BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………..………… …….…...

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HOÀI NHIÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………..………… …….…...

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HOÀI NHIÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn về đề tài: “Thực hiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến

Cát, tỉnh Bình Dương” do tôi viết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham

khảo, giáo trình hướng dẫn, thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát,

tỉnh Bình Dương và được sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Cảnh

Hợp. Tôi đã hoàn thành Luận văn và chịu trách nhiệm với những vấn đề tôi

viết.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 6 năm 2019

Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Hoài Nhiên

LỜI CẢM ƠN

Học viện Hành chính là nơi đào tạo tin cậy, có uy tín đối với sinh viên, đội

ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành trong lĩnh vực đào tạo trình độ thạc

sĩ và tiến sĩ,… Trong 2 năm ở giảng đường Học viện là khoảng thời gian mà

mỗi học viên được tiếp nhận vốn tri thức cơ bản về Luật Hiến pháp và Luật

hành chính. Có được kết quả như ngày hôm nay cũng như hoàn thành tốt luận

văn tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khoẻ chân thành

đến:

- Lãnh đạo Học viện cùng các thầy, cô tại Học viện đã tận tình giảng

dạy, dành nhiều thời gian để tôi trau dồi tri thức, đạo đức.

- PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp đã hướng dẫn nhiệt tình cho tôi trong

suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đúng tiến độ luận văn này.

- Lãnh đạo và cán bộ cơ quan Công đoàn các khu công nghiệp Bến

Cát, Ban quản lý các khu công nghiệp Bình Dương, Phòng Lao động Thương

binh xã hội thị xã Bến Cát đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ, có những

góp ý thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành tốt luận văn.

- Gia đình, các anh chị khóa trên và bạn bè cùng khóa đã luôn động

viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Hoài Nhiên

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ ................................. 8

1.1. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động tập thể và giải quyết

tranh chấp lao động tập thể ............................................................................... .8

1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động tập thể .................................................... 8

1.1.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tập thể................................ 17

1.1.3. Hệ thống cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể ........ 23

1.1.4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể ..................... 31

1.1.5. Phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể ............................. 32

1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy

định của pháp luật hiện hành ........................................................................... 34

1.2.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền ..................... 35

1.2.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích .................... 43

Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 47

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU

CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH

DƢƠNG .............................................................................................................. 49

2.1. Khái quát về tình hình công nhân lao động và đoàn viên công đoàn

trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát ................................. 49

2.1.1. Khái quát chung về các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến

Cát.... ................................................................................................................... .49

2.1.2. Tình hình công nhân lao động trong các khu công nghiệp trên địa

bàn thị xã Bến Cát ............................................................................................... 50

2.1.3. Tình hình Công đoàn cơ sở, đoàn viên công đoàn, công nhân lao

động qua các năm (2014-2018) ........................................................................... 52

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại các doanh

nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

trong 5 năm (2014-2018) ................................................................................... 53

2.2.1. Tình hình tranh chấp lao động tập thể trong những năm từ 2014-

2018 ..................................................................................................................... 53

2.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp lao động tập thể tại các doanh

nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát ......... 59

2.2.3. Hậu quả của tranh chấp lao động tập thể tại các doanh nghiệp hoạt

động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát ............................. 64

2.3. Hệ thống cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể ....... 65

2.3.1. Hòa giải viên lao động .......................................................................... 65

2.3.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ................................................... 67

2.3.3. Hội đồng trọng tài lao động .................................................................. 69

2.3.4. Tòa án nhân dân .................................................................................... 71

2.4. Phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể .............................. 73

2.4.1. Thương lượng ....................................................................................... 73

2.4.2. Hòa giải và trung gian .......................................................................... 74

2.4.3. Trọng tài ............................................................................................... 74

2.4.4. Quyết định hành chính .......................................................................... 74

2.4.5. Xét xử ................................................................................................... 75

2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể trên địa bàn . 75

2.6. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật và thực trạng giải

quyết tranh chấp lao động tập thể ................................................................... 78

2.6.1. Về các quy định pháp luật .................................................................... 78

2.6.2. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động giải quyết tranh chấp

lao động tập thể trong thực tiễn ........................................................................... 82

Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 87

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU

CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH

DƢƠNG .............................................................................................................. 89

3.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể ........... 89

3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập

thể ....................................................................................................................... 89

3.1.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện các quy định pháp luật ....................... 91

3.2. Hoàn thiện hoạt động giải quyết tranh chấp lao động tập thể ............... 93

3.2.1. Về các quy định pháp luật ................................................................... 93

3.2.2. Về tổ chức thực hiện ............................................................................. 96

3.3. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế tranh chấp lao động tập thể tại các

doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã

Bến Cát ............................................................................................................. 100

3.3.1. Giải pháp tình thế trước mắt .............................................................. 100

3.3.2. Giải pháp chiến lược lâu dài ............................................................... 103

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 106

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 108

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH : Bảo hiểm xã hội

BLĐTBXH : Bộ Lao động thương binh xã hội

BLLĐ : Bộ luật lao động

CĐCS : Công đoàn cơ sở

HĐLĐ : Hợp đồng lao động

HGVLĐ : Hòa giải viên lao động

NLĐ : Người lao động

NSDLĐ : Người sử dụng lao động

TƯLĐTT : Thỏa ước lao động tập thể

UBND : Ủy ban nhân dân

WTO : Tổ chức Thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Hình 2.1: Biểu đồ số vụ tranh chấp lao động, CNLĐ tham gia tranh chấp

và tổng CNLĐ tại các doanh nghiệp tranh chấp qua các năm (2014-2018)

Hình 2.2: Biểu đồ CĐCS, ĐVCĐ, CNLĐ qua các năm (2014-2018)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân

quốc tế. Và hiện nay cũng đang là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam chính là nền

tảng và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng. Xây dựng giai cấp

công nhân Việt Nam lớn mạnh toàn diện trong điều kiện hiện nay về thực chất

là góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã

hội tạo cơ sở, nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ có tính sống còn đưa đất

nước vượt qua những khó khăn, thách thức và tận dụng thời cơ để phát triển

trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “Việt Nam, về cơ

bản, hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ,

chuyển sang giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại”.

Vận dụng một cách hiệu quả chủ trương, giải pháp đổi mới toàn diện

của đất nước, tỉnh Bình Dương nói chung và thị xã Bến Cát nói riêng đã và

đang phát huy thế mạnh của địa phương, thực hiện quy hoạch đồng bộ phát

triển các khu công nghiệp tập trung theo hướng hiện đại phù hợp với điều

kiện thực tiễn địa phương, đồng hành cùng với quá trình hình thành và phát

triển các khu công nghiệp là quá trình thu hút các nhà đầu tư và lao động

đến làm việc số lượng ngày càng nhiều.

Là một địa bàn có vị trí địa lý, chính trị khá quan trọng, điều kiện tự

nhiên nhiều ưu đãi, thị xã Bến Cát đang không ngừng phát huy nội lực, tập

- 1 -

trung đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp đồng thời có những chính sách

ưu đãi, khuyến khích hợp lý nên đã thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài

nước đầu tư, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế khiến cho

“vóc dáng” của một thị xã công nghiệp đã hình thành và đang dần rõ nét:

nhiều khu công nghiệp trọng điểm được hình thành đóng góp lớn vào ngân

sách, việc thu hút các nhà đầu tư và sự tăng lên rõ rệt của đội ngũ công

nhân… Sự phát triển nhanh chóng là một tín hiệu đáng mừng nhưng cũng

đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết để kinh tế - xã hội của địa phương

tiếp tục phát triển bền vững. Và một trong những vấn đề quan trọng đó là tạo

mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định giữa người lao động và người sử

dụng lao động.

Quan hệ lao động ở hầu hết các doanh nghiệp trong các khu công

nghiệp Bến Cát hài hòa, ổn định và tiến bộ. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh

nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài diễn biến phức tạp, khó lường, do tiền

lương, thu nhập của công nhân, lao động làm thuê không đủ sống, chế độ đãi

ngộ của chủ doanh nghiệp không tốt, điều kiện ăn, ở, sinh hoạt tạm bợ, đời

sống khó khăn; một số chủ doanh nghiệp không thực hiện đúng pháp luật lao

động và những cam kết, thoả thuận với người lao động, nhất là các quy định

về hợp đồng lao động, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, thời gian làm

việc và nghỉ ngơi, điều kiện làm việc … là nguyên nhân dẫn đến tình trạng

xung đột, tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể và đình công tự phát. Tranh

chấp lao động diễn ra không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của bản thân người

lao động mà còn thiệt hại đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lòng tin

của các nhà đầu tư. Do vậy, tác động xấu đến thu hút đầu tư nước ngoài đang

khởi sắc trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Mặt khác, tranh chấp lao

động gia tăng ảnh hưởng lớn đến vấn đề an ninh – xã hội của đất nước nói

chung và Bến Cát nói riêng.

- 2 -

Do vậy, nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

lao động tập thể trong các khu công nghiệp tại Bến Cát để tìm hiểu nguyên

nhân, đánh giá hậu quả và những bất cập trong quá trình giải quyết tranh chấp

để từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp

và giúp việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể, đồng thời hoàn thiện hệ

thống pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng, giữ vững ổn định

đối với sự phát triển của địa phương. Chính vì những điều đó, tôi đã chọn đề

tài “Thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể trong các

khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương” làm luận văn

tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Vấn đề tranh chấp lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động

tập thể được nhiều nhà nghiên cứu phân tích và đánh giá cả ở Việt Nam và

trên thế giới. Các nghiên cứu này khá đa dạng cả về đề tài lẫn phương pháp

tiếp cận. Có một số tác giả nghiên cứu thành công về nội dung tranh chấp lao

động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tập thể như Nguyễn Duy Hùng,

Nguyễn Văn Trọng, Trần Hoàng Hải,…Các tác giả đều đi theo xu hướng

chung là phân tích các quy định thực tại, tham khảo các quy định của pháp

luật một số quốc gia liên quan và đưa ra các đóng góp để hoàn thiện hệ thống

pháp luật hiện tại về các vấn đề liên quan.

Đối với Việt Nam từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, môi

trường lao động giữa doanh nghiệp tư nhân và người lao động xuất hiện, các

tranh chấp lao động và đặc biệt là tranh chấp lao động tập thể có xu hướng

tăng nên việc tìm ra các hướng giải quyết chúng ngày càng được sự quan tâm

của đông đảo các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực. Ở những phạm vi và

mức độ khác nhau, đã có khá nhiều công trình đề cập tới vấn đề tranh chấp

lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tập thể như "Hoàn thiện

- 3 -

pháp luật thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể" của hai tác giả Trần

Hoàng Hải và Đinh Thị Chiến; “Về tranh chấp lao động tập thể và việc giải

quyết tranh chấp lao động tập thể” của tác giả Lưu Bình Nhưỡng; "Tranh

chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động” của Nguyễn Xuân Thu. Về

luận văn liên quan thì có công trình “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp lao

động tập thể về lợi ích” của Đỗ Hoàng Giang năm 2011, đây là công trình

nghiên cứu một hình thức của tranh chấp lao động tập thể .

Các công trình kể trên đã nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, từ

nghiên cứu một cách có hệ thống hay mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh

của pháp luật về tranh chấp lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động

tập thể.

Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa có đề tài, tài liệu nào nghiên cứu

đầy đủ và chính thức về thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp. Vì vậy, trong luận văn này,

tác giả muốn nêu rõ thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh

Bình Dương và đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giải

quyết tranh chấp lao động tập thể.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

- Mục đích:

Phân tích đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể theo pháp luật lao động Việt Nam hiện hành trên

địa bàn các khu công nghiệp Bến Cát, chỉ ra các ưu điểm cũng như những hạn

chế tồn tại đồng thời đưa ra những ý kiến giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống

pháp luật liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể.

- Nhiệm vụ:

- 4 -

+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh chấp lao động tập thể và

pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể.

+ Thực trạng việc thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động

tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình

Dương.

+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp

luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể, giải pháp ngăn ngừa tranh chấp

lao động tập thể.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu:

Là các quy định pháp luật hiện hành (BLLĐ và các văn bản hướng dẫn

cũng như các văn bản pháp luật có liên quan) điều chỉnh về vấn đề liên quan

đến tranh chấp lao động tập thể và hoạt động thực hiện pháp luật về tranh

chấp lao động tập thể trong các doanh nghiệp trên địa bàn các khu công

nghiệp thị xã Bến Cát.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát,

tỉnh Bình Dương.

+ Thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về

giải quyết tranh chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn

thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018.

+ Phạm vi hoạt động: Tập trung nghiên cứu quan hệ lao động, việc thực

hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn:

- Phương pháp luận:

Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.

- 5 -

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Phương pháp sử dụng tài liệu,

các bản báo cáo của các tác giả đã nghiên cứu, đã đánh giá. Phương pháp

phân tích tài liệu được sử dụng từ việc chọn đối tượng, thu thập những thông

tin cần thiết đến việc phân tích thông tin và dữ liệu thu thập được. Đề tài có

sử dụng một số tài liệu như sách, báo, tài liệu tuyên truyền, tạp chí mạng, các

trang web có liên quan đến pháp luật về tranh chấp lao động tập thể, pháp luật

giải quyết tranh chấp lao động tập thể.

+ Phương pháp quan sát: thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp lao

động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát.

+ Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu, thu thập số liệu,

xử lý số liệu, phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Cơ sở lý luận: Đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện về thực trạng

pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể ở Việt Nam.

Ý nghĩa thực tiễn: đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng

thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về thực hiện pháp luật

về giải quyết tranh chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa

bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp lao động tập thể.

Chương 2. Thực trạng việc thực hiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát,

tỉnh Bình Dương.

- 6 -

Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hoạt động giải quyết tranh chấp

lao động tập thể trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh

Bình Dương.

- 7 -

CHƢƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ

1.1. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động tập thể và giải quyết

tranh chấp lao động tập thể

1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động tập thể

1.1.1.1. Khái niệm về tranh chấp lao động

Tranh chấp lao động là hiện tượng phổ biến xảy ra trong quan hệ giữa

người lao động và người sử dụng lao động bởi vì trong quá trình lao động

phát sinh những yếu tố khác nhau, trong đó người sử dụng lao động và người

lao động có những lợi ích riêng của mình và lợi ích bên này không phù hợp

với lợi ích bên kia. Sự không phù hợp, nếu không muốn nói là sự đối nghịch

về lợi ích của hai bên trong quan hệ lao động, là cơ sở khách quan của việc

phát sinh các tranh chấp về việc xác lập thay đổi điều kiện lao động, áp dụng

pháp luật và những văn bản pháp luật khác, các thỏa thuận về lao động.

Những mâu thuẫn đó, nếu không được giải quyết bằng con đường thương

lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động, được gọi là tranh chấp

lao động. Những tranh chấp này có thể mang tính cá nhân khi liên quan đến

lợi ích của từng người lao động hoặc tính chất chung khi liên quan đế lợi ích

của cả tập thể người lao động.

Ở nước ta, tranh chấp lao động đã được đề cập khá sớm trong nhiều

văn bản pháp luật dưới những tên gọi khác nhau. Ngay từ những văn bản

pháp luật lao động đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã có

một số quy định về giải quyết “sự xích mích giữa chủ và công nhân”, “sự xích

mích” hoặc “việc kiện tụng” liên quan đến thi hành “tập hợp khế ước” (tức

TƯLĐTT) hay pháp luật lao động (Điều 4 và 6 Sắc lệnh 64-SL của Chủ tịch

- 8 -

Chính phủ ngày 08/5/1946) về tổ chức các cơ quan lao động trong toàn cõi

Việt Nam; Điều 48,49 và 186 Sắc lệnh 29-SL của Chủ tịch Chính phủ ngày

29/12/1947 những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ nhân, người

Việt Nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt Nam làm tại các

xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do (“Sắc lệnh

29-SL”); và Điều 2 Sắc lệnh 95-SL của Chủ tịch Chính phủ ngày 13/8/1949

đặt ra 2 ngạch thanh tra và kiểm soát lao động.

Thuật ngữ “tranh chấp lao động” bắt đầu được sử dụng chính thức từ

Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 02/10/1985 nhưng phải đến thời kỳ

đổi mới thuật ngữ này mới được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật

lao động ( Nghị định 233-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 22/6/1990 ban

hành quy chế lao động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và

Pháp lệnh Hợp đồng lao động 1990). Điều 27 Pháp lệnh Hợp đồng lao động

1990 quy định: “Bất đồng nảy sinh giữa hai bên về việc thực hiện hợp đồng

lao động được coi là tranh chấp lao động và được giải quyết theo trình tự giải

quyết tranh chấp lao động”. Đây là quy định đầu tiên giải thích khái niệm

tranh chấp lao động. Nhưng, quy định đó vẫn chưa phải là một định nghĩa bao

quát về tranh chấp lao động. Hơn nữa, quy định này chỉ đề cập đến các tranh

chấp liên quan đến thực hiện hợp đồng lao động.

Định nghĩa chính thức về tranh chấp lao động được thể hiện tại Khoản

7 điều 3 Bộ luật lao động năm 2012: “Tranh chấp lao động là tranh chấp về

quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao

động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể

lao động với người sử dụng lao động.”

Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành, một tranh chấp được xem

là tranh chấp lao động khi thỏa mãn hai dấu hiệu:

- 9 -

Thứ nhất, đối tượng của của tranh chấp lao động là các quyền, nghĩa vụ

và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động. Tranh chấp không liên quan đến

các quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh từ quan hệ lao động thì không phải là

tranh chấp lao động.

Dấu hiệu này là một điểm mới và được kế thừa, phát triển từ khi ban

hành Luật số 74/2006/QH 11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao

động năm 2006.Trong khi định nghĩa về tranh chấp lao động trong Bộ luật lao

động năm 1994 liệt kê các quyền lợi là đối tượng của tranh chấp lao động, thì

định nghĩa của Bộ luật hiện hành có tính khái quát cao hơn với việc quy định

đối tượng của tranh chấp lao động là bất kỳ quyền, nghĩa vụ và lợi ích nào

phát sinh từ quan hệ lao động. Mặc dù Bộ luật lao động không nêu rõ các

tranh chấp phát sinh trong quá trình đào tạo nghề là tranh chấp lao động,

nhưng tại chương XIV của Bộ luật lao động lại quy định thẩm quyền của Hòa

giải viên lao động về giải quyết tranh chấp hợp đồng đào tạo nghề (Điều 198).

Đây là sự thiếu thống nhất về nội hàm khái niệm tranh chấp lao động với

pháp luật nội dung (các quy định khác của Bộ luật lao động) và cả pháp luật

hình thức (các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự). Sẽ hợp lý hơn nếu trong

khái niệm tranh chấp lao động có nêu tranh chấp về đào tạo nghề là tranh

chấp lao động.

Thứ hai, tranh chấp lao động phát sinh giữa người sử dụng lao động với

cá nhân hoặc tập thể lao động. Nói cách khác, chủ thể của tranh chấp lao động

cũng chính là chủ thể của quan hệ lao động.

Thực ra, dấu hiệu thứ hai có phần không thống nhất với một số quy

định pháp luật khác. Theo khoản 1 điều 201 Bộ luật lao động, tranh chấp giữa

người lao động theo chế độ hoặc tranh chấp về Bảo hiểm xã hội theo quy định

của pháp luật về Bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp

luật về bảo hiểm y tế cũng được xem là tranh chấp lao động. Khoản 1 điều 31

- 10 -

Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng xem đây là một loại tranh chấp lao động thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Như vậy, chủ thể của tranh chấp lao động

không chỉ bao gồm người lao động và người sử dụng lao động mà còn có cả

cơ quan Bảo hiểm xã hội.

Tuy nhiên, so với các quy định trên, quy định về chủ thể tranh chấp lao

động như khoản 7 điều 3 Bộ luật lao động tỏ ra hợp lý hơn bỡi lẽ nội dung

của các tranh chấp đó thường liên quan đến việc giải quyết các chế độ, trợ cấp

cho người lao động và do cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện. Đây không phải

là một nội dung của quan hệ lao động vì điều khoản bảo hiểm xã hội

(BHXH) trong hợp đồng lao động chỉ liên quan trách nhiệm của các bên trong

vấn đề đóng bảo hiểm xã hội mà thôi. Hơn nữa, do tính bắt buộc của việc

đóng BHXH, quan hệ về Bảo hiểm xã hội mang nặng tính hành chính và khác

xa với quan hệ lao động về bản chất. Sẽ hợp lý hơn nếu tranh chấp về bảo

hiểm xã hội không thuộc phạm vi của tranh chấp lao động và được giải quyết

theo một cơ chế riêng.

1.1.1.2. Khái niệm về tranh chấp lao động tập thể

Trước khi BLLĐ năm 1994 được ban hành, pháp luật của nhà nước ta

không phân chia tranh chấp cá nhân và tranh chấp tập thể (việc phân chia

tranh chấp lao động thành tranh chấp cá nhân và tranh chấp tập thể được ghi

nhận lần đầu tiên trong Bộ luật lao động 1952 của Việt Nam Cộng hòa cũng

quy định: cá nhân phân tranh là những tranh chấp giữa chủ nhân và công nhân

trong việc thi hành khế ước lao động, không hội đủ điều kiện của một tranh

chấp). Việc phân loại tranh chấp lao động thành tranh chấp cá nhân và tranh

chấp tập thể lần đầu tiên được thể hiện rõ nét trong Bộ luật lao động năm

1994 và tiếp tục duy trì đến Bộ luật lao động hiện hành. Khoản 7 điều 3 Bộ

luật lao động năm 2012 quy định: “Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp

- 11 -

lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh

chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động”.

Vậy tập thể lao động là gì? Và làm thế nào để xác định một nhóm NLĐ

là tập thể lao động?

Theo khoản 4 Điều 157 BLLĐ (đã sửa đổi, bổ sung năm 2006), “Tập

thể lao động là những NLĐ cùng làm việc trong một doanh nghiệp hoặc một

bộ phận của doanh nghiệp”. Như vậy, để được xem là tập thể lao động, dường

như nhóm NLĐ tranh chấp với một NSDLĐ chỉ cần thỏa mãn một điều kiện

duy nhất. Đó là những NLĐ đó phải cùng làm việc với nhau trong một doanh

nghiệp hoặc một bộ phận của doanh nghiệp. Định nghĩa như vậy là quá sơ sài,

chưa thể hiện được những đặc trưng cơ bản của khái niệm “tập thể lao động”

và “tranh chấp lao động tập thể”. Với định nghĩa này, có vẻ như tranh chấp

nào giữa NSDLĐ với một nhóm NLĐ cùng làm việc trong một doanh nghiệp

hay bộ phận của doanh nghiệp cũng có thể xem là tranh chấp lao động tập thể,

bất kể rằng giữa những NLĐ đó có sự liên kết chặt chẽ với nhau hay không

hoặc có thể là họ chỉ đưa ra những yêu cầu riêng rẽ hay những yêu cầu không

liên quan đến toàn bộ NLĐ trong doanh nghiệp hay bộ phận doanh nghiệp đó.

Trong bối cảnh các quy định các pháp luật hiện hành còn chưa rõ ràng và đầy

đủ, nhiều nhà nghiên cứu đã góp phần làm rõ sự khác biệt giữa tranh chấp cá

nhân và tranh chấp tập thể với việc đưa ra những tiêu chí khá cụ thể để phân

biệt hai loại tranh chấp này với nhau. Có nhà nghiên cứu cho rằng tranh chấp

cá nhân và tranh chấp tập thể được phân biệt với nhau dựa vào hai tiêu chí.

Tiêu chí thứ nhất liên quan đến số lượng NLĐ tham gia tranh chấp. Thông

thường, tranh chấp chỉ có sự tham gia của một NLĐ là tranh chấp lao động cá

nhân. Trong khi đó, tranh chấp có sự tham gia của nhiều NLĐ thường là tranh

chấp tập thể. Tiêu chí thứ hai là mục đích của các bên tham gia tranh

chấp.Trong tranh chấp cá nhân, yêu cầu của các bên tranh chấp chỉ liên quan

- 12 -

đến quyền lợi của riêng họ. Ở tranh chấp tập thể, yêu cầu của các bên liên

quan đến quyền lợi của cả một tập thể.

Một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng, việc phân biệt tranh chấp lao

động cá nhân và tập thể ngoài 2 căn cứ nêu trên còn phải căn cứ vào tiêu chí

thứ ba 3 đó là tính tổ chức của những NLĐ tham gia tranh chấp. Theo đó,

trong tranh chấp tập thể, luôn có sự liên kết chặt chẽ giữa những NLĐ tham

gia tranh chấp với nhau mà một trong những biểu hiện rõ nét nhất là sự hiện

diện của những người đại diện cho tập thể lao động (thường là Ban chấp hành

công đoàn cơ sở). Trong khi đó, tranh chấp lao động cá nhân thường có tính

đơn lẻ và không có tổ chức chặt chẽ.

Các tiêu chí khoa học trên đã giúp ích rất nhiều cho việc làm sáng tỏ sự

khác biệt giữa tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.

Tuy vậy, do quan niệm chính thống về nguồn của luật, ảnh hưởng của các

quan điểm khoa học đối với hoạt động áp dụng pháp luật có thể có những hạn

chế nhất định. Bên cạnh đó, như chúng ta đã thấy, việc thiếu các quy định

pháp luật rõ ràng đã dẫn đến những khác biệt nhất định trong quan điểm của

các nhà nghiên cứu về khái niệm tranh chấp lao động tập thể.

Tranh chấp lao động tập thể: là tranh chấp giữa tập thể người lao động

với người sử dụng lao động. Tranh chấp này có thể xảy ra trong phạm vi một

bộ phận doanh nghiệp, trong toàn bộ doanh nghiệp hoặc thậm chí ở phạm vi

rộng hơn như trong một ngành.

1.1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp lao động tập thể

Qua những phân tích trên đây, ta có thể rút ra được kết luận về đặc

điểm tranh chấp lao động tập thể như sau:

- Về khía cạnh chủ thể: Tranh chấp lao động tập thể luôn tồn tại và phát

sinh từ những bất đồng về quyền và lợi ích giữa tập thể NLĐ và NSDLĐ

trong quan hệ lao động. Quyền và lợi ích đối tượng của tranh chấp lao động

- 13 -

tập thể chính là những điều kiện làm việc mới (như tiền lương, tiền thưởng,

thu nhập, định mức lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và phúc lợi

khác trong doanh nghiệp). Đồng thời nó cũng có thể là những mâu thuẫn do

việc hiểu và viện dẫn các quy định của pháp luật hiện hành theo hướng có lợi

cho tập thể NLĐ so với quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động

tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền hoặc các quy chế thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp trong quá

trình thương lượng giữa tập thể NLĐ với NSDLĐ. Quá trình sử dụng lao

động và lao động thường biến động và kéo dài đòi hỏi hai bên chủ thể của

quan hệ lao động là tập thể NLĐ và NSDLĐ phải thoả thuận thiết lập các

quyền và nghĩa vụ trước đó. Khi có sự vi phạm thoả thuận xâm hại đến

quyền, lợi ích của một bên đối với bên kia trong quan hệ lao động thì vấn đề

tranh chấp sẽ được đặt ra. Tuy nhiên trong quá trình duy trì quan hệ lao động,

do đặc điểm thời gian thực hiện mối quan hệ tương đối lâu dài cho nên không

phải bao giờ các thoả thuận của hai bên cũng phù hợp với điều kiện thực tế

của doanh nghiệp. Nếu xảy ra trường hợp các bên tham gia quan hệ lao động

đều đã thực hiện những quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng với quy định

của pháp luật và theo như thoả thuận nhưng tập thể NLĐ cho rằng những

quyền lợi và lợi ích mà mình được hưởng là chưa thoả đáng và họ yêu cầu

NSDLĐ đáp ứng những quyền lợi mà họ cho rằng mình xứng đáng được

hưởng thì vấn đề tranh chấp lao động vẫn được đặt ra.

- Về nội dung của tranh chấp: Trong các tranh chấp lao động cá nhân,

NLĐ sẽ tiến hành đòi quyền lợi cho bản thân, mục tiêu cá nhân là hết sức rõ

ràng. Ngược lại, trong các tranh chấp lao động tập thể thì mục tiêu của các

bên là những quyền lợi gắn liền với tập thể NLĐ. Việc đòi tăng tiền lương cao

hơn thỏa ước tập thể cũ khi kí kết thỏa ước lao động tập thể mới, việc yêu cầu

cải thiện các điều kiện lao động chung cho toàn thể xí nghiệp, việc chủ sử

- 14 -

dụng lao động yêu cầu tập thể NLĐ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định mà

hai bên đã cam kết trong thỏa ước lao động tập thể…thể hiện rất rõ nét tiêu

điểm ngắm tới của các chủ thể. Tính tập thể là yếu tố bắt buộc trong một tranh

chấp lao động tập thể. Nhưng sự thể hiện của tính tập thể là một trong những

vấn đề không có sự nhất định nào, đặc biệt trong quá trình diễn ra các hành vi

mang tính chất bộc phát của NLĐ.

- Về sự ảnh hưởng của tranh chấp lao động tập thể: Tranh chấp lao động

tập thể là loại hình tranh chấp thường dẫn đến đình công do đó loại hình tranh

chấp này gây ảnh hưởng rất lớn đến an ninh trật tự, đời sống kinh tế và chính

trị toàn xã hội. NLĐ và gia đình trông cậy vào thu nhập ổn định từ lao động

của họ. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, chính trị - xã hội phụ thuộc

vào sự ổn định chung trong đời sống của các tầng lớp NLĐ. Trong khi đó,

tranh chấp lao động tập thể là loại hình tranh chấp có sự tham gia của tập thể

lao động, khi tranh chấp xảy ra sẽ gây thiệt hại cho thu nhập của những NLĐ

trong tập thể. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến kinh tế của nhiều gia đình NLĐ

trong tập thể đó. Trong tranh chấp lao động tập thể, tập thể NLĐ yêu cầu

NSDLĐ cho họ những quyền và lợi ích mà họ cho rằng mình xứng đáng được

hưởng. Tuy nhiên, “làm thế nào một ai đó có thể xác định được quyền và lợi

ích của người khác là chính đáng?”, đây là một câu hỏi không dễ trả lời, do

vậy tranh chấp lao động tập thể thường dẫn tới đình công. NLĐ tham gia vào

tranh chấp lao động với mong muốn sẽ đạt được những quyền và lợi ích nhất

định. Tuy nhiên trong trường hợp này, họ chẳng những không được lợi ích gì

khi tham gia tranh chấp mà có thể còn phải chịu những trách nhiệm phát sinh

(nếu gây thiệt hại về tài sản cho NSDLĐ), điều này nếu xảy ra sẽ gây ảnh

hưởng nặng nề cho NLĐ và gia đình họ. Đối với doanh nghiệp sử dụng lao

động, dù vụ việc tranh chấp lao động tập thể xảy ra trong phạm vi bộ phận

doanh nghiệp hay trong toàn doanh nghiệp, dù họ có thể bác bỏ yêu cầu của

- 15 -

NLĐ hoặc phải chấp nhận chúng hay không thì hoạt động sản xuất, kinh

doanh cũng sẽ bị ngưng trệ. Điều đó gây thiệt hại không nhỏ cho doanh

nghiệp và nếu không khắc phục kịp thời có thể dẫn tới phá sản doanh nghiệp.

Trường hợp tập thể NLĐ đình công trong phạm vi toàn ngành chẳng những

gây thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh độc lập trong ngành

đó mà còn gây bất ổn cho nền kinh tế của cả nước, dẫn đến bất ổn cho chính

trị và an ninh toàn xã hội, đây là một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng của tranh

chấp lao động tập thể. Đặc điểm này hàm chứa hai điểm khác biệt quan trọng

của tranh chấp lao động tập thể so với tranh chấp lao động cá nhân: Tranh

chấp lao động tập thể thường có sự tham gia của số đông NLĐ vì, thông

thường, phải là sự ngừng việc của số đông mới có thể làm gián đoạn hoạt

động của doanh nghiệp; và NLĐ tham gia vào tranh chấp tập thể có sự tổ

chức chặt chẽ vì nếu không có sự tổ chức chặt chẽ thì NLĐ khó có thể tiến

hành được những hành động công nghiệp.

1.1.1.4. Phân loại tranh chấp lao động tập thể

Việc phân loại tranh chấp lao động có ý nghĩa quan trọng. Nó sẽ giúp

chúng ta xác định chính xác từng loại tranh chấp để từ đó áp dụng cơ chế giải

quyết cho phù hợp và có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong

quan hệ lao động. Việc phân loại tranh chấp lao động ở nước ta được thực

hiện lần đầu tiên trong BLLĐ sửa đổi năm 2006 theo đó tranh chấp lao động

tập thể được chia thành tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích. Cần lưu

ý là sự phân chia này không đặt ra với tranh chấp lao động nói chung mà chỉ

đặt ra với tranh chấp lao động thể.

Kế thừa và tiếp tục ghi nhận hai loại hình của tranh chấp lao động tập

thể là tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về

lợi ích và kèm theo là những cơ chế giải quyết đối với mỗi một loại hình tranh

- 16 -

chấp nêu trên; theo quy định tại khoản 8,9 điều 3 Bộ luật lao động 2012 tranh

chấp lao động tập thể được chia làm hai loại:

+ Tranh chấp lao động tập thể về quyền: là tranh chấp về việc thực hiện

các quy định của pháp luật lao động; thỏa ước lao động tập thể; nội quy lao

động đã được ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa

thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử

dụng lao động vi phạm.

+ Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích: là tranh chấp về việc tập thể lao

động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp

luật lao động; thỏa ước lao động tập thể; nội quy lao động đã được ký với cơ

quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa thuận hợp pháp khác ở

doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử

dụng lao động.

Để phân biệt các loại tranh chấp nói trên, người ta thường căn cứ vào

chủ thể tham gia tranh chấp, nội dung tranh chấp và tính chất của tranh chấp.

Đối với mỗi loại tranh chấp, pháp luật quy định một cơ chế giải quyết riêng,

phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng loại tranh chấp.

1.1.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Việc giải quyết tranh chấp lao động nhằm ba mục đích: Thứ nhất, giải

toả những bất đồng và những bế tắc, đảm bảo được quyền lợi và lợi ích của

mỗi bên tranh chấp. Thứ hai, đảm bảo tối đa cho việc ổn định mối quan hệ lao

động và mục đích sau cùng là để thúc đẩy cho kinh tế phát triển. Để đạt được

mục đích này, pháp luật Việt Nam đã quy định tại điều 194 BLLĐ năm 2012

những nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao

động tập thể nói riêng. Những nguyên tắc đó là:

- 17 -

1.1.2.1. Tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong

giải quyết tranh chấp lao động.

Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tranh chấp lao động phải được giải quyết

thông qua thương lượng giữa các bên tranh chấp. Việc thương lượng giữa các

bên phải được thực hiện từ ban đầu khi có tranh chấp và trong suốt quá trình

giải quyết tranh chấp sau này. Ngay cả khi các tranh chấp đã được giao cho

một cơ quan có thẩm quyền nhất định để giải quyết theo quy định thì nếu các

bên tự thỏa thuận, giải quyết được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ

chấm dứt. Đề cao nguyên tắc này từ BLLĐ năm 1994 Điều 159 đã quy định

“Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên giải

quyết tranh chấp lao động thông qua thương lượng, hòa giải, nhằm đảm bảo

lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, trật tự và an toàn

xã hội”. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng bắt nguồn

từ tính bình đẳng, thỏa thuận trong quan hệ lao động. Trong nền kinh tế thị

trường, quan hệ này được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữ NLĐ làm

công ăn lương và NSDLĐ. Vì thế, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ lao động

của họ trước tiên phải do chính các bên thỏa thuận, thương lượng giải quyết.

Đây được coi là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giải quyết các tranh

chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động tập thể nói riêng, và cũng

luôn được đặt lên hàng đầu trong các quy định về giải quyết tranh chấp lao

động. So với các tranh chấp dân sự thì tranh chấp giữa các bên trong quan hệ

lao động có đặc điểm đặc thù là các bên tham gia có tính hợp tác, sự hợp tác

này tiếp tục được duy trì sau khi việc giải quyết tranh chấp lao động kết thúc.

Vì vậy giải quyết tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động tập

thể nói riêng bằng phương pháp thương lượng có rất nhiều ưu điểm như: Duy

trì được hòa khí giữa các bên tranh chấp, thứ hai là các bên tranh chấp hiểu

biết về nhau khá rõ và đây là tiền đề quan trọng cho sự thành công của thương

- 18 -

lượng, thứ ba là tiết kiệm được chi phí giữa các bên tranh chấp và cuối cùng

là bảo vệ được bí mật kinh doanh và uy tín cho NSDLĐ. Việc giải quyết tranh

chấp lao động bằng thương lượng sẽ rất có hiệu quả trong trường hợp nguyên

nhân phát sinh tranh chấp chỉ là sự hiểu nhầm hoặc nhận định chưa đúng về

tranh chấp các bên, đặc biệt là từ phía NLĐ.

1.1.2.2. Bảo đảm thực hiện hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và

lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái

pháp luật

Nội dung này luôn luôn được thể hiện rõ nét trong các quy định về việc

giải quyết các tranh chấp lao động tập thể. Theo quy định của pháp luật lao

động hiện hành, nếu các bên không thể tự dàn xếp được thì việc giải quyết

tranh chấp sẽ do hòa giải viên lao động thực hiện. Đối với tranh chấp lao động

tập thể về lợi ích, nếu nỗ lực này thất bại thì tranh chấp sẽ được đưa đến trọng

tài lao động giải quyết. Thực ra phương thức giải quyết tranh chấp mà Hội

đồng trọng tài lao động áp dụng như hiện tại thực chất cũng chỉ là một bước

hòa giải bởi Hội đồng trọng tài cũng chỉ giúp các bên đạt được các thỏa thuận

trong việc giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp tranh chấp lao động tập

thể về quyền được giải quyết tại tòa án thì tòa án cũng phải tiến hành hòa giải

trước khi xét xử. Phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể bằng

trọng tài thực chất chỉ được áp dụng tại các doanh nghiệp thuộc diện cấm đình

công theo quy định của pháp luật hiện hành. Xuất phát từ bản chất của quan

hệ lao động cũng là một quan hệ dân sự nên tất nhiên có sự bình đẳng giữa

các bên trong quá trình lao động, vì thế nguyên tắc khuyến khích các bên tự

hòa giải hoặc trọng tài luôn được ghi nhận. Các tác dụng của phương thức

giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo phương thức này cũng tương tự

như những lợi ích từ việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể bằng phương

thức thương lượng. Thực hiện tốt khâu này giúp ổn định quan hệ sản xuất,

- 19 -

tránh được các cuộc đình công kéo dài gây ảnh hưởng đến lợi ích của các bên

trong quan hệ lao động.

1.1.2.3. Công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng

pháp luật.

Nguyên tắc này thường được pháp luật ghi nhận cho việc giải quyết các

tranh chấp nói chung về dân sự, kinh tế, thương mại...và vì thế trong quan hệ

lao động, nguyên tắc này tất nhiên được ghi nhận như là một nội dung cần

thiết và hết sức quan trọng. Về mặt lý luận, nguyên tắc này bắt nguồn từ mục

đích của việc giải quyết tranh chấp dân sự là để đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp và chính đáng của các bên tranh chấp đồng thời giáo dục, nâng cao ý

thức pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đối với các tranh chấp

lao động, đặc biệt là các tranh chấp lao động tập thể thì nguyên tắc minh bạch,

khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng bởi các tranh chấp này thường liên quan một cách trực tiếp đến đời sống

của NLĐ. Hơn nữa, nếu tranh chấp lao động tập thể không được giải quyết

một cách khách quan, kịp thời nhanh chóng và đúng với các quy định của

pháp luật thì có thể dẫn đến các diễn biến xấu đi như đình công, lãn

công…ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bởi vậy việc pháp luật đòi hỏi

việc giải quyết các tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động tập

thể nói riêng một cách minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng

pháp luật là một yêu cầu hoàn toàn thích hợp. Đối với quy định về tính công

khai trong việc giải quyết các tranh chấp lao động thì chưa hẳn là hợp lý. Yêu

cầu này chỉ tỏ ra thích hợp một khi vụ việc được đưa ra giải quyết tại cơ quan

tòa án. Đối với trường hợp việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể

bằng hòa giải, thương lượng mà yêu cầu hoạt động này phải công khai thì

không thích hợp, đặc biệt là một số trường hợp đòi hỏi phải có sự bí mật vì

- 20 -

liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, trong trường hợp này yêu cầu về tính

bảo mật lại có ý nghĩa cao hơn.

1.1.2.4. Bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết

tranh chấp lao động.

Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa của cơ chế ba bên trong việc giải quyết

các tranh chấp lao động tập thể. Ở những nước quản lý lao động theo cơ chế

ba bên thì nguyên tắc này được quán triệt rất rõ ràng trong quá trình giải

quyết tranh chấp lao động, kể cả việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án

Đầu tiên là công đoàn và tổ chức đại diện của NSDLĐ tham gia vào quá trình

giải quyết các tranh chấp lao động với tư cách là người giải quyết hoặc người

hỗ trợ. Theo quy định của BLLĐ năm 2012 thì trong phiên hòa giải cơ sở của

hòa giải viên, đại diện công đoàn có thể tham gia phiên hòa giải để đại diện

quyền lợi của NLĐ. Đại diện của công đoàn và đại diện NSDLĐ cũng có thể

được mời tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp về quyền do Chủ tịch

UBND cấp huyện tiến hành. Sự tham gia của đại diện các bên như trên đem

lại rất nhiều lợi ích cho việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể. Một

mặt nó tạo ra cảm giác an tâm, tin cậy và bầu không khí ôn hòa, hợp tác giữa

các bên tranh chấp tạo tiền đề cho sự thành công của hoạt động hòa giải hoặc

các khuyến nghị của cơ quan giải quyết tranh chấp. Đồng thời, sự có mặt của

các cơ quan đại diện còn giúp cơ quan giải quyết có thêm cái nhìn nhiều chiều

và toàn diện hơn về vụ việc nhờ đó đưa ra các quyết định giải quyết một cách

chính xác, khách quan hơn. Tiếp sau là công đoàn và tổ chức đại diện

NSDLĐ tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động với tư cách là các

bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Ở nước ta do thiếu

các quy định về tổ chức đại diện của NSDLĐ, nên mới chỉ có tổ chức công

đoàn là tổ chức đại diện cho tập thể NLĐ tham gia giải quyết tranh chấp với

- 21 -

người đại diện của doanh nghiệp sử dụng lao động hoặc người được chủ

doanh nghiệp ủy quyền.

1.1.2.5. Việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực

tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn

định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội

Nhằm tiếp tục đề cao, khẳng định việc thương lượng của các bên luôn

là yếu tố được đưa lên hàng đầu trong việc giải quyết các tranh chấp lao động

nói chung và tranh chấp lao động tập thể nói riêng. Nguyên tắc này được ghi

nhận nhằm khẳng định việc thương lượng luôn là phương thức đầu tiên khi

giải quyết các tranh chấp lao động tập thể. Việc thương lượng được giữa hai

bên tranh chấp giúp rút ngắn được thời gian tranh chấp, tránh sự tốn kém

trong việc giải quyết và ổn định được tình hình sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp, ổn định trật tự xã hội. Nguyên tắc này đề cao sự hợp tác, đồng

thuận giữa hai bên trước khi đưa vụ việc ra giải quyết tại các cơ quan có thẩm

quyền theo quy định. Theo đó các bên phải trực tiếp gặp mặt, bàn bạc và tìm

ra khúc mắc đang có tranh chấp để từ đó tìm ra hướng giải quyết hài hòa, đảm

bảo lợi ích của hai bên. Từ đó sớm giải quyết dứt điểm được tranh chấp và ổn

định sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa do Đảng và Nhà nước đang phấn đấu và xây dựng, với những bước phát

triển vượt bậc về công, thương nghiệp thì hệ lụy đi kèm là các quan hệ lao

động cũng đông đảo và ngày càng phức tạp. Các tranh chấp là điều khó tránh

khỏi khi vận hành nền kinh tế chủ yếu là công nghiệp trong tương lai, vì thế

việc ghi nhận nguyên tắc này sẽ góp phần ổn định được tình hình sản xuất

kinh doanh, đồng thời cũng sẽ giảm tải cho hệ thống các cơ quan giải quyết

tranh chấp lao động nếu các vụ tranh chấp được giải quyết một cách nhanh

chóng, hiệu quả đồng thời còn là tiền đề để duy trì mối quan hệ tốt đẹp, bền

vững trong tương lai.

- 22 -

1.1.2.6. Việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi một trong hai

bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương lượng

nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không

thực hiện

Cũng dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự tự do thỏa thuận, thương lượng

giữa hai bên tranh chấp, nguyên tắc này ghi nhận việc tham gia của các cơ

quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể. Tuy

nhiên sự tham gia này chỉ được thực hiện sau khi các hoạt động thương

lượng, hòa giải giữa các bên không thực hiện được hoặc thực hiện nhưng

không thu được kết quả như mong muốn. Nguyên tắc này đảm bảo tính tự chủ

của các bên trong việc giải quyết tranh chấp đồng thời cũng đảm bảo giải

quyết dứt điểm các tranh chấp khi các bên không tự thỏa thuận được hoặc các

nỗ lực hòa giải bất thành. Thông thường sự tham gia của các cơ quan như tòa

án, Hội đồng trọng tài hay Chủ tịch UBND cấp huyện vào việc giải quyết các

tranh chấp lao động khiến cho các quyết định của các tổ chức này có tính thực

thi cao hơn, đảm bảo chấm dứt được các tranh chấp và sớm ổn định quá trình

sản xuất. Tuy nhiên về cơ chế thực thi các quyết định của các cơ quan giải

quyết tranh chấp trên xét cho cùng chỉ có quyết định của cơ quan tòa án là có

hiệu lực thực thi cao nhất, đối với quyết định của Hội đồng trọng tài thì như

phân tích ở trên chủ yếu mang tính chất của một cơ quan hòa giải, còn đối với

chủ tịch UBND cấp huyện cũng chưa có cơ chế thực thi đủ mạnh

1.1.3. Hệ thống cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các cơ quan, tổ chức, cá nhân

có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động bao gồm: Hòa giải viên lao

động (“HGVLĐ”), Chủ tịch UBND cấp huyện, Hội đồng trọng tài lao động

và Toà án nhân dân.

- 23 -

1.1.3.1. Hòa giải viên lao động.

Theo quan điểm của ILO, HGVLĐ phải là người “có khả năng giao

tiếp với mọi người”; trong chừng mực nhất định, HGVLĐ là một chuyên gia

trong lĩnh vực quan hệ giữa người và người. Họ phải là người trung thực, có

niềm tin vào bản thân, có khả năng chịu đựng cao, biết lắng nghe ý kiến của

các bên tranh chấp, có khả năng thuyết phục,…

Theo khoản 1 điều 3 Nghị định 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013: “Hòa

giải viên lao động là người được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm

theo nhiệm kỳ 5 năm để hòa giải tranh chấp lao động và tranh chấp về hợp

đồng đào tạo nghề theo quy định của pháp luật”

Tiêu chuẩn của hoà giải viên lao động được quy định tại Điều 4 Nghị

định 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013.

Tại Điều 200 và Điều 203 BLLĐ 2012, HGVLĐ có thẩm quyền giải

quyết cả TCLĐ cá nhân lẫn TCLĐ tập thể. Ngoài ra, HGVLĐ còn có thẩm

quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng đào tạo nghề (quy định tại khoản 1

Điều 198 BLLĐ 2012)

1.1.3.2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Việc pháp luật Lao động ghi nhận thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

lao động tập thể của Chủ tịch UBND cấp huyện đã có từ năm 2006. Trước

đây mọi tranh chấp lao động tập thể mà hội đồng hòa giải lao động cơ sở/hòa

giải viên lao động đã hòa giải nhưng không thành đều thuộc thẩm quyền của

hội đồng trọng tài. Quy định mới này xuất phát từ một thực tế là dù, trước

đây, pháp luật không trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể

cho các cơ quan hành chính nhà nước nhưng các cơ quan này vẫn thường

xuyên than gia giải quyết các tranh chấp như vậy (thường là khi xảy ra đình

công, ngừng việc tập thể). Hiện tại theo BLLĐ năm 2012 thì nội dung này

không được sửa đổi nhiều về cả nội dung lẫn thẩm quyền giải quyết của chức

- 24 -

danh này. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Chủ tịch UBND cấp huyện

có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền xảy ra trên

địa bàn trong trường hợp tranh chấp đó đã được hòa giải viên lao động hòa

giải nhưng không thành hoặc không được hòa giải viên lao động giải quyết

trong thời gian luật định. Ngoài ra Chủ tịch UBND cấp huyện còn có thẩm

quyền giải quyết các vụ ngừng việc tạm thời của tập thể NLĐ phát sinh từ các

tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trước năm 2006 mọi tranh chấp lao

động tập thể mà hội đồng trọng tài lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động

hòa giải nhưng không thành đều thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài lao

động, từ thời điểm có quy định mới thì thẩm quyền này đã có sự thay đổi

đáng kể. Quy định mới này xuất phát từ một thực tế là dù trước đây pháp luật

không trao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động tập thể cho các cơ

quan hành chính nhà nước nhưng các cơ quan này vẫn thường xuyên tham gia

giải quyết các tranh chấp như vậy. Trao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

lao động tập thể về quyền cho chức danh Chủ tịch UBND cấp huyện có thuận

lợi là cơ quan này có thể tiếp cận với vụ việc một cách nhanh chóng hơn so

với hội đồng trọng tài lao động. Bên cạnh đó, với tư cách là người đứng đầu

cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện có thể đứng

ra làm đầu mối phối hợp với cơ quan tổ chức hữu quan như cơ quan lao động,

công đoàn, công an...để nhanh chóng giải quyết được các tranh chấp lao động

tập thể nói chung và các tranh chấp lao động tập thể về quyền nói riêng.

1.1.3.3. Hội đồng trọng tài lao động.

Bộ máy trọng tài hoạt động thường trực với tên gọi là hội đồng trọng

tài lao động và đóng vai trò là tổ chức trung gian để giải quyết các tranh chấp

lao động.Về thẩm quyền thành lập hội đồng trọng tài, theo Luật lao động sửa

đổi bổ sung năm 2006 thì thẩm quyền thành lập hội đồng trọng tài là Ủy ban

nhân dân tỉnh nhưng theo thông tư 23/2007/TT -BLĐTBXH quy định để

- 25 -

thành lập được hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh thì Chủ tịch UBND cấp

tỉnh xem xét, ra quyết định thành lập hội đồng trọng tài lao động. Giữa các

văn bản này chưa thống nhất với nhau về thẩm quyền ra quyết định thành lập

hội đồng trọng tài lao động, dẫn đến thực trạng, có nơi hội đồng trọng tài

được thành lập bởi quyết định của UBND cấp tỉnh, có nơi hội đồng trọng tài

được thành lập bằng quyết định của chủ tịch UBND tỉnh. Để khắc phục tình

trạng này BLLĐ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

năm 2012 tại Điều 199 đã thống nhất lại thẩm quyền ra quyết định thành lập

hội đồng trọng tài là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Về số lượng thành

viên hội đồng trọng tài lao động, theo Điều 206 BLLĐ năm 2012 thì số lượng

thành viên hội đồng trọng tài là số lẻ và tối đa không quá 7 người. Quy định

thành viên hội đồng trọng tài là số lẻ đã tạo sự linh hoạt khi thành lập hội

đồng trọng tài trong phạm vi cả nước, các địa phương có thể tùy theo tình

hình, đặc điểm của địa phương mình để quyết định số lượng thành viên hội

đồng trọng tài cho hợp lý, tránh lãng phí nhân lực đặc biệt là khi đa số hội

đồng trọng tài đang rơi vào tình trạng “thất nghiệp” như hiện nay. Việc quy

định số lượng thành viên hội đồng trọng tài phải là số lẻ là phù hợp, đảm bảo

hội đồng trọng tài có thể hoạt động theo nguyên tắc đa số để đưa ra phán

quyết của mình, giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp. Với một cơ cấu như vậy,

hội đồng trọng tài lao động có thể dễ dàng hơn trong việc đánh giá chính xác

nội dung của vụ tranh chấp và tính xác thực của các thông tin liên quan đến

vụ tranh chấp và các bên tranh chấp sẽ dễ chấp thuận quyết định của trọng tài

hơn vì thành viên hội đồng trọng tài là những người có chuyên môn, có độ tin

cậy cao trong việc giải quyết tranh chấp, trong số thành viên hội đồng trọng

tài có đại diện của các bên tranh chấp, có thể thay các bên đưa ra quan điểm

và bảo vệ quyền lợi chính đáng khi giải quyết tranh chấp. Như vậy, hiện nay

pháp luật chỉ thừa nhận hình thức trọng tài lao động thường trực mà không

- 26 -

thừa nhận hình thức trọng tài tự nguyện do các bên thỏa thuận thành lập nên.

Quy định này đã làm hạn chế vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các

tranh chấp lao động. Về phẩm chất và năng lực của trọng tài viên, tại hầu hết

các nước, pháp luật đều đưa ra những quy định về phẩm chất và năng lực của

trọng tài viên, đặc biệt là chủ tịch, chủ tọa hội đồng trọng tài. Tuy nhiên, vấn

đề năng lực của thành viên hội đồng trọng tài lao động trong pháp luật Việt

Nam lại chưa được chú trọng nhiều. Về hoạt động của hội đồng trọng tài:

Nhiệm kỳ của hội đồng trọng tài lao động là 3 năm. Khi hết nhiệm kỳ hội

đồng trọng tài sẽ tự giải tán và Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã

hội sẽ tiến hành thủ tục để Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định thành lập

hội đồng trọng tài mới. Khi tổ chức hoạt động, kinh phí hoạt động của hội

đồng trọng tài do ngân sách nhà nước đảm bảo và được bố trí trong dự toán

chi thường xuyên của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Tuy nhiên,

khoản kinh phí này chưa được quy định rõ có bao gồm các khoản lệ phí mà

các bên tranh chấp phải đóng góp hay không. Như vậy, hội đồng trọng tài

mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức độc lập nhưng về mặt tổ chức và cơ sở

vật chất lại chịu sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền chung ở địa phương.

- Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài khi tham gia giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể: Hội đồng trọng tài lao động có thẩm quyền giải

quyết các tranh chấp lao động tập thể trong trường hợp là các tranh chấp lao

động tập thể về lợi ích được hòa giải viên lao động hòa giải nhưng không

thành hoặc không được hòa giải trong thời gian quy định. Khi tham gia giải

quyết các tranh chấp lao động tập thể thì Hội đồng trọng tài lao động có

những quyền hạn như sau:

+ Tìm hiểu về vụ việc tranh chấp bằng việc tham gia tìm gặp gỡ các

bên tranh chấp, tìm hiểu về nguyên nhân tranh chấp, các vướng mắc của các

bên, tìm hiểu thông tin từ những người làm chứng.

- 27 -

+ Thu thập tài liệu, chứng cứ, yêu cầu các bên liên quan đến tranh chấp

cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có được để tạo điều kiện tổng kết, đánh

giá sự việc trên cơ sở đó để đưa ra phương án giải quyết tối ưu nhất.

+ Sau quá trình thu thập đầy đủ chứng cứ và đánh giá về tranh chấp

hội đồng hòa giải lao động phải đưa ra được phương án hòa giải để các bên

cùng nhau xem xét, đánh giá và thương lượng.

+ Lập biên bản hòa giải thành hoặc biên bản hòa giải không thành trong

quá trình giải quyết vụ việc.

+ Ra quyết định giải quyết vụ việc tranh chấp tại các doanh nghiệp

thuộc danh mục doanh nghiệp không được đình công.

+ Ngoài ra hội đồng trọng tài lao động còn có trách nhiệm tuyên truyền,

phổ biến pháp luật cho NLĐ, NSDLĐ. Hướng dẫn, đào tạo về nghiệp vụ và

truyền đạt các kinh nghiệp cho các hòa giải viên lao động nhằm nâng cao

trình độ, nghiệp vụ và kinh nghiệm cho các đối tượng này trong việc giải

quyết các tranh chấp lao động.

- Nhiệm vụ, quyền hạn và các chế độ của các thành viên hội đồng

trọng tài lao động: Chủ tịch hội đồng trọng tài lao động là người đứng đầu

hội đồng, có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động và chủ trì các cuộc hòa giải

và giải quyết các tranh chấp lao động; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các

thành viên hội đồng; ký biên bản, quyết định giải quyết tranh chấp lao động

của hội đồng; tổ chức các lớp huấn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ và kinh

nghiệm hòa giải lao động ngoài ra chủ tịch hội đồng trọng tài còn có trách

nhiệm báo cáo hằng năm và đột xuất về hoạt động của hội đồng trọng tài.

Không như những thành viên hội đồng khác, kể cả chủ tịch hội đồng,

thư ký hội đồng đều là người làm việc chuyên trách. Thư ký hội đồng trọng

tài có các nhiệm vụ quyền hạn như: Thường trực của hội đồng trọng tài lao

động, thực hiện các công việc hành chính cần thiết đảm bảo cho hội đồng

- 28 -

trọng tài làm việc bình thường; tiếp nhận hồ sơ các vụ việc tranh chấp và cùng

với các thành viên khác tìm hiểu về vụ việc và thảo luận phương án giải

quyết; cùng với các thành viên khác tiến hành thu thập chứng cứ từ những

bên liên quan; chuẩn bị các cuộc họp của hội đồng; sau cùng là lập biên bản

tại các phiên hòa giải các tranh chấp lao động. Các thành viên khác của hội

đồng trọng tài có các trách nhiệm như: Tìm hiểu, nghiên cứu các vụ tranh

chấp để góp ý, đề xuất các phương án hòa giải, giải quyết các tranh chấp lao

động; dự các phiên hòa giải, giải quyết các tranh chấp lao động do hội đồng tổ

chức. Ngoài ra, các thành viên này còn có thể phải thực hiện các công việc

khác theo sự phân công của chủ tịch hội đồng. Các thành viên của hội đồng

trọng tài được hưởng chế độ bồi dưỡng trong quá trình thực hiện các công tác

hòa giải tranh chấp lao động. Đối với vị trí thư ký hội đồng được hưởng phụ

cấp chức vụ tương ứng với vị trí trưởng phòng của sở. Các thành viên của hội

đồng trọng tài lao động còn được sở Lao động – Thương binh và Xã hội cung

cấp các thông tin về pháp luật lao động và được tham gia các lớp bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo kinh nghiệp liên quan đến giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể.

So với cơ chế hòa giải viên lao động thì hội đồng trọng tài lao động có

tính trung lập cao hơn. Tuy trong thành phần của hội đồng trọng tài lao động

có các thành viên là đại diện của Công đoàn cấp trên và đại diện của NSDLĐ

tại địa phương song sự tham gia của các thành viên khác đặc biệt là sự tham

gia của đại diện sở Lao động – Thương binh và Xã hội giúp cho hội đồng này

duy trì được sự độc lập một cách tương đối. Vả lại đại diện của công đoàn và

NSDLĐ cũng không có mối liên hệ trực tiếp về lợi ích nên giúp cho việc giải

quyết các tranh chấp lao động một cách khách quan. Đồng thời thành phần

của hội đồng gồm đại diện của NSDLĐ, đại diện của NLĐ và đại diện cơ

quan nhà nước sẽ giúp hội đồng có một cái nhìn đa chiều về tranh chấp giúp

- 29 -

đánh giá các mặt tranh chấp một cách cụ thể, toàn diện và từ đó đưa ra các

phương án giải quyết một cách chính xác, hiệu quả nhất. Ngoài ra vì được lựa

chọn từ các cơ quan lao động cấp tỉnh, liên đoàn lao động cấp tỉnh...nên thành

viên của hội đồng thường có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và các kinh

nghiệm liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể khá sâu,

họ có uy tín, kinh nghiệm cao hơn nhiều so với hòa giải viên lao động cơ sở

trong việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể.

1.1.3.4. Tòa án nhân dân.

Trong giải quyết tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động

tập thể nói riêng, nếu như phương thức thương lượng được coi là phương thức

giải quyết tranh chấp tốt nhất bởi lẽ nó cho phép hai bên tự do đàm phán, tự

do thể hiện ý chí sao cho phù hợp với quyền và lợi ích chung trong phạm vi

pháp luật cho phép, thì giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án lại được coi

là phương thức giải quyết hiệu quả nhất. Bởi lẽ, đến phương thức này đã có

sự tham gia của nhà nước với những phán quyết chính là quyết định cuối cùng

mang tính cưỡng chế buộc phải thực hiện. Tuy nhiên, để khai thác những ưu

điểm của các phương thức giải quyết khác, không phải tranh chấp lao động

tập thể nào cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan Tòa án, mà pháp

luật hiện hành đã có những quy định chỉ những những tranh chấp lao động về

quyền mới thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan này, kèm theo đó những

trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 205 BLLĐ năm 2012 thì “Trong

trường hợp các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch UBND cấp

huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch UBND cấp huyện không giải quyết thì

các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Theo quy định này thì việc giải

quyết các tranh chấp lao động tập thể tại tòa án chỉ được thực hiện sau các

bước hòa giải lao động tại cơ sở và sau khi Chủ tịch UBND cấp huyện ra

- 30 -

quyết định giải quyết vị việc mà các bên không đồng ý với quyết định đó.

Quy định này nhằm mục đích nâng cao vai trò của công tác hòa giải cơ sở,

đây luôn là nguyên tắc được tôn trọng và đặt nên hàng đầu. Tuy nhiên khi sự

việc được giải quyết nhiều lần, tại nhiều cơ quan mà các bên vẫn không có

được sự đồng thuận về kết quả giải quyết thì tòa án được coi là một đơn vị

giải quyết hữu hiệu nhất bởi cách thức, thủ tục xử lý và các cơ chế đảm bảo

thực thi các quyết định mà cơ quan này ban hành.

1.1.4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Theo quy định tại Điều 207 BLLĐ năm 2012 thì “Thời hiệu yêu cầu

giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát

hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp

của mình bị vi phạm” đây là một quy định mới so với BLLĐ cũ ở điểm chỉ

quy định về thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền

mà không quy định thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với tranh chấp

lao động tập thể về lợi ích.

Tuy nhiên việc xác định đâu là thời điểm bắt đầu được coi là thời điểm

diễn ra tranh chấp thì theo quy định trên thực sự rất khó. Bởi như đã phân tích

ở phần khái niệm tranh chấp lao động thì thông thường thời điểm tranh chấp

bao giờ cũng xuất hiện trước, thời điểm phát hiện ra tranh chấp sẽ xuất hiện

sau. Tuy nhiên, việc một tranh chấp lao động xảy ra và việc xác định có một

tranh chấp lao động đã xảy ra là vấn đề không đơn giản. Bởi thời điểm phát

hiện ra tranh chấp là khi nào thì phụ thuộc vào các bên tranh chấp, mà khi có

tranh chấp bên nào cũng muốn bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước tiên.

Vậy nên thời gian bên này có thể cho là lúc họ phát hiện ra tranh chấp nhưng

bên kia cho rằng có thể nó diễn ra trước hoặc sau thời điểm đó, và rất khó để

xác định được đâu là thời điểm bắt đầu có tranh chấp để làm căn cứ tính thời

hiệu giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trong trường hợp này, nên có quy

- 31 -

định cụ thể hơn về thời điểm bắt đầu phát sinh tranh chấp, ví dụ như khi một

bên có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp, hoặc khi có văn bản làm việc giữa

hai bên mà không thỏa thuận được các nội dung mà hai bên đang mâu

thuẫn…làm cơ sở rõ ràng cho việc xác định thời hiệu.

1.1.5. Phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể rất phong phú,

đa dạng. Điều đó góp phần giải quyết các tranh chấp lao động một cách nhanh

chóng, hiệu quả. Tuy nhiên vẫn còn những thiếu sót hạn chế nhất định cần

phải được khắc phục mà hạn chế nhằm thúc đấy các quan hệ lao động phát

triển đúng chiều hướng hạn chế các tranh chấp và thúc đẩy sản xuất phát

triển. Hiện tại, theo quy định của pháp luật hiện hành, nước ta có các phương

thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể như sau:

1.1.5.1. Thương lượng

Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên tranh

chấp đối thoại với nhau một cách trực tiếp nhằm đạt được các thỏa thuận về

việc giải quyết tranh chấp. Trong thực tế đây là phương thức giải quyết tranh

chấp được sử dụng rộng rãi nhất. Tại Khoản 1, Điều 194 BLLĐ năm 2012 thì

nguyên tắc tự thương lượng giữa các bên là nguyên tắc được ghi nhận đầu

tiên trong các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, điều đó cho thấy sự coi trọng

của nhà làm luật đối với nội dung này. Việc tự thương lượng được giữa các

bên sẽ góp phần giảm tốn kém trong việc giải quyết tranh chấp, rút ngắn thời

gian tranh chấp. Tránh gây ảnh hưởng đến quan hệ hai bên ít bị ảnh hưởng và

quan hệ sản xuất đỡ bị gián đoán lâu do sự việc tranh chấp gây ra.

1.1.5.2. Hòa giải và trung gian

Hòa giải và trung gian là phương thức giải quyết tranh chấp lao động

tập thể có sự tham gia của bên thứ ba nhằm hỗ trợ các bên tranh chấp đạt

- 32 -

được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp. Đối với phương thức trung

gian thì sự tham gia của bên thứ ba chỉ mang tính chất là bên kết nối giữa hai

bên, giúp hai bên gặp gỡ thương lượng với nhau chứ nhiệm vụ bên trung gian

không nhiều ý nghĩa. Đối với phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập

thể theo hình thức hòa giải thì bên thứ ba không chỉ là đơn vị kết nối hai bên

tranh chấp mà còn trực tiếp đề xuất các phương án giải quyết để hai bên tham

khảo, thương lượng giải quyết các tranh chấp đó. Ở nước ta chủ yếu chỉ có

phương thức hòa giải, chưa có quy định về trung gian giải quyết tranh chấp.

1.1.5.3. Trọng tài

Trọng tài cũng là một trong những phương thức được sử dụng để giải

quyết tranh chấp lao động tập thể. Đây là một phương thức đặc trưng bởi có

sự tham gia giải quyết tranh chấp của một bên thứ ba với vai trò là bên có

quyền phân xử tranh chấp, tất nhiên việc phân xử này trước đó phải có sự

đồng thuận của cả hai bên tranh chấp. Đối với các tranh chấp lao động tập thể

về quyền, các phán quyết của Hội đồng trọng tài có ý nghĩa như một bản án

của tòa án. Đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, phán quyết này

thì phán quyết của Hội đồng trọng tài có ý nghĩa thay thế kết quả thương

lượng giữa tập thể NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hệ thống pháp

luật của mỗi nước, hiệu lực của các quyết định trọng tài có ý nghĩa khác nhau.

Tuy nhiên dù có ý nghĩa bắt buộc thì thông thường các quyết định của trọng

tài cũng không được thi hành ngay như đối với các bản án của tòa án, muốn

được thực hiện ngay thông thường bên có quyền phải yêu cầu tòa án công

nhận sau đó mới có bước thi hành quyết định của Hội đồng trọng tài.

1.1.5.4. Quyết định hành chính.

Quyết định hành chính cũng là một phương thức để giải quyết các tranh

chấp lao động tập thể. Phương thức này giúp các cơ quan hành chính có thể

điều tra, đưa ra các phán quyết để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể

- 33 -

theo yêu cầu của các bên. Tuy có vai trò trên thực tế rất cao nhưng trên thế

giới trong hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tập thể thì

phương thức này lại ít được ghi nhận, thông thường phương thức này chỉ

được sử dụng để giải quyết các tranh chấp về công đoàn. Ở nước ta, phương

thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể bằng các quyết định hành chính lại

được ghi nhận cụ thể và sử dụng trên thực tế khá nhiều. Tại nghị định số

04/2005/NĐ – CP đã ghi nhận về phương thức giải quyết này một cách khá cụ

thể, rõ ràng. Đến năm 2008 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tiếp tục ban

hành Thông tư số 06/2008/TT-BLĐTBXH quy định cụ thể về phương thức

này. Tại Điều 203 của BLLĐ năm 2012 cũng quy định cụ thể thẩm quyền của

Chủ tịch UBND cấp huyện về việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể

về quyền, đồng thời quy định cụ thể về thời hạn để Chủ tịch UBND cấp

huyện trong việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền như

“Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải

quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp

huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động”

1.1.5.5. Xét xử

Xét xử là phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể mà theo

đó tòa án sẽ ra một bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ việc. Tại Điều

203 của BLLĐ năm 2012 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động

tập thể về quyền thuộc thẩm quyền của tòa án, và các thủ tục giải quyết liên

quan.

1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy

định của pháp luật hiện hành

Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì các tranh chấp lao động tập

thể được chia thành hai loại là tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh

- 34 -

chấp lao động tập thể về lợi ích với những cơ chế giải quyết khác nhau, cụ thể

các hình thức giải quyết tranh chấp được quy định như sau:

1.2.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền.

1.2.1.1. Thủ tục hòa giải cơ sở

Theo quy định tại điều 203 BLLĐ năm 2012 thì thủ tục hòa giải cơ sở

đối với các tranh chấp lao động tập thể được thực hiện theo thủ tục hòa giải

đối với các tranh chấp lao động cá nhân tại điều 201. Theo đó pháp luật hiện

hành quy định thủ tục hoà giải được tiến hành như sau:

Nhận đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp: Mỗi bên hoặc cả hai bên tranh

chấp đều có quyền yêu cầu hòa viên lao động giải quyết tranh chấp lao động

tập thể. Việc yêu cầu hòa giải viên lao động giải quyết các tranh chấp bằng

cách các bên yêu cầu phải làm đơn theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh

và Xã hội quy định và phải nộp đơn đó cho cơ quan lao động cấp huyện để

yêu cầu hòa giải viên tham gia giải quyết tranh chấp. Khi nhận được đơn thư

yêu cầu hợp lệ, cán bộ của cơ quan lao động cấp huyện nhận đơn phải vào sổ

theo dõi trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm nhận đơn và chuyển ngay cho lãnh

đạo của cơ quan lao động cấp huyện để phân công cho hòa giải viên lao động

để tìm hiểu và xử lý vụ việc. Chuẩn bị phiên họp hòa giải: Hòa giải viên lao

động được phân công giải quyết vụ việc phải nhanh chóng tiến hành tìm hiểu

vụ việc và dự kiến phương án hòa giải. Để đảm bảo tranh chấp lao động tập

thể được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, pháp luật quy định hòa giải viên

lao động phải thông báo bằng văn bản về việc triệu tập các bên tranh chấp,

người làm chứng (nếu có) và tổ chức phiên họp hòa giải vụ tranh chấp lao

động trong thời hạn năm ngày ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Tiến

hành hòa giải Tại phiên họp hoà giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên

tranh chấp có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải. Hoà

giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương lượng. Trường

- 35 -

hợp hai bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải

thành. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa

ra phương án hoà giải để hai bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận

phương án hoà giải, hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành.

Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một bên tranh

chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do

chính đáng, thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không thành. Biên

bản có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hoà giải viên lao động. Bản sao

biên bản hoà giải thành hoặc hoà giải không thành phải được gửi cho hai bên

tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản. Trong

trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các

thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành thì thực hiện theo hai phương án:

- Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền các bên có quyền yêu cầu Chủ

tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết; Trong trường hợp hết thời hạn

giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 201 của BLLĐ năm 2012 mà hoà

giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì các bên có quyền gửi đơn yêu

cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết. Trong thời hạn 02 ngày

làm việc, kể từ khi nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm xác định loại tranh chấp

về quyền hoặc lợi ích. Trường hợp là tranh chấp lao động tập thể về quyền thì

tiến hành giải quyết theo quy định tại chủ tịch UBND cấp huyện. Trường hợp

là tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thì hướng dẫn ngay các bên yêu cầu

giải quyết tranh chấp tại trọng tài theo quy định

1.2.1.2. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền của Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 204 BLLĐ năm 2012, trong trường hợp

hoặc hòa giải viên lao động hòa giải không thành hoặc không hòa giải tranh

- 36 -

chấp lao động tập thể về quyền trong thời hạn luật định, thì mỗi bên tranh

chấp có quyền yêu cầu Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. Trình tự, thủ

tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền của Chủ tịch UBND cấp

huyện được tiến hành như sau:

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu

giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch UBND cấp huyện

phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động. Tại phiên họp giải quyết tranh

chấp lao động phải có đại diện của hai bên tranh chấp. Trường hợp cần thiết,

Chủ tịch UBND cấp huyện mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan tham

dự phiên họp. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào pháp luật về

lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký và các

quy chế, thoả thuận hợp pháp khác để xem xét giải quyết tranh chấp lao động.

Trong trường hợp các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch UBND

cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch UBND cấp huyện không giải quyết

thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc quy định về thời hạn

giải quyết các tranh chấp lao động về quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện

đã có sự thay đổi so với trước đây từ 3 ngày lên 5 ngày, quy định này nhằm

tạo điều hiện cho chức danh Chủ tịch UBND cấp huyện có nhiều thời gian

hơn trong việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể. Có điều kiện để

xem xét, đánh giá tình huống, xem xét các chứng cứ có được đồng thời cân

nhắc được các biện pháp giải quyết hữu hiệu nhất. Quy định mới cũng bỏ vấn

đề Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền xử lý các bên tranh chấp nếu thấy có

hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp quy định này

giúp cho các bên có thể an tâm hơn khi nhờ Chủ tịch UBND cấp huyện tham

gia giải quyết các tranh chấp của mình.

Pháp luật hiện hành không quy định chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm

quyền ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp, cũng không quy định chủ

- 37 -

thể này có quyền hoà giải tranh chấp lao động để lập biên bản hoà giải thành

hay biên bản hoà giải không thành. Trong trường hợp như vậy, rõ ràng thẩm

quyền giải quyết tranh chấp lao động của chủ tịch UBND cấp huyện theo quy

định của pháp luật hiện hành là không thể thực hiện được. Hơn nữa, thủ tục

giải quyết tranh chấp lao động của chủ tịch UBND cấp huyện hiện nay cũng

chưa rõ ràng, hợp lí (không rõ là thủ tục hoà giải, trọng tài hay xét xử).

1.2.1.3. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền tại Tòa án

Theo quy định tại Điều 205 BLLĐ năm 2012 thì sau khi Chủ tịch

UBND cấp huyện giải quyết mà hai bên vẫn còn tranh chấp hoặc đã hết thời

hạn luật định mà Chủ UBND cấp huyện vẫn chưa giải quyết thì mỗi bên có

quyền yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết. Việc giải quyết các tranh chấp lao

động tập thể tại tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân

sự, thủ tục cụ thể như sau:

- Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm: Trong giai

đoạn sơ thẩm, các hoạt động tố tụng tại tòa án bao gồm: hoạt động thụ lý vụ

án lao động, hoạt động chuẩn bị xét xử và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án lao

động.

+ Khởi kiện, thụ lý vụ án lao động: Tòa án tiến hành thụ lý vụ án lao

động nếu có việc khởi kiện vụ án lao động. Để thụ lý vụ án, Thẩm phán phải

thực hiện những việc cụ thể sau: Kiểm tra quyền khởi kiện, xem xét về thời

hiệu, xem xét về thẩm quyền, xem xét vụ án tranh chấp có thuộc trường hợp

phải trả lại đơn khởi kiện hay không, xem xét về án phí. Giai đoạn xem xét

đơn khởi kiện và thụ lý vụ án là khâu rất quan trọng trong cả quá trình giải

quyết vụ án tại tòa án. Đây là giai đoạn đầu tiên của việc giải quyết tranh chấp

tại tòa án, do đó việc xác định đúng quan hệ tranh chấp ngay từ giai đoạn xử

lý đơn và thụ lý vụ án có ý nghĩa quyết định. Việc xác định sai quan hệ tranh

chấp sẽ khiến tòa áp dụng không đúng pháp luật về nội dung gây khó khăn

- 38 -

trong giải quyết vụ án. Về thời hiệu khởi kiện: BLLĐ quy định thời hiệu yêu

cầu giải quyết tranh chấp lao động chứ không quy định riêng thời hiệu khởi

kiện tranh chấp lao động ra tòa án. Do đó, quy định về thời hiệu giải quyết

tranh chấp lao động được áp dụng chung cho các cơ quan, tổ chức có thẩm

quyết giải quyết trong đó có tòa án. Theo khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng

dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì thời hiệu khởi kiện tranh chấp lao động

được áp dụng theo quy định của pháp luật lao động. Tuy đã quy định rõ ràng

nhưng khi nhận hồ sơ khởi kiện, một số tòa án thương lúng túng khi xem xét

các điều kiện về thời hiệu khởi kiện vụ án lao động (xác định thời điểm bắt

đầu tính thời hiệu hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện) do đó thời gian thụ lý,

giải quyết vụ án bị kéo dài. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố

tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung thì tòa án không được trả lại đơn khi

thời hiệu khởi kiện đã hết. Quy định này một phần bảo vệ quyền lợi của người

khởi kiện tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, người dân

chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn, tuy nhiên

bên cạnh đó quy định này sẽ gây khó khăn trong việc giải quyết đơn khởi kiện

cũng như giải quyết vụ án nếu như được thụ lý. Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân

sự sửa đổi, bổ sung quy định thời hiệu khởi kiện đã hết là một trong các căn

cứ để đình chỉ giải quyết vụ án.

+ Chuẩn bị xét xử:

Để đảm bảo cho việc xét xử đúng nguyên tắc và thuận lợi tòa án phải

thực hiện các công việc sau đây:

* Thông báo thụ lý vụ án.

* Xác minh, thu thập chứng cứ: Tranh chấp lao động thường liên quan

đến nhiều vấn đề rất phức tạp như: định mức lao động, tiền lương, bảo hiểm

xã hội, an toàn lao động và vệ sinh lao động, tai nạn lao động - bệnh nghề

nghiệp v.v... do đó việc xác minh, thu thập chứng cứ là rất cần thiết. Bên cạnh

- 39 -

nghĩa vụ của các đương sự là phải cung cấp chứng cứ thì trách nhiệm của

Thẩm phán trong việc xác minh, thu thập chứng cứ cũng rất quan trọng.

* Thủ tục hòa giải: Hòa giải trước khi mở phiên tòa một mặt đảm bảo

cho các bên thực hiện được quyền tự định đoạt của họ, mặt khác sẽ có thể

chấm dứt quá trình tố tụng ngay sau khi tiến hành hòa giải.

+ Tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.

Phiên tòa sơ thẩm là hoạt động tố tụng điển hình, thể hiện tập trung

nhất đặc trưng của hình thức tố tụng tòa án. Điểm nổi bật trong các quy định

về phiên tòa sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ

luật Tố tụng dân sự đó là: các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xét hỏi và

tranh luận thể hiện rõ mục đích nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên

tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Phiên tòa về nguyên tắc phải tiến hành

công khai, liên tục, trực tiếp và bằng lời nói. Tố tụng đã chuyển từ xét hỏi

sang tố tụng tranh luận. Các quyền tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là quyền yêu

cầu, trình bày và tranh luận được bảo đảm tối đa. Mọi phán quyết của Hội

đồng xét xử chỉ được phép dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tố tụng

hiện hành của tòa án đã được cải cách đáng kể theo hướng tiến bộ và phù hợp

thông lệ chung của các nước. Khi tòa án mở phiên tòa để xét xử tất cả những

người tham gia tố tụng như đại diện tập thể NLĐ, đại diện công đoàn cơ sở,

đại diện NSDLĐ phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Về sự vắng mặt của

những người tham gia tố tụng được triệu tập tham gia phiên tòa còn tồn tại

nhiều quan điểm: - Quan điểm thứ nhất: Triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà

vẫn vắng mặt là hai lần được tòa án triệu tập và cả hai lần đương sự vắng mặt.

Như vậy mỗi đương sự được vắng mặt một lần. Do đó một vụ án có bao nhiêu

đương sự thì có khả năng phải hoãn phiên tòa bấy nhiêu lần. - Quan điểm thứ

hai: Phải lấy số lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập để tính. Nếu đương sự đã

được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai thì dù phiên tòa thứ nhất đương sự có

- 40 -

mặt hay không có mặt mà phiên tòa thứ hai vắng mặt thì vẫn được coi là đã

triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt để ra quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án hay xét xử vắng mặt đương sự.

- Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp phúc thẩm

Phúc thẩm các bản án hoặc quyết định là hoạt động xem xét lại tính

đúng đắn của các bản án, các quyết định đã tuyên theo yêu cầu của các đương

sự, đại diện của họ hoặc của Viện kiểm sát nhằm đảm bảo quyền lợi của

đương sự và đảm bảo tính đúng đắn, công bằng của việc thực thi pháp chế.

Xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nói chung và lao động tập thể nói riêng có

những đặc điểm sau:

+ Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo pháp luật

trong khi xét xử của tòa án cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn, tính hợp

pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm.

+ Tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc, hạn chế bởi những nội

dung kháng cáo hoặc kháng nghị mà có thể kiểm tra những vấn đề khác có

liên quan đến kháng cáo, kháng nghị đối với tất cả các đương sự, kể cả những

người không kháng cáo và không bị kháng nghị.

+ Những người tham gia tố tụng có quyền, nghĩa vụ tương tự như ở tòa

án cấp sơ thẩm. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, người kháng cáo,

kháng nghị có quyền xuất trình những tài liệu, chứng cứ mới chưa được xem

xét tại tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm khi tiến hành xác minh, thu

thập chứng cứ thường tiến hành theo hai cách:

Thứ nhất, trước khi mở phiên tòa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực

hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ (xác minh, thẩm định tại chỗ, lấy lời

khai người làm chứng hoặc xác minh ý kiến của cơ quan chuyên môn…).

Thứ hai, tại phiên tòa, trên cơ sở trình bày, tranh luận tại phiên tòa nếu

thấy cần thiết phải xác minh thu thập, chứng cứ thì hoãn phiên tòa để xác

- 41 -

minh, thu thập chứng cứ. Theo chúng tôi việc xác minh, thu thập chứng cứ

nên tiến hành trước khi mở phiên tòa là phù hợp và có hiệu quả hơn vì sau khi

có kết quả xác minh, thu thập chứng cứ, thì có thêm cơ sở giải quyết vụ án.

Thẩm phán có thêm cơ sở trong việc thẩm vấn, điều khiển phiên tòa được

hiệu quả, tránh tình trạng hoãn phiên tòa nhiều lần. Phiên tòa phúc thẩm được

tiến hành với các thủ tục: Chuẩn bị khai mạc phiên tòa và thủ tục bắt đầu

phiên tòa phúc thẩm, thủ tục hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa phúc

thẩm. Thực tiễn xét xử phúc thẩm cho thấy việc hủy bản án sơ thẩm để tiến

hành chứng minh và thu thập chứng cứ lại không thống nhất. Việc xác định

như thế nào là xác minh, thu thập chứng cứ, chứng minh không đầy đủ là vô

cùng quan trọng, liên quan đến chất lượng xét xử của tòa án các cấp.

- Thủ tục xét lại bản án, quyết định lao động đã có hiệu lực pháp luật

Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được gọi là thủ tục đặc biệt. Các cấp

tòa án có thẩm quyền xét xử theo thủ tục này sẽ xét lại những bản án, quyết

định của tòa án cấp dưới khi đã có hiệu lực trong trường hợp có kháng nghị

của những người có thẩm quyền nhằm mục đích bảo đảm tính hợp pháp và

tính có căn cứ của các bản án, quyết định mà tòa án đã tuyên. Đặc biệt, trong

lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự này nhà làm luật đã đưa ra vấn đề

mới đó là "xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi có căn cứ giám đốc thẩm, tái thẩm".

Có thể thấy sự cố gắng của các nhà lập pháp trong việc đảm bảo sự công bằng

cho các đương sự khi tham gia tố tụng tại tòa án. Tuy nhiên theo tinh thần của

cải cách tư pháp theo hướng hai cấp xét xử thì việc đặt ra một cơ chế đặc biệt

xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm có vẻ mâu thuẫn. Hơn nữa một

tranh chấp khi đã đến cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thì thời gian là rất dài, có

thể vài năm, việc xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm không biết sẽ dẫn

vụ án thêm bao nhiêu năm nữa, khi nào thì tranh chấp chấm dứt và có thể thi

- 42 -

hành án. Vấn đề cốt lõi nhất của việc cải cách, sửa đổi là phải nâng cao chất

lượng xét xử để ít sai sót. Đúng là thực tế có những quyết định giám đốc

thẩm, tái thẩm còn sai, việc sửa sai là cần thiết nhưng việc xét lại quyết định

giám đốc thẩm, tái thẩm cần phải thận trọng và phải có những chế định phù

hợp để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự cũng như hoạt động của cơ

quan tư pháp.

1.2.2. Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

1.2.2.1. Hòa giải viên lao động.

Bước đầu tiên đối với hoạt động giải quyết các tranh chấp lao động tập

thể về lợi ích cũng tuân theo một nguyên tắc chung đó là phải qua hoạt động

hòa giải cơ sở, tuy nhiên về thủ tục hòa giải cơ sở đối với việc giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể về quyền cũng như lợi ích đều cùng một thủ tục.

Các nội dung về hòa giải cơ sở đã được trình bày tại phần trên nên phần này

chỉ để cập đến thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích tại cơ

quan trọng tài lao động cấp tỉnh.

1.2.2.2. Trình tự giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài lao động Trình

tự, thủ tục tiến hành hòa giải và giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại

trọng tài được tiến hành qua các thủ tục sau:

- Nộp đơn yêu cầu và thụ lý vụ việc.

Việc nhận đơn yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp của hội đồng trọng tài

đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích ở các doanh nghiệp không thuộc

danh mục bị cấm đình công và các tranh chấp lao động tập thể ở các doanh

nghiệp thuộc danh mục bị cấm đình công được tiến hành như sau: Trước khi

đưa vụ tranh chấp lao động ra giải quyết tại trọng tài thì tranh chấp đó phải

được đề nghị giải quyết tại hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải

viên lao động. Trong trường hợp hòa giải không thành hoặc một trong các bên

- 43 -

không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời

hạn giải quyết hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động

không tiến hành hòa giải đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích tại các

doanh nghiệp thông thường hoặc khi vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra tại

doanh nghiệp không được đình công thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu

hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc. Người có quyền yêu cầu hội đồng trọng

tài giải quyết tranh chấp chính là một trong các bên tranh chấp. Đối với việc

đại diện người lao động khi có tranh chấp xảy ra ở những nơi chưa có tổ chức

công đoàn, BLLĐ năm 2012 chỉ có quy định về việc tổ chức và lãnh đạo đình

công sẽ do tổ chức công đoàn cấp trên thực hiện theo đề nghị của NLĐ, chứ

chưa có quy định cụ thể về việc đại diện cho NLĐ trong việc yêu cầu các cơ

quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động. Ngay cả khi đã được quy định

về vai trò của tổ chức công đoàn cấp trên trong việc tổ chức và lãnh đạo đình

công thì để thực hiện được điều này cần quy định rõ về “đề nghị của NLĐ”,

như hình thức, thời gian, chủ thể, nội dung, trình tự, thủ tục để NLĐ biết và

gửi đề nghị đến tổ chức công đoàn cấp trên. Đây là vấn đề cần được bổ sung,

khắc phục trong thời gian tới.

- Chuẩn bị giải quyết tranh chấp:

Đây là giai đoạn được tiến hành kể từ thời điểm thụ lý vụ việc cho đến

khi mở phiên họp hòa giải. Chuẩn bị giải quyết tranh chấp là một giai đoạn có

ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp lao động vì

kết thúc thời gian này hội đồng trọng tài có kế hoạch và sẵn sàng cho việc tiến

hành hòa giải và giải quyết tranh chấp. Trong giai đoạn này, hội đồng trọng

tài phải tiến hành thông báo cho những người có liên quan biết về vụ việc

tranh chấp đã được thụ lý, điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, phục vụ cho

việc tiến hành hòa giải. Để việc hòa giải và giải quyết các tranh chấp lao động

- 44 -

có hiệu quả thì công tác chuẩn bị cũng phải được tiến hành tốt các công việc

sau:

+ Tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các bên tranh chấp, những người có liên

quan, người làm chứng. Trọng tài viên cần đặc biệt chú ý về thái độ, cách

nhìn nhận vấn đề của các bên.

+ Thu thập chứng cứ, yêu cầu các đương sự cung cấp đầy đủ các tài

liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp.

+ Gửi thông báo yêu cầu các đương sự tới dự phiên họp giải quyết

tranh chấp lao động, yêu cầu các đương sự đến đúng thời gian và địa điểm.

Trong thời hạn 2 ngày sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết vụ tranh

chấp, thư ký hội đồng trọng tài có trách nhiệm cung cấp cho các thành viên

hội đồng trọng tài giấy triệu tập họp hội đồng trọng tài, đơn yêu cầu giải

quyết, các chứng cứ, tài liệu có liên quan, danh sách thành viên hội đồng

trọng tài lao động tham gia hòa giải, giải quyết vụ tranh chấp do chủ tịch hội

đồng trọng tài lao động quyết định. Trong trường hợp một hoặc cả hai bên

tranh chấp có yêu cầu thay đổi thành viên của hội đồng trọng tài lao động vì

cho rằng thành viên đó không đảm bảo tính khách quan, công bằng trong việc

giải quyết tranh chấp (người thân thích hoặc người có lợi ích cá nhân liên

quan trực tiếp hay gián tiếp với một bên tranh chấp) thì phải có đơn gửi hội

đồng trọng tài lao động ít nhất 3 ngày trước khi tiến hành phiên họp. Việc

thay thế thành viên trong từng phiên họp hòa giải và giải quyết tranh chấp lao

động tập thể do chủ tịch hội đồng trọng tài lao động quyết định. Pháp luật của

các nước đều có quy định về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của bên tranh

chấp. Các bên phải chịu trách nhiệm về những tài liệu, chứng cứ mình đưa ra

trước trọng tài lao động. Bên cạnh đó, trọng tài lao động cũng có thể tự mình

thu thập thêm chứng cứ nếu thấy cần thiết. Trách nhiệm thu thập thêm chứng

cứ ở nước ta thuộc về các trọng tài viên lao động, tuy nhiên pháp luật lại chưa

- 45 -

đưa ra một chế tài nào để xử lý trốn tránh nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, đặc

biệt là từ phía NSDLĐ. NSDLĐ là người nắm giữ rất nhiều giấy tờ, tài liệu

quan trọng để chứng minh quan hệ lao động với NLĐ như hợp đồng lao động,

bảng lương, giấy tờ bảo hiểm xã hội, các quyết định hành chính…, vì vậy nếu

không đưa ra chế tài để xử lý thì NSDLĐ có thể cố tình trốn tránh việc cung

cấp chứng cứ cho hội đồng trong tài, khi đó hội đồng trọng tài rất khó để có

thể có được những bằng chứng xác thực làm cơ sở để giải quyết tranh chấp.

- Hòa giải tranh chấp lao động

Thành phần tham gia phiên họp hòa giải tranh chấp lao động tại trọng

tài gồm: hội đồng trọng tài, các bên tranh chấp. Tại phiên họp hội đồng trọng

tài lao động, thư ký hội đồng trọng tài lao động kiểm tra sự có mặt của hai

bên tranh chấp lao động, đại diện có thẩm quyền của hai bên tranh chấp. Nếu

một trong hai bên tranh chấp vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì

hội đồng trọng tài lao động hoãn phiên họp. Trường hợp đã được triệu tập đến

lần thứ hai sau hai ngày làm việc kể từ ngày hội đồng trọng tài lao động quyết

định hoãn phiên họp lần thứ nhất mà một trong hai bên tranh chấp vắng mặt

không có lý do chính đáng thì hội đồng trọng tài lao động vẫn họp và lập biên

bản hòa giải không thành có chữ ký của bên tranh chấp có mặt, của chủ tịch,

thư ký hội đồng trọng tài lao động. Hội đồng trọng tài sẽ đưa giải quyết vụ

tranh chấp dựa trên nguyên tắc đa số và bằng hình thức bỏ phiếu kín. Nếu các

bên tranh chấp lao động tự hòa giải được hoặc nhất trí phương án hòa giải do

hội đồng trọng tài lao động đưa ra thì hội đồng trọng tài lao động lập biên bản

hòa giải thành theo mẫu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, có chữ ký

của hai bên tranh chấp, Chủ tịch, Thư ký hội đồng trọng tài lao động và gửi

cho hai bên tranh chấp. Hai bên tranh chấp có nghĩa vụ chấp hành các thỏa

thuận ghi trong biên bản hòa giải thành. Trong trường hợp hội đồng trọng tài

lao động tiến hành hòa giải không thành thì tập thể NLĐ có quyền tiến hành

- 46 -

các thủ tục để đình công. - Ra quyết định về vụ tranh chấp lao động BLLĐ đã

sửa đổi, bổ sung năm 2006 quy định kết thúc phiên họp hòa giải, hội đồng

trọng tài lao động sẽ lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành chứ không

có quy định về việc hội đồng trọng tài lao động sẽ ra quyết định công nhận sự

thỏa thuận của các bên. Như vậy, quá trình giải quyết tranh chấp lao động

bằng trọng tài sẽ chỉ dừng lại ở việc lập biên bản hòa giải thành hoặc không

thành đối với vụ tranh chấp lao động. BLLĐ năm 2012 quy định: “trong

trường hợp hai bên tự thỏa thuận được hoặc chấp nhận phương án hòa giải

thì hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải thành đồng thời ra quyết

định công nhận sự thỏa thuận của các bên” (Khoản 2 Điều 206). Tuy nhiên

cần lưu ý rằng đây chỉ là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các bên

tranh chấp chứ không phải là một quyết định giải quyết tranh chấp. Trong

trường hợp các bên không thể đi đến thỏa thuận chung thì trọng tài cũng chỉ

lập biên bản hòa giải không thành chứ không ra được quyết định giải quyết

tranh chấp.

- Thi hành quyết định của hội đồng trọng tài

Pháp luật lao động quy định: hội đồng trọng tài đưa ra phương án hòa

giải để các bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận phương án hòa giải

thì hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành, có chữ ký của hai bên tranh

chấp, của Chủ tịch và Thư lý hội đồng trọng tài lao động. Hai bên có nghĩa vụ

chấp hành các thỏa thuận ghi trong biên bản hòa giải thành. Như vậy, việc thi

hành biên bản hòa giải thành hoàn toàn dựa vào ý thức tự giác của các bên.

Tiểu kết Chƣơng 1

Qua phân tích ở trên, ta có thể rút ra một số kết luận về các nội dung

thuộc phần lý luận chung về tranh chấp lao động tập thể và các quy định của

pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động tập thể như:

- 47 -

- Thiếu một khái niệm cụ thể cho hình thức tranh chấp lao động tập

thể, điều này gây khó khăn cho công tác phân biệt và giải quyết các tranh

chấp khi chúng phát sinh.

- Việc phân chia và quy định cụ thể về hai hình thức của tranh chấp lao

động tập thể được pháp luật Việt Nam đề cập đến đó là hai hình thức tranh

chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, qua

đó quy định hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp đi kèm. Việc phân

chia hai hình thức tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích cũng chỉ đặt ra

với hình thức tranh chấp trên bình diện tập thể.

- Việc quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động còn rườm

rà, quá mức cần thiết và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các bên tranh chấp.

Điều này được thể hiện như đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền đòi

hỏi phải qua ba cấp giải quyết, hòa giải cơ sở, chủ tịch UBND cấp huyện và

sau cùng là tòa án. Qua quá nhiều thủ tục đòi hỏi nhiều thời gian, mặt khác

đây là hình thức tranh chấp mà một bên cho rằng bên kia vi phạm quyền lợi

của mình đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng kịp thời thì thủ tục lại phức tạp

và qua nhiều cấp giải quyết sẽ rất dễ ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của bên bị

vi phạm.

- Công tác giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa được quan tâm

đúng mức, hiện tại theo quy định, Hội đồng trọng tài chỉ tham gia giải quyết

các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

- 48 -

CHƢƠNG 2:

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƢƠNG

2.1. Khái quát về tình hình công nhân lao động và đoàn viên công đoàn

trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

2.1.1. hái quát chung về các Khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

Thị xã Bến Cát nằm trên trục chính Đại lộ Bình Dương, là tuyến đường

huyết mạch nối liền Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Bình Phước và

nước bạn Campuchia, có 5 tuyến tỉnh lộ đi qua đã và đang được nâng cấp, mở

rộng, các tuyến đường được đầu tư đồng bộ. Ngoài ra, còn có tuyến đường Hồ

Chí Minh nối liền các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh phía Bắc,

tuyến đường cao tốc Mỹ Phước - Tân Vạn nối các Khu công nghiệp trên địa

bàn đi Tân Vạn; tuyến đường vành đai 4 nối một số khu công nghiệp – đô thị

của Bến Cát với thành phố mới Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh, về

giao thông Bến Cát đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

của hiện tại và tương lai.

Các Khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát nằm trên địa bàn có

được nhiều ưu thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi cho

sự phát triển kinh tế - xã hội mà trọng tâm đẩy mạnh phát triển công nghiệp.

Trong khoảng 10 năm trở lại đây, “vóc dáng” của khu công nghiệp đã

dần được hoàn thiện. Hiện nay, trên địa bàn thị xã Bến Cát có 08 khu công

nghiệp (KCN Mỹ Phước 1, KCN Mỹ Phước 2, KCN Mỹ Phước 3, KCN Mỹ

Phước 4, KCN Việt Hương 2, KCN Mai Trung, KCN An Tây, KCN Rạch

Bắp). Trong đó đi vào hoạt động 07 khu công nghiệp, với tổng diện tích trên

4.000 ha, tỷ lệ lấp kín trên 90%, thu hút 470 doanh nghiệp đầu tư; đã đi vào

hoạt động 326 doanh nghiệp, với tổng số vốn đầu tư trên 4 tỷ USD.

- 49 -

Sản xuất công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về quy mô và tốc

độ, nhiều giải pháp huy động các nguồn lực, tập trung phát triển những sản

phẩm ưu thế được thực hiện có hiệu quả. Các ngành may mặc, giày da, gỗ,

...đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đây là yếu tố cơ bản tạo nên tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao, làm thay đổi quy mô sản xuất và cơ cấu kinh tế chung

của thị xã.

2.1.2. Tình hình công nhân lao động trong các khu công nghiệp trên địa

bàn thị xã Bến Cát

- Sự biến đổi về số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ công nhân khu

công nghiệp

Đội ngũ công nhân các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

là một bộ phận của giai cấp công nhân Bình Dương cũng như giai cấp công

nhân Việt Nam. Họ cũng là những người lao động làm công trong các công

ty, nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hoặc dịch vụ công nghiệp trên địa bàn

với nguồn thu nhập chủ yếu là tiền công. Bên cạnh những thuộc tính, đặc

điểm chung của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân của khu

công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát cũng có những điểm riêng, do chịu

sự quy định của điều kiện địa lý – tự nhiên và lịch sử.

Trong khoảng hơn 5 năm trở lại đây, cùng với sự gia tăng nhanh chóng

của số lượng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lực lượng công nhân

khu công nghiệp cũng không ngừng gia tăng về số lượng, đa dạng hơn về cơ

cấu, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên. Nếu

năm 2014, khu công nghiệp có 67.729 công nhân lao động thì năm 2018 là

96.415 người lao động. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng lao

động công nghiệp – xây dựng và giảm lao động nông nghiệp; tốc độ phát triển

công nghiệp và đô thị hóa nhanh đã thu hút số lượng lao động nhập cư vào địa

phương rất lớn.

- 50 -

- Về tình hình đời sống vật chất và đời sống tinh thần, quan hệ lao

động của đội ngũ công nhân khu công nghiệp

- Về đời sống tinh thần, vật chất và quan hệ lao động của đội ngũ công

nhân khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát có thể đưa ra nhận xét

chung như sau: đời sống, việc làm của công nhân cũng ngày được cải thiện

trên cơ sở tự giác phối hợp hoạt động của người lao động, người sử dụng lao

động các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức công đoàn; tiền lương được

nâng lên và đảm bảo chi trả đúng kỳ hạn hơn. Quan hệ giữa người sử dụng

lao động và người lao động ngày càng được cải thiện; Tổ chức và hoạt động

của Tổ chức công đoàn có những đổi mới đáng kể, từng bước nâng cao chất

lượng; cùng với chính quyền, các ngành, đoàn thể thực hiện tốt chức năng

tuyên truyền giáo dục và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao

động, các cơ quan ban ngành phối hợp tổ chức biểu diễn văn nghệ phục vụ

nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho công nhân lao động; tổ chức Đại hội thể dục

thể thao, văn nghệ. Bên cạnh đó, tại các công đoàn cơ sở cũng đã tổ chức các

hoạt động văn hóa, văn nghệ - thể dục thể thao cho công nhân lao động, Ban

chấp hành công đoàn phối hợp cùng ban giám đốc công ty tổ chức các giải

bóng đá mini, hội thao, thi hát karaoke, trò chơi dân gian định kỳ hàng năm

nhằm tạo sân chơi lành mạnh cho công nhân lao động.

- 51 -

2.1.3. Tình hình Công đoàn cơ sở, đoàn viên công đoàn, công nhân lao

động qua các năm (2014-2018)

* Tình hình CĐCS, ĐVCĐ, CNLĐ qua các năm:

Năm 2014 2015 2016 2017 2018

CĐCS 188 205 227 240 271

ĐVCĐ 53.832 67.397 77.662 85.424 94.885

100000

10000

1000

CĐCS

ĐVCĐ

100

CNLĐ

10

1

2014

2015

2016

2017

2018

CNLĐ 67.729 75.051 80.221 88.014 96.415

Hình 2.1. Biểu đồ CĐCS, ĐVCĐ, CNLĐ qua các năm

- 52 -

Lực lượng lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến

Cát hiện nay chủ yếu là lao động trẻ, có sức khỏe, năng động; đa số có lòng

yêu nước, tự hào dân tộc. Lao động từ 18-25 tuổi chiếm 66%, lao động từ 25-

35 tuổi chiếm 23%, lao động trên 35 tuổi chiếm 11%.

Lực lượng lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến

Cát hiện nay chủ yếu là lao động trẻ. Trình độ học vấn: Dưới THCS: chiếm

29,51%; THCS: chiếm 38,88%; THPT: chiếm 28,15%; Đại học: 3.01%; trên

Đại học: 0.45%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 45,9%, tỷ lệ lao động qua

đào tạo nghề là 33,4%.

Về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, đội ngũ công nhân khu công

nghiệp vẫn tiếp tục phát huy vai trò giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo

cách mạng, thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng

nòng cốt trong khối liên minh với nông nhân và trí thức, góp phần tạo nên cơ

sở chính trị - xã hội vững chắc cho Đảng và Nhà nước. Hiện chi bộ Công

đoàn các khu công nghiệp Bến Cát có 55 Đảng viên, đã giới thiệu cho Đảng

được 178 cán bộ công đoàn ưu tú để bồi dưỡng nhận thức về Đảng.

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại các doanh

nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

trong 5 năm (2014-2018)

2.2.1. Tình hình tranh chấp lao động tập thể trong những năm từ 2014 đến

2018

Trong năm năm qua, tình hình tranh chấp lao động tập thể (TCLĐTT)

không theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định có xu hướng gia tăng và diễn

biến phức tạp. Theo thống kê, tính từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn

khu công nghiệp Bến Cát đã xảy ra 25 vụ TCLĐTT với tổng số 8.548 lượt

CNLĐ tham gia.

- 53 -

* Các vụ TCLĐTT diễn ra chủ yếu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, nhất là: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... Cụ thể:

- DN có vốn đầu tư Đài Loan: 10/25, chiếm tỷ lệ 40%.

- DN có vốn đầu tư Hàn Quốc: 6/25, chiếm tỷ lệ 24%.

- Các DN có vốn đầu tư FDI khác: 9/25, chiếm tỷ lệ 36%

* Số vụ TCLĐTT chủ yếu xảy ra thuộc các ngành nghề:

- May mặc, may túi sách: 7/25 chiếm tỷ lệ 28%;

- Gỗ gia dụng, gỗ xuất khẩu: 5/25 chiếm tỷ lệ 20%;

- Gia công giày, đế giày: 6/25 chiếm tỷ lệ 24%;

- Các ngành nghề khác: 7/25 chiếm tỷ lệ 28%.

* Phân loại DN có tổ chức CĐCS và chưa có CĐCS:

Doanh nghiệp chưa có tổ chức CĐCS: 3 chiếm tỷ lệ 12%;

Doanh nghiệp có tổ chức CĐCS: 22 chiếm tỷ lệ 88%.

2.2.1.1. Năm 2014: trên địa bàn các Khu công nghiệp thị xã Bến Cát xảy ra

05 vụ tranh chấp lao động tập thể ở Cty TNHH Jiu Yang, Cty TNHH Trans

Palma Sport Wear, Cty TNHH Nhựa Sung Shin (Việt Nam), Cty TNHH Dooil

TPS Vina – Ngành sản xuất: Bao bì nhựa, Cty TNHH OLYMPIA LIGHTING

– KCN An Tây – Ngành sản xuất : máng đèn (cả 02 DN chưa thành lập tổ

chức công đoàn cơ sở), tổng số công nhân tham gia tranh chấp lao động

498/670 công nhân.

+ Nguyên nhân: Công ty chưa thông báo kịp thời cho CNLĐ chế độ

tiền thưởng tết, ứng tiền lương tháng 01/2014 cho người lao động, chưa trả

thẻ bảo hiểm y tế cho công nhân, không điều chỉnh kịp thời lương theo nghị

định mới cho công nhân, không ký hợp đồng đúng thời hạn theo quy định của

pháp luật, bị trừ tiền chuyên cần, tăng ca không cho nghỉ giải lao, tăng định

mức sản xuất,….

- 54 -

+ Sau khi xảy ra đình công và tranh chấp lao động tập thể Công đoàn

phối hợp cùng cơ quan chức năng tiến hành hòa giải và kết quả Ban Giám đốc

các Doanh nghiệp đồng ý thực hiện một số yêu cầu chính đáng, hợp pháp của

người lao động và sau đó công nhân chấp nhận trở lại làm việc.

2.2.1.2. Năm 2015: trên địa bàn các khu công nghiệp thị xã Bến Cát đã xảy

ra 03 vụ tranh chấp lao động tập thể: Cty TNHH Tufropes, Cty TNHH Sunny

Wide, Cty TNHH United Mechanical với tổng số lượng công nhân tham gia:

1091/1091 lao động;

+ Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp: công ty chậm ra thông báo về chế

độ tiền thưởng cuối năm cho người lao động, điều chỉnh tiền lương tối thiểu

vùng tăng nhưng lại cắt phần tiền phụ cấp hàng tháng, người lao động đề nghị

công ty ký hợp đồng lao động đối với người lao động đã hết thời gian thử việc

(quá thời gian thử việc từ 02 -> 03 tháng), tái ký hợp đồng lao động đối với

công nhân đã hết thời hạn hợp đồng (hợp đồng hết hạn từ 05 đến 7 tháng mà

công ty vẫn chưa tái ký), điều chỉnh lương cho công nhân khi tái ký hợp đồng

lao động, hàng năm xét nâng lương cho người lao động ký hợp đồng không

xác định thời hạn, trả thẻ BHYT cho toàn bộ công nhân để công nhân đi khám

bệnh…

+ Sau khi nắm được nguyên nhân ngừng việc, đoàn công tác đã làm

việc với Ban giám đốc công ty về kiến nghị của người lao động và đề nghị

Ban giám đốc công ty xây dựng thang bảng lương, Nội quy lao động và đăng

ký tại các cơ quan quản lý nhà nước về lao động theo quy định, thực hiện đầy

đủ các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xây dựng thương lượng ký

kết thỏa ước lao động tập thể, phối hợp cùng BCH CĐCS công ty xây dựng

quy chế xét nâng lương hàng năm cho người lao động, tiến hành củng cố lại

BCH CĐCS và liên hệ với Công đoàn các KCN Bến Cát để được hướng dẫn

công tác hoạt động công đoàn và việc thu chi, trích nộp, quyết toán tài chính

- 55 -

công đoàn, đồng thời ra thông báo về việc giải quyết các kiến nghị của công

nhân lao động để công nhân lao động được rõ, tránh tình trạng tranh chấp lao

động gây mất trật tự tại địa phương.

2.2.1.3. Năm 2016: đã xảy ra 05 vụ tranh chấp lao động tập thể tại Công ty

TNHH Phước Ý, Cty TNHH United Mechenical VN, Cty TNHH Xin Wei Việt

Nam, Cty TNHH Kyung Dong Vina, Cty Cổ phần Giày Đại Lộc (đã thành lập

công đoàn cơ sở) với tổng số lượng công nhân tham gia: 1.800/2.664 lao

động.

+ Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp: do công ty chưa thông báo chế độ

đều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng theo Nghị định số 122/NĐ-CP của Chính

phủ và chế độ tiền thưởng, kế hoạch nghỉ tết Bính Thân 2016, khẩu phần ăn.

+ Khi nắm được thông tin ngừng việc, Công đoàn các khu công nghiệp

Bến Cát phối hợp cùng các ngành chức năng đến nắm tình hình công nhân lao

động và làm việc với Ban giám đốc công ty về kiến nghị của người lao động.

Đoàn công tác đã đề nghị Ban giám đốc công ty thực hiện việc điều chỉnh

lương tối thiểu vùng theo Nghị định 122/NĐ-CP của Chính phủ và ra thông

báo bằng văn bản về chế độ tiền lương, tiền thưởng, kế hoạch nghỉ tết Bính

Thân năm 2016 để công nhân được rõ và kêu gọi công nhân quay trở lại công

ty làm việc bình thường.

2.2.1.4. Năm 2017: có 04 vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra: Công ty

TNHH Công nghiệp gỗ Grand Art; Cty TNHH Zhi Sheng (doanh nghiệp chưa

thành lập tổ chức CĐCS), Công ty TNHH Dewberry Việt Nam, Công ty

TNHH Ace World Vina, tổng số lao động tham gia ngừng việc là 2.983/2.987

CNLĐ.

+ Nguyên nhân do doanh nghiệp chưa ra thông báo về việc thanh toán

50% tiền thưởng sau tết cho công nhân và trả thẻ BHYT cho công nhân, chưa

ký hợp đồng lao động, chưa tham gia BHXH, Công ty tổ chức làm thêm giờ

- 56 -

quá nhiều; Công nhân nghỉ việc có phép hay không phép đều bị phạt tiền từ

300.000 đồng -> 500.000 đồng/1 lần vi phạm và bị trừ 50% tiền chuyên cần;

Công ty không có tiền độc hại cho bộ phận sơn, thức ăn không ngon, cuối

tháng không công khai bảng chấm công, phải có người dọn vệ sinh, tính lộn

tiền tăng ca, nghỉ 03 ngày không phép công ty cho nghỉ việc, nghỉ quá 02

tiếng mất tiền chuyên cần, xin nghỉ phép năm công ty không cho nghỉ; Riêng

Công ty TNHH Dewberry Việt Nam: nguyên nhân do Ban giám đốc công ty

ra thông báo là sẽ di dời toàn bộ nhà máy tại Mỹ Phước về nhà máy tại cụm

công nghiệp An Thạnh (Thuận An) nhưng không giải thích rõ chế độ chính

sách cho người lao động, gây hoang mang cho người lao động, người lao

động không yên tâm làm việc.

+ Sau khi nhận được tin ngừng việc tập thể, Công đoàn các khu công

nghiệp Bến Cát phối hợp cùng các ngành chức năng làm việc với Ban Giám

đốc về việc giải quyết các kiến nghị của người lao động, đề nghị Ban Giám

đốc công ty ra thông báo giải quyết các kiến nghị và kêu gọi người lao động

trở lại công ty làm việc, tránh tình trạng ngừng việc kéo dài ảnh hưởng đến

sản xuất doanh nghiệp, đời sống của người lao động.

2.2.1.5. Năm 2018: trên địa bàn xảy ra 08 vụ ngừng việc tập thể tại Công ty

TNHH United Mechanical, Chun Xiang (có tổ chức công đoàn), Công ty

TNHH Lumen Vina (2 lần), Công ty TNHH Cheng Bao, Công ty TNHH Vina

Rong Hsing, Công ty TNHH SR Suntuor, Công ty TNHH Peng Yang (doanh

nghiệp chưa có tổ chức công đoàn), tổng số lao động tham gia là 4.176/4.620

CNLĐ.

+ Nguyên nhân do công ty chưa có thông báo về kế hoạch điều chỉnh

tiền lương mới theo Nghị định số 141/2017/NĐ-CP của Chính phủ, chưa

thông báo thời gian trả lương, trả thưởng, kế hoạch nghỉ tết, công ty thanh

- 57 -

toán tiền lương, tiền thưởng chậm, phụ cấp thâm niên, tiền tăng ca, tiền

chuyên cần, chấm dứt hợp đồng lao động.

+ Sau khi nhận được thông tin ngừng việc Công đoàn các KCN Bến

Cát phối hợp với các ngành chức năng làm việc với Ban giám đốc công ty về

các kiến nghị của người lao động. Sau đó, công nhân lao động đã trở lại công

ty làm việc bình thường.

* Tình hình tranh chấp lao động qua các năm:

Năm 2014 2015 2016 2017 2018

Số vụ tranh chấp lao động 5 3 5 4 8

CNLĐ tham gia tranh chấp 498 1.091 1.800 2.983 4.176

10000

1000

Số vụ tranh chấp lao động

100

CNLĐ tham gia tranh chấp

Tổng CNLĐ

10

1

2014

2015

2016

2017

2018

Tổng CNLĐ 670 1.245 2.103 3.211 4.620

Hình 2.2. Biểu đồ số vụ tranh chấp lao động, CNLĐ tham gia tranh chấp và

tổng CNLĐ tại các doanh nghiệp tranh chấp qua các năm (2014-2018)

- 58 -

2.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp lao động tập thể tại các doanh

nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát.

2.2.2.1. Từ phía cơ quan quản lý nhà nước:

- Chưa lường hết những diễn biến hoạt động các chủ doanh nghiệp sau

khi đầu tư và quá trình hội nhập WTO xảy ra các sự việc phải đối phó tình

hình; chưa có kế hoạch chi tiết việc tuyên truyền, hướng dẫn, theo dõi doanh

nghiệp thực hiện các quy định của pháp luật lao động, chưa thực hiện tốt chức

năng giám sát việc tuân thủ pháp luật, nội dung điều lệ hoạt động doanh

nghiệp đã cam kết.

Nội dung tuyên truyền pháp luật, xây dựng quan hệ lao động trong các

doanh nghiệp chưa đúng trọng tâm, đồng bộ, thiếu chặt chẽ nên hiệu quả chưa

cao.

- Số lượng doanh nghiệp được thanh, kiểm tra hàng năm còn ít so với

yêu cầu đặt ra. Công tác tái kiểm tra sau thanh, kiểm tra và doanh nghiệp xảy

ra tranh chấp lao động tập thể và đình công chưa được kịp thời, chưa đầy đủ.

- Xử lý số doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật lao động, chiếm

dụng tiền BHXH kéo dài chưa nghiêm và mức xử phạt chưa đủ sức răn đe dẫn

đến tình trạng vi phạm pháp luật lao động vẫn còn xảy ra.

- Việc ban hành luật pháp thiếu thực tiễn dẫn đến tranh chấp lao động

tập thể và đình công không đúng trình tự pháp luật, các chế độ chính sách

không phù hợp, nhất là chính sách tiền lương ban hành hàng năm thấp hơn

thực tế doanh nghiệp đang thực hiện là một trong các nguyên nhân dẫn đến

tranh chấp lao động tập thể tăng và tính chất phức tạp.

- Chưa có phương án triển khai các nội dung chỉ đạo của Ban Bí thư

TW Đảng (kết luận số 23/KL-TW ngày 08 tháng 4 năm 2008) hoặc ban hành

chính sách đối với người lao động không khả thi. (chính sách tiền lương, nhà

ở, nhà trẻ, mẫu giáo, vui chơi giải trí….)

- 59 -

- Đội ngũ thanh tra lao động yếu về chuyên môn, thiếu về số lượng,

không đủ sức phát hiện, xử lý những hành vi vi phạm của các bên trong quan

hệ lao động, tạo mầm mống cho sự bất đồng giữa NSDLĐ và NLĐ.

2.2.2.2. Từ phía người sử dụng lao động:

Không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật lao động:

- Thời gian thử việc kéo dài; Không ký hợp đồng lao động hoặc ký

không đầy đủ với người lao động, chiếm tỷ lệ không nhỏ.

- Không tham gia hoặc có tham gia nhưng không đầy đủ cho người lao

động, nhiều doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT, BHTN kéo dài, có doanh

nghiệp còn thỏa thuận trái pháp luật với người lao động bằng hình thức ký tên

không tham gia BHXH…

- Một số doanh nghiệp không xây dựng và đăng ký thang bảng lương;

qui chế nâng lương, chi thưởng; một số doanh nghiệp có xây dựng và đăng ký

nhưng không thực hiện. Từ việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu hàng năm thay

đổi, nên doanh nghiệp phải xây dựng lại thang bảng lương nhưng không áp

dụng hệ số để điều chỉnh; khoảng cách tiền lương người mới và người làm

việc có thâm niên, có tay nghề, làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại

gần như nhau. Cắt giảm các khoản trợ cấp, phụ cấp nợ lương, trả tiền làm

thêm giờ không đúng quy định, xây dựng định mức sản phẩm/ Ngày công quá

cao ngày làm việc không hoàn thành, phải làm thêm giờ để hoàn thành định

mức sản phẩm nhưng không được thanh toán tiền làm thêm;…

- Không xây dựng nội quy lao động hoặc xây dựng nhưng không đăng

ký nội quy lao động với cơ quan quản lý nhà nước, tùy tiện chấm dứt hợp

đồng lao động, sa thải người lao động trái pháp luật, kỷ luật bằng hình thức

trừ lương…

- 60 -

- Thời gian làm thêm vượt quá thời gian quy định nhiều lần, còn làm

thêm giờ cả ngày nghỉ hàng tuần, ngày lễ, có doanh nghiệp qui định không

làm thêm sẽ trừ tiền chuyên cần….

- Trang cấp đồ bảo hộ lao động cá nhân không đầy đủ, đúng loại, không

tổ chức tạp huấn công tác an toàn lao động, thành lập Bộ phận an toàn vệ sinh

lao động, mạng lưới an toàn vệ sinh viên, Hội đồng bảo hộ lao động, xây

dựng nội qui an toàn lao động; phòng cháy chữa cháy, thành lập phòng y tế,

chưa thực hiện đầy đủ các chế độ độc hại, nguy hiểm cho người lao động…

- Ngôn ngữ bất đồng, hà khắc trong quản lý, phiên dịch không trung

thực, không tổ chức tuyên truyền pháp luật lao động, không tôn trọng ý kiến

của công đoàn, không tổ chức hội nghị người lao động và hình thức đối thoại

với CNLĐ, chưa coi trọng người lao động là tài sản vốn quý của doanh

nghiệp…

- Bữa ăn giữa ca không đảm bảo tái sản xuất sức lao động, vệ sinh nhà

ăn, nước uống không bảo đảm, thái độ phục vụ của nhà ăn kém…

- Nhiều doanh nghiệp không tạo điều kiện thời gian, trích kinh phí…

cho công đoàn cơ sở hoạt động, tuyên truyền giáo dục CNLĐ… nhiều doanh

nghiệp không tạo điều kiện để thành lập tổ chức công đoàn, trách nhiệm xã

hội của người sử dụng lao động chưa cao; chưa quan tâm đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ nhất là điều kiện để người lao động tự học tập.

- Một số người sử dụng lao động cùng là người làm thuê không có

thầm quyền giải quyết, ghi nhận ý kiến của CĐCS nhưng không đề xuất giải

quyết, có Ban giám đốc thiếu hợp tác giải quyết, để tình trạng kéo dài, phức

tạp mới yêu cầu các ngành chức năng đến hỗ trợ;… Người sử dụng lao động

không tổ chức Hội nghị Người lao động, đối thoại định kỳ ,… chưa thật sự

quan tâm đến việc thiết lập quan hệ lao động ổn định, hài hòa.

- 61 -

- Nhiều người quản lý doanh nghiệp vốn đầu tư từ Trung Quốc, Đài

Loan, Hàn Quốc… hầu hết là hạn chế về kiến thức quản lý, vốn ít, công nghệ

lạc hậu, sản xuất theo đơn hàng gia công; giá gia công thấp nên tìm cách giảm

quyền lợi, chế độ của người lao động; một khi chủ đặt hàng không thực hiện

đúng cam kết là các doanh nghiệp này sẽ khó khăn dẫn đến nợ lương,

BHXH….

2.2.2.3. Từ phía người lao động:

Hầu hết xuất thân từ nông thôn, chưa qua đào tạo nghề trình độ học vấn

thấp, chưa được trang bị về kiến thức pháp luật lao động, nhận thức, hiểu biết

về pháp luật còn nhiều hạn chế, chưa hiểu rõ các chế độ, chính sách, pháp luật

của Nhà nước để tự bảo vệ mình. Khi ký kết hợp đồng lao động không tìm

hiểu kỹ quyền lợi, không thỏa thuận về lương và các chế độ chính sách

khác… Khi biết quyền lợi của bản thân bị xâm hại dễ bị các phần tử xấu kích

động, lôi kéo, xúi giục ngừng việc...

Lao động vào làm việc trong khu công nghiệp không có tính ổn định

lâu dài chiếm tỷ lệ khá cao; do không có tay nghề nên người lao động sẽ

chuyển dịch sang lĩnh vực khác; số có tay nghề sẽ chuyển dịch khi quê nhà có

doanh nghiệp đầu tư hoặc thu nhập doanh nghiêp khác cao hơn…

2.2.2.4. Từ phía công đoàn:

- Xuất phát từ việc cán bộ công đoàn cơ sở (CĐCS) là người do người

sử dụng lao động ký hợp đồng lao động, bố trí việc làm và trả lương; ngoài

công việc chuyên môn, còn phải kiêm nhiệm công việc công đoàn, bên cạnh

sự nhiệt tình và có tâm huyết với hoạt đông công đoàn, cũng có một số cán bộ

CĐCS trình độ, kỹ năng còn hạn chế, thiếu phương pháp và bản lĩnh trong

việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,

vì sợ mất việc làm nên chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của tổ chức

công đoàn.

- 62 -

- Trong tài liệu tập huấn, bồi dưỡng Cán bộ công đoàn chưa đổi mới,

không có nội dung kỹ năng xử lý tình huống và thương lượng; trình độ và

phương pháp hoạt động công đoàn; một số cán bộ CĐCS mới thành lập hoặc

mới được củng cố chưa được đào tạo bài bản, thiếu kinh nghiệm thực tiễn,

nhất là hiểu biết về pháp luật lao động, Luật Công đoàn, kỹ năng đàm phán,

thương lượng; hoạt động CĐCS hầu hết là chưa có qui chế phối hợp hoặc qui

chế làm việc với người sử dụng lao động; chưa qui tụ được lực lượng cán bộ

phòng ban để hỗ trợ cho hoạt động công đoàn.

- Một số cán bộ CĐCS bị người sử dụng lao động vô hiệu hóa, không

tạo điều kiện hoạt động, khi các bộ công đoàn mạnh dạn đấu tranh bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động thì bị phân biệt đối

xử, trù dập bằng nhiều hình thức kể cả việc chuyển làm việc khác, không giao

tiếp… để cán bộ công đoàn chán nản tự xin nghỉ, đơn phương chấm dứt

HĐLĐ, cho nghỉ việc, không ký lại HĐLĐ mới, sau khi hết hạn HĐLĐ, đội

ngũ cán bộ công đoàn biến động thường xuyên… do cơ chế bảo vệ cán bộ

công đoàn không hữu hiệu.

- Hoạt động CĐCS chưa đồng đều, một số cơ sở chưa hoạt động sâu

sát, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của CNLĐ chưa kịp thời, cán bộ CĐCS

trước khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể đều có tổng hợp các kiến nghị

của người lao động đến với người sử dụng lao động và vận động người lao

động yên tâm chờ chủ doanh nghiệp giải quyết, nhưng chủ doanh nghiệp

chậm xem xét giải quyết hoặc “không giải quyết” nhưng chưa có giải pháp để

thương lượng với người sử dụng lao động

2.2.2.5. Nguyên nhân khác:

Ảnh hưởng lạm phát, giá cả các mặt hàng thiết yếu luôn biến động tăng

cao, tiền lương tối thiểu, thu nhập thấp, không có khả năng bù đắp chi phí

sinh hoạt cơ bản của người lao động, không có tích lũy để lo cuộc sống về

- 63 -

sau, dẫn đến đời sống người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Người lao động

không có nơi vui chơi giải trí, điều kiện học tập nâng cao trình độ và tiếp cận

thông tin về chính trị, xã hội, pháp luật…

- Tình hình an ninh trật tự chưa đảm bảo gây hoang mang cho người

lao động; các đối tượng xấu kích động, lôi kéo, hăm dọa, ngăn cản người lao

động đi làm…dẫn đến thời gian đình công kéo dài.

- Trách nhiệm của các cấp các ngành thiếu quan tâm đối với công nhân

lao động, chưa lắng nghe và giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc đã kiến

nghị. Khi xảy ra tranh chấp lao động và đình công các ngành chức năng chưa

vào cuộc với trách nhiệm cao, công tác phối hợp chưa nhịp nhàng, có lúc

chưa thống nhất phương pháp và làm rõ trách nhiệm các ngành trong phối

hợp giải quyết.

2.2.3. Hậu quả của tranh chấp lao động tập thể tại các doanh nghiệp hoạt

động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát

- Khi tranh chấp lao động tập thể và đình công xảy ra gây mất an ninh

trật tự trên địa bàn

- Tạo nhận thức sai lệch của người lao động

- Gây lây lan việc tranh chấp lao động tập thể từ doanh nghiệp này sang

doanh nghiệp khác

- Ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người sử dụng lao động, người

lao động; người sử dụng lao động sẽ chậm trễ đơn hàng, gây ứ động hàng,

không xuất hàng đúng theo hợp đồng; Người lao động có thể mất ngày

công…

Ảnh hưởng đến chính sách và môi trường thu hút đầu tư của địa

phương từ phía các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài.

- 64 -

Kẻ xấu lợi dụng ngừng việc gây mất trật tự công cộng, làm tổn thất

máy móc, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động; người có hành vi cản

trở thực hiện quyền đình công, kích động, lôi kéo, ép buộc người lao động

đình công; người có hành vi trù dập, trả thù người tham gia đình công, người

lãnh đạo cuộc đình công thì tuỳ theo mức độ vi phạm, có thể bị xử lý vi phạm

hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thường theo quy định của pháp luật. Mức độ xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực lao động căn cứ vào Nghị định 95/2013/NĐ – CP ngày

22/8/2013 và Nghị định 88/2015/NĐ – CP ngày 07/10/2015 sửa đổi bổ sung

Nghị định 95/2013/NĐ – CP .

Hậu quả sâu xa nhất là vấn đề pháp luật chưa được tôn trọng triệt để,

pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật Nhà nước chưa được thực thi nghiêm

chỉnh làm ảnh hưởng đến đời sống người lao động, đến sản xuất kinh doanh;

đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đất nước ta bước vào giai đoạn hội nhập

kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, vấn đề cạnh tranh là một vấn đề sống còn

của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang đặt ra hết sức gay

gắt.

2.3. Hệ thống cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể

2.3.1. Hòa giải viên lao động.

Mô hình hòa giải viên lao động được thực hiện trên địa bàn, đã có

quyết định thành lập Ban hòa giải viên cấp thị xã, tuy nhiên hoạt động vẫn

chưa hiệu quả vì vẫn còn có những hạn chế nhất định cần được khắc phục,

những hạn chế gồm có:

Thứ nhất: Yêu cầu về tính trung lập của hòa giải viên chưa được đề

cao, kinh nghiệm của các nước cho thấy đây là một tiêu chuẩn cực kỳ quan

trọng đối với mọi hòa giải viên. Không đảm bảo được tiêu chuẩn này, hòa giải

viên lao động khó có thể tạo được cảm giác tin cậy từ các bên tranh chấp –

- 65 -

điều kiện tiên quyết đưa đến thành công tại các buổi hòa giải. Dù quan trọng

như vậy nhưng tiêu chuẩn này chưa được quy định một cách cụ thể tại các

văn bản hiện hành. Mặt khác các văn bản hiện hành còn cho phép đại diện của

công đoàn tại các doanh nghiệp cũng có thể tham gia làm thành viên của hòa

giải viên lao động, yếu tố này không thể đảm bảo tính khách quan đối với hòa

giải viên lao động trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp.

Thứ hai: Quy định về tiêu chuẩn chuyên môn của hòa giải viên lao

động còn sơ sài được quy định tại Điều 4 Nghị định Số: 46/2013/NĐ-CP của

Chính phủ chỉ quy định chung chung về trình độ của hòa giải viên là “Am

hiểu pháp luật lao động và pháp luật có liên quan” và “Có 03 năm làm việc

trong lĩnh vực có liên quan đến quan hệ lao động, có kỹ năng hòa giải tranh

chấp lao động”. Quy định đó khiến phần lớn các hòa giải viên lao động có

trình độ thấp, năng lực kém tham gia giải quyết các tranh chấp lao động đặc

biệt là các tranh chấp lao động tập thể vốn phức tạp thì sao đưa ra được các ý

kiến hoặc cơ chế hòa giải phù hợp nhất giúp hai bên chấp dứt tranh chấp và

mau chóng ổn định hoạt động sản xuất.

Thứ ba: Hầu hết các hòa giải viên lao động hiện tại là cán bộ cơ quan

quản lý lao động hoặc cán bộ công đoàn, chế độ làm việc kiêm nhiệm này có

thể hạn chế khả năng của hòa giải viên lao động trong việc tích lũy kinh

nghiệm và học tập, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn liên quan đến giải quyết

các tranh chấp. Đặc biệt, chế độ làm việc kiêm nhiệm có thể tạo ra những

xung đột về lợi ích, ảnh hưởng đến tính khách quan và hiệu quả của hoạt động

giải quyết tranh chấp. Ví dụ hòa giải viên lao động đồng thời là cán bộ công

đoàn: sự mâu thuẫn giữa vai trò của hòa giải viên và vai trò của cán bộ công

đoàn sẽ khiến các cán bộ này khó mà đảm bảo được vai trò của hai vị trí này.

Cán bộ quản lý nhà nước kiêm nhiệm vai trò của hòa giải viên cũng vậy. Khi

thực hiện chức năng quản lý nhà nước, các cán bộ này có trách nhiệm xử lý

- 66 -

mọi vi phạm mà mình phát hiện theo quy định của pháp luật. Song nếu họ

thực hiện đúng chức năng này thì không thể thực hiện được vai trò giải quyết

tranh chấp nữa. Hơn nữa các bên tranh chấp còn có thể sẽ e ngại trong việc

cung cấp các thông tin liên quan đến tranh chấp cho hòa giải viên lao động

đồng thời là cán bộ quản lý nhà nước do sợ bị xử lý nếu hành vi đó không hợp

pháp.

Thứ tư: Việc giao quyền công nhận và quản lý hòa giải viên lao động

cho chủ tịch UBND cấp tỉnh và cơ quan lao động cấp huyện là chưa thực sự

hợp lý. Hòa giải viên lao động do cơ quan cấp cao lựa chọn và bổ nhiệm dễ

tạo được vị thế và uy tín hơn với các bên tranh chấp. Vì được lựa chọn dựa

trên phạm vi rộng nên hòa giải viên lao động thường có trình độ chuyên môn,

kinh nghiệm giải quyết tranh chấp rất tốt.

2.3.2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể của

chủ tịch UBND thị xã như hiện nay là chưa phù hợp cả về mặt lí luận và thực

tiễn. Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể của chủ

tịch UBND thị xã có những điểm bất cập sau:

Thứ nhất: Chủ tịch UBND cấp thị xã là chức danh quản lí hành chính,

có nhiệm vụ quản lí chung tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn

cấp huyện, do vậy việc giao cho chủ thể này thêm công việc chuyên môn giải

quyết tranh chấp lao động tập thể là quá tải và chưa hợp lí;

Thứ hai: Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của chủ tịch UBND thị

xã hiện nay cũng chưa rõ ràng, hợp lý (không rõ là thủ tục hoà giải, trọng tài

hay xét xử). Cách thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể của chủ tịch

UBND thị xã theo quy định của pháp luật hiện hành là xử phạt vi phạm hành

chính đối với các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật; trong khi đó

tranh chấp lao động tập thể về quyền là các tranh chấp lao động phát sinh do

- 67 -

tập thể lao động cho rằng NSDLĐ vi phạm pháp luật lao động, thoả ước lao

động tập thể, nội quy lao động đã được đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp. Như vậy,

nếu chủ tịch UBND thị xã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành

vi vi phạm, đồng thời yêu cầu NSDLĐ khôi phục các quyền lợi bị vi phạm

của tập thể lao động thì tranh chấp lao động xem như đã được giải quyết

xong.

Tuy nhiên, cách thức giải quyết này có điểm bất cập chỗ: Thứ nhất,

những hành vi vi phạm của NSDLĐ chưa được quy định là hành vi vi phạm

hành chính thì chủ tịch UBND không thể ra quyết định xử phạt vi phạm hành

chính cũng như yêu cầu các bên khắc phục; Thứ hai, có những trường hợp tập

thể cho rằng NSDLĐ vi phạm nhưng thực tế NSDLĐ không thực hiện hành vi

vi phạm pháp luật. Pháp luật hiện hành mà cụ thể là tại Điều 205 của BLLĐ

năm 2012 không quy định chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền ra quyết

định về việc giải quyết tranh chấp, cũng không quy định chủ thể này có quyền

hoà giải tranh chấp lao động để lập biên bản hoà giải thành hay biên bản hoà

giải không thành. Trong trường hợp như vậy, rõ ràng thẩm quyền giải quyết

tranh chấp lao động của chủ tịch UBND thị xã theo quy định của pháp luật

hiện hành là không thể thực hiện được;

Thứ ba: Chủ tịch UBND thị xã khó có thể đáp ứng tiêu chuẩn cần thiết

để có thể thực hiện một cách hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp lao

động tập thể. Thực tế cho thấy các tranh chấp lao động nhất là các tranh chấp

lao động tập thể thường có đặc điểm là rất phức tạp và việc giải quyết các

tranh chấp này đòi hỏi người giải quyết phải có phạm vi chuyên môn và kinh

nghiệm tương đối rộng mới đảm bảo được tính hiệu quả trong việc giải quyết

các tranh chấp đó. Tuy nhiên Chủ tịch UBND thị xã là một chức danh trực

thuộc cơ quan quản lý có thẩm quyền chung chứ không phải là cơ quan quản

- 68 -

lý lao động chuyên trách hay cơ quan giải quyết tranh chấp. Chủ tịch UBND

thị xã có Phòng lao động thương binh xã hội thị xã hỗ trợ cho mình. Song nếu

như vậy thì tại sao lại không trao toàn bộ thẩm quyền cho Phòng lao động

thương binh xã hội thay vì quy định sự tham gia của chức danh chủ tịch vốn

đảm đương khá nhiều lĩnh vực quản lý và không hẳn chuyên sâu về lĩnh vực

lao động. Thiết nghĩ vấn đề này cần được xem xét, cân nhắc một cách kỹ

lưỡng trước khi quy định và ban hành thẩm quyền bởi lẽ nếu việc quy định

thiếu thực tế, thiếu cơ chế thực thi và không có nhiều ý nghĩa thì quy định sẽ

trở nên thiếu ý nghĩa gây ra rườm rà về thủ tục.

Thứ tư: Với vai trò của người đứng đầu một cơ quan hành chính nhà

nước thì Chủ tịch UBND thị xã có thể mâu thuẫn với công tác giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể nói chung và các tranh chấp lao động tập thể về

quyền nói riêng. Thực tế cho thấy rằng các cơ quan quản lý hành chính nhà

nước có biểu hiện bênh vực các đơn vị sử dụng lao động với mục đích thu hút

đầu tư để nâng cao số lượng nhà đầu tư, thu hút đầu tư và tăng nguồn thu cho

ngân sách địa phương. Điều đó vô hình chung đã làm ảnh hưởng đến quyền

lợi hợp pháp của NLĐ và khiến cho sự thiếu tôn trọng pháp luật và đời sống

NLĐ của người sự dụng lao động tăng nên. Hậu quả có thể gây nên sự bất

mãn của NLĐ và dẫn đến các hệ lụy khôn lường như đình công, lãn công

khiến tình hình sản xuất kinh doanh đình trệ hoặc mất trật tự an ninh xã hội

tại địa bàn...

2.3.3. Hội đồng trọng tài lao động.

Trên địa bàn có thành lập Hội đồng trọng tài lao động do Sở Lao động

Thương binh xã hội ra quyết định, tuy nhiên trên thực tế thì chưa được áp

dụng tại bất kỳ một vụ tranh chấp lao động tập thể nào do:

Thứ nhất: Ngoại trừ thư ký hội đồng, các thành viên khác của hội đồng

đều làm việc dưới hình thức kiêm nghiệm. Chế độ làm việc này có thể gây ra

- 69 -

những khó khăn nhất định cho hoạt động của hội đồng trọng tài trên thực tế

đồng thời nó hạn chế khả năng tích lũy kinh nghiệm trau dồi chuyên môn,

nghiệp vụ của các thành viên hội đồng trọng tài lao động. Hơn nữa, chế độ

làm việc kiêm nghiệm còn có thể dẫn đến tình trạng xung đột lợi ích, ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động của hội đồng trọng tài. Với thành viên do công

đoàn đề cử và thành viên do đại diện của NSDLĐ đề cử yếu tố xung đột lợi

ích có thể không đáng ngại vì cả hai bên đều có đại diện của mình và vì còn

có cả đại diện của bên trung lập tham gia hội đồng. Tuy nhiên với thành viên

là cán bộ sở Lao động – Thương bình và Xã hội, vấn đề có thể phát sinh do

mâu thuẫn giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng giải quyết tranh

chấp (đặc biệt là khi tranh chấp được giải quyết qua hòa giải).

Thứ hai: Việc quy định số lượng thành viên của hội đồng trọng tài lao

động theo quy định tại điều 199 BLLĐ có thể lên đến 7 người là quá nhiều.

Sự tham gia của nhiều người như vậy có thể khiến cho quá trình giải quyết

các tranh chấp lao động chậm chạp, kém linh hoạt và thiếu dứt khoát do có

quá nhiều luồng ý kiến giải quyết vụ việc. Ở các nước khác việc giải quyết

các tranh chấp lao động tập thể chỉ được thực hiện bởi một trọng tài viên hoặc

một hội đồng trọng tài không quá ba người. Hội đồng trọng tài có số lượng

trên ba thành viên chỉ xuất hiện trong trường hợp vụ việc tranh chấp quá phức

tạp hoặc cần xem xét lại quyết định của trọng tài theo thủ tục phúc thẩm.

Thứ ba: Theo quy định của pháp luật hiện hành về việc giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể bằng trọng tài thì, thủ tục giải quyết tranh chấp lao

động của hội đồng trọng tài thực chất cũng là thủ tục hoà giải. Đây là bước

hoà giải thứ hai đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Thủ tục này

được quy định xuất phát từ tính chất của loại tranh chấp lao động tập thể này

là loại tranh chấp mà tập thể lao động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động

mới- những vấn đề không có cơ sở để phân định đúng sai như loại tranh chấp

- 70 -

về quyền, do vậy hoà giải là phương thức giải quyết phù hợp nhất đối với loại

tranh chấp này. Tuy nhiên, việc quy định hai thủ tục hoà giải đối với tranh

chấp lao động tập thể về lợi ích sẽ làm phức tạp thêm thủ tục giải quyết tranh

chấp và làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp. Điều này có thể sẽ dễ dẫn

đến đình công tự phát của tập thể lao động. Mặt khác, với quy định như vậy,

pháp luật lao động nước ta đã biến cơ quan trọng tài thành cơ quan hoà giải,

làm cho cơ quan trọng tài lao động không còn giữ đúng bản chất của mình.

2.3.4. Tòa án nhân dân.

Theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết các tranh chấp lao động

tập thể tại tòa án chỉ được thực hiện sau các bước hòa giải lao động tại cơ sở

và sau khi Chủ tịch UBND thị xã ra quyết định giải quyết vụ việc mà các bên

không đồng ý với quyết định đó. Quy định này nhằm mục đích nâng cao vai

trò của công tác hòa giải cơ sở, đây luôn là nguyên tắc được tôn trọng và đặt

nên hàng đầu. Tuy nhiên khi sự việc được giải quyết nhiều lần, tại nhiều cơ

quan mà các bên vẫn không có được sự đồng thuận về kết quả giải quyết thì

tòa án được coi là một đơn vị giải quyết hữu hiệu nhất bởi cách thức, thủ tục

xử lý và các cơ chế đảm bảo thực thi các quyết định mà cơ quan này ban

hành.

Về cơ bản, việc tòa án tham gia giải quyết các tranh chấp lao động tập

thể về quyền có một số ý nghĩa như sau:

- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án góp phần giải quyết dứt

điểm tranh chấp lao động, góp phần bảo vệ NLĐ, quyền và lợi ích hợp pháp

của NSDLĐ, lợi ích nhà nước và xã hội; giải quyết quyền lợi cho các bên theo

quy định của pháp luật.

- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án duy trì tính pháp chế

trong quan hệ lao động, qua đó góp phần tạo nên sự ổn định trong các quan hệ

- 71 -

lao động, quan hệ sản xuất của xã hội, giúp duy trì ổn định về an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

- Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án góp phần nâng cao hiểu biết

pháp luật cho NLĐ cũng như các đơn vị sử dụng lao động, đảm bảo cho các

bên có thêm được kinh nghiệm, những hiểu biết cần thiết liên quan đến quyền

lợi và nghĩa vụ của mình từ đó sẽ đảm bảo tính chấp hành cao cho mỗi cá

nhân, tổ chức liên quan. Với sự tham gia của các cơ quan đại diện như công

đoàn, có thể cả các hòa giải viên lao động, hay trọng tài viên lao động thì hoạt

động xét xử các vụ án về tranh chấp lao động tập thể còn giúp nâng cao năng

lực, kinh nghiệp cho các đối tượng này trong việc giải quyết các tranh chấp

lao động tại cơ sở.

- Trong quá trình giải quyết các tranh chấp lao động nói chung và tranh

chấp lao động tập thể nói riêng tại tòa án, các thành viên hội đồng xét xử có

điều kiện được tiếp xúc giải quyết nhiều các vụ việc khác nhau với sự đa dạng

về các tình huống tranh chấp. Qua những sự việc như vậy họ sẽ nhận thấy các

lỗ hổng, các bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành từ đó có thể có những

đóng góp, kiến nghị để giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ

thống pháp luật về giải quyết các tranh chấp lao động tập thể nói riêng. Thủ

tục giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền tại tòa án được quy

định cụ thể tại luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy

còn một số hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án cũng như

trình độ của các thẩm phán nhưng việc giải quyết các tranh chấp lao động nói

chung và tranh chấp lao động tập thể nói riêng tại tòa án vẫn là thủ tục giải

quyết mang tính chất pháp quy cao nhất, có nhiều cơ chế thực thi nhất so với

các hình thức giải quyết tranh chấp lao động khác. Song, trên thực tế thì chưa

có một vụ tranh chấp nào ở các khu công nghiệp Bến Cát phải giải quyết

thông qua Tòa án nhân dân.

- 72 -

2.4. Phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể rất phong phú,

đa dạng. Tùy vào tính chất của mỗi cuộc tranh chấp mà áp dụng các phương

thức để giải quyết các tranh chấp lao động một cách nhanh chóng, hiệu quả.

Trên địa bàn các khu công nghiệp Bến Cát, các cơ quan bên ngành đã phối

hợp chặt chẽ với nhau để giải quyết từng cuộc tranh chấp một cách tốt nhất

nhằm ổn định an ninh trật tự địa phương, thúc đẩy các quan hệ lao động phát

triển đúng chiều hướng, hạn chế các tranh chấp và thúc đẩy sản xuất phát

triển.

Có 5 phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể: Thương

lượng, Hòa giải và trung gian, Trọng tài, Quyết định hành chính, Xét xử;

nhưng trên thực tế trên địa bàn các khu công nghiệp Bến Cát thực tế chỉ áp

dụng phương thức thương lượng, phương thức hòa giải và trung gian là phổ

biến; Hầu như chưa bao giờ áp dụng phương thức Trọng tài, Quyết định hành

chính, Xét xử.

2.4.1. Thương lượng:

Đây là phương thức được áp dụng trong đầu tiên trong một cuộc ngừng

việc lao động tập thể trên địa bàn các khu công nghiệp Bến Cát vì phương

thức này giúp các bên tranh chấp có thể đối thoại trực tiếp với nhau, có thể

nêu lên những tâm tư, nguyện vọng của tập thể lao động đối với người sử

dụng lao động, người sử dụng lao động có thể hiểu hơn về người lao động,

thỏa mãn được những nguyện vọng chính đáng của người lao động tránh gây

ảnh hưởng đến quan hệ hai bên ít bị ảnh hưởng và quan hệ sản xuất đỡ bị gián

đoạn lâu do sự việc tranh chấp gây ra. Việc tự thương lượng được giữa các

bên sẽ góp phần giảm tốn kém trong việc giải quyết tranh chấp, rút ngắn thời

gian tranh chấp. Trong 25 cuộc ngừng việc tập thể trong các năm (2014-2018)

- 73 -

thì hầu hết các cuộc ngừng việc đều được giải quyết bằng phương thức

thương lượng.

2.4.2. Hòa giải và trung gian

Hòa giải và trung gian là phương thức giải quyết tranh chấp lao động

tập thể có sự tham gia của bên thứ ba nhằm hỗ trợ các bên tranh chấp đạt

được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp. Đối với phương thức trung

gian thì sự tham gia của bên thứ ba chỉ mang tính chất là bên kết nối giữa hai

bên, giúp hai bên gặp gỡ thương lượng với nhau chứ nhiệm vụ bên trung gian

không nhiều ý nghĩa. Đối với phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập

thể theo hình thức hòa giải thì bên thứ ba không chỉ là đơn vị kết nối hai bên

tranh chấp mà còn trực tiếp đề xuất các phương án giải quyết để hai bên tham

khảo, thương lượng giải quyết các tranh chấp đó. Trên địa bàn các khu công

nghiệp Bến Cát, Tổ công tác liên ngành cũng thường xuyên áp dụng phương

thức này, tạo cơ hội để hai bên có thể thỏa thuận và đi đến thống nhất với

nhau về điều hai bên cần.

2.4.3. Trọng tài

Trọng tài cũng là một trong những phương thức được sử dụng để giải

quyết tranh chấp lao động tập thể. Đây là một phương thức đặc trưng bởi có

sự tham gia giải quyết tranh chấp của một bên thứ ba với vai trò là bên có

quyền phân xử tranh chấp, tất nhiên việc phân xử này trước đó phải có sự

đồng thuận của cả hai bên tranh chấp. Tuy nhiên, trên địa bàn chưa có một

cuộc ngừng việc nào sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp

2.4.4. Quyết định hành chính

Quyết định hành chính cũng là một phương thức để giải quyết các tranh

chấp lao động tập thể. Phương thức này giúp các cơ quan hành chính có thể

điều tra, đưa ra các phán quyết để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể

- 74 -

theo yêu cầu của các bên. Tại nghị định số 04/2005/NĐ – CP đã ghi nhận về

phương thức giải quyết này một cách khá cụ thể, rõ ràng. Đến năm 2008 Bộ

Lao động Thương binh và Xã hội tiếp tục ban hành Thông tư số 06/2008/TT-

BLĐTBXH quy định cụ thể về phương thức này. Tại Điều 203 của BLLĐ

năm 2012 cũng quy định cụ thể thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện

về việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền, đồng thời quy

định cụ thể về thời hạn để Chủ tịch UBND cấp huyện trong việc giải quyết

các tranh chấp lao động tập thể về quyền như “Trong thời hạn 05 ngày làm

việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể

về quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh

chấp lao động”. Dù được quy định rõ ràng, cụ thể và được áp dụng nhều nơi

trên cả nước, thế nhưng trên địa bàn các khu công nghiệp Bến Cát vẫn chưa

áp dụng phương thức này trong một tranh chấp lao động tập thể nào.

2.4.5. Xét xử

Xét xử là phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể mà theo

đó tòa án sẽ ra một bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ việc. Điều 203

của BLLĐ năm 2012 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập

thể về quyền thuộc thẩm quyền của tòa án, và các thủ tục giải quyết liên quan.

Dù vậy, trên địa bàn vẫn chưa áp dụng phương thức này trong việc giải quyết

các vụ tranh chấp do rườm rà, mất thời gian, mất kinh phí và do cả hai phía

ngại đụng chạm đến cơ quan Tòa án.

2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể trên địa

bàn

Khi các tranh chấp lao động tập thể xảy ra, Ban chấp hành công đoàn

cơ sở hoặc nhân sự doanh nghiệp sẽ báo về Công đoàn các khu công nghiệp

Bến Cát hoặc Ban quản lý các khu công nghiệp Bình Dương (Văn phòng đại

diện số 2 và Văn phòng đại diện số 4) và các cơ quan liên ngành (Phòng lao

- 75 -

động Thương binh xã hội – cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo giải quyết

tranh chấp lao động tập thể - đình công thị xã Bến Cát, Đội An ninh thị xã,

Bảo vệ khu công nghiệp, Công an địa phương theo Quyết định số 1511/QĐ –

UBND ngày 02/7/2015 “Về việc thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp

lao động tập thể và đình công không theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy

định trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương” và quyết định số 1635/QĐ

–UBND ngày 30/7/2018 “Về việc kiện toàn Tổ công tác giải quyết tranh chấp

lao động tập thể và đình công không đúng quy định pháp luật trên địa bàn thị

xã Bến Cát” gọi là tổ công tác có mặt tại doanh nghiệp để làm việc với người

sử dụng lao động và người lao động về nội dung tranh chấp, tạo điều kiện để

hai bên thương lượng, dàn xếp; Nếu không thể tự thương lượng, dàn xếp được

thì mỗi bên hoặc cả hai bên tranh chấp có quyền gửi đơn yêu cầu giải quyết

tranh chấp đến Hòa giải viên lao động, nếu Hòa giải viên lao động cũng

không hòa giải thành thì các bên có quyền gửi đơn Chủ tịch UBND cấp huyện

giải quyết tranh chấp (đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền) hoặc gửi

đơn đến Hội đồng trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi

ích) và nếu vẫn chưa có thể giải quyết được thì cơ quan giải quyết cuối cùng

là Tòa án. Tuy nhiên, thực tế trên địa bàn khi có tranh chấp xảy ra, tổ công tác

có mặt và hỗ trợ hai bên người lao động và người lao động thương lượng, dàn

xếp được với nhau.

Một trong những vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra ở quy mô lớn

và thời gian kéo dài nhất ở khu công nghiệp Bến Cát trong những tháng cuối

năm 2018 là ở Công ty TNHH Sản xuất Sản phẩm nhựa cao su Chun Xiang

với 2.200/2.500 công nhân tham gia ngừng việc (thời gian ngừng việc kéo dài

07 ngày). Công ty TNHH sản xuất sản phẩm nhựa cao su Chun Xiang 100%

vốn nước ngoài (Đài Loan) bắt đầu hoạt động từ năm 2014 ban đầu với số

lượng công nhân khoảng hơn 50 người, đến nay công ty đã mở rộng quy mô,

- 76 -

công nhân đã lên đến hơn 2.500 người, trong đó lao động nữ chiếm hơn 75%,

lao động người nước ngoài làm việc tại công ty gần 50 người. Công ty hiện

trú đóng tại Lô G6,G7, KCN Việt Hương 2, thị xã Bến Cát, ngành nghề sản

xuất chính là nhựa cao su. Công ty đã có tổ chức Công đoàn cơ sở từ năm

2016, hiện tại tổng số công đoàn viên hơn 2.400 đoàn viên.

Ngay sau khi nhận được tin báo vụ việc từ bộ phận nhân sự và Công

đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, Công đoàn các khu công nghiệp Bến Cát đã liên

hệ Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội thị xã Bến Cát, đồng thời chủ

động liên hệ phối hợp với Ban quản lý các khu công nghiệp, đội An ninh

nhân dân – Công an thị xã và chính quyền Ủy ban nhân dân xã An Tây đến

doanh nghiệp để giải quyết vụ việc.

Khi tiếp cận nơi xảy ra chấp lao động tập thể, Đội An ninh công an thị

xã có trách nhiệm phối hợp với công an xã An Tây giữ gìn an ninh trật tự tại

doanh nghiệp, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ tổng

hợp ý kiến từ phía doanh nghiệp cũng như người lao động, mặt khác Công

đoàn các khu công nghiệp cũng trao đổi trực tiếp với công đoàn cơ sở tại công

ty và người lao động để nắm bắt được nguyên nhân của việc ngừng việc tập

thể cũng như tâm tư nguyện vọng và những yêu cầu của anh chị em công

nhân nhằm đưa ra phương án giải giải quyết trên cơ sở thỏa thuận và thương

lượng để đi đến một hướng giải quyết hợp lý nhất giữa người lao động và

Công ty TNHH Sản xuất sản phẩm nhựa cao su Chun Xiang.

Bước đầu xác định đây là vụ tranh chấp lao động tập thể và ngừng việc

mang tính tự phát không theo trình tự pháp luật quy định và liên quan đến lợi

ích của người lao động như: việc điều chỉnh tiền lương theo Nghị định số

141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017 của Chính phủ, cải thiện điều kiện làm

việc, điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, quy định chế độ phụ

cấp, thưởng chuyên cần, cải thiện chất lượng bữa ăn, cách tính tiền lương ca

- 77 -

đêm, bất đồng ngôn ngữ trong văn hóa giao tiếp giữa người quản lý là người

nước ngoài với người lao động Việt Nam …

Do đó Tổ công tác liên ngành của Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao

động tập thể, đình công và các ngành có liên quan đã phối hợp giải quyết.

Yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh những quy định chưa đúng với quy định

của pháp luật lao động và định hướng để doanh nghiệp thỏa thuận với người

lao động, giải thích vận động công nhân trở lại làm việc không đình công kéo

dài làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và

không làm mất an ninh trật tự xã hội trên địa bàn thị xã.

2.6. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật và thực trạng giải

quyết tranh chấp lao động tập thể

2.6.1.Về các quy định pháp luật

- Thứ nhất: Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể do pháp luật

quy định chưa thực sự đi vào thực tế đời sống, còn nhiều bất cập

Mặc dù BLLĐ năm 1994 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thiết

lập một cơ chế tương đối đầy đủ cho việc giải quyết tranh chấp lao động tập

thể nhưng có rất ít vụ tranh chấp lao động tập thể được giải quyết bởi cơ chế

này. Luật số 74/2006/QH11 ngày 29-11-2006 sửa đổi, bổ sung một số điều

của BLLĐ được ban hành và đến BLLĐ số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012

cũng có những sửa đổi, bổ sung nhằm giải quyết vướng mắc này nhưng từ đó

cho đến nay, tình hình vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Nguyên nhân cụ thể,

do đội ngũ hòa giải viên lao động được thiết lập nhưng hiệu quả hoạt động

không cao. Hội đồng trọng tài lao động được thành lập trên thực tế kể từ năm

1999 song trên địa bàn vẫn chưa thụ lý giải quyết vụ tranh chấp lao động tập

thể nào, chủ tịch UBND cấp huyện cũng tham gia giải quyết tranh chấp lao

động tập thể nhưng là khi đình công đã xảy ra chứ không phải là theo trình tự,

thủ tục luật định. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương cũng chưa từng thụ lý

- 78 -

tranh chấp lao động tập thể nào. Những thiếu sót, bất cập này đã hạn chế hiệu

quả của các cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể trên thực

tế và khiến cho cơ chế không được NLĐ và NSDLĐ coi trọng. Điều này giải

thích vì sao cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể ít được áp dụng trên

thực tế, chưa ngăn ngừa và hạn chế hiệu quả các hành động công nghiệp. Hạn

chế lớn nhất, thiết nghĩ, liên quan đến thủ tục hòa giải ở cơ sở. Do không bảo

đảm được các yêu cầu về tính trung lập, uy tín và tính chuyên nghiệp nên hòa

giải viên lao động không chiếm được sự tin cậy của NLĐ và NSDLĐ. Những

điểm bất hợp lý trong thủ tục hòa giải ở cơ sở như thiếu cơ chế bảo đảm thi

hành biên bản hòa giải thành, không được phép lựa chọn hòa giải viên, quy

định về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan hòa giải sơ sài...làm cho thủ

tục này càng kém hấp dẫn hơn đối với các bên tranh chấp. Bởi vậy khi tranh

chấp lao động tập thể xảy ra, hiếm khi tập thể lao động hoặc NSDLĐ yêu cầu

giải quyết tranh chấp theo thủ tục này. Và chính bởi vì hòa giải viên lao động

ít thụ lý và giải quyết tranh chấp lao động tập thể nên các cơ quan giải quyết

tranh chấp khác không có nhiều cơ hội tham gia vào hoạt động giải quyết

tranh chấp lao động tập thể. Mặt khác, việc quy định thủ tục giải quyết tranh

chấp lao động bằng hội đồng trọng tài hay do Chủ tịch UBND cấp huyện

cũng còn nhiều bất cập về thời gian cũng như thủ tục như đã phân tích tại mục

trên. Đặc biệt là thiếu một cơ chế để thực thi các quyết định của các cơ quan

này khi giải quyết các tranh chấp lao động tập thể

- Thứ hai: Đa số các vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra trên thực tế

được giải quyết thông qua tổ công tác liên ngành.

Do cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể pháp luật quy định

chưa thực sự đi vào đời sống, các vụ đình công tự phát xảy ra thường xuyên

và có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng và nội dung ngày càng phức

tạp. Bởi vậy, để kịp thời ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và bảo đảm

- 79 -

tình hình trật tự an ninh trên địa bàn, Chủ tịch UBND thị xã Bến Cát đã chuẩn

y quyết định thành lập đoàn công tác liên ngành (sau đây gọi chung là tổ công

tác) để bước đầu giải quyết các vụ tranh chấp lao động tập thể. Thành phần

của các tổ công tác này thay đổi theo của từng địa bàn nhưng thường bao gồm

đại diện của cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh, đại diện của công đoàn cấp

trên cơ sở, đại diện UBND thị xã, cơ quan công an hoặc các tổ chức, đoàn thể

khác. Điển hình như trên địa bàn Bến Cát: nếu có tranh chấp lao động tập thể

xảy ra trong các khu công nghiệp thì thành phần bao gồm: đại diện UBND thị

xã (Phòng Lao động thương binh xã hội), Công an địa phương, Công đoàn

các khu công nghiệp, An ninh thị xã, Văn phòng đại diện số 2 hoặc Văn

phòng đại diện số 4 – Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương,

Đội Bảo vệ khu công nghiệp. Còn nếu xảy ra ngoài khu công nghiệp thì thành

phần gồm: đại diện UBND thị xã (Phòng Lao động thương binh xã hội, chính

quyền địa phương), Công an địa phương, Liên đoàn lao động thị xã, An ninh

thị xã.

Không như các cơ quan giải quyết tranh chấp pháp luật quy định, các tổ

công tác tiến hành giải quyết tranh chấp lao động tập thể mà không cần có yêu

cầu chính thức của các bên. Thông thường, tổ công tác sẽ chủ động xuống

doanh nghiệp để giải quyết tranh chấp khi nhận được thông báo về vụ ngừng

việc từ công đoàn cơ sở, UBND địa phương hoặc công an địa phương. Ưu

tiên của tổ công tác là thuyết phục NLĐ quay lại làm việc, bảo đảm an ninh

trật tự và tránh tình trạng lây lan đình công. Tổ công tác sẽ tổ chức một cuộc

họp với những NLĐ tham gia đình công để lắng nghe các yêu cầu của họ. Sau

đó, tổ công tác sẽ tiến hành chọn ra những yêu cầu chính đáng và trình bày lại

với NSDLĐ để tìm kiếm một giải pháp cho vụ việc. Các cuộc đàm phán giữa

tổ công tác và NSDLĐ thường được tiến hành mà không có sự tham gia của

đại diện NLĐ. Thông thường, các yêu cầu của NLĐ đều được doanh nghiệp

- 80 -

đáp ứng khá nhanh chóng. Ban đầu, biện pháp giải quyết tranh chấp lao động

tập thể thông qua tổ công tác liên ngành (thường được gọi là biện pháp giải

quyết tranh chấp tình thế) không được quy định trong pháp luật. Tuy nhiên,

trong những năm gần đây, cơ chế này đã từng bước được luật hóa với quy

định tại khoản 3 điều 159 BLLĐ (đã sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi năm

2006): "Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể về quyền dẫn đến ngừng việc

tạm thời của tập thể lao động thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải chủ

động, kịp thời tiến hành giải quyết" tiếp đó tại khoản 3 Điều 195 BLLĐ năm

2012 cũng có quy định “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải chủ động, kịp

thời tiến hành giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền”. Tuy nhiên,

biện pháp giải quyết tranh chấp tình thế cũng chứa đựng rất nhiều điểm bất

cập như nó có thể khuyến khích NLĐ tiếp tục ngừng việc tự phát, làm suy yếu

vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở, không giải quyết triệt để các mâu thuẫn,

bất đồng giữa hai bên, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thương lượng tập

thể….Vì thế biện pháp này không thể được áp dụng một cách thường xuyên

và lâu dài trong việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể.

- Thứ ba: không có cơ chế pháp lý rõ ràng cho việc bảo đảm thực hiện

kết quả giải quyết tranh chấp lao động tập thể.

Từ khi có BLLĐ năm 1994 qua nhiều lần sửa đổi và đến khi ban hành

BLLĐ năm 2012 khi pháp luật về Lao động đều quy định khá nhiều về các

biện pháp giải quyết tranh chấp lao động tập thể như hòa giải, trọng tài, bằng

quyết định hành chính của Chủ tịch UBND cấp huyện và tòa án. Tuy nhiên

chỉ có việc xét xử các tranh chấp lao động tập thể tại tòa án là có một cơ chế

thi hành tương đối đầy đủ và có hệ thống các cơ quan bảo đảm thi hành các

bản án của tòa án tương đối mạnh. Nhưng đối với các biên bản hòa giải thành

của hòa giải viên lao động, của hội đồng trọng tài lao động hay một quyết

định của Chủ tịch UBND cấp huyện thì việc các bên nghiêm chỉnh thi hành

- 81 -

các văn bản đó thì không cần bàn tới nhưng vấn đề đặt ra là, nếu một trong

hai bên không thực thi đúng các nội dung ghi trong các văn bản đó sẽ phải

chịu chế tài gì? Hiện nay, pháp luật không có bất kỳ quy định nào cho vấn đề

này.

2.6.2. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động giải quyết tranh chấp

lao động tập thể trong thực tiễn

2.6.2.1. Những thuận lợi:

- Nhà nước ban hành các chủ trương, các quy định liên quan đến tranh

chấp lao động tập thể và đình công: Chỉ thị 22-CT/TW ngày 05/6/2008 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng; Quyết định 1129/QĐ-TTg ngày 18/8/2008 của

Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch 1233/KH-TLĐ ngày 17/7/2008 của TLĐ; Kế

hoạch số 18/KH của LĐLĐ Tỉnh về xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn

định, tiến bộ, phòng ngừa tranh chấp lao động tập thể, đình công tự phát tại

doanh nghiệp;

- Thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình

công trên địa bàn: Quyết định số1385/QĐ –UBND về việc “Ban hành quy

chế phối hợp giải quyết tranh chấp lao động tập thể, đình công không đúng

quy định của pháp luật lao động trên địa bàn tỉnh Bình Dương”. Thành lập

Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao động tập thể - đình công thị xã Bến Cát

theo Quyết định số 1511/QĐ – UBND ngày 02/7/2015 “Về việc thành lập

Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công không theo

trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình

Dương” và quyết định số 1635/QĐ –UBND ngày 30/7/2018 “Về việc kiện

toàn Tổ công tác giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công không

đúng quy định pháp luật trên địa bàn thị xã Bến Cát”

- 82 -

- Người sử dụng lao động chấp hành tốt các quy định của pháp luật,

nhận thức được vấn đề tích cực hợp tác với các cấp, các ngành giải quyết

nhanh chóng.

2.6.2.2. Những khó khăn:

Bên cạnh những thuận lợi trên không thể không kể đến những hạn

chế, tồn tại:

- Thứ nhất: Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể do pháp luật

quy định còn nhiều bất cập.

Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể do pháp luật quy định

hiện có nhiều thiếu sót, bất cập. Những thiếu sót, bất cập này đã hạn chế hiệu

quả của các cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động tập thể trên thực

tế và khiến cho cơ chế này trở nên kém hấp dẫn trong mắt của NLĐ và

NSDLĐ. Điều này giải thích vì sao cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập

thể ít được áp dụng trên thực tế, chưa ngăn ngừa và hạn chế hiệu quả các hành

động công nghiệp. Hạn chế lớn nhất, theo chúng tôi, liên quan đến thủ tục hòa

giải ở cơ sở. Do không bảo đảm được các yêu cầu về tính trung lập, uy tín và

tính chuyên nghiệp nên hòa giải viên lao động không chiếm được sự tin cậy

của NLĐ và NSDLĐ. Những điểm bất hợp lý trong thủ tục hòa giải ở cơ sở

như thiếu cơ chế bảo đảm thi hành biên bản hòa giải thành, không được phép

lựa chọn hòa giải viên, quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan

hòa giải sơ sài...làm cho thủ tục này càng kém hấp dẫn hơn đối với các bên

tranh chấp. Bởi vậy khi tranh chấp lao động tập thể xảy ra, hiếm khi tập thể

lao động hoặc NSDLĐ yêu cầu giải quyết tranh chấp theo thủ tục này. Và

chính bởi vì hòa giải viên lao động ít thụ lý và giải quyết tranh chấp lao động

tập thể nên các cơ quan giải quyết tranh chấp khác không có nhiều cơ hội

tham gia vào hoạt động giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Mặt khác, việc

quy định thủ tục giải quyết tranh chấp lao động bằng hội đồng trọng tài hay

- 83 -

do Chủ tịch UBND cấp huyện cũng còn nhiều bất cập thể thời gian cũng như

thủ tục như đã phân tích tại mục trên. Đặc biệt là thiếu một có chế để thực thi

các quyết định của các cơ quan này khi giải quyết các tranh chấp lao động tập

thể.

- Thứ hai: Sự yếu kém của tổ chức công đoàn cơ sở cũng như đội ngũ

hòa giải viên lao động.

Tổ chức công đoàn - đặc biệt là công đoàn cơ sở - đóng một vai trò hết

sức quan trọng trong cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Kinh

nghiệm cho thấy, nếu một bên tranh chấp tỏ ra yếu thế hơn phía bên kia thì

bên yếu thế thường e ngại trong việc giải quyết tranh chấp thông qua thương

lượng hay hòa giải. Sự hiện diện của một tổ chức công đoàn cơ sở mạnh mẽ

giúp cho NLĐ lấy lại thế quân bình với NSDLĐ và qua đó, khuyến khích tập

thể lao động lựa chọn các phương thức hòa bình để giải quyết tranh chấp thay

vì tiến hành đình công. Bên cạnh đó, các tổ chức công đoàn cơ sở có uy tín và

kinh nghiệm còn góp phần động viên và hướng dẫn NLĐ tuân theo các quy

định pháp luật và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng với NSDLĐ

một cách ôn hòa. Tuy nhiên qua nhiều năm hình thành và phát triển thì đội

ngũ công đoàn cơ sở nhiều nơi vẫn thể hiện sự yếu kém về năng lực và hạn

chế về kinh nghiệm trong việc tham gia giải quyết các tranh chấp lao động tập

thể. Bên cạnh đó pháp luật cũng chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn cơ

sở, trong khi họ ăn lương của doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh hiện nay vẫn chưa có tổ chức công đoàn cơ sở, dù cho công đoàn

cấp trên tác động rất mạnh nhưng vẫn chưa có biện pháp mạnh đối với những

doanh nghiệp này. Chính những điều này dẫn đế việc giải quyết các cuộc

tranh chấp lao động tập thể thường kéo dài, thiếu triệt để và trong một số

trường hợp không giải quyết thỏa đáng được quyền lợi của hai bên đã dẫn đến

các hành động công nghiệp. Đối với chức danh hòa giải viên lao động thì theo

- 84 -

Nghị định Số 46/2013/NĐ-CP của Chính phủ chỉ quy định chung chung về

trình độ của hòa giải viên là “Am hiểu pháp luật lao động và pháp luật có liên

quan” và “Có 03 năm làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến quan hệ lao

động, có kỹ năng hòa giải tranh chấp lao động”. Quy định đó khiến phần lớn

các hòa giải viên lao động có trình độ thấp, năng lực kém tham ra giải quyết

các tranh chấp lao động đặc biệt là các tranh chấp lao động tập thể vốn phức

tạp thì sao đưa ra được các ý kiến hoặc cơ chế hòa giải phù hợp nhất giúp hai

bên chấm dứt tranh chấp và mau chóng ổn định hoạt động sản xuất

- Thứ ba: Một bộ phận người lao động Việt Nam chưa ý thức rõ về việc

tuân thủ pháp luật lao động và duy trì sự ổn định của quan hệ lao động.

Thực tế cho thấy phần đông NLĐ chưa ý thức rõ về việc tuân thủ pháp

luật lao động và duy trì sự ổn định trong quan hệ lao động. Điều này có thể

nhìn nhận ở cả hai góc độ là cả NSDLĐ và NLĐ. Đặc biệt, do đất nước ta

mới từ một nước có nền nông nghiệp là chủ yếu vì thế ý thức và tác phong

công nghiệp của tập thể NLĐ chưa cao, do NLĐ làm công chủ yếu là người

có học vấn thấp, am hiểu pháp luật chưa cao nên đôi khi đưa ra những yêu

cầu đòi hỏi không đúng mức đối với NSDLĐ tại doanh nghiệp. Mặt khác do

nhận thức thấp nên họ không đánh giá hết được nghĩa vụ của mình trong quan

hệ lao động dẫn đến không thực hiện hết phạm vi nghĩa vụ của mình trong

quan hệ đó. Về phía NSDLĐ cũng vậy, dù có trình độ cao hơn NLĐ nhưng

không hẳn đã có am hiểu sâu về pháp luật cũng như phạm vi quyền và nghĩa

vụ của mình trong các quan hệ lao động mà mình tham gia. Chính những

nguyên nhân này dẫn đến việc hai bên thường có những xung đột về quyền và

lợi ích trong quan hệ lao động mặc dù phần lớn các vấn đề đó được quy định

khá rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành, bên cạnh đó bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán,

lối sống của NLĐ và NSDLĐ.

- 85 -

Thứ tư: Đa số các vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra trên thực tế

được giải quyết thông qua tổ công tác liên ngành.

Do cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể do pháp luật quy định

chưa thực sự đi vào đời sống, các vụ ngừng việc tự phát xảy ra thường xuyên

và có xu hướng ngày càng gia tăng. Bởi vậy, để kịp thời ổn định tình hình sản

xuất kinh doanh và bảo đảm tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, UBND thị

xã Bến Cát đã ra Quyết định số 1511/QĐ – UBND ngày 02/7/2015 “Về việc

thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công

không theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trên địa bàn thị xã Bến Cát,

tỉnh Bình Dương” và quyết định số 1635/QĐ –UBND ngày 30/7/2018 “Về

việc kiện toàn Tổ công tác giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công

không đúng quy định pháp luật trên địa bàn thị xã Bến Cát” tổ công tác bước

đầu giải quyết các vụ ngừng việc tập thể và đình công trái pháp luật. Thành

phần của các tổ công tác này gồm: Phòng Lao động Thương binh xã hội,

Công an thị xã, Văn phòng đại diện số 2 và Văn phòng đại diện số 4 – Ban

quản lý các khu công nghiệp Bình Dương, Liên đoàn lao động thị xã (đối với

các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp) hoặc Công đoàn các khu công

nghiệp Bến Cát (đối với những doanh nghiệp trong khu công nghiệp)

- Thứ năm: Các cuộc đình công và tranh chấp lao động tập thể thường

xảy ra ngoài giờ hành chính (thứ 7) hoặc giờ tăng ca nên gây khó khăn trong

công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành.

- Thứ sáu: Một số chủ doanh nghiệp không thiện chí hợp tác, gây khó

khăn trong công tác hòa giải nên các vụ tranh chấp lao động tập thể và đình

công kéo dài

- 86 -

Tiểu kết Chƣơng 2

Qua thực trạng về giải quyết tranh chấp lao động tập thể đang diễn ra

trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, ta có thể rút ra một số

kết luận như sau:

- Hiện tại, tình hình tranh chấp lao động tập thể trên địa bàn vẫn diễn ra

với số lượng khá cao dù đã giảm so với giai đoạn (2010-2014), tuy nhiên nội

dung tranh chấp chủ yếu tập trung ở mặt kinh tế, tính phức tạp ngày càng tăng

và việc các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại cơ quan nhà nước có

thẩm quyền rất hạn chế do thủ tục phức tạp và tính thực thi quyết định còn

thấp.

- Có rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp lao động tập thể được

quy định, thế nhưng trên thực tế lại được áp dụng một số ít phương thức do

việc áp dụng các phương thức kia không thực thi, phức tạp.

-Việc quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động còn rườm

rà, quá mức cần thiết và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các bên tranh chấp.

Điều này được thể hiện như đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền đòi

hỏi phải qua ba cấp giải quyết, hòa giải cơ sở, chủ tịch UBND cấp huyện và

sau cùng là tòa án. Qua quá nhiều thủ tục đòi hỏi nhiều thời gian, mặt khác

đây là hình thức tranh chấp mà một bên cho rằng bên kia vi phạm quyền lợi

của mình đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng kịp thời thì thủ tục lại phức tạp

và qua nhiều cấp giải quyết sẽ rất dễ ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của bên bị

vi phạm.

- Công tác giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa được quan tâm

đúng mức, hiện tại theo quy định, Hội đồng trọng tài chưa thật sự hiệu quả

trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động tập thể . Qua phân tích, ta

có thể thấy được các ưu điểm dối với việc giải quyết tranh chấp qua phương

- 87 -

thức thương lượng, hòa giải cơ chế giải quyết nhanh chóng, đảm bảo tính

khách quan.

- Chất lượng của đội ngũ cán bộ giải quyết tranh chấp (Đặc biệt là một

số hòa giải viên lao động) nhìn chung còn thấp, cơ chế đảm bảo thi hành các

kết quả giải quyết tranh chấp chưa rõ ràng khiến hiệu quả giải quyết không

cao. Qua đó mất lòng tin của người lao động vào hệ thống các cơ quan giải

quyết tranh chấp.

- 88 -

CHƢƠNG 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ TRONG CÁC KHU CÔNG

NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƢƠNG.

3.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể

3.1.1.Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập

thể .

BLLĐ được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 1995 qua nhiều lần

được sửa đổi bổ sung thì hiện tại BLLĐ số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012

thay thế các quy định cũ, những văn bản này đã đặt nền tảng pháp lý cho việc

hình thành và phát triển quan hệ lao động ở Việt Nam. Sau 15 năm thực hiện,

quan hệ lao động ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định từ việc nhận

thức đến tổ chức thực hiện phù hợp với sự hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế

thị trường và thị trường lao động. Từ đó, đặt ra những yêu cầu đối với việc

hoàn thiện pháp luật lao động về giải quyết tranh chấp lao động tập thể trong

thời gian tới .

- Một là: Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động

tập thể phải khắc phục được những bất hợp lý của quy định pháp luật hiện

hành và đảm bảo tính khả thi của các quy định pháp luật. Đây là vấn đề đầu

tiên được đề cập đến trong quá trình hoàn thiện của mọi văn bản pháp luật,

bởi khi áp dụng vào thực tiễn thì mới thấy được những bất cập, thiếu tính khả

thi trong điều kiện thực tế. Vì vậy để đảm bảo cho việc sửa đổi bổ sung có

hiệu quả cần đảm bảo đầu tiên được yếu tố là khắc phục được các hạn chế

hiện tại của các quy định pháp luật và điều chỉnh sao cho các quy định đó đi

vào thực tiễn cuộc sống giúp điều chỉnh các quan hệ một cách đúng đắn sẽ là

yêu cầu hết sức quan trọng.

- 89 -

- Hai là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết

tranh chấp lao động tập thể phải đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập quốc

tế. Đất nước chúng ta đang trong quá trình hội nhập, việc tham gia ngày càng

nhiều các công ước quốc tế về thương mại, lao động khiến cho việc điều

chỉnh các quan hệ lao động bằng hệ thống pháp luật hiện tại có những sự lỗi

thời, mâu thuẫn với các văn bản đã thỏa thuận với quốc tế. Vì vậy việc thường

xuyên rà soát và đề nghị điều chỉnh các văn bản đã cũ, mâu thuẫn với các

công ước quốc tế là một yêu cầu mang tính thời sự, có làm vậy mới đảm bảo

được tính nhất quán giữa hệ thống pháp luật trong nước với các thỏa thuận

mang tính quốc tế cũng như khu vực. Làm tốt công tác này sẽ đáp ứng được

yêu cầu hội nhập và tạo ra sức hút ngày càng cao đối với các nhà đầu tư nước

ngoài.

- Ba là: Đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống pháp luật về giải

quyết tranh chấp lao động tập thể.

Yêu cầu không kém phần quan trọng đó là tính đồng bộ trong hệ thống

văn bản, điều này sẽ giúp việc giải thích và áp dụng pháp luật được dễ dàng,

tránh sự xung đột, mâu thuẫn giữa hệ thống các văn bản. Vấn đề mâu thuẫn,

chồng chéo giữa các văn bản pháp luật tại nước ta là vấn đề khá phổ biến

trong thời gian qua, điều đó xuất phát từ việc một văn bản luật thường được

nhiều cơ quan ban ngành khác nhau ra các văn bản dưới luật hướng dẫn vì thế

nên dẫn đến tính thiếu thống nhất trong các quy định dưới luật với các văn

bản luật. Yêu cầu đặt ra để khắc phục hạn chế này là việc thường xuyên phải

rà soát và phát hiện các hạn chế, mâu thuẫn của các văn bản luật để điều chỉnh

và quy định một cách cụ thể thống nhất. Việc hoàn thiện pháp luật về giải

quyết tranh chấp lao động tập thể cần phải được đặt trong chỉnh thể hoàn

thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động và các quy

định khác có liên quan để tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định

- 90 -

pháp luật, hình thành nên một hệ thống pháp luật khoa học, thống nhất và có

tính khả thi cao.

3.1.2.Một số kiến nghị về hoàn thiện các quy định pháp luật

- Thứ nhất:Về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại

hội đồng trọng tài lao động

Cần có quy định rút ngắn về thời gian giải quyết các tranh chấp lao

động tập thể tại cơ quan trọng tài lao động, hiện tại theo quy định tại khoản 1

Điều 206 của BLLĐ năm 2012 thì “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết, Hội đồng trọng tài lao động phải kết

thúc việc hòa giải”, tuy nhiên việc quy định thời hạn như vậy là quá lâu, gây

ảnh hưởng không tốt đối với hai bên tranh chấp. Bởi như chúng ta đã biết việc

tranh chấp lao động tập thể thường rất phức tạp và khi các bên đã đưa các

tranh chấp ra các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì mức độ mâu thuẫn đã

ở mức độ khá cao việc càng kéo dài quá trình giải quyết bao nhiêu sẽ dẫn đến

những nguy cơ về hành động công nghiệp gây bất ổn trật tự xã hội và ảnh

hưởng sản xuất bấy nhiêu. Theo chúng tôi thời gian như quy định ở trên nên

giảm xuống chỉ còn năm ngày làm việc như vậy mới đảm bảo về tính nhanh

chóng, hiệu quả của công tác trọng tài lao động.

Pháp luật nước ta cũng nên quy định một khoảng thời gian nhất định để

các bên tự nguyện thi hành quyết định của hội đồng trọng tài lao động. Sau

khi hết khoảng thời gian đó thì trao cho tòa được quyền công nhận và cưỡng

chế thi hành quyết định của hội đồng trọng tài, để đảm bảo quyết định công

nhận hòa giải thành của hội đồng trọng tài được thực hiện. Điều này sẽ đảm

bảo được hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể tại cơ

quan trọng tài lao động một cách triệt để, thực tế từ trước đây pháp luật vẫn

còn thiếu các quy định về thời hạn thực thi các quyết định khiến các bên thiếu

- 91 -

căn cứ để yêu cầu bên kia thực hiện các nghĩa vụ của mình căn cứ vào kết quả

giải quyết tranh chấp của cơ quan trọng tài.

- Thứ hai: Về cơ chế thi hành các biên bản hòa giải thành của hòa giải

viên và các quyết định của hội đồng trọng tài xem xét, bổ sung những quy

định về cơ chế bảo đảm việc thực hiện các biên bản hòa giải thành của hòa

giải viên cũng như biên bản hòa giải thành của hội đồng trọng tài lao động.

Trong trường hợp này cần quy định một cơ chế cưỡng chế thi hành khi đến

thời hạn mà các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nội

dung mà các bên đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành trước đó. Cơ

quan được chỉ định thực hiện việc cưỡng chế là cơ quan thi hành án cấp

huyện nơi có trụ sở của doanh nghiệp có tranh chấp. Cần có quy định về thẩm

quyền của hội đồng trọng tài trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao

động tập thể theo đó hội đồng trọng tài có quyền đưa ra phán quyết để giải

quyết sự việc, phán quyết này có hiệu lực và thời hạn thi hành nhất định. Phán

quyết này cũng có tính cưỡng chế khi các bên không tự nguyện thực hiện

hoặc thực hiện không đầy đủ trong thời hạn quy định. Điều này sẽ nâng cao

vai trò của hội đồng trọng tài lao động so với quy định hiện tại vì hiện nay

theo quy định thì khi giải quyết tranh chấp lao động hội đồng trọng tài cũng

chỉ đưa ra phương án hòa giải nếu các bên chấp thuận thì lập biên bản hòa

giải thành còn nếu không thì lập biên bản hòa giải không thành, điều đó vô

hình chung biến cơ quan trọng tài lao động thành một cơ quan hòa giải tranh

chấp đơn thuần.

- Thứ ba: Đa số các vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra trên thực tế

được giải quyết thông qua tổ công tác liên ngành. Chính vì vậy, pháp luật cần

có cơ chế quy định rõ ràng trách nhiệm quyền hạn chung của tổ liên ngành và

của từng cơ quan tổ chức trong tổ công tác liên ngành.

- 92 -

3.2.Hoàn thiện hoạt động giải quyết tranh chấp lao động tập thể

3.2.1.Về các quy định pháp luật

-Thứ nhất: Về cơ quan hòa giải cơ sở.

+ Về tiêu chuẩn hòa giải viên: cần quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn

chuyên môn, nghiệp vụ của hòa giải viên lao động. Tiêu chuẩn về chuyên

môn, nghiệp vụ của hòa giải viên lao động được quy định trong Điều 4 nghị

định số 46/2013/NĐ-CP của Chính phủ rất chung chung và sơ sài. Trong khi

đó, hòa giải viên lao động của nhà nước ở các quốc gia khác thường được lựa

chọn theo những tiêu chuẩn rất khắc khe. Chính vì vậy, hòa giải viên lao động

phải đáp ứng được hai tiêu chuẩn là: có bằng đại học trở lên trong lĩnh vực

pháp luật, kinh tế hoặc lao động; và có thời gian công tác từ năm năm trở lên

trong lĩnh vực công đoàn, quản lý nhân sự, quản lý nhà nước về lao động hoặc

giải quyết tranh chấp. Chính vì thế việc quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên

tại nước ta cũng cần có những quy định cụ thể và kỹ lưỡng hơn như phải có

thời gian tối thiểu là năm năm trong lĩnh vực công đoàn hoặc lao động và tối

thiểu phải có bằng đại học về lĩnh vực liên quan đến lĩnh vực giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể. Có như vậy thì hòa giải viên lao động mới có thể

tạo được sự tin cậy của các bên tranh chấp và có đủ kinh nghiệm để xử lý các

vụ việc phức tạp như tranh chấp lao động tập thể.

+ Về số lượng hòa giải viên khi tham gia giải quyết tranh chấp: BLLĐ

năm 2012 đã có sửa đổi đối với nội dung về cơ quan hòa giải cơ sở đó là xóa

bỏ hội đồng hòa giải lao động cơ sở và giao thẩm quyền này cho hòa giải viên

lao động. Khi có tranh chấp lao động tập thể tại đơn vị thì một hòa giải viên

sẽ được cử tham gia hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động tập thể đó. Tuy

nhiên để đảm bảo tính khách quan, thận trọng trong việc giải quyết các tranh

chấp lao động tập thể thì nên có quy định giao nhiệm vụ cho một ban hòa giải

bao gồm ba hòa giải viên lao động do cơ quan lao động chỉ định tham gia giải

- 93 -

quyết đối với từng vụ tranh chấp lao động tập thể nhất định. Đề xuất này có lý

do là vì các tranh chấp lao động tập thể thường phức tạp hơn rất nhiều so với

các tranh chấp lao động cá nhân nên việc tham gia của ba hòa giải viên sẽ

giúp cho việc tiếp thu ý kiến của nhiều cá nhân và các ý kiến đưa ra sẽ mang

tính khách quan hơn so với cơ chế một hòa giải viên như hiện tại.

- Thứ hai: Về cơ quan trọng tài lao động.

+ Về thẩm quyền của hội đồng trọng tài lao động: Cần xem xét để mở

rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động của hội đồng trọng tài lao

động theo hướng hội đồng trọng tài có thể giải quyết cả hai loại hình của

tranh chấp lao động tập thể theo sự tự do lựa chọn của các bên, bao gồm cả

tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

Việc mở rộng thẩm quyền của hội đồng trọng tài lao động vừa khắc phục

được những hạn chế về trình độ và hiệu quả giải quyết các tranh chấp lao

động tại các cơ quan khác vừa góp phần giải quyết nhanh chóng tranh chấp

lao động, đồng thời giảm tải cho tòa án và phát huy được năng lực của các

thành viên hội đồng trọng tài.

+ Về cơ cấu tổ chức của hội đồng trọng tài: Việc quy định số lượng

thành viên của hội đồng trọng tài lao động theo quy định tại điều 199 BLLĐ

năm 2012 có thể lên đến 7 người là quá nhiều. Sự tham gia của nhiều người

như vậy có thể khiến cho quá trình giải quyết các tranh chấp lao động chậm

chạp, kém linh hoạt và thiếu dứt khoát do có quá nhiều luồng ý kiến giải

quyết vụ việc. Ở các nước khác việc giải quyết các tranh chấp lao động tập

thể chỉ được thực hiện bởi một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài

không quá ba người. Hội đồng trọng tài có số lượng trên ba thành viên chỉ

xuất hiện trong trường hợp vụ việc tranh chấp quá phức tạp hoặc cần xem xét

lại quyết định của trọng tài theo thủ tục phúc thẩm. Vì vậy chỉ nên quy định

số lượng trọng tài viên tham gia trong một vụ giải quyết tranh chấp lao động

- 94 -

tối đa không quá 5 người, điều này sẽ giúp việc đưa ra các ý kiến và quyết

định giải quyết một vụ tranh chấp được nhanh chóng và giảm bớt chi phí các

bên trong quá trình giải quyết.

+ Bổ sung quy định cụ thể về tiêu chuẩn trở thành thành viên hội đồng

trọng tài. Trọng tài viên không những phải hiểu biết pháp luật mà còn cần

phải có chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết sâu sắc về các vấn đề lao động xã

hội trong nền kinh tế thị trường. Nhưng hiện nay trình độ chuyên môn của

một số trọng tài viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy Nhà nước cần

đưa ra tiêu chuẩn rõ ràng đối với trọng tài viên như trình độ chuyên môn, kinh

nghiệm giải quyết tranh chấp lao động, phẩm chất đạo đức … Điều này sẽ

giúp cho việc nâng cao hơn chất lượng của các trọng tài viên tham gia giải

quyết các tranh chấp lao động và từ đó nâng cao được hiệu quả giải quyết các

tranh chấp lao động nói chung và các tranh chấp lao động tập thể nói riêng.

 Về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể tại hội

đồng trọng tài lao động: Cần có quy định rút ngắn về thời gian giải quyết các

tranh chấp lao động tập thể tại cơ quan trọng tài lao động. Nên quy định một

khoảng thời gian nhất định để các bên tự nguyện thi hành quyết định của hội

đồng trọng tài lao động. Sau khi hết khoảng thời gian đó thì trao cho tòa được

quyền công nhận và cưỡng chế thi hành quyết định của hội đồng trọng tài, để

đảm bảo quyết định công nhận hòa giải thành của hội đồng trọng tài được

thực hiện. Điều này sẽ đảm bảo được hiệu quả của việc giải quyết các tranh

chấp lao động tập thể tại cơ quan trọng tài lao động một cách triệt để, thực tế

từ trước đây pháp luật vẫn còn thiếu các quy định về thời hạn thực thi các

quyết định khiến các bên thiếu căn cứ để yêu cầu bên kia thực hiện các nghĩa

vụ của mình căn cứ vào kết quả giải quyết trành chấp của cơ quan trọng tài.

 Về cơ chế thi hành các biên bản hòa giải thành của hòa giải viên

và các quyết định của hội đồng trọng tài: Cần xem xét, bổ sung những quy

- 95 -

định về cơ chế bảo đảm việc thực hiện các biên bản hòa giải thành của hòa

giải viên cũng như biên bản hòa giải thành của hội đồng trọng tài lao động.

Trong trường hợp này cần quy định một cơ chế cưỡng chế thi hành khi đến

thời hạn mà các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nội

dung mà các bên đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành trước đó. Cơ

quan được chỉ định thực hiện việc cưỡng chế là cơ quan thi hành án cấp

huyện nơi có trụ sở của doanh nghiệp có tranh chấp. Cần có quy định về thầm

quyền của hội đồng trọng tài trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao

động tập thể theo đó hội đồng trọng tài có quyền đưa ra phán quyết để giải

quyết sự việc, phán quyết này có hiệu lực và thời hạn thi hành nhất định. Phán

quyết này cũng có tính cưỡng chế khi các bên không tự nguyện thực hiện

hoặc thực hiện không đầy đủ trong thời hạn quy định. Điều này sẽ nâng cao

vai trò của hội đồng trọng tài lao động so với quy định hiện tại vì hiện này

theo quy định thì khi giải quyết tranh chấp lao động hội đồng trọng tài cũng

chỉ đưa ra phương án hòa giải nếu các bên chấp thuận thì lập biên bản hòa

giải thành còn nếu không thì lập biên bản hòa giải không thành, điều đó vô

hình chung biến cơ quan trọng tài lao động thành một cơ quan hòa giải tranh

chấp đơn thuần.

3.2.2. Về tổ chức thực hiện

- Thứ nhất, cần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như

năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia giải quyết tranh chấp lao động tập thể

đặc biệt là đội ngũ hòa giải viên và trọng tài viên của hội đồng trọng tài lao

động.

Như đã phân tích ở trên, các tranh chấp lao động tập thể có tính chất

phức tạp và khó giải quyết hơn nhiều so với các tranh chấp lao động cá nhân.

Việc giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả, đúng pháp

luật giúp bảo về được quyền và lợi ích của mỗi bên trong quan hệ lao động

- 96 -

trái lại thì sẽ ảnh hưởng xấu đến ý thức của mỗi bên và từ đó dẫn đến các hệ

lụy đi kèm như việc đình công, ngừng việc tập thể ảnh hưởng đến an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Vì thế ngoài việc hoàn thiện

các quy định về tiêu chuẩn đối với hòa giải viên, trọng tài viên của hội đồng

trọng tài lao động thì cần phải thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo,

các buổi đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn, kinh nghiệm giải quyết các

tranh chấp lao động cho đội ngũ này là rất cần thiết nhất là trong tình hình các

quan hệ lao động ngày càng mở rộng và có tính chất phức tạp như hiện nay.

- Thứ hai, cần đổi mới và nâng cao năng lực đại diện tập thể lao động

của tổ chức Công đoàn.

Tổ chức công đoàn đã được hình thành và từng bước được hoàn thiện.

Không chỉ có chức năng đại diện cho quyền và lợi ích của NLĐ, tổ chức công

đoàn còn có chức năng giáo dục, tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho các

bên trong quan hệ lao động, tham gia cũng với các bên để đàm phán về các

vấn đề liên quan trong quan hệ lao động, là một nhân tố quan trọng đảm bảo

tính ổn định trong quan hệ lao động. Song chính những vai trò đó cũng đặt ra

một thách thức rất lớn cho thực tiễn hoạt động hiện nay của hệ thống Công

đoàn, bởi nếu như chất lượng tổ chức cũng như năng lực của các thành viên tổ

chức công đoàn không tốt thì không thể đem lại hiệu quả trong việc thực hiện

các chức năng như trên và khiến cho các tranh chấp lao động tập thể hình

thành đặc biệt là việc giải quyết không tốt vấn đề liên quan đến đình công thì

còn dẫn đến việc đình công ngày càng tăng gây bất ổn về tình hình chính trị,

trật tự an toàn xã hội. Vì vậy ý kiến cá nhân tôi cho rằng, trong quan hệ lao

động ở cấp doanh nghiệp, cần tiếp tục khẳng định vai trò đại diện NLĐ của

công đoàn cơ sở trong việc ký kết thỏa ước lao động tập thể, các nội quy, quy

chế đơn vị và trong vai trò lãnh đạo các vụ đình công. Đồng thời, công đoàn

cấp trên đóng vai trò hỗ trợ cho tập thể NLĐ trong giải quyết tranh chấp lao

- 97 -

động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Hướng đi này nhằm thúc

đẩy nhu cầu thành lập tổ chức công đoàn của NLĐ tại các doanh nghiệp chưa

có tổ chức này để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình. Bên cạnh đó, về lâu dài

cần tăng cường và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công đoàn, đặc biệt

là các cán bộ công đoàn chuyên trách; Công đoàn cấp trên cơ sở cần khẩn

trương vận động thành lập tổ chức công đoàn cấp cơ sở để bảo vệ quyền lợi

cho NLĐ trong doanh nghiệp.

- Thứ ba, cần kiện toàn và phát huy vai trò của hệ thống thiết chế về

quan hệ lao động bao gồm thiết chế tài phán (tòa án, trọng tài lao động),

thiết chế tham vấn (tư vấn và hòa giải) và cơ chế phối hợp ba bên với vai trò

của nhà nước.

BLLĐ năm 2012 tiếp tục quy định tranh chấp lao động tập thể được

giải quyết bằng các thiết chế như hòa giải, trọng tài, Toà án. Tuy nhiên, các

thiết chế về quan hệ lao động đang có hiện nay hoạt động rất hạn chế, thiết

chế hòa giải và trung gian, thiết chế trọng tài chưa được xem trọng, trong khi

đó các hoạt động hỗ trợ, trung gian hòa giải phần lớn lại đang được thực hiện

bởi Tổ công tác liên ngành khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể không theo

trình tự, thủ tục pháp luật. Do vậy, khi BLLĐ năm 2012 bắt đầu có hiệu lực

nếu không tập trung để xây dựng và tạo điều kiện cho các thiết chế vận hành

thì sẽ hạn chế tính khả thi của các quy định này. Bên cạnh đó, cơ chế ba bên

cũng là một thiết chế cần được thúc đẩy hơn nữa trong thời gian tới.

- Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các quy

định của BLLĐ năm 2012 và các quy định có liên quan đến cả NLĐ và

NSDLĐ nhằm nâng cao hiểu biết và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của

các bên.

Như đã phân tích ở trên, một phần nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp

lao động tập thể là do hiểu biết pháp luật của các bên tham gia còn hạn chế

- 98 -

(nhất là đối với NLĐ) vì thế dẫn đến mỗi bên chưa ý thức hết được phạm vi

quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động. Điều này khiến cho mỗi bên đưa

ra các yêu cầu vượt ra ngoài phạm vi quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy

định từ đó dẫn đến các vụ tranh chấp lao động nói chung cũng như tranh chấp

lao động tập thể nói riêng tăng theo sự phát triển của nền công nghiệp hóa. Vì

thế cùng với quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết

tranh chấp lao động tập thể thì cần thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các

quy định của pháp luật một cách sâu rộng đến với NLĐ và NSDLĐ. Điều này

không chỉ giúp hạn chế các vụ tranh chấp lao động tập thể tại các doanh

nghiệp, hạn chế được các vụ đình công, ngừng việc tập thể của NLĐ và ổn

định tình hình sản xuất kinh doanh tại đơn vị.

- Thứ năm, cần thúc đẩy quá trình thương lượng tập thể và tăng cường

đối thoại giữa các bên trong quan hệ lao động.

Thực tế những vướng mắc trong quan hệ lao động, đặc biệt là sự gia

tăng của các vụ tranh chấp lao động tập thể và đặc biệt là dẫn đến các vụ

ngừng việc tập thể, đòi hỏi phải có những quy định nhằm thúc đẩy mạnh mẽ

hơn cơ chế đối thoại, thương lượng tập thể, xây dựng thỏa ước lao động tập

thể thực chất giữa NSDLĐ và đại diện NLĐ (tổ chức công đoàn). Cần có cơ

chế để doanh nghiệp thành lập công đoàn đúng quy định của pháp luật vì theo

tình trạng hiện nay nhiều doanh nghiệp có đông công nhân lao động, hoạt

động thời gian dài, công đoàn cấp trên đã vận động nhiều nhưng vẫn không

hợp tác thành lập tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa

doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn nào cũng vậy, nhiều doanh nghiệp

chưa có tổ chức công đoàn song họ có cơ chế để tạo điều kiện cho NLĐ chưa

tham gia công đoàn được giải quyết những vấn đề thương lượng tập thể rất

rộng. Hiện nay BLLĐ năm 2012 đã bổ sung thêm mục riêng về đối thoại tại

nơi làm việc, thương lượng tập thể, quy định thêm cơ chế để thúc đẩy quan hệ

- 99 -

lao động tiến bộ hơn, sao cho khi có mâu thuẫn, bất đồng xảy ra thì NLĐ lựa

chọn cách thức đối thoại, thương lượng để giải quyết, hạn chế các vụ tranh

chấp tập thể kéo dài, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và có thể kéo theo các

hệ lụy về sự bất ổn chính trị, an ninh trật tự địa bàn.

3.3.Giải pháp phòng ngừa và hạn chế tranh chấp lao động tập thể tại các

doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã

Bến Cát

3.3.1.Giải pháp tình thế trước mắt:

3.3.1.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.

- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật; In ấn các tài liệu cần

thiết tuyên truyền, hướng dẫn người sử dụng lao động và người lao động đúng

quy định.

- Thông qua Hiệp hội, chi hội các quốc gia đầu tư, khách hàng gia công

để tuyên truyền và yêu cầu người sử dụng lao động các doanh nghiệp tuân thủ

pháp luật.

- Các ngành chức năng phối hợp tổ chức Hội nghị người lao động và tổ

chức đối thoại làm cho đôi bên hiểu biết và chia sẽ những vấn đề liên quan

đến quan hệ lao động, đời sống vật chất và tinh thần của CNLĐ.

- Kịp thời tuyên dương điển hình doanh nghiệp tiêu biểu chấp hành

pháp luật lao động, pháp luật khác với việc đưa tin trên các phương tiện thông

tin đại chúng. Thông báo cho Hiệp hội, chi hội các quốc gia đầu tư, khách

hàng về số doanh nghiệp đã nhiều lần nhắc nhở, xử phạt nhưng không khắc

phục…

3.3.1.2. Đối với người sử dụng lao động:

Quan tâm hiệu quả sản xuất kinh doanh song hành với việc chăm lo đời

sống của CNLĐ, lắng nghe ý kiến của công đoàn đại diện của người lao động,

- 100 -

duy trì hình thức đối thoại từng quý, tháng, tạo điều kiện cho công đoàn hoạt

động, tổ chức hòa giải và quan tâm giải quyết các kiến nghị của người lao

động thực hiện việc thỏa thuận về tiền lương và điều chỉnh tăng lương các

khoản phụ, trợ cấp cho người lao động, cam kết với với các cấp các ngành và

người lao động. Ngoài ra, người sử dụng lao động phải thực hiện văn hóa ứng

xử giữa quản lý đối với người lao động, chấn chỉnh hệ thống nhân viên quản

lý và phiên dịch… Các Ban chấp hành CĐCS tiếp tục tích cực, chủ động đề

xuất người sử dụng lao động định kỳ hàng tháng, quí và đột xuất khi cần thiết,

tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người sử dụng lao động với ban chấp hành

CĐCS và người lao động. Góp phần không nhỏ trong việc phòng ngừa, hạn

chế đến mức thấp nhất các vụ tranh chấp lao động cá nhân, tập thể có thể xảy

ra trong doanh nghiệp.

3.3.1.3. Đối với tổ chức công đoàn:

- Biên soạn các tài liệu tập huấn, bồi dưỡng Cán bộ công đoàn phù hợp,

xây dựng nội dung kỹ năng xử lý tình huống và phương thức tập huấn tích

cực.

- Tập trung tuyên truyền vận động CNLĐ vào tổ chức và thành lập

công đoàn cơ sở các doanh nghiệp đủ điều kiện; kịp thời củng cố ban chấp

hành CĐCS khuyết, yếu. Chủ động tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng

nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động công đoàn, cho cán bộ công đoàn,

tổ công đoàn; để nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở, tổ công

đoàn, công đoàn bộ phận để thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp chính đáng của CNLĐ;

- Kịp thời nắm bắt những thắc mắc, kiến nghị của CNLĐ về chế độ,

chính sách… Rà soát lập danh sách những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm

về pháp luật lao động để yêu cầu ngành chức năng quản lý nhà nước thanh,

kiểm tra, xử lý.

- 101 -

- Nâng cao vai trò trách nhiệm của công đoàn cấp trên cơ sở; thực hiện

tốt việc chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ cho CĐCS hoạt động, lấy phương thức

sát cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động, lấy CNLĐ làm đối tượng; hướng

dẫn cho CĐCS tiến hành việc rà soát các quy định của pháp luật lao động về

quyền, nghĩa vụ và các chính sách có liên quan đến lợi ích hợp pháp chính

đáng của CNLĐ để chủ động tham gia với chủ doanh nghiệp thực hiện điều

chỉnh sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế như: Ký kết HĐLĐ;

tham gia BHXH, BHYT; xây dựng và đăng ký thang, bảng lương, quy chế trả

lương, thưởng theo đúng quy định, xây dựng thỏa ước lao động tập thể; cách

thức hoạt động của Hội đồng hoà giải lao động cơ sở và Hội đồng bảo hộ lao

động…có hiệu quả.

- Xây dựng quy chế phối hợp và làm việc giữa công đoàn với người sử

dụng lao động, có chương trình làm việc được ban giám đốc đồng

thuận…hoạt động CĐCS thật sự được mọi người quan tâm; công đoàn thực

hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

người lao động; tham gia quản lý; tuyên truyền, giáo dục CNLĐ tuân thủ nội

quy, quy định của doanh nghiệp, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Thực hiện tốt hình thức đối thoại, đàm phán, thương lượng với người sử dụng

lao động giải quyết những kiến nghị của CNLĐ… quan hệ lao động trong

doanh nghiệp luôn hài hòa và tiến bộ. Đó là cơ sở góp phần cho doanh nghiệp

sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển bền vững. Qua đó người sử dụng

lao động tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn hoạt động, công

đoàn cơ sở là không thể thiếu đối với người sử dụng lao động và người lao

động.

- 102 -

3.3.2.Giải pháp chiến lược lâu dài:

3.3.2.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.

- Ban hành luật, chính sách cho phù hợp luôn gắn liền thực tiễn không

nên dự vào dự án quốc tế để áp đặt vào đặc điểm tình hình Việt Nam.

- Cần có chính sách, cơ chế đầu tư xây dựng nhà ở, nhà trẻ, vui chơi,

giải trí, hoạt động văn hóa văn nghệ- thể dục thể thao, đầu tư xây dựng cơ sở

vật chất phục vục cho CNLĐ vui chơi giải trí, nâng cao trình độ kiến thức cho

người lao động thông qua các câu lạc bộ, nhà văn hóa...

- Tăng cường công tác kiểm tra nắm chắc tình hình thực hiện pháp luật

lao động ở doanh nghiệp để kịp thời hướng dẫn, đôn đốc yêu cầu người sử

dụng lao động khắc phục các sai phạm để thực hiện đầy đủ các quy định và

chế độ chính sách cho người lao động, xử lý nghiêm, xử phạt đúng mức để

răn đe các doanh nghiệp.

- Xây dựng các quy trình, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu

nại và trách nhiệm của người sử dụng lao động giải pháp, xây dựng quy chế

người sử dụng lao động cam kết tuân thủ pháp luật.

- Tăng cường quản lý, giám sát về giá cả hàng tiêu dùng, sinh hoạt,

điện, nước, suất ăn công nghiệp về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm…

3.3.2.2. Đối với người sử dụng lao động:

Doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và có các chế độ chính sách cho người

lao động cao hơn pháp luật quy định

3.3.2.3. Đối với tổ chức công đoàn:

Xây dựng tổ chức công đoàn thật sự vững mạnh, phát huy vai trò của

công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân: Chăm lo bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của công nhân lao động để gắn người lao động với

tổ chức công đoàn, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp

- 103 -

phần thức đẩy phát triển kinh tế - xã hội; Thường xuyên nắm bắt tâm tư,

nguyện vọng của công nhân, tăng cường, giáo dục trong công nhân, hạn chế

xảy ra đình công trái pháp luật. Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng,

giải quyết tốt các vụ tranh chấp lao động tập thể.

Đối với công đoàn cơ sở cần thiết lập các kênh tiếp nhận và xử lý thông

tin hiệu quả, giám sát và phản ánh với công đoàn cấp trên, tích cực tổ chức và

phối hợp tổ chức đối thoại, thương lượng tập thể. Cán bộ công đoàn nên

thường xuyên tiếp xúc với NLĐ để kịp nắm bắt, hướng NLĐ thực hiện quyền

của mình đúng pháp luật. Đặc biệt, công đoàn cơ sở cần tăng giám sát việc

thực hiện chế độ, chính sách cho NLĐ, nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm thì lập

tức phản ánh tới công đoàn cấp trên để được hỗ trợ trực tiếp giải quyết.

* Kiến nghị:

- Cơ quan quản lý nhà nước cần tiến hành đánh giá hoạt động doanh

nghiệp về hiệu quả kinh doanh (quan hệ chí phí nhân công / lợi nhuận) trong

doanh nghiệp ngoài nhà nước. Theo dõi tình hình hoạt động các doanh

nghiệp, nhất là tính cân đối tài chính doanh nghiệp để tránh tình trạng chiếm

dụng tiền BHXH, nợ lương và các chế độ người lao động…

- Cần tăng cường lực lượng thanh tra lao động từ cấp huyện thị, Ban

quản lý Khu công nghiệp và cấp tỉnh cả số lượng và chất lượng để kiểm tra xử

lý hành vi vi phạm pháp luật lao động, luật công đoàn và pháp luật giá…

- Tỉnh nên có cơ chế phân chỉ tiêu cán bộ linh hoạt đáp ứng yêu cầu

phát triển với duy trì hoạt động các tổ chức có hiệu quả. Như: đối tượng quản

lý tăng thì tăng cán bộ chuyên trách theo tỷ lệ và ngược lại, thực tế quá tải nên

các tổ chức không thể hoàn thành tốt khối lượng công việc được giao.

- Kiến nghị chính phủ cho phép địa phương, chủ đầu tư cơ sở hạ tầng

khu công nghiệp dành một khoản ngân sách để đầu tư xây dựng nhà ở, nhà

trẻ, mẫu giáo; khu vui chơi giải trí… các dịch vụ khu nhà ở công nhân.

- 104 -

- Xây dựng kế hoạch định kỳ thời gian làm việc với các chi hội, hiệp

hội đầu tư các doanh nghiệp, các tổ chức giám sát của đối tác hợp đồng các

doanh nghiệp gia công để phản ánh tình hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh

có hành vi vi phạm pháp luật…

- Sửa đổi bổ sung bộ luật lao động phải đi vào thực tiễn hơn, trong đó:

+ Chương XIII- hoạt động của tổ chức công đoàn cần cụ thể hơn và cơ

chế bảo vệ cán bộ công đoàn thực sự hữu hiệu.

Quy định khi thành lập doanh nghiệp, các doanh nghiệp có đủ điều kiện

(từ 5 lao động trở lên) phải trích kinh phí hoạt động công đoàn, phải tạo điều

kiện cho tổ chức công đoàn thành lập công đoàn cơ sở. Nếu doanh nghiệp sau

6 tháng hoạt động mà không thành lập công đoàn, không trích kinh phí công

đoàn và không tạo điều kiện cho công đoàn hoạt động thì Luật có chế tài đủ

sức răn đe.

+ Chương XIV Bộ luật Lao động theo hướng đơn giản, rút ngắn trình

tự thủ tục giải quyết đình công. Cần rút ngắn trình tự, thủ tục giải quyết vụ án

lao động của Tòa án. Xây dựng riêng một cơ quan giải quyết tranh chấp lao

động phù hợp với thực tiễn hiện nay bên cạnh Tòa án nhân dân để đảm bảo

tính kịp thời của việc giải quyết tranh chấp lao động. Phát huy chức năng,

hoạt động của Hội đồng Trọng tài lao động cấp tỉnh về thẩm quyền trong việc

giải quyết tranh chấp lao động, quyết định của Trọng tài lao động có hiệu lực

tương đương với bản án sơ thẩm của Toà án.

+ Quy định về điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm của Chính phủ nên

căn cứ vào tăng trưởng GDP, các nhóm chi tiêu tối thiểu, chỉ số giá tiêu dùng

thiết yếu, để đảm bảo cơ bản nhu cầu đời sống, có tích lũy và để tái tạo sức

lao động, đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao

động.

- 105 -

Tiểu kết Chƣơng 3

Qua những phân tích ở trên, có thể rút ra một số kết luận đối với nội

dung thuộc chương này như sau:

- Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp còn bộc lộ nhiều hạn chế

cần tiếp tục được sửa đổi bổ sung để đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả giải

quyết tranh chấp.

- Đi kèm theo đó là phải nâng cao chất lượng của đội ngũ các cán bộ

giải quyết tranh chấp như hòa giải viên lao động, trọng tài viên hay đội ngũ

thẩm phán. Đồng thời cũng cần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công

đoàn tại các doanh nghiệp để nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong

việc đại diện cho tập thể người lao động.

- Tăng cường các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm ngăn ngừa tình

trạng tranh chấp lao động tập thể xảy ra.

- 106 -

KẾT LUẬN

Nước ta đã gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới WTO, cũng có

nghĩa là đã bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Lúc này, tiến hành và

đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển

kinh tế không chỉ vì mục tiêu phát triển nữa mà còn là vấn đề sống còn với

quốc gia, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa và tái rơi vào nhóm các

nước nghèo, tiến tới đích cuối cùng là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã

hội. Cũng trong quá trình này, tất yếu xây dựng mối quan hệ lao động hài

hòa, ổn định và tiến bộ giữa người sử dụng lao động và người lao động để

ổn định và phát triển nền kinh tế.

Khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát mới bắt đầu đẩy mạnh

phát triển mạnh sản xuất theo hướng công nghiệp, hiện đại từ hơn một thập

niên trở lại đây, cùng với quá trình này là sự tăng lên rõ rệt của đội ngũ công

nhân và nhà đầu tư. Vấn đề là phải có biện pháp, chủ trương để hạn chế tình

trạng tranh chấp lao động tập thể và đình công, tạo môi trường làm việc ổn

định, tiến bộ để ngày càng thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư và người lao

động góp phần tăng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu, phương hướng phát triển kinh

tế - xã hội xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh”.

- 107 -

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Xuân Anh (2004), “Pháp luật về đình công; nhận thức và hoàn thiện”

Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (9), tr.12.

2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Chỉ thị 22-CT/TW ngày 05/6/2008

về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao

động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.

3. Phạm Công Bảy (2006), Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ

luật Tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2007), Thông tư 23/2007/TT –

BLĐTBXH ngày 23/10/2007 Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của

Hội đồng trọng tài lao động.

5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2008), Thông tư số 06/2008/TT-

BLĐTBXH ngày 07/5/2008 Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị

định số 04/2005/NĐ-CP ngày 11/01/2005 của Chính phủ về quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về khiếu

nại, tố cáo về lao động.

6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2013), Thông tư số 08/2013/TT-

BLĐTBXH ngày 10/6/2013 hướng dẫn Nghị định số 46/2013/NĐ-CP

ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Bộ luật lao động về tranh chấp lao động, Hà Nội.

7. Chính phủ (1992), Nghị định 18/CP ngày 26/12 ban hành quy định về

thỏa ước lao động tập thể, Hà Nội.

8. Chính phủ (2005), Nghị định số 04/2005/NĐ – CP ngày 11/1/2005

Hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về khiếu nại, tố

cáo về lao động.

- 108 -

9. Chính phủ (2013), Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 quy

định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về tranh chấp lao

động.

10. Chính phủ (2013), Nghị định 95/2013/NĐ – CP ngày 22/8/2013 về quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã

hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng.

11. Chính phủ (2015), Nghị định 88/2015/NĐ – CP ngày 07/10/2015 sửa đổi

bổ sung Nghị định 95/2013/NĐ – CP .

12. Công đoàn các khu công nghiệp Bến Cát [2014, 2015, 2016, 2017,

2018]: Báo cáo tổng kết năm của Ban chấp hành Công đoàn các khu

công nghiệp Bến Cát, Báo cáo tranh chấp lao động tập thể.

13. Nguyễn Việt Cường (2007), “Tìm hiểu chương XIV Bộ luật lao động”,

Tòa án nhân dân, (10), tr.10.

14. Trần Hoàng Hải & Đinh Thị Chiến (2010), “Hoàn thiện pháp luật thủ

tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể”, Tạp chí luật học, (10), tr.23.

15. Đỗ Hoàng Giang (2011), “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp lao động

tập thể về lợi ích” .

16. Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương (2012), Kế hoạch số 18/KH về xây

dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, phòng ngừa tranh chấp

lao động tập thể, đình công tự phát tại doanh nghiệp.

17. Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương [2014, 2015, 2016, 2017, 2018]:

Báo cáo đình công của Ban chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh Bình

Dương.

18. Lưu Bình Nhưỡng (2007), "Luật lao động Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới", Tạp chí luật học, (1), tr.43.

- 109 -

19. Lưu Bình Nhưỡng (2009), "Thực tiễn áp dụng Bộ luật lao động và

phương hướng hoàn thiện pháp luật lao động", Nghiên cứu lập pháp,

20. Phủ Thủ tướng (1958), Thông tư số 436/TTG ngày 13/9 về trách nhiệm,

(5), tr. 45.

quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết

các loại khiếu nại, tố cáo của nhân dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Kim Phụng (1996), "Tranh chấp lao động và giải quyết tranh

chấp lao động" Tạp chí luật học, (3), tr.32.

22. Quốc hội (1994), Bộ luật lao động, Hà Nội.

23. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2006), Bộ luật lao động (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

25. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

26. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.

27. Nguyễn Xuân Thu (2007), “Những điểm mới về tranh chấp lao động và

giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Bộ luật lao động năm 2006”, Tạp chí luật học, (7), tr.60.

28. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 1129/QĐ-TTg ngày 18/8/2008,

Quyết định về việc ban hành kế hoạch triển khai Chỉ thị 22-CT/TW ngày

05/6/2008 của Ban Bí thư về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc

xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh

nghiệp.

29. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch 1233/KH-TLĐ

ngày 17/7/2008 về thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW ngày 05/6/2008 của Ban

Bí thư về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ

lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp;

- 110 -

30. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2018), Báo cáo của Ban Chấp hành

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XI tại Đại hội Công đoàn Việt

Nam lần thứ XII, Hà Nội.

31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và

pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Lao động Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật

Lao động Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

35. Từ điển tiếng Việt (2001), Nxb, Đà Nẵng.

36. Ủy Ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2015), Quyết định số 1511/QĐ –

UBND ngày 02/7/2015 “Về việc thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tranh

chấp lao động tập thể và đình công không theo trình tự, thủ tục do pháp

luật quy định trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương”.

37. Ủy Ban nhân dân thị xã Bến Cát (2018), Quyết định số 1635/QĐ –

UBND ngày 30/7/2018 “Về việc kiện toàn Tổ công tác giải quyết tranh

chấp lao động tập thể và đình công không đúng quy định pháp luật trên

địa bàn thị xã Bến Cát”

38. Bùi Danh Việt (2014), Giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo pháp

luật lao động Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Trang web:

39. Website: Minh Châu (2018), “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

lao động cá nhân và tập thể của tổ chức công đoàn”

http://dangcongsan.vn/preview/newid/500446.html

- 111 -

40. Website: Quang Chính (2013), “Công bố của Bộ LĐTBXH: Chưa phản

ánh đúng thực tế người lao động”,

http://laodong.com.vn/cong-doan/cong-bo-cua-bo-ldtbxh-chua-phan-

anh-dung-thuc-te-nguoi-lao-dong-100818.bld

41. Website: Thủy Trinh (2015), “Nhiều giải pháp hạn chế tranh chấp lao

động tập thể và đình công”

http://baobinhduong.vn/nhieu-giai-phap-han-che-tranh-chap-lao-dong-

tap-the-va-dinh-cong-a114716.html

42. Vũ Thủy (2014), “Trọng tài lao động: 6 năm chưa xử vụ nào”,

http://tuoitre.vn/tin/nhip-song-tre/co-hoi-viec-lam/20140629/trong-tai-

lao-dong-6-nam-chua-xu-vu-nao/615131.html

43. Website: Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động (2018), “Một số

giải pháp hạn chế tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam”

http://quanhelaodong.gov.vn/mot-so-giai-phap-han-che-tranh-chap-lao-

dong-va-dinh-cong-o-viet-nam/

- 112 -