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;

+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo

thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn

quy định tại Khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;

+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho

người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác;

+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

2.2. Kết quả đạt đƣợc từ thực trạng thực hiện kỹ năng khởi kiện

vụ án dân sự qua số liệu thống kê của ngành Tòa án

Bộ luật TTDS năm 2015 được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta cũng như cụ thể hóa các quy định của

Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan như Luật Tổ chức TAND năm

2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và các luật chuyên

ngành khác có liên quan. BLTTDS năm 2015 đã có nhiều quy định cụ thể về

khởi kiện VADS. Trên cơ sở BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn

thi hành, các cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tiến hành khởi kiện tại TAND các

cấp. Trường hợp đương sự khởi kiện đáp ứng các điều kiện khởi kiện và thụ

lý VADS theo quy định thì Tòa án đều thụ lý để giải quyết. Thông qua hoạt

động thụ lý giải quyết các VADS, cho thấy các chủ thể đã đáp ứng được điều

kiện mà pháp luật yêu cầu khi khởi kiện VADS. Bên cạnh đó, qua số liệu

thống kê các vụ việc Tòa án đã thụ lý qua từng năm, có thể thấy người dân đã

và đang ngày càng nhận thức được rõ quyền công dân của mình. Số lượng các

vụ việc dân sự được Tòa án các cấp thụ lý, giải quyết hàng năm đều tăng cao,

thể hiện sự tin tưởng của người dân vào Tòa án.

- Năm 2010, TAND các cấp đã thụ lý 215.741 vụ việc dân sự, đã giải

quyết, xét xử được 194.372 vụ việc, đạt 90%. Trong đó, giải quyết, xét xử

theo thủ tục sơ thẩm 180.022 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.032 vụ việc

và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 1.318 vụ việc [32].

56

- Năm 2011, TAND các cấp đã giải quyết, xét xử được 222.386 vụ

việc dân sự; đạt 90%, tăng hơn so với năm trước 28.014 vụ việc; trong đó,

giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 207.230 vụ việc; theo thủ tục phúc

thẩm 13.730 vụ việc và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 1.426 vụ việc [34].

- Năm 2012, TAND các cấp thụ lý 271.306 vụ việc dân sự; đã giải

quyết, xét xử được 246.215 vụ việc (đạt 90%, tăng 23,829 vụ việc. Trong đó,

giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm 231.546 vụ việc, theo thủ tục phúc

thẩm 13.484 vụ việc và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 1.185 vụ việc [35].

- Năm 2013, TAND các cấp thụ lý 301.912 vụ, tăng 30.606 vụ; đã giải

quyết, xét xử 274.303 vụ việc, tăng 28.088 vụ việc so với cùng kỳ năm trước;

trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 259.636/285.794 vụ việc;

theo thủ tục phúc thẩm 13.509/14.845 vụ việc và theo thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm 1.158/1.273 vụ việc [37].

- Năm 2014, TAND các cấp thụ lý 320.912 vụ việc; đã giải quyết, xét

xử 294.443 vụ việc, đạt 91,7% (so với năm 2013, số thụ lý tăng 19.000 vụ

việc, giải quyết tăng 20.140 vụ việc). Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục

sơ thẩm 279.800 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.548 vụ việc và theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm 1.095 vụ việc [38].

- Năm 2015, TAND các cấp thụ lý 333.159 vụ việc, đã giải quyết, xét

xử 308.585 vụ việc, đạt 92,6% (so với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng

12.172 vụ, giải quyết tăng 14.142 vụ). Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ

tục sơ thẩm 294.555 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.203 vụ việc và theo

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 827 vụ việc [39].

- Năm 2016, TAND các cấp thụ lý 359.748 vụ việc, đã giải quyết, xét

xử 332.896 vụ việc, đạt tỷ lệ 92,5% (so với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng

26.598 vụ, giải quyết tăng 24.311 vụ). Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ

tục sơ thẩm 318.676 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.583 vụ việc và theo

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 637 vụ việc [42].

57

- Năm 2017, TAND các cấp thụ lý 387.051 vụ việc, đã giải quyết, xét

xử 338.756 vụ việc, đạt tỷ lệ 87,5%, (so với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng

27.303 vụ, giải quyết tăng 5.860 vụ). Trong đó, thụ lý theo thủ tục sơ thẩm

372.134 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 326.293 vụ việc; thụ lý theo thủ tục

phúc thẩm 13.949 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 11.673 và thụ lý theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm 968 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 790 vụ việc [43].

Qua các số liệu thống kê nêu trên, chúng ta có thể thấy việc khởi kiện

VADS đã được thực hiện tương đối hiệu quả trên thực tế, việc khởi kiện đúng

và hiệu quả chính là điều kiện tiên quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của các chủ thể trong quá trình giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh

trong các quan hệ pháp luật dân sự.

2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong thực hiện kỹ năng

khởi kiện vụ án dân sự

2.3.1. Hạn chế trong thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi kiện vụ án

dân sự

Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động khởi kiện các VADS

cũng còn một số hạn chế, thiếu sót. Những tồn tại, hạn chế này phát sinh ngay

từ chính các quy định pháp luật và hoạt động TTDS.

Thứ nhất, những hạn chế vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật về

khởi kiện vụ án dân sự

- Vướng mắc về xác định chủ thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên

quan đến dòng họ: Theo quy định của Điều 211 BLDS năm 2015 thì quyền

sử dụng đất, nhà thờ họ, đất hương hỏa là tài sản chung của cộng đồng. Tài

sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia. Khoản 3

Điều 7 Luật đất đai năm 2013 quy định "Người đại diện cho cộng đồng dân

cư có thể được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử ra đối với việc sử dụng đất".

Thực tiễn giải quyết các VADS về tranh chấp quyền sử dụng đất và nhà thờ

họ trong những năm qua cho thấy, việc xác định chủ thể khởi kiện còn gặp

58

nhiều vướng mắc và chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng, chỉ cần đa số

các thành viên của dòng họ ủy quyền cho một hoặc một số người đứng đơn

khởi kiện là đã đảm bảo tư cách của người khởi kiện. Nhưng quan điểm khác

lại cho rằng, do quyền sử dụng đất, nhà thờ họ là tài sản chung hợp nhất của

cộng đồng họ tộc, mọi việc liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản phải thể

hiện sự nhất trí chung của cả họ và chỉ có cộng đồng họ tộc mới có quyền

khởi kiện đòi người đang quản lý phải trả lại tài sản nên việc khởi kiện phải

thể hiện ý chí chung của cả dòng họ. Điều này có nghĩa rằng, việc khởi kiện

phải thông qua tất cả các thành viên của dòng họ hoặc thông qua cơ chế ủy

quyền. Quan điểm khác lại cho rằng, trưởng họ đương nhiên là đại diện hợp

pháp cho dòng họ nên trưởng họ sẽ có quyền khởi kiện và tham gia tố tụng

trong vụ án. Chính vì còn có nhiều quan điểm không thống nhất như trên nên

vẫn còn một số vụ án bị hủy do vi phạm thủ tục tố tụng.

Ví dụ: Vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất và nhà thờ họ giữa

nguyên đơn Dòng họ Nguyễn Đức thôn T, xã P, huyện C, tỉnh H với bị đơn

bà Nguyễn Thị Th. Đơn khởi kiện ban đầu do các ông Nguyễn Đức N,

Nguyễn Đức H và Nguyễn Đức T đại diện cho dòng họ ký tên, kèm theo là

bản danh sách ký tên của 26 người là các thành viên dòng họ Nguyễn Đức

đang sinh sống tại thôn T ủy quyền cho 3 người này khởi kiện. Tòa án cấp sơ

thẩm và phúc thẩm đã chấp nhận tư cách khởi kiện của 3 người trên. Tuy

nhiên, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều bị TANDTC hủy trong đó có nhận xét:

"Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xác

minh chính xác được dòng họ Nguyễn Đức có bao nhiêu người và có những ai

ủy quyền cho ông H, ông N, ông T nhưng lại xác định ba ông là đại diện dòng

họ, từ đó chấp nhận với tư cách đại diện nguyên đơn là chưa đủ căn cứ…" [44].

Sau khi thụ lý, giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm, do các ông H, N, T

không cung cấp được đầy đủ văn bản ủy quyền của tất cả các thành viên trong

dòng họ Nguyễn Đức nên TAND huyện C đã ra quyết định đình chỉ việc giải

59

quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự. Tại Quyết định xét kháng

cáo ngày 19/6/2012, TAND tỉnh H đã hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án

với nhận định: "…Việc Tòa án buộc tất cả những người trong dòng họ Nguyễn

Đức đều có văn bản ủy quyền cho 3 ông H, N, T là không thể thực hiện được,

bởi lẽ có những động cơ và lý do khác nhau, có những người là bị đơn hoặc

đứng về phía bị đơn, có những người không đứng về bên nào hoặc trước đây đã

bị khai trừ ra khỏi họ nên đương nhiên họ sẽ không ủy quyền cho 3 người này".

Qua ví dụ trên cho thấy, cùng một VADS nhưng lại có các quan điểm

giải quyết trái ngược nhau giữa Tòa án các cấp về việc xác định tư cách người

khởi kiện. BLDS năm 2015 chỉ quy định hai loại chủ thể tham gia quan hệ

dân sự là cá nhân và pháp nhân. Vì vậy, quan điểm cho rằng trưởng họ đương

nhiên là đại diện hợp pháp cho dòng họ hay người được trưởng họ ủy quyền

sẽ là chủ thể khởi kiện và tham gia tố tụng là không phù hợp với quy định của

BLDS năm 2015. Song, nếu bắt buộc tất cả những người trong dòng họ ủy

quyền cho người đại diện thì người đại diện mới có quyền khởi kiện là không

hợp lý, khó thực hiện bởi có những dòng họ rất lớn, có nhiều người sinh sống

ở nhiều tỉnh, thành khác nhau và có cả người đang định cư ở nước ngoài nên

không thể thu thập được đầy đủ văn bản ủy quyền khởi kiện. Mặt khác, do

pháp luật dân sự chưa có quy định tiêu chí xác định thành viên của dòng họ và

vấn đề người đại diện của dòng họ nên thiếu cơ sở pháp lý để xác định ai là

thành viên của dòng họ? dòng họ đó có tất cả bao nhiêu người cũng như ai là

người đại diện hợp pháp của dòng họ tham gia các quan hệ dân sự. Đây là vấn

đề còn gây nhiều tranh cãi cả về góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng.

- Vướng mắc trong xác định người có quyền, lợi ích bị xâm phạm, để

từ đó xác định chủ thể có quyền khởi kiện vẫn còn nhiều tranh cãi, dẫn đến

Tòa án đã từ chối không thụ lý đơn khởi kiện của đương sự.

Ví dụ: Bản án dân sự phúc thẩm số 30/DS-PT ngày 17/7/2017 của

TAND tỉnh M tuyên ông X phải trả cho bà Y số tiền 700.000.000 đồng. Ngày

60

27/9/2017, ông X bán căn nhà của mình cho bà L. Hợp đồng mua bán giữa

ông X và bà L đã được công chứng. Tuy nhiên, sau khi nhận được bán nhà

từ bà L., ông X không trả tiền cho bà Y nên bà Y đã làm đơn yêu cầu thi

hành án gửi Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, đồng thời khởi kiện

yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông X và bà L. Có ý kiến cho rằng,

bà Y không có quyền khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông

X và bà L bởi chỉ có các chủ thể của hợp đồng mua bán mới có quyền khởi

kiện yêu cầu hủy hợp đồng và các tranh chấp khác phát sinh từ quan hệ hợp

đồng [20, tr. 31-36].

- Vướng mắc về việc xác định phạm vi giải quyết trong vụ án tranh

chấp hôn nhân và gia đình:

Đây là một trong những hạn chế, vướng mắc của quy định pháp luật

về phạm vi khởi kiện và sẽ dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trong thực

tiễn thực hiện.

Ví dụ: Chị Trần Thị A và Anh Nguyễn Văn B đăng ký kết hôn năm

2006 tại UBND xã H, huyện K, tỉnh L. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống

hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 6/2012, anh B

đem theo con bỏ nhà đi khỏi địa phương không thông báo cho chị A biết.

Tháng 3/2013, chị A đăng thông báo tìm kiếm anh B trên Báo Công lý và Đài

Tiếng nói Việt Nam nhưng không có kết quả. Do đó chị A làm đơn xin ly hôn

anh B. Về con chung: Chị A và anh B có 01 con chung là Nguyễn Văn C, sinh

ngày 01/7/2009. Do anh B đã mang con đi khỏi nơi cư trú nên chị đề nghị để

anh B tiếp tục nuôi dưỡng và chị sẽ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của

pháp luật. Về tài sản chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án cấp sơ

thẩm đã quyết định xử cho chị A được ly hôn anh B, giao cháu C cho anh B

tiếp tục nuôi đến khi cháu thành niên. Chị A phải cấp dưỡng nuôi con cho anh

B 600.000đ/tháng cho đến khi cháu C thành niên. Ngày 26/8/2013, Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh HY kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên, trong đó có nhận

61

xét về phần quan hệ nuôi con chung như sau: Chị A chưa làm thủ tục tìm

kiếm cháu C. Hồ sơ không có tài liệu, chứng cứ thể hiện quan điểm của anh B

về con chung, không có căn cứ khẳng định cháu C đang ở với anh B. Tòa án

sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai của chị Xuân đã giao con cho anh B nuôi dưỡng

là không có căn cứ, trái với Điều 5 BLTTDS, khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân

và gia đình [48].

Qua tình huống cụ thể trên cho thấy, nhận thức về sự liên quan giữa

quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi con chung trong vụ án tranh chấp hôn nhân

và gia đình của những người tiến hành tố tụng có sự khác nhau. Tòa án cấp

phúc thẩm chấp nhận sự tự nguyện rút yêu cầu giải quyết về con chung của

nguyên đơn và nhận định nếu sau này các đương sự có yêu cầu sẽ được xem

xét, giải quyết ở một vụ kiện khác. Điều này đồng nghĩa với việc Tòa án cấp

phúc thẩm xác định giữa quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi con chung trong

vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình không có mối liên quan, nếu đương sự

không yêu cầu thì có thể tách ra giải quyết bằng những vụ án riêng biệt.

Để việc nhận thức và áp dụng quy định pháp luật về phạm vi khởi

kiện được thống nhất thì TANDTC cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về

nội dung này.

- Vướng mắc khi xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án:

Những hạn chế, bất cập từ quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ của

Tòa án trong pháp luật TTDS Việt Nam đã dẫn đến sự vướng mắc trong thực

tiễn áp dụng. Điển hình là vụ án tranh chấp kiện đòi tài sản giữa nguyên đơn

ông Lê Đức Dư với bị đơn bà Đỗ Thị Hương, có đăng ký hộ khẩu thường trú

tại số 18/102 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Nơi ở và tạm

trú: số 01 G10 Khu đô thị mới Ciputra, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ,

thành phố Hà Nội. Vụ án do TAND quận Hai Bà Trưng thụ lý, xét xử bằng

bản án số 08/2015/DS-ST ngày 10/9/2015. Ngày 22/9/2015, Viện kiểm sát nhân

dân quận Hai Bà Trưng ra quyết định kháng nghị số 08/QĐKNPT/VKS-DS,

62

trong đó có nội dung: Hồ sơ vụ án thể hiện nơi cư trú của bị đơn là quận Tây

Hồ, thành phố Hà Nội nên vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND

quận Tây Hồ, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quận Hai Bà

Trưng. Bị đơn cũng kháng cáo với nội dung Tòa án quận Hai Bà Trưng xét xử

là không đúng thẩm quyền, còn thiếu người tham gia tố tụng. Tại bản án phúc

thẩm số 48/2016/DSPT ngày 24/03/2016, TAND thành phố Hà Nội nhận định

bà Hương có hộ khẩu tại quận Hai Bà Trưng và tạm trú tại quận Tây Hồ nên

vụ kiện giải quyết ở Tòa án Tây Hồ hay Tòa án quận Hai Bà Trưng đều đúng

với quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tại Quyết định

giám đốc thẩm số 32/2017/DS-GĐT ngày 25/4/2017 của TAND cấp cao tại

Hà Nội đã hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án

cho TAND quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy

định của pháp luật với nhận định: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bà Hương

có hộ khẩu tại quận Hai Bà Trưng và tạm trú tại quận Tây Hồ nên vụ kiện giải

quyết tại một trong hai Tòa án đều đúng với quy định pháp luật về thẩm

quyền giải quyết của Tòa án là không đúng. Theo quy định của Luật Cư trú

thì nơi cư trú của công dân là "chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên

sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú". Do đó,

tại một thời điểm, nơi cư trú của công dân chỉ có thường trú hoặc tạm trú,

không thể đồng thời cả hai. Trong vụ việc này, tại thời điểm khởi kiện bà

Hương thường xuyên sinh sống và tạm trú tại quận Tây Hồ nên thẩm quyền

giải quyết là của TAND quận Tây Hồ [28].

Thứ hai, những tồn tại, hạn chế phát sinh từ hoạt động TTDS của cán

bộ, Thẩm phán TAND

- Tình trạng Tòa án không thực hiện đúng quy định về thủ tục nhận

đơn khởi kiện

Mặc dù quy định của pháp luật TTDS về nhận đơn khởi kiện tương

đối rõ ràng và cụ thể, tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng cho thấy, không phải

63

Tòa án nào cũng thực hiện đúng quy định này. Đối với những đương sự có

trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao, khi họ đến Tòa án nộp đơn khởi kiện

thường không biết về quy định Tòa án phải cấp giấy xác nhận đã nhận đơn

khởi kiện nên không yêu cầu. Về phía Tòa án, để giảm bớt áp lực về số lượng

các VADS phải giải quyết nên nếu đương sự không yêu cầu được cấp giấy

xác nhận thì Tòa án cũng không ghi vào sổ, không cấp mà chỉ nhận dưới hình

thức trao tay giữa đương sự và cán bộ nhận đơn. Đến khi Tòa án xem xét đến

hồ sơ khởi kiện và quyết định thụ lý vụ án thì mới thực hiện thủ tục này để

hợp thức hóa hồ sơ khởi kiện theo quy định pháp luật. Tại Báo cáo số 03/BC-TA

ngày 01/3/2018 của TANDTC về tổng hợp những hạn chế, thiếu sót trong

công tác chuyên môn, nghiệp vụ năm 2017 của các Tòa án thông qua công tác

kiểm tra cũng nêu: Chưa thực hiện nghiêm túc quy định về việc gửi thông báo

nhận đơn khởi kiện theo quy định, đặc biệt, có Tòa án khi nhận đơn của đương

sự không cấp Giấy nhận đơn mà việc nhận đơn được thể hiện bằng biên bản

giao nhận là không phù hợp với quy định tại Điều 191 BLTTDS năm 2015.

- Tòa án thụ lý VADS không đúng về thẩm quyền

Thẩm quyền của Tòa án đã được quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng

trong pháp luật TTDS. Tuy vậy, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự

cho thấy nhiều trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhận

đơn, lẽ ra Tòa án phải chuyển đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo tới

Tòa án có thẩm quyền nhưng do không nắm vững các quy định về thẩm

quyền theo cấp và theo lãnh thổ nên Tòa án nhận đơn vẫn thụ lý vụ án [46 .

Việc thụ lý không đúng thẩm quyền dẫn tới Tòa án đã thụ lý phải ra quyết

định chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết làm cho yêu cầu khởi

kiện chậm được xem xét, giải quyết.

Ví dụ: Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa anh Bùi Quang Mến

và anh Bùi Quang Nam do TAND huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên thụ lý, giải

quyết. Cùng với yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn phải trả lại quyền sử dụng đất

64

thì nguyên đơn còn có yêu cầu Tòa án xem xét hủy quyết định chuyển đổi

mục đích sử dụng đất do UBND huyện Tiên Lữ cấp cho bị đơn. Theo quy

định tại khoản 4 Điều 34 BLTTDS năm 2015 thì thẩm quyền xem xét việc

hủy quyết định hành chính cá biệt nêu trên thuộc TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên,

TAND huyện Tiên Lữ vẫn thụ lý vụ án, tiến hành các thủ tục tố tụng và tại

phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã phải tạm ngừng phiên tòa và ra quyết

định chuyển vụ án số 01/2018/QĐST-DS ngày 21/6/2018 tới TAND tỉnh

Hưng Yên để giải quyết theo thẩm quyền [31].

Thứ ba, những tồn tại, hạn chế từ phía các đương sự

Thực tiễn thực hiện khởi kiện VADS cho thấy, nhiều trường hợp do

nhận thức, hiểu biết pháp luật của đương sự về các điều kiện khởi kiện VADS

còn hạn chế dẫn đến việc đương sự thực hiện chưa tốt các quyền và nghĩa vụ

của mình. Chẳng hạn như nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng không có đầy đủ

các nội dung theo quy định của pháp luật, thiếu những tài liệu, chứng cứ cần

thiết cho việc khởi kiện hoặc đương sự nộp đơn khởi kiện không đúng thẩm

quyền theo loại việc của Tòa án, khởi kiện tranh chấp đất đai khi chưa qua thủ

tục hòa giải tại UBND xã, khởi kiện khi không có quyền khởi kiện... Cá biệt

còn có trường hợp đương sự cố tình lợi dụng việc khởi kiện để đạt được

những mục đích nhất định. Điều này được minh chứng qua các ví dụ sau đây:

Ví dụ: Trường hợp đương sự khởi kiện không đúng thẩm quyền theo

loại việc dân sự của Tòa án: Ông Đinh Quang Sê, trú tại thôn Hậu Xá, xã

Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên khởi kiện ông Nguyễn Văn Bộ,

người cùng thôn. Theo đơn khởi kiện, ông Sê trình bày, mẹ ông là cụ Phạm

Thị Phấn có tiêu chuẩn ruộng liệt sĩ. Tuy nhiên ông Bộ đã có hành vi lạm

dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiêu chuẩn ruộng liệt sĩ của mẹ ông. Nay

ông khởi kiện yêu cầu Tòa án phải xử lý ông Bộ về tội lạm dụng chức vụ

quyền hạn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, buộc ông phải bồi

thường thiệt hại cho mẹ ông. Khi nhận đơn khởi kiện của ông Sê, TAND

65

huyện Tiên Lữ đã mời ông Sê đến Tòa án để trực tiếp hướng dẫn, giải thích

các quy định pháp luật về khởi kiện VADS cho ông Sê, ra thông báo yêu cầu

ông sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, theo đó ghi rõ yêu cầu khởi kiện là

tranh chấp dân sự nào. Tuy nhiên ông Sê không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu

nên TAND huyện Tiên Lữ đã trả lại đơn khởi kiện của ông Sê với căn cứ sự

việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án [30].

Thứ tư, những tồn tại, hạn chế từ hoạt động của người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong TTDS, đặc biệt là luật sư, trợ giúp

viên pháp lý

Hiện nay, với quá trình phát triển nhanh chóng của hệ thống pháp luật

Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng đội ngũ luật sư đã có những bước phát

triển nhất định. Chất lượng cũng như số lượng luật sư đã được nâng lên, nhu

cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của các cơ quan, tổ chức, nhất là các doanh

nghiệp, cá nhân; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư nhiều hơn, phạm vi

hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng. Hoạt động của các

Đoàn Luật sư đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và của Nhà

nước. Về phía các Trung tâm trợ giúp pháp Nhà nước ở các tỉnh, thành phố

cũng hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt chức năng trợ giúp pháp lý cho các

đối tượng được trợ giúp theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, do thủ tục hành chính rườm rà, thói quan liêu, cửa quyền

vẫn chưa được xóa bỏ triệt để trong các cơ quan nhà nước nên luật sư, trợ

giúp viên pháp lý của đương sự đôi khi vẫn gặp phải những khó khăn trong

việc thực hiện nhiệm vụ đối với đương sự hoặc bị yêu cầu về thủ tục, giấy tờ

một cách vô lý khi tiếp xúc với một số cơ quan nhà nước, người có thẩm

quyền giải quyết những việc liên quan đến dân sự. Vì vậy, nhiều khi những

người này không thực hiện được việc hỗ trợ đương sự khi thu thập tài liệu,

chứng cứ để nộp kèm theo đơn khởi kiện. Điều này cho thấy thực trạng là có

66

lúc, có nơi vai trò của luật sư, trợ giúp viên pháp lý chưa thực sự được coi

trọng đúng mức.

Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu đội ngũ luật sư hoạt

động chuyên sâu, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin

còn hạn chế, một số luật sư hoạt động thụ động, ít tham gia tranh tụng tại Tòa

án [27]. Theo báo cáo tổng kết công tác tư pháp của Bộ Tư pháp năm 2017

cho thấy, tình hình hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp, nhất là luật sư,

xuất hiện các diễn biến phức tạp, gây khó khăn và tạo thêm áp lực cho công

tác quản lý nhà nước. Vi phạm trong hoạt động luật sư, công chứng... còn

nhiều, với những hình thức ngày càng tinh vi.

Thứ năm, sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ

chứng cứ, tài liệu dẫn tới khó khăn cho đương sự khi thực hiện việc khởi kiện

Về nguyên tắc, khi nhận được đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ vào sổ

nhận đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy

nhiều trường hợp Thẩm phán yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung tài liệu,

chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp

pháp để làm căn cứ thụ lý VADS nhưng đương sự không thể bổ sung được

do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đang lưu giữ những tài liệu, chứng cứ này

không có thiện chí cung cấp cho đương sự. Có trường hợp, đương sự phải đi

lại nhiều lần mới xin sao lục được thửa đất là đối tượng tranh chấp để cung

cấp cho tòa án như trường hợp ông Nguyễn Đình Toàn, trú tại Đội 3, xã Dị

Chế, huyện TL, tỉnh HY đã phải đi lại UBND xã Dị Chế tới 05 lần để xin

trích lục thửa đất [29].

2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực

hiện kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

* Nguyên nhân khách quan

- Nguyên nhân trước tiên dẫn tới những tồn tại, hạn chế trong thực

tiễn thực hiện khởi kiện và thụ lý VADS là do sự hạn chế, bất cập của các quy

67

định pháp luật điều chỉnh hoạt động khởi kiện và thụ lý VADS. Đó chính là

những hạn chế, bất cập, sự thiếu rõ ràng, cụ thể của các quy định pháp luật,

chưa phù hợp với lý luận về khởi kiện và thụ lý VADS, dẫn đến sự vướng

mắc và không thống nhất.

- Số lượng các loại vụ việc dân sự mà các Tòa án phải thụ lý, giải

quyết tiếp tục có xu hướng gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp, các

đương sự khi thực hiện việc khởi kiện tại Tòa án gặp khó khăn khi thu thập

các tài liệu, chứng cứ chứng minh mình là người có quyền và lợi ích hợp pháp

bị xâm phạm, còn cán bộ, Thẩm phán hay gặp khó khăn, vướng mắc trong

việc xác định các điều kiện khởi kiện và thụ lý VADS.

- Công tác tổ chức tòa án chưa thực sự được kiện toàn, số lượng biên

chế cán bộ, Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu so với cơ cấu, tổ chức, bộ

máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Tòa án. Theo Báo cáo công tác tổ chức,

cán bộ của hệ thống TAND ngày 9/4/2018, tính đến ngày 30/9/2017, tổng số

biên chế của TAND các cấp có 14.725 người, thiếu 521 người so với chỉ tiêu

biên chế được giao. Trong khi đó, số lượng biên chế biên chế 15.237 người

được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân bổ từ năm 2012, khi đó số lượng các

vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án các cấp phải giải quyết hơn 303.848 vụ

việc/năm. Đến nay, số lượng vụ việc phải giải quyết tăng hơn 40% so với thời

điểm giao biên chế. Mặt khác, theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tinh giản biên

chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì lộ trình đến năm 2021

phải giảm 10%. Trong khi đó, mặt bằng đào tạo, kinh nghiệm và năng lực

công tác của đội ngũ công chức, Thẩm phán Tòa án các cấp giữa các khu vực,

vùng miền khác nhau còn chưa đồng đều. Trình độ, năng lực của một bộ phận

cán bộ, Thẩm phán còn bất cập, hạn chế ở một số lĩnh vực như kỹ năng thực

thi công vụ, công tác dân vận, kiến thức pháp luật quốc tế... Đặc biệt, trong

đội ngũ cán bộ Tòa án vẫn còn có những cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn

68

đến sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật. Trong năm

2017, qua công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, TANDTC

đã xử lý kỷ luật 18 công chức TAND địa phương (trong đó, buộc thôi việc 02

trường hợp, hạ bậc lương 01 trường hợp, cảnh cáo 06 trường hợp, khiển trách

8 trường hợp, xử lý về hình sự 01 trường hợp) [41]. Việc giải quyết các

VADS của Tòa án nói chung và việc thực hiện khởi kiện và thụ lý nói riêng

chỉ có thể tốt khi đội ngũ cán bộ Tòa án vững mạnh về mọi mặt. Những tồn

tại cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ Tòa án hiện nay là

nguyên nhân chủ yếu làm giảm hiệu quả hoạt động của Tòa án, giảm niềm tin

của xã hội vào hoạt động tư pháp.

- Trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về khởi kiện và thụ

lý VADS của tổ chức, cá nhân chưa cao, một bộ phận người dân chưa nắm

vững các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS nên thực hiện

việc khởi kiện không đúng. Cá biệt còn có trường hợp cố tình lợi dụng việc

khởi kiện để nhằm mục đích cá nhân.

Ví dụ: Trường hợp ông Vũ Xuân Thắm ở thôn Giai Lệ, xã Lệ Xá,

huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Giữa ông Thắm và bà Vũ Thị Cùi không phát

sinh quan hệ pháp luật cũng như tranh chấp nào và không có căn cứ chứng

minh bà Cùi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng ông vẫn

khởi kiện vì cho rằng bà Cùi là mẹ của một đồng chí lãnh đạo tỉnh, cố tình lợi

dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt diện tích đất nông nghiệp thùng vũng của

thôn để xây nhà kiên cố. Nhiều trường hợp, người khởi kiện đã được cán bộ

Tòa án trực tiếp hướng dẫn viết đơn khởi kiện và chuẩn bị các tài liệu, chứng

cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện nhưng họ không đồng ý mà vẫn làm

đơn khởi kiện theo ý mình dẫu khả năng sử dụng máy tính, truy cập internet

còn hạn chế. Điều này là chưa phù hợp với giai đoạn hiện nay, khi sự phát

triển nhanh chóng của công nghệ điện tử, thông tin truyền thông đã có tác

động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư

69

pháp dân sự. Một số quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS của

Việt Nam đã có phần bắt kịp với xu hướng tăng cường ứng dụng công nghệ

thông tin trong TTDS trên thế giới như thủ tục khởi kiện, tống đạt văn bản tố

tụng bằng phương tiện điện tử nên khả năng ứng dụng công nghệ thông tin

của một số cán bộ, Thẩm phán còn hạn chế như trên là một trong những

nguyên nhân dẫn tới những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện khởi kiện và

thụ lý VADS.

- Năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, Thẩm

phán chưa cao nên dẫn đến việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý vụ án không đúng.

- Năng lực, trình độ, phẩm chất và ý thức trách nhiệm của một bộ

phận cán bộ, lãnh đạo của Viện kiểm sát còn hạn chế; lãnh đạo một số đơn vị

chưa gương mẫu và làm tốt công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra tại

đơn vị và cấp dưới. Một số kiểm sát viên chưa thực sự coi trọng hoạt động

kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện và thụ lý VADS nên khi nhận được Thông

báo thụ lý vụ án hoặc Thông báo trả lại đơn khởi kiện nhưng không xem xét

kỹ lưỡng, thấu đáo các căn cứ trả lại đơn khởi kiện cũng như những điều kiện

thụ lý VADS, dẫn tới không phát hiện việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện sai

hoặc thụ lý vụ án không đúng để thực hiện kiến nghị kịp thời.

* Nguyên nhân chủ quan

- Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng còn

hạn chế, chưa khai thác được tối đa tính năng, lợi ích của công nghệ thông tin

để nâng cao hiệu quả hiệu quả thực hiện khởi kiện, người khởi kiện chưa có

thói quen sử dụng internet để gửi đơn khởi kiện. Ngoài ra, việc tiếp nhận, xử

lý đơn khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án chưa thực sự hiệu quả

khiến người khởi kiện càng lo ngại về việc gửi đơn khởi kiện qua Cổng thông

tin điện tử, việc này ít nhiều cũng khiến người khởi kiện tự đánh mất cơ hội

tiếp cận công nghệ thông tin trong quá trình khởi kiện của mình, giảm thiểu

thời gian, chi phí đi lại.

70

Kết luận Chƣơng 2

Trên cơ sở phân tích về thực tiễn thực hiện việc khởi kiện VADS với

một số kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong thực tiễn thực hiện khởi

kiện VADS và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này, kết quả nghiên

cứu tại Chương 2 luận văn, tác giả cũng tập trung các kỹ năng pháp lý để khởi

kiện VADS. Đó là các kỹ năng về xác định điều kiện khởi kiện VADS, điều

kiện chủ thể khởi kiện, điều kiện về thẩm quyền giải quyết VADS của Tòa án,

các quy định về điều kiện vụ án chưa được giải quyết bằng văn bản, quy định

của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, các quy định về tài liệu, chứng cứ xuất

trình kèm theo đơn khởi kiện, quy định về điều kiện tiền tố tụng. Đó là các kỹ

năng về xác định phạm vi, hình thức và thủ tục khởi kiện VADS với các quy

định về phạm vi khởi kiện VADS, hình thức khởi kiện VADS.

Việc nắm bắt tốt các kỹ năng đã được phân tích sẽ giúp người khởi

kiện thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ, đúng pháp luật, bảo đảm cho

việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đây cũng chính là các yêu cầu

cụ thể, cần thiết cho những người tham gia tố tụng nói chung và những người

thực hiện yêu cầu khởi kiện VADS nói riêng.

71

Chƣơng 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP

NÂNG CAO KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

3.1. Yêu cầu nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

3.1.1. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và trách nhiệm

của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi người

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI của Đảng đã khẳng định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp phải là

nơi để người dân có thể tin tưởng trong việc bảo vệ quyền của mình. Nền tư

pháp phải thật sự trong sạch, vững mạnh, dân chủ, thực hiện tốt các quyền

hạn và nhiệm vụ của mình để quyền con người được phát huy và được bảo vệ

tích cực.

Hoạt động tư pháp mà trong đó Tòa án được xác định giữ vị trí trung

tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải được tiếp tục cải cách,

nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả cao. Trong chiến lược

cải cách tư pháp ở Việt Nam, hoạt động xét xử cần phải nâng cao chất lượng

và mọi công dân đều có quyền tiếp cận công lý. Quyền tiếp cận công lý là một

trong những quyền con người, quyền dân chủ của công dân. Để quyền tiếp

cận công lý được bảo đảm thì pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói

riêng phải thừa nhận các quyền không thể bị tước đoạt của con người. Chính

vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật TTDS về khởi kiện phải bảo đảm cho đương

sự có khả năng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của mình tại Tòa án. Cụ thể,

pháp luật tố tụng cần có những quy định để người dân được thực hiện quyền

khởi kiện một cách đơn giản nhất theo hướng người dân có đơn khởi kiện thì

Tòa án có trách nhiệm thụ lý đơn và xem xét giải quyết. Trong quá trình Tòa

án giải quyết vụ án phải cụ thể, minh bạch, tương thích với các quy định của

72

pháp luật nội dung để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho người dân dễ dàng

thực hiện các quyền của mình tại Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật TTDS cũng

cần có những quy định cụ thể, những chế tài nghiêm khắc đối với những chủ

thể có hành vi cố tình lạm dụng quyền khởi kiện và quyền tố tụng khác để

nhằm mục đích gây thiệt hại về kinh tế, uy tín cho người khác, tạo sân chơi

bình đẳng cho người có quyền khởi kiện và người bị kiện. Vì vậy, việc hoàn

thiện pháp luật về khởi kiện VADS cần bảo đảm tốt hơn nữa quyền con

người, quyền khởi kiện và quyền tiếp cận công lý của người dân, tăng cường

khả năng thu hút quần chúng nhân dân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức

xã hội tham gia tích cực, có hiệu quả vào quá trình tố tụng ngay từ giai đoạn

đầu tiên là khởi kiện, đặc biệt là vai trò của Thẩm phán và hệ thống TAND.

Việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp tố tụng về khởi kiện

và thụ lý VADS phải xóa bỏ được tâm lý "ngại đến Tòa án" của người dân, để

mọi tranh chấp, xung đột trong xã hội phải được giải quyết bởi cơ quan nhà

nước có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật, góp phần xây

dựng và bảo vệ pháp chế XHCN.

3.1.2. Khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về

khởi kiện vụ án dân sự để nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

Bộ luật TTDS năm 2004 được ban hành là sự tổng kết có kế thừa các

quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS, lao động, kinh tế

trước đây. Sau 10 năm thi hành, BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những điểm

vướng mắc, bất hợp lý và cần được sửa đổi, bổ sung toàn diện. Chính vì vậy,

ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII thông qua BLTTDS năm 2015 có hiệu

lực thi hành từ ngày 1/7/2016 với nhiều quy định mới, tiến bộ, bảo đảm tính

thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết các VADS, đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với chính sách mở cửa,

hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, qua

một thời gian thi hành BLTTDS năm 2015 cho thấy, vẫn còn nhiều quy định

73

của pháp luật nội dung và pháp luật TTDS còn chưa cụ thể, có sự mâu thuẫn

và không thống nhất dẫn đến nhận thức và cách giải quyết khác nhau giữa các

Tòa án và các Thẩm phán. Các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật đối với các vướng mắc trong thực tiễn xét xử còn chậm ban hành. Tính đến

nay, TANDTC là cơ quan được giao nhiệm vụ chủ yếu hướng dẫn các quy định

của Bộ luật này cũng mới chỉ ban hành Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày

30/12/2016 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt văn

bản tố tụng bằng phương tiện điện tử và Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP

ngày 05/5/2017 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

Những bất cập, vướng mắc của pháp luật về khởi kiện và thụ lý

VADS tập trung ở một số điểm như sau:

- Một số quy định của pháp luật TTDS về khởi kiện VADS còn chưa cụ

thể, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xét xử, như quy định về chủ thể

khởi kiện còn chưa tương thích với pháp luật dân sự, khó xác định chủ thể

khởi kiện trong các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà

của dòng họ, chi họ; quy định về quyền khởi kiện của tổ chức công đoàn chưa

ràng, chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về phạm vi khởi kiện... dẫn đến

cách hiểu và áp dụng không thống nhất.

- Một số quy định của BLTTDS về đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ

kèm theo đơn khởi kiện chưa rõ ràng và minh bạch... như không quy định cá

nhân được ủy quyền cho người khác ký đơn khởi kiện; thế nào là "tài liệu,

chứng cứ hiện có"; nếu người khởi kiện không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào

kèm theo đơn khởi kiện thì Tòa án có được trả lại đơn khởi kiện hay không.

Như vậy, có thể thấy, pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS vẫn còn

những điểm bất cập, có quy định chưa phù hợp với thực tiễn và tương thích

với pháp luật thế giới. Đây là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc

thực hiện kỹ năng khởi kiện VADS của người khởi kiện, làm ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Do đó, yêu cầu trước tiên đặt ra

74

trong việc hoàn thiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS là phải khắc

phục được những điểm bất hợp lý của các quy định pháp luật hiện hành. Khắc

phục được những điểm bất cập này cũng chính là nhằm bảo đảm tính khả thi

của các quy định pháp luật. Tính khả thi của pháp luật là yêu cầu tất yếu của

pháp luật và là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ

thống pháp luật nói chung và các quy định về khởi kiện và thụ lý VADS nói

riêng. Nếu không đáp ứng được các yêu cầu này thì việc ban hành các văn

bản pháp luật chỉ mang tính hình thức và không đáp ứng được yêu cầu điều

chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật.

Để đáp ứng được yêu cầu khả thi của pháp luật về khởi kiện và thụ lý

VADS, việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này cần đáp ứng được các yêu cầu

cụ thể sau:

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS

cần phải cụ thể, minh bạch, dễ hiểu và dễ áp dụng. Pháp luật về khởi kiện và

thụ lý VADS là những quy định về chủ thể khởi kiện, phạm vi khởi kiện, đơn

khởi kiện và phương thức gửi đơn khởi kiện, các căn cứ trả lại đơn khởi kiện,

khiếu nại và giải quyết khiếu nại về trả lại đơn khởi kiện; trình tự, thủ tục thụ

lý VADS... luôn gắn liền với mỗi hành vi tố tụng của nguyên đơn, bị đơn có

yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập,

của Thư ký, Thẩm phán, Kiểm sát viên...và đều gắn với những yêu cầu, tình

huống cụ thể. Bởi vậy, pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS phải đòi hỏi

tính chi tiết và cụ thể. Thực tiễn xét xử cho thấy, nếu pháp luật về khởi kiện

và thụ lý VADS quy định chung chung, không rõ ràng sẽ dẫn đến cách hiểu

không thống nhất, trả lại đơn khởi kiện không đúng hoặc có thể làm kéo dài

quá trình tố tụng. Pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS dễ hiểu, dễ áp dụng

sẽ tạo điều kiện cho người dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ một

cách thuận tiện nhất và tạo cả thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng.

75

Thứ hai, các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS phải bảo

đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định khác của BLTTDS và không

mâu thuẫn với các quy định của pháp luật nội dung. Một trong các tiêu chí để

đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là tính đồng bộ của các

quy phạm pháp luật. Do đó, cần rà soát các quy định của BLTTDS về khởi

kiện và thụ lý VADS, tìm ra những mâu thuẫn, thiếu sót để sửa đổi, bổ sung

nhằm bảo đảm sự thống nhất của các quy phạm pháp luật.

Thứ ba, các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS phải

đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử. Một trong các tiêu chí khác để đánh giá

mức độ hoàn thiện của pháp luật là pháp luật phải phù hợp với yêu cầu của thực

tiễn và có tính ứng dụng cao. Vì thế, cần sửa đổi một số điều của BLTTDS

cho phù hợp với thực tiễn xét xử, bổ sung thêm một số quy định về khởi kiện và

thụ lý VADS để giải quyết những vấn đề có thể xảy ra trong thực tiễn xét xử mà

pháp luật TTDS hiện hành còn bỏ ngỏ; quy định rõ ràng về các điều kiện khởi

kiện và thụ lý vụ án trong BLTTDS, có tiêu chuẩn cụ thể về thời hạn tố tụng liên

quan đến thụ lý và phải được công khai cho các đương sự biết, rút ngắn hơn

nữa các quy định về thời hạn xem xét đơn khởi kiện, thời hạn niêm yết các

văn bản tố tụng và trong thời gian tới có thể quy định thời điểm Tòa án nhận

đơn khởi kiện là thời điểm thụ lý vụ án...; quy định được sự có thể nộp tiền

tạm ứng án phí trực tuyến, điện tử để tạo điều kiện thuận tiện nhất cho đương sự.

3.1.3. Khắc phục những hạn chế phát sinh trong quá trình áp dụng

các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự

Theo các Báo cáo tổng kết công tác từ năm 2010 đến năm 2017 của

TANDTC cho thấy, số lượng các VADS mà Tòa án thụ lý, giải quyết năm sau

cao hơn năm trước. Nhìn chung, chất lượng giải quyết các vụ án đã được nâng

lên rõ rệt. Các Tòa án đã áp dụng tương đối đầy đủ và đúng các quy định pháp

luật về khởi kiện và thụ lý VADS. Tuy nhiên, trong thực tiễn còn có nhiều

trường hợp Tòa án các cấp trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện; thụ lý,

76

giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền... Mặc dù không có kết quả thống kê

cụ thể về số lượng các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên qua

phản ánh của một số Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh cho thấy số lượng

các đơn khởi kiện bị Tòa án trả lại chiếm tỉ lệ khá nhiều trong tổng số các

VADS mà các Tòa án đã thụ lý, giải quyết. Bên cạnh đó, việc áp dụng các

quy định về khởi kiện và thụ lý VADS trong thực tiễn vẫn còn bộc lộ một số

điểm hạn chế, bất cập như sau:

Thứ nhất, một số quy định của pháp luật về khởi kiện VADS đã được

quy định rõ ràng, cụ thể trong BLTTDS nhưng nhiều Thẩm phán, Tòa án vẫn

còn lúng túng trong việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về khởi

kiện VADS, còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về cùng một quy định

pháp luật dẫn đến tình trạng cùng một yêu cầu của đương sự nhưng lại có các

cách giải quyết khác nhau.

Thứ hai, do TAND các cấp chưa thực hiện việc thống kê số lượng các

trường hợp trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ và chưa có cơ chế xử lý

trách nhiệm của cán bộ, Thẩm phán khi từ chối nhận đơn khởi kiện của đương

sự không có căn cứ, trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định pháp luật nên

vẫn còn tình trạng thư ký không nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán trả lại đơn

khởi kiện không đúng căn cứ pháp luật gây bức xúc cho người dân...

Thứ ba, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ, Thẩm

phán còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của một bộ

phận cán bộ, công chức Tòa án chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi

nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về khởi

kiện và thụ lý VADS và giải pháp thực hiện phải khắc phục được những mặt

hạn chế nêu trên của thực tiễn xét xử.

- Nâng cao dân trí, ý thức pháp luật cho người dân:

Hiện nay, biện pháp tốt nhất để quyền khởi kiện VADS của người dân

được thực thi chính là nâng cao ý thức pháp luật cho người dân thông qua

77

nhiều biện pháp cụ thể. Ví dụ như tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật rộng rãi đến với từng người thông qua các kênh truyền thông như

báo chí, truyền hình, internet và thông qua công tác tuyên truyền tại địa

phương của các cơ quan đoàn thể. Xây dựng các tủ sách pháp luật ở từng khu

dân cư, trong đó có các hướng dẫn chi tiết liên quan đến việc thực hiện quyền

khởi kiện để người dân có thể tự tìm hiểu, nâng cao sự hiểu biết của cá nhân

về pháp luật. Có như vậy, người dân mới nhận được quyền của mỗi con

người, biết được cách thức tự bảo vệ thông qua việc khởi kiện ra Tòa án, biết

được cách thức làm đơn khởi kiện, các phương thức gửi đơn khởi kiện, biết

được các tài liệu, chứng cứ cần có khi khởi kiện ra Tòa án để chứng minh cho

yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Có thể nói, việc nâng cao ý thức

pháp luật của người dân góp phần giúp cho công tác tiến hành tố tụng được

diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, chính xác, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc

cho người dân cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng.

3.2. Giải pháp nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

Các quy định của pháp luật về khởi kiện VADS hiện nay chủ yếu

được quy định trong BLTTDS. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về nội dung

này, cần sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTDS trên cơ sở các yêu cầu

cụ thể đã đặt ra. Bên cạnh đó, cần có các nội dung hướng dẫn cụ thể để việc

áp dụng pháp luật được thống nhất, hạn chế những bất cập nảy sinh trong thực

tiễn thực hiện. Tác giả có một số giải pháp, cụ thể như sau:

- Cần quy định cụ thể về điều kiện khởi kiện, chủ thể có quyền khởi

kiện và chủ thể khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể ủy quyền cho

người khác khởi kiện.

Thứ nhất, về điều kiện khởi kiện.

Bộ luật TTDS cần bổ sung điều luật quy định về điều kiện khởi kiện

VADS, BLTTDS cần cơ cấu lại các điều luật để bổ sung thêm điều luật về

78

điều kiện khởi kiện VADS tại chương XII của BLTTDS tương tự như thiết kế

của BLTTDS một số nước. Cụ thể như sau:

"Điều.... 1. Điều kiện khởi kiện VADS là điều kiện do pháp luật tố

tụng dân sự quy định để cá nhân, tổ chức thực hiện việc khởi kiện yêu cầu

Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng bị xâm

phạm hoặc có tranh chấp

2. Các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự bao gồm: 1) Tổ chức, cá nhân

phải có lợi ích bị xâm phạm hoặc được pháp luật trao quyền khởi kiện và có

tư cách pháp lý; 2) Vụ án thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án nhân dân;

3) Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền".

Thứ hai, bổ sung và quy định về cá nhân được ủy quyền khởi kiện.

Hiện nay, pháp luật quy định người làm đơn khởi kiện phải trực tiếp

ký hoặc điểm chỉ (nếu là cá nhân) ký, đóng dấu (nếu là cơ quan tổ chức) là

quá cứng nhắc, không bảo đảm quyền khởi kiện của chủ thể. Bất cập này

cũng đã được nêu trong Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS của

TANDTC được trình bày tại Hội nghị tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS,

Vũng Tàu ngày 16 và 17 tháng 10 năm 2014 [36, tr. 86] nhưng rất tiếc rằng

BLTTDS năm 2015 đã không khắc phục được vấn đề này. Để bảo đảm quyền

lợi của người khởi kiện, tạo điều kiện cho họ thể hiện ý chí trực tiếp (ký hoặc

điểm chỉ) hoặc gián tiếp thông qua ủy quyền, theo tác giả cần sửa đổi, bổ sung

Điều 186, Điều 189 BLTTDS năm 2015 theo hướng người khởi kiện là cá

nhân được ủy quyền khởi kiện và không nhất thiết phải ký vào đơn khởi kiện

trong trường hợp đã ủy quyền. Bởi lẽ, hợp đồng ủy quyền của đương sự cũng

bảo đảm thể hiện đầy đủ ý chí của chủ thể thông qua nội dung ủy quyền, trách

nhiệm, hậu quả pháp lý của hai bên khi thực hiện hoạt động ủy quyền đó. Có

79

như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể thực hiện quyền tự do khởi

kiện của mình một cách tối đa. Đồng thời điều này cũng phù hợp với quy định

"mở" của BLTTDS năm 2015 với đa dạng hình thức tiếp nhận đơn thư của

Tòa án hiện nay.

Thứ ba, bổ sung quy định về quyền trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu

cầu khởi kiện.

Vụ án dân sự phát sinh chủ yếu là do các cơ quan, tổ chức, cá nhân

thực hiện việc khởi kiện bằng cách gửi đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ

kèm theo đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền. Những chủ thể này muốn

khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác theo

quy định của pháp luật phải làm đơn khởi kiện. BLTTDS chỉ thừa nhận một

hình thức khởi kiện duy nhất là đơn khởi kiện thể hiện bằng chữ viết tiếng

Việt, không thừa nhận việc khởi kiện bằng lời nói hoặc hình thức khác không

phải là văn bản và thể hiện bằng các ký hiệu, ngôn ngữ khác không phải là

tiếng Việt. Quy định này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về sự "thuận

tiện" và bảo đảm tối ưu quyền khởi kiện của đương sự. Pháp luật TTDS của

một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Hàn Quốc quy định, ngoài việc khởi

kiện bằng đơn khởi kiện thì đương sự còn có thể trực tiếp đến Tòa án trình

bày yêu cầu khởi kiện. Do vậy, cần bổ sung quy định về quyền trực tiếp đến

Tòa án để trình bày yêu cầu khởi kiện trong những trường hợp đương sự là

người tàn tật hoặc không biết chữ, tranh chấp đơn giản. Cán bộ Tòa án sẽ có

trách nhiệm lập biên bản về nội dung khởi kiện mà đương sự trình bày để đưa

vào hồ sơ vụ án.

Thứ tư, bổ sung quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối

với những vụ án về thừa kế.

Nghiên cứu pháp luật TTDS Việt Nam qua các thời kỳ cho thấy, việc

xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với những tranh chấp thừa kế

đã được quy định từ khá sớm. Theo Điều 21 Bắc kỳ pháp viện biên chế 1921,

80

nếu việc kiện về thừa kế thì quyền Thẩm phán thuộc về Tòa án sở tại chỗ phát

sinh ra việc thừa kế. Tại Thông tư số 39-NCLP ngày 21/1/1972 quy định: đối

với những tranh 163 chấp về thừa kế, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi

phát sinh việc thừa kế và là nơi có những tài sản chủ yếu để lại. Tại Công văn

số 96-NCLP ngày 8/2/1977 của TANDTC hướng dẫn: nguyên đơn kiện về di

sản thừa kế thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi phát sinh ra việc thừa kế

hoặc nơi có tài sản chủ yếu của người thừa kế để lại... Tuy nhiên, khi ban

hành BLTTDS năm 2004 sửa đổi năm 2011 và BLTTDS năm 2015 thì những

nội dung trên đã không được pháp điển hóa. Chính vì không được quy định rõ

ràng, cụ thể trong luật nên sẽ có những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp

dụng như đã phân tích. Do đó, tác giả kiến nghị cần bổ sung quy định về thẩm

quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với những vụ án về thừa kế như sau:

"Điều... Thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với tranh chấp thừa kế

Những tranh chấp về thừa kế do Tòa án nơi mở thừa kế hoặc nơi có những tài

sản chủ yếu của người chết để lại giải quyết".

3.2.2. Các biện pháp nâng cao năng lực tham gia tố tụng của người

khởi kiện vụ án dân sự

Nhằm nâng cao năng lực tham gia tố tụng của người khởi kiện VADS

cần thiết đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật TTDS.

Khi cá nhân, tổ chức muốn thực hiện việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của người khác, lợi ích công cộng

hay lợi ích của Nhà nước tại Tòa án thì họ phải hiểu biết pháp luật TTDS nói

chung và các quy định về khởi kiện và thụ lý VADS nói riêng, đặc biệt trong

giai đoạn hiện nay khi mà BLTTDS năm 2015 quy định theo hướng phát huy

tính tích cực, chủ động của các đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp. Do đó, cần thiết phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền và

phổ biến pháp luật TTDS nói chung, các quy định về khởi kiện và thụ lý VADS

nói riêng thông qua các hình thức như các phương tiện thông tin đại chúng,

81

công bố các văn bản pháp luật TTDS, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn quy

định về khởi kiện và thụ lý VADS. Các cơ quan, tổ chức hữu quan tuyên

truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật TTDS về khởi kiện và thụ lý VADS đến

từng địa phương thông qua các lớp bồi dưỡng, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật...

Biên soạn các tờ rơi, tờ gấp, tài liệu pháp luật với những nội dung về điều kiện

khởi kiện, điều kiện thụ lý VADS, quy trình, thủ tục nhận và xử lý đơn khởi

kiện của Tòa án... Trong giáo dục, tuyên truyền và phổ biến pháp luật TTDS

về khởi kiện và thụ lý VADS, cần phải giúp cho mọi người hiểu biết rõ về

quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trình tự, thủ tục giải

quyết VADS ở Tòa án và đặc biệt là phải giúp họ nắm được các vấn đề cơ bản

nhất như khi nào mình được khởi kiện, khởi kiện ai, khởi kiện nội dung gì, tại

Tòa án nào, các tài liệu, chứng cứ cần thiết để nộp kèm theo đơn khởi kiện.

3.2.3. Đảm bảo sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự

Với vai trò là người hỗ trợ, giúp đỡ, có nền tảng kiến thức pháp lý, kỹ

năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự sẽ giúp người khởi kiện có những quyết định và hướng đi

đúng đắn, phù hợp nhất. Để đảm bảo sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự đối với người khởi kiện VADS cần củng cố và

phát triển đội ngũ này đủ về số lượng, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ để giúp đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp

pháp trước Tòa án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt là luật

sư cần được trang bị đầy đủ những kiến thức pháp lý sẽ dễ dàng thực hiện tốt

các kỹ năng khởi kiện vụ án để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự và ngược lại sẽ làm ảnh hưởng đến đương sự, làm giảm uy tín, nghề

nghiệp và hơn nữa còn ảnh hưởng đến quá trình giải quyết VADS tại Tòa án.

82

Do đó, để đáp ứng quyền có luật sư của mỗi người dân thì cần phải

thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, cần phải phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, đáp ứng

về chất lượng phục vụ tốt nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân.

Thứ hai, luật sư nên được đào tạo tính chuyên nghiệp ngay từ khi đang

là sinh viên tại các trường Đại học luật thông qua việc định hướng nghề

nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề để tạo động lực cho họ phấn đấu, nỗ lực

trong học tập, nghiên cứu các chế định pháp luật và các vụ án, các tình huống,

từ đó tích lũy kiến thức, kỹ năng làm nền tảng cho việc hành nghề sau này.

Thứ ba, luật sư cần được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường

xuyên. Xã hội Việt Nam đang không ngừng thay đổi và phát triển, các quan

hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và được điều chỉnh bằng pháp luật mà

các văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành ngày càng

nhiều. Do vậy, việc cập nhật kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã

hội để nâng cao trình độ nghiệp vụ, xây dựng cho mình một văn hóa tranh

tụng tại Tòa án phải được xác định là một trong những nhiệm vụ bắt buộc của

luật sư để mang tính ràng buộc, không phân biệt trình độ chuyên môn, kinh

nghiệm hay thâm niên nghề nghiệp. Có như vậy thì luật sư mới thể hiện được

vai trò của mình trong hoạt động tranh tụng và trợ giúp pháp lý, các đương sự

mới tin tưởng vào luật sư và vị thế của luật sư được nâng cao.

Thứ tư, phải giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho luật sư. Thực

tiễn cho thấy, một số luật sư đã vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức

nghề nghiệp. Do vậy, một luật sư nếu được bồi dưỡng thường xuyên về đạo

đức nghề nghiệp nhất định sẽ thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ

lợi ích của khách hàng, bảo vệ công lý và Nhà nước pháp quyền. Đồng thời,

cần kiên quyết loại bỏ các luật sư có hành vi vi phạm quy chế đạo đức nghề

nghiệp luật sư.

83

3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án,

Viện kiểm sát

- Công khai, minh bạch hoạt động tố tụng xem xét, giải quyết các hồ

sơ khởi kiện của đương sự và thủ tục thụ lý VADS tại Tòa án

Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước là một yêu

cầu tất yếu của xã hội hiện đại. Nền dân chủ thực sự chỉ có khi quyền lực nhà

nước được kiểm soát, hạn chế bởi những thiết chế dân chủ, người dân được

tham gia vào các quá trình xã hội. Để hạn chế quyền lực nhà nước, các quốc

gia áp dụng và thực thi những phương thức hạn chế quyền lực nhà nước từ

bên trong như Hiến pháp và hệ thống luật pháp, tổ chức bộ máy theo các hình

thức phân quyền và cơ chế kiềm chế, đối trọng quyền lực khác nhau. Trong

đó, công khai, minh bạch được coi là một trong những phương thức hạn chế

quyền lực nhà nước từ bên ngoài. Theo đó, nhà nước với tư cách là chủ thể

của quyền lực công phải công khai, minh bạch hoạt động của mình với toàn

thể xã hội và công chúng. Đối với Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ xét xử, bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ của công dân thì việc

công khai, minh bạch các hoạt động tố tụng, trong đó có các hoạt động tố tụng

liên quan đến khởi kiện và thụ lý VADS là việc làm hết sức cần thiết, góp

phần bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân. Thực tế hiện nay, TAND

các cấp đang thực hiện lộ trình công bố công khai bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật trên cổng thông tin điện tử của Tòa án theo Nghị quyết số

03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017. Điều này sẽ giúp cho công tác xét xử

của Tòa án trở lên minh bạch hơn không chỉ riêng đối với các bên đương sự

của vụ việc mà còn đối với cả công chúng khác, giúp cho người dân củng cố

thêm niềm tin vào cơ quan xét xử và tính pháp chế. Bên cạnh đó, việc công bố

công khai các phán quyết của Tòa án còn là một áp lực khiến Thẩm phán xét

xử và viết bản án tốt hơn, sẽ tránh hoặc giảm bớt sự tùy tiện của Thẩm phán

và Tòa án. Bởi lẽ, bằng cách công khai các phán quyết của Tòa án, người dân

84

có khả năng tiếp cận với công tác xét xử và giám sát được hoạt động xét xử.

Đây có lẽ là một trong những công cụ hữu hiệu nhất bảo đảm cho việc Tòa án

là của dân, do dân và vì dân. Từ những hiệu quả của việc công khai phán

quyết của Tòa án như trên, thiết nghĩ, để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật nói chung và pháp luật về khởi kiện VADS nói riêng, TANDTC cần sớm

xây dựng hệ thống quản lý vụ án điện tử. Điều này giúp cho lãnh đạo Tòa án

và Thẩm phán quản lý được thời gian giải quyết vụ án, các công đoạn tố tụng,

hành vi tố tụng mà Thẩm phán cần thực hiện. Đồng thời, cần ban hành quy

định về công khai, minh bạch các hoạt động tố tụng tại Tòa án ra bên ngoài,

trong đó có hoạt động tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện. Cụ thể như công

khai, minh bạch về thời gian người khởi kiện nộp đơn, tài liệu, chứng cứ nộp

kèm theo đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công xem xét, giải quyết; thời

hạn, kết quả xem xét, thụ lý đơn khởi kiện; thông tin về khiếu nại, kiến nghị

và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện...

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để nâng cao tinh thần,

trách nhiệm của Thẩm phán, cán bộ Tòa án trong thủ tục TTDS

Tòa án là cơ quan tư pháp đại diện cho nhà nước có thẩm quyền xét

xử VADS, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Để bảo đảm nguyên tắc này,

TANDTC đã ban hành quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/06/2017 quy

định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND. Theo

đó, Điều 9 và Điều 10 của quyết định này quy định, Thẩm phán sẽ bị xử lý

trách nhiệm bằng hình thức kiểm điểm trước cơ quan, đơn vị khi: "Trả lại đơn

khởi kiện không đúng quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi

ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc gây dư luận xấu, ảnh hưởng

đến uy tín của Tòa án nhân dân". Và nếu vẫn tiếp tục vi phạm, Thẩm phán có

thể bị tạm dừng thực hiện nhiệm vụ được giao trong 30 ngày. Tuy nhiên, để

các quy định về trách nhiệm của cán bộ, Thẩm phán Tòa án được thực thi một

cách có hiệu quả thì công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất về việc chấp hành

85

các quy định pháp luật của cán bộ, Thẩm phán trong việc giải quyết các

VADS tại Tòa án nói chung, các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý

VADS nói riêng cần được tiến hành thường xuyên để kịp thời phát hiện và xử

lý những vi phạm.

- Kiện toàn đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn

và trách nhiệm của Thẩm phán

Hiện nay, thực trạng quá tải về công việc tại các Tòa án, đã ảnh hưởng

đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, làm giảm niềm tin của

người dân và xã hội đối với công tác Tòa án. Qua công tác giải quyết các

VADS tại Tòa án cho thấy sự lúng túng, sai sót, thiếu thống nhất trong việc

thụ lý giải quyết các VADS là một trong những nguyên nhân dẫn tới quyền

khởi kiện của đương sự không được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Do vậy,

TANDTC cần chú trọng công tác tuyển dụng cán bộ, bổ nhiệm Thẩm phán,

lựa chọn những người có chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt làm công tác

xét xử và giải quyết các VADS. Hoạt động giải quyết các VADS của Tòa án

gắn liền với việc áp dụng và thực hiện các quy định của pháp luật nói chung

và quy định về khởi kiện và thụ lý VADS nói riêng. Do vậy, để việc áp dụng

pháp luật một cách chính xác và thống nhất đòi hỏi phải có sự bồi dưỡng, cập

nhật thường xuyên cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án các quy định của pháp luật

về khởi kiện và thụ lý VADS. Thực tiễn cho thấy, nhiều Thẩm phán áp dụng

các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS chưa đúng, làm ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như trả lại đơn khởi kiện

không có căn cứ, kéo dài thời gian nghiên cứu hồ sơ khởi kiện, tự đặt ra các

quy định không hợp lý khi đương sự đến Tòa án nộp đơn khởi kiện… Có Tòa

án khi đương sự đến nộp đơn khởi kiện, cán bộ nhận đơn thấy hồ sơ chưa đầy

đủ nên yêu cầu đương sự về bổ sung thêm mà không nhận đơn ngay rồi ra văn

bản yêu cầu họ bổ sung. Thậm chí, có Tòa án còn trả lại đơn khởi kiện cho

đương sự không bằng văn bản, khiến cho họ không thực hiện được quyền

86

khiếu nại của mình. Từ đó cho thấy việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, Thẩm phán; tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết chuyên đề về thủ tục khởi kiện và thụ lý

VADS để rút kinh nghiệm kịp thời là hết sức quan trọng và cần thiết.

3.2.5. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ

Việc thực hành tốt các kỹ năng khởi kiện VADS đòi hỏi các kỹ năng

của người khởi kiện phải được nâng cao. Để đảm bảo nâng cao kỹ năng khởi

kiện của các nguyên đơn, Nhà nước cần thường xuyên tổ chức các buổi tuyên

truyền phổ biến pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau (tổ chức lớp học,

các buổi giao lưu tập huấn chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm...). Việc đào tạo

kỹ năng nghề nghiệp, định hướng thực hành nghề cần được thực hiện ngay từ

chương trình đào tạo cử nhân của các trường Đại học luật thông qua việc định

hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề để tạo động lực cho họ

phấn đấu, nỗ lực trong học tập, nghiên cứu các chế định pháp luật và các vụ

án, các tình huống. Từ đó tích lũy kiến thức, kỹ năng làm nền tảng cho việc

hành nghề sau này. Các cán bộ Thẩm phán, Kiểm sát viên, những người hành

nghề pháp luật cần liên tục được bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, Thẩm phán… Việc nâng cao

trình độ hiểu biết pháp luật cho mọi đối tượng trong xã hội là công cụ đắc lực

để trợ giúp cho người dân biết và hiểu được quyền lợi của mình để từ đó có

thể thực hiện các quyền của mình phù hợp nhất, đảm bảo quyền công dân

được tôn trọng và đề cao - đây cũng chính là một trong các mục tiêu chính

của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Kết luận Chƣơng 3

Nội dung nghiên cứu của Chương 3 luận văn đã xác định các yêu cầu,

kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực hiện khởi kiện và VADS ở

Việt Nam. Đây cũng chính là nội dung cơ bản, là tiền đề để các kỹ năng khởi

kiện VADS được thực hiện tốt trên thực tế. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật

87

xuất phát từ đường lối của Đảng, về cải cách tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các kiến nghị

hoàn thiện pháp luật về khởi kiện VADS nhằm đảm bảo nâng cao hơn nữa sự

đồng nhất trong cách hiểu luật để từ đó người khởi kiện có cơ sở thực hiện tốt

các quy định pháp luật. Đây cũng là những đòi hỏi khách quan từ thực trạng

pháp luật và thực tiễn thực hiện cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo

đảm kế thừa pháp luật truyền thống của Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những

quy định của pháp luật TTDS nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Trên cơ sở thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật, kết

quả nghiên cứu đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định

pháp luật về vấn đề này như bổ sung quy định về điều kiện khởi kiện... đồng

thời cũng đề xuất một số giải pháp về hướng dẫn thi hành pháp luật như:

phạm vi khởi kiện, căn cứ trả lại đơn khởi kiện... Bên cạnh các kiến nghị về

lập pháp, tác giả đề xuất dược một số giải pháp thực hiện pháp luật về khởi

kiện VADS nhằm mục đích nâng cao và đảm bảo việc thực hiện các kỹ năng

khởi kiện VADS của người khởi kiện.

88

KẾT LUẬN

Quyền khởi kiện VADS là một trong những quyền cơ bản của con

người và nâng cao kỹ năng khởi kiện VADS là một trong những công cụ hữu

hiệu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ việc nghiên cứu

có hệ thống lý luận về khởi kiện VADS, luận văn đã làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận về kỹ năng khởi kiện VADS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của

kỹ năng khởi kiện VADS; cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về

khởi kiện; các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kỹ năng khởi kiện; những

nội dung của pháp luật TTDS về khởi kiện VADS.

Các quy định về khởi kiện VADS theo BLTTDS năm 2015 đã tương

đối hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn tố tụng. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy

định chưa thực sự phù hợp trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. Do

vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khởi kiện VADS nhằm bảo đảm tốt

hơn nữa quyền khởi kiện của người dân cũng như nâng cao trách nhiệm thụ

lý, giải quyết các VADS của Tòa án. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam

đang tiếp tục công cuộc đổi mới và tiếp tục triển khai chiến lược cải cách tư

pháp nên việc hoàn thiện pháp luật về khởi kiện VADS là một đòi hỏi khách

quan, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, tạo niềm tin từ các đối

tác nước ngoài khi tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam, đồng thời là một hoạt

động thiết thực xây dựng nhà nước pháp quyền.

89

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

1. Chu Thị Thanh Hương (2019), "Tòa án thành phố NT trả lại đơn khởi kiện vụ

án dân sự có đúng không?", Tạp chí Nghề luật, (5), tr. 63-65.

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alan B. Morrison (Chủ biên) (2007), Những vấn đề cơ bản của luật pháp

Mỹ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bùi Thị Quế Anh (2016), Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện

tại tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

3. Vũ Hoàng Anh (2017), Quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

4. Arnaud De Raulin, Jean Paul Pastorel, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Hoàng

Anh (Đồng chủ biên) (2016), Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật tới

pháp luật Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5. Chính phủ (2014), Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 quy

định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động, Luật dạy nghề, Luật người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại,

tố cáo, Hà Nội.

6. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội.

7. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

91

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển), Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Quang Hiền (2013), "Nguyên tắc quyền quyết định và tự định

đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính", Nghiên cứu

lập pháp, (17), tr. 28-30.

17. Học viện Tư pháp (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB

Tư pháp, Hà Nội, tr.246-247.

18. Học viện Tư pháp (2017), Giáo trình Kỹ năng của Thẩm phán, Kiểm sát

viên, Luật sư trong giải quyết vụ, việc dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.

19. Bùi Thị Huyền (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng

dân sự năm 2015, NXB Lao động, Hà Nội.

20. Bùi Thị Huyền (2017), "Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật

Tố tụng dân sự 2015", Tạp chí Kiểm sát, (12), tr. 31-36

21. L.Đ.Lêvitov (1983), Tâm lý học cá nhân, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội

22. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

23. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội

27. Trương Quang Sáng (2018), "Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò

quản lý nhà nước về luật sư và phát triển nghề luật sư trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình", Trang thông tin điện tử Sở Tư pháp tỉnh Quảng Bình.

28. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2017), Quyết định giám đốc thẩm số

32/2017/DS-GĐT ngày 25/4/2017, Hà Nội.

92

29. Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (2017), Hồ sơ vụ án tranh

chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn Đình Toàn, bị đơn

ông Nguyễn Văn Hải do Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên

thụ lý số 01/2017/TLST-DS ngày 10/02/2017, Hưng Yên.

30. Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (2017), Thông báo trả lại

đơn khởi kiện số 06/2017/TB-TA ngày 18/12/2017, Hưng Yên.

31. Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên (2018), Thông báo về việc thụ lý vụ án

dân sự số 11/TB-TL ngày 05/7/2018, Hưng Yên.

32. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2011, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày

3/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi

hành một số quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án của Tòa

án cấp sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung

theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2012, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2014), "Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Bộ

luật tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân tối cao", Tài liệu Hội nghị tổng

kết thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự, Tổ chức tại Vũng Tàu.

37. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác năm 2013 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2014, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015, Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016, Hà Nội.

40. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày

05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn

93

một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự

số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ

án, Hà Nội.

41. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo số 39/BC-TA ngày 10/10/2017

của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ

họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Hà Nội

42. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017, Hà Nội.

43. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018, Hà Nội.

44. Tòa dân sự - Tòa án nhân dân tối cao (2011), Quyết định giám đốc thẩm

số 200/2011/DS-GĐT ngày 19/3/2011, Hà Nội.

45. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (1998), Văn kiện quốc tế về

quyền con người, (Tập tài liệu dịch), Hà Nội.

46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt

Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Trần Anh Tuấn (2018), "Tiêu chí xác định thẩm quyền dân sự của Tòa án

theo lãnh thổ trong quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015", Kỷ

yếu Hội thảo: Những quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

48. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên (2013), Quyết định kháng nghị

phúc thẩm số 03/KN-PTDS ngày 26/8/2013, Hưng Yên.

49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của ngành

Kiểm sát nhân dân năm 2016, phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Hà Nội.

Trang web

50. http://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/ca-nhan-co-duoc-quyen-ky-

vao-don-thay-cho-nguoi-khoi-kien, truy cập ngày 22/10/2019.

51. http://www.vca.gov.vn/expage_bvntd.aspx?id=39&Cate_ID=458, Truy cập

ngày 10/8/2019, (Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, danh sách

Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).

94

PHỤ LỤC

Toàn bộ công trình đã công bố của tác giả