VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ĐỊNH

THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

HÀ NỘI - năm

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ ĐỊNH THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện khoa học xã hội.

Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học viện khoa

học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn .

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ ĐỊNH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ

XÉT XỬ ................................................................................................................................ 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm các chỉ số của tình hình tội phạm .......................................... 6

1.2. Khái niệm, ý nghĩa của thống kê các tội danh đã xét xử ....................................... 15

1.3. Mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội phạm ........... 20

1.4. Nội dung thống kê các tội danh đã xét xử .............................................................. 23

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ CỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO. ..................................................................... 27

2.1. Cơ sở của thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân hiện

nay ................................................................................................................................... 27

2.2. Thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

......................................................................................................................................... 37

2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành

Kiểm sát nhân dân .......................................................................................................... 55

CHƯƠNG 3 HOÀN THIỆN THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ TRONG

THỜI GIAN TỚI. .............................................................................................................. 62

3.1. Quan điểm hoàn thiện thống kê tội danh đã xét xử ............................................... 62

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thống kê các tội danh đã xét xử trong thời

gian tới ............................................................................................................................. 65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 78

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Viện kiểm sát nhân dân VKSND

: Tòa án nhân dân TAND

: Bộ luật hình sự BLHS

: Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS

: Nhà xuất bản NXB

: Tình hình tội phạm THTP

TKTP : Thống kê tội phạm

TKHS : Thống kê hình sự

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm theo từng năm, từng địa phương (từ năm

2015 đến năm 2019)

Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm 2015

đến năm 2019)

Bảng 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019

Biểu đồ 2.4. Số vụ án, bị cáo xét xử theo một số chương của BLHS

Bảng 2.5. Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo nhóm, chương của BLHS

Bảng 2.6. Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử một số tội danh từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.7. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.8. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến

năm 2019

Bảng 2.9. Chỉ số tội phạm theo từng địa phương (Xếp theo thứ tự chỉ số tội phạm

giảm dần)

Biểu đồ 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm

2015 đến năm 2019).

Biểu đồ 2.2. Động thái của tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Biểu đồ 2.3. Tỷ trọng xét xử sơ thẩm các tội phạm theo chương (nhóm tội) từ năm

2015 đến 2019

Biểu đồ 2.4. Động thái tình hình tội phạm của một số tội danh theo bị cáo từ năm

2015 đến 2019

Biểu đồ 2.5. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm

2019

Biểu đồ 2.6. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm trong 5 năm (Từ

năm 2015 đến năm 2019)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thống kê tội phạm là cơ sở quan trọng trong việc đề ra những định hướng, giải

pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm. Số liệu thống kê hình sự, thống kê tội

phạm là cơ sở khách quan để đánh giá về chất lượng hoạt động không những của

các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà còn cả các cơ quan tư pháp nói chung

(công an, kiểm sát, toà án), đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng,

chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá xây dựng, hoạch định chính sách phát

triển kinh tế- xã hội, xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự; xây dựng, củng cố

và kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp. Kết quả của

công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân còn

phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKSND các

cấp và tham mưu, đề xuất với các cơ quan của Đảng và Nhà nước những nội dung

quan trọng góp phần xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, đường lối,

chính sách ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Các cơ quan tư pháp hình sự từ lâu đã nhận thức và đánh giá vai trò quan

trọng của TKHS, TKTP trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

thông qua chức năng và phạm vi điều chỉnh của TKHS, TKTP. Trong thực tế đấu

tranh phòng, chống tội phạm luôn chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu lập pháp chỉ có

thể tiếp cận được THTP thực tế. Tức là ở mọi thời điểm, THTP luôn luôn ở trong

tình trạng phân đôi thành hai phần sáng - tối hay ẩn - hiện khác nhau. Trong nghiên

cứu khoa học về tội phạm học còn được gọi là “Phần hiện của THTP” và “Phần ẩn

của THTP”. Phần hiện của THTP là số tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan

chức năng phát hiện và xử lý. Trên thực tế, số tội phạm này được xác định qua số

liệu thống kê của cơ quan chức năng đó là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Hệ thống số liệu về THTP thu thập được dù ở các

mức độ khác nhau, thời gian và không gian có khác nhau song vẫn là những số liệu

nền tảng, vừa hàm chứa hình ảnh thu nhỏ của THTP, vừa phản ánh kết quả cụ thể

1

của công việc đấu tranh phòng, chống tội phạm của toàn xã hội mà trong đó các cơ

quan tiến hành tố tụng hình sự giữ vai trò nòng cốt. Đồng thời, đây cũng là cơ sở

hiện thực để nghiên cứu phần còn lại - Phần ẩn của THTP và nghiên cứu các mặt

khác của đời sống pháp lý. Nhận thấy vai trò của thống kê tội phạm trong đấu tranh

phòng và chống tội phạm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp

và pháp luật nhằm tăng cường công tác thống kê tội phạm. Đặc biệt là Nghị quyết số

08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công

tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: “Nâng cao chất lượng công tác thống kê tư

pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực hiện công tác này”. Luật hóa

các chủ trương trên, Điều 34 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “VKSND có

trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong

việc thống kê hình sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan

tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Viện

kiểm sát nhân dân trong việc thống kê tội phạm”. Thời gian qua với vai trò là cơ quan

chủ trì, VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng cùng

cấp thu thập, tổng hợp các số liệu thống kê phản ánh tình hình tội phạm, kết quả giải

quyết và thi hành án hình sự.

Thống kê hình sự, thống kê tội phạm là hoạt động thu thập, tổng hợp, phân tích

tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trên

phạm vi toàn quốc hay ở một vùng lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một khoảng

thời gian nhất định. Nên kết quả của hoạt động thống kê hình sự, thống kê tội phạm

là phương tiện chủ yếu để đánh giá về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm.

Qua số liệu thống kê có thể thấy được tình hình diễn biến của tội phạm, mức độ

phạm tội, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, đồng thời có thể tìm ra

những giải pháp thích hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, TKTP hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế như: Chưa xây

dựng được bộ chỉ số chung (chỉ tiêu) để thống nhất đánh giá về tình hình tội phạm,

mỗi cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng các tiêu chí về số liệu thống kê thuộc phạm

vi nhiệm vụ của mình để đánh giá nên có sự nhận định đánh giá khác nhau về tình

2

hình tội phạm. Hơn nữa, hệ thống các chỉ tiêu thu thập số liệu TKTP hiện nay chưa

được đầy đủ; biểu mẫu thu thập chỉ tiêu số liệu thống kê cồng kềnh, phức tạp; hiện

nay phần lớn các đơn vị vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (đếm sổ), nên có

nhiều hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo, nhất là độ chính xác và tính kịp

thời...Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thống kê các tội danh đã xét xử ở Việt Nam

từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao” là rất cần thiết, trên cơ sở lý luận

và thực tiễn đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng hệ thống thống kê hình sự,

thống kê tội phạm hiện đại, tiên tiến nhằm thống kê được đầy đủ, chính xác, kịp

thời số liệu về kết quả xử lý tội phạm.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này

trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như:

- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân

dân, tái bản năm 2011.

- Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và

chống tội phạm trong tình hình mới. Đề tài khoa học cấp bộ , tháng 7 năm 2005 -

Chủ nhiệm Đề tài: Nguyễn Duy Hồng - Cục trưởng, thư ký đề tài Phạm Văn Được -

Cơ quan chủ trì: Cục Thống kê tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Kết quả điều tra TKTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm năm 2006 (Lưu

hành nội bộ) tháng 10 năm 2007 của Cục Thống kê tội phạm, VKSND tối cao.

- Nguyễn Xuân Hưởng (2012) "Vai trò của thống kê tội phạm trong đấu

tranh phòng và chống tội phạm ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

- Trần Thủy Quỳnh Trang - Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông

tin, VKSND TP Hồ Chí Minh “Thống kê tội phạm, thống kê hình sự - Lý luận và

thực tiễn”.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư

pháp “Cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của thống kê tư pháp và việc xây dựng, hoàn

3

thiện chế độ thống kê tư pháp ở Việt Nam”.

Các công trình nghiên cứu đã tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề khác

nhau, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác thống kê các

tội danh đã xét xử. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ

Luận văn Thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu bổ

ích, phong phú để tác giả thực hiện Luận văn tốt nghiệp Cao học của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về đối chiếu với thực tiễn công

tác thống kê tội phạm nói chung và thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn của

VKSND tối cao để xác định quan điểm, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của

công tác này.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn:

Để thực hiện mục đích trên luận văn sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ

chủ yếu sau:

- Những vấn đề lý luận của thống kê các tội danh đã xét xử.

- Đánh giá khái quát thực trạng thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thống kê các tội danh

đã xét xử ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm

và thực tiễn của công tác này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2015 đến

năm 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các số liệu đã thống kê

để đánh giá công tác thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm trong cả nước từ năm

2015 đến năm 2019.

4

5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà

nước và pháp luật về đấu tranh phòng và chống tội phạm và ý nghĩa vai trò của

thống kê các tội danh đã xét xử trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Luận văn

còn dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành như lý thuyết về thống kê tội phạm, thống

kê xã hội học,... kinh tế - xã hội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau :

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp chủ yếu được sử

dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được sử sụng để tiến

hành phân tích và tổng hợp các nội dung cần nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn sử

dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh… để bảo đảm

tính khách quan của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về lý luận: Từ những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn

thiện lý luận về thống kê tội phạm và thống kê hình sự, xây dựng lý luận cơ bản cho

bộ môn thống kê tội phạm nhằm trang bị cho cán bộ công tác tại các cơ quan tư

pháp, nhất là đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác thống kê tội phạm những

lý luận chung về thống kê tội phạm; xác định đúng vai trò, trách nhiệm, vị trí, tầm

quan trọng của thống kê các tội danh đã xét xử trong hoạt động thực hiện chức năng

của từng ngành nói riêng và trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm,

cũng như trong việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược phòng chống tội phạm và

hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.

- Về thực tiễn:Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo trong quá trình học tập, giảng dạy, nghiên cứu về những vấn đề có liên quanvề

thống kê tội phạm, thống kê hình sự, thống kê tư pháp. Đồng thời luận văn cũng có

5

ý nghĩa thiết thực về mặt thực tiễn là khảo sát đánh giá thực trạng và đề xuất những

giải pháp cơ bản nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thống kê

các tội danh đã xét xử, đáp ứng yêu cầu ngày một cao.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH

ĐÃ XÉT XỬ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, các thông số của tình hình tội phạm

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tình hình tội phạm

Tình hình tội phạm là một thuật ngữ đặc thù của tội phạm học. Nghiên cứu

về THTP giúp ta hiểu được bức tranh chung về tội phạm trong một khoảng thời

gian ở một không gian nhất định. Trong lịch sử phát triển của khoa học nghiên

cứu về tội phạm học có nhiều khái niệm về THTP.

Khái niệm tình hình tội phạm là một thuật ngữ khoa học và đồng thời là

một thuật ngữ được dùng trong ngôn ngữ thông dụng. Đó chính là khái niệm cơ

bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Cũng như mọi khái niệm khoa học khác,

khái niệm tình hình tội phạm có những chức năng như: chức năng lôgích, chức

năng nhận thức, chức năng đánh giá. Nghiên cứu về tình hình tội phạm và các

thông số về tình hình tội phạm, cho thấy có nhiều khái niệm khá tương đồng, như:

“Tình hình tội phạm là hiện tượng tâm - sinh lý xã hội tiêu cực, vừa mang tính

lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai

cấp, được thể hiện thông qua tổng thể các hành vi phạm tội cùng với các chủ thể

đã thực hiện các hành vi đó trong một thời gian và không gian nhất định” [44.

Tr10]. “Tình hình tội phạm là thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra

trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định” (Trường Đại học Luật Hà

Nội, Giáo trình Tội phạm học, Nxb, CAND, Hà Nội, 2015, tr.100),... Các công

6

trình nghiên cứu về tội phạm học cho rằng để có cơ sở cho việc đưa ra một định

nghĩa về tội phạm học, trước hết cần tìm hiểu các dấu hiệu và thuộc tính của nó.

Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm nghiên cứu lý luận về tình hình

tội phạm và khái niệm về tình hình tội phạm: “Tình hình tội phạm là một hiện

tượng xã hội, pháp lý - hình sự, được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp

bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội

(quốc gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định” [32,tr 60].

Từ khái niệm trên cho thấy, tình hình tội phạm, trước hết là một hiện

tượng xã hội - dấu hiệu này nói nên bản chất xã hội của tình hình tội phạm. Chính

từ những hành vi phạm tội do con người sống trong xã hội thực hiện, chống đối

lại toàn bộ xã hội hay một công dân, một bộ phận xã hội hoặc một bộ phận người

thống trị xã hội, mà suy cho cùng chống đối lại chính cả bản thân họ, đã hình

thành một hiện tượng xã hội; do đó, tình hình tội phạm là một hiện tượng có sự

biểu hiện tiêu cực, là mặt trái của xã hội và nó có tính độc lập tương đối. Nghiên

cứu tình hình tội phạm thể hiện dấu hiệu về không gian và thời gian của tình hình

tội phạm; xác định rõ quy mô của hiện tượng trên địa bàn một địa bàn đơn vị

hành chính và khoảng thời gian nhất định, thể hiện một giai đoạn phát triển nhất

định của nó. Hay nói cách khác, thì tình hình tội phạm, trước hết là một hiện

tương xã hội, vì nó tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc trong xã hội, có nội dung xã

hội, có nguyên nhân trong xã hội, vì với tính cách là một biểu hiện, là mặt trái của

xã hội, có mối liên hệ, quan hệ chặt chẽ, biện chứng của hiện tượng đó với các

hiện tượng xã hội khác, với các điều kiện tồn tại của xã hội. Tình hình tội phạm

thể hiện đặc điểm định lượng và định tính thể hiện trong không gian và thời gian,

cụ thể ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ - hành chính nhất định.

Tình hình tội phạm ở Việt Nam có những đặc điểm, sự thể hiện, biểu hiện

khác nhau trong các giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau. Trong đó, các nhà

nghiên cứu đã phân thành các giai đoạn cơ bản: Tình hình tội phạm ở Việt Nam

trong giai đoạn từ Cánh mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954; giai đoạn từ

1955 đến năm 1975; giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985; giai đoạn từ năm 1986

7

đến nay. Nghiên cứu các giai đoạn này cho thấy thực trạng, diễn biến, cơ cấu và

tính chất của tình hình tội phạm ở Việt Nam luôn gắn với những biến đổi, thay

đổi về mọi mặt diễn ra trong đời sống của xã hội nước ta. Trong đó, tình hình tội

phạm ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay chịu sự tác động rất lớn của

những biến đổi khác nhau trong đời sống xã hội, do vậy có những biến động rất

lớn, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm

và danh dự của con người chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu của tình hình tội

phạm, có một số loại tội phạm cụ thể tăng đột biến, đặc biệt là từ năm 1989 đến

năm 1993. Do có sự phát triển của cơ chế thị trường có nhiều tội phạm giảm một

cách rõ rệt và có chiều hướng triệt tiêu.

Đến năm 2020, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; trong đó, số vụ

án về trật tự xã hội, ma túy tiếp tục tăng (nhiều vụ vận chuyển trái phép ma túy

tổng hợp với số lượng đặc biệt lớn; tội phạm hình sự có tổ chức núp bóng doanh

nghiệp, “bảo kê”, “tín dụng đen); phát hiện, bắt giữ một số vụ phạm tội có tổ

chức, xuyên quốc gia; khởi tố ”; xảy ra nhiều vụ giết người có tính chất rất côn

đồ, manh động, mất nhân tính; nhiều vụ tổ chức, môi giới cho người khác xuất

cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép; chống người thi hành nhiệm vụ

phòng, chống dịch bệnh Covid-19 gây bức xúc dư luận; vi phạm an toàn giao

thông xảy ra nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người.

Tội phạm liên quan đến tệ nạn xã hội, như: hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc

thông qua mạng internet vẫn diễn biến rất phức tạp; các tội Chứa mại dâm, Môi

giới mại dâm, Mua dâm người chưa thành niên, tăng về số vụ, phát hiện nhiều

đường dây mại dâm chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ cao để phục vụ cho việc

mua, bán dâm; ... Trong năm 2020, một số nhóm tội phạm giảm nhiều, như: Tội

phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tuy nhiên các thế lực thù địch trong và ngoài

nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước nhằm lật đổ

chính quyền nhân dân theo hướng cực đoan hơn; tội phạm tham nhũng, chức vụ

chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư công, nhiều vụ gây hậu

quả đặc biệt nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước (qua thực

8

trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm tham nhũng, Đảng, Nhà

nước đã đặt ra yêu cầu về đánh giá thực trạng, dự báo tình hình tội phạm tham

nhũng xảy ra trong chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng, cơ quan

bảo vệ pháp luật và đề ra giải pháp thiết thực, hiệu quả để phòng, chống trong

thời gian tới); tội phạm kinh tế cấu chẽ với tội phạm về trật tự xã hội; tiếp tục

phát hiện nhiều vụ buôn bán hàng giả, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa

qua biên giới là dược liệu, trang thiết bị, vật tư y tế, tiền tệ. Cùng với sự xuất hiện

đại dịch Covid-19 đã phát sinh nhiều vụ án hình sự liên quan đến công tác phòng,

chống dịch bệnh; đáng lưu ý, một số đối tượng thuộc cơ quan chức năng đã lợi

dụng việc mua thiết bị, vật tư y tế phòng, chống dịch để thực hiện hành vi chiếm

đoạt tiền của Nhà nước gây bức xúc dư luận; nhiều đối tượng có hành vi chứa

chấp, đưa người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ

lây lan dịch bệnh.

Qua khái niệm tình hình tội phạm, ta thấy được mối quan hệ giữa hiện

tượng và bản chất nên khi nghiên cứu đặc điểm của tình hình tội phạm thì ta

thấy được giá trị lý luận và thực tiễn, từ đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn

diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra, nghiêm trọng về mức độ cũng như

nghiêm trọng về tính chất. Đặc điểm chung của THTP được cấu thành từ số

lượng của tất cả các tội phạm riêng lẻ đã được thực hiện trong một giai đoạn và ở

một xã hội nhất định. THTP không phải là tổng số về số học của các tội phạm mà

là tổng hợp hữu cơ, biện chứng các tội phạm đó, các yếu tố cấu thành nó có mối

liên hệ lẫn nhau và quyết định lẫn nhau. Sự thống nhất biện chứng của tất các các

yếu tố cấu thành tình hình tội phạm còn biểu hiện ở các thông số về lượng và các

thông số về chất của nó. Việc nhận thức các thông số về lượng và về chất của

THTP, việc làm sáng tỏ bản chất, các qui luật phát triển của chúng… là một trong

những yếu tố rất quan trọng của việc nghiên cứu THTP với tư cách là một hiện

tượng xã hội.

1.1.2. Các thông số (chỉ số) của tình hình tội phạm

Tình hình tội phạm được biểu hiện ở các thông số về lượng và những chỉ

9

số về chất của tình hình tội phạm. Những thông số về lượng của tình hình tội

phạm là thực trạng (mức độ) và động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm;

những chỉ số về chất của tình hình tội phạm là cơ cấu và tính chất của tình hình

tội phạm. “Phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ những hành vi phạm tội và

chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự ở từng

đơn vị hành chính - lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời

gian nhất định và được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự”. Thông qua đó,

cụ thể là các dấu hiệu, đặc tính của nó mà ta hiểu được, nhận thức được bản chất,

nội dung, nguồn gốc mối liên hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác, biết

được những thay đổi về chất, về lượng của hiện tượng đó là tình hình tội phạm về

ma túy trong đời sống xã hội, nắm bắt được mối đe dọa đối với các giá trị của đời

sống xã hội, những thiệt hại cho xã hội, kể cả chính người phạm tội và

mức độ cần thiết phải tác động đến tình hình tội phạm trên một địa bàn. Khái

niệm này bao hàm cả mặt bản chất, nghĩa là gồm quy luật của sự phạm tội và cả

mặt biểu hiện của bản chất đó.

Những thông số về lượng của THTP là mức độ và động thái diễn biến của

nó. Khi xác định số lượng các tội phạm đã được thực hiện cần phải tính tổng cộng

các số lượng sau: (1) Số lượng các tội phạm và những người bị Tòa án xét xử và

tuyên bản án buộc tội; (2) Số lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì

không chứng minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; (3)

Các số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn);

(4) hệ số của THTP; (5) mức độ của tình hình tội phạm. [32,tr 61]

Cơ cấu của THTP là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác

nhau trong số lượng chung của chúng trong một khoảng thời gian nhất định và ở

một lãnh thổ nhất định. Các chỉ số về cơ cấu của THTP chỉ rõ đặc điểm lượng - chất

của tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình tội phạm, chỉ số về các đặc điểm của

nó. Tính chất của THTP thể hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho

xã hội trong cơ cấu của THTP cũng như ở các đặc điểm thân nhân của những người

thực hiện tội phạm. Cơ cấu và tính chất của THTP được thay đổi tùy thuộc vào các

10

đặc điểm cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội, ở những địa phương khác

nhau. Ngoài ra, khối lượng và tính chất của thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do các tội

phạm gây ra được coi là chỉ số bổ sung đặc trưng cho tình hình tội phạm. Các chỉ số

của thiệt hại có thể gắn với đặc điểm của thực trạng tình hình tội phạm, của cơ cấu

và động thái của nó.

Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm

trong dân cư. Khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua chỉ

số tội phạm, nhất là khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm qua các

khoảng thời gian khác nhau trên một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong

cùng khoảng thời gian nhất định. Chỉ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số vụ phạm

tội trên 100.000 dân [9, tr. 185].

Số liệu tội phạm đã phát hiện là số lượng tội phạm đã xảy ra trong một phạm

vi nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định mà các cơ quan chức năng đã

biết, đã thụ lý và tiến hành giải quyết theo pháp luật tố tụng hình sự.

Những nhận định về tình hình phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định

phải so sánh với chỉ số dân cư trong phạm vi nghiên cứu trong cùng một khoảng

thời gian. Bởi vì: tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách

nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định, cho nên những thông số về

dân cư để so sánh phải là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ

tuổi theo luật hình sự quy định. Những người không đủ năng lực trách nhiệm hình

sự hoặc không đủ độ tuổi mà luật hình qui định không được đưa vào số lượng dân

cư để so sánh với số lượng tội phạm.

Việc nghiên cứu THTP cũng cần dựa trên quy định của pháp luật hình sự vào

thời điểm đó. Ví dụ, khi nghiên cứu tình trạng phạm tội của những người chưa

thành niên thì lấy số liệu những người chưa thành niên phạm tội có độ tuổi từ đủ 14

tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi so sánh với số liệu về dân cư có độ tuổi từ 14 tuổi trở

lên đến dưới 18 tuổi.Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định tuổi

phải chịu trách nhiệm hình sự: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm

hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác;

11

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,

134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,

252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Vì vậy tuỳ

theo đặc điểm của tình trạng phạm tội trong phạm vi nghiên cứu mà lấy số lượng

dân cư từ bao nhiêu tuổi trở lên cho phù hợp.

Thông thường tội phạm học sử dụng cách so sánh số liệu tội phạm và người

phạm tội với số lượng dân cư tính theo tỷ lệ 1.000 người dân hoặc 10.000 dân hoặc

100.000 dân để tìm ra tỷ trọng tương đối của tội phạm xảy ra. Đây cũng là một

phương pháp được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và ở Việt Nam trong sách

hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hôi ở Việt nam do Tổng Cục thống kê ban hành

tháng 2 năm 1995 đưa ra chỉ tiêu: Tỷ lệ phạm tội theo loại tội phạm tính trên

100.000 dân.

Trên cơ sở của phân tích trên tác giả đề xuất cần phải tổng hợp, tính toán các

loại chỉ số về tỷ lệ phạm tội như sau:

- Tỷ lệ phạm tội chung

x 100.000

Số người phạm tội

Số dân số trên 14 tuổi cùng năm

- Tỷ lệ người phạm tội phân tổ theo dân tộc

Số người phạm tội thuộc 1 dân tộc x 100.000 Số dân số trên 14 tuổi cùng dân tộc, cùng năm

- Tỷ lệ nam giới phạm tội

x 100.000

Số người phạm tội là nam

Số dân số trên 14 tuổi là nam cùng năm

- Tỷ lệ nữ giới phạm tội

x 100.000

Số người phạm tội là nữ

Số dân số trên 14 tuổi là nữ cùng năm

- Tỷ lệ người phạm tội chưa thành niên

12

Số người phạm tội trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi

Số dân số trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi x 100.000

- Tỷ lệ phạm tội phân tổ theo loại tội phạm

x 100.000 Số hành vi phạm tội Số dân số trên 14 tuổi cùng năm

- Tỷ lệ Đảng viên phạm tội

Số đảng viên phạm tội x 100.000 Số đang viên cùng năm

- Mối tương quan của từng nhóm tội, chương tội phạm: Theo BLHS năm

2015, các loại tội phạm được chia thành 14 chương; trong các báo cáo tổng kết, sơ

kết, chuyên đề đánh giá về tình hình tội phạm và giải quyết án hình sự chia thành

các nhóm: An ninh, Kinh tế, Trị an, Chức vụ và hoạt động tư pháp....

Tỷ trọng phạm tội theo Số hành vi tương ứng với mỗi chương hoặc

chương tội phạm, nhóm tội nhóm

phạm = Tổng hành vi phạm tội

- Số liệu về sự tương quan giữa những tội phạm theo trình độ học vấn của

người phạm tội

Số người phạm tội có trình độ học vấn theo một

Tỷ lệ phạm tội theo trình độ nhóm xác định (ví dụ đại học)

học vấn = Tổng số người phạm tội

Cần lưu ý là chỉ số tội phạm luôn được xác định gắn liền với một địa bàn

nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu chỉ số của THTP là thước đo để xác

định mức độ phổ biến tội phạm trong dân cư phản ánh trạng thái, xu thế vận động

của tội phạm đã xảy ra trong một đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định.

Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh

về tội phạm đã xảy ra, giải thích về mọi biểu hiện của tội phạm trong thực tế đời

sống xã hội, biết được cái nhìn về những hành vi nguy hiểm của chủ thể gây cho

13

xã hội ở mức độ cao nhất của con người có đầy đủ năng lực pháp luật. Nghiên

cứu diễn biến của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ giúp

cho nhận diện “bức tranh” về tội phạm, tình hình tội phạm được rõ nét mà nó

còn giúp cho việc dự đoán (tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội

phạm trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng

ngừa tội phạm của cơ quan chức năng sát với thực tiễn. Diễn biến của tình hình

tội phạm có thể là diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, diễn biến của tình

hình tội phạm một nhóm tội cụ thể hoặc một tội phạm cụ thể nào đó.

Số liệu thống kê tội danh đã xét xử chính là "số lớn", “số chính” và đặc biệt

nó có thể diễn giải được, nó rất phù hợp cho nhiều mục đích nghiên cứu tội phạm

học. Đối với phần hiện của tình hình tội phạm, số liệu thống kê tội danh đã xét xử

hoàn toàn bảo đảm yêu cầu hội tụ các nguồn số liệu án hình sự đó qua xét xử và sự

hội tụ này diễn ra một cách tự nhiên, hợp logic của một quá trình trình tự tố tụng

hình sự. Cho nên nó giảm bớt được yếu tố sai lệch do chủ quan, tức là do chủ thể

thực hiện việc báo cáo số liệu thống kê. Tuy nhiên, trên thực tế, trong công tác

chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan Viện kiểm sát,

hiện nay, thống kê hình sự nói chung, thống kê tội danh đã xét xử nói riêng đóng

góp không nhỏ trong công tác đánh giá thực tiễn THTP, hiệu quả hoạt động đấu

tranh phòng, chống tội phạm cũng như hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan

có thẩm quyền. Bởi, ngoài thống kê số liệu tội danh đã xét xử, cơ quan Viện kiểm

sát cũng thống kê các số liệu khác như: tin báo tố giác tội phạm, kiểm sát điều tra,

khởi tố vụ án,án đình chỉ, tạm đình chỉ, án hủy, …Với thẩm quyền, trách nhiệm

được quy định trong Điều 34 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cơ quan Viện kiểm

sát nhân dân tối cao đã nghiên cứu và ban hành Hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ thống

kê hình sự để thu thập, tổng hợp đáp ứng công tác chuyên môn đánh giá hiệu quả

hoạt động đấu tranh phòng, chống, ngăn ngừa và dự báo tình hình tội phạm trong

tương lai cho các cấp lãnh đạo và quản lý.

Đối với phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả nghiên cứu phần hiện

của tội phạm, sử dụng số liệu thống kê tội danh đã xét xử hình sự sơ thẩm giai đoạn

14

từ năm 2015 đến năm 2019.

1.2. Khái niệm, ý nghĩa của thống kê các tội danh đã xét xử

1.2.1. Khái niệm

Thông tin và vai trò của thông tin là cách nhìn tổng quan của việc nghiên

cứu những vấn đề có tính lý luận về thống kê nói chung và thống kê tội phạm nói

riêng.

Thống kê là khoa học nghiên cứu hệ thống, phương pháp (thu thập, xử lý,

phân tích) con số (mặt lượng) của các hiện tượng số lớn tìm bản chất và tính quy

luật (mặt chất) trong những điều kiện nhất định [31, Tr.10].

Thông tin và thống kê có mối quan hệ thống nhất, mật thiết với nhau. Thống

kê vừa là một dạng hoạt động thông tin vừa là phương pháp của công tác thông tin.

Thống kê được hiểu theo hai nghĩa: Động giới từ và danh từ “1. Động giới từ: Thu

thập số liệu về một hiện tượng, sự việc nào đó; 2. Danh từ: Thống kê học, nói tắt:

Cán bộ thống kê" [11, tr.9].

Khoa học thống kê là khoa học về thu thập, phân tích, diễn giải và trình bày

các dữ liệu để từ đó tìm ra bản chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế, xã

hội - tự nhiên.

Khoa học thống kê dựa vào lý thuyết thống kê, một loại toán học ứng dụng.

Trong lý thuyết thống kê, tính chất ngẫu nhiên và sự không chắc chắn có thể làm

mô hình dựa vào lý thuyết xác suất. Vì mục đích của khoa học thống kê là để tạo ra

thông tin "đúng nhất" theo dữ liệu có sẵn, có tác giả nghiên cứu nhìn khoa học

thống kê như một loại lý thuyết quyết định. Thống kê được nhìn nhận như là một

trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, cung cấp các thông tin thống kê

trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong việc đánh giá, dự báo tình

hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân.

Không khác gì so với các ngành, lĩnh vực khoa học khác, lĩnh vực khoa học

hình sự cũng sử dụng thống kê như là công cụ pháp lý xây dựng cơ sở dữ liệu về

những hành vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án

15

hình sự phục vụ trong công tác nghiên cứu khoa học, xác định những nguyên nhân,

điều kiện vi phạm pháp luật hình sự và tội phạm, góp phần đưa ra những nhận định,

đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm; mặt khác, là nền tảng cơ sở để tham mưu

cho Đảng và Nhà nước đề ra các chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tội

phạm và góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.[45, tr 5]

Về thống kê hình sự:

Trong khoa học tội phạm học hiện đại và trong cuộc đấu tranh phòng và

chống tội phạm không nghiên cứu trực tiếp về khoa học thống kê hình sự, mà chỉ

coi thống kê hình sự với tư cách là phương pháp nghiên cứu. Do vậy, chưa thấy

công trình khoa học nào có định nghĩa về thống kê hình sự. Thống kê hình sự giúp

cho việc nghiên cứu tình hình tội phạm hiện và tội phạm ẩn. Phạm vi nghiên cứu

của tội phạm học có cả phạm vi tình hình tội phạm hiện và tội phạm ẩn. Do đó,

thống kê hình sự phải đáp ứng phạm vi nghiên cứu của tội phạm học. Tình hình tội

phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay

từng loại tội phạm. Trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một

địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới. Trong một khoảng

thời gian nhất định [9, tr.24].

Thống kê hình sự phải góp phần làm rõ các vấn đề chung và các vấn đề cụ

thể sau đây:

- Về các vấn đề chung: Đặc điểm lịch sử của tình hình tội phạm; đặc điểm xã

hội của tình hình tội phạm; đặc tính thay đổi theo thời gian của tình hình tội phạm;

đặc tính giai cấp của tình hình tội phạm; đặc tính pháp luật hình sự của tình hình tội

phạm.

- Các vấn đề cụ thể: Số liệu chung về tội phạm; số liệu các tội phạm đã bị phát

hiện xử lý; số liệu về tội phạm ẩn; cơ cấu tội phạm; động thái tội phạm; hậu quả tội

phạm; dự báo tội phạm.

Trong thống kê hình sự phân loại thống kê (hay việc xác định đơn vị thống

kê) là hết sức quan trọng. Có thể dựa vào các kiểu phân loại sau đây để xác định

16

đơn vị thống kê tội phạm:

Thứ nhất, phân loại tội phạm theo tiêu thức chất lượng.

1- Theo tiêu thức pháp luật hình sự.

a) Theo mức độ nguy hiểm cho xã hội.

b) Dựa theo những chương và những điều của phần riêng BLHS.

c) Dựa theo hình thức lỗi.

d) Dựa theo tính chất hình phạt.

2- Theo tiêu thức của tội phạm học

a) Theo lĩnh vực kinh tế quốc dân và quản lý nhà nước.

b) Theo địa bàn.

c) Theo thiệt hại đã gây ra.

d) Theo địa điểm và thời gian phạm tội.

đ) Theo động cơ phạm tội.

e) Theo thủ đoạn và công cụ phạm tội.

g) Theo nguyên nhân trực tiếp của tội phạm.

Thứ hai, phân loại tội phạm theo tiêu thức số lượng.

1- Dựa theo thời hạn bị tù.

2- Dựa theo số lượng tiền án của bị can, bị cáo.

3- Dựa theo số người tham gia tội phạm.

4- Dựa theo lứa tuổi của những người phạm tội [9, tr.32].

Thống kê tư pháp là một bộ phận của thống kê xã hội, qua đó nó phản ánh

tình hình tội phạm và các vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội, thái độ xử lý của

Nhà nước đối với các vi phạm đó. Đồng thời nó cũng phản ánh các hiện tượng tranh

chấp trong nhân dân và việc giải quyết các tranh chấp đó. Thống kê tư pháp là một

bộ phận của thống kê xã hội nhưng quan hệ rất mật thiết, và tác động qua lại với

thống kê kinh tế. Chẳng hạn như thống kê các tội phạm trong hoạt động kinh tế,

hoặc thống kê các tranh chấp hợp đồng kinh tế, thống kê việc xét xử của Tòa án

trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động của các tổ chức kinh doanh nước ngoài và tình

hình tranh chấp của họ trước toà án; đời sống dân cư và mối quan hệ của nó với tình

17

hình phạm tội. [46, tr.4].

Khái niệm thống kê tư pháp, theo Nguyễn Duy Hồng cùng các đồng tác giả cho

rằng: “Thống kê tư pháp là việc đo lường đánh giá tình hình tội phạm, các vi phạm pháp

luật, cũng như các tranh chấp xảy ra và việc xử lý của Nhà nước đối với các tội phạm, các

vi phạm và các tranh chấp đó” [12, tr.9].

Theo đó, đối tượng nghiên cứu của thống kê tư pháp trước hết là nghiên cứu

về tình hình vi phạm pháp luật. Tức là nắm được số lượng các vụ vi phạm pháp lụât,

số lượng chủ thể vi phạm pháp luật nói chung cũng như số lượng chủ thể vi phạm

pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể, phải chỉ ra cơ cấu và sự biến động của tình

hình vi phạm pháp luật. Thống kê tư pháp không đơn thuần chỉ nghiên cứu mặt

lượng của tình hình vi phạm pháp luật mà nó nghiên cứu mặt lượng trong mối liên

hệ với mặt chất của tình hình vi phạm pháp luật. Thống kê tư pháp không trực tiếp

nghiên cứu từng hành vi cụ thể mà nó nghiên cứu một tập hợp số lớn các hành vi vi

phạm pháp luật. Chỉ trên cơ sở nghiên cứu một tập hợp số lớn các hành vi vi phạm

pháp luật cụ thể thì các tác động ngẫu nhiên, cá biệt của từng hành vi vi phạm pháp

luật cụ thể mới bị bù trừ triệt tiêu nhau, mặt bản chất tất nhiên của tình hình vi phạm

pháp luật mới được bộc lộ. Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật, thống kê tư pháp

luôn đặt nó trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể [12, tr.9].

Thống kê hình sự là một bộ phận quan trọng nhất của thống kê tư pháp và là

một trong những phương tiện chủ yếu của môn học về tội phạm (tội phạm học:

Criminolo-gie) và môn học về hình pháp (hình pháp học: criminalistique).

Thống kê hình sự phản ánh mặt số lượng của các hiện tượng tội phạm trong

xã hội và bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu đó, phản ánh

mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của hiện tượng, tức là những đặc điểm và

điều kiện, nguyên nhân gây ra tội phạm, từ đó đề ra những giải pháp lâu dài hoặc

trước mắt. Về vấn đề này, thống kê hình sự như là một trong những phương tiện chủ

yếu của tội phạm học.

Thống kê hình sự phản ánh mặt số lượng của các hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm) và bằng phương pháp phân tích, tổng

18

hợp, so sánh các số liệu đó, phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động điều tra,

truy tố, xét xử, mối liên quan giữa hai mặt, đưa ra những biện pháp hoàn thiện các

quá trình tố tụng, nâng cao hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử.

Yểm trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn có các hoạt động giám

định, công chứng, bào chữa, thi hành án…, là một bộ phận không thể thiếu của quá

trình tố tụng, cũng là một bộ phận hợp thành hữu cơ, đều được phản ánh vào thống

kê hình sự.

Về mặt này, thống kê hình sự như là một phương tiện trong những phương

tiện chủ yếu của hình pháp học. [46, tr.10].

Về khái niệm thống kê tội phạm là hoạt động điều tra, báo cáo, tổng hợp, phân

ích và công bố các thông tin về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ

quan tiến hành tố tụng hình sự trong các giai đoạn: giải quyết tin báo, tố giác về tội

phạm và kiến nghị, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [12, tr.14-15].

Thống kê tội danh đã xét xử cũng là một phần trong các nội dung của thống

kê hình sự. Từ những khái niệm và phân tích nêu trên có thể hiểu: “Thống kê tội

danh đã xét xử là thống kê tội phạm bắt đầu từ khi Tòa án quyết định một người nào

đó là có tội, phải chịu hình phạt và bản án có hiệu lực pháp luật”

1.2.2. Ý nghĩa

Các số liệu thống kê kết quả xử lý tội phạm đặc biệt là thống kê tội danh đã

xét xử qua các giai đoạn tố tụng, kể cả thống kê tội phạm về mặt lượng và về mặt

chất giúp cho việc kiểm soát tội phạm. Đồng thời, theo dõi, đánh giá được năng lực,

khả năng điều tra, xử lý với tội phạm của các cơ quan tư pháp, mức độ chi phí cho

việc đấu tranh với tội phạm, mức độ thiệt hại về tinh thần, vật chất do tội phạm gây

ra cũng như nguyên nhân, bất cập, hạn chế của các cơ quan tư pháp hình sự. Các số

liệu thống kê tội phạm có liên quan mật thiết đến việc đề ra các phương hướng, giải

pháp cải cách tư pháp hình sự cả về thể chế, bộ máy và lực lượng cán bộ, công chức

trong các cơ quan tư pháp. Nhằm đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và

chống tội phạm.

Kết quả thống kê tội danh đã xét xử cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh về

19

tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm định

lượng (tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội - con số phản ánh mức độ

nghiêm trọng của tội phạm đã được định tội) mà còn thể hiện cả đặc điểm định tính

(các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này

phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra). “Bức tranh” toàn cảnh về

tội phạm đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra mà

còn thể hiện cả diễn biến (tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như

về tính chất) của tình trạng này.

Thống kê tội danh đã xét xử không chỉ mô tả “bức tranh tội phạm” mà dựa

vào đó để phân tích, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh

giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra - nghiêm trọng về

mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất. Chính vì vậy, việc thống kê tội danh đã

xét xử là nhằm để giúp cho việc nắm chắc được tổng số các tội phạm xảy ra, số

lượng người đã thực hiện các tội phạm đó trong khoảng thời gian nhất định và ở địa

bàn nhất định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả

của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Mặt khác, qua số liệu thống kê tội danh đã xét xử có thể đánh giá được diễn

biến, tính chất của từng loại tội phạm tăng hoặc giảm để từ đó hoàn thiện các chính

sách pháp luật hình sự, sửa đổi bổ sung chính sách được kịp thời, phù hợp.

Do vậy, muốn đánh giá được tình hình tội phạm một cách chính xác, khách

quan để có số liệu phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thì phải

nâng cao chất lượng thống kê tội phạm. Yêu cầu thống kê tội phạm phải thống kê

được đầy đủ tình hình tội phạm và kết quả đấu tranh phòng và chống tội phạm của

các cơ quan tư pháp để từ đó Đảng và Nhà nước có chính sách phòng và chống tội

phạm hiệu quả, kịp thời.

1.3. Mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội

phạm

Tội phạm và THTP phát sinh trong xã hội là một lực lượng vất chất tồn tại

khách quan, khác với vật chất ở dạng cụ thể. THTP thể hiện trong số liệu thống kê

20

tội danh đã xét xử không phải là một lực lượng vật chất bất biến mà nó chuyển hóa

ở dạng này sang dạng khác và có thể cải tạo được nó, có thể hạn chế, triệt tiêu hoặc

loại bỏ các điều kiện và nguyên nhân phát sinh ra nó.

Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang bản chất giai cấp và có tính xã

hội. Tình hình tội phạm xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, nó là một hiện

tượng ở trạng thái “động”, thường xuyên biến đổi, vận động, phát triển theo quy

luật của nó. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực, mang tính nguy hiểm cao độ xâm

phạm đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xâm phạm đến chế

độ chính trị, nền kinh tế, văn hóa, quốc phòng an ninh, ngoại giao, xâm phạm đến

lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích tập thể, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và

các lĩnh vực trật tự pháp luật khác. Sự tồn tại của tội phạm được coi là lực lượng vật

chất, tồn tại khách quan ngoài ý chí của Nhà nước, mong muốn của con người. Đấu

tranh phòng và chống tội phạm với việc đề ra các biện pháp nhằm ngăn chặn, loại

trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm bằng các chủ trương, chính

sách, pháp luật hình sự (thuộc phạm trù ý thức) để từ đó đề ra các biện pháp kinh tế,

xã hội, tư tưởng, pháp lý nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm.

THTP là một lực lượng vật chất tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật

khách quan, nó quyết định các biện pháp phòng và chống tội phạm của Nhà nước.

Tuy nhận thức về hiện tượng tội phạm, THTP và hoạt động đấu tranh phòng và

chống tội phạm phải xuất phát từ thực tế khách quan; từ những nguyên nhân, điều

kiện, hoàn cảnh, những tiền đề có sẵn và từ những tội phạm đơn lẻ đến tổng số các

tội phạm là tình hình tội phạm. Thống kê về nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội

phạm giúp cho việc nhận thức về hiện tượng tội phạm một cách chân thực, đúng

đắn. Đặc biệt là nhận thức về tính nguy hiểm của tội phạm, hậu quả đã và sẽ xảy ra

để tránh được tâm lý, ý chí chủ quan. Thống kê tội danh đã xét xử nhìn thẳng vào sự

thật, phản ánh đúng sự thật về THTP. Thống kê tội danh đã xét xử là cơ sở cho nhận

thức về THTP khách quan và cơ sở thực tiễn cho việc đề ra các biện pháp phòng

ngừa xác thực, phù hợp nhằm ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra. Đồng thời,

21

có biện pháp để xử lý, răn đe giáo dục, cải tạo tội phạm và ngăn chặn việc tái phạm.

Thống kê tội danh đã xét xử không chỉ là liệt kê về số lượng tội phạm mà

còn thống kê về mặt “chất” của tội phạm. Trong đó, việc chỉ ra các nguyên nhân

dẫn đến hành vi phạm tội của con người trong xã hội. Nguyên nhân phạm tội và

hành vi phạm tội là mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân nào thì hậu quả đó. Có

những nguyên nhân phổ biến của tình hình tội phạm, bao gồm những nguyên

nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan của tội phạm

chứa đựng ngay trong thân nhân của tội phạm, như: Lòng tham, tính ích kỷ cá

nhân, trình độ nhận thức xã hội và thiếu hiểu biết về xã hội; họ không biết đó là

đúng, sai, thiện, ác… Nguyên nhân khách quan là mặt trái của cơ chế thị trường,

hiện tượng cạnh tranh, vì lợi nhuận trên hết dẫn đến cạnh tranh không lành

mạnh, hiện tượng đầu cơ tích trữ, lừa đảo đối tác, lừa dối khách hàng, hủy hoại

môi trường… bất chấp pháp luật. Nguyên nhân khách quan còn là hậu quả của hệ

thống giáo dục, trình độ của nền văn minh xã hội, sự thiếu trách nhiệm của gia

đình đối với con cái, nhà trường đối với học sinh...

Thống kê tội phạm chỉ ra từ những điều kiện phạm tội có tính đơn lẻ đến

các điều kiện phổ biến của tội phạm để có biện pháp khắc phục các điều kiện đó,

làm cho tội phạm không có điều kiện thực hiện tội phạm hoặc không cho tội phạm

thực hiện đến cùng. Tội phạm và tình hình tội phạm là sản phẩm của xã hội, nó tồn

tại trong những hoàn cảnh và điều kiện nhất định. Điều kiện phạm tội của mỗi loại

tội phạm có những điều kiện chung và điều kiện cụ thể trong hoàn cảnh, môi trường

xã hội cụ thể. Có thể nêu một số các điều kiện phạm tội trong thực tiễn mà thống kê

tội phạm đã phản ánh, như: những kẽ hở của pháp luật, bất cập khiếm khuyết của cơ

chế chính sách, sự lỏng lẻo về quản lý Nhà nước, thiếu sự kiểm tra, giám sát, việc

quản lý nhân khẩu lỏng lẻo, sự chủ quan, mất cảnh giác của người có tài sản, thiếu

các biện pháp bảo vệ tài sản chặt chẽ, không tiến hành các biện pháp kê khai tài sản

cá nhân cán bộ công chức… Nói một cách tổng quát, các vấn đề xã hội như: Sự

nghèo đói ở một bộ phận dân cư, các loại tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, mê tín

dị đoan, các điều kiện của an sinh xã hội thấp kém, môi trường đạo đức xuống cấp,

22

nạn thất nghiệp, trình độ dân trí thấp… là điều kiện, tác nhân phát sinh tội phạm.

Mô tả và phân tích thống kê tội danh đã xét xử trong nghiên cứu tình hình

tội phạm không phải chỉ để biết những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải

thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời

gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm

1.4. Nội dung thống kê các tội danh đã xét xử

Nội dung của thống kê tội danh đã xét xử nói chung bao gồm 2 nhóm:

- Nhóm thứ nhất gồm các loại số liệu đánh giá về tình hình tội phạm.

- Nhóm thứ hai gồm các loại số liệu phản ánh kết quả xét xử tội phạm của

Tòa án.

Hai nhóm số liệu trên có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau trong hoạt động

thống kê tội phạm (thu thập thông tin thống kê, tổng hợp, phân tích).

Thứ nhất, nhóm số liệu phản ánh về tình hình tội phạm phục vụ trực tiếp cho

công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Thông qua việc phân tích các số liệu thống kê về các tội phạm xảy ra, số người

phạm tội, tính chất, mức độ của tội phạm gây ra, địa bàn và thời gian phạm tội,

phương tiện gây án, nạn nhân và các đối tượng bị xâm hại... các cơ quan bảo vệ

pháp luật có thể nhận biết được tính chất, mức độ của tình hình tội phạm, các quy

luật phổ biến của tội phạm xảy ra để từ đó đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng và

chống thích hợp với từng loại đối tượng phạm tội, tại những địa bàn trong từng thời

điểm để tập trung lực lượng, phương tiện nhằm đấu tranh phòng và chống với tội

phạm phù hợp, hiệu quả. Những số liệu về kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan

bảo vệ pháp luật kết hợp với số liệu về tình hình tội phạm là những căn cứ, cơ sở

khách quan để đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai, nhóm số liệu phản ánh về tình hình phạm tội gồm:

- Số liệu phản ánh về mặt lượng của tình hình tội phạm: lànhững số liệu phản

ánh về toàn bộ các tội phạm đó xảy ra và số người thực hiện các tội phạm đó.

Những số liệu này nếu được xem xét trong sự vận động và biến đổi theo thời gian

đối với từng đơn vị hành chính cụ thể như cấp huyện, cấp tỉnh, thành phố hay trên

phạm vi toàn quốc sẽ cho thấy rõ những biến động (hay gọi là động thái) của tình

23

hình tội phạm. Do vậy, muốn thu thập được đầy đủ tình hình tội phạm thì cần phải

thống kê được các loại thông tin, số liệu về những tin báo tố giác tội phạm và kết

quả điều tra, truy tố, xét xử (đặc biệt thống kê đầy đủ các tội danh đã xét xử theo vụ

án, bị cáo) về các tội phạm này của cơ quan tiến hành tố tụng.

- Số liệu phản ánh về mặt chất của tình hình tội phạm (cơ cấu và tính chất

của tình hình tội phạm): là những số liệu phản ánh mặt sâu kín bên trong (mặt nội

dung) của tình hình tội phạm, thể hiện bằng cơ cấu và tính chất, mức độ của tình

hình tội phạm.

Xuất phát từ mục đích của thống kê tội phạm là cung cấp những thông tin

chính xác, khách quan về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm cũng như

tình hình hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ có hiệu quả cho

công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thì thống kê tội phạm phải đảm bảo thu

thập, tổng hợp được đầy đủ các số liệu cơ bản như sau:

- Số liệu về tội phạm và người phạm tội: được thu thập và thống kê theo

những tội danh cụ thể, theo các chương tội phạm của BLHS tại những đơn vị hành

chính cụ thể và thời gian nhất định.

- Số liệu về người phạm tội phải được phân tích cụ thể theo giới tính, độ tuổi,

nghề nghiệp, trình độ học vấn, dân tộc, tôngiáo và một số đặc điểm khác về thân

nhân có liên quan đến tội phạm như: hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế…

- Số liệu về tính chất của tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm

trọng , đặc biệt nghiêm trọng) do hành vi của người phạm tội thực hiện; có đồng phạm

hay phạm tội đơn lẻ.

- Số liệu về động cơ, mục đích phạm tội, yếu tố lỗi..

- Số liệu về mức độ hậu quả và những thiệt hại do tội phạm gây ra (tài sản, số

người chết, bị thương...).

- Số người phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm .

- Số liệu về hình phạt cụ thể đã áp dụng.

- Số liệu về áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người phạm tội.

- Số liệu về đối tượng bị hại (Đối tượng bị hại là những tập thể, cá nhân bị

thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần do những hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên,

24

thống kê tội danh đã xét xử không thống kê những thiệt hại về mặt tinh thần do tội

phạm gây ra vì những thiệt hại đó không lượng hóa được, do đó rất khó thống kê).

Thống kê đối tượng bị hại có tác dụng to lớn trong việc xác định đúng tính chất,

mức độ, tác hại do các vi phạm và tội phạm gây ra cho tập thể, cá nhân và cho toàn

xã hội. Qua đó có thể xác định được những loại đối tượng nào thường bị xâm hại, từ

đó đề ra phương hướng, giải pháp bảo vệ và phòng chống nhằm ngăn ngừa tội phạm

đạt hiệu quả cao.

Nhóm số liệu phản ánh kết quả xét xử tội danh:

- Số liệu về họat động xét xử (từ giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc

thẩm và tái thẩm): Số vụ, số bị cáo phải xét xử, đã xét xử, chưa xét xử, đình chỉ xét

xử, tạm đình chỉ; số bản án bị kháng nghị; số bị cáotuyên không phạm tội, mức án

đối với từng bị cáo...

Từ các số liệu này cho biết được các thông số sau:

- Tỷ lệ số vụ án/ bị cáo đã được xét xử trên tổng số vụ án/ bị cáo đã được thụ lý.

- Tỷ lệ số vụ án/ bị cáo đã được xét xử tăng hay giảm so với năm trước.

- Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là tăng hay giảm so với năm trước hoặc

các năm.

- Tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa là tăng hay giảm so với năm trước hoặc

các năm.

Đây chính là các thông số đánh giá hiệu quả, chất lượng công tác của các cơ

quan tiến hành tố tụng và là kết quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Tóm lại, để nghiên cứu đánh giá tình hình tội phạm có nhiều thông số để

đánh giá, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ phân tích diễn biến, động

thái số liệu về tội phạm và người phạm tội được thu thập và thống kê theo những tội

danh cụ thể, theo các chương tội phạm của BLHS tại những đơn vị hành chính (cấp

tỉnh, và toàn quốc) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019.

25

Kết luận Chương 1

Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực có phát sinh có phát triển và tiêu

vong. Việc nghiên cứu tình hình tội phạm và thống kê tội phạm, trong đó có thống

kê các tội danh đã xét xử chiếm vị trí quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng,

chống tội phạm. Việc thống kê các tội danh đã xét xử không chỉ có ý nghĩa là cơ sở

để đánh giá về chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,

đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm ở thời điểm

hiện tại mà còn mang nhiều ý nghĩa khác trong đánh giá, xây dựng, thực hiện chính

sách của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc phát triển đất nước.

Trong phạm vi chương 1, tác giả đã làm rõ lý luận về chỉ số tình hình tội

phạm, lý luận về thống kê tội danh đã xét xử, nội dung thống kê các tội danh đã xét

xử, và phân tích mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội

phạm. Việc nghiên cứu dưới góc độ lý luận về thống kê các tội danh đã xét xử là cơ

sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu, phân tích nội dung Chương 2: Thực

26

trạng thống kê các tội danh đã xét xử ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Chương 2.

THỰC TRẠNG THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

2.1. Cơ sở của thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát

nhân dân hiện nay

2.1.1. Cơ sở pháp lý

Công tác thống kê tội phạm của VKSND được quy định tại Điều 6 Luật Tổ

chức VKSND năm 2014 “công tác thống kê tội phạm thuộc các công tác khác của

VKSND” và Điều 34 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định như sau:“1.

VKSND có trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu

quan trong việc thống kê hình sự. 2. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,

các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp

với VKSND trong việc thống kê tội phạm”. Mặt khác, theo quy định tại Điều 3 (Giải

thích từ ngữ) của Luật Thống kê năm 2015 quy định:“1. Báo cáo thống kê là mẫu

biểu và hướng dẫn ghi chép mẫu biểu để thu thập dữ liệu, thông tin thống kê về đối

tượng nghiên cứu cụ thể theo phương pháp khoa học, thống nhất trong một thời kỳ

nhất định.2. Chế độ báo cáo thống kê là những quy định và hướng dẫn do cơ quan

nhà nước có thẩm quyền ban hành...” và khoản 2, Điều 12 Luật Thống kê năm

2015 thì Hệ thống thông tin thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân thuộc Hệ thống

thông tin thống kê nhà nước (Nhóm trật tự, an toàn xã hội và tư pháp trong Danh

mục chỉ tiêu thống kê quốc gia). Ngoài ra còn một quy định như sau: “Thông tư liên

tịch số 05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng

Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự”; Phiếu thống

kê tội phạm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm(ban hành theo Quyết định số 168/QĐ-

VKSTC-TKTP ngày 23/3/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối

cao;Quyết định số 188/QĐ-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát

27

nhân dân tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm

sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong

ngành Kiểm sát nhân dân;Quyết định số 560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê

Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp

luật trong hoạt động tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân.

2.1.2. Cơ cấu về tổ chức bộ máy và phương pháp thu thập, thống kê xét xử

các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân

2.1.2.1. Cơ cấu về tổ chức bộ máy

Trên cơ sở đó, cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ thực hiện công tác thống kê

được thành lập và quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trong ngành

Kiểm sát nhân dân thông qua các Quyết định ban hành Quy chế tổ chức và hoạt

động của các đơn vị thuộc VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh,

VKSND cấp huyện và các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự

các cấp.Vị trí pháp lý cụ thể như sau:

- Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện:

Ngày 20/11/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy chế tổ chức và

hoạt động của Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin (Ban hành kèm theo

Quyết định số 19/QĐ-VKSTC-C2). Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin

là đơn vị thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao (Cục 2). Cục 2 có nhiệm vụ,

quyền hạn giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện các công tác sau:Theo dõi,

quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra nghiệp vụ thống kê và ứng dụng công nghệ

thông tin của các đơn vị trong ngành Kiểm sát nhân dân; thống kê kết quả hoạt động

của ngành Kiểm sát nhân dân; chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan

khác trong việc thống kê hình sự; xây dựng kế hoạch, thực hiện các hoạt động công

nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân; quản trị hạ tầng mạng máy tính và

phần mềm dùng chung trong ngành Kiểm sát nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ,

28

quyền hạn khác do Viện trưởng VKSND tối cao giao.

Ngày 22/12/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy định Cơ cấu bộ

máy làm việc, cơ cấu lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức của VKSND các

cấp (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC-V15, có hiệu lực kể từ ngày

01/01/2016). Theo quy định này, “Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông

tin” được thành lập ở VKSND cấp tỉnh; đối với VKSND cấp huyện, công tác thống

kê được cơ cấu trong Bộ phận Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát

giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành

Trung ương về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ

thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và yêu cầu công tác trong

tình hình mới, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã ban hành nhiều nghị quyết triển

khai thực hiện, như: Nghị quyết số 30-NQ/BCSĐ ngày 07/7/2017, Nghị quyết 65-

NQ/BCSĐ ngày 04/5/2018 về việc kiện toàn sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy làm

việc cấp phòng thuộc VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày

01/6/2020, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy định Cơ cấu bộ máy làm

việc, cơ cấu lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức của VKSND các cấp (Ban

hành kèm theo Quyết định số 189/QĐ-VKSTC ngày 01/6/2020, có hiệu lực kể từ

ngày ký và thay thế Quyết định số 03/QĐ-VKSTC-V15 ngày 22/12/2015 của Viện

trưởng VKSND tối cao); ngày 17/6/2020, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành

Quy chế tổ chức và hoạt động của VKSND cấp cao (Ban hành kèm theo Quyết định

số 200/QĐ-VKSTC). Theo đó, tại VKSND tối cao có Cục Thống kê tội phạm và

Công nghệ thông tin (Cục 2); tại VKSND cấp cao vẫn giữ nguyên “Phòng Tham

mưu tổng hợp, Thống kê và Công nghệ thông tin”thuộc Văn phòng VKSND cấp

cao; tại VKSND cấp tỉnh, công tác thống kê được cơ cấu trong nhiệm vụ công tác

của Văn phòng tổng hợp (Không còn Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ

thông tin); tại VKSND cấp huyện, công tác thống kê được cơ cấu trong nhiệm vụ

công tác của Bộ phận hoặc Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát giải

quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Như vậy, sau khi thực hiện sáp

29

nhập Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin của VKSND cấp tỉnh, hiện

nay công tác thống kê được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng

tổng hợp VKSND cấp tỉnh; đối với VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp

huyện vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức bộ máy, công chức làm công tác thống kê như

trước đây.

- Đối với Viện kiểm sát quân sự các cấp:

Thực hiện theo Quyết định số 64/QĐ-VKSTC-V15 ngày 25/9/2015 của Viện

trưởng VKSND tối cao về việc quy định cơ cấu tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền

hạn và quan hệ công tác của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát

quân sự các cấp; cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ thực hiện công tác thống kê được

quy định rõ:

+ Tại Viện kiểm sát quân sự Trung ương, nhiệm vụ thống kê được giao

choVăn phòng Viện kiểm sát quân sự trung ương: Phối hợp với các cơ quan tư pháp

trong Quân đội thực hiện việc thống kê hình sự, thống kê tội phạm; thực hiện việc

thống kê số liệu kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân sự; theo dõi, quản lý,

hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra về nghiệp vụ thống kê hình sự, thống kê tội phạm và

thống kê kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp; sơ kết, tổng kết công

tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm.

+ Tại Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, nhiệm vụ thống kê

được giao cho Ban kế hoạch tống hợp - hành chính: Phối hợp với các cơ quan hữu

quan thực hiên việc thống kê hình sự, thống kê tội phạm, thống kê số liệu, kết quả

hoạt động của Viện kiểm sát quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu

vực trực thuộc; theo dõi, quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra về nghiệp vụ

thống kê hình sự, thống kê tội phạm và kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân

sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực; sơ kết, tổng kết công

tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm theo thấm quyền.

+ Tại Viện kiêm sát quân sự khu vực, nhiệm vụ thống kê được giao cho Bộ

30

phận kế hoạch tổng hợp - hành chính.

Tại mỗi cấp kiểm sát, các đơn vị được giao thực hiện công tác thống kê

(trong đó có thống kê xét xử các vụ án hình sự) chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp

và quản lý số liệu thống kê tại cấp mình; đồng thời truyền, gửi báo cáo thống kê lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp để tổng hợp, quản lý thống nhất theo Chế

độ báo cáo thống kê do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định. Riêng

về Viện kiểm sát quân sự có sĩ quan làm công chức thống kê chuyên trách tại Viện

kiểm sát quân sự trung ương và sĩ quan làm công tác thống kê không chuyên trách

tại mỗi cấp (Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Viện kiểm sát quân sự khu vực...); các sĩ quan làm công tác thống kê tại Viện kiểm sát quân sự trung ương có

trách nhiệm thu thập, tổng hợp và quản lý số liệu thống kê thuộc hệ thống Viện

kiểm sát quân sự, sau đó gửi báo cáo thống kê về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin). Cục Thống kê tội phạm và Công

nghệ thông tin thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là đơn vị chuyên trách làm

công tác thống kê, có trách nhiệm tổng hợp, phân tích, quản lý và chia sẻ số liệu

thống kê của toàn quốc trên cơ sở báo cáo thống kê của các đơn vị nghiệp vụ, Viện

kiểm sát các cấp và Viện kiểm sát quân sự trung ương truyền, gửi về.

Về nguyên tắc, số liệu thống kê của đơn vị nào do đơn vị đó quản lý. Tại

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao chỉ quản lý số

liệu thống kê của cấp mình, còn Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát

quân sự trung ương có trách nhiệm quản lý cả số liệu thống kê của cấp mình và cấp

dưới, VKSND tối cao quản lý số liệu thống kê của toàn quốc (đến tận Viện kiểm sát

cấp huyện).

Tổ chức thống kê ngành Kiểm sát nhân dân (trong đó có công tác thống kê

thống kê xét xử các vụ án hình sự) được thể hiện tại mô hình sau đây:

CôC TKTP& CNTT (vKSND Tèi cao)

§¬n vÞ nghiÖp vôthuéc vksnd tèi cao

(Vô, Côc)

VKS qu©n sù trung ¬ng

Bé PHËN THèNG K£ Vµ & CNTT THUéC V¡N PHßNG (vKSND CÊP TØnh)

V¨n phßng (vKSND cÊpcao)

Phßng nghiÖp vô Thuéc vksnd CÊP tØnh

Vks QU¢N Sù cÊp qu©n khu

Bé phËn nghiÖp vô Thuéc vksndCẤPhuyÖn

VKS qu©n sù khu vùc

ViÖn nghiÖp vôTHUỘC VKSND cÊp cao

Bé PHËN TKTP& CNTT (vKSND CÊP huyÖn) 31

Thống kê số liệu xét xử trong các vụ án hình sự cũng sẽ thực hiện theo quy định (mô hình) này.

2.1.2.2. Phương pháp thu thập thống kê

Thống kê hình sự, thống kê các tội danh đã xét xử cũng giống như bất

kỳ một ngành thống kê nào khác là cả một quá trình từ việc xác định mục

đích, yêu cầu của công tác thống kê hình sự, xác định các khái niệm, chỉ tiêu

thống kê, đến việc thu thập số liệu, xử lý số liệu (trình bày số liệu, phân tích

sơ bộ, tổng hợp số liệu...), phân tích số liệu (đã được tổng hợp), công bố và sử

dụng, khai thác số liệu.... Sau đây là những trình tự cụ thể:

- Xác định thật chính xác mục đích, yêu cầu của công tác thống kê tội

danh đã xét xử (gọi chung là thống kê hình sự) trong từng thời điểm nhất

định. Phân tích đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu của công tác thống

kê hình sự .... Từ đó, sẽ lựa chọn phương pháp thu thập và phương pháp tổng

hợp số liệu thống kê. Hiện nay, phương pháp thu thập là phương pháp thu

nhận (ghi chép) hàng ngày, theo dõi, tích luỹ dần dần các nội dung, dữ liệu

cần thống kê vào các sổ thụ lý của các khâu công tác nghiệp vụ. Phương pháp

tổng hợp là từ các sổ thụ lý, tập hợp các kết quả thống kê theo yêu cầu chỉ

đạo và quản lý của các cấp lãnh đạo, theo thời gian, theo địa bàn và theo các

mẫu báo cáo thống kê đã được xây dựng.

- Theo khoa học thống kê thì có ba phương pháp thu thập thống kê:

+ Phương pháp điều tra thống kê;

+ Phương pháp thu thập theo chế độ báo cáo thống kê định kỳ?

+ Phương pháp thu thập là điều tra thống kê kết hợp với báo cáo thống

kê định kỳ;

- Theo khoa học thống kê thì có ba phương pháp tổng hợp thống kê:

+ Tổng hợp tập trung

+ Tổng hợp từng cấp

+ Kết hợp tổng hợp tập trung với tổng hợp từng cấp.

32

Hiện nay, công tác thống kê hình sự trong ngành kiểm sát nhân dân

đang được thực hiện theo chế độ báo cáo định kỳ: hàng tháng, 6 tháng và 12

tháng (thu thập định kỳ) và việc tổng hợp số liệu thống kê được thực hiện

theo từng cấp kiểm sát. Nói cách khác là phương pháp tổng hợp số liệu thống

kê hiện nay đang áp dụng là tổng hợp từng cấp. Việc tổ chức thu thập số liệu

thống kê có mối quan hệ chặt chẽ với phương pháp thu thập số liệu thống kê.

Sau khi đã xác định rõ phương pháp thu thập số liệu thống kê là theo định kỳ,

việc tổ chức thu thập số liệu thống kê kiểm sát hình sự sẽ được Viện kiểm sát

nhân dân các cấp triển khai thực hiện một cách khoa học: Mở sổ sách để ghi

chép, theo dõi, thu thập số liệu ban đầu .... Tương tự, việc tổ chức tổng hợp

số liệu thống kê cũng liên quan chặt chẽ với phương pháp tổng hợp số liệu

thống kê. Đồng thời, việc tổ chức thu thập và việc tổ chức tổng hợp số liệu

thống kê cũng có mối liên quan chặt chẽ với nhau.

- Xác định các khái niệm, chỉ tiêu thống kê, xem cần phải đưa vào từng

biểu mẫu thống kê những chỉ tiêu nào để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của

công tác quản lý hiện tại theo quy định của pháp luật về hình sự hiện hành,

nhu cầu của công tác nghiên cứu .....

- Xây dựng, ban hành hệ thống biểu mẫu thống kê, hướng dẫn cách lập

các biểu mẫu thống kê.

- Phân tích, xử dụng số liệu thống kê ....

Việc tổ chức thu thập, tổng hợp, phân tích số liệu thống kê sẽ được

thực hiện ở cả bốn cấp kiểm sát, nhưng việc thực hiện này ở bốn cấp có

những sự khác nhau nhất định.

Trên cơ sở quy định của Luật Thống kê năm 2015, Luật Tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là Quyết định số

560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

33

ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong ngành Kiểm sát

nhân dân, thời gian qua công tác thu thập, tổng hợp và quản lý số liệu thống kê

(trong đó có thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự) được thực hiện nghiêm túc

và đi vào nề nếp, hầu hết tất cả các chỉ số (tiêu chí) thống kê đều được thu thập,

tổng hợp và quản lý theo một chế độ báo cáo thống nhất, nên tính chính xác, tính

tính trung thực của số liệu được bảo đảm, cụ thể: Hàng tháng trên cơ sở ghi chép

của sổ thụ lý, sổ nghiệp vụ… cán bộ thống kê trích xuất, nhập số liệu vào phần

mềm của máy tính và lập nên biểu báo cáo thống kê (Biểu số 04/2019. Thống kê về

hình phạt đối với các bị cáo phạm tội bị xét xử sơ thẩm, Biểu số 10/2019. Thống kê

kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2019. Thống kê kết quả xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự và Biểu số /2019. Thống kê kết quả xét xử giám đốc

thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự); sau đó các đơn vị cấp huyện gửi, truyền số liệu

về cấp tỉnh và được tổng hợp theo đơn vị hành chính. Số liệu tổng hợp của đơn vị

cấp tỉnh và các Vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được truyền về

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin).

Trên cơ sở tính thống nhất và tính hệ thống được đảm bảo, số liệu thống kê nói

chung và thống kê xét xử các vụ án hình sự nói riêng kỳTháng, 6 tháng và 12 tháng

(năm) của các đơn vị truyền, gửi về; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê

tội phạm và Công nghệ thông tin) có trách nhiệm tổng hợp thông qua phần mềm

trên phạm vi toàn quốc.

Theo Chế độ báo cáo thống kê ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay (Quyết

định số 560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt

động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong ngành

Kiểm sát nhân dân) cũng như các loại thống kê khác, thống kê tội danh đã xét xử áp

dụng phương pháp thống kê từ hồ sơ hành chính (thống kê từ hệ thống Sổ nghiệp

34

vụ) là chủ yếu, phương pháp điều tra xã hội ít được thực hiện, cụ thể:

- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tổng hợp số liệu từ

báo cáo thống kê của các bộ phận nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện.

- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tổng hợp số liệu từ

báo cáo thống kê của các Phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

và báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.

- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tổng hợp số liệu từ

báo cáo thống kê của các Viện nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.

- Báo cáo thống kê của Vụ, Cục nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối

cao tổng hợp số liệu từ báo cáo thống kê của các Phòng nghiệp vụ thuộc các Vụ,

Cục.

- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát quân sự trung ương tổng hợp số liệu từ

báo cáo thống kê của cấp mình và cấp dưới (Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu,

Viện kiểm sát quân sự khu vực).

- Trên cơ sở các báo cáo thống kê của các đơn vị và của Viện kiểm sát các

cấp truyền về, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công

nghệ thông tin) có trách nhiệm tổng hợp thành báo cáo thống kê chung của toàn

quốc.

Việc tổng hợp số liệu của Viện kiểm sát các cấp được thực hiện hoàn toàn tự

động bằng phần mềm thống kê nên quy trình thống kê này bảo đảm tính chính xác

cao. Phần mềm thống kê của ngành Kiểm sát còn cho phép lựa chọn số liệu theo

thời gian, theo địa phương và theo cấp...

Thống kê xét xử trong các vụ án hình sự cũng áp dụng quy trình, phương

35

pháp này.

2.1.3. Bộ tiêu chí thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân

dân

Công tác thống kê nói chung và thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự

được thực hiện song song với thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân (ngày 26/7/1960 -

thành lập ngành Kiểm sát nhân dân). Trong phạm vi Luận văn này, bản thân em chỉ

nêu các chỉ số (Bộ tiêu chí) thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự từ năm 2015

đến nay, cụ thể như sau:

Ngày 04/10/2013 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ

thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số

452/QĐ-VKSTC) áp dụng từ năm 2009, trong đó có Biểu số 03/2013. Thống kê kết

quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 09/2013.Thống kê kết

quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựcụ thể:

- Biểu số 03/2013. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ

án hình sự, gồm 8 tiêu chí, trong đó phân tổ theo tội danh, điều luật, số vụ án/ bị cáo

Tòa án đã xét xử sơ thẩm.

- Biểu số 09/2013. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ

án hình sự,gồm 28 tiêu chí về thụ lý, giải quyết (xử lý) của Tòa án (xét xử, đình chỉ,

tạm đình chỉ)...

Ngày 06/4/2016 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ

thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số

188/QĐ-VKSTC) áp dụng từ năm 2009, trong đó có Biểu số 04/2016. Thống kê kết

quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2016. Thống kê

kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, cụ thể:

Ngày 13/11/2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ

thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số

560/QĐ-VKSTC), trong đó có Biểu số 03/2019. Thống kê THQCT và KSXX sơ

36

thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2019. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử

sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 04/2019. Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các vụ

án hình sự:

Tất cả các tiêu chí này được phân tổ theo tội danh và địa bàn phạm tội

(huyện, tỉnh).

2.2. Thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân

dân tối cao

Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ cấu tổ chức bộ máy, nhất là xuất phát

từ phạm vi và phương pháp thu thập, về số liệu thống kê mà ngành Kiểm sát nhân

dân thu thập được là thống kê tất cả các tội danh (điều luật) mà người phạm tội bị

xét xử (bao gồm: xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và xem xét lại bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự) trên

phạm vi toàn quốc, trong đó còn phân tổ thêm theo chương (nhóm tội), thân nhân

của người phạm tội, phân loại tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm

trọng, đặc biệt nghiêm trọng) và kết quả giải quyết của Tòa án các cấp cũng như

việc áp dụng hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo đã bị xét xử… theo quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do “điều kiện” quy định của Luận văn

không cho phép đưa tất cả các số liệu đã xét xử đối với người phạm tội mà trong

phạm vi Luận văn này, trên cơ sở rà soát Bộ Chỉ số thống kê xét xử các vụ án hình

sự, tác giả chỉ tập trung đánh giá, phân tích tình hình (vụ án/ bị cáo) phạm tội và bị

xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thông qua kết quả số liệu do ngành Kiểm sát nhân

dân đã thu thập được trên phạm vi toàn quốc giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019

(5 năm) với những nội dung cơ bản như sau:

2.2.1. Thống kê xét xử sơ thẩm

2.2.1.1. Số vụ án, bị cáo đã xét xử sơ thẩm

Tổng số đã xét xử trên toàn quốc từ năm 2015 đến năm 2019 là: 301.085 Vụ,

508.355 bị cáo

Số vụ án, bị cáo xét xử giữa các địa phương là rất khác nhau có địa phương

37

có số vụ án/ bị cáo xét xử cao, có địa phương rất thấp.

Bảng 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm theo từng năm, từng địa phương (từ

năm 2015 đến năm 2019)

Số vụ án, bị cáo đã xét xử sơ thẩm theo từng năm (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Tên đơn vị

2015

2016

2017

2018

2019

Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án

Bị cáo

TP. Hà Nội

5.835

9.986

6.510

10.520

6.047

10.083

6.604

11.448

6.290

10.499

Hà Giang

293

522

311

592

270

513

341

587

324

574

Cao Bằng

422

651

467

694

475

710

579

905

665

1.047

Bắc Kạn

386

634

328

438

314

528

321

455

333

463

Tuyên Quang

493

1.039

471

823

554

1.100

603

1.186

648

1.186

424

653

Lao Cai

508

778

430

654

466

689

492

754

920

1155

Điện Biên

661

881

918

1143

858

1136

869

1054

403

515

Lai Châu

526

800

610

878

500

683

393

547

Sơn La

1.137

1.785

1.328

1.905

1.415

2.005

1.538

2.158

1.382

1.969

464

806

Yên Bái

473

734

470

738

490

882

441

764

547

926

Hoà Bình

465

786

472

704

485

755

462

678

Thái Nguyên

1.176

1.941

1.130

1.809

1.227

2.074

1.419

2.502

1.570

2.640

Lạng Sơn

659

1356

737

1417

962

1616

994

2118

881

1631

Quảng Ninh

1.154

1.886

1.189

2.161

1.203

2.071

1.365

2.199

1.308

2.108

Bắc Giang

988

2.302

899

1.722

926

1.743

922

1.578

1.051

1.874

Phú Thọ

964

1.961

1.090

1.997

939

1.804

984

2.146

977

1941

Vĩnh Phúc

823

1.494

769

1.453

828

1.460

950

1.597

857

1.495

Bắc Ninh

963

1885

997

1911

1528

2458

1543

2465

1334

2248

Hải Dương

963

1869

882

1662

1179

2022

1284

2200

1051

1917

TP. Hải Phòng

1.154

1.991

1.145

1.872

1.128

1.932

1.136

2.034

1.008

1.751

Hưng Yên

661

1490

696

1402

674

1243

718

1367

718

1399

Thái Bình

819

1.470

923

1.596

982

1.643

954

1.662

897

1.581

Hà Nam

556

1059

579

1066

630

1.172

577

985

545

894

Nam Định

840

1.463

1.156

1.892

1.091

1.752

1.096

1.806

1.091

1.717

Ninh Bình

542

1.262

539

1.108

554

1.198

601

1.196

689

1.326

38

Thanh Hoá

1.627

3.125

1.845

3.496

1.643

3.002

1.724

3.114

1.905

3.827

Nghệ An

2.173

4.099

2.308

3.928

2.210

3.825

2.444

4.393

2.665

4.470

Hà Tĩnh

598

1.160

563

1.057

516

910

513

1015

656

1.131

Quảng Bình

482

892

435

726

386

594

403

624

523

823

Quảng Trị

426

774

339

569

279

488

317

513

431

633

Thừa Thiên Huế

636

1.092

572

995

563

897

626

1.015

645

1.123

TP. Đà Nẵng

654

1.117

643

1.163

706

1.095

830

1.429

878

1.375

Quảng Nam

756

1.259

760

1.226

681

1.114

764

1.220

826

1.400

Quảng Ngãi

437

850

393

705

310

485

319

476

322

551

Bình Định

645

1.265

602

1.199

540

966

609

1.236

640

1.280

Phú Yên

450

752

458

752

425

728

341

529

328

582

Khánh Hoà

739

1.251

848

1236

667

969

730

1.143

685

1.026

Ninh Thuận

365

645

372

635

321

494

374

588

308

501

Bình Thuận

1.020

1.576

897

1.297

842

1.203

948

1.352

941

1.263

Kon Tum

323

634

326

518

319

531

284

456

311

537

Gia Lai

904

1.895

856

1.730

861

1.577

873

1.515

747

1.344

Dak-Lak

1.435

2.577

1.296

2.357

1.189

2.064

1.205

2.504

1.176

2.131

Đăc Nông

643

1.361

590

1.215

563

1.208

519

1.108

564

1.161

Lâm Đồng

943

1.756

868

1.582

950

1.536

892

1.541

1.005

1.689

Bình Phước

948

1.738

979

1.659

884

1.476

1.012

1.807

1.015

1.656

Tây Ninh

953

1.795

889

1.477

803

1.298

1.049

1.905

1.076

2.098

Bình Dương

2.177

4.584

1.887

3.573

1.556

2.844

1.838

3.183

1.917

3.365

Đồng Nai

2.298

4.198

2.132

3.447

1.789

2.954

1.935

3.185

1.975

3.350

BR - Vũng Tàu

843

1.440

934

1.439

919

1.470

971

1.543

1.007

1.463

TP. Hồ Chí Minh

5.192

8.022

5.451

8.839

4.690

7.165

4.438

7.018

4.452

7.360

Long An

953

1.707

869

1.346

734

1.116

787

1.253

909

1.432

Tiền Giang

698

1.017

659

829

699

882

804

1.086

799

1.051

Bến Tre

463

760

459

654

423

529

477

627

491

648

Trà Vinh

419

608

428

598

389

529

417

619

449

633

Vĩnh Long

487

744

502

710

426

602

470

667

546

766

39

Đồng Tháp

814

1.269

666

1.072

618

817

729

1.012

748

1.145

An Giang

731

1.040

693

1.122

599

914

770

1.070

752

1.045

Kiên Giang

1.124

2.022

1.195

1.989

1.000

1.612

1.000

1.767

938

1.722

Cần Thơ

873

1.514

843

1.363

848

1.347

929

1.461

857

1.249

Hậu Giang

407

617

359

573

299

469

377

610

347

621

Sóc Trăng

377

641

363

475

369

502

439

645

423

568

Bạc Liêu

486

914

387

609

368

527

423

570

394

652

Cà Mau

765

1.300

656

962

638

865

762

1.053

689

936

Dựa trên Bảng 2.1. nêu trên ta thấy được các tỉnh có số lượng vụ án, bị cáo

tăng giảm không đồng đều theo từng năm và tình hình tội phạm tập trung nhiều ở

một số tỉnh TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Nghệ An…Số

vụ án, bị cáo tăng giảm cụ thể trong 5 năm được thể hiện theo Bảng, Biểu đồ sau

Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương

(từ năm 2015 đến năm 2019)

Tên Đơn vị Số vụ án Số bị cáo

40

Số TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 TP. Hà Nội TP. Hồ Chí Minh Tỉnh Nghệ An Tỉnh Đồng Nai Tỉnh Bình Dương Tỉnh Thanh Hoá Tỉnh Sơn La Tỉnh Thái Nguyên Tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Đak-Lak Tỉnh Quảng Ninh TP. Hải Phòng Tỉnh Hải Dương Tỉnh Nam Định Tỉnh Kiên Giang Tỉnh Phú Thọ 31.286 24.223 11.800 10.129 9.375 8.744 6.800 6.522 6.365 6.301 6.219 5.571 5.359 5.274 5.257 4.954 52.536 38.404 20.715 17.134 17.549 16.564 9.822 10.966 10.967 11.633 10.425 9.580 9.670 8.630 9.112 9.849

41

4.838 4.786 4.770 4.674 4.658 4.648 4.575 4.350 4.252 4.241 4.233 4.227 4.226 3.787 3.711 3.669 3.659 3.575 3.545 3.510 3.467 3.042 3.036 2.925 2.887 2.879 2.846 2.769 2.608 2.432 2.431 2.431 2.338 2.320 2.313 2.229 2.102 8.336 9.219 8.573 7.355 8.104 6.691 7.952 6.934 6.854 8.061 8.138 7.499 5.369 6.219 6.179 5.625 4.865 5.315 5.191 5.116 6.901 5.122 5.946 6.090 5.176 6.053 5.273 5.334 4.007 3.423 3.849 3.489 3.924 3.528 3.218 3.659 2.987 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 Tỉnh Bình Phước Tỉnh Bắc Giang Tỉnh Tây Ninh Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Tỉnh Lâm Đồng Tỉnh Bình Thuận Tỉnh Thái Bình Tỉnh Cần Thơ Tỉnh Long An Tỉnh Gia Lai Tỉnh Lạng Sơn Tỉnh Vĩnh Phúc Tỉnh Điện Biên Tỉnh Quảng Nam TP. Đà Nẵng Tỉnh Khánh Hoà Tỉnh Tiền Giang Tỉnh Đồng Tháp Tỉnh An Giang Tỉnh Cà Mau Tỉnh Hưng Yên Tỉnh Thừa Thiên Huế Tỉnh Bình Định Tỉnh Ninh Bình Tỉnh Hà Nam Tỉnh Đăc Nông Tỉnh Hà Tĩnh Tỉnh Tuyên quang Tỉnh Cao Bằng Tỉnh Lai Châu Tỉnh Hoà Bình Tỉnh Vĩnh Long Tỉnh Yên Bái Tỉnh Lao Cai Tỉnh Bến Tre Tỉnh Quảng Bình Tỉnh Trà Vinh

Tỉnh Bạc Liêu Tỉnh Phú Yên Tỉnh Sóc Trăng Tỉnh Quảng Trị Tỉnh Hậu Giang Tỉnh Quảng Ngãi Tỉnh Ninh Thuận Tỉnh Bắc Kạn Tỉnh Kon Tum Tỉnh Hà Giang 2.058 2.002 1.971 1.792 1.789 1.781 1.740 1.682 1.563 1.539 3.272 3.343 2.831 2.977 2.890 3.067 2.863 2.518 2.676 2.788

54 55 56 57 58 59 60 61 62 63

Biểu đồ 2.1 Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương

42

(từ năm 2015 đến năm 2019)

Dựa trên Bảng 2.2. và Biểu đồ 2.1 nêu trên ta thấy được một số địa phương

43

có số (vụ án/ bị cáo) xét xử sơ thẩm cao là TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Nghệ An,

Đồng Nai, Thanh Hóa và một số địa phương có số (vụ án/ bị cáo) xét xử sơ thẩm

thấp là Hà Giang, Kon Tum, Bắc Kạn, Ninh Thuận, Quảng Ngãi. Tổng số vụ án, bị

cáo xét xử sơ thẩm tại 5 địa phương có số lượng cao chiếm tỷ lệ 28,83% số vụ án

và 28,79% số bị cáo so với toàn quốc trong 05 năm. Trong khi đó, tổng số vụ án, bị

can xét xử sơ thẩm tại 5 địa phương có số lượng thấp chiếm tỷ lệ 2,76% số vụ án và

2,74% số bị cáo so với toàn quốc. Số vụ án, bị cáo của của 5 địa phương có số

lượng xét xử sơ thẩm cao gấp khoảng hơn 9 lần so với số vụ án, bị cáo khởi tố của

5 địa phương có số lượng thấp. Riêng hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã

chiếm 18,44% về số vụ và 17,89% số bị cáo so với toàn quốc. Hai tỉnh Hà Giang,

KonTum chỉ chiếm 1,03% về số vụ và 1,07% số bị cáo xét xử sơ thẩm so với toàn

quốc. Như vậy, số vụ án, bị cáo của TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã xét xử sơ

thẩm đã gấp khoảng 18 lần so với số vụ án và 17 lần so với số bị cáo đã xét xử sơ

thẩm của 2 tỉnh Hà Giang và KonTum.

Nếu so sánh số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm giữa địa phương cao nhất và địa

phương thấp nhất thì thành phố Hà Nội có số vụ án cao gấp 20 lần số vụ án và 20

lần số bị cáo đã xét xử sơ thẩm so với Hà Giang.

2.2.1.2. Động thái tình hình xét xử sơ thẩm (vụ án/ bị cáo) từ năm 2015 đến

2019

Qua so sánh số liệu xét xử năm 2019 với các năm 2015 đến năm 2018 thấy:

Động thái của tình hình tội phạm được thể hiện ở bảng biểu và Biểu đồ 1 như sau:

Bảng 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019

Năm 2015 2016 2017 2018 2019

59.840 60.495 57.879 61.669 61.851

106.200 101.537 95.141 103.574 103.217

Số vụ án xét xử sơ thẩm Tổng số bị cáo xét xử sơ thẩm

44

Biểu đồ 2.2. Động thái của tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo các chương của BLHS cũng khác nhau rất

nhiều. Các chương có tỷ lệ xét xử cao (theo BLHS năm 2015) là Chương XIV (Các

tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người); Chương

XVI (Các tội xâm phạm sở hữu); Chương XVIII (Các tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế); Chương XX( Các tội về ma túy); Chương XXI (Các tội xâm phạm an toàn

công cộng, trật tự công cộng).

Một số chương có tỷ lệ xét xử sơ thẩm thấp gồm: Chương XIII (Các tội xâm

phạm an ninh quốc gia); Chương XV (Các tội xâm phạm quyền tự do của con

người, quyền tự do, dân chủ của công dân); Chương XVII (Các tội xâm phạm chế

độ hôn nhân và gia đình); Chương XIX (Các tội phạm về môi trường); Chương

XXII (Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính); Chương XXIV (Các tội xâm

phạm hoạt động tư pháp). Riêng Chương XXVI (Các tội phá hoại hòa bình, chống

loài người và tội phạm chiến tranh) không xét xử vụ nào.

45

Biểu đồ 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử theo một số chương của BLHS

Qua so sánh số liệu xét xử giữa các Chương (nhóm tội) trong 5 năm từ năm

2015 đến năm 2019 ta có:

Bảng 2.4. Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo nhóm, chương của BLHS

Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số vụ án Số bị cáo Nội dung (nhóm, chương) Chương XIII, XXVI (An ninh; Phá hoại 83 0.03% 189 0.04% hòa bình)

Chương XIV (Xâm phạm tính mạng, 40,579 13% 59,008 12% sức khỏe...)

Chương XV (Xâm phạm quyền tự do, 881 0.29% 2,464 0.48% dân chủ…)

Chương XVI (Xâm phạm sở hữu) 111,924 37% 159,917 31%

Chương XVII (Xâm phạm chế độ hôn 29 0.01% 39 0.01% nhân gia đình)

Chương XVIII (Xâm phạm trật tự quản 5,880 1.95% 10,736 2.11% lý kinh tế)

Chương XIX (Tội phạm về môi trương) 1,213 0.40% 1,946 0.38%

46

Chương XX (Tội phạm về ma túy) 85,100 28.20% 106,342 20.86%

Chương XXI (Xâm phạm an toàn công 51,390 17.03% 157,953 30.99% cộng...)

Chương XXII (Xâm phạm trật tự quản 2,990 0.99% 6,931 1.36% lý hành chính)

Chương XXIII (tội phạm về chức vụ) 1,265 0.42% 3,238 0.64%

Chương XXIV (Xâm phạm hoạt động 387 0.13% 948 0.19% tư pháp)

Chương XXV (Nghĩa vụ, trách nhiệm 13 0.00 21 0.00% của quân nhân)

Tổng số 301,734 100% 509,732 100%

Nhóm các chương có tỷ lệ xét xử thấp gồm các Chương XIII, XV, XVII,

XXII, XXIV chỉ chiếm tỷ lệ 1,28% trên tổng số vụ án và 1.73% tổng số bị cáo xét

xử toàn quốc (3871 vụ/8854 bị cáo) tiếp đến Chương XXII (Xâm phạm trật tự quản

lý hành chính) chiếm tỷ lệ 0,99% trên tổng số vụ án và 1,36% tổng số bị cáo xét xử

toàn quốc (2.990 vụ án /6931 bị cáo) và Chương XVIII (Các tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế) chiếm tỷ lệ 1,95% trên tổng số vụ án và 2,11% tổng số bị cáo xét

xử toàn quốc (5.880 vụ/ 10.736 bị cáo).

Nhìn chung, cơ cấu của tội phạm theo nhóm, chương không đồng đều, trong

đó Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu) và Chương XXI (Xâm phạm an toàn

công cộng) đã xét xử chiếm tỷ trọng lớn nhất là 31% bị cáo, chiếm tỷ trọng lớn thứ

hai là Chương XX (Các tội phạm về ma túy) chiếm 20,86% bị cáo, Chương XIV

(Xâm phạm tính mạng sức khỏe) chiếm tỷ trọng lớn thứ ba là 12% bị cáo, Chương

XVIII (Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) chiếm tỷ trọng lớn thứ tư là 2,11% bị cáo.

Riêng đối với các chương còn lại chỉ chiếm1.73% trên tổng số bị cáo đã xét xử sơ

thẩm, thể hiện tại Biểu đồ 5 như sau:

47

Biểu đồ 2.4. Tỷ trọng xét xử sơ thẩm các tội phạm theo chương

(nhóm tội) từ năm 2015 đến 2019

2.2.1.3. Động thái tình hình xét xử sơ thẩm (vụ án/ bị cáo) theo từng tội danh

từ năm 2015 đến 2019

Từ số liệu thực tế về thống kê tội danh đã xét xử tại Viện kiểm sát nhân dân

tối cao được thực hiện ở bảng số liệu Bảng 2.2 (theo từng năm, từng đơn vị từ năm

2015 đến năm 2019 thống kê tội danh đã xét xử). Từ số liệu này đưa ra được tỷ lệ

một số tội danh bị cáo đã xét xử theo bảng dưới đây:

Bảng 2.6. Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử một số tội danh từ năm 2015 đến năm 2019 Năm Năm Năm Năm Năm

Tên điều luật 2015 2016 2017 2018 2019

13,66% 15,96% 22% 23% 24,79%

Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Đánh bạc 23,48% 21,11% 21% 37% 22,24%

Trộm cắp tài sản 23,90% 22,11% 21% 32% 17,84%

8,03% 7,78% 8% 8% 6,99%

48

3,80% 4,05% 4% 3% 3,30% Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của Vp các quy định về điều khiển phương tiện giao thông

Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc 1,84% 1,77% 2% 2% 2,22%

Cướp giật tài sản 2,79% 2,59% 2% 2% 1,96%

Giết người 1,91% 1,74% 2% 2% 1,73%

Cướp tài sản 2,81% 2,32% 2% 2% 1,58%

1,23% 1,32% 1% 1% 1,43%

1,36% 1,17% 1% 1% 1,00%

Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2,82% 2,77% 3% 3% 0,51%

49

Biểu đồ 2.5. Động thái tình hình tội phạm của một số tội danh theo bị cáo từ năm 2015 đến 2019

2.2.2. Hình phạt áp dụng của các tội phạm bị xét sơ thẩm qua các từ năm

2015 đến 2019)

Nhìn chung, cơ cấu hình phạt đã áp dụng có sự phân biệt rõ, trong đó số bị

cáo bị tuyên phạt hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ trọng cao nhất là 351.427 bị cáo

chiếm 71.24%, số bị cáo bị tuyên phạt hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm

tỷ trọng cao thứ hai là 90.710 bị cáo chiếm 18.39%. Đối với số bị cáo bị tuyên hình

phạt tù chung thân, tử hình là 3.403 bị cáo chiếm 0.69% trên tổng số bị cáo đã xét

xử sơ thẩm, được thể hiện tại Bảng và Biểu đồ như sau:

Bảng 2.7. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Hình phạt

2015

2016

2017

2018

2019

569

593

680

650

911

Chung thân, tử hình

74.138

77.207

67.117

61.826

71.139

Tù có thời hạn

21.457

16.369

17.644

16.772

18.468

3.548

3.373

3.530

3.786

4.698

Tù có thời hạn nhưng được hưởng án treo Cải tạo không giam giữ

6.642

6.443

5.005

4.691

6.032

Hình phạt chính khác

50

Biểu đồ 2.6. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.8. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019

Hình phạt

2015

2016

2017

2018

2019

0,54%

0,57%

0,72%

0,74%

0,9%

Chung thân, tử hình

69,71%

74,25%

71,08%

70,43%

70,22%

Tù có thời hạn

20,18%

15,74%

18,69%

19,11%

18,23%

Tù có thời hạn nhưng được hưởng án treo

3,34%

3,24%

3,74%

4,31%

4,64%

Cải tạo không giam giữ

6,25%

6,2%

5,3%

5,34%

5,95%

Hình phạt chính khác

Biểu đồ 2.7. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm trong 5 năm (Từ năm 2015 đến năm 2019)

2.2.3. Chỉ số tội phạm (tỷ lệ bị cáo xét xử sơ thẩm so với 100.000 dân theo

địa bàn phạm tội từ 14 tuổi trở lên)

Chỉ số tội phạm năm 2019 của từng địa phương

Tổng số đã xét xử sơ thẩm trên toàn quốc năm 2019 là 61.838 vụ án, 103.143

bị cáo chiếm tỷ lệ 0,14% so với tổng dân số (Con số cụ thể của năm 2019)1có độ

tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi trở lên).

1(Số liệu dân số do Tổng cục Thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp)

51

Chỉ số tội phạm được tính bằng số bị cáo đã xét xử sơ thẩm so với dân số có

độ tuổi từ 14 tuổi trở lên (tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Được thể hiện ở Bảng 3

như sau:

Bảng 2.9. Chỉ số tội phạm theo từng địa phương

(Xếp theo thứ tự chỉ số tội phạm giảm dần)

Số bị cáo Xếp hạng Tỉnh, thành phố Dân số trên 14 tuổi Chỉ số tội phạm

Điện Biên 1155 0,30% 389.065 1

Thái Nguyên 2640 0,27% 971.309 2

Lạng Sơn 1631 0,27% 606.834 2

Cao Bằng 1047 0,26% 406.723 4

Đắk Nông 1161 0,25% 458.138 5

Bắc Ninh 2248 0,24% 943.121 6

Tây Ninh 2098 0,23% 909.661 7

Sơn La 1969 0,23% 871.416 7

Bình Phước 1656 0,22% 739.119 9

Quảng Ninh 2108 0,22% 979.745 9

Tuyên Quang 1186 0,20% 579.445 9

Bình Dương 3365 0,19% 1.737.861 12

Nghệ An 4470 0,19% 2.409.891 12

Vĩnh Phúc 1495 0,18% 816.437 14

Phú Thọ 1941 0,18% 1.070.617 14

Bắc Kạn 256.058 463 0,18% 14

Hà Nội 5.851.621 10499 0,18% 14

Ninh Bình 1326 0,17% 761.558 18

Lai Châu 515 0,17% 301.192 18

Lâm Đồng 1689 0,17% 1.009.390 18

52

Bà Rịa-Vũng Tàu 1463 0,17% 878.487 18

Đà Nẵng 22 847.141 1375 0,16%

Hưng Yên 23 932.598 1399 0,15%

Đắk Lắk 23 1.447.728 2131 0,15%

Hoà Bình 25 639.410 926 0,14%

Bắc Giang 25 1.307.217 1874 0,14%

Kon Tum 25 537 0,14% 382.933

Hà Nam 25 894 0,14% 638.171

Thanh Hoá 25 3827 0,14% 2.753.651

Đồng Nai 25 3350 0,14% 2.454.873

Quảng Trị 31 633 0,13% 470.944

Yên Bái 31 806 0,13% 601.690

Hải Dương 31 1917 0,13% 1.444.505

Bình Thuận 31 1263 0,13% 964.856

Lào Cai 31 653 0,13% 502.504

Gia Lai 31 1344 0,13% 1.062.342

Thừa Thiên Huế 37 1123 0,12% 908.826

Kiên Giang 37 1722 0,12% 1.397.725

Quảng Bình 37 675.221 823 0,12%

Cần Thơ 37 1249 0,12% 1.026.734

Nam Định 37 1717 0,12% 1.429.369

Quảng Nam 37 1400 0,12% 1.172.575

Long An 37 1432 0,12% 1.202.881

Hà Tĩnh 37 1131 0,12% 967.322

Hải Phòng 45 1751 0,11% 1.566.742

Thái Bình 45 1581 0,11% 1.445.531

45 Ninh Thuận 462.083 501 0,11%

45 7360 0,11% TP. Hồ Chí Minh 6.997.152

53

49 1280 0,10% Bình Định 1.222.352

Khánh Hoà 1.003.833 1026 0,10% 49

Hậu Giang 616.186 621 0,10% 49

Hà Giang 578.420 574 0,10% 49

Cà Mau 983.820 936 0,10% 49

Vĩnh Long 843.371 766 0,09% 54

Bạc Liêu 724.180 652 0,09% 54

Đồng Tháp 1.346.501 1145 0,09% 54

Phú Yên 711.821 582 0,08% 57

Trà Vinh 823.770 633 0,08% 57

Tiền Giang 1.416.533 1051 0,07% 59

Bến Tre 1.035.768 648 0,06% 60

An Giang 1.682.036 1045 0,06% 60

Quảng Ngãi 996.332 551 0,06% 60

Sóc Trăng 1.038.265 568 0,05% 63

Địa phương có chỉ số tội phạm cao nhất là Điện Biên là 0,30% (1155 bị cáo/

389.065 người dân), gấp hơn 6 lần địa phương có chỉ số tội phạm thấp nhất là Sóc

Trăng 0,05% (568 bị cáo/1.038.265 người dân).

Năm địa phương có chỉ số tội phạm cao nhất là Điện Biên, Thái Nguyên,

Lạng Sơn, Cao Bằng, Đắk Nông.

Điện Biên có chỉ số tội phạm cao nhất là 0,3% (1155 bị cáo/ 389.065 người

dân).

Thái Nguyên có chỉ số tội phạm cao thứ hai là 0,27% (2.640 bị cáo/ 971.309

người dân).

Lạng Sơn có chỉ số tội phạm cao thứ hai là 0,27% (1.631 bị cáo/ 606.834

người dân).

Cao Bằng có chỉ số tội phạm cao thứ tư là 0,26% (1047 bị cáo/ 406.723

54

người dân).

ĐắK Nông có chỉ số tội phạm cao thứ năm là 0,25% (1.161 bị cáo/ 458.138

người dân).

Năm địa phương có chỉ số tội phạm thấp là Sóc Trăng, An Giang Quảng

Ngãi, Bến Tre, Tiền Giang.

Sóc Trăng có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,05% (568 bị cáo/1.038265 người

dân).

Quảng Ngãi có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (551 bị cáo/996.332

người dân).

An Giang có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (1.045 bị cáo/1.682.036

người dân).

Bến Tre có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (648 bị cáo/1.035.768 người

dân).

Tiền Giang có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,07% (1051 bị cáo/1.416.533

người dân).

Ngoài ra, trong cuốn tài liệu “Báo cáo tình hình tội phạm” hằng năm (do

Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng) còn phân tích thêm tình hình tội phạm bị

xét xử sơ thẩm theo dân tộc, giới tính, phân loại hình phạt, người chưa thành niên bị

xét xử sơ thẩm (người dưới 18 tuổi), các tội phạm tham nhũng và việc áp dụng hình

phạt đối với tội phạm về tham nhũng, việc áp dụng án treo, so sánh số liệu xét xử

(sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) qua từng năm, theo địa bàn xét xử

(huyện, tỉnh)…

2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự

của ngành Kiểm sát nhân dân

2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân

2.3.1.1 Những ưu điểm

Có thể nói, từ khi thành lập ngành Kiểm sát nhân dân đến nay (năm 1960),do

thực hiện tốt công tác thu thập, thống kê và quản lý số liệu thống kê tư pháp hình sự nói chung và số liệu thống xét xử các vụ án hình sự nói riêng thì ngành Kiểm sát

nhân dân đã tạo lập được cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về tình hình về số vụ án, bị

55

cáo bị xét xử về hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm) theo từng

địa phương cũng như trên phạm vi toàn quốc qua hàng năm. Đặc biệt, từ cơ sở dữ

liệu đã thu thập và quản lý được giúp chúng ta đánh giá, phân tích tương đối chuyên

sâu, toàn diện về tình hình tội phạm bị xét xử tại Việt Nam được chính xác, đầy đủ như: Số vụ án, số bị cáo bị xét xử, phân tích được các đặc điểm về thân nhân của

người phạm tội như: Giới tính (Nam, Nữ), nhóm tuổi, dân tộc (Kinh và dân tộc

khác), trình độ học vấn, nhất là các loại hình phạt áp dụng có 2 cấp xét xử (sơ thẩm,

phúc thẩm) tỷ lệ đồng phạm, tỷ lệ đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình

phạt, phân tích được cơ cấu tội phạm theo chương tội phạm, theo địa phương (đơn vị hành chính)... Đây là cơ sở, kênh thông tin quan trọng để các nhà quản lý, hoạch

định chính sách của Việt Nam sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật

hình sự Việt Nam cho phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như hội nhập quốc tế, nhất là ngày càng bảo đảm lợi ích tốt nhất, đối xử một cách bình đẳng, công bằng

nhất, phù hợp với độ tuổi, trình độ học vấn, văn hóa... và ngày càng tiệm cận với

các nguyên tắc, chuẩn mực tiến bộ của quốc tế đối với người phạm tội tại Việt

Nam, từ đó có chính sách tái hòa nhập cộng đồng phù hợp...

Thống kê tội phạm phạm nói chung và thống kê tội danh đã xét xử nói riêng

là hoạt động thu thập, tổng hợp, phân tích tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội

phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trên phạm vị toàn quốc hay ở một vùng

lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định. Nên kết quả

của hoạt động thống kê này là phương tiện chủ yếu để đánh giá về tình hình tội

phạm và kết quả về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm, qua số liệu thống

kê có thể thấy được tình hình diễn biến của tội phạm, mức độ phạm tội, nguyên

nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, đồng thời có thể tìm ra những giải pháp thích

hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn. Số liệu thống kê này đã

trở thành một trong những căn cứ quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền lập kế hoạch, chương trình, đánh giá, phân tích thực trạng và đề ra giải pháp phòng, chống vi phạm, tội phạm ở địa phương và là cơ sở để từng ngành có biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả ở địa phương và là cơ sở để từng ngành có những biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả, chất lượng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Số liệu thống kê đã trở thành cơ sở khách quan để đánh giá về chất lượng hoạt động không những của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà còn cả các cơ

quan tư pháp nói chung, đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng

56

chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh

phòng chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá, xây dựng, hoạch định chính sách

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự; xây dựng,

củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp.

Kết quả thống kê những tội danh đã xét xử cũng như kết quả thống kê tội

phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian qua còn phục vụ đắc lực cho

công tác lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp và tham

mưu, đề xuất với các cơ quan của Đảng, Nhà nước những nội dung quan trọng góp

phần xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách ổn định và phát triển kinh tế.

2.3.1.2. Nguyên nhân

Để đạt được những kết quả nêu trên, ngoài sự nỗ lực, tận tâm, tận lực của các

cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trực tiếp làm công tác thống kê, sự tập trung

chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp, còn xuất phát từ một số tác động chủ

yếu sau:

Thứ nhất, Sự quan tâm của Đảng và chủ trương về cải cách tư pháp, đã tác

động mạnh mẽ đến việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan tư

pháp, trong đó có trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác thống, đặc biệt là

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã xác định “Nâng cao chất

lượng công tác thống kê tư pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực

hiện công tác này”.

Thứ hai, Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ

và quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác thống kê hình sự, thống

kê tội phạm được ghi nhận rõ hơn trong các văn bản pháp luật, các văn bản hướng

dẫn thi hành như: Luật tổ chức VKSND năm 2014, Thông tư liên tịch số

05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Quy

định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự...

Thứ ba, Ngành Kiểm sát đã chú trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào

công tác thống kê như: Phần mềm tổng hợp thống kê trong toàn ngành Kiểm sát đã

được thực hiện từ năm 1990, đến nay đã được thực hiện ở 63 tỉnh, thành phố và

57

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số liệu từ Viện kiểm sát cấp tỉnh được truyền về

Viện kiểm sát tối cao qua mạng Internet, ở cấp huyện phần mềm này được sử dụng

để kiểm tra, lưu trữ số liệu thống kê; Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng

được cơ sở dữ liệu thốn kê tổng hợp trên cơ sở của hệ thống phần mềm này; Hệ

thống phần mềm xét xử sơ thẩm đã được triển khai từ năm 2014 cho cả 3 cấp

huyện, tỉnh và trung ương, phần mềm này là cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu về

thống kê tội phạm. Việc tổng hợp số liệu thống kê tội danh đã xét xử được thực hiện

hoàn toàn bằng máy vi tính, dữ liệu thống kê ban đầu được tập trung về một nơi nên

số liệu thống kê đảm bảo tính chính xác, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể

thống kê theo khoảng thời gian lựa chọn khác nhau. Đây là một phương pháp thống

kê hiện đại đã được Luật Thống kê ưu tiên phát triển. Phần mềm “Quản lý án hình

sự” đã được triển khai đến trong toàn ngành Kiểm sát, theo mô hình tổ chức thông

tin của hệ thống phần mềm này thì thông tin từ hồ sơ án ở tất cả các cấp kiểm sát

khi phát sinh (trong tất cả các giai đoạn tố tụng) được cập nhật trực tiếp vào trung

tâm tích hợp dữ liệu tại Viện kiểm sát tối cao thông qua mạng Internet,.

Thứ tư, Ngành Kiểm sát đã chú trọng, thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút

kinh nghiệm, từng bước đổi mới lề lối quản lý, điều hành và các phương thức công

tác thống kê; trong xây dựng và hoàn thiện các Quy chế nghiệp vụ.

Thứ năm, Tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất trong toàn ngành Kiểm sát ngày

càng được quan tâm hơn. Có nhiều biện pháp để xây dựng, củng cố hệ thống Viện

kiểm sát cả về đội ngũ cán bộ và tổ chức; tăng cường công tác tuyển chọn, đào tạo,

bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, Kiểm sát viên về chuyên môn, nghiệp

vụ, trưởng thành về chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh trong công tác.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Những hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, qua thực tiễn và trên cơ sở số liệu thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân đã thu thập và thống kê được thì vẫn còn một số hạn chế, thể hiện cụ thể qua một số đánh giá sau:

Thứ nhất, mặc dù cơ quan VKSND là cơ quan được giao chủ trì việc thực

hiện thống kê tội phạm nhưng tổ chức của cơ quan, Bộ phận Thống kê tội phạm

trong ngành Kiểm sát nhân dân vẫn chưa được kiện toàn. Mô hình tổ chức và cách

58

thức thực hiện thông kê tội phạm chưa ổn định, nhất quán, cụ thể: Cục Thống kê tội

phạm và Công nghệ thông tin thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập

năm 2003 nhưng hệ thống các đơn vị thống kêchuyên trách trực thuộc (Bộ phận

thống kê thuộc Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thuộc Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnh) hoặc tại VKSND cấp huyện tính đến nay là không có bộ phận

thống kê chuyên trách mà chỉ là kiêm nhiệm. Do vậy, tính chuyên sâu không bảo

đảm nên ảnh hưởng phần nào đến chất lượng của số liệu thống kê thu thập được,

trong đó có số liệu thống kêxét xử các vụ án hình sự…

Thứ hai, Hệ thống chỉ tiêu mang nặng tính báo cáo công tác, phản ánh kết

quả hoạt động đấu tranh với tội phạm đó xảy ra tức là cũng bị động trong việc đấu

tranh phòng và chống tội phạm, chưa đi sâu vào nghiên cứu đánh giá, phân tích dự

báo tình hình tội phạm để chủ động trong việc chuẩn bị lực lượng đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Chưa cơ quan nào xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thông kê

tội phạm phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thành hệ thống chỉ

tiêu thống kê riêng (độc lập) mà các chỉ tiêu này hiện vẫn đang được nằm trong hệ

thống biểu mẫu thống kê của các ngành. Phương pháp tính thống kê hiện này trong

hệ thống thống kê hiện hành của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn thường thống kê

theo số vụ và số bị can, bị cáo mà chưa thống kê theo hành vi phạm tội.

Có thể nói những quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự đã làm cho Viện

kiểm sát gặp phải những khó khăn nhất định khi thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra các vụ án hình sự và khi làm công tác thống kê vì thông tin về hoạt động

điều tra đến với Viện kiểm sát còn thiếu tính kịp thời; các quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự hiện hành về thời hạn chuyển các quyết định tố tụng từ cơ quan tiến

hành tố tụng này sang cơ quan tiến hành tố tụng khác chưa được chặt chẽ.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Những hạn chế, yếu kém trong công tác thống kê tội phạm nói chung cũng

như công tác thống kê các tội danh đã xét xử nói riêng bắt nguồn từ nhiều nguyên

nhân khác nhau, nhưng chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Biểu mẫu thống kê hiện nay còn có hạn chế như: Biểu mẫu mới chỉ thống

59

kê theo điều luật mà Tòa án đã xét xử, chưa phân tổ về hành vi phạm tội đối với một

số tội ghép, chưa phân tổ cụ thể đối với lĩnh vực phạm tội ví dụ: “Tội sản xuất,

buôn bán hàng cấm”, mới chỉ thống kê Điều 190 (BLHS 2015) mà chưa phân tổ

riêng hành vi sản xuất, hành vi buôn bán; Đối với các tội về tham nhũng chưa phân

tổ cụ thể từng lĩnh vực mà bị cáo đã tham nhũng, nên gặp rất nhiều khó khăn trong

việc khai thác số liệu, nếu cần khai thác từng hành vi hoặc từng lĩnh vực bị xâm

phạm thì phải khai thác trong hồ sơ vụ án sẽ mất nhiều thời gian nhất là những vụ

án đã đưa vào lưu trữ.

- Các Phòng nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh, các VKSND huyện, thành phố có

vị trí rất quan trọng trong công tác thống kê các tội danh đã xét xử của ngành Kiểm

sát, đây là những đơn vị trực tiếp tiến hành thu thập, đối chiếu, xây dựng số liệu các

chỉ tiêu thống kê. Tuy nhiên, hiện nay công tác thống kê tội phạm nói chung và

thống kê tội danh đã xét xử nói riêng ở những đơn vị này chưa có cán bộ thống kê

chuyên trách, cán bộ làm công tác thống kê phải kiêm nhiệm nhiều công việc và chỉ

có trình độ chuyên môn là Cử nhân luật, không có trình độ chuyên sâu về công tác

thống kê, một số cán bộ làm công tác thống kê chưa chịu khó nghiên cứu về công

tác thống kê, cán bộ thống kê ở các đơn vị thường là những người mới vào ngành,

công tác bàn giao, học hỏi chưa được nhiều. Bên cạnh đó, sự quan tâm chỉ đạo của

một số lãnh đạo các đơn vị về tầm quan trọng của công tác thống kê còn chưa thực sự đầy đủ, dẫn tới thiếu kiểm tra, đôn đốc thực hiện tốt công tác này.

- Thống kê hình sự, thống kê tội phạm hiện nay đang áp dụng hình thức chế

độ báo cáo thống kê (báo cáo thống kê cơ sở và báo cáo thống kê tổng hợp). Báo

cáo thống kê cơ sở (báo cáo thống kê của cấp huyện, các phòng nghiệp vụ thuộc

cấp tỉnh, các viện nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp cao, các vụ nghiệp vụ trực

thuộc Viện kiểm sát tối cao) có ý nghĩa quyết định đến chất lượng báo cáo thống kê tổng hợp. Nhưng hiện nay, phần lớn các đơn vị vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (đếm sổ), nên có nhiều ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo nhất là độ chính xác và tính kịp thời.

- Cán bộ thống kê của Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát tối cao mới

chủ yếu tham gia vào quá trình tổng hợp thống kê. Còn việc ghi chép, thu thập số liệu và tổng hợp thống kê chủ yếu do cán bộ thụ lý của Viện kiểm sát các quận,

huyện và các đơn vị nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát tối cao.

60

Cũng tương tự, việc phân tích thống kê mới chỉ dừng ở việc các cán bộ tổng hợp

của Viện kiểm sát các cấp đánh giá tình hình và kết quả hoạt động trong phạm vi

cấp mình, đơn vị mình và toàn quốc. Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông

tin chỉ thực hiện việc tổng hợp, kiểm tra số liệu thống kê trong toàn ngành để báo cáo và một số ít việc phân tích thống kê mang tính chất nghiên cứu chuyên đề và

nghiên cứu đề xuất thiết kế và cải thiện hệ thống các chỉ tiêu trong các biểu mẫu

thống kê. Tham gia vào hoạt động thống kê có rất nhiều người thực hiện chứ không

chỉ đơn thuần là do cán bộ thống kê của Viện kiểm sát các cấp thực hiện; hoạt động

thống kê nằm rải ở quá nhiều đầu mối, nhiều khâu, nhiều người tham gia như hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên.

- Công nghệ thông tin đã được triển khai ứng dụng trong công tác thống kê

nhưng chưa sâu, chưa đáp ứng được so với yêu cầu công việc, hệ thống máy vi tính đang sử dụng nhiều máy có cấu hình thấp, hết khấu hao nên trong quá trình sử dụng

các phần mềm thống kê thường hay báo lỗi, việc sử dụng một số phần mềm còn

phải mất nhiều thao tác, tính năng kiểm tra, khai thác dữ liệu đã được cập nhật trên

một số phần mềm còn chưa cao.

Kết luận Chương 2

Trên cơ sở vận dụng lý luận về thống kê các tội phạm đã xét xử, Chương 2

của luận văn đã khảo sát, đánh giá, làm rõ thực trạng thống kê tội phạm đã xét xử

của VKSND tối cao, trong đó làm rõ những thực trạng tác động đến công tác thống

kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay đó là thực trạng

cơ sở pháp lý; cơ cấu về tổ chức bộ máy và phương pháp thu thập, thống kê xét xử

các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân. Tác giả tiến hành khảo sát, đánh

giá công tác thống kê trên cơ sở thực tiễn hoạt động thống kê các vụ án đã xét xử

của VKSND tối cao trong các năm từ 2015 đến nay. Từ đó đưa ra những phân tích,

đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác thống kê xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.

Những số liệu phân tích một cách có hệ thống, những đánh giá khách quan trên cơ sở nghiên cứu số liệu và tổ chức, hoạt động của VKSND tối caotrong công tác thống kê các tội danh đã xét xử trong thời gian qua là cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc đưa ra những quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thống

61

kê các tội danh đã xét xử trong thời gian tới.

Chương 3

HOÀN THIỆN THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ

3.1. Quan điểm hoàn thiện thống kê tội danh đã xét xử

3.1.1. Thống kê tội danh đã xét xử phải toàn diện, đầy đủ, kịp thời về tình

hình tội phạm cả về mặt lượng và mặt chất của từng loại tội phạm, là cơ sở để

Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách phù hợp trong đấu tranh phòng chống tội

phạm

Để công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả, trước hết cần

phải nhận diện được tội phạm, xác định được nguyên nhân, điều kiện, quy luật, thủ

đoạn hoạt động phạm tội và dự báo được sự phát triển của tình hình tội phạm từ đó

đề ra những giải pháp đấu tranh đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, cần thiết phải có một

hệ thống thống kê tội phạm hiện đại, đủ mạnh để thu thập đầy đủ các thông tin, số

liệu về các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, về con người vi phạm và kết quả điều

tra, xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng một cách khách quan, toàn diện, chính

xác, từ đó nghiên cứu tìm ra nguyên nhân, điều kiện hoạt động phạm tội và quy luật

của chúng để đề ra giải pháp hợp lý, tạo thế chủ động trong đấu tranh phòng, chống

tội phạm.

Vì vậy, tổ chức thực hiện thống kê tội phạm phải làm thường xuyên, liên tục

nhằm thống kê tình hình tội phạm và kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm của

các cơ quan tiến hành tố tụng đúng thực tiễn khách quan, đầy đủ kịp thời, không

được lơ là qua loa, cốt làm cho xong. Vì vậy, đòi hỏi những người được giao nhiệm

vụ thực hiện công tác thống kê phải nâng cao trình độ, năng lực làm công tác thống

kê tội phạm.

3.1.2. Thống kê tội phạm phải gắn với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật

hình sự, pháp luật tố tụng hình sự

Trong quá trình phát triển và quản lý quá trình phát triển của đời sống kinh tế

xã hội đang diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp bao hàm cả những thuận lợi và khó

khăn. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân

62

dân và vì nhân dân, Nhà nước phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật

nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Luật hình sự là một công cụ chuyên chính

đối với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân mà nhiệm vụ của luật hình

sự đã đề ra. Do đó, thống kê tội phạm phải phục vụ kịp thời công tác lập pháp, các

số liệu thống kê về đối tượng phạm tội, về số lượng tội phạm, về tính chất nguy

hiểm của hành vi phạm tội… là những căn cứ thực tế để xây dựng và hoàn thiện

pháp luật hình sự và đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác đấu tranh

phòng và chống tội phạm.

Vai trò của thống kê tội phạm được luận chứng về lý thuyết và thực tiễn,

nhưng phát huy được vai trò của thống kê tội phạm trong thời gian tới cần phải gắn

với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự.

3.1.3. Thống kê tội phạm được coi là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Về công tác thống kê tội phạm Đảng đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng công

tác thống kê tư pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực hiện công

tác này” [2] và đã thể chế quan điểm này vào Điều 34 Luật tổ chức VKSND năm

2014, cụ thể đã giao cho VKSND chịu trách nhiệm thực hiện việc TKTP và trong

phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng khác có trách

nhiệm phối hợp với VKSND trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Vì vậy, thống kê tội

phạm là một trong những chức năng, phải là một trong những nhiệm vụ và quyền

hạn của VKSND nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung, nhiệm vụ này

phải được tổ chức và hoạt động mang tính độc lập tương đối, có chức năng nhiệm

vụ cụ thể nhằm mục đích để điều tra thu thập, tổng hợp số liệu được chính xác, kịp

thời phục vụ việc nghiên cứu, phân tích đưa ra những nhận định, đánh giá về quy

luật hoạt động của tội phạm, các dự báo về tình hình, xu hướng phát triển của các

loại tội phạm nói chung và từng loại tội phạm cụ thể nói riêng.

Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ

của mình để thực hiện thống kê tội phạm. Cơ quan Công an có chức năng thống kê

tội phạm (bao gồm thống kê tin báo tố giác tội phạm và kết quả xử lý tội phạm ở

63

giai đoạn điều tra), Toà án nhân dân thống kê tội phạm trong giai đoạn xét xử… Cơ

quan thống kê tội phạm của VKSND ngoài trách nhiệm thống kê của ngành mình

phải chịu trách nhiệm về độ chính xác và sự thống nhất về số liệu thống kê tội phạm

đã công bố.

3.1.4. Thống kê tội phạm phải được hiểu đúng và thực hiện thống nhất

Theo quy định tại Điều 3 Luật thống kê năm 2015 và Điều 6 Luật Tổ chức

VKSND năm 2014, thì có hoạt động thống kê tội phạm là điều tra, tổng hợp, phân

tích và công bố các thông tin phản ánh bản chất và quy luật của hiện tượng tội phạm

trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể, do cơ quan thống kê tội phạm

của VKSND chủ trì, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng khác để thực hiện

nhiệm vụ này. Như vậy, thống kê tội phạm không đơn giản chỉ là việc đưa ra các số

liệu có tính chất toán học mà vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là thông qua

các số liệu thống kê về tội phạm, cần phải rút ra được kết luận cần thiết về tội phạm

và giải thích nguyên nhân của hiện tượng tội phạm đó. Chỉ khi nào cơ quan thống

kê tội phạm thực hiện được yêu cầu này thì thống kê tội phạm mới có vai trò, ý

nghĩa thiết thực đối với quản lý, chỉ đạo điều hành nói chung và đấu tranh phòng và

chống tội phạm nói riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng của Đảng, Nhà nước.Vì

vậy, thống kê tội phạm phải được thực hiện một cách chuyên nghiệp hóa, có như

vậy mới đáp ứng được các yêu cầu trên.

3.1.5. Thống kê tội phạm phải gắn liền với hoạt động xã hội hoá kết quả

thông tin về tội phạm

Thống kê tội phạm là loại thông tin phải được xã hội hoá (trừ thống kê tội

phạm thuộc hoặc liên quan đến bí mật quốc gia). Nhà nước, cơ quan Thống kê tội

phạm không được độc quyền thông tin về tội phạm, không được vi phạm quyền

được thông tin của công dân. Các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, các học viên

cao học, sinh viên, các nhà quản lý, nhà kinh doanh đều phải được tiếp cận với kết

quả thống kê tội phạm. Kết quả thống kê tội phạm được công khai sẽ là tốt hơn

nếu mọi người nhận thức được xã hội mình đang sống để phòng tránh những

64

nguồn nguy hiểm từ lực lượng tội phạm đang rình rập tấn công. Và có như vậy số

liệu thống kê tội phạm mới được sử dụng, mới phát huy tốt hiệu quả vai trò của

mình trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.

3.1.6. Thống kê tội phạm phải tuân thủ những quy định của pháp luật về

thống kê, giữ vững kỷ luật thống kê

Theo quy định của Luật thống kê năm 2015, thì hoạt động thống kê tội phạm

phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê nói chung. Đồng thời,

để đảm bảo thu thập được những số liệu thống kê tội phạm được chính xác cần phải

có những chế tài để xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về

thống kê nói chung và thống kê tội phạm nói riêng.

Vì vậy, phải tiến hành đồng thời cả việc xây dựng, hoàn thiện và việc thực

hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đắn pháp luật thống kê tội phạm thì mới đảm bảo thu

thập được những số liệu thống kê tội phạm khách quan, kịp thời.

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng (hiệu quả) thống kê các tội danh

đã xét xử.

3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của thống kê tội tội danh đã xét xử và tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đối với công tác thống kê tội phạm

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thống kê tội phạm đặc biệt

là thống kê tội danh đã xét xử trong thời gian tới đòi hỏi phải có sự nhận thức

thống nhất từ lãnh đạo đến toàn thể công chức, viên chức của các cơ quan tư

pháp nói riêng và cơ quan Nhà nước nói chung về vị trí, vai trò, tầm quan trọng

của công tác thống kê tội phạm, khắc phục quan điểm không cho rằng thống kê

tội phạm chỉ là một hoạt động bổ trợ cho công tác thông tin báo cáo, số liệu

thống kê tội phạm chỉ phục vụ để xây dựng các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo

chuyên đề của các ngành mà chưa coi đây là một lĩnh vực công tác chuyên môn,

như Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã thể hiện "VKSND thực hiện việc thống

kê tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng khác phối hợp với VKSND thực hiện

nhiệm vụ này", có coi thống kê tội phạm là một lĩnh vực hoạt động chuyên môn

nghiệp vụ thì mới được sự quan tâm đầy đủ để góp phần thực hiện tốt chức năng,

65

nhiệm vụ thống kê tội phạm, đảm bảo phát huy được vai trò của thống kê tội

phạm trong đấu tranh phòng và chống tội phạm của Đảng và Nhà nước. Ngoài

ra, số liệu thống kê tội danh đã xét xử có vai trò to lớn trong việc phục vụ cho

công tác nghiên cứu tội phạm học để thông qua đó giúp cho việc đánh giá chính

xác về diễn biến THTP, nguyên nhân, điều kiện phát sinh và phát triển của tội

phạm, kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng

để từ đó dự báo xu thế phát triển của tội phạm trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp

cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm đấu

tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả.

Bởi vậy, phải có sự nhận thức thống nhất đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của

thống kê tội phạm đặc biệt thống kê tội danh đã xét xử nhất là đối với các công

chức, viên chức trực tiếp thực hiện công tác thống kê tội phạm. Để làm được điều

này, cần phải tuyên truyền, phổ biến nâng cao trách nhiệm cho Lãnh đạo các cấp, các

ngành, các cán bộ làm công tác thống kê tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng có

nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của thống kê tội phạm bằng nhiều

hình thức phong phú, đa dạng; nhiều phương pháp khác nhau như viết các bài trên các

phương tiện thông tin đại chúng, hay thông qua các hội nghị tập huấn chuyên ngành

hoặc bằng cách lồng ghép với các chương trình, nội dung đào tạo trong các trường đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của các ngành. Đây là điều kiện tiên quyết quyết định đến

chất lượng, hiệu quả của thống kê tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Vì khi đã có nhận

thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của thống kê tội phạm thì thống kê tội phạm sẽ được

quan tâm đầy đủ và tạo mọi điều kiện bảo đảm về mặt pháp lý, về các nguồn lực cần

thiết để phát huy hơn nữa vai trò của thống kê tội phạm trong đấu tranh phòng và

chống tội phạm.

Về mặt pháp lý bảo đảm thực hiện thống kê tội phạm hiện nay ở nước ta còn

một số hạn chế, bất cập đó là: ngoài Điều 34 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2014 về việc giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác thống kê tội

phạm và Thông tư liên tịch số 05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP

ngày 12/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ

66

Công an, Bộ Quốc phòng Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện

thống kê hình sự liên ngành hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật

trong công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm thì chưa có văn bản quy phạm

pháp lý nào cao hơn quy định về thực hiện thống kê tội phạm. Do vậy, để nâng cao

chất lượng thống kê tội phạm thì một trong những giải pháp có tính chiến lược là

Đảng, Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo kịp thời cho nghiên cứu để xây dựng, hoàn

thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực thống kê tội phạm như: Xây dựng và ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn về công tác thống kê thống kê tội

phạm nhằm làm căn cứ, cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tốt hơn

nữa với Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ thống kê tội

phạm. Trong khi chưa xây dựng được văn bản luật có tính pháp lý cao hơn về

thống kê tội phạm thì vẫn phải tiếp tục tổ chức thực hiện tốt việc thống kê tội

phạm theo quy hiện hành, đồng thời đúc rút kinh nghiệm, tổng kết những khó

khăn vướng mắc và đề xuất các giải pháp để đề nghị cấp có thẩm quyền là ủy

ban thường vụ Quốc hội cho nghiên cứu, xây dựng Pháp lệnh thống kê tội phạm

thay cho Thông tư liên tịch số 05 nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành

Pháp lệnh và văn bản hướng dẫn việc phân loại, quản lý những thông tin thống kê

cần bảo mật theo quy định của Nhà nước, những thông tin thống kê nào được công

bố rộng rãi, quy trình, thẩm quyền công bố số liệu… làm cơ sở cho việc áp dụng

trong hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Quá trình sửa đổi bổ sung các quy định

pháp luật luôn phải gắn với hoạt động thực tiễn, gắn với hoạt động tổ chức thực

hiện thống kê tội phạm liên ngành, có sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị nhằm

xác định đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, phạm vi trách nhiệm, phương pháp, hình thức

tổ chức phù hợp với từng cơ quan, từng bộ phận cụ thể và mối quan hệ giữa các cơ

quan, đơn vị để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong hoạt động thống kê tội phạm.

Ngoài ra, cơ sở của thống kê tội phạm là xuất phát từ pháp luật hình sự, tố tụng hình

sự, thi hành án hình sự nên để việc thống kê tội phạm được kịp thời có hiệu quả,

chính xác thì cũng cần phải sửa đổi, hoàn thiện các luật này được phù hợp.

3.2.2. Xây dựng mô hình báo cáo thống kê đảm bảo việc thu thập và quản lý

67

số liệu.

Để đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất, đến chuẩn hoá dữ liệu, số liệu thống kê

tội danh đã xét xử, một trong những giải pháp có tính then chốt đó là cần xây dựng

một mô hình báo cáo thống kê phù hợp, đảm bảo việc thu thập số liệu, trong đó

phân công trách nhiệm của 04 cấp trong việc thu thập, tổng hợp, quản lý số liệu

thống kê.

3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống chỉ tiêu thống kê tội phạm phục

vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm

Hệ thống chỉ tiêu thống kê tội phạm còn là cơ sở để phân công, phối hợp

trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích và công bố thông tin thống kê về tội phạm,

xây dựng Chương trình điều tra thống kê tội phạm, xây dựng biểu mẫu thu thập

thống kê và chế độ báo cáo thống kê tổng hợp, thống kê cơ sở, xây dựng định

nghĩa, phương pháp tính chỉ tiêu thống kê, hệ thống thống kê tội phạm bao gồm

danh mục chỉ tiêu, các phân tổ chủ yếu, kỳ hạn báo cáo và phân công thực hiện việc

thống kê tội phạm.

Theo khoản 2, Điều 8 của Luật Thống kê quy định: “Căn cứ vào Hệ thống

chỉ tiêu thống kê quốc gia, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngành Bộ, Chánh án Toà

án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành các chỉ tiêu thống kê

phục vụ yêu cầu quản lý, sử dụng thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách” [71, tr.9].

Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu thống kê tội phạm là cần

thiết. Tuy nhiên, để thu thập được các số liệu thống kê tội phạm đảm bảo độ chính

xác và thống nhất, công việc không kém phần quan trọng là phải xây dựng, hoàn chỉnh,

bổ sung hệ thống các khái niệm, phương pháp tính đối với các chỉ tiêu thống kê tội

phạm cụ thể. Việc chuẩn hóa các khái niệm, phương pháp tính các chỉ tiêu thống kê tội

phạm cũng có những khó khăn, phức tạp vì những số liệu thống kê tội phạm luôn luôn

là những con số động (luôn thay đổi), không phải là số tĩnh. Ví dụ: đối với một vụ án

hôm nay chỉ khởi tố 1 bị can nhưng sau đó lại thêm 2 bị can nữa hoặc một bị can bị

khởi tố điều tra ở 2 vụ án khác nhau; việc trả hồ sơ bổ sung nhiều lần của 1 vụ án, hủy

án để điều tra, truy tố, xét xử lại, tách bị can để xét xử (có bị can trốn)… mà các thông

68

tin về quá trình giải quyết vụ án có mối liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời

nhau. Vì vậy, việc xây dựng khái niệm, phương pháp tính chỉ tiêu thống kê là rất quan

trọng, nó quyết định tính chính xác, thống nhất của số liệu thống kê tội phạm nên cần

phải được chuẩn hóa, xây dựng theo đúng chuẩn mực thống kê và có sự thống nhất

giữa các ngành với nhau để cùng thực hiện, áp dụng thống nhất trong các cơ quan tiến

hành tố tụng (liên ngành).

Để nâng cao chất lượng thống kê tội phạm, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao

của công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ nền kinh tế thị

trường, hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực của nước ta và với sự phát triển

mạnh mẽ của công nghệ thông tin thì công tác thống kê tội phạm cần phải thay đổi cơ

bản và đáp ứng đầy đủ một số yêu cầu cơ bản sau đây:

Một là, thống kê tội phạm phải đảm bảo thu thập đầy đủ, kịp thời các số liệu

về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng,

không được bỏ sót, lọt các đối tượng cần phải thống kê như: số vụ phạm tội, số

người phạm tội, các hành vi phạm tội, nạn nhân, những thiệt hại do tội phạm gây

ra....

Hai là, số liệu thống kê tội phạm sau khi đã được tổng hợp phải được

phân tích về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm, quy luật hoạt động phạm

tội để đưa những dự báo về tội phạm trong thời gian tiếp theo từ đó đề ra các

biện pháp phòng và chống tội phạm phù hợp, có hiệu quả.

Ba là, đẩynhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thống kê

tội phạm nhằm nâng cao tính chính xác, độ tin cậy và sự kịp thời của thống kê tội

phạm.

Bốn là,xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê tội phạm nhằm có đủ các

thông tin, số liệu về tình hình tội phạm, kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan bảo vệ

pháp luật để phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cụ thể cần một số

các thông tin, số liệu thống kê tội phạm cơ bản như sau:

3.2.4.Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện hoạt động thống kê tội phạm

Những bất cập, tồn tại trong tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện thống kê

69

tội phạm của Viện kiểm sát các cấp và của các cơ quan tư pháp có thể thấy rằng với

thực trạng tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện hoạt động thống kê tội phạm hiện

nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu nên chưa phát huy hết vai trò của thống kê tội

phạm. Để nâng cao chất lượng công tác thống kê tội phạm nhằm phát huy vai trò

của thống kê tội phạm nhất thiết phải đổi mới cả về tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý

và thực hiện công tác thống kê tội phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu như sau:

- Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện công tác thống kê tội phạm, trước tiên là

thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân (cơ quan chủ trì việc thực hiện thống kê tội

phạm) cần được tổ chức thống nhất. Theo đó, tất cả các VKSND cấp tỉnh đều có phòng

Thống kê tội phạm, căn cứ vào số lượng án, số lượng đơn vị hành chính trên địa bàn

mà số lượng biên chế cán bộ của Phòng được phân bổ cho phù hợp.

- Yêu cầu đặt ra đối với lãnh đạo các đơn vị thống kê tội phạm là phải có đủ

khả năng kiểm tra số liệu, phân tích số liệu và dự báo được tình hình tội phạm. Cán

bộ làm công tác thống kê tội phạm cần được chuyên môn hoá và được đào tạo

chuyên sâu (về công tác thống kê tư pháp, về tin học, về nghiệp vụ kiểm sát, nghiệp

vụ thống kê, phân tích thống kê…) và phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên;

được bố trí công tác ổn định, tránh luân chuyển thường xuyên cán bộ làm công tác

này khi không có lý do đặc biệt và khi chưa có cán bộ thay thế tương đương.

- Đối với VKSND cấp huyện, trong điều kiện thực hiện việc tăng thẩm quyền

cho các cơ quan tư pháp cấp huyện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

thì cần bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách làm công tác thống kê tội phạm. Vì từ khi

tăng thẩm quyền giải quyết án hình sự cho cấp huyện đến nay số lượng án hình sự cấp

huyện phải giải quyết đã tăng trên 20% so với trước).

Căn cứ vào các yêu cầu trên và để khắc phục được các hạn chế của thống

kê tội phạm hiện nay, cần phải xây dựng mô hình bộ máy tổ chức quản lý và

thực hiện thống kê tội phạm tập trung vào một mối; đơn vị thực hiện thống kê tội

phạm ở cấp tỉnh và cán bộ thống kê tội phạm ở cấp huyện sẽ quản lý theo dõi toàn

bộ hoạt động thống kê tội phạm từ khâu thụ lý, ghi chép sổ sách, lập báo cáo thống

kê mà những thông tin thống kê này được lấy trực tiếp từ hồ sơ vụ án hình sự. Với

70

tổ chức bộ máy như vậy có ưu điểm như sau:

+ Tăng cường tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ

trong các khâu, các bộ phận nghiệp vụ chỉ tập trung vào lĩnh vực chuyên môn của

mình.

+ Nâng cao tính kịp thời, chính xác, khách quan của số liệu thống kê. Từ đó

việc phân tích thống kê sẽ sâu sắc và sát với thực tế hơn.

+ Hạn chế tình trạng án bị bỏ lọt, bỏ quên hoặc vay mượn để báo cáo thống

kê chạy theo thành tích ảnh hưởng đến tính khách quan, chính xác của con số thống

kê vì có một bộ phận độc lập, khách quan, chuyên nghiệp quản lý và theo dõi tiến

độ giải quyết vụ án.

+ Thuận lợi cho việc tập huấn nghiệp vụ bồi dưỡng công tác thống kê tội

phạm, đồng thời rất thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào

công tác này để nhằm thay đổi về cơ bản phương pháp thống kê trong điều kiện ngành

Kiểm sát nhân dân và của các cơ quan tư pháp đang còn khó khăn về cơ sở vật chất, về

con người như hiện nay (chủ yếu thực hiện thống kê bằng phương pháp thủ công).

Nhằm đảm bảo tính khả thi cao cho việc triển khai quản lý án hình sự - thống kê bằng

ứng dụng Công nghệ thông tin.

+ Khắc phục tình trạng hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành phải sử dụng

nhiều nguồn số liệu khác nhau, vì tính bị động của hệ thống thống kê tội phạm đối

với những thông tin số liệu mang tính thời sự, đột xuất dẫn đến việc vừa thừa, vừa

thiếu, vừa mâu thuẫn.

3.2.5. Đầu tư khoa học - kỹ thuật công nghệ thông tin và truyền thông vào

công tác thống kê tội phạm

Để thực hiện tốt công tác thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân

nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung thì cần thiết phải chuẩn bị tốt cơ sở vật

chất và điều kiện làm việc, trong đó trọng tâm là tin học hóa công tác thống kê

tội phạm. Để thực hiện giải pháp này thì cần phải xây dựng một mạng thông tin

Internet cho các cơ quan tư pháp, mạng Internet trong nội bộ các ngành và trang

bị đầy đủ máy tính, tiến hành hoà mạng, lập các Trung tâm tích hợp dữ liệu về

71

thống kê tội phạm; xây dựng các phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác

thống kê tội phạm, toàn bộ cơ sở dữ liệu sẽ tập trung tại các trung tâm tích hợp

dữ liệu (tuỳ theo mô hình mạng lựa chọn mà Trung tâm tích hợp đặt tại các tỉnh,

các khu vực hay tập trung toàn bộ tại các cơ quan trung ương). Việc thống nhất

sử dụng một phần mềm sẽ thống nhất được công tác đào tạo, quản lý và phát

triển các ứng dụng, đồng thời tiết kiệm được kinh phí xây dựng phần mềm do

mỗi địa phương tự xây dựng một phần mềm riêng cho mình.

Công nghệ thông tin là công cụ, phương tiện để quản lý, khai thác các thông

tin về thống kê tội phạm một cách nhanh chóng, chính xác, thông suốt và hiệu quả.

Xuất phát từ vai trò rất quan trọng của công nghệ thông tin đối với hoạt động thống

kê như vậy, nên Luật Thống kê và các Nghị định của Chính phủ đã quy định “Nhà

nước ưu tiên đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông và phương pháp

thống kê tiên tiến vào hoạt động thống kê” [23, tr.7] hoặc Điều 3, Nghị định số

40/2004/NĐ-CP ngày 13/2/2004 của Chính phủ về việc ứng dụng khoa học vào hoạt

động thống kê đã yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông vào hoạt động

thu thập, xử lý, tổng hợp, công bố thông tin, xây dựng ngân hàng dữ liệu thống kê…

Do vậy, việc hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê là một

giải pháp và cũng là điều kiện tất yếu để thực hiện nhiệm vụ thống kê tội phạm có hiệu

quả.

Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê tội phạm

của các ngành tư pháp nói chung và của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng đều vừa

được thực hiện bằng thủ công, vừa áp dụng công nghệ thông tin như các Báo cáo

thống kê cơ sở (báo cáo thống kê được lập tại VKSND cấp huyện, các phòng

nghiệp vụ ở cấp tỉnh, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối cao) lập báo cáo

bằng thủ công (đếm sổ). Còn báo cáo thống kê tổng hợp (cấp tỉnh tổng hợp từ báo

cáo của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, các phòng nghiệp vụ, Cục Thống kê tội

phạm tổng hợp từ báo cáo của cấp tỉnh và các đơn vị nghiệp vụ) được tổng hợp

bằng máy vi tính.

Tuy nhiên, hiện nay trong ngành KSND hệ thống sổ ghi chép số liệu ban đầu

72

(các sổ thụ lý, các sổ nghiệp vụ...) có hai chức năng là cơ sở để lập báo cáo thống kê

và là thủ tục hành chính tư pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên khi

ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hoạt động nghiệp vụ thì hầu hết các thông

tin để lập báo cáo thống kê và thông tin về hành chính tư pháp được cập nhật vào hệ

thống máy tính. Nếu hệ thống sổ nghiệp vụ vẫn giữ nguyên như cũ thì việc ghi chép

trùng lặp, vừa phải cập nhật vào máy vi tính vừa phải ghi vào sổ... Vì vậy, cần phải

đổi mới về phương thức ghi chép thông tin ban đầu. Các sổ nghiệp vụ cần phải

được xây dựng phần mềm sổ thụ lý điện tử được sử dụng từ cấp huyện, cấp tỉnh,

cấp cao, cấp tối cao để thuận tiện cho quá trình quản lý và bỏ phương pháp thủ công

là làm sổ giấy và hết kỳ báo cáo đếm từ sổ để thống kê vào biểu. Việc triển khai hệ

thống thống kê được mô tả như trên trong toàn quốc cần phải có bước đi thích hợp,

thời gian đầu (giao thời của hai phương thức thống kê hiện hành và phương thức

mới từ 3 đến 5 năm) song song với việc triển khai hệ thống mới thì phương thức cũ

vẫn phải duy trì cho đến khi hệ thống mới thay thế hoàn toàn hệ thống cũ.

Nhằm bảo đảm phát huy tốt hơn nữa vai trò của thống kê tội phạm trong

công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thì tiến tới cũng cần phải đổi mới

việc thực hiện thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên ngành giữa Bộ Công an,

VKSND, TAND, Bộ Quốc phòng về phương pháp quản lý, xây dựng và thực hiện

tổng hợp báo cáo thống kê tội phạm, chuyển từ phương pháp thủ công bằng việc

ứng dụng tiện ích của công nghệ thông tin (bằng phần mềm quản lý án). Sau khi

ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện thành công quản lý án và thống kê án hình sự,

thì với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện thống kê hình sự, thống kê tội

phạm phải nghiên cứu, đề xuất để các ngành tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án) đều phải thực hiện việc quản lý án và thống kê án hình sự bằng

phần mềm quản lý. Việc quản lý án này phải được thực hiện liên thông và kết nối

với nhau. Mỗi cơ quan tư pháp theo chức năng nhiệm vụ của mình phải cập nhật

các thông tin cơ bản theo quy định của BLHS, tố tụng hình sự về vụ án, bị can vào

phần mềm quản lý án và thống kê án hình sự từ khi vụ án được khởi tố, truy tố,

xét xử và thi hành án hình sự. Đồng thời, có sự phân quyền quản lý, theo dõi và

73

chỉ đạo cụ thể những ai, cơ quan nào, thẩm quyền đến đâu thì được quản lý, kiểm

tra những vụ án nào? thẩm quyền và phạm vi quản lý này được thực hiện giống

như thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã quy định rõ trong Bộ luật tố tụng hình

sự và BLHS. Sau mỗi kỳ thống kê VKSND được giao chủ trì thực hiện việc thống

kê tội phạm sẽ tiến hành in báo cáo do VKSND lập trên cơ sở các ngành đã cập

nhật vào phần mềm quản lý án hình sự và thống kê chung ra và tổ chức đối chiếu

số liệu với Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân (Thông tư liên tịch số

05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Quy

định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự để kiểm tra, bổ

sung các thông tin còn thiếu được kịp thời. Đồng thời căn cứ vào kết quả thống kê

này để kiểm định, kiểm tra lại việc cập nhật thông tin của “Hệ thống quản lý án

hình sự và thống kê” có chính xác không.

3.2.6. Xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực hiện thống kê tội phạm

Về công tác cán bộ, trước hết cần tránh khuynh hướng chủ quan đơn giản,

sắp xếp những người năng lực kém làm công tác thống kê tội phạm mà cần bố trí

những cán bộ có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, cần mẫn, có sức khoẻ và ổn

định để thực hiện nhiệm vụ này. Cán bộ thống kê phải được chuẩn hoá về trình độ,

có kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ kiểm sát hoặc đại học luật, trình độ nghiệp vụ

thống kê và trình độ ứng dụng CNTT. Đồng thời, có chính sách, chế độ khuyến

khích tạo điều kiện để cán bộ thống kê chuyên tâm công tác.

3.2.7. Xã hội hóa thông tin thống kê tội phạm và hội nhập quốc tế trong việc cung

cấp thông tin về tội phạm nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm xuyên quốc gia

Số liệu thống kê tội phạm sau khi đã được tổng hợp, ngoài mục đích phục vụ

cho việc quản lý chỉ đạo điều hành, cũng cần phải được phổ biến và công bố rộng

rãi trong nhân dân để mọi người biết (trừ một số thông tin về tội phạm liên quan đến

an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, vụ án đang trong quá trình điều tra) và cùng góp

sức lực đề xuất hoặc có trách nhiệm hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm. Đặc biệt là các nhà nghiên cứu tội phạm học, luật học có những thông tin, số

74

liệu kịp thời phục vụ cho việc nghiên cứu, phân tích để dự báo và đề ra các giải pháp

đấu tranh với tội phạm được kịp thời, phù hợp như hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây

75

dựng chương trình trọng tâm trọng điểm về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

KẾT LUẬN

Thống kê tội phạm có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh phòng và chống

tội phạm, cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình tội phạm, cũng như kết quả xử

lý tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và của cơ quan tư pháp hình

sự nói riêng trên phạm vi lãnh thổ, địa phương và trên phạm vi toàn quốc trong một

giai đoạn nhất định.

Thống kê tội phạm là cơ sở để Đảng và Nhà nước đưa ra các chính sách hình

sự đúng đắn, kịp thời; tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như cơ chế chính

sách kinh tế - xã hội và các biện pháp phòng, chống tội phạm hiệu quả hơn. Đặc

biệt, kết quả thống kê tội phạm sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước kiểm soát được tình

hình tội phạm, đánh giá được khả năng, năng lực của các cơ quan điều tra, truy tố,

xét xử và thi hành án hình sự; hiệu quả của các cơ quan này trong việc làm giảm

thiệt hại về tinh thần, vật chất do tội phạm gây ra, cùng những hạn chế, bất cập, bài

học kinh nghiệm để xác định phương hướng, giải pháp tăng cường đấu tranh với các

loại tội phạm.

Vì vậy, trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, thống kê tội

phạm được coi là một công cụ hữu hiệu để nghiên cứu tội phạm và người phạm tội,

đánh giá thực trạng tình hình tội phạm, xây dựng dự báo tình hình phạm tội sẽ

xảy ra trong tương lai để từ đó hoạch định chương trình, kế hoạch phòng, chống

tội phạm. Chính vì vậy thống kê hình sự, thống kê tội phạm đã và đang được tất

cả các nước trên thế giới quan tâm. Thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm

ở nước ta cũng như các nước trên thế giới cho thấy rằng: Hành vi phạm tội được

thực hiện đa dạng, phức tạp về thời gian, địa điểm, phương thức, thủ đoạn... Các

yếu tố về thân nhân người phạm tội cũng hoàn toàn khác nhau do đó các nhà

nghiên cứu về tội phạm học đã sử dụng nhiều phương pháp thống kê hình sự,

thống kê tội phạm khác nhau để khai thác, thu thập những thông tin về tội phạm

xảy ra phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.

Do vậy, để công tác đấu tranh phòng và chống tội có hiệu quả thì yêu cầu

76

cấp bách hiện nay là phải nâng cao chất lượng thống kê tội phạm. Muốn vậy, trước

hết phải đổi mới và thống nhất về nhận thức đối với cán bộ về thống kê tội phạm,

vai trò và ý nghĩa của nó trong hoạt động công tác của các cơ quan tư pháp đồng

thời phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu đổi mới cả về tổ chức và hoạt động của

công tác thống kê theo hướng khoa học và hiện đại để phát huy vai trò của nó phục

vụ nhiệm vụ đấu tranh và phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay là một yêu cầu

cấp thiết đặt ra đối với công tác thống kê tội phạm nhằm khắc phục những tồn tại,

yếu kém trong công tác thống kê tội phạm, đáp ứng ngày một hiệu quả hơn nhu cầu

thông tin thống kê tội phạm của hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành và của hoạt

động hoạch định các chính sách quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước

trước những yêu cầu đặt ra của thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

77

hoá đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ

Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020".

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ

Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".

3. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về "tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình

hình mới.

4. Bộ Công an - Tổng cục cảnh sát nhân dân (1994), Tội phạm ở Việt Nam, thực

trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài KX-04-14, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

5. Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (2017), Nxb Công an

nhân dân.

6. Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan (2015), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng Cục thống kê (Viện Khoa học thống kê)

(2005), Thông tin tư liệu năm 2005 của Tổng Cục Thống kê, Viện khoa học

thống kê - ISS.

8. Chính phủ (2004), Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13/02/2004 qui định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê năm 2003.

9. Dương Tuyết Miên (2012), Sách chuyên khảo: Tội phạm học đương đại,

NXB Chính trị- Hành chính

10. Nguyễn Minh Đức (2006), "Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thống kê

và công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm sát.

11. Lại Thị Thu Hà (2005), "Bàn về hệ thống tổ chức, quản lý và thực hiện hoạt

động thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân", Tạp chí kiểm sát, (18).

12. Nguyễn Duy Hồng (2005), Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của

cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới, Đề tài khoa

78

học cấp bộ.

13. Phạm Hỗ (2003), Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm với vấn đề hợp tác

quốc tế trong phòng chống tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê

hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, HN 2003.

14. Nguyễn Văn Lan (2001), Một số yêu cầu về nâng cao chất lượng công tác

thống kê tội phạm, Tạp chí Công an nhân dân số 9/2001.

15. Nguyễn Quang Lộc (2003), Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm trong

ngành Toà án nhân dân, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự -

Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.

16. TS Nguyễn Văn Mạnh, TS Trịnh Đức Thảo, TS Lê Văn Hòe (2009), Tập

bài giảng - Một số vấn đề cơ bản về hành chính học (dùng cho các lớp đào

tạo hệ cử nhân chính trị) - Học viện chính trị Quốc gia Hồ chí Minh, khoa

học nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

17. Đinh Xuân Nam (2003), Phương pháp thống kê tội phạm phục vụ cho công

tác nghiên cứu tội phạm, xây dựng chương trình, kế hoạch phòng ngừa tội

phạm ở một số nước trên thế giới hiện nay, Báo cáo khoa học tại hội thảo

Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.

18. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1993), Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật hình sự nước

Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật tố tụng hình sự

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 2014, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày

2/4/2002.

23. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Luật thống kê và các văn

bản hướng dẫn thi hành, Nxb Thống kê, Hà Nội.

24. Quách Anh Sùng (2001), Một số vấn đề cơ bản về thống kê tội phạm trong

79

ngành kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

25. Nguyễn Viết Thế (2003), Vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào công

tác Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo

Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.

26. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24

tháng 11 năm 2005 của Thủ tuớng Chính phủ ban hành hệ thống chỉ tiêu

thống kê quốc gia.

27. Thủ tướng Chính phủ (2005), QĐ số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02/06/2010 của

Thủ tuớng Chính phủ về ban hành hệ thống chỉ tiêu Thống kê quốc gia

28. Nguyễn Xuân Thuỷ (2003), Chức năng, nhiệm vụ và đối tượng của Thống

kê hình sự - Thống kê tội phạm, mối quan hệ giữa Thống kê hình sự -Thống

kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự - Thống kê tội

phạm liên ngành, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Tiến (chủ biên) (2010), Kiến thức Thống kê dành cho các cán

bộ lãnh đạo, Nxb Thống kê, Hà Nội.

30. Phạm Quang Trung (2003), Vấn đề ứng dụng tin học vào công tác Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.

31. Trường Đại học kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình Lý thuyết thống kê, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

32. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân.

33. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác kiểm

sát năm 2016.

34. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1970), Chỉ thị số 10-CT ngày 10/10/1970

về tăng cường công tác thống kê.

35. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo về kết quả hoạt động của

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và phương hướng, biện pháp thực hiện Nghị

quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII trong ngành

Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng.

80

36. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động của Ban chỉ đạo ngành Kiểm sát nhân dân về các Chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.

37. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (Vụ công tác lập pháp), Những sửa đổi cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

38. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2005), Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm

trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp bộ. Tháng 7 năm 2005 - Chủ nhiệm

Đề tài: CN Nguyễn Duy Hồng. Thư ký đề tài Phạm Văn Được.

39. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2011), Đề án xây dựng hệ thống thống kê hình sự - thống kê tội phạm trong ngành kiểm sát nhân dân

giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020.

40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2003), Chuyên đề

một số vấn đề lý luận cơ bản của thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên

ngành - Ban chỉ đạo liên ngành xây dựng Đề án Thống kê hình sự, thống kê

tội phạm, Hà Nội.

41. Nguyễn Hồng Vinh (2007), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm

sát nhân dân, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

42. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển ngôn ngữ, Nxb Thông tin, Hà Nội.

43. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam.

45. Trần Thủy Quỳnh Trang, Phòng TKTP và CNTT Viện KSND TP. Hồ Chí

Minh (2014), Thống kê tội phạm, thống kê hình sự - Lý luận và thực tiễn.

46. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

“Cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của thống kê tư pháp và việc xây dựng, hoàn

81

thiện chế độ thống kê tư pháp ở Việt Nam”.