VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HƯNG BÌNH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn
dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn có được là do quá trình
lao động
trung thực của tôi.
Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2019
NGƯỜI CAM ĐOAN
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 : MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC ................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố ............ 9
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi ........................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm và nội dung hực hành quyền công tố ............................ 14
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt động
tư pháp ..................................................................................................... 16
1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ...................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm ...................................................................................... 19
1.2.2. Đặc điểm ....................................................................................... 19
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền
công tố trong các giai đoạn tố tụng ............................................................. 22
1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .......................... 22
1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án ............................................................... 26
1.3.3. Giai đoạn truy tố ........................................................................... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 32
2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến năm
2018 ............................................................................................................. 32
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9 ............. 32
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh…………………………………………………………………….34 2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 ....................................... 35
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9
Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................. 38
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ............................................... 47
2.3.1. Những hạn chế, tồn tại .................................................................. 47
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ..................................... 56
Chương 3:YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 60
3.1. Yêu cầu và phương hướng ................................................................... 60
3.1.1. Yêu cầu .......................................................................................... 60
3.1.2. Phương hướng ............................................................................... 62
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh ..................................... 62
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác ......................................................................................................... 62
3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác
thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................... 63
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực
hành quyền công tố ................................................................................. 64
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
công tác chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân ................ 66
3.3. Kiến nghị .............................................................................................. 67
3.3.1. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn giải đáp một số vấn đề
vướng mắc trên thực tế và sửa đổi nội dung quy định không phù hợp ... 67
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan ..................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
KSV
: Kiểm sát viên
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn
Quận 9 ............................................................................................................. 35
Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị đình chỉ, tạm đình chỉ về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các năm từ 2014 -
2018 trên địa bàn Quận 9 ................................................................................ 40
Bảng 2.3. Số vụ án và bị can về tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác kết thúc điều tra được VKS truy tố trong các
năm từ 2014-2018 trên địa bàn Quận 9 ........................................................... 45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển kéo theo hệ lụy
là tội phạm ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Điều này đặt ra yêu cầu nặng
nề hơn cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghị quyết số
63/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các
biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm đã nhấn mạnh yêu cầu cụ thể về
các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Để
cụ thể hóa các chủ trương, biện pháp đó, các văn bản pháp luật hình sự, đặc
biệt là quy định của Bộ luật hình sự, BLTTHS ngày càng được hoàn thiện
hơn. Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm thuộc về nhân dân và cả
hệ thống chính trị, trong đó, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, trong đó có
VKS. Trách nhiệm đó được VKS thực hiện thông qua công tác thực hiện chức
năng của mình, nhất là công tác THQCT. Trước yêu cầu cải cách tư pháp,
trách nhiệm của VKS càng được đặt ra nặng nề hơn. Nghị quyết số 08/NQ-
TN ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã khẳng định
“VKSND tiếp tục thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp … tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra…”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định VKSND có chức
năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện “nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”[15, tr.27]. Điều này đòi hỏi hoạt động của VKSND nói chung,
hoạt động THQCT nói riêng cần được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thực hiện
1
một cách triệt để, có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Ngành kiểm sát cũng đã xác
định rõ nhiệm vụ và đặt ra yêu cầu cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ đó
thông qua nhiều văn bản như Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Chỉ thị số
04/CT-VKSTC ngày 10 tháng 7 năm 2015 về tăng cường các biện pháp
phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông
Bắc của thành phố, nối liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực. Quận 9
có diện tích 113,896.200 km2, có 13 phường với dân số 235.268 người [5].
Với địa bàn rộng, dân cư tương đối đông và hàng năm đều gia tăng, kinh tế
ngày càng phát triển đưa đến hệ lụy là tình hình tội phạm cũng ngày càng gia
tăng. Vì vậy, bên cạnh giữ vững ổn định, phát triển kinh tế, Quận 9 còn đối
mặt với không ít những khó khăn về vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm,
trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. So với các địa phương khác, Quận 9 là khu vực luôn chiếm tỷ lệ
tương đối lớn về loại tội phạm này và hiện nay đang có chiều hướng gia tăng
về số lượng cũng như mức độ nguy hiểm. Công tác THQCT đối với các tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 9 trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của
Viện kiểm sát ngày càng được khẳng định. Hầu hết các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận
được phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo sự
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua
thực tiễn công tác của Viện kiểm sát cho thấy, công tác thực hành quyền công
2
tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9 cũng có những hạn chế, bất cập do nhiều
nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời.
Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành
phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Thực hành quyền
công tố trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngườì khác từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
THQCT nói chung và THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng hiện nay đang là chủ
đề được khá nhiều học giả cũng như người làm công tác thực tiễn quan tâm,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đưa ra quan điểm nghiên cứu dưới
dạng sách tham khảo có thể kể đến một số tác phẩm điển hình như cuốn
“THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê
Hữu Thể, TS Đỗ Văn Đương và CN Nông Xuân Trường. Cuốn sách này tác
giả chủ yếu đưa ra và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh đó còn
có cuốn “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Nguyễn Hải Phong (chủ biên). Cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra
và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, chủ trương định hướng của Đảng và đưa ra giải pháp nhằm tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra mà không gắn công tác
3
này với tội phạm cụ thể. Bên cạnh đó, những cuốn bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng Hình sự của các trường như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh hoặc các cuốn bình luận của các tác giả như GS.TS Nguyễn
Ngọc Anh – LS.TS. Phan Trung Hoài, TS. Phạm Mạnh Hùng và các đồng tác
giả, TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng, … cũng nghiên cứu về công
tác thực hành quyền công tố nhưng chỉ đề cập với thời lượng ít và mang tính
chất chung đối với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về chức năng nhiệm
vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự mà không đi sâu nghiên
cứu công tác này cũng như không gắn công tác này với tội phạm cụ thể.
Nghiên cứu dưới góc độ luận văn có tác giả Trịnh Duy Tám với luận
văn thạc sỹ luật học "Áp dụng pháp luật trong THQCT trong giai đoạn điều
tra của VKSND ở Việt Nam hiện nay”; tác giả Nguyễn Mạnh Tùng với luận
văn thạc sỹ luật học “THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma
túy ở Thành phố Hà Nội”; tác giả Phạm Anh Đức với luận văn thạc sỹ
“Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”; tác giả Nguyễn Ngọc Ánh với luận văn thạc sỹ luật học
“THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành
phố Hà Nội”; tác giả Phan Thị Sa với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức,
tỉnh Quảng Ngãi”, tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với luận án tiến sỹ luật học
“Quyền công tố ở Việt Nam”, ... Các công trình này nghiên cứu về công tác
thực hành quyền công tố nói chung, công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn xét xử
gắn với một loại tội phạm cụ thể như tội phạm về ma túy, tội xâm phạm sở
hữu.
Ngoài ra, có nhiều tác giả thể hiện quan điểm nghiên cứu về vấn đề này
dưới dạng các bài viết khoa học được đăng trên các báo, tạp chí như: bài viết
4
“Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình
cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14 –
16/2008; “Bàn về mô hình viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí kiểm sát số 14-16/ 2008; bài viết “Tăng cường
trách nhiệm của công tố trong giai đoạn điều tra trong BLTTHS” của tác giả
Nguyễn Tiến Sơn đăng tạp chí kiểm sát số 09/2015; bài viết “Một số vấn đề
đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Duy Giảng
đăng trên Trang thông tin điện tử của VKS ND tối cao; bài viết “Một số vấn
đề về quyền công tố” của tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Luật học số
3/2001, bài viết “thực trạng công tác THQCT ,kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát 02 cấp tỉnh Bình Dương và giải pháp,
kiến nghị” của tác giả Nguyễn Phước Trung đăng trên Trang thông tin điện tử
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, …
Các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ
khác nhau khi bàn về hoạt động THQCT dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về công tác THQCT đối
với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, nhất là gắn với địa bàn cụ thể là Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để trên cơ sở
đó tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng
công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và các vụ án hình sự nói chung.
5
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn
đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ:
+ Làm rõ lý luận về THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+ Làm rõ quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có
liên quan về THQCT trong các giai đoạn tố tụng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh và những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện công tác này.
+ Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về thời gian: luận văn tập trung khảo sát công tác THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến
năm 2018;
+ Phạm vi về không gian: luận văn khảo sát tình hình thực hiện công
tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chỉ trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
6
+ Phạm vi về nội dung: Công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác được Viện kiểm sát thực hiện trong cả giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Tuy nhiên, với thời gian ngắn và khả năng nghiên cứu có hạn, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác này ở hai giai đoạn
là điều tra và truy tố.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khác nhau, cụ thể là các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, nghiên cứu án điển hình nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn của đề tài.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu vào phân tích
một cách tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống quy định về hoạt động của
Viện kiểm sát khi THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng những quy định đó
trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể góp phần bổ
sung và làm phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT đối với các vụ án
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
dưới góc độ pháp lý hình sự, tố tụng hình sự và đưa ra cơ sở khoa học của
hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt động này.
7
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
đối với những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và những người học tập, giảng dạy, nghiên
cứu lập pháp về công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1 : Một số vấn đề lí luận và pháp luật về THQCT đối với các
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 2: Thực trạng THQCT các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ
Chí Minh
Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi
Khái niệm về quyền công tố:
Chế định VKS được quy định trong pháp luật Việt Nam đã từ rất lâu
nhưng cho đến Hiến pháp năm 1980 thì thuật ngữ “thực hành quyền công tố”
với tư cách là chức năng của Viện kiểm sát mới được chính thức ghi nhận. Từ
thời điểm đó, khái niệm quyền công tố và THQCT đã được nghiên cứu, đề
cập khá nhiều trong khoa học pháp lí nước ta dưới các góc độ khác nhau.
Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức đối với vấn đề này, chưa có một quan điểm thống nhất khi bàn về quyền
công tố. Theo Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, công tố có
nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [34, tr.204].
Theo đó, công tố bao gồm cả hoạt động điều tra và truy tố, buộc tội kẻ phạm
tội trước Tòa án. Theo Từ điển Luật học, công tố “là quyền của Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”[26, tr.188]. Ở Việt Nam
hiện nay, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Trên cơ sở
đó có thể hiểu, “quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với
người phạm tội”[26, tr.188]. Trong giới nghiên cứu khoa học, khái niệm
quyền công tố được đưa ra tương đối nhiều nhưng có thể kể đến một số quan
điểm chính sau:
Quan điểm thứ nhất: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho
VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực
hiện quyền công tố)” [21, tr.24]. Như vậy, theo quan điểm này, quyền công tố
9
chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, đó là quyền của Nhà nước truy tố kẻ phạm
tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự
(duy trì quyền công tố). Và ở Việt Nam, quyền này được giao cho chủ thể duy
nhất là VKSND. Điều này đồng nghĩa với việc công tác thực hiện quyền công
tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và công tác này cũng chỉ tồn
tại ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan
điểm này chưa phản ánh đầy đủ bản chất của quyền công tố. Bởi lẽ, truy tố và
buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, hoạt động của VKS ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm trong TTHS. Ngoài hai quyền năng đó, VKS còn có nhiều
quyền năng khác khi THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai
đoạn khác trong TTHS.
Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội”[21, tr.26]. Theo quan điểm
này, chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố
tụng khác như CQĐT, Tòa án, Thi hành án. Như vậy, quyền công tố có trong
tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án
đối với các vụ án hình sự. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công
tố với nguyên tắc TTHS, dẫn đến nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong
TTHS (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ ba: “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta
là VKS ) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội” [21, tr.40]. Cụ thể, cơ quan có chức năng THQCT có trách nhiệm
bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để có thể xác định một cách
chính xác tội phạm, người phạm tội và trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can
10
ra trước Tòa án cũng như bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Bên cạnh đó,
theo quan điểm này thì cơ quan có quyền công tố được phép nhân danh Nhà
nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này
chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong TTHS. Ở Việt Nam, VKS ND là cơ
quan duy nhất được Nhà nước giao quyền công tố mà không có bất kỳ cơ
quan nào có thể thay thế được.
Có thể nói rằng, cho đến nay, khi đưa ra khái niệm quyền công tố có rất
nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm đều có những yếu tố hợp lý
nhưng cũng đều thể hiện những bất cập nhất định. Với nhận thức của mình
khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả ủng hộ khái niệm quyền công tố được
đưa ra tại quan điểm thứ năm nêu trên, bởi một số lý do sau:
Một là, quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống ở Việt
Nam khi nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố. Theo đó,
quyền công tố là quyền của Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự.
Hai là, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định pháp luật của
Nhà nước ta qua các thời kỳ về quyền công tố. Cụ thể, Hiến pháp, Luật tổ
chức VKS ND và pháp luật tố tụng hình sự của nước ta qua các thời kỳ đều
khẳng định VKSND có chức năng THQCT. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ: "VKS các cấp
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp [1, tr. 8]. Bên cạnh đó, quan điểm của ngành Kiểm sát cũng
đã thể hiện một cách thống nhất từ trước đến nay: "Việc THQCT chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử" [23, tr. 2].
Phạm vi quyền công tố
Về phạm vi không gian: dựa trên quan điểm chính thống về khái niệm
quyền công tố được đưa ra ở trên có thể khẳng định rằng quyền công tố chỉ có
11
trong lĩnh vực TTHS mà không thể có trong lĩnh vực tố tụng khác. Theo đó,
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với
người phạm tội. Việc buộc tội thì chỉ có trong lĩnh vực TTHS, cho nên quyền
công tố không thể tồn tại trong các lĩnh vực khác không liên quan đến sự buộc
tội như trong tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế, ... Vì lẽ đó, quyền công tố
chỉ tồn tại trong lĩnh vực duy nhất có liên quan đến tội phạm và sự buộc tội là
lĩnh vực TTHS.
Về phạm vi thời gian: theo quan điểm khoa học được thừa nhận phổ
biến hiện nay, “phạm vi quyền công tố bắt đầu có từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị” [21,
tr.50-51]. Tác giả cho rằng quan điểm này rất đúng đắn. Bởi lẽ, từ khi tội
phạm được thực hiện, trách nhiệm của cơ quan được giao quyền công tố là
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện
tội phạm và người phạm tội cũng như xác định căn cứ để buộc tội họ. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp THQCT đều kéo dài đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà có thể chấm dứt ở giai đoạn
tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vì, không
phải tất cả các vụ án hình sự đều được đưa ra xét xử trước Tòa án mà ở giai
đoạn tố tụng nào đó khi quyền công tố chấm dứt thì quyền THQCT cũng
không còn. Như vậy, phạm vi quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực
pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt, nó sẽ kết thúc khi có quyết định
đình chỉ vụ án.
Khái niệm về thực hành quyền công tố
Trên cơ sở khái niệm quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công
tố cũng được đưa ra tương đối nhiều. Theo Từ điển tiếng Việt, “thực hành” có
nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế, thực hành đồng nghĩa với
“thực hiện”” [33, tr.1245]. Như vậy, THQCT có thể được hiểu là áp dụng
12
quyền công tố vào thực tế. THQCT cũng được hiểu là “hoạt động của VKS
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và buộc tội họ trước
Tòa án” [8, tr.12]. Từ điển Luật học đưa ra khái niệm, “THQCT là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử” [26, tr.188]. Như vậy, để đảm bảo thực hiện quyền công tố
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm thì Nhà nước ta ban hành các văn
bản pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố. Các quyền năng này được giao cho cơ quan có trách
nhiệm THQCT thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Từ năm 1960 đến nay, VKSND là cơ quan duy
nhất được giao chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng này, VKSND
phải sử dụng tất cả quyền năng pháp lý về TTHS nhằm phát hiện kịp thời, xử
lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 cũng đã có quy định về bản chất của chức năng này, theo đó,
THQCT “là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [18, tr. 8].
Phạm vi THQCT là vấn đề hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau trong thực tiễn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành,
phạm vi THQCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Công tác này được “bắt đầu từ
khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc
việc buộc tội” [8, tr 13]. Việc buộc tội kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp
luật TTHS. Như vậy, phạm vi của công tác THQCT bắt đầu từ khi vụ việc
13
phạm tội xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ. Cụ thể, VKSND THQCT ở các giai
đoạn và lĩnh vực sau: THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong
giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử.
1.1.2. Đặc điểm và nội dung THQCT
Đặc điểm của THQCT
Khác với hoạt động của VKSND trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố
tụng hành chính, tố tụng dân sự, ... hoạt động THQCT chỉ tồn tại duy nhất
trong lĩnh vực TTHS.
Về chủ thể THQCT: dưới góc độ chức năng của chủ thể được giao
quyền tiến hành tố tụng, THQCT là chức năng mà Nhà nước chỉ giao cho cơ
quan tiến hành tố tụng duy nhất đó là VKS . Các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng khác không có chức năng này.
Hoạt động THQCT mang tính công khai và được thực hiện theo trình
tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Vì vậy, hoạt động của VKS mang
tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và được giám sát bởi nhiều chủ thể khác
nhau.
Dưới góc độ chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, THQCT là thực
hiện chức năng buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội, …
Mục đích của THQCT là nhằm bảo đảm mọi hành vi và người phạm tội
được phát hiện, xử lý một cách kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị hạn chế quyền con người,
quyền công dân một cách trái luật. Mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn
phải bao hàm cả việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội nhưng thực hiện quyền
14
buộc tội đối với người phạm tội vẫn là chủ yếu.
Nội dung của THQCT
Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS đã quy định rõ, nội dung
của công tác THQCT bao gồm:
Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối
với sự kiện phạm tội, người phạm tội: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, không phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số
trường hợp.
Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tự do, dân chủ của cá
nhân người phạm tội: Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra, truy tố.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án, quyết định truy tố bị can ra tòa).
Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra.
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến
hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối
với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các
tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
15
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt
động tư pháp
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy là hai chức năng độc lập của
VKS, có đối tượng và nội dung khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Như đã phân tích ở trên, THQCT là hoạt động của VKSND trong
TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Công
tác này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự. Chức năng của THQCT là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, truy tố người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó. Như vậy,
đối tượng hướng tới của THQCT là vạch tội người phạm tội ra trước Tòa án,
nó chỉ tồn tại duy nhất trong lĩnh vực TTHS. VKSND THQCT nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội nhưng cũng không để xảy ra oan, sai.
Còn “kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS ND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật” [18, tr.10-11]. Kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm
mục đích kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp: phát hiện vi phạm pháp luật, kiến
nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, đảm bảo quá trình tiến hành tố tụng tuân
16
thủ các nguyên tắc, trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện trong lĩnh vực TTHS và trong quá
trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Như vậy, mối quan hệ giữa hai chức năng này chỉ tồn tại trong lĩnh vực
TTHS. Trong đó, tuy là hai chức năng độc lập nhưng THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, chỉ có một
số hoạt động mang tính độc lập tương đối, còn lại đa số các hoạt động của
chúng đan xen và hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xét ở từng giai đoạn
tố tụng thì các chức năng này thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau
với các nội dung cụ thể khác nhau. Nhưng xét một cách tổng thể thì dù ở giai
đoạn tố tụng nào chúng cũng thể hiện mối quan hệ gắn bó hữu cơ, đan xen,
tác động qua lại và bổ sung một cách tích cực cho nhau, điều này được thể
hiện ở một số khía cạnh sau:
Kết quả của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở cho việc
THQCT có hiệu quả và ngược lại việc THQCT đảm bảo sự tuân thủ pháp
luật. Khi có cơ sở xác định tội phạm từ tố giác của người dân, tin báo của cơ
quan, tổ chức hoặc thông qua hoạt động điều tra phát hiện dấu hiệu của tội
phạm thì CQĐT sẽ phải thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu để xác
định có dấu hiệu của tội phạm hay không? Nếu đủ căn cứ xác định có dấu
hiệu của tội phạm thì sẽ ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra đồng
thời phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Lúc này VKS với chức năng,
nhiệm vụ của mình sẽ tiến hành kiểm sát việc tuân theo các quy định của pháp
luật về khởi tố vụ án của CQĐT. Trong quá trình kiểm sát điều tra nếu phát
hiện thấy quyết định khởi tố của CQĐT là không có căn cứ hoặc có dấu hiệu
trái pháp luật thì VKS sẽ THQCT của mình bằng cách ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố của CQĐT. Nếu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu
17
của tội phạm nhưng CQĐT đã ra quyết định không khởi tố thì VKS sẽ hủy bỏ
quyết định đó của CQĐT và ra quyết định khởi tố. Khi vụ án đã được khởi tố
cũng đồng nghĩa với quyền kiểm sát hoạt động điều tra của VKS được phát
động, VKS sẽ thực hiện quyền kiểm sát của mình trong suốt quá trình điều tra
của CQĐT để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có
thể thấy, nếu VKS làm tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình thì
chức năng THQCT của VKS cũng sẽ được bảo đảm đúng pháp luật. Ngược
lại, nếu làm không tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì việc THQCT
của VKS có thể sẽ vi phạm pháp luật (và có thể dẫn đên hậu quả là: quyết
định của VKS cấp dưới vi phạm pháp luật sẽ bị VKS cấp trên hủy bỏ) và đối
với những trường hợp đó thì vụ án sẽ bị đình chỉ, VKS có thể sẽ phải bồi
thường thiệt hại cho bị can, bị cáo nếu có thiệt hại xảy ra, đồng thời sẽ làm
giảm sự tin tưởng của nhân dân vào năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
trong ngành tư pháp.
Trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự, VKS không
tách rời các hoạt động thực hiện chức năng THQCT với các hoạt động thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện độc lập mà luôn
gắn kết một cách chặt chẽ. Có như thế, VKS mới có thể thực hiện chủ trương
của Ngành là “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” đem lại kết quả tốt, bảo đảm mọi hành vi và
người phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
kịp thời, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không gây ra oan, sai
Mối quan hệ chặt chẽ này được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng
hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án.
Như vậy, có thể thấy THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
18
hai chức năng cơ bản và quan trọng nhất của VKS mà giữa chúng có mối
quan hệ hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời nhau trong suốt quá trình giải
quyết vụ án, nếu vi phạm chức năng này sẽ ảnh hưởng chức năng khác và
ngược lại.
1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển Luật học, “Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm
phạm thân thể, gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ
thể” [26, tr.172]. “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi mà
người phạm tội dùng sức mạnh vật chất hoặc các thủ đoạn khác tác động lên
thân thể người khác làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi, không còn nguyên
vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ” [6, tr.11]. Như
vậy có thể hiểu, “Tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác gây
thiệt hại về sức khỏe cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn hại về
sức khỏe trong các trường hợp luật định [25, tr.96-97]. Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134, nằm trong nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người của BLHS hiện hành. Cũng như các tội phạm
khác thuộc chương này, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và
quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Tội này lần đầu tiên được quy
định tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm
Giống như tất cả các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây
19
tổn hại cho sức khỏe của người khác có đầy đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm cố ý gây thương tích là một trong
những khách thể quan trọng nhất được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể của tội
phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của công dân, khách
thể trực tiếp của tội phạm này là sức khỏe của người khác, là người đang
sống, đang tồn tại độc lập trong thế giới khách quan với tư cách là một thực
thể tự nhiên và xã hội. Một người đang sống, đang tồn tại được xác lập bắt
đầu kể từ khi sinh ra cho đến khi ngừng thở, tim ngừng hoạt động (cái chết về
mặt sinh học) chứ không phải cái chết về mặt pháp lý. Một người nào đó nếu
đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết nhưng thực tế họ vẫn còn sống thì hành vi
nào xâm phạm đến sức khỏe của người này vẫn coi là tội phạm, vì nó đã xâm
phạm đến quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thuộc khách thể của tội
này. Đối tượng tác động của tội phạm này là một con người cụ thể, có quyền
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Thứ hai, hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội này là những
hành vi có khả năng gây ra thương tích nhất định làm tổn hại cho sức khỏe
của người khác bằng cách tác động vào cơ thể họ. Hành vi phạm tội có thể
được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, nghĩa là người phạm tội làm
một việc bị pháp luật nghiêm cấm không được làm nhằm làm biến đổi tình
trạng bình thường cho sức khỏe của người khác như đấm, đá bằng tay, chân
hoặc dùng các loại hung khí như dao, gậy, … để gây ra thương tích.
Hậu quả của tội phạm này đòi hỏi là thương tích do hành vi phạm tội
gây ra, bởi vì hành vi của con người là có ý thức và có ý chí cho nên nó luôn
luôn là phương tiện để đạt tới một kết quả nhất định. Hậu quả chính là sự thiệt
hại gây ra cho khách thể và chỉ những thiệt hại quan trọng nhất do tội phạm
trực tiếp gây ra đặc trưng của tội phạm ấy mới là hậu quả thuộc mặt khách
quan của tội phạm, ví dụ như gây tổn thương cho một số bộ phận hoặc toàn
20
bộ cơ thể, hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một bộ phận nào đó
trong cơ thể con người như: Gây mù mắt, điếc tai, mất một phần chân tay, …
Dấu hiệu bắt buộc về mặt hậu quả của tội phạm này là hành vi phạm tội đã để
lại thương tích cho nạn nhân với tỷ lệ % thương tật theo luật định. Cơ sở để
xác định nạn nhân bị thương tích cũng như tỷ lệ thương tích cụ thể là kết luận
của Hội đồng giám định pháp y do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Hành
vi gây thương tích cho người khác bao giờ cũng được thực hiện trong một
khoảng thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nhất định và bằng những thủ đoạn,
phương tiện, công cụ nhất định.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với hậu quả
nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi đó: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội chỉ
xảy ra khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chính hành vi đó gây ra. Hậu
quả nguy hiểm phải là sự tất yếu của hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội buộc phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu
quả.
Thứ ba, về mặt chủ quan. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, có
thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực hiện hành vi phạm tội ý
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, biết
được hậu quả do hành vi của mình thực hiện có thể gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe cho người khác. Người phạm tội mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng đã để mặc cho hậu quả xảy ra (người bị tác động bị
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe). Động cơ và mục đích phạm tội không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, việc chứng minh động cơ, mục đích của người phạm tội có ý
nghĩa trong việc định khung hình phạt như vì lý do công vụ của nạn nhân, ...
21
Thứ tư, chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là con người cụ thể. Người này phải
thỏa mãn đầy đủ 02 điều kiện là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là từ đủ 14 tuổi trở lên.
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành
quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng
1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKS ND nhằm mục đích xác định
dấu hiệu tội phạm để xem xét việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Điều 12 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ quyền hạn của
VKS khi THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố như sau:
“Phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền
công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố” [18, tr.18-19].
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp cưỡng chế khác như khám người,
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; thu giữ thư tín, điện tín, .. nhằm giúp cho
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
CQĐT được thực hiện hiệu quả khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm và người
phạm tội. Khi THQCT trong giai đoạn này, VKS có các nhiệm vụ quyền hạn
sau:
22
Một là, phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp
khẩn cấp. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh của thủ
trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp hoặc người có thẩm quyền của các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong mọi
trường hợp, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải được báo ngay
cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan để VKS xét phê
chuẩn. “Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”
[14, 104]. Thời hạn để VKS ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn là
12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến
việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. “Trường hợp VKS quyết
định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì
người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ” [14,
tr.105].
Hai là, VKS phê chuẩn hoặc không phê chuẩn gia hạn tạm giữ và các
biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc gia hạn tạm giữ
được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 118 BLTTHS. Theo đó, “trong trường
hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không
quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ
đều phải được VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời
hạn 12 giờ, kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn” [14, tr.111].
23
Việc áp dụng các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công
dân như việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành
khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của
một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà
có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án; việc khám chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã;
khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có Lệnh khám xét, thu giữ của thủ
trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp và phải được VKS cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTHS
thì trong trường hợp khẩn cấp, những người được quy định tại Khoản 2 Điều
110 BLTTHS có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi
khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho
VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền THQCT và kiểm sát điều tra.
“Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố” [18, tr.19].
Những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 có quyền ra quyết định
tạm giữ. “Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền
và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của BLTTHS” [14, tr.
110]. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết
định tạm giữ phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan cho VKS
cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền. VKS có trách nhiệm nghiên cứu quyết
định và hồ sơ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết
thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ. Trên cơ sở quyết định đó,
người đã ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
24
Theo quy định tại Thông tư liên tịch của VKSND tối cao, Bộ công an
và Bộ quốc phòng số 05/2005/TTLT - VKS TC -BCA - BQP ngày 07/9/2005
về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy
định của BLTTHS năm 2003 thì đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng
CQĐT, BLTTHS quy định phải có sự phê chuẩn của VKS nhưng chưa gửi
sang VKS mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng
CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Nếu các quyết định này đã gửi
sang VKS , nhưng VKS chưa quyết định việc phê chuẩn thì thủ trưởng CQĐT
có văn bản đề nghị VKS để rút các quyết định này và ra quyết định thay đổi
hoặc huỷ bỏ; nếu không đồng ý thì VKS quyết định việc thay đổi hoặc huỷ bỏ
theo quy định tại khoản 4 Điều 165 BLTTHS. Đối với các quyết định của Phó
Thủ trưởng CQĐT sau khi được VKS phê chuẩn mới phát hiện là không có
căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT kiến nghị Viện trưởng VKS
cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.
Ngay sau khi ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của Phó thủ
trưởng CQĐT thì VKS phải gửi cho CQĐT để thực hiện.
Trong quá trình THQCT trong giai đoạn này, khi cần thiết, VKS có
quyền “đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện” [18,
tr.19].
Trong hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khi thấy cần
thiết, VKS có thể đề ra những yêu cầu xác minh để làm sáng tỏ vụ việc và
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố, kiểm tra, xác minh kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Thông
tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKS NDTC
ngày 02 tháng 8 năm 2013 hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp
25
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã quy định
cụ thể về trách nhiệm và chế độ thông tin, báo cáo việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS các cấp.
VKS có quyền “trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được
khắc phục” [18, tr.19].
VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc
có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu, kiến nghị nhưng không được
khắc phục nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền
điều tra như bức cung, mớm cung, nhục hình dẫn đến có dấu hiệu oan sai, dễ
bị bỏ lọt tội phạm. Trong những trường hợp này, VKS thực hiện việc trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm xem xét việc
khởi tố vụ án có đúng với quy định của pháp luật hay không. Qua kiếm sát
việc khởi tố vụ án hình sự, nếu phát hiện việc khởi tố vụ án không có căn cứ
thì VKS ra các quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án của CQĐT hoặc
yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án nếu thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm; nếu CQĐT
không khởi tố, VKS có thể chủ động khởi tố vụ án hình sự đó.
Ngoài ra, VKS có quyền “thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để
THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội” [18, tr.19].
1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án
Hoạt động của VKS trong vụ án hình sự có mục đích đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, việc truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội phải có căn cứ và đúng pháp luật. Nhiệm
26
vụ, quyền hạn của VKS ND khi THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ
án hình sự được quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKS ND và cụ thể hóa tại
Điều 165 BLTTHS. Bao gồm:
-“Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can; Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật;
Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm
giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái
pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hủy bỏ các quyết định tố tụng
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy
bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do; Quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
theo quy định của Bộ luật này; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều
tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội. Yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê
chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt
tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không
27
được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi
quyết định việc truy tố; Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người
có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT
khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc
khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; Quyết định việc gia hạn thời hạn điều
tra, thời hạn tạm giam. Quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, ban hành quyết định hủy bỏ quyết định
tách, nhập vụ án. Ngoài ra, VKS còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong việc THQCT theo quy định của BLTTHS” [14, tr.156-158].
1.3.3. Giai đoạn truy tố
BLTTHS năm 2015 không có điều luật riêng biệt quy định về công tác
THQCT trong giai đoạn truy tố. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 16 Luật Tổ
chức VKS ND năm 2014 thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT
trong giai đoạn truy tố bao gồm:
“Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy
định của luật; yêu cầu CQĐT truy nã bị can” [18, tr.24-25]. Điều này được
hiểu là, khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, VKS có quyền quyết định áp dụng
một trong số các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm… VKS có nhiệm vụ, quyền hạn
phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn như bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Đối với những biện pháp ngăn chặn do
VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn thì VKS có quyền hủy bỏ hoặc thay
28
đổi khi xét thấy không cần thiết hoặc có khả năng thay thế bằng một biện
pháp ngăn chặn khác.
“Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ
án trong trường hợp cần thiết” [18, tr. 25].
Trong trường hợp cần thiết, VKS có quyền trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra nhằm mụ đích kiểm tra tính xác thực, bổ sung tài liệu,
chứng cứ để cân nhắc, quyết định việc truy tố. VKS cũng trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà VKS xét
thấy không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT.
VKS có quyền “quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm
tội, người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho CQĐT
để điều tra bổ sung” [18, tr.25].Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi
phát hiện có dấu hiệu tội phạm. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố
bị can trong một số trường hợp cần thiết theo luật định. Ví dụ như trường hợp
sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác
đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố thì VKS có
thể ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Bên cạnh quyền tự thực hiện, VKS cũng có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, nếu có căn cứ xác định
tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn một số
tội phạm khác chưa bị khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS sẽ có
quyền trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
và trả hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra. VKS có quyền yêu cầu CQĐT
ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nếu có căn cứ
xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc
còn có hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố. trường hợp đã yêu cầu mà
29
CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiếp tục tiến hành điều tra.
“Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm
quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn.
Quyết định truy tố, không truy tố bị can.” [18, tr.25]. Khi việc điều tra
vụ án kết thúc, CQĐT chuyển bản kết luận điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ
vụ án cho VKS . Sau khi nghiên cứu, nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu
trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS quyết định
truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố nếu
vụ án được tiến hành theo thủ tục rút gọn), đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
án cùng bản cáo trạng sang Tòa án để thực hiện việc xét xử.
VKS có quyền ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can và quyết định phục hồi vụ án, bị
can. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại
Khoản 1 Điều 247 BLTTHS thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án; trường
hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 155
và Điều 157 BLTTHS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án; Khi có căn cứ
quy định tại Điều 249 BLTTHS thì VKS ra quyết định phục hồi vụ án.
VKS còn có quyền thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết
định việc truy tố theo quy định của BLTTHS.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, luận văn đã nghiên cứu và phân tích về khái niệm,
phạm vi, đặc điểm của THQCT, làm rõ mối quan hệ giữa THQCT với kiểm
sát hoạt động tư pháp. Qua đó có thể hiểu THQCT là hoạt động của VKS ND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
30
phạm tội. Hoạt động này được thực hiện ngay từ giai đoạn tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, luận văn cũng đã
làm rõ khái niệm và các đặc điểm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên cơ sở quy định của BLHS hiện hành.
Trong phạm vi chương này, luận văn cũng đã nêu và phân tích quy định của
BLTTHS 2015 về THQCT trong các giai đoạn tố tụng bao gồm: Giai đoạn
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; giai đoạn điều tra; giai đoạn
truy tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Các khái niệm cũng như quy định của pháp luật được phân tích ở
chương 1 là cơ sở để đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn quận 9 thành phố Hồ Chí Minh được nêu ở chương 2.
31
Chương 2:
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ
ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến
năm 2018
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông
Bắc của thành phố, có diện tích 113,896.200 km2, với dân số 235.268 nhân
khẩu. Quận 9 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997, với địa giới hành
chính được chia thành 13 phường, bao gồm: Phước Long A, Phước Long B,
Phước Bình, Phú Hữu, Long Trường, Long Thạnh Mỹ, Trường Thạnh, Long
Bình, Tân Phú, Long Phước, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Hiệp Phú
[5]. Vị trí địa lý của Quận tương đối phức tạp, giáp nhiều địa phương khác
nhau: Phía Đông giáp huyện Long Thành và thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, ranh giới tự nhiên là sông Đồng Nai; phía Tây giáp quận Thủ Đức; phía
Tây Nam giáp quận 2; phía Nam giáp huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; phía
Bắc giáp thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Tuy là một quận mới được thành lập nhưng dân số của Quận 9 tương
đối đông và tăng nhanh hơn so với 23 quận còn lại của thành phố Hồ Chí
Minh. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân tốc
độ đô thị hóa và việc di dân hàng năm. Các tiện ích xã hội hoàn hảo của khu
Đông, các khu chức năng quan trọng tại Quận 9 đều đã và đang hình thành
một cách bài bản là nhân tố tích cực hỗ trợ quận 9 trở thành điểm đến của
nhiều nhà đầu tư cũng như nơi an cư phù hợp. Là một quận thuộc vùng ngoại
32
ô thành phố, giáp nhiều địa phương khác, có hệ thống đường giao thông thuận
lợi cho việc di chuyển giữa các vùng, các địa phương và là cửa ngõ của thành
phố với diện tích đất còn tương đối rộng, Quận 9 là nơi thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế cũng như địa bàn thuận lợi để dân cư sinh sống. Người dân
cư trú ở quận 9 để làm việc ở các quận trung tâm thành phố tương đối đông.
Bên cạnh đó, vì là quận mới được thành lập, kinh tế đang từng bước được
phát triển nên tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh dưới sự đầu tư của thành phố
cũng như các nhà đầu tư từ bên ngoài với nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Quận 9 có khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh đã được
xây dựng và đi vào hoạt động với quy mô ngày càng được mở rộng thu hút
nhiều lao động ở các địa phương khác đến làm việc, sinh sống. Ngoài ra, các
doanh nghiệp, nhà máy trên địa bàn quận cũng tương đối nhiều với nhu cầu
lao động lớn. Lượng sinh viên lớn của các trường đại học, cao đẳng đóng trên
địa bàn quận như Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Tài
chính – marketing, Trường Đại học Kiến trúc, Trường Cao đẳng Công
thương, … cũng góp phần làm cho lượng dân cư nói chung của Quận 9 trở
nên đông đúc hơn. Song song với đó, lực lượng lao động tự do ở khu vực này
cũng tương đối nhiều. Hàng năm, nhu cầu lao động tăng do kinh tế phát triển
hơn nên lượng dân cư đến và sinh sống tại địa bàn quận cũng vì thế mà tăng
lên.
Bên cạnh số lượng dân cư đông, tăng nhanh, đối tượng dân cư trên địa
bàn quận cũng tương đối nhiều, phức tạp: học sinh, sinh viên, công nhân, cán
bộ công chức, lao động tự do,… Nhiều đối tượng dân cư với trình độ văn hóa,
học vấn, quan điểm sống khác nhau làm cho tình hình xã hội tương đối phức
tạp, dễ nảy sinh mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực diễn ra
ngày càng nhiều. Vì vậy, thời gian vừa qua, tình hình tội phạm trên địa bàn
Quận 9 đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, trong đó, tội
33
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
chiếm tỷ lệ cao gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến an
ninh trật tự.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố
Hồ Chí Minh
Tuy là một đơn vị mới được thành lập nhưng Viện kiểm sát nhân dân
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh đã được hoàn thiện cơ bản về cơ cấu tổ chức
và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Hiện nay đơn vị được biên chế 21
công chức, bao gồm: Viện trưởng phụ trách công tác chung; 02 Phó Viện
trưởng, trong đó, 01 Phó Viện trưởng phụ trách về hình sự, 01 Phó Viện
trưởng phụ trách về dân sự; 10 Kiểm sát viên, trong đó có 06 kiểm sát viên
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực hình sự; 03 chuyên viên; 01 kế toán và 2 nhân viên. Như vậy,
số lượng kiểm sát viên được phân công làm công tác trong lĩnh vực hình sự
tương đối nhiều so với lĩnh vực khác. Theo quy định của Luật tổ chức
VKSND, đơn vị được tổ chức 02 bộ phận chức năng, gồm:
- Bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử, kiểm sát
tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và văn phòng tổng hợp, thống kê tội
phạm.
- Bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, hành chính, kinh doanh thương mại, phá sản doanh nghiệp và những
việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, tiếp công
dân và kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo về tư pháp.
Được sự quan tâm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, đơn vị đã có
nhiều đổi mới toàn diện, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và xây
dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, có phương thức tổ chức và hoạt động khoa
34
học, hiệu quả phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần phòng chống
tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của
bộ máy nhà nước ở địa phương.
2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Quận 9 trong những năm gần
đây đã ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9.
Các loại tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9 có dấu hiệu gia tăng,
hoạt động của tội phạm ngày càng đa dạng, phức tạp, có tính chất manh động,
liều lĩnh và ngày càng trẻ hóa về độ tuổi thực hiện. Từ năm 2014 đến năm
2018, tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn quận xảy ra với số lượng tổng cộng là 136 vụ/181 bị can.
Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018
trên địa bàn Quận 9
Số vụ So sánh số vụ án So sánh số bị can Năm Số bị can trong kỳ (%) trong kỳ (%) án
31 2014 38 100 100
19 2015 29 76,3 61,3
32 2016 60 157,9 103,2
24 2017 22 57,9 77,4
32 2018 34 89,5 103,2
Nguồn: Báo cáo thống kê của VKS ND Quận 9
Qua số liệu trên cho thấy, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa
35
bàn Quận 9 cơ bản tăng giảm không đáng kể nhưng tính chất của vụ án
nghiêm trọng, phức tạp. Năm 2015 so với năm 2014 số vụ án giảm 12 vụ;
năm 2016 so với năm 2015 tăng 13 vụ; năm 2017 so với năm 2016 giảm 08
vụ và năm 2018 so với năm 2017 tăng 08 vụ. Số vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tăng giảm không đều qua các
năm phản ánh tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng diễn biến
khá phức tạp, chịu ảnh hưởng từ sự phát trển kinh tế xã hội và tâm lý dân cư
trên địa bàn quận qua từng năm. Tổng số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố trong 5 năm từ năm 2014 đến
năm 2018 trên địa bàn Quận 9 là 138 vụ án với 183 bị can, như vậy mỗi năm
trung bình có 27,6 vụ án về tội này bị khởi tố. Số lượng bị cáo trung bình qua
5 năm là 1,33 bị cáo/1 vụ án. Điều này cho thấy đặc trưng của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn
Quận 9 là là số lượng người tham gia mỗi vụ án không đông, quy mô vụ án
không lớn.
Nếu lấy số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác bị khởi tố năm 2014 là 100% thì số vụ án của năm 2015 so
với năm 2014 giảm 38,7%, số bị can giảm 23,7%; năm 2016 số vụ án tăng
3,2%, số bị can tăng lên 57,9%. Nhưng đến năm 2017, số vụ án lại giảm
22,6%, số bị can giảm 42,1% và năm 2018 số vụ án tăng 3,2%, số bị can lại
giảm 10,5%.
Tuy nhiên, những số liệu này chưa phản ánh trọn vẹn về tình hình tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác thực tế
xảy ra trên địa bàn quận. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: tội cố ý gây
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác có 04 khoản với 04
khung hình phạt, trong đó, hành vi có dấu hiệu thỏa mãn một trong 03 khoản
36
thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có thể thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (quận) thì sẽ thuộc thẩm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận và được thống kê ở
luận văn này. Tuy nhiên, những vụ án cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà hành vi có dấu hiệu thuộc khoản 4 tức là thuộc
loại tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc những vụ án có bị cáo, bị hại, đương sự ở
nước ngoài, hoặc vụ án đó có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống
nhất về tính chất vụ án, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,… thì theo quy
định về thẩm quyền xét xử, những vụ án đó sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh. Điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan
tiến hành tố tụng của thành phố Hồ Chí Minh sẽ có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đối với các vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói trên. Như vậy, số liệu về các vụ án này sẽ không phản ánh
trong luận văn này vì không có trong theo dõi, thống kê của cơ quan tiến hành
tố tụng ở Quận 9. Theo ý kiến đánh giá của một số cán bộ, kiểm sát viên, số
vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra
trên địa bàn Quận 9 được chuyển lên tiến hành tố tụng ở cấp thành phố tương
đối nhiều.
Các hành vi cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong thời gian vừa qua xuất phát từ những nguyên nhân như:
Mâu thuẫn phát sinh không được giải quyết một cách triệt để lâu ngày tích tụ,
kéo dài; tranh giành lợi ích trong làm ăn, trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn,
thù tức và giải quyết bằng cách xâm hại sức khỏe, tính mạng lẫn nhau; va
chạm giao thông thiếu kiềm chế dẫn đến xô xát, gây thương tích; sự lạm dụng
các chất kích thích như rượu, bia ở các cuộc nhậu hoặc trong các đám cưới,
đặc biệt là tình trạng sử dụng các chất ma túy tổng hợp. Người sử dụng bia
rượu, các chất ma túy không kiềm chế được hành vi, dùng bạo lực để giải
37
quyết các mâu thuẫn, thậm chí gọi thêm đồng bọn đem theo vũ khí thô sơ như
dao găm, kiếm, gậy, búa, súng tự chế gây hậu quả và thiệt hại nghiêm trọng
cho người bị hại.
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
Đối với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của CQĐT, VKS ND Quận 9 xác định đây là khâu quan trọng
hàng đầu, là cơ sở để ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, là
tiền đề mở đầu cho các hoạt động tố tụng giải quyết, kết thúc một vụ án hình
sự. Do đó VKS Quận 9 đã chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT Quận 9
nhằm đảm bảo mọi thông tin về tin báo, tố giác về tội phạm đều được VKS
nắm bắt, tham gia giải quyết kịp thời ngay từ khi xảy ra. Trong đó VKS Quận
9 luôn quan tâm đặc biệt đến hoạt động phân loại tin báo, tố giác về tội phạm,
đây là cơ sở để ra quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự,
đồng thời là biện pháp để nâng cao trách nhiệm của VKS trong việc phê
chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam. Công tác THQCT được VKS ND Quận 9
nghiêm túc thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố đối với các vụ án VKS nắm bắt được. Các tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố do VKS ND Quận 9 tiếp nhận tương đối ít. Trong 5
năm từ 2014 đến 2018 chỉ có 13 tin báo tố giác về hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được VKS ND Quận 9
trực tiếp tiếp nhận. Trong đó, tất cả các tin báo này đều được VKS chuyển
sang cho CQĐT Công an Quận 9 giải quyết. Không có trường hợp nào VKS
ND Quận 9 trực tiếp giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố. VKS ND
38
Quận 9 đã kịp thời cử KSV tham gia bám sát quá trình giải quyết tin báo, tố
giác, kiến nghị khởi tố và đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh để yêu cầu CQĐT
thực hiện để đảm bảo giải quyết kịp thời, có hiệu quả. Hầu hết những yêu cầu
này đều sát với thực tế, có giá trị làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong
vụ án, định hướng có hiệu quả cho việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án
và làm căn cứ cho việc ra quyết định tố tụng tiếp theo như quyết định khởi tố,
không khởi tố vụ án.
Công tác THQCT trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điểm a Khoản 2
Điều 36 BLTTHS năm 2003 có quy định, khi THQCT trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn “khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can.... Tuy nhiên, tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 lại quy định VKS chỉ
được ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. Vì vậy, thực tế có những trường hợp vụ
việc có dấu hiệu tội phạm cần được khởi tố, điều tra, nhưng vì những lý do
khác nhau, CQĐT không ra quyết định khởi tố vụ án và cũng không ra quyết
định không khởi tố vụ án thì VKS không thể ban hành quyết định khởi tố vụ
án để yêu cầu điều tra, mà chỉ có thể ra văn bản yêu cầu khởi tố vụ án. Tuy
nhiên, BLTTHS năm 2015 đã có quy định tại Điều 153 BLTTHS 2015 để mở
rộng thẩm quyền của VKS trong việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
bằng việc bổ sung 02 trường hợp VKS có quyền ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự đó là trường hợp VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trường hợp VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử. Theo đó, hạn chế này đã được
khắc phục, thẩm quyền của VKS trong THQCT trong giai đoạn điều tra được
mở rộng hơn nhằm thực hiện tốt hơn chức năng này.
39
Trên cơ sở quy định của pháp luật ngày càng hoàn thiện, chất lượng,
khởi tố điều tra các vụ án về tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 ngày càng được nâng cao.
Điều này có sự đóng góp rất lớn từ chất lượng, hiệu quả trong công tác
THQCT đối với các vụ án này của VKSND Quận 9. Vai trò của VKSND
Quận 9 nói chung và hiệu quả của công tác THQCT đối với các vụ án về tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn Quận 9 ngày càng được khẳng định. Điều này thể hiện qua các kết
quả sau:
Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị đình chỉ, tạm đình chỉ về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các
năm từ 2014 - 2018 trên địa bàn Quận 9
Số vụ và số bị can Số vụ và số bị can Tổng số khởi tố Năm tạm đình chỉ đình chỉ
Vụ án Bị can Vụ án Bị can Vụ án Bị can
2014 31 38 5 1 3 3
2015 19 29 0 0 0 0
2016 32 60 7 3 1 1
2017 24 22 1 3 5 3
32 34 3 0 0 2018 0
7 7 Tổng 183 20 5 138
Nguồn: VKS ND Quận 9
VKSND Quận 9 đã chú trọng THQCT ngay từ khi giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm cho đến khởi tố vụ án nên trong giai đoạn từ năm 2014
đến năm 2018 không có vụ án nào phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội.
Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS, các hành vi nguy hiểm cho xã hội
quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
40
(nay là Điều 134 BLHS) thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Do
vậy, sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, có một số trường hợp bị
hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố do vậy vụ án đã phải đình chỉ điều tra. Theo
thống kê ở trên, số lượng vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 đã khởi tố bị tạm đình chỉ,
đình chỉ trong giai đoạn điều tra tăng giảm không đều qua các năm nhưng xu
hướng chung là giảm. Từ năm 2014 đến năm 2018, Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an Quận 9 đã đình chỉ điều tra đối với 07 vụ/07 bị can, trong đó: năm
2014: 03 vụ/03 bị can; năm 2015: 0 vụ/0 bị can; năm 2016: 01 vụ/01 bị can;
năm 2017: 03 vụ/03 bị can; năm 2018: 0 vụ/0 bị can. Như vậy, số vụ án đình
chỉ trong giai đoạn điều tra nhiều nhất là năm 2014 và 2017 với mỗi năm 03
vụ/03 bị can. Chỉ có 02 vụ với 02 bị cáo bị đình chỉ ở giai đoạn xét xử do bị
hại rút đơn yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử.
Đối với vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 bị tạm đình chỉ điều tra, từ năm
2014 đến năm 2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã tạm đình
chỉ điều tra đối với 20 vụ/05 bị can, trong đó: năm 2014: 05 vụ/01 bị can; năm
2015: 0 vụ/0 bị can; năm 2016: 07 vụ/03 bị can; năm 2017: 05 vụ/01 bị can;
năm 2018: 03 vụ/0 bị can. Có thể thấy, số vụ án bị tạm đình chỉ tương đối lớn
nhưng số bị can bị đình chỉ ít, thậm chí năm 2018 không có bị can bị tạm đình
chỉ. Số án tạm đình chỉ nhiều nhất là năm 2016 với 07 vụ/03 bị can. Nguyên
nhân của việc tạm đình chỉ điều tra loại án này hầu hết là do có hành vi có dấu
hiệu phạm tội xảy ra, CQĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án nhưng sau đó
chưa xác định được người phạm tội hoặc người phạm tội bỏ trốn mà chưa bắt
được nên hết thời hạn điều tra buộc phải tạm đình chỉ vụ án.
Bên cạnh đó, trong 05 năm vừa qua, VKSND Quận 9 không hủy bất kỳ
Quyết định không khởi tố vụ án hay quyết định khởi tố bị can không có căn
41
cứ, trái pháp luật nào về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác của CQĐT Quận 9. Và cũng không có trường hợp nào
VKS phải tự khởi tố vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác để yêu cầu CQĐT điều tra vụ án. Có được
kết quả này là do VKS và CQĐT Quận 9 có mối quan hệ tương đối tốt trong
việc phối hợp giải quyết án hình sự và công tác của VKSND Quận 9, nhất là
công tác THQCT đối với loại án này được thực hiện tương đối triệt để, có
hiệu quả, bám sát quá trình giải quyết vụ án.
Theo quy định của pháp luật tố tụng, các vụ án hình sự chủ yếu do
CQĐT khởi tố vụ án. VKS có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường
hợp thỏa mãn quy định tại Điều 104 BLTTHS 2003 (Điều 153 BLTTHS năm
2015), VKS có thẩm quyền khởi tố bị can hoặc trực tiế ra quyết định khởi tố
bị can nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện trong trường hợp quy
định tại Khoản 4 Điều 179 BLTTHS (Điều 126 BLTTHS năm 2003). Tuy
nhiên, từ năm 2014 đến năm 2018, các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đều do CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị
can. VKS Quận 9 không tự ra quyết định khởi tố và cũng không yêu cầu
CQĐT ra quyết định khởi tố đối với bất kỳ vụ án nào trong giai đoạn điều tra
cũng như giai đoạn truy tố. Điều này là kết quả của công tác THQCT, của
việc phối hợp chặt chẽ giữa CQĐT, VKS trong việc giải quyết các vụ án cố ý
gây thương tích, định tội và điều tra một cách nghiêm túc ngay từ giai đoạn
điều tra.
Công tác THQCT trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Khi tiến hành các hoạt động điều tra, để đảm bảo hiệu quả của hoạt
động tố tụng, ngăn chặn, hạn chế việc phạm tội mới,… CQĐT có quyền áp
dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, .... Các biện pháp
này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
42
Hiến pháp và các văn bản pháp luật nên trước khi áp dụng, các cơ quan tiến
hành tố tụng luôn phải xem xét điều kiện, cân nhắc kỹ lưỡng. VKS ND Quận
9 luôn kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi các biện pháp ngăn chặn của
CQĐT theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp
luật quy định. Việc phê chuẩn các lệnh, quyết định nhất là các quyết định hủy
bỏ hay thay đổi các biện pháp ngăn chặn luôn được KSV nghiên cứu đề xuất
và trình lãnh đạo quyết định đảm bảo chính xác và có căn cứ. Trong khoảng
thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 tất cả các đối tượng bị tạm giữ đều bị
khởi tố chuyển tạm giam hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh; không có
trường hợp nào bị bắt sau đó phải trả tự do do oan sai. Bên cạnh đó, một số vụ
án có tính chất nghiêm trọng và rất nghiêm trọng nên việc xem xét áp dụng
hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải xem xét trong mối liên hệ
với quá trình giải quyết vụ án, với các đối tượng trong vụ án và điều kiện
hoàn cảnh của từng trường hợp.
Hầu hết các lệnh bắt bị can, quyết định gia hạn tạm giữ hay việc áp
dụng biện pháp tạm giam đối với các bị can đều được VKS phê chuẩn. Tuy
nhiên, có một số trường hợp, sau khi nghiên cứu hồ sơ, VKS nhận thấy không
cần thiết phải bắt khẩn cấp và áp dụng biện pháp tạm giam nên đã không phê
chuẩn 01 trường hợp bắt khẩn cấp, 02 trường hợp tạm giam. VKS Quận 9 đã
thực hiện tốt các nhiệm vụ về phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các biện pháp
hạn chế quyền con người nên đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo thống kê, VKS ND Quận 9 đã thực
hiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khi THQCT đối với vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cụ thể như
sau: Việc phê chuẩn biện pháp bắt từ năm 2014 đến năm 2018, VKS ND
Quận 9 đã phê chuẩn bắt khẩn cấp, giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối
với 25 đối tượng, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 98 bị can, không phê chuẩn
43
lệnh bắt bị can để tạm giam 02 bị can. Việc áp dụng phê chuẩn gia hạn tạm
giữ, gia hạn lệnh tạm giam: VKS đã ra quyết định phê chuẩn gia hạn tạm giữ
lần thứ nhất 21 đối tượng, phê chuẩn gia hạn tạm giữ lần thứ 2 có 09 trường
hợp. VKS ND Quận 9 đã làm tốt công tác này đảm bảo việc bắt, giam, giữ
người đúng quy định pháp luật, không có trường hợp oan sai.
THQCT trong giai đoạn điều tra, thực hiện các hoạt động thu thập,
củng cố chứng cứ
Theo quy định của pháp luật, khi THQCT đối với mỗi vụ án hình sự,
VKS có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra
theo những yêu cầu đó; VKS cũng có quyền trực tiếp tiến hành điều tra theo
quy định của pháp luật. Trong 05 năm vừa qua, KSV của VKS ND Quận 9 đã
có nhiều cố gắng trong công tác này. Trong mỗi vụ án KSV được phân công
phụ trách đều đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu ĐTV tiến hành điều tra. Bản
yêu cầu điều tra của KSV đã kịp thời định hướng cho công tác điều tra diễn ra
đúng hướng và thuận lợi, hạn chế được việc trả hồ sơ điều tra bổ sung do
thiếu chứng cứ.
Trong một số trường hợp cần thiết, các KSV đã chủ động tiến hành một
số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị
hại và nguyên đơn dân sự, tiến hành đối chất, nhận dạng hay thực nghiệm
điều tra nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Kể từ năm 2017,
100% các vụ án nói chung và án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác nói riêng sau khi kết thúc điều tra, KSV của VKS
ND Quận 9 đã thực hiện phúc cung bị can trước khi truy tố bị can nhằm tránh
oan, sai bỏ lọt tội phạm.
Công tác THQCT trong việc quyết định truy tố
Số lượng vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 khi kết thúc điều tra được VKS truy
44
tố chiếm tỷ lệ cao so với số vụ án bị đình chỉ, tạm đình chỉ.
Bảng 2.3. Số vụ án và bị can về tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác kết thúc điều tra được VKS truy tố
trong các năm từ 2014-2018 trên địa bàn Quận 9
Tổng số vụ kết thúc điều Tổng số vụ truy tố VKS đình chỉ Năm
tra đề nghị truy tố Bị can Vụ án Vụ án Bị can Vụ án Bị can
18 28 18 28 0 0 2014
11 11 0 0 2015 12 12
24 51 24 51 0 2016 0
11 12 11 12 0 2017 0
25 28 25 28 0 0 2018
89 89 131 0 0 Tổng 131
Từ bảng số liệu thống kê trên cho thấy tổng số vụ án sau khi kết thúc
điều tra đề nghị truy tố tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong giai đoạn 2014 - 2018 là 89 vụ/131 bị can. Số vụ án đã
bị truy tố về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong giai đoạn (2014 - 2018) trên địa bàn Quận 9 là 89 vụ/131 bị can,
chiếm tỷ lệ 100 % trên tổng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác sau khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố. Số vụ án bị
truy tố giảm từ 18 vụ/28 bị can năm 2014 xuống 11 vụ/12 bị can năm 2015.
Năm 2016 tăng lên đến 24 vụ án và số bị can bị truy tố cũng tăng lên đến 51
bị can. Năm 2017, số vụ án bị truy tố là 11 vụ và 12 bị can, giảm 13 vụ và 39
bị can bị truy tố so với năm 2016. Năm 2018, số vụ án bị truy tố theo Điều
104 là 25 vụ và 28 bị can, tăng 14 vụ án và 16 bị can bị truy tố so với năm
45
2017. Con số này cho thấy số vụ án truy tố theo theo Điều 104 BLHS chiếm
tỷ lệ cao trên địa bàn Quận 9, số vụ án và bị can bị truy tố có xu hướng tăng
gảm không đều nhưng nhìn chung là tăng qua các năm trong giai đoạn 2014 -
2018. Sở dĩ tội phạm cố ý gây thương tích thường chiếm tỷ lệ cao vì xuất phát
từ vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội của Quận 9 như đã phân tích ở phần
trên.
Trong giai đoạn truy tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong 05 năm vừa qua, VKS không ra
quyết điịnh đình chỉ đối với bất kỳ vụ án hay bị can nào. Những trường hợp
có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án, bị can đều được phát hiện kịp
thời từ giai đoạn điều tra vụ án. Điều ày thể hiện cố gắng, nỗ lực của VKSND
Quận 9 trong quá trình tiến hành tố tụng nói chung, THQCT nói riêng đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn quận.
- Về việc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung theo quy định của Thông
tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKS NDTC-BCA-TANDTC ngày 27 tháng 8
năm 2010 hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều
tra bổ sung và Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKS NDTC-TANDTC-
BCA-BQP ngày 22/12/2017 về “Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung”: Do có sự phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và hiệu quả
của công tác THQCT cũng như kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS
ND Quận 9 tương đối hiệu quả nên việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
quá trình tiến hành tố tụng giữa các cơ quan diễn ra rất ít. Trong 05 năm từ
2014 đến 2018, VKS mới chỉ trả hồ sơ yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung trong
05 vụ án.
46
Trong giải quyết các vụ án tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, bị can
Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa VKS với CQĐT và sự tham gia tích
cực, có trách nhiệm của VKS từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố nên không có trường hợp nào các quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ của CQĐT bị VKS ND Quận 9 hủy bỏ. Tất cả các
trường hợp CQĐT tạm đình chỉ và đình chỉ đều được VKS ND Quận 9 theo
dõi, quản lý và kiểm sát và phối hợp chặt chẽ trong quá trình giải quyết cho
nên các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ của CQĐT đều đảm bảo có căn cứ.
Các trường hợp khi các căn cứ tạm đình chỉ không còn, VKS đều nắm chắc và
kịp thời yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra. Cụ thể, trong 05 năm từ năm 2014
đến năm 2018, VKS đã yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra đối với 03 vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Các
vụ án khác về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác bị tạm đình chỉ đều do CQĐT chủ động ra quyết định phục hồi
điều tra.
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
2.3.1. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả, ưu điểm đã đạt được, hoạt động THQCT của
VKSND Quận 9 đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn quận vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau
đây:
Thứ nhất, việc nắm bắt, THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của VKS trong một số trường
hợp còn chưa được thực hiện tốt
Công tác quản lý, xử lý tố giác, tin báo tội phạm trong thời gian qua tuy
đã được VKS ND Quận 9 chú trọng nhưng một số KSV khi phụ trách lĩnh
vực này vẫn còn thiếu sự chủ động trong việc phối hợp với cơ quan hữu quan
47
nên chưa thể nắm bắt được triệt để các thông tin về tội phạm mà chủ yếu là do
CQĐT cung cấp hoặc do người bị hại làm đơn tố cáo. Thực tế vẫn còn tình
trạng hành vi phạm tội xảy ra nhưng không được phát hiện để khởi tố, yêu cầu
khởi tố hoặc thực hiện việc khởi tố rất chậm. Điển hình: Ngày 16/7/2016,
VKS ND Quận 9 nhận được hồ sơ tố giác, tin báo tội phạm do CQĐT Công
an Quận 9 chuyển sang đối với vụ việc: anh T bị một nhóm thanh niên dùng
mã tấu chém gây thương tích, xảy ra ngày 10/2/2016, tại chợ Long Trường.
Vụ việc xảy ra ngày 11/2/2016, xuất phát mâu thuẫn giữa 02 nhóm thanh niên
tại phường Long Trường. Các đối tượng có dùng dao tự chế để đánh nhau,
hậu quả là T và P bị thương tích phải nhập viện. Ngày 17/2/2016 T xuất viện.
Đến ngày 23/2/2016, T có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và yêu cầu được
giám định tỷ lệ thương tật. Ngày 25/2/2016, Thủ trưởng CQĐT Công an
Quận 9 ra Quyết định phân công Điều tra viên thụ lý giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm. Tình trạng thương tích của T được ghi nhận lúc nhập viện ngày
11/2/2016 là có vết thương ở vùng trán dài 08 cm, chảy nhiều máu, lộ xương
sọ; vỡ xương sọ và có mãnh vỡ xương hộp sọ găm vào não. Ngày 15/3/2016,
T có đơn xin không giám định tỷ lệ thương tật và rút yêu cầu khởi tố vụ án.
Sau khi nhận được tố giác, tin báo, CQĐT đã không căn cứ vào tính nguy
hiểm của hành vi, tính chất vụ việc để kịp thời làm thủ tục cho T giám định tỷ
lệ thương tật và trên cơ sở yêu cầu khởi tố của T phải ban hành Quyết định
khởi tố vụ án để tiến hành các hoạt động điều tra. Nhưng do xử lý vụ việc
không kịp thời nên đến ngày 15/3/2016 T có đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án,
dẫn đến không xử lý được tội phạm, làm ảnh hưởng đến yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị tại địa phương và quan
trọng hơn là địa bàn Quận 9 là một điểm nóng về tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, nhất là đối với tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác và đang rất cần có biện pháp đấu tranh
48
phòng chống tội phạm. Vi phạm nêu trên cũng không được VKS phát hiện và
kiến nghị khắc phục. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số trường hợp do nắm
bắt về tin báo, tố giác tội phạm chưa kịp thời nên có một số vụ án CQĐT
không ra quyết định khởi tố mặc dù có dấu hiệu tội phạm nhưng VKS không
nắm được để đề nghị CQĐT khởi tố hoặc tự mình ra quyết định khởi tố.
Ngoài ra, trong giai đoạn điều tra, pháp luật giao cho VKS có quyền đề
ra yêu cầu điều tra. Yêu cầu này bao gồm các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ
tội mà VKS yêu cầu CQĐT thu thập theo trình tự, thủ tục đúng pháp luật, làm
căn cứ để truy cứu TNHS người phạm tội. Tuy nhiên trong thực tiễn thi hành,
do pháp luật hiện hành chưa quy định rõ biện pháp khi CQĐT không thực
hiện yêu cầu điều tra của VKS . Điều này dẫn đến việc nếu CQĐT không thực
hiện theo yêu cầu điều tra thì cũng không có cơ chế xử lý một cách triệt để.
Thứ hai, vướng mắc trong việc giám định xác định tỷ lệ thương tật của
nạn nhân
Công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với loại án này cũng tồn
tại một số hạn chế như trong một số vụ án chưa thực hiện đúng, đầy đủ các
quy định của BLTTHS, mâu thuẫn trong cách xác định tỷ lệ thương tật làm cơ
sở cho việc truy cứu TNHS nói chung và THQCT nói riêng. Ví dụ như vướng
mắc trong việc giám định, giám định lại làm cho tỷ lệ thương tật được xác
định khác nhau dẫn đến khoản bị truy tố trong điều luật khác nhau, thậm chí
là không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điển hình là vụ án sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 09/3/2017, tại quán bia Tuyết thuộc
phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, do mâu thuẫn phát sinh, Trần Văn H đã
có hành vi dùng ghế nhựa đánh vào người và dùng dao chém vào người và
khuỷu tay trái của anh K, làm anh K bị vết thương mặt sau khuỷu trái, gãy
mỏm khuỷu xương trụ trái, đứt bán phần dây thần kinh trụ trái, vết thương
ngực trái, vết thương vùng cánh chậu trái, xây sát vai trái. Bản kết luận giám
49
định pháp y về thương tích đã kết luận về thương tích của anh K: Tỷ lệ tổn
thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31% (Ba mươi mốt phần
trăm). Ngày 12/7/2017, anh K có đơn xin giám định lại tỷ lệ thương tích với
lý do: Anh cho rằng thương tích mà H gây ra không thể lên đến 31%. Cơ quan
cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã ra quyết định trưng cầu giám định lại đối
với anh K. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích sau khi giám định
lại xác định: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh K tại thời điểm
giám định lại là: 29% (Hai mươi chín phần trăm). Trên cơ sở đó, VKS Quận 9
đã lập cáo trạng truy tố H về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Khoản
1 Điều 104 BLHS [22, tr. 3].
Trong vụ án này, kết luận giám định lần 1 kết luận anh K bị tổn hại sức
khỏe do thương tích gây lên là 31%. Sau khi được thông báo về kết quả giám
định, anh K đã làm đơn xin giám định lại vì cho rằng tỉ lệ thương tích là quá
cao so với vết thương. Dựa trên cơ sở đề nghị này, CQĐT đã cho anh K đi
giám định lại và được kết luận tỉ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định
lại là 29%, CQĐT đã sử dụng kết quả giám định lại làm căn cứ giải quyết vụ
án. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 159 BLTTHS năm 2003 (Điều 211
BLTTHS năm 2015) và Luật Giám định tư pháp năm 2012 được sửa đổi, bổ
sung năm 2018, việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ về kết quả
giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn
đề cần giám định, có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính
xác hoặc trong trường hợp đặc biệt. Trong vụ án này, bị hại không đưa ra căn
cứ để nghi ngờ kết luận giám định lần 1 chưa chính xác mà chỉ từ ý chí chủ
quan cho rằng tỉ lệ thương tích quá cao so với vết thương, nhưng CQĐT vẫn
cho bị hại giám định lại. Lẽ ra trong trường hợp này, CQĐT phải làm Công
văn yêu cầu Cơ quan giám định pháp y giải thích kết luận giám định về cách
tính tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh K, nếu thấy có sự nghi ngờ về kết quả mới
50
trưng cầu giám định lại. Tuy nhiên, CQĐT chỉ dựa vào đơn yêu cầu của bị hại
đã ra quvết định trưng cầu giám định lại và VKS Quận 9 đã sử dụng kết quả
giám định lại đó để giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật. Tỷ
lệ tổn thương cơ thể khi giám định lần 1 và lần 2 khác nhau, thỏa mãn hai
khoản khác nhau của Điều 104 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (Điều
134 BLHS) là khoản 1 và khoản 2 với hai khung hình phạt khác nhau. Việc sử
dụng kết quả giám định lại thấp hơn làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình
sự khi việc giám định lại được thực hiện không đúng quy định của pháp luật,
không có căn cứ làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nói chung và kết
quả THQCT nói riêng.
Thứ ba, việc giải quyết vụ án gặp khó khăn khi bị hại từ chối giám định
Một số hành vi cố ý gây thương tích xảy ra, căn cứ vào hồ sơ bệnh án
và tình trạng thực tế thương tích của người bị hại thấy hành vi của người gây
thương tích đã để lại hậu quả rất nghiêm trọng như chấn thương sọ não, dập lá
lách, tổn thương phổi, ... Nhưng sau khi sự việc xảy ra do nhiều lý do khác
nhau, hai bên tự thỏa thuận hòa giải, bồi thường dân sự nên người bị hại từ
chối đi giám định thương tật. Trong trường hợp này không có cơ chế bắt buộc
người bị hại đi giám định nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và VKS
nói riêng không có căn cứ pháp lý để quy kết người đã thực hiện hành vi cố ý
gây thương tích có đủ yếu tố cấu thành tội phạm để khởi tố, dẫn đến bỏ lọt tội
phạm. Điều này được thể hiện qua một ví dụ cụ thể sau [22, tr.10]: Ngày
27/8/2016 tại phường Hiệp Phú, Quận 9, do mâu thuẫn trong việc tranh giành
địa bàn làm ăn, Nguyễn Văn N dùng mã tấu chém người bị hại là anh Lê Hữu
K liên tiếp 03 nhát với các vết thương: 01 vết thương ở đầu vùng thái dương
trái; 01 vết cẳng tay phải và 01 vết ở lưng trái. Khi ra viện, gia đình N đã thỏa
thuận bồi thường cho K số tiền 90 triệu đồng nên K đã làm đơn xin bãi nại
cho N và làm đơn từ chối giám định. CQĐT đã nhiều lần mời K đến trụ sở
51
làm việc và đưa đi giám định nhưng K vẫn không chịu hợp tác với CQĐT mà
cố tình tránh mặt gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án.
Mặc dù BLTTHS đã có quy định tương đối cụ thể về nghĩa vụ của
người bị hại là phải có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, việc thực hiện một cách triệt để, nghiêm
túc quy định này cũng như chế tài để xử lý trường hợp không thực hiện thì
vẫn chưa rõ ràng, chưa được thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, quy định của pháp luật chưa rõ ràng trong việc xác định giá trị
pháp lý của kết luận giám định tỷ lệ thương tật tạm thời, vĩnh viễn nhằm sử
dụng để tiến hành tố tụng
Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn Quận 9 có 21 vụ án kết quả
giám định của cơ quan chuyên môn kết luận người bị hại bị thương tích, tổn
hại sức khỏe mang tính “tạm thời”. Nhưng chưa có quy định nào để phân biệt
sự khác nhau giữa tổn thương mang tính “tạm thời” và “vĩnh viễn”. Tính chất
mức độ của hai loại kết luận này để đánh giá tính nguy hiểm do hành vi phạm
tội của bị can gây ra. Nếu bị can đề nghị cho bị hại đi giám định lại thì mức
độ thương tật của người bị hại thấp hơn mức độ thương tật mà cơ quan giám
định đã kết luận trước đó. Vậy thì kết luận nào làm căn cứ kết tội bị can. Do
không có sự giải thích rõ ràng và hướng dẫn cụ thể dẫn đến có sự nhận thức
khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật
gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc chứng minh sự thật của vụ án.
Thứ năm, phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể gây bất lợi cho
người bị buộc tội
Hiện tại, khi giám định tỷ lệ thương tật của nạn nhân để làm căn cứ cho
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội, các cơ quan tiến
hành tố tụng căn cứ vào quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày
52
12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần, cách tính tỷ lệ tổn thương cơ thể.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi áp dụng văn bản này tồn tại một số vướng mắc
được đánh giá là gây bất lợi cho người bị buộc tội, vi phạm nguyên tắc có lợi
cho bị can, bị cáo. Cụ thể, khi áp dụng nguyên tắc xác định tỷ lệ tổn thương
cơ thể quy định tại Điều 3 thông tư này, theo đó, khi tính tỷ lệ % tổn thương
cơ thể chỉ lấy hàng thập phân đến hai chữ số. Ở kết quả cuối cùng làm tròn số
để có tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể là số nguyên (Nếu chữ số hàng thập phân
lớn hơn hoặc bằng 5 thì làm tròn số thành 01 đơn vị). Áp dụng cách xác định
tỷ lệ % tổn thương cơ thể được tính theo phương pháp cộng được quy định ở
Điều 4 thì rất nhiều trường hợp rất bất lợi cho người bị buộc tội, nhất là trong
trường hợp tỷ lệ thương tật ở ranh giới giữa đủ và không đủ định lượng truy
cứu trách nhiệm hình sự và ranh giới giữa các khung tăng nặng của điều luật.
Ví dụ, trong một vụ án cố ý gây thương tích, kết luận giám định của giám
định viên đưa ra là A bị thương tích phần sẹo mềm vùng mặt trái là 2%, phần
gãy xương gò má là 9% (trong khung từ 8%-10%). Theo cách tính được
hướng dẫn ở thông tư 20/2014: phần sẹo mềm vùng mặt trái là 2%. Phần gãy
xương gò má trong khung từ 8%-10%, tính cụ thể: (100-2) x 9/100%
= 8,82%. Tổng thương tật trong trường hợp này sẽ là 2% + 8,82 = 10,82%.
Theo hướng dẫn thì trường hợp này sẽ làm tròn số tổng thương tật là 11%.
Như vậy, đã đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trên
thực tế, 10,82% nhỏ hơn định lượng thương tật nhỏ nhất là 11% như quy định
của Bộ luật hình sự. Nếu trong trường hợp họ không có tình tiết nào đi kèm
thì nếu tỷ lệ thương tật dưới 11%, họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Vì vậy, việc làm tròn số này gây ra bất lợi rất lớn cho người bị buộc tội,
chỉ vì cơ quan tiến hành tố tụng làm tròn số thành lớn hơn nên họ mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.
53
Thứ sáu, số lượng án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ở Quận 9 đã khởi tố, điều tra nhưng không truy tố
được còn chiếm tỷ lệ tương đối cao.
Công tác THQCT và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm của VKS còn chưa được chú trọng đúng mức. Vì vậy, một số vụ việc
xảy ra VKS không nắm được thông tin đầy đủ, cụ thể về việc giải quyết của
CQĐT dẫn đến không kịp thời đề ra yêu cầu xác minh. Cụ thể, từ các bảng số
liệu thống kê trên cho thấy: Năm 2014, số vụ án về tội cố ý gây thương tích bị
khởi tố theo Điều 104 BLHS là 31 vụ án, trong khi chỉ có 18 vụ án được VKS
truy tố, như vậy số vụ án không bị truy tố về tội này là 13 vụ chiếm tỷ lệ
41,9% tổng số các vụ án bị khởi tố. Năm 2015, số vụ án bị truy tố theo Điều
104 BLHS trên địa bàn quận là 11/19 vụ án bị khởi tố, số vụ án không bị truy
tố về tội này là 08 vụ, chiếm tỷ lệ 42,1%. Đến năm 2016 con số này là 24/32
vụ án, số vụ án không bị truy tố về tội này là 08 vụ, chiếm tỷ lệ 25%. Năm
2017, con số này là11/24 vụ, không truy tố được 13 vụ chiếm tỷ lệ 54,2%.
Năm 2018, con số này là 25/32 vụ, không truy tố được 07 vụ chiếm tỷ lệ
21,9%. Có nhiều vụ án sau khi khởi tố, việc điều tra xét xử gặp phải không ít
những khó khăn do công tác điều tra ban đầu không chặt chẽ dẫn đến nhiều
nội dung của vụ án có mâu thuẫn nhưng không thể khắc phục, ví dụ: giám
định pháp y xác định tỷ lệ thương tật trong trường hợp người bị thương tật đã
được phục hồi sức khỏe, xác định tình trạng tâm thần khi thực hiện tội
phạm,... Số vụ án không bị truy tố cũng có thể là do đã hết thời hạn điều tra
mà CQĐT chưa thể hoàn thành bản kết luận điều tra để VKS truy tố, hoặc
trường hợp vụ án bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra. Như vậy, số vụ án cố
ý gây thương tích đã bị khởi nhưng không thế truy tố về tội này vẫn đang ở
mức cao và tăng giảm không đều về tỷ lệ cũng như số lượng qua các năm.
54
Thứ bảy, tinh thần trách nhiệm của một số KSV đối với hoạt động
THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích còn chưa cao
Một số trường hợp, sau khi phê chuẩn và bàn giao hồ sơ cho CQĐT
điều tra theo quy định thì cả quá trình điều tra KSV không bám sát quá trình
điều tra. Mọi diễn biến phát sinh trong quá trình điều tra KSV không kiểm sát
được cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố. Bên
cạnh đó có những KSV dù là muốn theo sát hoạt động điều tra của Điều tra
viên để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát tuy nhiên do nhiều lý do khác nhau như
số vụ án được phân công giải quyết quá nhiều, không có thời gian, kiêm
nhiệm nhiều khâu công tác, áp lực đòi hỏi về thời hạn, … nên không nắm bắt
được. Do vậy, khi nhận hồ sơ đề nghị truy tố trực tiếp tiến hành xem xét, đánh
giá các tài liệu chứng cứ phát hiện thấy thiếu sót cần bổ sung, khắc phục
nhưng không đủ thời gian để xử lý dẫn đến phải ra quyết định trả hồ sơ cho
CQĐT để điều tra bổ sung. Hoặc việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện, thiếu
chính xác, không hoàn thành tốt công tác THQCT.
Về việc đề ra yêu cầu điều tra: Trong một số vụ án cố gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, KSV đề ra
yêu cầu điều tra không kịp thời, một số yêu cầu điều tra thực hiện cho có, chưa
sát với tình tiết và nội dung của vụ án, chỉ mang tính hình thức, nội dung còn
chung chung không nêu rõ được vấn đề chủ yếu cần điều tra, củng cố chứng
cứ mà mục đích đưa ra yêu cầu điều tra chỉ để đối phó. Bên cạnh đó khi đề ra
yêu cầu điều tra trong một số vụ án, một số KSV còn chưa thực sự linh hoạt,
chưa đi sâu vào tình tiết vụ án để đề ra yêu cầu điều tra phù hợp mà lặp lại yêu
cầu điều tra của các vụ án khác. Và trong một số trường hợp, CQĐT không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các yêu cầu điều tra của VKS đưa ra.
Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án nói chung, chất
lượng công tác THQCT nói riêng và mối quan hệ giữa hai cơ quan.
55
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, về các văn bản hướng dẫn: Quy định của pháp luật tố tụng về
tỷ lệ thương tật tạm thời, tỷ lệ thương tật vĩnh viễn chưa rõ ràng dẫn đến việc
áp dụng trên thực tế chưa thống nhất, có thể thay đổi trong quá trình tiến hành
tố tụng ảnh hưởng đến chất lượng của việc tiến hành tố tụng nói chung và
công tác THQCT đối với án cố gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nói riêng; Hướng dẫn tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày
12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần, cách tính tỷ lệ tổn thương cơ thể
buộc cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan giám định phải tuân theo trong quá
trình giám định xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại làm căn cứ
truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cách tính này gây bất lợi cho người
bị buộc tội khi làm tròn số làm cho tỷ lệ thương tật cao hơn.
Thứ hai, sự phối hợp từ phía CQĐT đối với VKS chưa thực sự triệt để,
toàn diện trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung và án cố gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa
bàn Quận 9. Chính vì vậy đã xảy ra tình trạng một số hành vi cố ý gây thương
tích được giải quyết trong giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
nhưng CQĐT không báo hoặc không báo kịp thời cho VKS làm cho công tác
THQCT của VKS trong giai đoạn này được thực hiện chưa kịp thời hoặc
không được tiến hành.
Thứ ba, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của VKS Quận 9 còn chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan này. Đối với VKS Quận 9 nói riêng và
VKS ND nói chung, cơ sở vật chất hiện nay đang là vấn đề đặt ra tương đối
lớn. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư nhưng hiện nay cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của VKS Quận 9 còn thiếu thốn, lạc hậu. Số KSV có tăng lên về
56
số lượng qua nhưng trụ sở làm việc, các trang thiết bị chưa thực sự được đầu
tư đúng mực. Trụ sở làm việc của VKS ND Quận 9 là cơ sở được Ủy ban
nhân dân Quận 9 cho sử dụng tạm, tận dụng một số phòng trong khuôn viên
của di tích lịch sử Bót Dây Thép được sửa chữa lại để làm việc nên rất tạm bợ
và còn sử dụng chung với Cơ quan thi hành án dân sự quận. Trụ sở nhỏ, thiếu
phòng làm việc, phòng tạm bợ, đã xuống cấp trầm trọng nhưng chưa được
đầu tư xây mới. Tháng 7/2019, VKS ND Quận 9 phải trả lại địa điểm trên
đểvà được bố trí chuyển sang một địa điểm khác là trụ sở cũ của Phòng giáo
dục Quận 9 để làm việc. Cơ sở vật chất ở địa điểm này cũng đã xuống cấp
nhiều nhưng chưa có kinh phí để sửa chữa, nâng cấp. Bên cạnh đó, phương
tiện, máy móc phục vụ công tác như máy tính, máy photo, các phương tiện
nghiệp vụ khác chưa được trang bị đầy đủ gây ảnh hưởng đến tiến độ, chất
lượng làm việc của các KSV trong công tác nói chung và công tác THQCT
nói riêng.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, về số lượng, chất lượng của cán bộ, kiểm sát viên
Biên chế của VKS chưa đảm bảo đủ để phục vụ cho công tác của VKS
nói chung và công tác THQCT nói riêng, nhất là trong điều kiện số lượng án
tăng lên nhiều, phức tạp; KSV phải làm thông khâu, phụ trách cả án dân sự
mà thẩm quyền và trách nhiệm của VKS trong việc giải quyết vụ án dân sự đã
tăng lên đáng kể sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ra đời, điều này dẫn
đến trách nhiệm và hoạt động thực hiện phải nhiều hơn, chiếm nhiều thời gian
trong công tác. Hệ quả là áp lực về trách nhiệm và thời gian đối với đội ngũ
KSV nói chung và KSV VKSND Quận 9 nói riêng ngày càng nặng hơn.
Bên cạnh đó, trình độ năng lực của một số ít KSV làm công tác
THQCT còn hạn chế; do thiếu kinh nghiệm trong công tác thực tiễn nên còn
có tư tưởng ngại va chạm, chưa mạnh dạn thực hiện triệt để những hoạt động
57
thực hiện chức năng THQCT; chủ quan, ít hoặc chưa nghiên cứu đầy đủ
những quy định pháp luật nên chưa nắm vững toàn bộ quy định về các khâu
công tác, hạn chế về kỹ năng dẫn đến hạn chế, sai sót trong quá trình THQCT
đối với các vụ án hình sự nói chung, các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Ví dụ như để xảy ra sai sót,
thiếu căn cứ trong việc giám định lại dẫn đến kết quả giải quyết vụ án không
đúng quy định của pháp luật, … Ngoài ra, mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT
và VKS chưa tốt thể hiện ở chỗ có một số trường hợp VKS đã đưa ra yêu cầu
nhưng CQĐT không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Điều này cũng
làm giảm chất lượng công tác THQCT của VKS.
Thứ hai, công tác quản lý, điều hành, chỉ đạo nghiệp vụ của VKS cấp
trên đối với VKS cấp dưới có lúc còn chưa kịp thời, chưa sâu sát và cụ thể.
Một số trường hợp, vì nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, lãnh đạo viện
phân công người không có chức danh pháp lý thực hiện công tác THQCT làm
giảm hiệu quả của công tác này khi thực hiện. Bên cạnh đó, sau khi phân
công, lãnh đạo không quan tâm đôn đốc sâu sắc đối với việc thực hiện công
tác, không nắm bắt hoặc nắm bắt không đầy đủ, không tháo gỡ kịp thời những
khó khăn vướng mắc gặp phải trong qua trình THQCT làm cho hiệu quả của
công tác này không cao, thậm chí rơi vào bế tắc, xảy ra sai sót.
Thứ ba, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, KSV của ngành
kiểm sát chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa tương xứng với nhiệm
vụ phải thực hiện cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng THQCT nói chung và
THQCT đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói riêng. Bậc lương, hệ số lương theo ngạch, bậc của cán bộ,
kiểm sát viên công tác trong ngành kiểm sát không cao. Tuy nhiên, trách
nhiệm trong công tác cũng như trách nhiệm khi để xảy ra sai sót rất lớn, từ kỷ
luật đến bồi hoàn cho Nhà nước.
58
Tiểu kết Chương 2
Qua thống kê, phân tích đánh giá đặc điểm, tình hình kinh tế, xã hội có
liên quan và tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 từ năm 2014 đến năm 2018 cho thấy
tình hình tội phạm này diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Thông
qua việc phân tích những số liệu cụ thể, luận văn đã phân tích làm rõ thực
trạng của công tác THQCT trong giai đoạn điều tra, truy tố đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 9 theo từng hoạt động THQCT của VKS ND Quận 9. Trên cơ sở phân
tích thực trạng, luận văn đã rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn
chế và xác định nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó để làm căn cứ cho
việc đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng THQCT
nói chung và chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra, truy tố tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận
9 nói riêng.
59
Chương 3:
YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Yêu cầu và phương hướng
3.1.1. Yêu cầu
Đối với tình hình công tác tư pháp của nước ta, Bộ Chính trị đã đánh
giá: “chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và
đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, vi phạm các quyền tự do và dân chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp” [1, tr.10]. Từ
đó, Đảng ta đã xác định những nguyên nhân gây nên tình trạng đó và xác định
nhiệm vụ để các cơ quan tư pháp thực hiện. Cũng tại Nghị quyết này, khi đề
cập đến chức năng của VKSND, Bộ Chính trị đã nêu rõ: “VKS các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp. Hoạt động công tố phải thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt quá trình tố tụng nhằm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của
những người tố tụng khi thi hành nhiệm vụ” [1, tr.12]. Bên cạnh đó, Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 khẳng định, VKSND giữ nguyên hai chức năng như hiện nay là THQCT
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trên cơ sở định hướng của Đảng, Quốc hội
cũng đã ban hành nghị quyết về tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm,
trong đó nhấn mạnh vai trò của Viện kiểm sát cùng với chức năng thực hành
quyền công tố: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp
60
thực hiện tốt quyền công tố, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động tư pháp trong
suốt quá trình tố tụng; chủ động, tích cực đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu khởi
tố vụ án, khởi tố bị can, chống lạm dụng việc bắt khẩn cấp, chống bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” [19, tr.4]. Như vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định quyết tâm xây dựng một nền tư pháp
vững mạnh, trong đó xác định VKS có trách nhiệm quan trọng trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trên cơ sở đó, Ngành kiểm sát cũng đã ban hành nhiều văn bản để xác
định tầm quan trọng cũng như chỉ đạo thực hiện tốt chức năng của ngành nói
chung và công tác THQCT nói riêng. Cụ thể, Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày
06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm đã nhấn mạnh yêu cầu “Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương "Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra" nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội
phạm; bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, kiên quyết không
để xảy ra oan, sai” [29, tr.1] và đưa ra các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện tốt
chủ trương này. Viện trưởng VKSND tối cao đã đánh giá “Thời gian qua,
quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, ngành Kiểm sát nhân dân
đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp nhằm tăng cường và nâng cao chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự, kết quả công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự đạt được kết quả
tích cực; tình trạng án oan, sai giảm dần. Tuy nhiên, trước tình hình tội phạm
diễn biến phức tạp, so với yêu cầu cải cách tư pháp và đấu tranh phòng chống
tội phạm thì quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
61
còn có thiếu sót” [28, tr.1]. Chính vì vậy, chỉ đạo của Viện trưởng là phải
“Tăng cường công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm; thực hiện có hiệu quả chủ trương tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”
[28, tr. 2].
3.1.2. Phương hướng
Trên cơ sở yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay về việc nâng cao
chất lượng công tác THQCT, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
theo hướng đáp ứng các điều kiện:
Một là, áp dụng những giải pháp, kiến nghị trên cơ sở áp dụng các quy
định của pháp luật hiện hành, các điều kiện vật chất thực tế đơn vị (bao gồm
nguồn nhân lực và chất lượng cán bộ) và các cơ quan phối hợp.
Hai là, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc để kiến nghị các cấp có
thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như các hoạt động chỉ đạo
điều hành nhằm tăng cường công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn Quận 9.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố đối với các
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật tố
tụng khác đều ghi nhận VKS ND có chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, không cơ quan nào có thể
hoạt động độc lập mà không gắn với xã hội và có sự phối hợp với cơ quan
khác. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về vị trí, chức năng của VKS cần được
62
tiến hành không chỉ đối với cán bộ, KSV trong ngành Kiểm sát mà còn cần
phải phổ biến rộng rãi đến tất cả các cơ quan, tổ chức đơn vị và cá nhân và
toàn xã hội nhằm mục đích không chỉ cán bộ KSV ý thức về trách nhiệm của
mình gắn với vị trí công tác mà toàn xã hội đóng góp công sức cũng như giám
sát việc thực hiện công tác của VKS . Trước những thay đổi nhanh chóng của
điều kiện kinh tế - xã hội như hiện nay, yêu cầu đối với các cơ quan tư pháp
nói chung và VKS nói riêng là rất cao, một mặt phải đấu tranh có hiệu quả đối
với các loại tội phạm nhưng lại không được để xảy ra oan sai, không xâm
phạm tới danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công
dân vì bất kỳ lý do nào. Chính vì vậy, việc thường xuyên quán triệt, bồi
dưỡng ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, KSV làm nhiệm vụ thực hành
hành công tố để họ có nhận thức đúng đắn, toàn diện về vị trí, vai trò, chức
năng và nhiệm vụ của ngành là yêu cầu cấp thiết hiện nay cũng như trong
tương lai.
3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác
thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Công tác được thực hiện tốt, có hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào cán
bộ trực tiếp thực hiện mà còn phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý chỉ daaoj
điều hành của lãnh đạo đơn vị. Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ của lãnh đạo Viện
trong ngành Kiểm sát nhân dân là biện pháp hành chính hữu hiệu góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT đối với các vụ án hình sự nói
chung, các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác nói riêng. Vì vậy, Lãnh đạo VKS ND có thể thông qua công
tác quản lý để nắm chắc được hoạt động nghiệp vụ đơn vị từ đó đề ra biện
pháp chỉ đạo, điều hành có hiệu quả, sát với thực tế hoạt động của đơn vị, kịp
thời phối hợp một cách đồng bộ giữa các bộ phận công tác, khắc phục ngay
63
những tồn tại, thiếu sót, giải quyết ngay những vướng mắc và phát huy những
thành tích, kinh nghiệm trong công tác. Khi công tác quản lý chỉ đạo, điều
hành có chất lượng, hiệu quả, sẽ giúp cho việc quản lý nghiệp vụ ngày càng
chặt chẽ, các hoạt động nghiệp vụ được tiến hành trôi chảy, có hiệu quả hơn.
Đây là những yếu tố rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm sát nói chung, công tác THQCT nói riêng. Để đáp ứng được những
yêu cầu này, cán bộ quản lý phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời có
khả năng chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động của đơn vị nghiệp vụ. Một
trong những biện pháp quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ đạo là thông qua
việc kiểm tra để phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ để khắc phục kịp thời những sai phạm, vướng mắc gặp phải hoặc có
thể rút kinh nghiệm chung trong từng khâu công tác. Việc hướng dẫn, chỉ đạo
cũng như trả lời thỉnh thị của VKS cấp trên cũng phải được nâng cao về chất
lượng, phải bảo đảm chính xác kịp thời, tránh việc hướng dẫn không rõ ràng
gây khó khăn cho VKS cấp dưới khi thực hiện.
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực
hành quyền công tố
Việc nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ THQCT nói chung và
THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác nói riêng nên bắt đầu từ việc nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm
sát viên trực tiếp thực hiện công tác THQCT. Thời gian qua, đội ngũ KSV nói
chung và KSV VKSND Quận 9 đã có nhiều cố gắng, đóng góp vào việc đấu
tranh các loại tội phạm. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình tội phạm, việc nâng cao chất lượng đội ngũ KSV làm công tác THQCT
là một yếu tố quan trọng góp phần đấu tranh các loại tội phạm. Việc nâng cao
chất lượng đội ngũ KSV có thể thông qua một số nội dụng sau:
Một là, đẩy mạnh đổi mới công tác đào tạo và đào tạo lại với các hình
64
thức thích hợp, kết hợp với phương châm đa dạng hóa hình thức đào tạo để
đáp ứng nhu cầu của ngành như tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng tại hai cơ
sở đào tạo của Ngành, các hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm của VKSND tối
cao, thông qua học tập trao đổi kinh nghiệm của các KSV trong cùng địa
phương và giữa các địa phương với nhau. Kết hợp giữa đào tạo chuyên sâu về
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức lý luận để đáp ứng nhu cầu hiện
nay.
Hai là, đổi mới việc phân công, đánh giá KSV trong khâu công tác
THQCT đối với các vụ án hình sự, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, trình
độ để có thể phát huy năng lực và hiệu quả công việc.
Ba là, ngành Kiểm sát cần tổ chức tập huấn chuyên sâu về công tác
THQCT nói chung, THQCT đối với án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác nói riêng một cách thường xuyên và nghiêm túc,
triệt để. Hiện nay đã có quy định về việc KSV phải tham gia tập huấn bồi
dưỡng hàng năm, mỗi năm tối thiểu là 05 ngày. Tuy nhiên trên thực tế quy
định này chưa được thực hiện nghiêm túc, có những KSV nhiều năm liền
không tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của Ngành. Ngoài việc KSV tự
nghiên cứu để tự hoàn thiện về kiến thức, kỹ năng chuyên môn thì bồi dưỡng,
tập huấn chuyên sâu, mở các hội thảo chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về công
tác này hàng năm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm giúp cho cán
bộ, KSV nâng cao nhận thức, hiểu biết sâu sắc, đầy đủ, toàn diện các quy định
cũng như quy định mới về công tác kiểm sát nói chung và THQCT nói riêng
để từ đó có thể áp dụng vào thực tiễn tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
Đặc biệt, đối với công tác THQCT đối với loại án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mỗi cán bộ, kiểm sát viên nói
riêng, cán bộ tư pháp nói chung nắm vững và tuân thủ nghiêm túc, triệt để
quy định của pháp luật về giám định, giám định lại tỷ lệ thương tật để đảm
65
bảo giải quyết đúng đắn các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác nói riêng, các vụ án liên quan đến tỷ lệ thương tật
nói chung.
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
công tác chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Thực tế cho thấy, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm nhưng cơ
sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện của ngành Kiểm sát nhân dân nói
chung và VKSND Quận 9 nói riêng còn rất khó khăn, thiếu thốn. Đặc biệt từ
khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11-NQ/CP ngày 24/02/2011 về những
giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế làm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo an sinh xã hội và Quyết định số 3063/QĐ-BTC ngày 03/12/2012 của Bộ
Tài chính về việc giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2013, trong
đó quy định: Ngoài tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngay từ khâu dự toán và
giữ lại phần tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngay từ khâu dự toán cho
các cơ quan, đơn vị ở địa phương để bố trí chi cải cách tiền lương và thực
hiện các chính sách an sinh xã hội, đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn kinh phí
hoạt động của các đơn vị nói chung và VKS nói riêng. Việc đầu tư cơ sở hạ
tầng bị dừng lại, trong khi đó trụ sở làm việc của các đơn vị VKSND, nhất là
VKSND Quận 9 còn chật hẹp, xuống cấp; cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật, phương tiện bảo đảm công tác thiếu thốn, lạc hậu, không đảm bảo tính
cơ động, nhanh chóng trong việc thực hiện công tác nói chung, công tác
THQCT nói riêng, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy, Đảng, Nhà
nước cần quan tâm, đầu tư hơn nữa cho ngành Kiểm sát như: tăng cường cơ
sở vật chất cho các VKS địa phương về trụ sở làm việc, phương tiện đi lại,
máy tính, máy in, máy phô tô, … Trang bị cho mỗi cán bộ làm công tác
nghiệp vụ phải có 01 máy tính, máy in kèm theo và trang bị đầy đủ các trang
66
thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, thu thập dấu vết, … như máy ảnh, máy quay, đèn pin, máy ghi
âm, khẩu trang, áo mưa, máy ghi âm, ghi hình, ...
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn giải đáp một số vấn đề
vướng mắc trên thực tế và sửa đổi nội dung quy định không phù hợp
Liên ngành tư pháp cần trao đổi, thống nhất và kịp thời ban hành văn
bản hướng dẫn làm rõ giá trị của kết luận giám định ghi nhận tỷ lệ thương tật
tạm thời có được sử dụng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự người
có hành vi gây thương tích hay không. Nếu sau đó có kết luận giám định lại
với tỷ lệ thương tật vĩnh viễn thì kết quả truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội có thay đổi hay không. Theo tác giả, cần có hướng dẫn theo
hướng các cơ quan tiến hành tố tụng được sử dụng tỷ lệ thương tật tạm thời
làm căn cứ để truy tố, xét xử đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bởi vì, kết luận giám định về tỷ lệ
thương tật được xác định tại thời điểm có thương tích bằng tỷ lệ thương tật
tạm thời. Nó phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tại thời điểm
gây ra thương tích, hậu quả mà bị hại phải gánh chịu. Việc vết thương lành
theo thời gian làm cho tỷ lệ thương tật giảm đi (tỷ lệ thương tật vĩnh viễn)
không phản ánh hết mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ban đầu. Tỷ lệ
thương tật vĩnh viễn thường sẽ luôn thấp hơn tỷ lệ thương tật tạm thời. Vì
vậy, không nên để người phạm tội kéo dài thời gian, lợi dụng việc giám định
lại để giảm tỷ lệ thương tật nhằm giảm mức độ trách nhiệm hình sự mà họ
phải chịu đối với hành vi phạm tội của mình. Với tình hình án cố ý gây
thương tích xảy ra nhiều như hiện nay, nhu cầu thống nhất về quy định trên để
có cách giải quyết phù hợp, thống nhất giữa các cơ quan tư pháp, các địa
phương là rất cấp thiết. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao, VKSND tối cao, Bộ
67
Công an, Bộ Y tế cần sớm ban hành thông tư liên tịch để quy định rõ vấn đề
này.
Bên cạnh đó, để đảm bảo công bằng, nghiêm minh trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội thì cần có quy định về việc xác định tỷ lệ thương tật trong trường
hợp người bị hại từ chối giám định. Việc từ chối giám định có thể do bị hại tự
nguyện hoặc bị ép buộc. Trong rất nhiều trường hợp, bị hại ban đầu từ chối
giám định nhưng sau một thời gian lại yêu cầu khởi tố, yêu cầu giám định
nhưng qua thời gian dài làm cho kết quả giám định sai lệch, ảnh hưởng đến
việc truy cứu trách nhiệm hình sự nói chung và công tác THQCT nói riêng.
Trong khi theo quy định tại Điều 155 BLTTHS thì trường hợp khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại đối với tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ được áp dụng cho trường
hợp tội phạm quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS. Vì vậy, cần ban hành
văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về cơ chế yêu cầu người bị hại đi giám
định khi mức độ thương tích nặng. Hiện tại, khi chưa có cơ chế đi kèm chế tài
cụ thể thì giải pháp tình thế trước mắt là trong trường hợp bị hại từ chối giám
định có thể áp dụng biện pháp giám định qua hồ sơ bệnh án để lấy đó làm căn
cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây thương tích.
Hướng dẫn về cách tính tỷ lệ thương tật của thông tư số 20/2014/TT-
BYT gây bất lợi cho người bị buộc tội, trái với nguyên tắc có lợi cho người bị
buộc tội nên cần được sửa đổi. Vì vậy, Bộ Y tế cần kịp thời ban hành văn bản
sửa đổi hướng dẫn tại Điều 3 và Điều 4 của Thông tư này theo hướng giữ
nguyên tỷ lệ thương tật đến chữ số thập phân sau khi tính tổng tỷ lệ thương tật
mà không làm tròn số lên như hướng dẫn hiện tại.
68
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan
Hiệu quả công tác của VKS nói chung và công tác THQCT đối với các
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói
riêng chịu ảnh hưởng rất lớn từ quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS . Vì
vậy, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan, nhất là trong
THQCT là vấn đề rất quan trọng. Ở địa phương, hai cơ quan nên ký kết quy
chế phối hợp trong công tác nói chung và giải quyết án hình sự nói riêng.
Việc tuân thủ thỏa thuận trong quy chế phối hợp là rất quan trọng. Tuy nhiên,
trách nhiệm, mối quan hệ giữa cán bộ hai cơ quan cũng là yếu tố cần thiết để
nâng cao hiệu quả thực hiện công tác. Mỗi cán bộ của mỗi cơ quan đều cần
phải nhận thức được việc tuân thủ quy chế cũng như tích cực thực hiện mối
quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan để từ đó việc phối hợp giải quyết án kịp
thời và đạt hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, VKS cần họp bàn cùng với CQĐT đề nghị cấp ủy địa
phương thống nhất, chỉ đạo việc ký biên bản giữa CQĐT, VKS và các đơn vị
y tế trên địa bàn về việc khi tiếp nhận, điều trị bệnh nhân nếu bệnh nhân có
báo nguyên nhân vết thương do bị gây thương tích hoặc nghi ngờ vết thương
do bị gây thương tích thì phải báo ngay cho CQĐT để tiến hành một số thủ
tục ban đầu như cử cán bộ lấy lời khai kịp thời, xem xét dấu vết trên thân thể,
chụp ảnh vết thương, đồng thời khi lập hồ sơ bệnh án điều trị thương tích cần
thể hiện đầy đủ, chi tiết về kích thước, vị trí cũng như khả năng phục hồi của
từng vết thương nhằm phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ việc sau
này (nếu có).
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, tác giả đã phân tích yêu cầu về nâng cao chất lượng
THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
69
khỏe của người khác từ thực tiễn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng THQCT, tác giả đã đưa ra các giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động THQCT nói chung và
THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác. Đó là các giải pháp: nâng cao nhận thức về vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND; nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm
sát viên và giải pháp tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện
phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của VKSND. Bên cạnh đó, luận văn
đã đưa ra một số kiến nghị: ban hành các văn bản hướng dẫn để giải đáp một
số vấn đề nghiệp vụ mà trong thực tế đang vướng mắc khi tiến hành tố tụng
nói chung và THQCT nói riêng đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác; nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác phối hợp giữa VKS và CQĐT và các cơ quan hữu quan ở địa phương
nhằm thực hiện có hiệu quả công tác THQCT.
70
KẾT LUẬN
1. Trong những năm qua, tình hình tội phạm nói chung, tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng tại địa
bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh và cả nước nói chung có chiều hướng
diễn biến phức tạp. VKSND có chức năng THQCT là một trong những chức
năng quan trọng để đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người,
đúng tội, đúng quy định pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động THQCT của VKSND đặc
biệt là THQCT đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác từ thực tiễn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và đưa ra định
hướng xử lý đối với loại tội phạm này có ý nghĩa quan trọng và thiết thực đối
với công tác của ngành kiểm sát nói chung và VKSND Quận 9 nói riêng.
2. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, quy định về
hoạt động THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác để đánh giá một cách khách quan thực trạng
hoạt động THQCT của VKSND Quận 9 từ năm 2014 đến năm 2018 đối với
loại án này, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như hạn chế, tồn tại trong quá
trình THQCT. Từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị để góp phần nâng cao
chất lượng công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
3. Kết quả nghiên cứu đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận, đề xuất giải quyết những vướng mắc, hạn chế, giải quyết khó
khăn trong thực tiễn công tác về THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, mà còn góp phần
vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận về áp dụng pháp luật của
VKSND trong thực hiện công tác THQCT đối với các vụ án hình sự ở nước ta
71
trong thời kỳ cải cách tư pháp.
Khi thực hiện luận văn, tác giả đã hết sức cố gắng nhưng do thời gian
ngắn và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên nội dung của đề tài không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến góp ý của
của các Thầy giáo, Cô giáo và bạn đọc để tác giả có thể hoàn thiện luận văn
này một cách tốt nhất.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ban hành
ngày 2/1/2002, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 2/6/2005, Hà Nội.
3. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013) Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC hướng dẫn thi hành
quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, ban hành ngày 02/8/2013, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2014) Thông tư số 20/2014/TT-BYT quy định tỷ lệ tổn
thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần,
ban hành ngày 12/6/2014, Hà Nội.
5. Đảng bộ Quận 9 (2018) “Giới thiệu Quận 9”, Trang điện tử Đảng bộ
thành phố Hồ Chí Minh, 9/gioi-thieu-quan-9-1491378715>, (23/12/2018). 6. Hoàng Đình Đắc (2017) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. 7. Trần Văn Độ (1999) Một số vấn về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 8. Nguyễn Hải Phong (chủ biên) (2014) Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia. 9. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội. 10. Quốc hội (2009) Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung) 2009, Hà Nội. 11. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội. 12. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung)2017, Hà Nội. 13. Quốc hội (2003) Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Hà Nội. 14. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội. 15. Quốc hội (2013) Hiến pháp 2013, Hà Nội. 16. Quốc hội (2012) Luật Giám định tư pháp 2012, Hà Nội. 17. Quốc hội (2018) Luật Giám định tư pháp (sửa đổi, bổ sung)2018 , Hà Nội. 18. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Hà Nội. 19. Quốc hội (2013) Nghị quyết số 63/2013/QH13 về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013, Hà Nội. 20. Nguyễn Tiến Sơn (2015) “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong giai đoạn điều tra trong BLTTHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 09. 21. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 22. Tòa án nhân dân Quận 9 (2017) Bản án số 28/2017/HSST ngày 16/3/2017, Tp. Hồ Chí Minh. 23. Hà Mạnh Trí (2002) Phát biểu của Viện trưởng VKSNDTC tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002. 24. Trường Cao đẳng Kiểm sát (1998) Giáo trình công tác kiểm sát, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 25. Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm – quyển 1), Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. 26. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 27. Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 (2016) Hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, Tp. Hồ Chí Minh. 28. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015) Chỉ thị số 04/CT-VKSTC về tăng cường các biện pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, ban hành ngày 10 tháng 7 năm 2015, Hà Nội. 29. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013) Chỉ thị số 06/CT-VKSTC về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 06/12/2013, Hà Nội. 30. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng (2005) Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT - VKS TC -BCA - BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003, ban hành ngày 07/9/2005, Hà Nội. 31. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao (2010) Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, ban hành ngày 27 tháng 8 năm 2010, Hà Nội. 32. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2017) Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC- TANDTC- BCA-BQP Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, ban hành ngày 22/12/2017, Hà Nội. 33. Viện Ngôn ngữ học (2011) Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 34. Nguyễn Như Ý (1998) Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.