VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC ĐÔ
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M INH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC ĐÔ
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M INH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ
thực tiễn Tòa án quận 7, thành phố Hồ Chí Minh” là công trình khoa học do
bản thân tôi tự thực hiện với sự hướng dẫn của GS.TS. Võ Khánh Vinh. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học
của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Đô
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
TÙ CÓ THỜI HẠN ......................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn ........................ 7
1.2. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù có thời hạn .................................... 12
1.3. Nội dung áp dụng hình phạt tù có thời hạn ........................................ 15
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.. 32
2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình thụ lý, xét xử hình sự ở Tòa án
nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh ................................................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................... 35
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ............................................................... 56
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn ............. 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn............ 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL : Áp dụng pháp luật
ADHP : Áp dụng hình phạt
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
TANDCC : Tòa án nhân dân cấp cao
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý của Tòa án nhân dân quận 7 ... 33
Bảng 2.2. Số liệu kết quả xét xử của Tòa án nhân dân quận 7 ....................... 34
Bảng 2.3. Số liệu các tội tội phạm thường thực hiện của Tòa án quận 7 ....... 34
Bảng 2.4. Số liệu các hình phạt chính được áp dụng của Tòa án ................... 36
Bảng 2.5. Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án ..................... 37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Hình sự hiện hành (Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm là văn bản quan trọng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
Áp dụng hình phạt tù góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất
nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích của
Nhà nước, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo môi trường xã hội an toàn, hiệu quả và lành mạnh cho tất cả mọi
công dân, đồng thời đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam
chúng ta trong giai đoạn mới.
Để đảm bảo sự ổn định và phát triển của đất nước, ngoài việc sử dụng
các biện pháp như: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học, công
nghệ... Nhà nước còn phải sử dụng đến những biện pháp mà cụ thể là sử dụng
các hình phạt, đặc biệt đó là hình phạt tù để trừng trị, răn đe những người có
hành vi phạm tội qua đó giáo dục người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật.
Hình phạt tù có thời hạn là một trong số bảy hình phạt chính theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
(Điều 32 các hình phạt đối với người phạm tội)... Hình phạt tù có thời hạn
nhằm trừng trị người phạm tội, cách ly họ ra khỏi đời sống cộng đồng trong
một khoảng thời gian nhất định. Đây là một hình phạt nghiêm khắc đối với
người phải chấp hành hình phạt tù… trong một thời gian nhất định.
Do đó để đạt được mục đích trừng trị người phạm tội và giáo dục ý
thức sống và làm việc theo pháp luật đối với người có hành vi phạm tội là rất
quan trọng.
1
Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh có trụ sở tại: Số 03
đường Tân Phú, phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Tòa án nhân dân quận 7 nằm ở khu nam thành phố Hồ Chí Minh trực
thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, theo Quyết định số:
218/QĐ-TCCB ngày 27/02/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh phân bổ biên chế gồm 40 người trong đó 03 Thẩm phán trung
cấp; 19 Thẩm phán sơ cấp; 15 thư ký và chức danh khác 03 người.
Được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ thường xuyên của Quận ủy, Ủy ban
nhân dân quận 7 và lãnh đạo TAND các cấp, sự tích cực phối hợp trong công
tác của cơ quan khối nội chính và các ban ngành hữu quan đã quan tâm và tạo
mọi điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các phong trào của đơn vị.
Thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng theo nội dung Nghị quyết
Trung ương 4, Nghị quyết Trung ương 6 Khóa 12 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 05-Chỉ thị Trung ương ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Các mặt công tác của Tòa án nhân dân quận
7 đã đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn với mục tiêu là phấn đấu
hoàn thành các chỉ tiêu của Tòa án nhân dân cấp trên về công tác xét xử theo
Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về: “Triển khai, tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018 của các Tòa án”.
Năm 2018, Tòa án nhân dân quận 7 phấn đấu hoàn thành xuất sắc các
chỉ tiêu đã đề ra và đạt danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Cờ thi đua
Tòa án nhân dân” với mục tiêu xây dựng đơn vị “Vững mạnh toàn diện”.
Thực hiện có hiệu quả các mục tiêu thi đua, chế độ làm việc, quy chế dân chủ
cơ sở, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cơ quan Tòa án nhân dân quận 7
đạt tiêu chuẩn về: “An ninh trật tự”.
Án hình sự chủ yếu tập trung vào các tội: Trộm cắp tài sản; mua bán
2
trái phép chất ma túy; cướp giật tài sản…
Ngoài kết quả tích cực đã đạt được của tòa án nhân dân quận 7, thì việc
áp dụng hình phạt tù có thời hạn vẫn còn những hạn chế như: Không thống
nhất cao khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; một
số ít trường hợp áp dụng chưa đúng các điểm, khoản, Điều của Bộ luật hình
sự; áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa phù hợp dẫn đến xử quá
nặng, quá nhẹ hoặc cho hưởng án treo.
Từ thực tế đó, tác giả muốn góp một phần làm phong phú về lý luận áp
dụng hình phạt tù, góp phần nâng cao và hoàn thiện công tác xét xử theo quy
định của pháp luật về áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực
tiễn Tòa án quận 7, thành phố Hồ Chí Minh" để viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ADHP tù nói chung, ADHP tù có thời hạn nói riêng trong các vụ án
hình sự luôn là đề tài của nhiều tác giả. Trong đó có nhiều công trình nghiên
cứu được công bố liên quan đến đề tài áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo
luật hình sự Việt Nam, cụ thể có một số công trình nghiên cứu như sau: Luận
án tiến sĩ của Chu Thị Thu Trang năm 2009: có nội dung “Hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt
Nam”; Luận văn thạc sĩ của Võ Hồng Nam năm 2014: có nội dung “Hình
phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành
phố Hồ Chí Minh”; Luận văn thạc sĩ của Hoàng Văn Huyền năm 2016: có nội
dung“Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”; Luận văn thạc sĩ của Đinh Tấn Long năm 2017: có
nội dung“Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”...Các công trình nghiên cứu khoa học
của các tác giả nêu trên là tài liệu bổ ích, gợi mở cho tác giả những ý tưởng
3
phong phú và bổ ích để viết luận văn... Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có
một công trình nghiên cứu về hoạt động ADHP tù có thời hạn của một cơ
quan TAND cụ thể.
Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn
theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ
Chí Minh sẽ góp phần mang lại những cách nhìn mới về lý luận và thực tiễn
của hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề về Khái niệm, đặc điểm
áp dụng hình phạt tù có thời hạn; thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn
tại Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm
2018, Luận văn đã đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù có thời
hạn tại Tòa án quận 7.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả đã đặt ra tình huống và
giải quyết cụ thể như sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm về áp dụng
hình phạt tù có thời hạn.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án
nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018, tìm ra
những hạn chế và nguyên nhân để khắc phục…
- Đề xuất một số giải pháp bảo đảm ADHP tù có thời hạn, đáp ứng
được nhu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giải quyết những vấn đề lý luận
4
về: Pháp luật và thực tiễn, những tích cực và hạn chế, đề xuất giải pháp và
kiến nghị liên quan trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong
công tác xét xử của Tòa án trên cơ sở thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân quận 7 trong thời gian
05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các nội dung khoa học phương pháp
luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Triết học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự:
hình phạt, quyết định hình phạt về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong
các Nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, về đấu tranh
phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu Luận văn tác giả sử dụng các phương pháp
như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử cụ thể… để làm rõ đối
tượng nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học mà tác giả đã đề cập đến
vấn đề như: áp dụng hình phạt tù có thời hạn thông qua thực tiễn xét xử tại
5
Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, góp phần làm sáng tỏ thêm
cơ sở lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt
Nam trong việc xét xử các vụ án hình sự, nâng cao nhận thức của những
người thực hiện công lý trong công tác xét xử của Tòa án.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu có thể được Tòa án các cấp tham
khảo để ADHP tù có thời hạn trong công tác xét xử và góp phần nâng cao
hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm có: Phần mở đầu, phần kết luận, các danh mục tài liệu tham khảo,
và được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân
dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù
có thời hạn.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do
Tòa án quyết định nhằm tước bỏ, hạn chế quyền và lợi ích của người phạm
tội, pháp nhân thương mại phạm tội.
Hình phạt có mục đích nhằm trừng trị người phạm tội, pháp nhân
thương mại phạm tội và giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật,… phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm. (Điều 31 Bộ luật hình sự năm 2015)
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam. Các hình phạt đối với người phạm tội
gồm hình phạt chính - hình phạt bổ sung. (Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; Hình
phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định…, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản…Đối với
người phạm tội chỉ áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một
hoặc một số hình phạt bổ sung.
Hình phạt tù trong đó gồm hình phạt tù có thời hạn là một trong số bảy
hình phạt chính theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015.
“Tù có thời hạn là… phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng và mức
tối đa là hai mươi năm… cứ một ngày tạm giữ, tạm giam được tính bằng một
ngày tù” Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: [23]. Như vậy, hình phạt tù có
thời hạn là việc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng trong một
thời gian nhất định và tước bỏ quyền tự do của họ. Do đó, để đạt được mục
đích trừng trị người phạm tội, giáo dục người phạm tội tuân theo pháp luật và
7
tôn trọng pháp luật là rất quan trọng.
Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với trường hợp một người phạm
nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội đã tuyên là tù có thời
hạn và tổng hợp các hình phạt đó cộng lại thành hình phạt chung và không
được vượt quá ba mươi năm, cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được tính
bằng một ngày tù (Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015)
Như vậy, thực chất tù có thời hạn là việc cách ly người phạm tội để
giáo dục, cải tạo họ trong trại giam. Trong thời gian bị cách ly đó người phạm
tội bị tước một số quyền như: Quyền bầu cử, quyền kinh doanh...
Do tính cưỡng chế nghiêm khắc như vậy, nên tù có thời hạn được Tòa
án áp dụng thông qua hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân thủ nghiêm theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự: từ khi thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử, ra bản án,
quyết định phải tuân thủ các nguyên tắc như:
Thẩm phán và HTND khi xét xử tại phiên tòa luôn độc lập, tuân theo
pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ để ra quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Khi quyết định hình phạt Tòa án căn
cứ… tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự” [23].
Áp dụng hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử được thực
hiện sau khi đã xác định tội danh đối với người phạm tội. Quyết định hình
phạt tù là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử đối với người phạm tội.
Để lựa chọn hình phạt chính xác Hội đồng xét xử phải căn cứ vào hồ sơ
vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xác định các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng của vụ án và quy định của Bộ luật hình sự. Từ đó lựa chọn hình phạt sao
cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, để ban
hành quyết định, bản án chính xác đúng quy định của pháp luật.
8
1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân trước hết là một hoạt
động áp dụng pháp luật, nên nó có đầy đủ những đặc điểm chung của hoạt
động áp dụng pháp luật nói chung, đồng thời có tính đặc thù riêng của hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án áp dụng. Đó là những chế tài mạnh
nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến con người, đến tài sản mà Tòa án được áp dụng
nhân danh nhà nước.
Áp dụng Bộ luật hình sự là áp dụng pháp luật nội dung, áp dụng Bộ
luật tố tụng hình sự là áp dụng pháp luật hình thức của hoạt động giải quyết
vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm cả áp dụng pháp luật nội
dung và pháp luật hình thức.
Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án là một hình thức áp dụng pháp
luật do Tòa án tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và quy
phạm pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và
thực hiện một số nhiệm vụ trong giai đoạn thi hành án hình sự. .
Áp dụng hình phạt tù là biện pháp chế tài hình sự và chỉ có Tòa án
mới có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng hình phạt tù đối với người
phạm tội. Mọi hoạt động khác về áp dụng pháp luật hình sự suy cho cùng
cũng liên quan đến hoạt động áp dụng hình phạt tù.
Để duy trì tính thượng tôn pháp luật thì áp dụng pháp luật hình sự
không thể thiếu hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án. Do
vậy, ADHP tù luôn là một trong những hoạt động cơ bản, quan trọng nhất
trong áp dụng pháp luật hình sự.
Chủ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn là Hội đồng xét xử:
Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND là cơ
quan xét xử…thực hiện quyền tư pháp” [17]. Quy định tại Điều 31 Hiến pháp
9
và Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về quyền suy đoán vô tội chỉ
rõ“Người bị buộc tội được coi là không có tội… có hiệu lực pháp luật. Điều
30 BLHS quy định: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế…pháp nhân thương
mại đó [23].
Vì thế cơ quan có thẩm quyền quyết định một người có tội bằng một
bản án kết tội chính là Tòa án. Do đó, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền áp dụng hình phạt tù hay không áp dụng hình phạt tù đối với người
phạm tội. Ngoài Tòa án thì không có cơ quan, cá nhân nào được quyền áp
dụng hình phạt tù đối với các tổ chức hay cá nhân phạm tội.
Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua phiên tòa xét xử, kết
quả hoạt động xét xử tại Tòa án do HĐXX nhân danh nhà nước tuyên bố,
quyết định một tổ chức hay cá nhân vô tội hoặc có tội. Bản án thể hiện được ý
chí của Nhà nước đối với hành vi của bị cáo, đảm bảo thực hiện bằng quyền
lực của nhà nước.
Như vậy, Chủ thể trực tiếp thực hiện quyền áp dụng hình phạt tù có
thời hạn là Tòa án và HĐXX. Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy
định: "HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp...
phức tạp thì HĐXX sơ thẩm… phúc thẩm gồm ba Thẩm phán” [20].
* Đối với vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn, phiên tòa do một
Thẩm phán tiến hành (khoản 1 Điều 463 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Các bản án, quyết định của HĐXX hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật ngay, khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp
luật. Đối với bản án, quyết định phúc thẩm thì có hiệu lực ngay kể từ ngày
tuyên án.
Về nguyên tắc khi xét xử được quy định theo Điều 23 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015. Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật: “Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… truy cứu
10
trách nhiệm hình sự theo…” [20]. Trong phiên tòa xét xử, HTND ngang
quyền với Thẩm phán, HĐXX sơ thẩm và HĐXX phúc thẩm đều thảo luận,
quyết định theo đa số. Vì vậy quyết định của HĐXX mang tính tập thể của đa
số thành viên trong HĐXX. Khi xét xử Hội đồng căn cứ tài liệu, chứng cứ của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và căn cứ vào quá trình thẩm
tra,…tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra mức án phù hợp với từng tội danh.
Hình phạt được áp dụng là tù có thời hạn
Sau khi xác định được tội danh, dựa trên các tài liệu có trong hồ sơ, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa HĐXX lựa chọn hình phạt tù để áp dụng đối với
bị cáo. Theo quy định của BLHS thì hình phạt gồm hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Hình phạt chính theo quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự năm
2015 bao gồm có bảy mức độ khác nhau: Từ mức Cảnh cáo, Phạt tiền, Cải tạo
không giam giữ, Trục xuất,…đến Tù có thời hạn, Tù chung thân, Tử hình.
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt được lựa chọn để áp dụng. Theo
Điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Tù có thời hạn
là…tạm giam bằng một ngày tù.
Không áp dụng hình phạt…có nơi cư trú rõ ràng” [23].
Như vậy, đây là hình phạt tước quyền tự do của người phạm tội trong
một khoảng thời gian nhất định. Trường hợp phạm một tội thì mức tối thiểu là
ba tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Đối với trường hợp phạm nhiều tội
thì theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội đã tuyên là tù có thời hạn
thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung và không được vượt
quá ba mươi năm.
Văn bản áp dụng hình phạt tù: Bản án kết tội của Hội đồng xét xử.
HĐXX sau khi xem xét các tình tiết của vụ án đã thống nhất về ADHP
tù cho bị cáo thì cần phải có văn bản thể hiện việc HĐXX áp dụng hình phạt
11
tù do hành vi của bị cáo gây ra. Cụ thể: Bản án phải ghi đầy đủ quan điểm của
những người tham gia tố tụng; nhận định của HĐXX xác định bị cáo có tội,
đó là tội gì, theo điểm, khoản, Điều của Bộ luật hình sự và các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt cụ thể được áp dụng. Khi
lựa chọn ADHP tù có thời hạn thì HĐXX phải nhận định lý do; mức hình
phạt tù được áp dụng. Bản án chính là văn bản thể hiện tính quyền lực của nhà
nước đối với bị cáo.
Từ những năm trước 2017, cách thức viết bản án, các nội dung cần thể
hiện trong bản án hình sự được khái quát trong Bộ luật hình sự, các Nghị
quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự cũng như lồng ghép trong các
chương trình tập huấn do Tòa án các cấp tổ chức thực hiện.
Từ năm 2017 TANDTC đã tổ chức riêng các cuộc họp hướng dẫn về
cách viết bản án, trình bày bản án cho phù hợp với quy định, đảm bảo đầy đủ
về nội dung và hình thức. TANDTC ban hành Nghị quyết số 05/2017 Nghị
quyết – Hội đồng thẩm phán ngày 19 tháng 7 năm 2017 Ban hành một số biểu
mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của BLTTHS; Văn bản số 155 Tòa án nhân dân tối cao -
PC ngày 28 tháng 7 năm 2017 về việc áp dụng thống nhất kỹ thuật trình bày
các văn bản tố tụng trong đó có bản án.
1.2. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù có thời hạn
1.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Các hành vi trái pháp luật do người phạm tội gây ra những hậu quả
không tốt cho xã hội: Gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, thiệt hại về kinh
tế, ảnh hưởng đến văn hóa - giáo dục...Do đó việc xét xử các vụ án hình sự
luôn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Người dân theo dõi việc xét xử tội
phạm thông qua các kênh “xem trực tiếp hoặc qua truyền hình…”. Qua đó
đánh giá năng lực của đội ngũ Tòa án, nhất là đối với các Thẩm phán được giao
12
nhiệm vụ giải quyết vụ án. Do đó, áp dụng hình phạt tù có thời hạn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về chính trị, về kinh tế, về văn hóa – xã hội và giáo dục.
Khi áp dụng hình phạt tù đúng sẽ nhận được sự đồng tình của dư luận;
tạo ra sự đồng thuận của xã hội trong đánh giá tội phạm về chính sách hình sự
của Nhà nước ta, tạo niềm tin cho người dân vào chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước,… tăng uy tín của Tòa án, Cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp và tạo sự ổn
định trong đời sống xã hội của nhân dân, người dân yên tâm tin tưởng vào
Đảng và nhà nước.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng người phạm tội sẽ có niềm tin
vào Tòa án – cơ quan thực thi pháp luật, họ sẽ cố gắng cải tạo tích cực để sớm
về hòa nhập với cộng đồng, sinh sống ổn định. Khi ADHP tù có thời hạn
không đúng “xử quá nặng hoặc quá nhẹ” người phạm tội sẽ mất niềm tin vào
cơ quan Tòa án – cơ quan thực thi pháp luật, gây tổn hại đến uy tín của Đảng,
Nhà nước đối với người phạm tội.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng theo quy định của pháp luật là
bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền con
người, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân trong lĩnh vực hình sự.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng sẽ góp phần bảo vệ công lý,
công bằng xã hội, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
ADHP tù có thời hạn đúng thể hiện sự đúng đắn, hợp lý, hợp tình của
các văn bản pháp luật hình sự trên thực tế. Mặt khác, qua hoạt động áp dụng
hình phạt tù có thời hạn, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng nhận
thấy những bất cập, những vướng mắc, những thiếu sót của các quy phạm
pháp luật hình sự để đưa ra các biện pháp áp dụng thống nhất các quy định
13
của Bộ luật hình sự.
ADHP tù có thời hạn đúng là thể hiện tính hiệu quả của thủ tục tố tụng
hình sự trong áp dụng pháp luật (ADPL) hình sự. Cho thấy trình tự tố tụng đã
hợp lý, đáp ứng được nhu cầu trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử…
Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, xã hội đều có sự
thay đổi, kéo theo sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Nhiều
quy định của pháp luật không còn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung và áp dụng
trong pháp luật hình sự.
Hoạt động ADHP tù có thời hạn là cơ sở thực tiễn để kiểm nghiệm các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến ADHP tù có thời hạn
nhằm tổng kết và rút kinh nghiệm để xây dựng hệ thống tư pháp hình sự dân
chủ, hiệu quả, công bằng… vì con người.
1.2.3. Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa
Ngoài mục đích trừng trị, dăn đe người phạm tội, mục đích của hình
phạt còn giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ
phạm tội mới, giáo dục những người khác chấp hành pháp luật. Khi hình phạt
tù áp dụng công bằng, chính xác thì mục đích giáo dục cải tạo người phạm tội
sẽ đạt được hiệu quả “Tốt đẹp nhất”.
Khi hình phạt tù được áp dụng quá nhẹ so với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm sẽ làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật,…người dân
không còn tin tưởng vào Tòa án.
Khi hình phạt tù có thời hạn được áp dụng quá nghiêm khắc so với tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm sẽ làm nảy sinh tâm lý cho người bị kết
án…tiêu cực, bi quan… vào tính công bằng của Tòa án, của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Cả hai tình huống trên đều dẫn đến hậu quả là làm giảm ý nghĩa phòng
ngừa tội phạm của hình phạt tù có thời hạn.
14
Khi hình phạt tù có thời hạn được áp dụng một cách chính xác sẽ tạo
được sự đồng thuận của toàn xã hội, các tổ chức, cá nhân nhận thấy được sự
công bằng của pháp luật từ đó tin tưởng vào sự đấu tranh phòng ngừa tội
phạm, tin tưởng vào cơ quan xét xử là Tòa án, tạo ra hiệu ứng tích cực để toàn
xã hội tham gia vào công tác phòng, chống tội phạm trên toàn lãnh thổ đất
nước Việt Nam chúng ta.
Đây là bài học sâu sắc để toàn dân chấp hành Hiến pháp - pháp luật,
nâng cao sự hiểu biết về ý thức chấp hành Hiến pháp - pháp luật.
1.2. Nội dung áp dụng hình phạt tù có thời hạn
1.3.1. Xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt.
Xác định các tình tiết, tính chất nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện:
Theo BLHS hiện hành 2015 thì: Tội phạm là “hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,…phải bị xử lý hình sự (Điều 8
BLHS). Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đặc điểm cơ bản và là
thuộc tính khách quan thể hiện bản chất xã hội của mỗi hành vi phạm tội cụ
thể. Có nghĩa là tội phạm mang tính chất nguy hiểm cho xã hội vì bản thân nó
gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội đang được BLHS bảo vệ. Tính chất
nguy hiểm của tội phạm được xác định bởi tổng thể các tình tiết khác nhau
của vụ án, trong đó quan trọng nhất là tính chất, tầm quan trọng của những
quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại. Theo Điều 123 Bộ luật hình sự
năm 2015 quy định về Tội giết người thì khung hình phạt cao nhất là tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 134 Bộ
luật hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì khung hình phạt cao nhất là tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm hoặc tù chung thân (Khi làm chết hai người trở lên). Sự khác
nhau ở khung hình phạt của hai tội này là do tính chất và mức độ nguy hiểm
thực hiện là khác nhau. Khách thể của tội giết người là quyền sống và… bảo
15
vệ tính mạng. Còn khách thể của Tội cố ý gây thương tích, tổn hại cho sức
khỏe của người khác là quyền được tôn trọng - bảo vệ về sức khỏe.
Trong quyết định hình phạt HĐXX mà cụ thể là Tòa án phải chỉ ra
trong bản án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm mà Tòa án sử dụng để làm căn cứ chọn mức hình
phạt áp dụng đối với bị cáo cho phù hợp.
Khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phải
xuất phát từ các tình tiết mà tội phạm đã thực hiện. Trong một số trường hợp
các tình tiết như: địa điểm, thời gian,… Phương thức thực hiện của tội phạm
được luật quy định là những tình tiết bắt buộc của cấu thành tội phạm… khi
xét xử.
Trong những trường hợp nói trên. Những tình tiết có ảnh hưởng đến
một mức độ nhất định của việc quyết định hình phạt không được các nhà làm
luật quy định… chúng không có ý nghĩa đối với việc định tội danh, nhưng có
ảnh hưởng đến quyết định hình phạt tù đối với bị cáo. Vì vậy cần phải xác
định, cân nhắc các tình tiết để có căn cứ cho việc quyết định hình phạt tù đối
với bị cáo.
Một yếu tố nữa làm ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt đó là hậu
quả do tội phạm gây ra đối với người khác. Hậu quả đó phải là hậu quả nguy
hiểm. Hậu quả nguy hiểm được chia làm hai nhóm: Các hậu quả được quy
định có tính chất là yếu tố của cấu thành tội phạm, các hậu quả không được
quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Tiếp đến để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được
thực hiện cần phải xác định các loại, mức độ lỗi của bị cáo khi thực hiện
phạm tội. Trong Bộ luật hình sự, thông thường các tội cố ý, vô ý được quy
định độc lập, có chế tài khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn có một số tội được
thực hiện do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý (Ví dụ, tội làm chết người trong khi thi
16
hành công vụ quy định tại Điều 127 Bộ luật hình sự, tội vô ý làm chết người
Điều 128 Bộ luật hình sự hoặc tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Điều 129 Bộ luật hình sự). Trong
trường hợp tội phạm thực hiện do lỗi cố ý được đánh giá có tính nguy hiểm
cho xã hội cao hơn so với tội phạm thực hiện do lỗi vô ý… Tội phạm thực
hiện do lỗi cố ý sẽ áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn.
Ngoài ra, còn phải xác định, cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong
trường hợp phạm tội cụ thể. Vì cùng một lỗi nhưng mức độ thể hiện cũng
khác nhau, dẫn đến việc quyết định hình phạt khác nhau. Như vậy giữa tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện và lỗi
đã thực hiện càng nguy hiểm thì mức độ lỗi của chủ thể càng lớn, do đó mức
hình phạt càng phải nghiêm khắc để răn đe những trường hợp phạm tội sau
này.
Động cơ và mục đích trong trường hợp được luật quy định là những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, ảnh hưởng đáng kể đến mức độ lỗi do vậy cũng
ảnh hưởng đến mức quy định của hình phạt. Nhiệm vụ của Tòa án là phải làm
sáng tỏ mục đích, động cơ của tội phạm đã thực hiện: Bởi lẽ có những động
cơ, mục đích phạm tội gây lên sự căm phẫn lớn cho xã hội, làm tăng mức hình
phạt, ngược lại có những động cơ, mục đích làm giảm nhẹ lỗi của bị cáo và
làm giảm mức hình phạt.
Từ những căn cứ trên, có thể thấy việc xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm được thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
quyết định hình phạt (QĐHP). Tòa án khi xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm ngoài việc xem xét một cách độc lập tình tiết của vụ án,
phải xem xét đến mối liên hệ giữa các tình tiết và dấu hiệu của vụ án để quyết
định hình phạt tù có thời hạn cho phù hợp, bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật.
17
Xác định nhân thân người bị kết tội.
Khoản 1 Điều 8. Khái niệm tội phạm thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý…Như vậy, nói đến nhân thân người phạm tội là nói đến nhân thân
của một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội.
Đến Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì chủ thể
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mở rộng hơn, phù hợp với thực
tế hiện tại và xu hướng phát triển sau này. Cụ thể theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật
hình sự năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS…phải bị xử lý hình sự”. Chủ thể thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã được mở rộng bao gồm cả pháp nhân thương mại. Nhưng
khi xem xét quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại theo Điều 83
BLHS năm 2015 thì ngoài căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội cùng với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại thì: Tòa án phải căn cứ vào
việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại đó mà không đưa ra yếu
tố nhân thân. Do đó khi đặt vấn đề xác định nhân thân của người bị kết tội cần
được hiểu là xác định nhân thân của con người cụ thể, có tổng hợp các đặc
điểm như: Tuổi đời, hoàn cảnh gia đình… của người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự coi là tội phạm.
Theo quy định của pháp luật, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xác
định, cân nhắc nhân thân người bị kết tội, tức là xem xét những đặc điểm,
những đặc tính đã nói ở trên, làm cơ sở cho việc xác định và đánh giá mức độ
nguy hiểm cho xã hội của người bị kết tội. Những đặc điểm, đặc tính đã được
ghi rõ trong luật. Ở Điều 51 các tình tiết giảm nhẹ, Điều 52 các tình tiết tăng
nặng… của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cân nhắc
18
những trường hợp những đặc điểm, đặc tính không được chỉ ra trong luật,
nhưng chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt.
Các đặc điểm tác động đến việc quyết định hình phạt ở những góc độ
khác nhau:
Thứ nhất: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm
như tái phạm, tái phạm nguy hiểm,...
Thứ hai: Khả năng cải tạo và giáo dục của người phạm tội để đạt được
mục đích hình phạt...
Thứ ba: Các đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, của Nhà
nước như: Có nhân thân tốt,… người có thành tích cao...
Mục đích của việc xác định nhân thân người bị kết tội nhằm làm sáng
tỏ các nguyên nhân, các điều kiện phạm tội, những điều kiện hình thành nhân
cách như: Đạo đức, lối sống, trình độ văn hóa, cách cư xử…Các mối quan hệ
đó đều nói lên những mặt tốt, mặt xấu của người phạm tội.
Cần phải chỉ rõ các mặt tốt, mặt xấu, mặt tích cực, mặt tiêu cực của
người bị kết tội. Trên cơ sở đó Tòa án phải đối chiếu, so sánh giữa mặt tốt và
mặt xấu để đưa ra loại hình phạt, mức hình phạt tù sao cho phù hợp với hành
vi phạm tội của họ.
Yêu cầu Tòa án phải xác định nhân thân người bị kết tội là một trong
những biểu hiện của nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tính công bằng,
dân chủ trong pháp luật hình sự, mà thực tiễn xét xử đã khẳng định và ghi
nhận. Khi Tòa án áp dụng đúng những quy định này thì có ý nghĩa cải tạo,
giáo dục và phòng ngừa rất lớn đối với người bị kết tội.
Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ.
Các tình tiết tăng nặng về tội phạm được quy định cụ thể trong luật và
có ý nghĩa làm tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người
phạm tội.
19
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những người phạm tội
nhưng có nhân thân tốt… được quy định cụ thể trong luật…được Tòa án cân
nhắc với ý nghĩa làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội
phạm đó.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tăng nặng trách nhiệm hình
sự được quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015. So với các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46, Điều 48
Bộ luật hình sự năm 1999 thì các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm
hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 gia tăng nhiều hơn:
Các tình tiết giảm nhẹ tăng bốn, các tình tiết tăng nặng tăng một.
Quá trình áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng đã được
quy định trong Bộ luật hình sự 2015, là dấu hiệu định tội hoặc định khung
hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong áp dụng hình phạt tù. Tuy nhiên theo Điều 51 Bộ luật hình sự 2015
đã đưa ra những quy định mở hơn, khi cho phép Tòa án có thể coi đầu thú,…
tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. Quy định này mang lại lợi ích cho người
phạm tội, họ có cơ hội được giảm mức hình phạt,… tạo điều kiện cho bản
thân họ sớm được tái hòa nhập cộng đồng, xây dựng quê hương, đất nước.
Trong một vụ án hình sự càng nhiều tình tiết giảm nhẹ, mức độ giảm
nhẹ của từng tình tiết càng lớn thì mức độ giảm nhẹ hình phạt càng lớn và…
có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định,
hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nhiều vụ án bao gồm các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những trường hợp này Tòa
án phải đánh giá, cân nhắc các tình tiết đó để quyết định một hình phạt công
bằng, hợp lý, phù hợp với lỗi của người phạm tội. Các trường hợp này cần
20
phải đánh giá toàn diện, đầy đủ tất cả các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng.
Không được…xem xét một chiều các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng,…đó là
cách tốt nhất để xác định các tình tiết… khi quyết định hình phạt đối với
người phạm tội.
Việc xác định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự có
ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng trong quyết định hình phạt nhằm bảo đảm
cho hình phạt được tuyên một cách công bằng, dân chủ.
1.3.2. Nhận thức các quy định của Bộ luật hình sự, cơ sở pháp lý của
áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Nhận thức các quy định về hình phạt tù có thời hạn.
Về nội dung: Hình phạt tù có thời hạn là một trong số các hình phạt
chính trong hệ thống hình phạt. Hình phạt tù có thời hạn được quy định trong
các chế tài đối với cấu thành tội phạm và được áp dụng phổ biến trong quá
trình Tòa án xét xử. Điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án…tối thiểu là ba tháng và mức
tối đa là hai mươi năm. [23].
Thực tiễn cho thấy, hình phạt tù có thời hạn là việc bắt buộc người bị
kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam, cách ly người phải chấp hành
hình phạt ra khỏi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định để giáo
dục, để cải tạo họ. Nội dung chủ yếu hình phạt tù có thời hạn là tước quyền tự
do của người bị kết tội, giáo dục cải tạo họ thành người có ích cho xã
hội…Cũng có thể hiểu đó là sự trừng trị đối với người vi phạm pháp luật bị
kết án.
Như vậy, thời hạn chấp hành hình phạt tù có thời hạn tối thiểu là ba
tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Trong cấu thành tội phạm của một tội
cụ thể thì mức thấp nhất của hình phạt tù có thời hạn không dưới ba tháng và
mức tối đa không vượt quá hai mươi năm. Cho nên, dù người phạm tội thực
21
hiện tội phạm ít nghiêm trọng đến đâu thì mức hình phạt mà HĐXX áp dụng
không thể dưới ba tháng, ngược lại nếu thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mà không thuộc trường hợp tù chung thân hoặc tử hình thì HĐXX có
thể quyết định đến hai mươi năm tù. Tuy nhiên trong trường hợp phạm nhiều
tội và tổng hợp của nhiều bản án thì tổng mức hình phạt không được vượt
quá ba mươi năm.
Hình phạt tù có thời hạn chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống
hình phạt của Bộ luật hình sự. Trong phần các tội phạm cụ thể thì tù có thời
hạn (TCTH) là hình phạt được quy định ở tất cả các điều luật, các cấu thành
tội phạm. Thực tế xét xử TCTH là hình phạt được áp dụng phổ biến và được
coi là hình phạt có hiệu quả nhất để đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trường
hợp mục đích của hình phạt có thể đạt được mà không cần phải cách ly người
phạm tội ra khỏi đời sống xã hội thì cần ADHP không phải là hình phạt tù.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi hình phạt của người
phạm tội bị kết án có quy định trong khung hình phạt của Bộ luật hình sự. Đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại khoản 6 Điều 91 BLHS
năm 2015. (Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội): Tòa án
chỉ ADHP tù có thời hạn…thời hạn thích hợp ngắn nhất”… [23].
Nhận thức về chế tài các quy định của tội phạm.
Nhận thức chính xác về các chế tài lựa chọn, chế tài bắt buộc: Về điều
kiện, phạm vi áp dụng từng loại hình phạt được quy định trong Bộ luật hình
sự và tổng hợp hình phạt tù trong trường hợp một người phạm nhiều tội...Là
điều kiện quan trọng để hình phạt được áp dụng đúng pháp luật, bảo đảm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tòa án phải xem xét tất cả các quy
định của phần chung, phần riêng vào trong vụ án cụ thể để đánh giá tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện...Nhằm chọn lựa
đúng mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.
22
Tiếp theo Tòa án còn phải tìm hiểu và căn cứ vào các chế tài có trong
điều luật quy định đối với tội phạm…Tòa án phải căn cứ vào quy định của
BLHS đối với tội mà bị cáo đã thực hiện.
Khi quyết định hình phạt (QĐHP), Tòa án phải căn cứ vào những chế
tài cụ thể mà bị cáo đã thực hiện để chọn mức hình phạt hợp lý…nhân đạo
nhất.
Như vậy, khi quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án phải
căn cứ vào tất cả các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 để quyết định một hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể.
Nhận thức về các quy định liên quan đến áp dụng hình phạt.
BLHS và BLTTHS năm 2015 không có chương riêng quy định, hướng
dẫn về việc ADHP.
Hội đồng xét xử khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đang bị
xét xử: thì Hội đồng xét xử phải tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của Bộ
luật hình sự để đưa ra mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi
phạm tội của người bị kết tội phù hợp với quy định của pháp luật hình sự hiện
hành. Ví dụ: Người bị kết án phạm nhiều tội thì tổng hợp hình phạt chung
không được quá ba mươi năm đối với hình phạt tù có thời hạn.
Khoản 4 và khoản 6 Điều 91 (Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội) Bộ luật hình sự năm 2015 quy định như sau: “Khi xét xử, Tòa
án chỉ ADHP đối với người dưới 18 tuổi nếu xét thấy việc miễn nhiệm trách
nhiệm hình sự …hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng…
không bảo đảm hiệu quả giáo dục phòng ngừa…Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án
áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng, với thời gian
thích hợp ngắn nhất”…[23]. Trường hợp thuộc khoản 1 Điều 103 Bộ luật
hình sự năm 2015 (Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội)
23
“Khi xét xử người dưới 18 tuổi...12 năm đối với …dưới 16 tuổi khi phạm tội”.
Do đó trước khi ADHP tù có thời hạn đối với người chưa thành niên, Tòa án
phải cân nhắc xem ADHP tù có thời hạn có phù hợp với quy định của pháp
luật hay không?. Trường hợp bắt buộc phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn
thì Hội đồng xét xử phải cân nhắc đến hình phạt và biện pháp giáo dục khác
để có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
1.3.3. Xác định sự tương thích các quy định của Bộ luật hình sự đối
với các tình tiết để quyết định biện pháp trách nhiệm hình sự được xác định
như; loại, mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt tù.
Trên cơ sở nhận thức các quy định của BLHS, HĐXX cần phải tìm ra
sự tương thích đối với các tình tiết vụ án được xác định. Bởi lẽ điều này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến người bị kết án theo xu hướng tiêu cực, tích cực nếu
các tình tiết trong vụ án có quy định trong BLHS điều chỉnh là có lợi thì
người bị kết án chấp hành bản án trong thời gian ngắn, ngược lại phải chấp
hành hình phạt tù trong thời gian dài.
Các tình tiết có lợi hay bất lợi của bị cáo không phải do quyết định
cảm tính của HĐXX, mà phải dựa trên cơ sở quy định của luật, người ADHP
là HĐXX phải tìm hiểu, nghiên cứu các tình tiết của vụ án có quy định trong
BLHS hay không?, có được hướng dẫn bởi các Nghị quyết, Thông tư hay
không?. Trường hợp bị cáo bị đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi, HĐXX
phải xem xét độ tuổi là tình tiết giảm nhẹ đối với việc quyết định hình phạt tù.
Ở độ tuổi này pháp luật quy định khi phạm tội thì hình phạt được áp dụng như
thế nào?.
Tương tự như vậy, việc xác định sự tương thích của BLHS với tình tiết
của vụ án còn giúp HĐXX lựa chọn biện pháp chấp hành hình phạt tù phù
hợp với quy định của luật, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nghiêm trị
kết hợp với khoan hồng, độ lượng trong chính sách hình sự nhân đạo của nhà
24
nước ta. Khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 về Án treo quy định:
“…xử phạt tù không quá ba năm…thì Tòa án cho hưởng án treo…” [23].
Luật đã nêu các điều kiện để người bị kết án có thể chấp hành hình phạt tù có
điều kiện. Tuy nhiên, trong Điều luật chưa nói rõ yêu cầu về nhân thân có bao
nhiêu tình tiết giảm nhẹ là phù hợp. Trong trường hợp này HĐXX phải xem
xét nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, xem xét TANDTC có
hướng dẫn về điều này hay không?, nếu có thì hướng dẫn như thế nào?, để áp
dụng. Theo Nghị quyết số 02/2018 Nghị quyết hội đồng thẩm phán ngày 15
tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 về án treo; tại
Điều 2 như sau:
“Người bị xử phạt tù…xét cho hưởng án treo… các điều kiện sau đây:
…tù không quá ba năm.
…Có nhân thân tốt.…Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trở lên. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
… không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” [7].
1.3.4. Ra bản án kết tội áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
bị kết tội
Sau khi HĐXX xem xét, nhận định các tình tiết của vụ án hình sự, các
quy định của pháp luật về định tội danh, mức hình phạt cũng như quyết định
biện pháp chấp hành hình phạt tù thì cần có văn bản quyết định của HĐXX,
làm cơ sở cho giai đoạn thi hành án hình sự đối với tội phạm.
Như vậy bản án là bằng chứng để kết tội bị cáo và buộc bị cáo phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội do bị cáo gây ra… Khi
ra bản án, quyết định phải bảo đảm các điều kiện: Bản án phải được các thành
viên HĐXX thảo luận, ký thông qua tại phòng nghị án; Trong bản án nhận
định của HĐXX phải phân tích những chứng cứ chứng minh có tội hoặc
25
không có tội, xác định bị cáo có tội hay không?, nếu bị cáo có tội thì đó là tội
gì?, theo điểm, khoản, Điều của BLHS và của văn bản quy phạm pháp luật
(QPPL) khác được áp dụng. Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ cần phải xử lý ra
sao. Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ chứng minh,
xác định bị cáo không có tội. Việc giải quyết khôi phục danh dự, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo theo quy định của pháp luật… Bản án
phải phân tích được lý do mà HĐXX không chấp nhận chứng cứ buộc tội, gỡ
tội, đề nghị của VKSND và những người tham gia tố tụng khác. Phân tích
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát
viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Quyết định của HĐXX về từng
vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án như tội danh, mức hình phạt tù có thời
hạn mà bị cáo phải chấp hành. Hàng năm TANDTC đều tổ chức các buổi tập
huấn về giải quyết các vụ án hình sự, trong đó hướng dẫn cách viết bản án,
chỉ ra các lỗi khi viết bản án của Thẩm phán. Năm 2017 TANDTC đã tổ chức
riêng chương trình tập huấn chỉ hướng dẫn về cách soạn thảo bản án, các lỗi
cần rút kinh nghiệm. TANDTC ban hành Nghị quyết số 05/2017 Nghị quyết
hội đồng thẩm phán ngày 19 tháng 7 năm 2017. Ban hành một số biểu mẫu
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của BLTTHS; Văn bản số 155 Tòa án nhân dân tối cao ngày 28
tháng 7 năm 2017 về việc áp dụng thống nhất thể thức, kỹ thuật trình bày các
văn bản tố tụng trong đó có bản án.
1.3.5. Những điểm bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự ảnh
hưởng đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Theo quy định của BLHS năm 2015 (khoản 1 Điều 38): “Tù có thời
hạn…cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù”. Như vậy về bản chất
pháp lý thì tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế tước quyền tự do của người
phạm tội do Tòa án quyết định theo quy định của pháp luật.
26
Bộ luật hình sự quy định giới hạn mức tối thiểu và tối đa của hình phạt
tù có thời hạn: Mức tối thiểu của hình phạt tù là ba tháng. Mức tối đa của
hình phạt tù được quy định khác nhau. Điều 38 Bộ luật hình sự quy định tù có
thời hạn đối với người phạm một tội có mức hình phạt cao nhất là hai mươi
năm tù. Nhưng theo quy định của Điều 55. Quyết định hình phạt đối với từng
tội, Điều 56. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, Điều 63. Giảm mức hình
phạt đã tuyên, của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì
trong các trường hợp nếu người phạm nhiều tội hoặc phải chịu hình phạt của
nhiều bản án, thì hình phạt tù có thời hạn tối đa là ba mươi năm tù. Người bị
kết án tù chung thân nếu được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu
xuống ba mươi năm năm tù. Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tối đa
trong trường hợp này là nhằm bảo đảm sự bình đẳng cho mọi công dân trước
pháp luật, thực hiện việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong trường hợp
phạm một tội và trường hợp phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án khác nhau.
Như vậy BLHS chỉ quy định nội dung, thời hạn tối thiểu, thời hạn tối
đa của khung hình phạt tù có thời hạn. BLHS không quy định đối tượng được
áp dụng và điều kiện áp dụng như đối với một số loại hình phạt khác. Đặc
biệt, Điều 38. “Tù có thời hạn” BLHS không quy định điều kiện chung của
việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cho nên người làm luật đã rất lúng túng
trong việc quy định chế tài các quy phạm có hình phạt tù có thời hạn. Có thể
thấy hầu như 100% khung hình phạt được quy định trong phần các tội phạm,
không phân biệt đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Đó là tội cố ý hay vô ý… đều có chế tài là hình
phạt tù có thời hạn. Điều đó dẫn đến khó khăn khi phân hóa trách nhiệm hình
sự trong các chế tài hình phạt của Tòa án đối với người phạm tội.
Trên cơ sở quy định chung, BLHS hiện hành quy định các chế tài cụ
thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Có thể thấy đại đa số chế tài thuộc loại
27
tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
đều có quy định hình phạt tù có thời hạn. Trong Bộ luật hình sự chỉ có chế tài
thuộc khung cơ bản các tội sau đây là không có hình phạt tù: Tội xâm phạm bí
mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của người khác (khoản 1 Điều 159 BLHS); tội xâm phạm quyền
tác giả (khoản 1 Điều 166 BLHS); tội cho vay lãi nặng (khoản 1 Điều 201
BLHS).
Nhìn chung mức hình phạt tù có thời hạn được quy định trong các điều
luật là hợp lý, phù hợp với chính sách hình sự, nhân đạo của Nhà nước ta. Tuy
nhiên, cũng có một số hạn chế cần được nghiên cứu khắc phục cụ thể là:
Hình phạt tù có thời hạn được quy định còn quá nhiều, trong khi lại
không coi trọng các hình phạt khác không phải là hình phạt tù như phạt cảnh
cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ…Việc quy định hình phạt tù đa số
có chế tài là quá nghiêm khắc, không cần thiết, chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu, chưa thể hiện được "tính hướng thiện” trong chính sách hình sự của
nước ta trong giai đoạn hiện nay, được thể hiện trong Nghị quyết số 49 Nghị
quyết Trung ương ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020;
Phạm vi quy định hình phạt tù có thời hạn vẫn quá rộng. Có những tội,
hầu như các mức độ hình phạt đều được quy định trong chế tài (Điều 134 về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều
174 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 188 về tội buôn lậu…); có nhiều
khung hình phạt khoảng cách mức hình phạt tối thiểu và tối đa được quy định
còn khá rộng từ 12 đến 20 năm tù (Điều 110 về Tội gián điệp; Điều 111 về
Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 112 về tội bạo loạn…) làm ảnh hưởng
đến tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật;
Ở một số Điều luật, sự phân hóa chế tài chưa thật tốt. Theo tôi, đối với
28
các tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý thì chế tài quy định như vậy là quá
nghiêm khắc.
Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử bản thân thấy rằng đối với các tội
phạm do vô ý, hình phạt được quyết định trong đa số các trường hợp lại nhẹ
hơn quy định của luật rất nhiều. Ví dụ: Điều 260 Bộ luật hình sự quy định tội
vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ có bốn
khung hình phạt so với thực tiễn xét xử thấy rằng:
Chế tài ở khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định phạt tiền từ 30
triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ 01 năm đến 05 năm. Trên thực tế các hình phạt phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hầu như không được áp dụng; mức phạt tù thường không quá ba
năm, trong đó có khoảng 60% được cho hưởng án treo. Rất ít thấy trường hợp
Tòa án quyết định hình phạt trên ba năm tù;
Chế tài ở khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định phạt tù từ ba năm
đến mười năm. Trên thực tế thì mức phạt tù thường không quá 05 năm.
- Chế tài ở khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định phạt tù từ 07
năm đến 15 năm. Trên thực tế thì mức phạt tù thường không quá 10 năm, đa
số các bị cáo bị xử phạt ở mức phạt tù từ 07 đến 10 năm.
Chế tài ở khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm trong trường
hợp vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng
thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp
thời. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này là rất hạn chế.
Như vậy có thể nói giữa thực tiễn áp dụng hình phạt tù và quy định của
Bộ luật hình sự về hình phạt nói chung, hình phạt tù nói riêng đang có một
độ lệch nhất định. Theo tôi, thực tế các chế tài quy định quá nghiêm khắc đối
với tội phạm có hình thức lỗi vô ý.
29
Ngoài ra, đối với chế tài một số nhóm tội phạm khác như nhóm tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, một số tội xâm phạm trật tự, an toàn xã hội…
cũng xảy ra tình trạng trên. Chế tài quy định quá nghiêm khắc dẫn đến có sự
chênh lệch giữa quy định của Bộ luật hình sự và thực tiễn quyết định hình
phạt. Điều đó làm ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Tòa án.
Nói tóm lại, qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về hình phạt tù có thời hạn, bản thân nhận thấy rằng Bộ luật hình sự
hiện hành quy định hình phạt này chiếm tỷ lệ quá cao trong hệ thống hình
phạt. Đồng thời, do bất cập trong việc quy định khung hình phạt “quá rộng”,
mức tối đa quy định quá cao…cho nên mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng
có sự thiếu thống nhất giữa quy định của Bộ luật hình sự trong các vụ án mà
cơ quan tiến hành tố tụng mà đặc biệt là Tòa án đã áp dụng trên thực tế.
Kết luận Chương 1
Qua nghiên cứu Chương 1 của Luận văn mà tác giả trình bày, có thể rút
ra những kết luận như sau:
Thứ nhất: Các nội dung liên quan đến khái niệm: Áp dụng hình phạt tù
có thời hạn của Tòa án xuất phát từ khái niệm áp dụng hình phạt và hình phạt
tù có thời hạn. Việc xây dựng khái niệm: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn có
ý nghĩa rất quan trọng trong nội dung nghiên cứu của luận văn. Trên cơ sở
khái niệm rút ra đặc điểm và đặc trưng của hoạt động “ADHP tù có thời hạn”
làm cơ sở phân biệt với các hoạt động ADHP khác.
Thứ hai: Xác định những ý nghĩa quan trọng của hoạt động ADHP tù
có thời hạn như: ý nghĩa về mặt chính trị - kinh tế, xã hội - giáo dục, pháp luật
phòng ngừa tội phạm. Khi hình phạt tù có thời hạn được áp dụng một cách
chính xác sẽ tạo được sự đồng thuận của toàn xã hội, các tổ chức, cá nhân
nhận thấy được sự công bằng của pháp luật từ đó tin tưởng vào sự đấu tranh
phòng ngừa tội phạm, tin tưởng vào cơ quan xét xử là Tòa án, tạo ra hiệu ứng
30
tích cực để toàn xã hội tham gia vào công tác phòng, chống tội phạm trên toàn
lãnh thổ đất nước chúng ta.
Thứ ba: Hoạt động ADHP tù có thời hạn được thực hiện theo trình tự rõ
ràng, đảm bảo quy định của luật nội dung và luật hình thức. Quy định của luật
nội dung (Bộ luật hình sự). Còn quy định của luật hình thức (Bộ luật tố tụng
hình sự) hướng dẫn xác định trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt tù có thời hạn
đối với người phạm tội.
31
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN CỦA TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình thụ lý, xét xử hình sự
ở Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh được hình thành từ 05 xã phía Bắc và
một phần của thị trấn huyện Nhà Bè với tổng diện tích tự nhiên là 3.576 ha có
vị trí nằm phía Đông nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa hình quận 7 tương đối bằng phẳng, Quận 7 có các cầu Tân Thuận
1, Tân Thuận 2, Kênh tẻ và Rạch Ông kết nối giữa Quận 7 với các quận của
thành phố Hồ Chí Minh như quận 4, quận 8, quận 2, đã góp phần quan trọng
vào sự phát triển kinh tế của Quận.
Quận 7 có ba cảng lớn là Cảng Bến Nghé, Cảng Last Tân Thuận Đông,
Cảng Bông Sen và một số cảng chuyên dùng phục vụ cho nội bộ như Cảng
Rau quả, Cảng Dầu thực vật...Với tổng diện tích tự nhiên là 3.576 ha, quận 7
có 10 phường: Phú Mỹ, Phú Thuận, Tân Phú, Tân Thuận Đông, Bình Thuận,
Tân Thuận Tây, Tân Kiểng, Tân Quy, Tân Phong và Tân Hưng.
Tình trạng dân cư phát triển rất mạnh và phân bố không đều, dân số
hiện nay khoảng là 315.890 người. Quận 7 có 14 chùa, 10 tịnh thất - tịnh xá,
05 nhà thờ đạo Thiên chúa giáo, có Đình Tân Quy Đông, Đình thờ Thân
Thành Hoàng bổn cảnh, mà vua Tự Đức sắc phong,…, nhà tưởng niệm Bác
Hồ, nghĩa trang liệt sỹ Nhà Bè.
Từ đầu năm 2014 đến cuối năm 2018, số vụ án TAND quận 7 phải giải
quyết là 1.504, với 3.073 bị cáo. Trong đó, tội phạm thường thực hiện hành vi
phạm tội thuộc các tội sau: Tội cướp tài sản 46 vụ; Tội trộm cắp tài sản 376
vụ; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 103 vụ; Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản 78 vụ; … Qua đây có thể thấy một số loại tội phạm diễn ra phức tạp, số
32
lượng lớn như tội cướp tài sản, hoặc tội trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản...
Căn cứ báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác hàng năm từ năm
2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân quận 7, tình hình thụ lý, xét xử các
vụ án hình sự được thể hiện qua bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 2.1. Số lượng các vụ án, bị cáo đã thụ lý của Tòa án nhân dân
quận 7
Số liệu thụ lý STT Năm Số vụ Số bị cáo
1 2014 324 787
2 2015 335 909
3 2016 307 832
4 2017 285 739
5 2018 253 556
Nguồn: Tòa án nhân dân quận 7
Qua bảng số liệu thống kê chúng ta thấy:
- Năm 2014, Tòa án nhân dân quận 7 thụ lý 324 vụ án hình sự, với tổng
số 787 bị cáo;
- Năm 2015, Tòa án nhân dân quận 7 thụ lý 335 vụ án hình sự với tổng
số bị cáo 909 bị cáo.
- Năm 2016, Tòa án nhân dân quận 7 thụ lý 307 vụ án hình sự với tổng
số bị cáo 832 bị cáo.
- Năm 2017, Tòa án nhân dân quận 7 thụ lý 285 vụ án hình sự với tổng
số bị cáo 597 bị cáo.
- Năm 2018, Tòa án nhân dân quận 7 thụ lý 253 vụ án hình sự với tổng
số bị cáo 556 bị cáo.
Từ số liệu thu thập được cho thấy, các vụ án hình sự, số bị cáo có xu
hướng tăng từ 2014 đến 2015, sau đó giảm dần theo từng năm từ 2016 đến
33
2017 có sự giảm nhẹ, từ năm 2018 giảm tương đối nhiều so với năm 2015 và
2016.
Bảng 2.2. Số liệu kết quả xét xử của Tòa án nhân dân quận 7
Đơn vị tính: Vụ án, bị cáo
Số liệu thụ lý STT Năm Số vụ Số bị cáo
1 2014 309 687
2 2015 318 710
3 2016 292 719
4 2017 271 714
5 2018 242 542
Nguồn: Tòa án nhân dân quận 7
Qua số liệu tổng hợp, phân tích cho chúng ta thấy trong thời gian 05
năm (từ năm 2014 đến năm 2018) Tòa án nhân dân quận 7 đã xét xử 1.432 vụ,
với 3.372 bị cáo.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian 5 năm. TAND quận
7 đã thực hiện tốt công tác xét xử các vụ án hình sự với số lượng án thụ lý,
giải quyết đạt tỷ lệ cao, xét xử nghiêm minh các vụ án hình sự trong đó có các
vụ án hình sự điểm đáp ứng nhu cầu cho mục đích chính trị - xã hội tại địa
phương.
Bảng 2.3. Số liệu các tội tội phạm thường thực hiện
Đơn vị tính: Vụ án
Số thụ lý theo năm STT Tội danh 2014 2015 2016 2017 2018
1 Cướp tài sản 7 8 10 12 9
2 Trộm cắp tài sản 81 72 70 68 85
3 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 17 25 19 20 22
4 Lạm dụng tín nhiệm chiếm 18 16 16 15 13
34
đoạt tài sản
5 Tội tàng trữ, vận chuyển, 25 22 19 21 17
mua bán hoặc chiếm đoạt ma
tuý
6 Tội vi phạm quy định về điều 31 29 25 22 23
khiển phương tiện giao thông
đường bộ
7 Tội đánh bạc 43 45 39 33 29
Nguồn: Tòa án nhân dân quận 7
Qua bảng thống kê có thể thấy: Năm 2014 số lượng tội phạm bị phát
hiện và đưa ra xét xử chiếm số lượng lớn nhất trong 5 năm (từ năm 2014 đến
năm 2018). Từ năm 2014 đến năm 2018, tội cướp tài sản có xu hướng giảm từ
năm 2014 đến năm 2015 sau đó lại tăng dần từ năm 2016 đến năm 2018. Các
tội danh khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt
ma túy, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
và tội đánh bạc theo thống kê có xu hướng giảm dần, có nhiều tội giảm mạnh
như tội trộm cắp tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...Đây là
kết quả của quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm không ngại gian khổ,
khó khăn của các cơ quan phòng chống tội phạm, cảnh sát giao thông, cảnh
sát trật tự… thực hiện trong một thời gian dài. Tuy nhiên, vẫn còn có một số
tội phạm diễn biến phức tạp, theo chiều hướng tăng, giảm không ổn định như
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội đánh
bạc.
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân
dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Kết quả áp dụng hình phạt tù
Thực tiễn xét xử vụ án hình sự trong những năm gần đây cho thấy việc
35
TAND quận 7 áp dụng hình phạt tù chiếm tỷ lệ cao so với các hình phạt
khác.
Bảng 2.4. Số liệu các hình phạt chính được áp dụng của Tòa án
Đơn vị tính: Bị cáo
Số liệu hình phạt chính được áp dụng
Cải tạo Cho Tù có Năm Tổng số Cảnh Phạt không hưởng thời Bị cáo cáo tiền giam án treo hạn giữ
2014 92 431 164 687
2015 89 456 165 710
2016 81 470 719 (miễn TNHS) 161 02
05
2017 714 (miễn TNHS) 157 73 464
20
2018 51 372 119 542
Tổng 3.372 (miễn TNHS) 766 02 386 2.193
cộng 25
Nguồn: Tòa án nhân dân quận 7
Trên đây là bảng số liệu thực tiễn quá trình áp dụng hình phạt của Tòa
án nhân dân quận 7 trong thời gian 05 năm từ năm 2014 đến năm 2018.
Qua bảng trên chúng ta thấy tỷ trọng áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân
dân quận 7 như sau: Áp dụng hình phạt cảnh cáo không có trường hợp nào;
Áp dụng hình phạt tiền đối với 766 bị cáo chiếm tỷ lệ 22,89%; áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với 02 bị cáo chiếm 0.06%; Áp dụng hình
phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 386 bị cáo chiếm 11,53%; Áp dụng
hình phạt tù có thời hạn đối với 2.193 bị cáo chiếm 65.52%;
Như vậy hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ cao 65.52%, trong đó miễn
trách nhiệm hình sự 25 và cải tạo không giam giữ 02 . Hình phạt tù có thời hạn
36
được Tòa án quận 7 áp dụng ở nhiều mức khác nhau.
Bảng số 2.5. Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn của Tòa án
Đơn vị tính: Bị cáo
Số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn Tổng Tù từ 03 năm Tù từ 03 năm Tù từ 07 năm số STT Năm trở xuống đến 07 năm đến 15 năm Bị Bị cáo Tỉ lệ Bị cáo Tỉ lệ Bị cáo Tỉ lệ cáo
1 2014 431 313 72,62% 92 21,35% 26 6,03%
2 2015 456 362 79,38% 73 16,01% 21 4,61%
3 2016 470 397 84,47% 48 10,21% 25 5,32%
4 2017 464 347 74,78% 95 20,47% 22 4,75%
5 2018 372 308 82,79% 47 12,63% 17 4,58%
Tổng cộng 2.193 1.727 78,75% 355 16,19% 111 5,06%
Nguồn: Tòa án nhân dân quận 7
Qua phân tích số liệu áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân
dân quận 7 ta thấy: Áp dụng hình phạt tù từ 3 năm trở xuống đối với 1.727 bị
cáo, chiếm tỷ lệ 78,75%, tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn;
Áp dụng hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm đối với 355 bị cáo, chiếm tỷ lệ
16,19% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn; Áp dụng hình phạt
tù từ 7 năm đến 15 năm đối với 111 bị cáo, chiếm 5,06% tổng số bị cáo bị áp
dụng hình phạt tù có thời hạn.
Từ những số liệu trên cho thấy chất lượng xét xử được nâng cao, Tòa
án áp dụng các quy định của pháp luật tuyên mức án hình phạt tù có thời hạn
chiếm tỉ lệ cao hơn so với án phạt tiền hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng án
treo, các bản án được tuyên bảo đảm đúng người, đúng tội. Hình phạt Tòa án
nhân dân quận 7 áp dụng đã nghiêm trị những tên cầm đầu, những tên ngoan 37
cố...đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và nhà nước ta đối
với những người tự thú, những người biết ăn năn hối cải phục thiện…
Khi áp dụng hình phạt Tòa án đã xem xét các tình tiết như: tình tiết
định khung hình phạt; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự và đặc điểm về nhân thân của bị cáo, để từ đó áp dụng cho phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Tuy nhiên, khi Tòa án áp dụng
mức hình phạt tù có thời hạn đối với người bị kết án có những trường hợp còn
chưa phù hợp. Điển hình các vụ án như sau:
Ví dụ: Ngày 13/7/2017 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số
105/2017/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:
Lê Quốc M, sinh năm 1975 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính:
Nam; trú tại: C13/33 đường D, phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;
nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; con ông Lê Bá H
sinh năm 1949 và con bà Nguyễn Thị T sinh năm 1950 (đã chết); tiền án: Bản
án số 1166/HSST ngày 12/7/1997 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xử phạt Lê Quốc M 04 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản”; Bản án
số 52/HSST ngày 09/4/2001 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh xử phạt Lê Quốc M 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số
23/HSST ngày 29/3/2004 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh xử phạt Lê Quốc M 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số
97/HSST ngày 30/9/2004 của Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận, Thành phố
Hồ Chí Minh xử phạt Lê Quốc M 05 năm tù tội “Trộm cắp tài sản” và tổng
hợp hình phạt với bản án số 23/HSST ngày 29/3/2004 của Tòa án nhân dân
Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh về tội “Trộm cắp tài sản” là 09 năm tù; Bản
án số 211/2012/HSST ngày 20/9/2012 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành
38
phố Hồ Chí Minh xử phạt Lê Quốc M 04 năm tù về tội “Trộm cắp 2 tài sản”
và chấp hành xong án phạt tù vào ngày 30/09/2015; tiền sự: không;
Bị cáo Lê Quốc M bị VKSND quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố
về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 22/02/2017 Lê Quốc M gặp Hải (không rõ
nhân thân, lai lịch) ở đường Tôn Đản, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Hải
nói với Lê Quốc M cùng Hải qua Quận 7 để xem có ai để xe máy sơ hở trộm
bán lấy tiền tiêu xài, Hải đã chuẩn bị sẵn 01 thanh kim loại hình chữ T và 02
lưỡi cưa để phá khóa xe máy, Lê Quốc M đồng ý.
Hải điều khiển xe gắn máy Atila màu trắng (Lê Quốc M không nhớ
biển số xe) chở Lê Quốc M, khi cả hai đến khu nhà trọ số 13 đường số 70 khu
dân cư Tân Quy Đông, phường Tân Phong thì phát hiện trong dãy nhà trọ có
nhiều xe gắn máy để ngoài hành lang. Hải đứng ngoài cảnh giới còn Lê Quốc
M đi bộ vào trong dùng thanh kim loại (cây đoản) phá khóa xe máy hiệu
Exiter biển số: 59C2-094.78 của bà Lê Thị H. Khi đang mở khóa thì bị người
ở dãy trọ phát hiện tri hô, cùng lúc đó có dân phòng đi tuần tra phát hiện bắt
được Lê Quốc M cùng vật chứng, còn Hải đã chạy thoát.
Theo kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐĐGTTHS của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 7 ngày
27/3/2017 kết luận như sau: Chiếc xe máy hiệu Exciter biển số 59C2-094.78
tính đến thời điểm bị xâm phạm, có giá trị là: 10.000.000 đồng (Mười triệu
đồng).
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Lê Quốc M đã khai
nhận về hành vi phạm tội của mình.
Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng điểm c khoản 2 Điều
39
138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 04 năm 06
tháng đến 05 năm tù.
Bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của mình phù hợp với nội
dung bản cáo trạng được tóm tắt ở trên, không tự bào chữa, không tranh luận,
xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa kết hợp với các tài
liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ, xét có đủ cơ sở để kết luận: Bằng
thủ đoạn lén lút, lợi dụng sự sơ hở và thiếu cảnh giác của chủ tài sản, bị cáo
đã có hành vi chiếm đoạt của bà Lê Thị H 01 xe gắn máy hiệu Exciter biển số
59C2-094.78 trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt là 10.000.000 (Mười triệu)
đồng. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên
thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung và các tài
liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Xét đã có đủ cơ sở để
kết luận: Bị cáo Lê Quốc M đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy
định tại điểm c Khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân
dân Quận 7 truy tố là đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và liều lĩnh, xuất phát từ động cơ
tham lam tư lợi để có tiền tiêu xài. Hành vi này là nghiêm trọng, nguy hiểm
cho xã hội vì đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản sở hữu hợp pháp của công
dân, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy,
cần xử phạt mức án nghiêm khắc để có đủ tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và
phòng ngừa chung trong xã hội.
Quá trình thẩm vấn tại tòa, bị cáo khai báo trung thực; tài sản trộm cắp
đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, p
khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Quốc M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm c Khoản 2 Điều 138; điểm g, p Khoản 1 Điều 46 của
BLHS:
40
Xử phạt: Bị cáo Lê Quốc M: 05 (năm) năm tù.
Mức hình phạt tù có thời hạn TAND quận 7 áp dụng đối với bị cáo Lê
Quốc M là phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, có cân
nhắc đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo.
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hình phạt tù
của Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
Bên cạnh những kết quả đã đạt được của việc ADHP tù có thời hạn còn
bộc lộ những thiếu sót, hạn chế gây ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp
của người phạm tội. Các thiếu sót, vướng mắc này tập trung ở những dạng sau
đây:
Thứ nhất, có tình trạng ưu tiên áp dụng hình phạt tù có thời hạn
Qua số liệu thống kê về các hình phạt chính được áp dụng của Tòa án
nhân dân Quận 7 ta thấy: Áp dụng hình phạt cảnh cáo không có trường hợp
nào; Áp dụng hình phạt tiền chiếm 18,9%; áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ chiếm 0,088%; Áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo
chiếm 9,95%; Áp dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm 77,13%. Tỷ lệ hình
phạt tù có thời hạn cao hơn nhiều lần so với các hình phạt khác. Trong số các
bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì có 76,54% bị cáo có mức hình
phạt dưới ba năm. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn với tỷ lệ cao cho
thấy những người áp dụng pháp luật thường ưu tiên áp dụng hình phạt tù có
thời hạn để răn đe giáo dục người phạm tội.
Xác định căn cứ tạm giam: Hạn chế áp dụng tạm giam đối với một số
loại tội phạm, thu hẹp người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện
pháp tạm giam. Việc Tòa án quận 7 ưu tiên lựa chọn hình phạt tù có thời hạn
để áp dụng xuất phát từ nhiều lý do: Do nhận thức của người áp dụng, do dư
luận xã hội,… nhận thức của người dân cho rằng hành vi phạm tội phải trừng
trị nghiêm khắc. Theo đó, mục đích giáo dục, phòng ngừa đứng sau mục đích
41
trừng trị. Người áp dụng hình phạt cụ thể là Tòa án và Hội đồng xét xử chưa
thấy được lợi ích của việc giảm hình phạt tù và tăng cường áp dụng các loại
hình phạt khác như phạt tiền...
Ví dụ điển hình cụ thể:
Theo bản án số: 28/2018/HS-ST; Ngày: 11-4-2018 của TAND quận 7.
Ngày 28/10/2017, Huỳnh Khánh D, có giấy phép lái xe hạng B2 điều
khiển xe ô tô biển số 51G-365.22 chở K ngồi ghế phụ và L ngồi ghế phía sau
lưu thông trên đường Nguyễn Văn Linh, lúc này mặt đường nhựa khô ráo
bằng phẳng, giữa tim đường có dải phân cách cố định liên tục chia thành hai
chiều đường xe chạy, phần đường hướng quận 7 đi về quận 4 có vạch sơn đứt
quãng chia thành 02 làn đường xe chạy, làn đường bên trái sát dải phân cách
rộng 4m, làn đường bên phải sát lề rộng 3,6m. D điều khiển xe lưu thông
phần đường bên trái sát dải phân cách với tốc độ khoảng 60 Km/h, cùng lúc
này phía trước cùng chiều trên làn đường bên trái có 01 xe ô tô khách loại 16
chỗ ngồi (không rõ biển số và người điều khiển) đang lưu thông bất ngờ lấn
sang nên D điều khiển xe lách sang phải và chạy song song xe ô tô 16 chỗ thì
lập tức phần đầu xe của D va chạm vào đuôi xe mô tô biển số 71S9-1223 do
Bùi Văn G điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều cách mép lề phải
khoảng 1,6m, đẩy xe này cày trên mặt đường chếch sang phải xuống lề phụ
một đoạn 13m rơi xuống mương cống cặp bên phải ĐT830, làm ông G té ngã
trên đường bất tỉnh, do mất bình tĩnh D không phanh xe lại mà điều khiển xe
chạy về phía trước một đoạn 5,8m thì phần đầu xe của D tiếp tục va chạm
đuôi xe đạp do Nguyễn Văn B đang lưu thông phía trước cùng chiều cách
mép lề phải khoảng 2,1m, xe 51G-365.22 kéo và hất văng ông B về phía
trước khoảng 77m và rớt xuống đường sát mép lề phải làm ông B chết tại hiện
trường còn xe đạp bị hất văng dính vào một thân cây xanh cặp lề phải gây ra
vụ tai nạn giao thông. Sau đó, ông B được đưa đi Bệnh viện đa khoa quận 7
42
cấp cứu và chết do chấn thương sọ não.
Sau sự việc xảy ra, chị Phạm Quí T là vợ của Huỳnh Khánh D đã bồi
thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho bà Nguyễn Thị V đại diện hợp
pháp của ông Nguyễn Văn B số tiền 60.000.000 đồng, ông Nguyễn Tấn T là
chủ xe 51G-365.22 bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho bà
Nguyễn Thị V đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn B số tiền 100.000.000
đồng, hiện bà Nguyễn Thị V đã nhận tiền xong và có đơn bãi nại. Ông
Nguyễn Tấn T là chủ xe 51G-365.22 đã thỏa thuận bồi thường chi phí điều trị
và chi phí sửa chữa xe cho ông Bùi Văn G số tiền 20.000.000đồng, hiện ông
G đã nhận tiền xong và có đơn bãi nại.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo xuất thân từ thành
phần nhân dân lao động, mới phạm tội lần đầu, đã tự nguyện bồi thường thiệt
hại khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện hoàn cảnh
gia đình bị cáo gặp khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo
có cha Huỳnh Văn M từng tham gia cách mạng.
Bản án đã tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Khánh D phạm tội “Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51, Điều 54, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Huỳnh Khánh D 01 (một) năm tù, thời gian tù tính từ
ngày 28-10-2017.
Trong vụ án này, bị cáo không cố ý trong việc để xảy ra tai nạn đối với
ông Nguyễn Văn B, vì xe ô tô khách loại 16 chỗ ngồi đã chạy lấn tuyến. Sau
vụ tai nạn, bị cáo đã đưa người bị tai nạn đi cấp cứu, gia đình bị cáo đã bồi
thường cho người bị hại, đại diện người bị hại có đơn giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho. Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, cha bị cáo là người
43
có công với cách mạng. Theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự thì trường
hợp của bị cáo D có thể bị áp dụng hình phạt như bị phạt tiền từ 05 triệu đồng
đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm. Trong trường hợp này áp dụng phạt cải tạo không giam giữ
mà không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, sau khi
sự việc xảy ra, thì cơ quan điều tra đã tạm giam bị cáo cho nên về ý thức chủ
quan của các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử phạt tù đối với bị cáo D để trừ
thời hạn tù vào thời gian tạm giam. Điều đó, thể hiện ý thức chủ quan của Hội
đồng xét xử mà đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là “ưu tiên” áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người bị kết án mới răn đe, giáo dục và
phòng ngừa tội phạm. Ngoài ra, trên thực tế đa số những vụ án hình sự đều
được các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án) đã họp liên ngành, thống nhất quan điểm xác định áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với bị can, bị cáo khi bị tạm giam.
Thứ hai, những bất cập trong việc xác định các tình tiết của vụ án
Do trình độ, năng lực của Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán – Chủ tọa
phiên tòa không nghiên cứu kỹ các chứng cứ có trong hồ sơ và không đánh
giá một cách toàn diện diễn biến tại phiên tòa, luôn có tư tưởng “trọng chứng
hơn trọng cung”. Hoặc cũng có một số trường hợp Thẩm phán chủ quan,
không nghiên cứu kỹ hồ sơ, cho rằng sự thật rất rõ ràng, không phải chứng
minh. Hay cũng có một số trường hợp Thẩm phán bị tác động khi xét xử ảnh
hưởng đến quyết định hình phạt đối với người bị kết án.
Ví dụ: Khoảng thời gian từ 18 giờ đến 19 giờ ngày 09/5/2018, Danh
Mỹ Y, sinh ngày 23/11/2006 đến nằm chơi tại phòng trọ số 39 của Nguyễn
Văn Bình tại phường Tân Phong, quận 7. Tại phòng trọ này Nguyễn Văn B đã
đóng cửa phòng trọ ngồi xuống nền gạch, dùng tay kích thích vào bộ phận
sinh dục của Y, B cởi quần của Y, dùng tay kéo người của Y lại gần. Nguyễn
44
Văn B vén ống quần đùi tay cầm dương vật để thực hiện hành vi giao cấu với
Danh Mỹ Y. Do bị đau nên Y dùng chân đạp vào người của B không cho B
tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu. B tiếp tục kéo người của Y chạm vào
người của B để thực hiện hành vi giao cấu nhưng Y đứng dậy kéo quần lên đi
về và báo cho người nhà biết việc B đã thực hiện hành vi giao cấu đối với Y.
Ngày 09/10/2018, ông Danh H cha ruột của Danh Mỹ Y làm đơn tố cáo
Nguyễn Văn B. Ngoài đơn tố cáo của ông Danh H, Công an phường Tân
Phong có tiến hành lập biên bản ghi nhận yêu cầu của đại diện bị hại vào lúc
20 giờ 30 phút ngày 09/5/2018.
Tại bản án số 04/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 Tòa án nhân dân quận
7, đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 142; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều
50; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 07 (bảy) năm tù.
Bản án bị Viện kiểm sát nhân dân quận 7 kháng nghị theo hướng hủy
để điều tra, truy tố, xét xử bị cáo B phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”
trong trường hợp phạm tội chưa đạt. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm đã chấp thuận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
quận 7.
Thứ ba, quyết định hình phạt (QĐHP) không đúng dẫn đến QĐHP quá
nặng, quá nhẹ, cho hưởng án treo
Trong các vụ án hình sự, Hội đồng xét xử đã xác định không đúng tính
chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo…dẫn đến có những sai
sót trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội.
Đánh giá tính chất hành vi phạm tội không đúng, dẫn đến QĐHP
không đúng
Khoảng 17 giờ ngày 23/11/2015, Đặng Thanh T sinh ngày 07/10/2001
45
do không có tiền tiêu xài cá nhân nên nảy sinh ý định đột nhập vào nhà chị
Lâm Thị R, số 220 đường số 7, phường Tân Thuận Đông, quận 7, Tp. Hồ Chí
Minh cướp tài sản. T đi bộ đến phía sau nhà chị R leo qua hàng rào cao
khoảng 1m60 vào sân sau, T dùng tay bẻ thanh sắt khung cửa sổ phía sau tạo
thành khoảng trống có kích thước 0,65 x 0,16m rồi chui qua khoảng trống vào
bên trong nhà chị R. T lấy một cây kéo cán bằng nhựa màu đỏ, lưỡi bằng kim
loại màu trắng dài 21cm đang để trên bàn. T cầm trên tay vào phòng vệ sinh
chờ chị R về để khống chế chiếm đoạt tài sản. Đến 17 giờ 30 phút chị R đi
làm về vào phòng vệ sinh, thấy cửa phòng vệ sinh đóng chị R đẩy vào phát
hiện T ở bên trong, chị R la lên đồng thời lùi ra bên ngoài, T bước ra dùng tay
phải nắm tóc, tay trái cầm kéo đưa ngang mặt chị R khống chế, chị R dùng
hai tay nắm tóc T đồng thời dùng sức đẩy T vào vách tường. T hỏi chị R “tiền
bà để đâu? Đưa tiền đây”, chị R trả lời “tiền để trong túi áo”. T buông chị R ra
và dùng tay phải đấm vào vùng mặt bên trái của chị R 01 cái làm chị R té ngã
dưới nền nhà. T dùng tay phải đưa vào túi áo bên trái của chị R lấy 35.000
đồng bỏ vào túi quần rồi tiếp tục lấy điện thoại của chị R để trong túi quần gọi
cho cha là Đặng Thanh H xin đi đá bóng. Sau khi gọi xong, T bỏ điện thoại
trở lại túi quần chị R. Thấy chị R bất tỉnh T kéo chị R vào buồng thứ hai mở
đèn rồi ra phía sau trèo qua tường rào tẩu thoát. Khoảng 30 phút sau, T quay
trở lại gặp chị R và nói “chuyện này không được nói cho ai biết”. Chị R trả lời
“đã báo công an rồi” nghe vậy T trèo qua tường rào bỏ chạy về nhà lấy quần
áo bỏ trốn, T bị Cơ quan CSĐT Công an quận 7 truy nã, đến ngày 08/5/2018
T đến Công an quận 7 đầu thú.
Tại bản án 64/2018/HSST ngày 20/8/2018, Tuyên bố bị cáo Đặng
Thanh T phạm tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, điểm g, điểm p khoản 1
khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm h
46
khoản 2, Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của
Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Đặng Thanh T 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.
Với tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo Đặng Thanh T gây ra như
Tòa án đã xử phạt bị cáo Đặng Thanh T với mức án nêu trên là không tương
xứng. Theo quan điểm của tác giả phải xử phạt bị cáo T với mức án nghiêm
khắc hơn, vì bị cáo phạm tội tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự
phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Do đó, cần áp dụng biện pháp là hình phạt
tù có thời hạn đối với bị cáo Đặng Thanh T.
Áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không đúng, dẫn đến áp
dụng hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ
Nguyễn Văn D, sinh năm 1995 và Phan Thị Ngọc L, sinh ngày 11
tháng 5 năm 2004 có quen biết và sau đó phát sinh tình cảm yêu thương nhau.
Đến khoảng 23 giờ, không xác định được ngày của tháng 7 năm 2017, Linh đi
bộ qua nhà trọ của D tại phường Tân Quy chơi. Khi L đến D đang xem tivi,
còn bà Nguyễn Thị T là mẹ của D đang ngủ trong phòng, L đến ngồi nói
chuyện với D ở phòng khách được khoảng 10 phút thì D ra đóng cửa nhà lại,
L và D ngồi nói chuyện thêm được khoảng 05 phút, D và L cả hai dùng tay sờ
vào người và bộ phận sinh dục lẫn nhau, sau đó D cởi quần của L ra và tự cởi
quần của mình rồi giao cấu với L, trong lúc thực hiện L nói đau nên D rút
dương vật ra, D và L tự mặc quần áo vào rồi L đi về nhà.
Đến đầu tháng 8 năm 2017, D tiếp tục giao cấu với L 01 lần tại nhà trọ
và sau đó D tiếp tục giao cấu với L khoảng 10 lần, tất cả các lần D giao cấu
với L, L đều tự nguyện. Đến ngày 25/02/2018, gia đình L phát hiện L có biểu
hiện khác thường, nên Phan Thị Ngọc Ng là chị ruột của L dẫn L đi khám kết
quả L có thai 25 tuần tuổi. Sau đó gia đình của D đến gặp gia đình L để nói
chuyện và cả hai gia đình đồng ý cho D và L sống với nhau như vợ chồng tại
47
nhà của cha mẹ D thuê tại phường Tân Quy. Khi về sống chung, D và L đã
giao cấu với L khoảng 07 lần nữa. Ngày 17/5/2018, L sinh 01 bé gái tại Bệnh
viện đa khoa quận 7, đặt tên Phan Ngọc Thảo M, mọi chi phí sinh cháu M do
gia đình của D chi trả. Đến ngày 18/8/2018, D có mâu thuẫn với gia đình của
L, nên gia đình của L gửi đơn tố giác đến Công an phường Tân Quy lập hồ sơ
ban đầu và chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an quận 7 để điều tra theo thẩm
quyền.
Tại Bản kết luận giám định số 4274/C09B ngày 31/10/2018 của Phân
viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Phan Thị Ngọc L
là mẹ ruột của Phan Ngọc Thảo M, Nguyễn Văn D là cha ruột của Phan Ngọc
Thảo M với xác suất 99,99%.
Tòa án nhân dân quận 7, đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội
“Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”.
Áp dụng điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145; điểm b, điểm r, điểm s
khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm
2015 xử phạt:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Trong vụ án này, thì bị cáo D phạm tội thuộc trường hợp làm cho nạn
nhân có thai với mức án là 03 năm đến 10 năm. Nhưng Tòa án chỉ xử phạt bị
cáo với mức án là 01 năm 06 tháng tù là chưa tương xứng với tính chất, mức
độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra cho bị hại. Hành vi trái pháp luật của bị
cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân
phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát triển bình
thường của trẻ em. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bị hại L để thỏa mãn dục
vọng tình dục của bản thân, mặc dù bị cáo biết rõ Phan Thị Ngọc L là người
chưa đủ 16 tuổi bị cáo vẫn quan hệ và dẫn đến L có thai và sinh con. Hậu quả
mà bị cáo để lại rất lớn, làm mất đi tuổi thơ, hồn nhiên của bị hại L. Tương lai
48
của L và con của L sẽ bị ảnh hưởng rất lớn về tinh thần và thể chất.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn chưa thật sự thống nhất
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/12/2017, Nguyễn Đức T mượn xe mô
tô nhãn hiệu Yamaha Sirius FI màu xám-đen biển số 62T1-109.74 của anh
Phạm Nhật Q là bạn của T tại phòng trọ của anh Huỳnh Hữu H ở khu phố 8,
phường Tân Phú, quận 7 để chở đồ dùm chị ruột của T, anh Q đồng ý giao xe
và chìa khóa cho T. Sau khi chở đồ cho chị ruột xong, T nảy sinh ý định
chiếm đoạt xe của anh Q để lấy tiền tiêu xài cá nhân nên T không trả xe cho
anh Q mà đến gặp Huỳnh Hữu Đ (còn gọi là Trọng E là bạn cùng chơi game
bắn cá với T) hỏi chỗ cầm xe. Đ chỉ T đến gặp Nguyễn Hữu N chủ tiệm cầm
đồ để cầm với giá 7.000.000 đồng. T đưa Huỳnh Hữu Đ 1.000.000 đồng mua
ma túy sử dụng chung, số tiền còn lại T chơi game bắn cá hết. Sau đó, T đến
gặp N thỏa thuận bán xe mô tô biển số 62T1-109.74 với giá 10.500.000 đồng,
N đồng ý mua và đưa thêm cho T số tiền 3.500.000 đồng. Đến ngày
13/12/2017 không thấy T quay lại trả xe, anh Q đến Công an phường Tân Phú
trình báo toàn bộ sự việc.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐG ngày 14/12/2017
của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự định giá xe mô tô biển số
62T1-109.74 trị giá 17.500.000 đồng.
Bản án số 59/HSST ngày 05/6/2018, đã xử tuyên án: Bị cáo Nguyễn
Đức T phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 175, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn
Đức T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
Cũng một hành vi lạm dụng tương tự nêu trên nhưng lại xử phạt bị cáo
với mức án khác như sau:
Nguyễn Trọng T và Nguyễn Minh Th là bạn bè quen biết, vào khoảng
49
20 giờ 00 phút ngày 18/12/2017, T và Th hẹn và gặp nhau uống cà phê tại
quán giải khát “Gợi nhớ” phường Tân Thuận Tây, quận 7. Khi vào quán ngồi
được khoảng 05 phút, vì quán không bán thuốc lá nên T hỏi mượn xe mô tô
Wave S biển số 62T-039.64 thuộc sở hữu của chị Lê Thị Kim S cho Th mượn
đi làm để chạy đi mua gói thuốc lá và hứa 05 phút sau sẽ trả lại, Th đồng ý và
đưa chìa khóa xe cho T lấy xe. T điều khiển xe mô tô biển số 62T-039.64 đến
một tiệm tạp hóa cách quán giải khát khoảng 500m mua 01 gói thuốc lá rồi
điều khiển xe quay về. Trên đường về T ghé vào tiệm game bắn cá “Thế giới
game” gần quán cà phê, khoảng 20 phút sau thì T chơi game thua hết tiền nên
nảy sinh ý định cầm xe mô tô biển số 62T-039.64 lấy tiền chơi game tiếp. Khi
ra cửa tiệm game thì T gặp Huỳnh Hữu H, lúc này T nhờ H tìm chỗ cầm xe
mô tô biển số 62T-039.64 với giá 6.500.000 đồng, T không nói cho H biết
đây là xe của Th và là chỗ bạn bè nên H đồng ý. T đưa xe mô tô biển số 62T-
039.64 cho H, H lấy xe chạy đi cầm cho Đ với số tiền là 6.500.000 đồng, sau
đó H lấy tiền quay lại tiệm game đưa cho T, khi nhận tiền xong thì T tiếp tục
chơi game. Còn Đ sau khi nhận cầm xe mô tô biển số 62T-039.64 thì lên cầm
lại xe trên cho V (không rõ nhân thân địa chỉ) với số tiền 7.500.000 đồng,
hiện CQĐT không thu hồi được xe mô tô biển số 62T-039.64. Th ngồi tại
quán nước không thấy T quay lại và không liên lạc được nên làm đơn tố giác
về hành vi chiếm đoạt tài sản của T đến Công an phường Tân Thuận Tây,
quận 7.
Tại Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố
tụng hình sự đã tiến hành định giá và kết luận: 01 xe mô tô hiệu Wave S biển
số 62T-039.64 trị giá là 10.900.000 đồng.
Bản án đã tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội "Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175, điểm b, điểm i, điểm s khoản 1,
50
khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo
Nguyễn Trọng T 06 (sáu) tháng tù.
Tại 02 bản án trên các bị cáo đều bị Tòa án xét xử theo khoản 1 Điều
175 Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo tương tự nhau, đều áp dụng tình
tiết giảm nhẹ theo điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50 Bộ luật
hình sự, các bị cáo đều khắc phục hậu quả. Nhưng mức án của hai bị cáo lại
khác nhau như vậy, chưa thể hiện được sự công bằng và thống nhất, còn mang
tính tùy nghi cao. Hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo D có phần quá
nghiêm khắc, không thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật… Điều này
làm ảnh hưởng tới chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn, làm cho người
dân thiếu sự tin tưởng vào công lý, công bằng của bản án mà Tòa án đã phán
quyết. Điều này, ảnh hưởng đến sự “nghi kỵ” và sự khách quan, vô tư của Hội
đồng xét xử mà đặc biệt là của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa dẫn đến một
số không nhỏ luôn có suy nghĩ “có tiền thì sẽ được hưởng án treo hoặc có
một mức án thấp nhất”. Với lối suy nghĩ này của rất nhiều người đã và đang
tồn tại trong xã hội hiện nay. Điều đó, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét
xử của ngành Tòa án ở nước ta. Do đó, trong thời gian tới, cần phải có biện
pháp để các cơ quan tiến hành tố tụng mà đặc biệt là Tòa án áp dụng hình
phạt tù có thời hạn thật sự công bằng, khách quan, công tâm, tránh sự tùy
nghi.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Những hạn chế, vướng mắc nêu trên của Tòa án nhân dân quận 7, thành
phố Hồ Chí Minh xảy ra khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn do nhiều
nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu ở những nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân về nhận thức:
Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế, vướng mắc trong việc áp hình
phạt tù có thời hạn xuất phát từ nhận thức của những thành viên trong Hội
51
đồng xét xử: Nhận thức chưa đúng đắn về vai trò của hình phạt, quá coi trọng
mục đích trừng trị mà xem nhẹ tác dụng của các hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù...chưa thấy được mục đích tốt đẹp hướng tới của hình phạt đó là giáo dục
người phạm tội ý thức tuân theo pháp luật và ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Hiện nay, không chỉ người dân mà cả những người trong Hội đồng xét
xử đều có suy nghĩ là đã phạm tội phải trừng trị bằng biện pháp cách ly khỏi
đời sống xã hội. Điều này đã gây quá tải cho hệ các cơ sở giam giữ vì số
lượng người phạm tội quá đông.
Qua số liệu phân tích của các chương trước cho thấy số lượng bị cáo bị
áp dụng hình phạt tù thuộc mức hình phạt từ ba năm trở xuống, có nhiều
người chỉ bị kết án chỉ mấy tháng tù. Với thời gian ngắn như vậy thì việc giáo
dục để đạt được kết quả tốt là rất khó… có nhiều hình phạt nhẹ hơn mà vẫn
đảm bảo được mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội.
Bất cập của Bộ luật hình sự
Một số quy định trong Bộ luật hình sự còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng,
chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung dẫn đến những cách áp dụng khác nhau. Ví dụ
như việc quy định khung hình phạt tù có thời hạn với khoảng cách quá
rộng…dẫn đến việc áp dụng hình phạt tù của HĐXX chưa phù hợp với mức
độ nguy hiểm mà bị cáo đã phạm tội...
Qua thực tế áp dụng hình phạt tù có thời hạn như đã phân tích ở trên,
Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp chấp hành hình phạt tù khác nhau: Như
quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm X khoản 1 Điều
51 BLHS năm 2015: Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là
cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ. Theo Pháp lệnh Số: 04 năm 2012 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội khóa 13 ngày 16 tháng 7 năm 2012 sửa đổi, bổ sung
một số điều…ưu đãi người có công…quy định như sau:
1. Người có công với cách mạng:
52
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
c) khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
d) Liệt sĩ;
e) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
f) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
g) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
h) Bệnh binh;
i) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày;
l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
m) Người có công giúp đỡ cách mạng [30].
Thực tiễn xét xử cho thấy tuổi của các bị cáo còn trẻ nên theo quy định
về người có công rất ít bị cáo hưởng được điều kiện tình tiết giảm nhẹ này.
Như vậy vô hình dung đã không thực hiện được chính sách hình sự hướng
thiện, giảm hình phạt tù, tăng cường hình phạt không phải là tù.
Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, những thiếu sót trong các
qui định của Bộ luật hình sự, dẫn tới việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn
vẫn còn thiếu sót, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân.
Hạn chế trong hướng dẫn áp dụng pháp luật
UBTVQH là cơ quan cao nhất giải thích luật, pháp lệnh. Nhưng chưa
thực hiện được quyền này vì sự quá tải trong xây dựng pháp luật. Nên mọi
vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật đối với hình phạt tù có thời hạn đều
dựa vào văn bản hướng dẫn của các cơ quan tư pháp ở Trung ương mà chủ
53
yếu là Tòa án nhân dân tối cao. Hình thức văn bản vẫn chủ yếu là các thông tư
liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Thực
tế văn bản hướng dẫn ADHP còn chưa kịp thời… dẫn đến nhiều khó khăn cho
hoạt động áp ADHP tù có thời hạn của Tòa án cấp dưới. Nguyên nhân chủ
yếu do Tòa án nhân dân tối cao trong công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
xét xử còn chậm dẫn đến các vướng mắc trong quá trình ADHP tù của Tòa án
các địa phương.
Trình độ, năng lực, Thẩm phán, Hội thẩm
Ngoài những khó khăn mang tính khách quan còn có những khó khăn
đó là: Trình độ, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm. Bên cạnh đó là việc thiếu
biên chế do chủ trương của của Đảng và Nhà nước về tinh giảm cán bộ. Vì
vậy dẫn đến áp lực lớn đối với cán bộ Tòa án, do đó dẫn đến tình trạng bản án
bị hủy, bị sửa… Ngoài ra, còn có những Thẩm phán chưa thực sự vững vàng
về bản lĩnh chính trị,… ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt tù.
Trình độ năng lực của một số ít bộ phận Hội thẩm nhân dân chưa theo
kịp yêu cầu của công tác xét xử. Vì các Hội thẩm nhân dân chủ yếu là kiêm
nhiệm, nên về kiến thức pháp lý còn hạn chế…dẫn đến việc áp dụng hình phạt
tù có thời hạn trong các vụ án hình sự cũng bị ảnh hưởng.
Các yếu tố tác động khác
Việc đề ra những giải pháp mang tính đột phá nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động xét xử (HĐXX) các vụ án hình sự tiến hành còn chậm, còn chưa
đồng bộ, đặc biệt trong việc ADHP tù.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của cơ quan Tòa án
còn thiếu, chưa ổn định. Bên cạnh đó những tác động tiêu cực… ảnh hưởng
đến hoạt động áp dụng hình phạt tù.
Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức trong hệ thống
Tòa án chưa phù hợp, chưa đủ để họ thật sự khách quan, vô tư trong hoạt
54
động xét xử.
Công tác kiểm tra việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án cấp trên đối
với Tòa án cấp dưới chưa thường xuyên, dẫn đến chưa phát hiện thiếu sót để
chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
Vẫn còn sự tác động, can thiệp gián tiếp của cá nhân đến việc áp dụng
hình phạt tù có thời hạn của Tòa án.
Kết luận Chương 2
Qua thực tiễn tình hình tội phạm và ADHP tù có thời hạn của Tòa án
nhân dân Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh cho ta thấy: Hoạt động ADHP tù
có thời hạn đã đạt được những kết quả tương đối tốt, đáng biểu dương, khen
ngợi. Việc đưa ra các vụ án xét xử đạt tỷ lệ cao, đảm bảo đúng người, đúng
tội, không bỏ lọt tội phạm cũng như kết án oan người vô tội. Bên cạnh những
kết quả đã đạt được thì hoạt động ADHP tù có thời hạn vẫn còn những hạn
chế chưa đáp ứng được mục đích: giáo dục… phòng ngừa.
Những hạn chế trong việc ADHP tù có thời hạn do nhiều nguyên nhân.
Nhưng chủ yếu vẫn là những bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự, khi
hướng dẫn ADHP tù có thời hạn.
55
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ
THỜI HẠN
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn
3.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp để áp dụng đúng hình phạt tù có thời
hạn
Trong thời gian qua, công tác cải cách tư pháp vẫn còn những hạn chế,
bất cập nhất định: Trường hợp bỏ lọt tội phạm còn xảy ra, làm oan những
người không phạm tội…làm ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công
dân và tạo dư luận không tốt trong xã hội.
Để khắc phục những hạn chế đó… xây dựng nhà nước do dân, vì dân,
Bộ chính trị đã ban hành các nghị quyết để định hướng về công tác cải cách tư
pháp như:
Nghị quyết số 08 Nghị quyết Trung ương ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị (BCT) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới (những quan điểm chỉ đạo của BCT).
Nghị quyết số 49 Nghị quyết Trung ương ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (những mục tiêu, quan
điểm cải cách tư pháp của BCT).
Theo định hướng của Đảng, Nhà nước: Công tác xây dựng và hoạt
động áp dụng pháp luật phải dựa trên tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Nghị quyết số 49 Nghị quyết Trung ương ngày 02/06/2005 thể hiện
mục tiêu của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp: “Hoàn thiện chính sách,
pháp luật… bảo vệ quyền con người” [4].
Để thực hiện những mục tiêu cải cách tư pháp đã đặt ra, cũng như nâng
56
cao chất lượng ADHP tù có thời hạn cơ quan Tòa án phải thể chế hóa các các
tình tiết ảnh hưởng trực tiếp đến việc ADHP tù có thời hạn. Tòa án khi xét xử
cần vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật, xem xét các tình tiết của
vụ án, nhân thân người phạm tội để đưa ra mức hình phạt tù có thời hạn đạt
lý, thấu tình đảm bảo những yêu cầu mà cải cách tư pháp đã đặt ra.
3.1.2. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng tính hướng thiện, coi trọng tính
phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng các hình phạt không phải tù
Mục đích hình phạt tù nói chung, tù có thời hạn nói riêng không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội…giáo dục…cải tạo…pháp luật…ngăn ngừa họ
phạm tội mới. Để bản thân người phạm tội nhìn nhận ra lỗi lầm của mình từ
đó khắc phục, sửa chữa...có ích cho xã hội.
Bên cạnh đó các cơ quan chức năng trong khi thực hiện nhiệm vụ cần
coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự: Tính phòng ngừa, tính hướng
thiện trong xử lý tội phạm. Giảm hình phạt tù, tăng hình phạt tiền... Hạn chế
ADHP tử hình…chỉ áp dụng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng…làm ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia (để chính sách hình sự hội nhập với Quốc tế).
Phân định rõ thẩm quyền quản lý trong hoạt động cải cách tư pháp theo
hướng tăng quyền, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
để họ chủ động thực khi thi hành công vụ, chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định tố tụng của họ.
Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt,…hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú,…hợp tác với cơ quan điều tra…
trong việc phát hiện tội phạm,…sửa chữa, bồi thường thiệt hại do bản thân
gây ra.
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền con người của người phạm tội
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một trong những nội
57
dung mục đích đến của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Chăm lo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để con người phát triển đó là
mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta.
Hình phạt tù có thời hạn buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt
tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, bị hạn chế một số quyền theo
quy định mà Tòa án đã tuyên. Ví dụ: Không được sử dụng tiền mặt,…nơi
chấp hành án tù,… không được sử dụng điện thoại…
Ngoài ra còn phải chịu áp lực từ xã hội, bạn bè, người thân. Điều này sẽ
ảnh hưởng đến tâm lý quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội
khi họ ra tù.
Thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa
trong áp dụng hình phạt tù cũng chính là biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền
con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy trong
quá trình giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng cần chú trọng đến
quyền con người của các bị can, bị cáo như: Được đưa ra chứng cứ tài liệu,
trình bày quan điểm, nhờ người bào chữa.
Chỉ khi đảm bảo được quyền con người của người phạm tội thì hình
phạt tù có thời hạn mới đạt được tác dụng như mong muốn.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn.
3.2.1. Giải pháp về nhận thức
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chính sách hình sự hướng thiện của
hình phạt nói chung và hình phạt tù có thời hạn nói riêng là giáo dục người
phạm tội ý thức tuân theo pháp luật và ngăn ngừa họ phạm tội mới. Để bản
thân người phạm tội nhận ra lỗi lầm của mình, sửa chữa, khắc phục mà không
cần cách ly với đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi sự phối hợp của các cơ quan
có thẩm quyền, tuyên truyền các buổi hội thảo, các buổi tập huấn để nâng cao
hiệu quả phòng ngừa theo tinh thần của Nghị quyết số 49 Nghị quyết Trung
58
ương ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
Nhận thức được mục đích, vai trò của hình phạt tù thì chúng ta…thực
hiện được chính sách hình sự hướng thiện.
Mục đích, vai trò của hình phạt tù là: “Trừng trị người phạm tội…”
nhưng theo cách giảm tối đa gánh nặng cho Nhà nước để người phạm tội… tự
nguyện phấn đấu cải tạo.
Tăng cường tuyên truyền pháp luật về chính sách hình sự hướng thiện
không thể hoàn thành trong thời gian ngắn mà cần có quá trình lâu dài. Như
vậy các cơ quan… cần có kế hoạch tuyên truyền khoa học… về chính sách
hình sự hướng thiện… để người dân hiểu, đồng tình với các quyết định của
Tòa án.
3.2.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết rút kinh
nghiệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xây dựng và ban hành án lệ
Trong thời gian qua Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự và Bộ luật
tố tụng hình sự có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01- 01- 2018. Tuy nhiên, các
văn bản hướng dẫn thi hành hai Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự còn
chưa đầy đủ nên khi áp dụng sẽ gặp những khó khăn nhất định.
Mặt khác, các quy chế phối hợp…các cơ quan…ban ngành...với Tòa án
còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ dẫn đến việc xét xử còn hạn chế, gặp khó
khăn. Do văn bản hướng dẫn xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
tối cao chưa đầy đủ nên thực tiễn xét xử của các Tòa án địa phương… có
những cách hiểu khác nhau thậm chí trong cùng một Tòa án.
Bên cạnh đó là trình độ chuyên môn của đội ngũ Hội thẩm nhân dân
(HTND) chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử. Do đó đòi hỏi trong
thời gian tới cần phải tiếp tục đối mới công tác xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, để thực hiện có hiệu quả công tác xét xử. Ủy ban thường vụ quốc
59
hội (UBTVQH) phải tăng cường công tác giải thích pháp luật. TANDTC cần
hướng dẫn áp dụng pháp luật nói chung, ADHP tù có thời hạn nói riêng một
cách thống nhất.
Tổng kết kinh nghiệm xét xử là nhiệm vụ quan trọng của hệ thống Tòa
án nói chung và của Tòa án quận 7, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng…
Thông qua đó để rút kinh nghiệm,… rút ra được bài học cho việc ADHP tù có
thời hạn đúng quy định.
Hàng năm ngoài việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để đảm
bảo nâng cao chất lượng ADHP tù có thời hạn cần thường xuyên mở các lớp
tập huấn về nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân…Vì vậy
nhìn chung chất lượng xét xử các vụ án hình sự, trong đó có ADHP tù có thời
hạn được nâng cao rõ rệt.
Mặt khác do việc quy định khoảng cách khung hình phạt tù giữa mức
tối thiểu và tối đa có sự chênh lệch lớn, nên các Tòa án cùng một điều luật có
cách hiểu khác nhau. Để có cách hiểu thống nhất và đáp ứng yêu cầu trong
xét xử một cách thống nhất toàn diện thì cần phải xây dựng và ban hành các
“Án lệ”.
Ngày 28/10/2015 Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành nghị
quyết số 03/2015 Nghị quyết - Hội đồng thẩm phán về quy trình công bố và
lựa chọn. áp dụng án lệ. Theo đó áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc có
tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường
hợp không áp dụng… phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.
Tính đến nay Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành 27 án lệ, nhưng số
án lệ về hình sự mới chỉ có bốn. Do đó cần phải bổ sung án lệ của các vụ án
hình sự (VAHS) trong thời gian tới để đảm bảo cho việc xét xử án hình sự của
các Tòa án đạt kết quả cao.
3.2.3. Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
60
Bên cạnh việc ban hành các quy định ADHP tù có thời hạn thì một yếu
tố rất quan trọng nâng cao chất lượng ADHP tù có thời hạn đó là con người
mà cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND). Chủ thể trực tiếp
thực hiện, ADHP tù có thời hạn.
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc, tước đi một số
quyền của người bị kết án,… sau khi… đã chấp hành hình phạt xong. Vì vậy
ADHP tù có thời hạn đòi hỏi phải có những Thẩm phán, HTND có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ,…có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,…có hiểu biết
về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,…và
lợi ích của công dân. Do đó yêu cầu nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm
phán, HTND là rất cấp thiết, rất quan trọng…
Để có trình độ chuyên môn vững vàng, trước hết Thẩm phán, HTND
phải có trình độ Cử nhân luật trở lên, được đào tạo bài bản qua các lớp về kỹ
năng nghề nghiệp, kỹ năng hòa giải, tâm lý tội phạm,...
Việc ADHP tù có thời hạn đòi hỏi Thẩm phán, HTND phải vận dụng
một cách linh hoạt trên cơ sở các quy định của pháp luật. Ngoài yếu tố năng
lực chuyên môn, người Thẩm phán, HTND phải đáp ứng được các yêu cầu về
tư cách - đạo đức - nghề nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng song hành cùng với
yếu tố chuyên môn để giúp chủ thể ADHP tù có thời hạn đưa ra được mức
hình phạt đúng – chính xác cho người phạm tội.
Để nâng cao chất lượng của Thẩm phán cần chú trọng đến quá trình
đào tạo,…bổ nhiệm,…tạo điều kiện…để Thẩm phán được học ở bậc cao hơn.
Lưu ý cần tổ chức các kỳ thi lựa chọn Thẩm phán giỏi để bổ nhiệm.
Khi bầu HTND cần lựa chọn những người có trình độ hiểu biết pháp
luật, đã làm công việc liên quan đến pháp luật. Cần tổ chức các đợt tập huấn,
các khóa đào tạo ngắn hạn và trung hạn bằng nhiều hình thức khác nhau về
công tác xét xử để nâng cao năng lực, trình độ cho các HTND.
61
Thẩm phán và HTND phải thường xuyên đổi mới, tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin,… để trao đổi nghiệp vụ…cùng đồng nghiệp; sau khi
thực hiện ADHP tù có thời hạn phải tự đánh giá rút kinh nghiệm, đưa ra các
phương hướng khắc phục những thiếu sót, hạn chế nhằm nâng cao chất lượng
trong công tác xét xử, bảo đảm không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm…
Các Thẩm phán, HTND phải thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình
độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng,…bản lĩnh nghề nghiệp,
tinh thần trách nhiệm trong công tác. Để khi xét xử Thẩm phán và HTND
phải luôn độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
3.2.4. Các giải pháp khác và một số kiến nghị để hoàn thiện quy định
của Bộ luật hình sự về hình phạt tù có thời hạn
*Các giải pháp để hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự
Cần bổ sung các giải pháp để nâng cao chất lượng ADHP tù có thời hạn
như:
Bảo đảm tính độc lập trong xét xử của Thẩm phán, HTND: Để áp dụng
hình phạt tù có thời hạn chính xác thì Thẩm phán, HTND phải không chịu bất
kỳ sự can thiệp từ cá nhân hoặc tổ chức nào. Xét xử luôn “độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”.
Đồng thời quy định phải xử lý đối với cá nhân, tổ chức can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, HTND. Đây không phải là nguyên tắc mới,
nhưng thực tiễn xét xử thì nguyên tắc này ở đâu đó vẫn còn vi phạm.
Vì vậy để bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán và HTND khi ADHP tù
có thời hạn cần tạo cơ chế đặc thù cho Tòa án, không chịu sự quản lý, kiểm
tra của cơ quan khác.
Bảo đảm chính sách đãi ngộ cho Thẩm phán, HTND: Cần đổi mới
chính sách tiền lương, thang, bậc lương của cán bộ, công chức ngành Tòa án
62
cho phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất…đặc
biệt cần xây dựng đội ngũ an ninh riêng,…bảo đảm an toàn cho cán bộ, công
chức Tòa án khi xét xử.
Nghị quyết số 49 Nghị quyết trung ương ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Từng bước hoàn
thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ… xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định"
[7]. Ngoài việc kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới về
ADHP tù nói chung, hình phạt tù có thời hạn nói riêng cần được kiểm sát từ
phía Viện kiểm sát các cấp; giám sát từ phía các cơ quan dân cử; đặc biệt là
cơ quan truyền thông…
Vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử (HĐXX), áp dụng
hình phạt tù có thời hạn cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc xét
xử của TAND nhằm bảo đảm cho mọi bản án, quyết định của Tòa án là chính
xác. Xử đúng người, đúng tội.
*Một số kiến nghị để hoàn thiện quy định của BLHS về hình phạt tù có
thời hạn
Để thực hiện tốt việc ADHP tù có thời hạn, trước tiên cơ quan tiến
hành tố tụng phải nắm chắc các quy định của BLHS, cập nhật các văn bản
hướng dẫn pháp luật, đưa ra các giải pháp hoàn thiện phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước.
Quyết định của bản án phải bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp
luật.
Đối với BLHS đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn những
bất cập, hạn chế so với thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
BLHS năm 2015 tuy mới được ban hành nhưng cũng không tránh khỏi
63
những bất cập, hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tiếp tục nghiên
cứu, sửa đổi để các quy định của pháp luật được chính xác, công bằng… Các
chế tài về hình phạt tù như: Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự; phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, cần nghiên cứu, sửa đổi để ADHP
tù đúng với mục đích cụ thể:
Quy định về khoảng cách tối thiểu, tối đa trong khung hình phạt tù có
thời hạn. Hiện nay quy định mức tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt
vẫn còn quá rộng, tối thiểu là ba tháng và tối đa là hai mươi năm [22].
Ưu điểm khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa rộng tạo điều kiện để
HĐXX áp dụng linh hoạt hình phạt tù mà bị cáo đã thực hiện sau khi xem xét,
cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS), nhân
thân của bị cáo.
Nhược điểm là sự áp dụng tùy tiện, không thống nhất, thiếu chính xác,
không bảo đảm tính công bằng trong đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Vì vậy, chế tài đối với các tội phạm cần hướng đến rút ngắn khoảng
cách giữa mức tối thiểu, mức tối đa của khung hình phạt tù.
Việc quy định mức tối thiểu là ba tháng sẽ không phát huy được hiệu
quả của hình phạt trong thực tiễn. Theo quan điểm của tác giả cần sửa đổi, bổ
sung nâng mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn từ ba tháng lên thành sáu
tháng. Điều này góp phần làm giảm tình trạng ADHP tù có thời hạn trong xét
xử, đồng thời bảo đảm được yêu cầu cải cách tư pháp. Ngoài ra còn khuyến
khích chủ thể ADHP xem xét các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn,
tạo nên sự cân đối, hài hòa giữa các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt tù.
Ngoài việc hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tù có thời
hạn, về chế tài các tội phạm cần hoàn hiện các quy định liên quan đến quyết
định hình phạt...
Khi quyết định hình phạt đúng, phù hợp thì người bị kết án sẽ tích cực
64
cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Ngược lại nếu quyết định hình
phạt không đúng thì người bị kết án sẽ không chịu cải tạo, chây ì và chắc chắn
không trở thành người có ích cho xã hội.
Một số kiến nghị để hoàn thiện:
Một là: Thể hiện được hình phạt tù có thời hạn là hình phạt chính có vai
trò quan trọng nhất trong hệ thống hình phạt. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa rằng coi hình phạt tù là hình phạt bao trùm, thay thế các hình phạt khác.
Cần xem xét lại quan niệm sai lầm hiện nay của một số người khi cho rằng xử
phạt thật nghiêm khắc người phạm tội thì mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa
tội phạm. Những người theo quan niệm này quên rằng mục đích cao nhất của
hình phạt là giáo dục, phòng ngừa “tính hướng thiện” chứ không phải là trừng
trị.
Hai là: Hoàn thiện các quy định về hình phạt tù thể hiện được quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đổi mới tư pháp hiện nay. Các quan điểm này thể hiện cụ thể
trong Nghị quyết số 08 Nghị quyết Trung ương ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số công việc trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
và Nghị quyết số 49 Nghị quyết Trung ương ngày 02/6/2005 về Chiến lược
cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Ba là: Hoàn thiện các quy định về hình phạt tù thể hiện được các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, mà trước tiên là nguyên tắc nhân đạo xã
hội chủ nghĩa, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, nguyên tắc cá thể
hóa hình phạt. Vì vậy, quy định về hình phạt nói chung, hình phạt tù có thời
hạn nói riêng phải thể hiện được đầy đủ các nguyên tắc đó.
Bốn là: Hoàn thiện quy định về hình phạt tù có thời hạn phải xuất phát
từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế. Đưa pháp luật Việt
65
Nam đến gần hơn với pháp luật Quốc tế trong các lĩnh vực, trong đó có pháp
luật hình sự.
Từ những quan điểm định hướng nêu trên, tác giả có một số kiến nghị
hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tù có thời hạn như sau:
** Một là, hoàn thiện quy định về hình phạt tù có thời hạn
Tăng mức phạt tù tối thiểu từ ba tháng lên sáu tháng vì:
Với thời hạn dưới sáu tháng cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội là rất
khó để có thể tổ chức cải tạo, giáo dục họ hiệu quả, trong khi đó hậu quả pháp
lý của hình phạt tù lại rất nặng nề đối với người bị kết án,… hạn chế khả năng
tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Thực tế cho thấy những trường hợp Tòa án tuyên hình phạt tù thời hạn
dưới sáu tháng thường là những trường hợp thông án, tức là xử phạt tù với
thời hạn bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam và trả tự do cho bị cáo ngay tại
phiên tòa. Có thể nói rằng đây là biện pháp chữa cháy cho người phạm tội ít
nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ đáng lẽ…được áp dụng hình phạt
khác…có thể là phạt tiền.
Việc nâng mức tối thiểu của hình phạt tù tạo điều kiện cho người làm
luật quy định chế tài các tội ít nghiêm trọng chỉ bao gồm các hình phạt không
phải tù theo quan điểm mềm hóa hình phạt ở nước ta.
** Hai là, sửa đổi quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự
Cần mở rộng phạm vi áp dụng Điều 54 BLHS theo hướng nới lỏng điều
kiện áp dụng. Không nên quy định phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản
1 Điều 51 BLHS mới được áp dụng Điều 54 BLHS. Bởi vì: Các tình tiết giảm
nhẹ chỉ là một trong bốn căn cứ quyết định hình phạt, trong đó các căn cứ như
tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm tội cũng
rất quan trọng cần được cân nhắc, đánh giá trong khi quyết định hình phạt nói
66
chung, nhất là quyết định hình phạt nhẹ hơn.
** Ba là, hoàn thiện chế tài các điều luật phần các tội phạm
Việc hoàn thiện chế tài các điều luật phần các tội phạm cần được thực
hiện theo các hướng sau đây:
Tăng số lượng các chế tài các tội ít nghiêm trọng không có phạt tù. Chế
tài các khung hình phạt có quy định hình phạt tù từ ba tháng đến hai năm
trong Bộ luật hình sự hiện hành, tùy theo tính chất có thể được thay thế bằng
chế tài lựa chọn có hình phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ
mà không có hình phạt tù. Có như vậy, mới tạo ra cơ sở pháp lý để hạn chế
hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù.
Cần thu hẹp khoảng cách của hình phạt tù có thời hạn. Theo tác giả
khoảng cách giữa mức hình phạt tối thiểu và tối đa của khung hình phạt được
xác định tùy theo loại tội: đối với loại tội đặc biệt nghiêm trọng khoảng cách
này tối đa là tám năm; đối với loại tội rất nghiêm trọng khoảng cách này tối
đa là sáu năm; đối với loại tội nghiêm trọng khoảng cách này tối đa là bốn
năm và đối với loại tội ít nghiêm trọng khoảng cách này tối đa là hai năm.
Phân hóa tốt hơn mức chế tài tùy theo tính chất, hậu quả. Theo tác giả:
Các tội có tính chất như: Kinh tế, xâm phạm trật tự quản lý hành
chính…thì nên hạn chế hình phạt tù có thời hạn, tăng cường phạt tiền là hình
phạt chính.
Giảm hình phạt đối với các tội được thực hiện do lỗi vô ý. Đối với loại
tội này, dù hậu quả có là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì mức
hình phạt tối đa cũng không nên quá mười hai năm tù. Điều này phù hợp với
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, quan điểm về tính hướng thiện của
hình phạt, phù hợp với thực tiễn ADHP tù ở nước ta hiện nay.
67
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở phân tích, đánh giá về thực trạng ADHP tù có thời hạn Luận
văn đã nêu ra các yêu cầu, giải pháp áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn
như:
Các yêu cầu về cải cách tư pháp.
Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng chính sách hình sự hướng thiện.
Coi trọng tính phòng ngừa,… giảm tù,…tăng cường các hình phạt
không phải là tù.
Yêu cầu bảo đảm quyền con người của người phạm tội.
Giải pháp về nhận thức.
Hoàn thiện các quy định của BLHS.
Tăng cường ADPL, xây dựng và ban hành án lệ.
Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, HTND.
Các giải pháp đưa ra nhằm mục đích, ý nghĩa nâng cao tính hiệu quả
việc ADHP tù có thời hạn trong thực tiễn.
68
KẾT LUẬN
Trong luận văn của mình, tác giả đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn
ADHP tù có thời hạn của TAND quận 7, thành phố Hồ Chí Minh từ đó làm rõ
những hạn chế, bất cập, vướng mắc để đưa ra những yêu cầu nhằm nâng cao
chất lượng ADHP tù có thời hạn.
Trên cơ sở, kết quả nghiên cứu tác giả có một số kết luận như sau:
ADHP tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự: Sau khi
đã định tội danh tại phiên Tòa, xác định các tình tiết của vụ án đúng theo quy
định của BLHS.
HĐXX đã chọn mức hình phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người
phạm tội.
Hoạt động ADHP tù có thời hạn của TAND quận 7, thành phố Hồ Chí
Minh đã đạt được những kết quả tốt, các vụ án được đưa ra xét xử đạt tỷ lệ
cao, xét xử đúng người, đúng tội, công bằng, không bỏ lọt tội phạm, không
kết oan người vô tội. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan như nhận
thức, bất cập của BLHS, hạn chế trong hướng dẫn áp dụng pháp luật...nên
hoạt động ADHP tù có thời hạn vẫn còn những hạn chế, vướng mắc nhất định
như: quyết định hình phạt “quá nặng; quá nhẹ; cho hưởng án treo…”; ADHP
tù có thời hạn chưa công bằng,... Điều này dẫn đến việc ADHP tù có thời hạn
chưa đạt được mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Từ thực tiễn ADHP tù có thời hạn của TAND quận 7, thành phố Hồ
Chí Minh. Luận văn đã đưa ra các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng
ADHP tù có thời hạn như: Yêu cầu cải cách tư pháp; yêu cầu bảo đảm áp
dụng chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa, giảm hình
phạt tù, tăng các hình phạt không phải là tù, yêu cầu đảm bảo quyền con
người; giải pháp về nhận thức tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS;
nâng cao chất lượng của Thẩm phán, HTND…Thực hiện điều này sẽ giảm
69
gánh nặng cho các cơ sở thi hành án hình sự, cho xã hội và tạo cơ hội cho
người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng.
Để thực hiện những yêu cầu nêu trên cần thực hiện các giải pháp về
nhận thức tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS nhất là các quy định về
hình phạt tù có thời hạn, xây dựng và ban hành án lệ; tăng cường hướng dẫn
ADPL, tổng kết rút kinh nghiệm ADHP tù có thời hạn; nâng cao chất lượng
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân...Điều quan trọng đó là việc thay đổi nhận
thức…về chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng phòng ngừa, mục đích và
vai trò hình phạt tù. Trên cơ sở áp dụng các quy định của BLHS tiếp tục hoàn
thiện về yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người, quyền công dân
theo quy định của pháp luật
Do khả năng của tác giả và thời gian nghiên cứu có hạn nên nội dung
của Luận văn sẽ có những hạn chế, thiếu sót nhất định. Với tinh thần học hỏi
và cầu thị tác giả rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng, phê bình của quý
Thầy, Cô, các nhà khoa học, các nhà chuyên môn để tác giả tiếp tục hoàn
thiện công trình nghiên cứu này.
Xin trân trọng cảm ơn./.
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
Hà Nội, ngày ban hành 02/01/2002.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội, ngày
ban hành 24/5/2005.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
Hà Nội, ngày ban hành 02/6/2005.
4. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000) Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội, ngày ban hành
04/8/2000.
5. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003) Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội, ngày ban hành 17/4/2003.
6. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004) Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội,
ngày ban hành 05/11/2004.
7. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015) Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình công bố, lựa chọn và áp
dụng án lệ, Hà Nội, ngày ban hành 28/10/2015.
8. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2017) Nghị quyết số
05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/7/2017 ban hành một số biểu mẫu trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội, ngày ban hành 19/7/2017.
9. Nguyễn Văn Hiện (2002) “Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án
hình sự một số yêu cầu cấp bách”, Tạp chí dân chủ pháp luật số 04/2002.
10. Hoàng Văn Huyền (2016) Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ, Học
Viện Khoa học xã hội.
11. Phạm Hồng Hải (2004) Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Đinh Tấn Long (2017) Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ,
Học Viện Khoa học xã hội.
13. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt,
Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội.
14. Võ Hồng Nam (2014) Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ,
Học Viện Khoa học xã hội.
15. Cao Thị Oanh, Lê Văn Cảm, Trần Văn Độ (2013) Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, Nxb Hà Nội, Giáo dục Việt Nam 2013.
16. Quốc Hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, Hà Nội.
17. Quốc Hội (1999) Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13
ngày 24/11/2014, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc Hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội.
20. Quốc Hội (2009) Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà
Nội.
21. Quốc Hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hảo (2017) “Hình phạt tù có thời hạn – Một số kiến
nghị hoàn thiện”, Tạp chí nghề luật số 02/2017, ngày 28/12/2017.
23. Đinh Văn Quế (2003) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các
tội phạm, các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tp Hồ Chí Minh .
24. TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án hình sự xét
xử sơ thẩm vụ án số 105/2017/HS-ST ngày 19-05-2017.
25. TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án hình sự sơ
thẩm số 28/2018/HS-ST ngày 11/04/2018.
26. TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (2014-2018) Báo cáo tổng
kết công tác Tòa án các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.
27. TAND tối cao (2017) Văn bản số 155/TANDTC – PC về việc áp
dụng thống nhất thể thức và kĩ thuật trình bày các văn bản tố tụng trong đó
có bản án, Hà Nội, ngày ban hành 28/7/2017.
28. Chu Thị Thu Trang (2009) Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam, Luận án tiến sĩ.
29. Ủy ban thường vụ quốc hội (2012) Pháp lệnh Số:
04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ quốc hội về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng, Hà Nội, ngày ban hành 16/07/2012.
30. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm,
Nxb Khoa học xã hội.
31. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb
khoa học xã hội.
32. Võ Khánh Vinh (2013) Lý luận chung về Định tội danh, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
33. Võ Khánh Vinh (2011) Quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.