VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
HÀ NỘI - năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ ĐỊNH THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học viện khoa
học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ ĐỊNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ
XÉT XỬ ................................................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm các chỉ số của tình hình tội phạm .......................................... 6
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của thống kê các tội danh đã xét xử ....................................... 15
1.3. Mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội phạm ........... 20
1.4. Nội dung thống kê các tội danh đã xét xử .............................................................. 23
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO. ..................................................................... 27
2.1. Cơ sở của thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân hiện
nay ................................................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
......................................................................................................................................... 37
2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành
Kiểm sát nhân dân .......................................................................................................... 55
CHƯƠNG 3 HOÀN THIỆN THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ TRONG
THỜI GIAN TỚI. .............................................................................................................. 62
3.1. Quan điểm hoàn thiện thống kê tội danh đã xét xử ............................................... 62
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thống kê các tội danh đã xét xử trong thời
gian tới ............................................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Viện kiểm sát nhân dân VKSND
: Tòa án nhân dân TAND
: Bộ luật hình sự BLHS
: Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS
: Nhà xuất bản NXB
: Tình hình tội phạm THTP
TKTP : Thống kê tội phạm
TKHS : Thống kê hình sự
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm theo từng năm, từng địa phương (từ năm
2015 đến năm 2019)
Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm 2015
đến năm 2019)
Bảng 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019
Biểu đồ 2.4. Số vụ án, bị cáo xét xử theo một số chương của BLHS
Bảng 2.5. Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo nhóm, chương của BLHS
Bảng 2.6. Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử một số tội danh từ năm 2015 đến năm 2019
Bảng 2.7. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Bảng 2.8. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến
năm 2019
Bảng 2.9. Chỉ số tội phạm theo từng địa phương (Xếp theo thứ tự chỉ số tội phạm
giảm dần)
Biểu đồ 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm
2015 đến năm 2019).
Biểu đồ 2.2. Động thái của tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Biểu đồ 2.3. Tỷ trọng xét xử sơ thẩm các tội phạm theo chương (nhóm tội) từ năm
2015 đến 2019
Biểu đồ 2.4. Động thái tình hình tội phạm của một số tội danh theo bị cáo từ năm
2015 đến 2019
Biểu đồ 2.5. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm
2019
Biểu đồ 2.6. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm trong 5 năm (Từ
năm 2015 đến năm 2019)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thống kê tội phạm là cơ sở quan trọng trong việc đề ra những định hướng, giải
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm. Số liệu thống kê hình sự, thống kê tội
phạm là cơ sở khách quan để đánh giá về chất lượng hoạt động không những của
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà còn cả các cơ quan tư pháp nói chung
(công an, kiểm sát, toà án), đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng,
chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá xây dựng, hoạch định chính sách phát
triển kinh tế- xã hội, xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự; xây dựng, củng cố
và kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp. Kết quả của
công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân còn
phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKSND các
cấp và tham mưu, đề xuất với các cơ quan của Đảng và Nhà nước những nội dung
quan trọng góp phần xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Các cơ quan tư pháp hình sự từ lâu đã nhận thức và đánh giá vai trò quan
trọng của TKHS, TKTP trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
thông qua chức năng và phạm vi điều chỉnh của TKHS, TKTP. Trong thực tế đấu
tranh phòng, chống tội phạm luôn chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu lập pháp chỉ có
thể tiếp cận được THTP thực tế. Tức là ở mọi thời điểm, THTP luôn luôn ở trong
tình trạng phân đôi thành hai phần sáng - tối hay ẩn - hiện khác nhau. Trong nghiên
cứu khoa học về tội phạm học còn được gọi là “Phần hiện của THTP” và “Phần ẩn
của THTP”. Phần hiện của THTP là số tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan
chức năng phát hiện và xử lý. Trên thực tế, số tội phạm này được xác định qua số
liệu thống kê của cơ quan chức năng đó là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Hệ thống số liệu về THTP thu thập được dù ở các
mức độ khác nhau, thời gian và không gian có khác nhau song vẫn là những số liệu
nền tảng, vừa hàm chứa hình ảnh thu nhỏ của THTP, vừa phản ánh kết quả cụ thể
1
của công việc đấu tranh phòng, chống tội phạm của toàn xã hội mà trong đó các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự giữ vai trò nòng cốt. Đồng thời, đây cũng là cơ sở
hiện thực để nghiên cứu phần còn lại - Phần ẩn của THTP và nghiên cứu các mặt
khác của đời sống pháp lý. Nhận thấy vai trò của thống kê tội phạm trong đấu tranh
phòng và chống tội phạm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp
và pháp luật nhằm tăng cường công tác thống kê tội phạm. Đặc biệt là Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: “Nâng cao chất lượng công tác thống kê tư
pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực hiện công tác này”. Luật hóa
các chủ trương trên, Điều 34 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “VKSND có
trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong
việc thống kê hình sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan
tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Viện
kiểm sát nhân dân trong việc thống kê tội phạm”. Thời gian qua với vai trò là cơ quan
chủ trì, VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng cùng
cấp thu thập, tổng hợp các số liệu thống kê phản ánh tình hình tội phạm, kết quả giải
quyết và thi hành án hình sự.
Thống kê hình sự, thống kê tội phạm là hoạt động thu thập, tổng hợp, phân tích
tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trên
phạm vi toàn quốc hay ở một vùng lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một khoảng
thời gian nhất định. Nên kết quả của hoạt động thống kê hình sự, thống kê tội phạm
là phương tiện chủ yếu để đánh giá về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm.
Qua số liệu thống kê có thể thấy được tình hình diễn biến của tội phạm, mức độ
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, đồng thời có thể tìm ra
những giải pháp thích hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, TKTP hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế như: Chưa xây
dựng được bộ chỉ số chung (chỉ tiêu) để thống nhất đánh giá về tình hình tội phạm,
mỗi cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng các tiêu chí về số liệu thống kê thuộc phạm
vi nhiệm vụ của mình để đánh giá nên có sự nhận định đánh giá khác nhau về tình
2
hình tội phạm. Hơn nữa, hệ thống các chỉ tiêu thu thập số liệu TKTP hiện nay chưa
được đầy đủ; biểu mẫu thu thập chỉ tiêu số liệu thống kê cồng kềnh, phức tạp; hiện
nay phần lớn các đơn vị vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (đếm sổ), nên có
nhiều hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo, nhất là độ chính xác và tính kịp
thời...Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thống kê các tội danh đã xét xử ở Việt Nam
từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao” là rất cần thiết, trên cơ sở lý luận
và thực tiễn đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng hệ thống thống kê hình sự,
thống kê tội phạm hiện đại, tiên tiến nhằm thống kê được đầy đủ, chính xác, kịp
thời số liệu về kết quả xử lý tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này
trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như:
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân
dân, tái bản năm 2011.
- Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới. Đề tài khoa học cấp bộ , tháng 7 năm 2005 -
Chủ nhiệm Đề tài: Nguyễn Duy Hồng - Cục trưởng, thư ký đề tài Phạm Văn Được -
Cơ quan chủ trì: Cục Thống kê tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Kết quả điều tra TKTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm năm 2006 (Lưu
hành nội bộ) tháng 10 năm 2007 của Cục Thống kê tội phạm, VKSND tối cao.
- Nguyễn Xuân Hưởng (2012) "Vai trò của thống kê tội phạm trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thủy Quỳnh Trang - Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông
tin, VKSND TP Hồ Chí Minh “Thống kê tội phạm, thống kê hình sự - Lý luận và
thực tiễn”.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp “Cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của thống kê tư pháp và việc xây dựng, hoàn
3
thiện chế độ thống kê tư pháp ở Việt Nam”.
Các công trình nghiên cứu đã tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề khác
nhau, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác thống kê các
tội danh đã xét xử. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ
Luận văn Thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu bổ
ích, phong phú để tác giả thực hiện Luận văn tốt nghiệp Cao học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về đối chiếu với thực tiễn công
tác thống kê tội phạm nói chung và thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn của
VKSND tối cao để xác định quan điểm, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của
công tác này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên luận văn sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Những vấn đề lý luận của thống kê các tội danh đã xét xử.
- Đánh giá khái quát thực trạng thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thống kê các tội danh
đã xét xử ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm
và thực tiễn của công tác này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2015 đến
năm 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các số liệu đã thống kê
để đánh giá công tác thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm trong cả nước từ năm
2015 đến năm 2019.
4
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật về đấu tranh phòng và chống tội phạm và ý nghĩa vai trò của
thống kê các tội danh đã xét xử trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Luận văn
còn dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành như lý thuyết về thống kê tội phạm, thống
kê xã hội học,... kinh tế - xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau :
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp chủ yếu được sử
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được sử sụng để tiến
hành phân tích và tổng hợp các nội dung cần nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn sử
dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh… để bảo đảm
tính khách quan của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Từ những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn
thiện lý luận về thống kê tội phạm và thống kê hình sự, xây dựng lý luận cơ bản cho
bộ môn thống kê tội phạm nhằm trang bị cho cán bộ công tác tại các cơ quan tư
pháp, nhất là đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác thống kê tội phạm những
lý luận chung về thống kê tội phạm; xác định đúng vai trò, trách nhiệm, vị trí, tầm
quan trọng của thống kê các tội danh đã xét xử trong hoạt động thực hiện chức năng
của từng ngành nói riêng và trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm,
cũng như trong việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược phòng chống tội phạm và
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
- Về thực tiễn:Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình học tập, giảng dạy, nghiên cứu về những vấn đề có liên quanvề
thống kê tội phạm, thống kê hình sự, thống kê tư pháp. Đồng thời luận văn cũng có
5
ý nghĩa thiết thực về mặt thực tiễn là khảo sát đánh giá thực trạng và đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thống kê
các tội danh đã xét xử, đáp ứng yêu cầu ngày một cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH
ĐÃ XÉT XỬ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, các thông số của tình hình tội phạm
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm là một thuật ngữ đặc thù của tội phạm học. Nghiên cứu
về THTP giúp ta hiểu được bức tranh chung về tội phạm trong một khoảng thời
gian ở một không gian nhất định. Trong lịch sử phát triển của khoa học nghiên
cứu về tội phạm học có nhiều khái niệm về THTP.
Khái niệm tình hình tội phạm là một thuật ngữ khoa học và đồng thời là
một thuật ngữ được dùng trong ngôn ngữ thông dụng. Đó chính là khái niệm cơ
bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Cũng như mọi khái niệm khoa học khác,
khái niệm tình hình tội phạm có những chức năng như: chức năng lôgích, chức
năng nhận thức, chức năng đánh giá. Nghiên cứu về tình hình tội phạm và các
thông số về tình hình tội phạm, cho thấy có nhiều khái niệm khá tương đồng, như:
“Tình hình tội phạm là hiện tượng tâm - sinh lý xã hội tiêu cực, vừa mang tính
lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai
cấp, được thể hiện thông qua tổng thể các hành vi phạm tội cùng với các chủ thể
đã thực hiện các hành vi đó trong một thời gian và không gian nhất định” [44.
Tr10]. “Tình hình tội phạm là thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra
trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định” (Trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Tội phạm học, Nxb, CAND, Hà Nội, 2015, tr.100),... Các công
6
trình nghiên cứu về tội phạm học cho rằng để có cơ sở cho việc đưa ra một định
nghĩa về tội phạm học, trước hết cần tìm hiểu các dấu hiệu và thuộc tính của nó.
Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm nghiên cứu lý luận về tình hình
tội phạm và khái niệm về tình hình tội phạm: “Tình hình tội phạm là một hiện
tượng xã hội, pháp lý - hình sự, được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp
bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội
(quốc gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định” [32,tr 60].
Từ khái niệm trên cho thấy, tình hình tội phạm, trước hết là một hiện
tượng xã hội - dấu hiệu này nói nên bản chất xã hội của tình hình tội phạm. Chính
từ những hành vi phạm tội do con người sống trong xã hội thực hiện, chống đối
lại toàn bộ xã hội hay một công dân, một bộ phận xã hội hoặc một bộ phận người
thống trị xã hội, mà suy cho cùng chống đối lại chính cả bản thân họ, đã hình
thành một hiện tượng xã hội; do đó, tình hình tội phạm là một hiện tượng có sự
biểu hiện tiêu cực, là mặt trái của xã hội và nó có tính độc lập tương đối. Nghiên
cứu tình hình tội phạm thể hiện dấu hiệu về không gian và thời gian của tình hình
tội phạm; xác định rõ quy mô của hiện tượng trên địa bàn một địa bàn đơn vị
hành chính và khoảng thời gian nhất định, thể hiện một giai đoạn phát triển nhất
định của nó. Hay nói cách khác, thì tình hình tội phạm, trước hết là một hiện
tương xã hội, vì nó tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc trong xã hội, có nội dung xã
hội, có nguyên nhân trong xã hội, vì với tính cách là một biểu hiện, là mặt trái của
xã hội, có mối liên hệ, quan hệ chặt chẽ, biện chứng của hiện tượng đó với các
hiện tượng xã hội khác, với các điều kiện tồn tại của xã hội. Tình hình tội phạm
thể hiện đặc điểm định lượng và định tính thể hiện trong không gian và thời gian,
cụ thể ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ - hành chính nhất định.
Tình hình tội phạm ở Việt Nam có những đặc điểm, sự thể hiện, biểu hiện
khác nhau trong các giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau. Trong đó, các nhà
nghiên cứu đã phân thành các giai đoạn cơ bản: Tình hình tội phạm ở Việt Nam
trong giai đoạn từ Cánh mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954; giai đoạn từ
1955 đến năm 1975; giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985; giai đoạn từ năm 1986
7
đến nay. Nghiên cứu các giai đoạn này cho thấy thực trạng, diễn biến, cơ cấu và
tính chất của tình hình tội phạm ở Việt Nam luôn gắn với những biến đổi, thay
đổi về mọi mặt diễn ra trong đời sống của xã hội nước ta. Trong đó, tình hình tội
phạm ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay chịu sự tác động rất lớn của
những biến đổi khác nhau trong đời sống xã hội, do vậy có những biến động rất
lớn, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm
và danh dự của con người chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu của tình hình tội
phạm, có một số loại tội phạm cụ thể tăng đột biến, đặc biệt là từ năm 1989 đến
năm 1993. Do có sự phát triển của cơ chế thị trường có nhiều tội phạm giảm một
cách rõ rệt và có chiều hướng triệt tiêu.
Đến năm 2020, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; trong đó, số vụ
án về trật tự xã hội, ma túy tiếp tục tăng (nhiều vụ vận chuyển trái phép ma túy
tổng hợp với số lượng đặc biệt lớn; tội phạm hình sự có tổ chức núp bóng doanh
nghiệp, “bảo kê”, “tín dụng đen); phát hiện, bắt giữ một số vụ phạm tội có tổ
chức, xuyên quốc gia; khởi tố ”; xảy ra nhiều vụ giết người có tính chất rất côn
đồ, manh động, mất nhân tính; nhiều vụ tổ chức, môi giới cho người khác xuất
cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép; chống người thi hành nhiệm vụ
phòng, chống dịch bệnh Covid-19 gây bức xúc dư luận; vi phạm an toàn giao
thông xảy ra nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người.
Tội phạm liên quan đến tệ nạn xã hội, như: hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc
thông qua mạng internet vẫn diễn biến rất phức tạp; các tội Chứa mại dâm, Môi
giới mại dâm, Mua dâm người chưa thành niên, tăng về số vụ, phát hiện nhiều
đường dây mại dâm chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ cao để phục vụ cho việc
mua, bán dâm; ... Trong năm 2020, một số nhóm tội phạm giảm nhiều, như: Tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tuy nhiên các thế lực thù địch trong và ngoài
nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân theo hướng cực đoan hơn; tội phạm tham nhũng, chức vụ
chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư công, nhiều vụ gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước (qua thực
8
trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm tham nhũng, Đảng, Nhà
nước đã đặt ra yêu cầu về đánh giá thực trạng, dự báo tình hình tội phạm tham
nhũng xảy ra trong chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng, cơ quan
bảo vệ pháp luật và đề ra giải pháp thiết thực, hiệu quả để phòng, chống trong
thời gian tới); tội phạm kinh tế cấu chẽ với tội phạm về trật tự xã hội; tiếp tục
phát hiện nhiều vụ buôn bán hàng giả, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới là dược liệu, trang thiết bị, vật tư y tế, tiền tệ. Cùng với sự xuất hiện
đại dịch Covid-19 đã phát sinh nhiều vụ án hình sự liên quan đến công tác phòng,
chống dịch bệnh; đáng lưu ý, một số đối tượng thuộc cơ quan chức năng đã lợi
dụng việc mua thiết bị, vật tư y tế phòng, chống dịch để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tiền của Nhà nước gây bức xúc dư luận; nhiều đối tượng có hành vi chứa
chấp, đưa người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ
lây lan dịch bệnh.
Qua khái niệm tình hình tội phạm, ta thấy được mối quan hệ giữa hiện
tượng và bản chất nên khi nghiên cứu đặc điểm của tình hình tội phạm thì ta
thấy được giá trị lý luận và thực tiễn, từ đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn
diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra, nghiêm trọng về mức độ cũng như
nghiêm trọng về tính chất. Đặc điểm chung của THTP được cấu thành từ số
lượng của tất cả các tội phạm riêng lẻ đã được thực hiện trong một giai đoạn và ở
một xã hội nhất định. THTP không phải là tổng số về số học của các tội phạm mà
là tổng hợp hữu cơ, biện chứng các tội phạm đó, các yếu tố cấu thành nó có mối
liên hệ lẫn nhau và quyết định lẫn nhau. Sự thống nhất biện chứng của tất các các
yếu tố cấu thành tình hình tội phạm còn biểu hiện ở các thông số về lượng và các
thông số về chất của nó. Việc nhận thức các thông số về lượng và về chất của
THTP, việc làm sáng tỏ bản chất, các qui luật phát triển của chúng… là một trong
những yếu tố rất quan trọng của việc nghiên cứu THTP với tư cách là một hiện
tượng xã hội.
1.1.2. Các thông số (chỉ số) của tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm được biểu hiện ở các thông số về lượng và những chỉ
9
số về chất của tình hình tội phạm. Những thông số về lượng của tình hình tội
phạm là thực trạng (mức độ) và động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm;
những chỉ số về chất của tình hình tội phạm là cơ cấu và tính chất của tình hình
tội phạm. “Phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ những hành vi phạm tội và
chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự ở từng
đơn vị hành chính - lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời
gian nhất định và được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự”. Thông qua đó,
cụ thể là các dấu hiệu, đặc tính của nó mà ta hiểu được, nhận thức được bản chất,
nội dung, nguồn gốc mối liên hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác, biết
được những thay đổi về chất, về lượng của hiện tượng đó là tình hình tội phạm về
ma túy trong đời sống xã hội, nắm bắt được mối đe dọa đối với các giá trị của đời
sống xã hội, những thiệt hại cho xã hội, kể cả chính người phạm tội và
mức độ cần thiết phải tác động đến tình hình tội phạm trên một địa bàn. Khái
niệm này bao hàm cả mặt bản chất, nghĩa là gồm quy luật của sự phạm tội và cả
mặt biểu hiện của bản chất đó.
Những thông số về lượng của THTP là mức độ và động thái diễn biến của
nó. Khi xác định số lượng các tội phạm đã được thực hiện cần phải tính tổng cộng
các số lượng sau: (1) Số lượng các tội phạm và những người bị Tòa án xét xử và
tuyên bản án buộc tội; (2) Số lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì
không chứng minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; (3)
Các số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn);
(4) hệ số của THTP; (5) mức độ của tình hình tội phạm. [32,tr 61]
Cơ cấu của THTP là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác
nhau trong số lượng chung của chúng trong một khoảng thời gian nhất định và ở
một lãnh thổ nhất định. Các chỉ số về cơ cấu của THTP chỉ rõ đặc điểm lượng - chất
của tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình tội phạm, chỉ số về các đặc điểm của
nó. Tính chất của THTP thể hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho
xã hội trong cơ cấu của THTP cũng như ở các đặc điểm thân nhân của những người
thực hiện tội phạm. Cơ cấu và tính chất của THTP được thay đổi tùy thuộc vào các
10
đặc điểm cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội, ở những địa phương khác
nhau. Ngoài ra, khối lượng và tính chất của thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do các tội
phạm gây ra được coi là chỉ số bổ sung đặc trưng cho tình hình tội phạm. Các chỉ số
của thiệt hại có thể gắn với đặc điểm của thực trạng tình hình tội phạm, của cơ cấu
và động thái của nó.
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm
trong dân cư. Khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua chỉ
số tội phạm, nhất là khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm qua các
khoảng thời gian khác nhau trên một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong
cùng khoảng thời gian nhất định. Chỉ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số vụ phạm
tội trên 100.000 dân [9, tr. 185].
Số liệu tội phạm đã phát hiện là số lượng tội phạm đã xảy ra trong một phạm
vi nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định mà các cơ quan chức năng đã
biết, đã thụ lý và tiến hành giải quyết theo pháp luật tố tụng hình sự.
Những nhận định về tình hình phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định
phải so sánh với chỉ số dân cư trong phạm vi nghiên cứu trong cùng một khoảng
thời gian. Bởi vì: tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định, cho nên những thông số về
dân cư để so sánh phải là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi theo luật hình sự quy định. Những người không đủ năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc không đủ độ tuổi mà luật hình qui định không được đưa vào số lượng dân
cư để so sánh với số lượng tội phạm.
Việc nghiên cứu THTP cũng cần dựa trên quy định của pháp luật hình sự vào
thời điểm đó. Ví dụ, khi nghiên cứu tình trạng phạm tội của những người chưa
thành niên thì lấy số liệu những người chưa thành niên phạm tội có độ tuổi từ đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi so sánh với số liệu về dân cư có độ tuổi từ 14 tuổi trở
lên đến dưới 18 tuổi.Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác;
11
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Vì vậy tuỳ
theo đặc điểm của tình trạng phạm tội trong phạm vi nghiên cứu mà lấy số lượng
dân cư từ bao nhiêu tuổi trở lên cho phù hợp.
Thông thường tội phạm học sử dụng cách so sánh số liệu tội phạm và người
phạm tội với số lượng dân cư tính theo tỷ lệ 1.000 người dân hoặc 10.000 dân hoặc
100.000 dân để tìm ra tỷ trọng tương đối của tội phạm xảy ra. Đây cũng là một
phương pháp được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và ở Việt Nam trong sách
hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hôi ở Việt nam do Tổng Cục thống kê ban hành
tháng 2 năm 1995 đưa ra chỉ tiêu: Tỷ lệ phạm tội theo loại tội phạm tính trên
100.000 dân.
Trên cơ sở của phân tích trên tác giả đề xuất cần phải tổng hợp, tính toán các
loại chỉ số về tỷ lệ phạm tội như sau:
- Tỷ lệ phạm tội chung
x 100.000
Số người phạm tội
Số dân số trên 14 tuổi cùng năm
- Tỷ lệ người phạm tội phân tổ theo dân tộc
Số người phạm tội thuộc 1 dân tộc x 100.000 Số dân số trên 14 tuổi cùng dân tộc, cùng năm
- Tỷ lệ nam giới phạm tội
x 100.000
Số người phạm tội là nam
Số dân số trên 14 tuổi là nam cùng năm
- Tỷ lệ nữ giới phạm tội
x 100.000
Số người phạm tội là nữ
Số dân số trên 14 tuổi là nữ cùng năm
- Tỷ lệ người phạm tội chưa thành niên
12
Số người phạm tội trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi
Số dân số trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi x 100.000
- Tỷ lệ phạm tội phân tổ theo loại tội phạm
x 100.000 Số hành vi phạm tội Số dân số trên 14 tuổi cùng năm
- Tỷ lệ Đảng viên phạm tội
Số đảng viên phạm tội x 100.000 Số đang viên cùng năm
- Mối tương quan của từng nhóm tội, chương tội phạm: Theo BLHS năm
2015, các loại tội phạm được chia thành 14 chương; trong các báo cáo tổng kết, sơ
kết, chuyên đề đánh giá về tình hình tội phạm và giải quyết án hình sự chia thành
các nhóm: An ninh, Kinh tế, Trị an, Chức vụ và hoạt động tư pháp....
Tỷ trọng phạm tội theo Số hành vi tương ứng với mỗi chương hoặc
chương tội phạm, nhóm tội nhóm
phạm = Tổng hành vi phạm tội
- Số liệu về sự tương quan giữa những tội phạm theo trình độ học vấn của
người phạm tội
Số người phạm tội có trình độ học vấn theo một
Tỷ lệ phạm tội theo trình độ nhóm xác định (ví dụ đại học)
học vấn = Tổng số người phạm tội
Cần lưu ý là chỉ số tội phạm luôn được xác định gắn liền với một địa bàn
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chỉ số của THTP là thước đo để xác
định mức độ phổ biến tội phạm trong dân cư phản ánh trạng thái, xu thế vận động
của tội phạm đã xảy ra trong một đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định.
Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh
về tội phạm đã xảy ra, giải thích về mọi biểu hiện của tội phạm trong thực tế đời
sống xã hội, biết được cái nhìn về những hành vi nguy hiểm của chủ thể gây cho
13
xã hội ở mức độ cao nhất của con người có đầy đủ năng lực pháp luật. Nghiên
cứu diễn biến của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ giúp
cho nhận diện “bức tranh” về tội phạm, tình hình tội phạm được rõ nét mà nó
còn giúp cho việc dự đoán (tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội
phạm trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng
ngừa tội phạm của cơ quan chức năng sát với thực tiễn. Diễn biến của tình hình
tội phạm có thể là diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, diễn biến của tình
hình tội phạm một nhóm tội cụ thể hoặc một tội phạm cụ thể nào đó.
Số liệu thống kê tội danh đã xét xử chính là "số lớn", “số chính” và đặc biệt
nó có thể diễn giải được, nó rất phù hợp cho nhiều mục đích nghiên cứu tội phạm
học. Đối với phần hiện của tình hình tội phạm, số liệu thống kê tội danh đã xét xử
hoàn toàn bảo đảm yêu cầu hội tụ các nguồn số liệu án hình sự đó qua xét xử và sự
hội tụ này diễn ra một cách tự nhiên, hợp logic của một quá trình trình tự tố tụng
hình sự. Cho nên nó giảm bớt được yếu tố sai lệch do chủ quan, tức là do chủ thể
thực hiện việc báo cáo số liệu thống kê. Tuy nhiên, trên thực tế, trong công tác
chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan Viện kiểm sát,
hiện nay, thống kê hình sự nói chung, thống kê tội danh đã xét xử nói riêng đóng
góp không nhỏ trong công tác đánh giá thực tiễn THTP, hiệu quả hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm cũng như hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền. Bởi, ngoài thống kê số liệu tội danh đã xét xử, cơ quan Viện kiểm
sát cũng thống kê các số liệu khác như: tin báo tố giác tội phạm, kiểm sát điều tra,
khởi tố vụ án,án đình chỉ, tạm đình chỉ, án hủy, …Với thẩm quyền, trách nhiệm
được quy định trong Điều 34 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cơ quan Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã nghiên cứu và ban hành Hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ thống
kê hình sự để thu thập, tổng hợp đáp ứng công tác chuyên môn đánh giá hiệu quả
hoạt động đấu tranh phòng, chống, ngăn ngừa và dự báo tình hình tội phạm trong
tương lai cho các cấp lãnh đạo và quản lý.
Đối với phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả nghiên cứu phần hiện
của tội phạm, sử dụng số liệu thống kê tội danh đã xét xử hình sự sơ thẩm giai đoạn
14
từ năm 2015 đến năm 2019.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của thống kê các tội danh đã xét xử
1.2.1. Khái niệm
Thông tin và vai trò của thông tin là cách nhìn tổng quan của việc nghiên
cứu những vấn đề có tính lý luận về thống kê nói chung và thống kê tội phạm nói
riêng.
Thống kê là khoa học nghiên cứu hệ thống, phương pháp (thu thập, xử lý,
phân tích) con số (mặt lượng) của các hiện tượng số lớn tìm bản chất và tính quy
luật (mặt chất) trong những điều kiện nhất định [31, Tr.10].
Thông tin và thống kê có mối quan hệ thống nhất, mật thiết với nhau. Thống
kê vừa là một dạng hoạt động thông tin vừa là phương pháp của công tác thông tin.
Thống kê được hiểu theo hai nghĩa: Động giới từ và danh từ “1. Động giới từ: Thu
thập số liệu về một hiện tượng, sự việc nào đó; 2. Danh từ: Thống kê học, nói tắt:
Cán bộ thống kê" [11, tr.9].
Khoa học thống kê là khoa học về thu thập, phân tích, diễn giải và trình bày
các dữ liệu để từ đó tìm ra bản chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế, xã
hội - tự nhiên.
Khoa học thống kê dựa vào lý thuyết thống kê, một loại toán học ứng dụng.
Trong lý thuyết thống kê, tính chất ngẫu nhiên và sự không chắc chắn có thể làm
mô hình dựa vào lý thuyết xác suất. Vì mục đích của khoa học thống kê là để tạo ra
thông tin "đúng nhất" theo dữ liệu có sẵn, có tác giả nghiên cứu nhìn khoa học
thống kê như một loại lý thuyết quyết định. Thống kê được nhìn nhận như là một
trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, cung cấp các thông tin thống kê
trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong việc đánh giá, dự báo tình
hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân.
Không khác gì so với các ngành, lĩnh vực khoa học khác, lĩnh vực khoa học
hình sự cũng sử dụng thống kê như là công cụ pháp lý xây dựng cơ sở dữ liệu về
những hành vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án
15
hình sự phục vụ trong công tác nghiên cứu khoa học, xác định những nguyên nhân,
điều kiện vi phạm pháp luật hình sự và tội phạm, góp phần đưa ra những nhận định,
đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm; mặt khác, là nền tảng cơ sở để tham mưu
cho Đảng và Nhà nước đề ra các chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tội
phạm và góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.[45, tr 5]
Về thống kê hình sự:
Trong khoa học tội phạm học hiện đại và trong cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm không nghiên cứu trực tiếp về khoa học thống kê hình sự, mà chỉ
coi thống kê hình sự với tư cách là phương pháp nghiên cứu. Do vậy, chưa thấy
công trình khoa học nào có định nghĩa về thống kê hình sự. Thống kê hình sự giúp
cho việc nghiên cứu tình hình tội phạm hiện và tội phạm ẩn. Phạm vi nghiên cứu
của tội phạm học có cả phạm vi tình hình tội phạm hiện và tội phạm ẩn. Do đó,
thống kê hình sự phải đáp ứng phạm vi nghiên cứu của tội phạm học. Tình hình tội
phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay
từng loại tội phạm. Trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một
địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới. Trong một khoảng
thời gian nhất định [9, tr.24].
Thống kê hình sự phải góp phần làm rõ các vấn đề chung và các vấn đề cụ
thể sau đây:
- Về các vấn đề chung: Đặc điểm lịch sử của tình hình tội phạm; đặc điểm xã
hội của tình hình tội phạm; đặc tính thay đổi theo thời gian của tình hình tội phạm;
đặc tính giai cấp của tình hình tội phạm; đặc tính pháp luật hình sự của tình hình tội
phạm.
- Các vấn đề cụ thể: Số liệu chung về tội phạm; số liệu các tội phạm đã bị phát
hiện xử lý; số liệu về tội phạm ẩn; cơ cấu tội phạm; động thái tội phạm; hậu quả tội
phạm; dự báo tội phạm.
Trong thống kê hình sự phân loại thống kê (hay việc xác định đơn vị thống
kê) là hết sức quan trọng. Có thể dựa vào các kiểu phân loại sau đây để xác định
16
đơn vị thống kê tội phạm:
Thứ nhất, phân loại tội phạm theo tiêu thức chất lượng.
1- Theo tiêu thức pháp luật hình sự.
a) Theo mức độ nguy hiểm cho xã hội.
b) Dựa theo những chương và những điều của phần riêng BLHS.
c) Dựa theo hình thức lỗi.
d) Dựa theo tính chất hình phạt.
2- Theo tiêu thức của tội phạm học
a) Theo lĩnh vực kinh tế quốc dân và quản lý nhà nước.
b) Theo địa bàn.
c) Theo thiệt hại đã gây ra.
d) Theo địa điểm và thời gian phạm tội.
đ) Theo động cơ phạm tội.
e) Theo thủ đoạn và công cụ phạm tội.
g) Theo nguyên nhân trực tiếp của tội phạm.
Thứ hai, phân loại tội phạm theo tiêu thức số lượng.
1- Dựa theo thời hạn bị tù.
2- Dựa theo số lượng tiền án của bị can, bị cáo.
3- Dựa theo số người tham gia tội phạm.
4- Dựa theo lứa tuổi của những người phạm tội [9, tr.32].
Thống kê tư pháp là một bộ phận của thống kê xã hội, qua đó nó phản ánh
tình hình tội phạm và các vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội, thái độ xử lý của
Nhà nước đối với các vi phạm đó. Đồng thời nó cũng phản ánh các hiện tượng tranh
chấp trong nhân dân và việc giải quyết các tranh chấp đó. Thống kê tư pháp là một
bộ phận của thống kê xã hội nhưng quan hệ rất mật thiết, và tác động qua lại với
thống kê kinh tế. Chẳng hạn như thống kê các tội phạm trong hoạt động kinh tế,
hoặc thống kê các tranh chấp hợp đồng kinh tế, thống kê việc xét xử của Tòa án
trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động của các tổ chức kinh doanh nước ngoài và tình
hình tranh chấp của họ trước toà án; đời sống dân cư và mối quan hệ của nó với tình
17
hình phạm tội. [46, tr.4].
Khái niệm thống kê tư pháp, theo Nguyễn Duy Hồng cùng các đồng tác giả cho
rằng: “Thống kê tư pháp là việc đo lường đánh giá tình hình tội phạm, các vi phạm pháp
luật, cũng như các tranh chấp xảy ra và việc xử lý của Nhà nước đối với các tội phạm, các
vi phạm và các tranh chấp đó” [12, tr.9].
Theo đó, đối tượng nghiên cứu của thống kê tư pháp trước hết là nghiên cứu
về tình hình vi phạm pháp luật. Tức là nắm được số lượng các vụ vi phạm pháp lụât,
số lượng chủ thể vi phạm pháp luật nói chung cũng như số lượng chủ thể vi phạm
pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể, phải chỉ ra cơ cấu và sự biến động của tình
hình vi phạm pháp luật. Thống kê tư pháp không đơn thuần chỉ nghiên cứu mặt
lượng của tình hình vi phạm pháp luật mà nó nghiên cứu mặt lượng trong mối liên
hệ với mặt chất của tình hình vi phạm pháp luật. Thống kê tư pháp không trực tiếp
nghiên cứu từng hành vi cụ thể mà nó nghiên cứu một tập hợp số lớn các hành vi vi
phạm pháp luật. Chỉ trên cơ sở nghiên cứu một tập hợp số lớn các hành vi vi phạm
pháp luật cụ thể thì các tác động ngẫu nhiên, cá biệt của từng hành vi vi phạm pháp
luật cụ thể mới bị bù trừ triệt tiêu nhau, mặt bản chất tất nhiên của tình hình vi phạm
pháp luật mới được bộc lộ. Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật, thống kê tư pháp
luôn đặt nó trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể [12, tr.9].
Thống kê hình sự là một bộ phận quan trọng nhất của thống kê tư pháp và là
một trong những phương tiện chủ yếu của môn học về tội phạm (tội phạm học:
Criminolo-gie) và môn học về hình pháp (hình pháp học: criminalistique).
Thống kê hình sự phản ánh mặt số lượng của các hiện tượng tội phạm trong
xã hội và bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu đó, phản ánh
mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của hiện tượng, tức là những đặc điểm và
điều kiện, nguyên nhân gây ra tội phạm, từ đó đề ra những giải pháp lâu dài hoặc
trước mắt. Về vấn đề này, thống kê hình sự như là một trong những phương tiện chủ
yếu của tội phạm học.
Thống kê hình sự phản ánh mặt số lượng của các hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm) và bằng phương pháp phân tích, tổng
18
hợp, so sánh các số liệu đó, phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, mối liên quan giữa hai mặt, đưa ra những biện pháp hoàn thiện các
quá trình tố tụng, nâng cao hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử.
Yểm trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn có các hoạt động giám
định, công chứng, bào chữa, thi hành án…, là một bộ phận không thể thiếu của quá
trình tố tụng, cũng là một bộ phận hợp thành hữu cơ, đều được phản ánh vào thống
kê hình sự.
Về mặt này, thống kê hình sự như là một phương tiện trong những phương
tiện chủ yếu của hình pháp học. [46, tr.10].
Về khái niệm thống kê tội phạm là hoạt động điều tra, báo cáo, tổng hợp, phân
ích và công bố các thông tin về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự trong các giai đoạn: giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [12, tr.14-15].
Thống kê tội danh đã xét xử cũng là một phần trong các nội dung của thống
kê hình sự. Từ những khái niệm và phân tích nêu trên có thể hiểu: “Thống kê tội
danh đã xét xử là thống kê tội phạm bắt đầu từ khi Tòa án quyết định một người nào
đó là có tội, phải chịu hình phạt và bản án có hiệu lực pháp luật”
1.2.2. Ý nghĩa
Các số liệu thống kê kết quả xử lý tội phạm đặc biệt là thống kê tội danh đã
xét xử qua các giai đoạn tố tụng, kể cả thống kê tội phạm về mặt lượng và về mặt
chất giúp cho việc kiểm soát tội phạm. Đồng thời, theo dõi, đánh giá được năng lực,
khả năng điều tra, xử lý với tội phạm của các cơ quan tư pháp, mức độ chi phí cho
việc đấu tranh với tội phạm, mức độ thiệt hại về tinh thần, vật chất do tội phạm gây
ra cũng như nguyên nhân, bất cập, hạn chế của các cơ quan tư pháp hình sự. Các số
liệu thống kê tội phạm có liên quan mật thiết đến việc đề ra các phương hướng, giải
pháp cải cách tư pháp hình sự cả về thể chế, bộ máy và lực lượng cán bộ, công chức
trong các cơ quan tư pháp. Nhằm đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm.
Kết quả thống kê tội danh đã xét xử cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh về
19
tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm định
lượng (tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội - con số phản ánh mức độ
nghiêm trọng của tội phạm đã được định tội) mà còn thể hiện cả đặc điểm định tính
(các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này
phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra). “Bức tranh” toàn cảnh về
tội phạm đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra mà
còn thể hiện cả diễn biến (tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như
về tính chất) của tình trạng này.
Thống kê tội danh đã xét xử không chỉ mô tả “bức tranh tội phạm” mà dựa
vào đó để phân tích, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh
giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra - nghiêm trọng về
mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất. Chính vì vậy, việc thống kê tội danh đã
xét xử là nhằm để giúp cho việc nắm chắc được tổng số các tội phạm xảy ra, số
lượng người đã thực hiện các tội phạm đó trong khoảng thời gian nhất định và ở địa
bàn nhất định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Mặt khác, qua số liệu thống kê tội danh đã xét xử có thể đánh giá được diễn
biến, tính chất của từng loại tội phạm tăng hoặc giảm để từ đó hoàn thiện các chính
sách pháp luật hình sự, sửa đổi bổ sung chính sách được kịp thời, phù hợp.
Do vậy, muốn đánh giá được tình hình tội phạm một cách chính xác, khách
quan để có số liệu phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thì phải
nâng cao chất lượng thống kê tội phạm. Yêu cầu thống kê tội phạm phải thống kê
được đầy đủ tình hình tội phạm và kết quả đấu tranh phòng và chống tội phạm của
các cơ quan tư pháp để từ đó Đảng và Nhà nước có chính sách phòng và chống tội
phạm hiệu quả, kịp thời.
1.3. Mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội
phạm
Tội phạm và THTP phát sinh trong xã hội là một lực lượng vất chất tồn tại
khách quan, khác với vật chất ở dạng cụ thể. THTP thể hiện trong số liệu thống kê
20
tội danh đã xét xử không phải là một lực lượng vật chất bất biến mà nó chuyển hóa
ở dạng này sang dạng khác và có thể cải tạo được nó, có thể hạn chế, triệt tiêu hoặc
loại bỏ các điều kiện và nguyên nhân phát sinh ra nó.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang bản chất giai cấp và có tính xã
hội. Tình hình tội phạm xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, nó là một hiện
tượng ở trạng thái “động”, thường xuyên biến đổi, vận động, phát triển theo quy
luật của nó. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực, mang tính nguy hiểm cao độ xâm
phạm đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xâm phạm đến chế
độ chính trị, nền kinh tế, văn hóa, quốc phòng an ninh, ngoại giao, xâm phạm đến
lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích tập thể, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và
các lĩnh vực trật tự pháp luật khác. Sự tồn tại của tội phạm được coi là lực lượng vật
chất, tồn tại khách quan ngoài ý chí của Nhà nước, mong muốn của con người. Đấu
tranh phòng và chống tội phạm với việc đề ra các biện pháp nhằm ngăn chặn, loại
trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm bằng các chủ trương, chính
sách, pháp luật hình sự (thuộc phạm trù ý thức) để từ đó đề ra các biện pháp kinh tế,
xã hội, tư tưởng, pháp lý nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm.
THTP là một lực lượng vật chất tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật
khách quan, nó quyết định các biện pháp phòng và chống tội phạm của Nhà nước.
Tuy nhận thức về hiện tượng tội phạm, THTP và hoạt động đấu tranh phòng và
chống tội phạm phải xuất phát từ thực tế khách quan; từ những nguyên nhân, điều
kiện, hoàn cảnh, những tiền đề có sẵn và từ những tội phạm đơn lẻ đến tổng số các
tội phạm là tình hình tội phạm. Thống kê về nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội
phạm giúp cho việc nhận thức về hiện tượng tội phạm một cách chân thực, đúng
đắn. Đặc biệt là nhận thức về tính nguy hiểm của tội phạm, hậu quả đã và sẽ xảy ra
để tránh được tâm lý, ý chí chủ quan. Thống kê tội danh đã xét xử nhìn thẳng vào sự
thật, phản ánh đúng sự thật về THTP. Thống kê tội danh đã xét xử là cơ sở cho nhận
thức về THTP khách quan và cơ sở thực tiễn cho việc đề ra các biện pháp phòng
ngừa xác thực, phù hợp nhằm ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra. Đồng thời,
21
có biện pháp để xử lý, răn đe giáo dục, cải tạo tội phạm và ngăn chặn việc tái phạm.
Thống kê tội danh đã xét xử không chỉ là liệt kê về số lượng tội phạm mà
còn thống kê về mặt “chất” của tội phạm. Trong đó, việc chỉ ra các nguyên nhân
dẫn đến hành vi phạm tội của con người trong xã hội. Nguyên nhân phạm tội và
hành vi phạm tội là mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân nào thì hậu quả đó. Có
những nguyên nhân phổ biến của tình hình tội phạm, bao gồm những nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan của tội phạm
chứa đựng ngay trong thân nhân của tội phạm, như: Lòng tham, tính ích kỷ cá
nhân, trình độ nhận thức xã hội và thiếu hiểu biết về xã hội; họ không biết đó là
đúng, sai, thiện, ác… Nguyên nhân khách quan là mặt trái của cơ chế thị trường,
hiện tượng cạnh tranh, vì lợi nhuận trên hết dẫn đến cạnh tranh không lành
mạnh, hiện tượng đầu cơ tích trữ, lừa đảo đối tác, lừa dối khách hàng, hủy hoại
môi trường… bất chấp pháp luật. Nguyên nhân khách quan còn là hậu quả của hệ
thống giáo dục, trình độ của nền văn minh xã hội, sự thiếu trách nhiệm của gia
đình đối với con cái, nhà trường đối với học sinh...
Thống kê tội phạm chỉ ra từ những điều kiện phạm tội có tính đơn lẻ đến
các điều kiện phổ biến của tội phạm để có biện pháp khắc phục các điều kiện đó,
làm cho tội phạm không có điều kiện thực hiện tội phạm hoặc không cho tội phạm
thực hiện đến cùng. Tội phạm và tình hình tội phạm là sản phẩm của xã hội, nó tồn
tại trong những hoàn cảnh và điều kiện nhất định. Điều kiện phạm tội của mỗi loại
tội phạm có những điều kiện chung và điều kiện cụ thể trong hoàn cảnh, môi trường
xã hội cụ thể. Có thể nêu một số các điều kiện phạm tội trong thực tiễn mà thống kê
tội phạm đã phản ánh, như: những kẽ hở của pháp luật, bất cập khiếm khuyết của cơ
chế chính sách, sự lỏng lẻo về quản lý Nhà nước, thiếu sự kiểm tra, giám sát, việc
quản lý nhân khẩu lỏng lẻo, sự chủ quan, mất cảnh giác của người có tài sản, thiếu
các biện pháp bảo vệ tài sản chặt chẽ, không tiến hành các biện pháp kê khai tài sản
cá nhân cán bộ công chức… Nói một cách tổng quát, các vấn đề xã hội như: Sự
nghèo đói ở một bộ phận dân cư, các loại tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, mê tín
dị đoan, các điều kiện của an sinh xã hội thấp kém, môi trường đạo đức xuống cấp,
22
nạn thất nghiệp, trình độ dân trí thấp… là điều kiện, tác nhân phát sinh tội phạm.
Mô tả và phân tích thống kê tội danh đã xét xử trong nghiên cứu tình hình
tội phạm không phải chỉ để biết những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải
thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời
gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm
1.4. Nội dung thống kê các tội danh đã xét xử
Nội dung của thống kê tội danh đã xét xử nói chung bao gồm 2 nhóm:
- Nhóm thứ nhất gồm các loại số liệu đánh giá về tình hình tội phạm.
- Nhóm thứ hai gồm các loại số liệu phản ánh kết quả xét xử tội phạm của
Tòa án.
Hai nhóm số liệu trên có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau trong hoạt động
thống kê tội phạm (thu thập thông tin thống kê, tổng hợp, phân tích).
Thứ nhất, nhóm số liệu phản ánh về tình hình tội phạm phục vụ trực tiếp cho
công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Thông qua việc phân tích các số liệu thống kê về các tội phạm xảy ra, số người
phạm tội, tính chất, mức độ của tội phạm gây ra, địa bàn và thời gian phạm tội,
phương tiện gây án, nạn nhân và các đối tượng bị xâm hại... các cơ quan bảo vệ
pháp luật có thể nhận biết được tính chất, mức độ của tình hình tội phạm, các quy
luật phổ biến của tội phạm xảy ra để từ đó đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng và
chống thích hợp với từng loại đối tượng phạm tội, tại những địa bàn trong từng thời
điểm để tập trung lực lượng, phương tiện nhằm đấu tranh phòng và chống với tội
phạm phù hợp, hiệu quả. Những số liệu về kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan
bảo vệ pháp luật kết hợp với số liệu về tình hình tội phạm là những căn cứ, cơ sở
khách quan để đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, nhóm số liệu phản ánh về tình hình phạm tội gồm:
- Số liệu phản ánh về mặt lượng của tình hình tội phạm: lànhững số liệu phản
ánh về toàn bộ các tội phạm đó xảy ra và số người thực hiện các tội phạm đó.
Những số liệu này nếu được xem xét trong sự vận động và biến đổi theo thời gian
đối với từng đơn vị hành chính cụ thể như cấp huyện, cấp tỉnh, thành phố hay trên
phạm vi toàn quốc sẽ cho thấy rõ những biến động (hay gọi là động thái) của tình
23
hình tội phạm. Do vậy, muốn thu thập được đầy đủ tình hình tội phạm thì cần phải
thống kê được các loại thông tin, số liệu về những tin báo tố giác tội phạm và kết
quả điều tra, truy tố, xét xử (đặc biệt thống kê đầy đủ các tội danh đã xét xử theo vụ
án, bị cáo) về các tội phạm này của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Số liệu phản ánh về mặt chất của tình hình tội phạm (cơ cấu và tính chất
của tình hình tội phạm): là những số liệu phản ánh mặt sâu kín bên trong (mặt nội
dung) của tình hình tội phạm, thể hiện bằng cơ cấu và tính chất, mức độ của tình
hình tội phạm.
Xuất phát từ mục đích của thống kê tội phạm là cung cấp những thông tin
chính xác, khách quan về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm cũng như
tình hình hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ có hiệu quả cho
công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thì thống kê tội phạm phải đảm bảo thu
thập, tổng hợp được đầy đủ các số liệu cơ bản như sau:
- Số liệu về tội phạm và người phạm tội: được thu thập và thống kê theo
những tội danh cụ thể, theo các chương tội phạm của BLHS tại những đơn vị hành
chính cụ thể và thời gian nhất định.
- Số liệu về người phạm tội phải được phân tích cụ thể theo giới tính, độ tuổi,
nghề nghiệp, trình độ học vấn, dân tộc, tôngiáo và một số đặc điểm khác về thân
nhân có liên quan đến tội phạm như: hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế…
- Số liệu về tính chất của tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng , đặc biệt nghiêm trọng) do hành vi của người phạm tội thực hiện; có đồng phạm
hay phạm tội đơn lẻ.
- Số liệu về động cơ, mục đích phạm tội, yếu tố lỗi..
- Số liệu về mức độ hậu quả và những thiệt hại do tội phạm gây ra (tài sản, số
người chết, bị thương...).
- Số người phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm .
- Số liệu về hình phạt cụ thể đã áp dụng.
- Số liệu về áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người phạm tội.
- Số liệu về đối tượng bị hại (Đối tượng bị hại là những tập thể, cá nhân bị
thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần do những hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên,
24
thống kê tội danh đã xét xử không thống kê những thiệt hại về mặt tinh thần do tội
phạm gây ra vì những thiệt hại đó không lượng hóa được, do đó rất khó thống kê).
Thống kê đối tượng bị hại có tác dụng to lớn trong việc xác định đúng tính chất,
mức độ, tác hại do các vi phạm và tội phạm gây ra cho tập thể, cá nhân và cho toàn
xã hội. Qua đó có thể xác định được những loại đối tượng nào thường bị xâm hại, từ
đó đề ra phương hướng, giải pháp bảo vệ và phòng chống nhằm ngăn ngừa tội phạm
đạt hiệu quả cao.
Nhóm số liệu phản ánh kết quả xét xử tội danh:
- Số liệu về họat động xét xử (từ giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm): Số vụ, số bị cáo phải xét xử, đã xét xử, chưa xét xử, đình chỉ xét
xử, tạm đình chỉ; số bản án bị kháng nghị; số bị cáotuyên không phạm tội, mức án
đối với từng bị cáo...
Từ các số liệu này cho biết được các thông số sau:
- Tỷ lệ số vụ án/ bị cáo đã được xét xử trên tổng số vụ án/ bị cáo đã được thụ lý.
- Tỷ lệ số vụ án/ bị cáo đã được xét xử tăng hay giảm so với năm trước.
- Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là tăng hay giảm so với năm trước hoặc
các năm.
- Tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa là tăng hay giảm so với năm trước hoặc
các năm.
Đây chính là các thông số đánh giá hiệu quả, chất lượng công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng và là kết quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Tóm lại, để nghiên cứu đánh giá tình hình tội phạm có nhiều thông số để
đánh giá, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ phân tích diễn biến, động
thái số liệu về tội phạm và người phạm tội được thu thập và thống kê theo những tội
danh cụ thể, theo các chương tội phạm của BLHS tại những đơn vị hành chính (cấp
tỉnh, và toàn quốc) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019.
25
Kết luận Chương 1
Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực có phát sinh có phát triển và tiêu
vong. Việc nghiên cứu tình hình tội phạm và thống kê tội phạm, trong đó có thống
kê các tội danh đã xét xử chiếm vị trí quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng,
chống tội phạm. Việc thống kê các tội danh đã xét xử không chỉ có ý nghĩa là cơ sở
để đánh giá về chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,
đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm ở thời điểm
hiện tại mà còn mang nhiều ý nghĩa khác trong đánh giá, xây dựng, thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc phát triển đất nước.
Trong phạm vi chương 1, tác giả đã làm rõ lý luận về chỉ số tình hình tội
phạm, lý luận về thống kê tội danh đã xét xử, nội dung thống kê các tội danh đã xét
xử, và phân tích mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội
phạm. Việc nghiên cứu dưới góc độ lý luận về thống kê các tội danh đã xét xử là cơ
sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu, phân tích nội dung Chương 2: Thực
26
trạng thống kê các tội danh đã xét xử ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chương 2.
THỰC TRẠNG THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
2.1. Cơ sở của thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát
nhân dân hiện nay
2.1.1. Cơ sở pháp lý
Công tác thống kê tội phạm của VKSND được quy định tại Điều 6 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 “công tác thống kê tội phạm thuộc các công tác khác của
VKSND” và Điều 34 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định như sau:“1.
VKSND có trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu
quan trong việc thống kê hình sự. 2. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp
với VKSND trong việc thống kê tội phạm”. Mặt khác, theo quy định tại Điều 3 (Giải
thích từ ngữ) của Luật Thống kê năm 2015 quy định:“1. Báo cáo thống kê là mẫu
biểu và hướng dẫn ghi chép mẫu biểu để thu thập dữ liệu, thông tin thống kê về đối
tượng nghiên cứu cụ thể theo phương pháp khoa học, thống nhất trong một thời kỳ
nhất định.2. Chế độ báo cáo thống kê là những quy định và hướng dẫn do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành...” và khoản 2, Điều 12 Luật Thống kê năm
2015 thì Hệ thống thông tin thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân thuộc Hệ thống
thông tin thống kê nhà nước (Nhóm trật tự, an toàn xã hội và tư pháp trong Danh
mục chỉ tiêu thống kê quốc gia). Ngoài ra còn một quy định như sau: “Thông tư liên
tịch số 05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự”; Phiếu thống
kê tội phạm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm(ban hành theo Quyết định số 168/QĐ-
VKSTC-TKTP ngày 23/3/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao;Quyết định số 188/QĐ-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát
27
nhân dân tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong
ngành Kiểm sát nhân dân;Quyết định số 560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp
luật trong hoạt động tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân.
2.1.2. Cơ cấu về tổ chức bộ máy và phương pháp thu thập, thống kê xét xử
các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân
2.1.2.1. Cơ cấu về tổ chức bộ máy
Trên cơ sở đó, cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ thực hiện công tác thống kê
được thành lập và quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trong ngành
Kiểm sát nhân dân thông qua các Quyết định ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của các đơn vị thuộc VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh,
VKSND cấp huyện và các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự
các cấp.Vị trí pháp lý cụ thể như sau:
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện:
Ngày 20/11/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động của Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin (Ban hành kèm theo
Quyết định số 19/QĐ-VKSTC-C2). Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin
là đơn vị thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao (Cục 2). Cục 2 có nhiệm vụ,
quyền hạn giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện các công tác sau:Theo dõi,
quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra nghiệp vụ thống kê và ứng dụng công nghệ
thông tin của các đơn vị trong ngành Kiểm sát nhân dân; thống kê kết quả hoạt động
của ngành Kiểm sát nhân dân; chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan
khác trong việc thống kê hình sự; xây dựng kế hoạch, thực hiện các hoạt động công
nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân; quản trị hạ tầng mạng máy tính và
phần mềm dùng chung trong ngành Kiểm sát nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ,
28
quyền hạn khác do Viện trưởng VKSND tối cao giao.
Ngày 22/12/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy định Cơ cấu bộ
máy làm việc, cơ cấu lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức của VKSND các
cấp (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC-V15, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2016). Theo quy định này, “Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông
tin” được thành lập ở VKSND cấp tỉnh; đối với VKSND cấp huyện, công tác thống
kê được cơ cấu trong Bộ phận Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành
Trung ương về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và yêu cầu công tác trong
tình hình mới, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã ban hành nhiều nghị quyết triển
khai thực hiện, như: Nghị quyết số 30-NQ/BCSĐ ngày 07/7/2017, Nghị quyết 65-
NQ/BCSĐ ngày 04/5/2018 về việc kiện toàn sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy làm
việc cấp phòng thuộc VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày
01/6/2020, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy định Cơ cấu bộ máy làm
việc, cơ cấu lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức của VKSND các cấp (Ban
hành kèm theo Quyết định số 189/QĐ-VKSTC ngày 01/6/2020, có hiệu lực kể từ
ngày ký và thay thế Quyết định số 03/QĐ-VKSTC-V15 ngày 22/12/2015 của Viện
trưởng VKSND tối cao); ngày 17/6/2020, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của VKSND cấp cao (Ban hành kèm theo Quyết định
số 200/QĐ-VKSTC). Theo đó, tại VKSND tối cao có Cục Thống kê tội phạm và
Công nghệ thông tin (Cục 2); tại VKSND cấp cao vẫn giữ nguyên “Phòng Tham
mưu tổng hợp, Thống kê và Công nghệ thông tin”thuộc Văn phòng VKSND cấp
cao; tại VKSND cấp tỉnh, công tác thống kê được cơ cấu trong nhiệm vụ công tác
của Văn phòng tổng hợp (Không còn Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ
thông tin); tại VKSND cấp huyện, công tác thống kê được cơ cấu trong nhiệm vụ
công tác của Bộ phận hoặc Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát giải
quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Như vậy, sau khi thực hiện sáp
29
nhập Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin của VKSND cấp tỉnh, hiện
nay công tác thống kê được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng
tổng hợp VKSND cấp tỉnh; đối với VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp
huyện vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức bộ máy, công chức làm công tác thống kê như
trước đây.
- Đối với Viện kiểm sát quân sự các cấp:
Thực hiện theo Quyết định số 64/QĐ-VKSTC-V15 ngày 25/9/2015 của Viện
trưởng VKSND tối cao về việc quy định cơ cấu tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền
hạn và quan hệ công tác của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát
quân sự các cấp; cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ thực hiện công tác thống kê được
quy định rõ:
+ Tại Viện kiểm sát quân sự Trung ương, nhiệm vụ thống kê được giao
choVăn phòng Viện kiểm sát quân sự trung ương: Phối hợp với các cơ quan tư pháp
trong Quân đội thực hiện việc thống kê hình sự, thống kê tội phạm; thực hiện việc
thống kê số liệu kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân sự; theo dõi, quản lý,
hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra về nghiệp vụ thống kê hình sự, thống kê tội phạm và
thống kê kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp; sơ kết, tổng kết công
tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm.
+ Tại Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, nhiệm vụ thống kê
được giao cho Ban kế hoạch tống hợp - hành chính: Phối hợp với các cơ quan hữu
quan thực hiên việc thống kê hình sự, thống kê tội phạm, thống kê số liệu, kết quả
hoạt động của Viện kiểm sát quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu
vực trực thuộc; theo dõi, quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra về nghiệp vụ
thống kê hình sự, thống kê tội phạm và kết quả hoạt động của Viện kiểm sát quân
sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực; sơ kết, tổng kết công
tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm theo thấm quyền.
+ Tại Viện kiêm sát quân sự khu vực, nhiệm vụ thống kê được giao cho Bộ
30
phận kế hoạch tổng hợp - hành chính.
Tại mỗi cấp kiểm sát, các đơn vị được giao thực hiện công tác thống kê
(trong đó có thống kê xét xử các vụ án hình sự) chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp
và quản lý số liệu thống kê tại cấp mình; đồng thời truyền, gửi báo cáo thống kê lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp để tổng hợp, quản lý thống nhất theo Chế
độ báo cáo thống kê do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định. Riêng
về Viện kiểm sát quân sự có sĩ quan làm công chức thống kê chuyên trách tại Viện
kiểm sát quân sự trung ương và sĩ quan làm công tác thống kê không chuyên trách
tại mỗi cấp (Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Viện kiểm sát quân sự khu vực...); các sĩ quan làm công tác thống kê tại Viện kiểm sát quân sự trung ương có
trách nhiệm thu thập, tổng hợp và quản lý số liệu thống kê thuộc hệ thống Viện
kiểm sát quân sự, sau đó gửi báo cáo thống kê về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin). Cục Thống kê tội phạm và Công
nghệ thông tin thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là đơn vị chuyên trách làm
công tác thống kê, có trách nhiệm tổng hợp, phân tích, quản lý và chia sẻ số liệu
thống kê của toàn quốc trên cơ sở báo cáo thống kê của các đơn vị nghiệp vụ, Viện
kiểm sát các cấp và Viện kiểm sát quân sự trung ương truyền, gửi về.
Về nguyên tắc, số liệu thống kê của đơn vị nào do đơn vị đó quản lý. Tại
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao chỉ quản lý số
liệu thống kê của cấp mình, còn Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát
quân sự trung ương có trách nhiệm quản lý cả số liệu thống kê của cấp mình và cấp
dưới, VKSND tối cao quản lý số liệu thống kê của toàn quốc (đến tận Viện kiểm sát
cấp huyện).
Tổ chức thống kê ngành Kiểm sát nhân dân (trong đó có công tác thống kê
thống kê xét xử các vụ án hình sự) được thể hiện tại mô hình sau đây:
CôC TKTP& CNTT (vKSND Tèi cao)
§¬n vÞ nghiÖp vôthuéc vksnd tèi cao
(Vô, Côc)
VKS qu©n sù trung ¬ng
Bé PHËN THèNG K£ Vµ & CNTT THUéC V¡N PHßNG (vKSND CÊP TØnh)
V¨n phßng (vKSND cÊpcao)
Phßng nghiÖp vô Thuéc vksnd CÊP tØnh
Vks QU¢N Sù cÊp qu©n khu
Bé phËn nghiÖp vô Thuéc vksndCẤPhuyÖn
VKS qu©n sù khu vùc
ViÖn nghiÖp vôTHUỘC VKSND cÊp cao
Bé PHËN TKTP& CNTT (vKSND CÊP huyÖn) 31
Thống kê số liệu xét xử trong các vụ án hình sự cũng sẽ thực hiện theo quy định (mô hình) này.
2.1.2.2. Phương pháp thu thập thống kê
Thống kê hình sự, thống kê các tội danh đã xét xử cũng giống như bất
kỳ một ngành thống kê nào khác là cả một quá trình từ việc xác định mục
đích, yêu cầu của công tác thống kê hình sự, xác định các khái niệm, chỉ tiêu
thống kê, đến việc thu thập số liệu, xử lý số liệu (trình bày số liệu, phân tích
sơ bộ, tổng hợp số liệu...), phân tích số liệu (đã được tổng hợp), công bố và sử
dụng, khai thác số liệu.... Sau đây là những trình tự cụ thể:
- Xác định thật chính xác mục đích, yêu cầu của công tác thống kê tội
danh đã xét xử (gọi chung là thống kê hình sự) trong từng thời điểm nhất
định. Phân tích đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu của công tác thống
kê hình sự .... Từ đó, sẽ lựa chọn phương pháp thu thập và phương pháp tổng
hợp số liệu thống kê. Hiện nay, phương pháp thu thập là phương pháp thu
nhận (ghi chép) hàng ngày, theo dõi, tích luỹ dần dần các nội dung, dữ liệu
cần thống kê vào các sổ thụ lý của các khâu công tác nghiệp vụ. Phương pháp
tổng hợp là từ các sổ thụ lý, tập hợp các kết quả thống kê theo yêu cầu chỉ
đạo và quản lý của các cấp lãnh đạo, theo thời gian, theo địa bàn và theo các
mẫu báo cáo thống kê đã được xây dựng.
- Theo khoa học thống kê thì có ba phương pháp thu thập thống kê:
+ Phương pháp điều tra thống kê;
+ Phương pháp thu thập theo chế độ báo cáo thống kê định kỳ?
+ Phương pháp thu thập là điều tra thống kê kết hợp với báo cáo thống
kê định kỳ;
- Theo khoa học thống kê thì có ba phương pháp tổng hợp thống kê:
+ Tổng hợp tập trung
+ Tổng hợp từng cấp
+ Kết hợp tổng hợp tập trung với tổng hợp từng cấp.
32
Hiện nay, công tác thống kê hình sự trong ngành kiểm sát nhân dân
đang được thực hiện theo chế độ báo cáo định kỳ: hàng tháng, 6 tháng và 12
tháng (thu thập định kỳ) và việc tổng hợp số liệu thống kê được thực hiện
theo từng cấp kiểm sát. Nói cách khác là phương pháp tổng hợp số liệu thống
kê hiện nay đang áp dụng là tổng hợp từng cấp. Việc tổ chức thu thập số liệu
thống kê có mối quan hệ chặt chẽ với phương pháp thu thập số liệu thống kê.
Sau khi đã xác định rõ phương pháp thu thập số liệu thống kê là theo định kỳ,
việc tổ chức thu thập số liệu thống kê kiểm sát hình sự sẽ được Viện kiểm sát
nhân dân các cấp triển khai thực hiện một cách khoa học: Mở sổ sách để ghi
chép, theo dõi, thu thập số liệu ban đầu .... Tương tự, việc tổ chức tổng hợp
số liệu thống kê cũng liên quan chặt chẽ với phương pháp tổng hợp số liệu
thống kê. Đồng thời, việc tổ chức thu thập và việc tổ chức tổng hợp số liệu
thống kê cũng có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
- Xác định các khái niệm, chỉ tiêu thống kê, xem cần phải đưa vào từng
biểu mẫu thống kê những chỉ tiêu nào để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
công tác quản lý hiện tại theo quy định của pháp luật về hình sự hiện hành,
nhu cầu của công tác nghiên cứu .....
- Xây dựng, ban hành hệ thống biểu mẫu thống kê, hướng dẫn cách lập
các biểu mẫu thống kê.
- Phân tích, xử dụng số liệu thống kê ....
Việc tổ chức thu thập, tổng hợp, phân tích số liệu thống kê sẽ được
thực hiện ở cả bốn cấp kiểm sát, nhưng việc thực hiện này ở bốn cấp có
những sự khác nhau nhất định.
Trên cơ sở quy định của Luật Thống kê năm 2015, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là Quyết định số
560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
33
ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong ngành Kiểm sát
nhân dân, thời gian qua công tác thu thập, tổng hợp và quản lý số liệu thống kê
(trong đó có thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự) được thực hiện nghiêm túc
và đi vào nề nếp, hầu hết tất cả các chỉ số (tiêu chí) thống kê đều được thu thập,
tổng hợp và quản lý theo một chế độ báo cáo thống nhất, nên tính chính xác, tính
tính trung thực của số liệu được bảo đảm, cụ thể: Hàng tháng trên cơ sở ghi chép
của sổ thụ lý, sổ nghiệp vụ… cán bộ thống kê trích xuất, nhập số liệu vào phần
mềm của máy tính và lập nên biểu báo cáo thống kê (Biểu số 04/2019. Thống kê về
hình phạt đối với các bị cáo phạm tội bị xét xử sơ thẩm, Biểu số 10/2019. Thống kê
kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2019. Thống kê kết quả xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự và Biểu số /2019. Thống kê kết quả xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự); sau đó các đơn vị cấp huyện gửi, truyền số liệu
về cấp tỉnh và được tổng hợp theo đơn vị hành chính. Số liệu tổng hợp của đơn vị
cấp tỉnh và các Vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được truyền về
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin).
Trên cơ sở tính thống nhất và tính hệ thống được đảm bảo, số liệu thống kê nói
chung và thống kê xét xử các vụ án hình sự nói riêng kỳTháng, 6 tháng và 12 tháng
(năm) của các đơn vị truyền, gửi về; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê
tội phạm và Công nghệ thông tin) có trách nhiệm tổng hợp thông qua phần mềm
trên phạm vi toàn quốc.
Theo Chế độ báo cáo thống kê ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay (Quyết
định số 560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao ban hành Chế độ báo cáo thống kê Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp trong ngành
Kiểm sát nhân dân) cũng như các loại thống kê khác, thống kê tội danh đã xét xử áp
dụng phương pháp thống kê từ hồ sơ hành chính (thống kê từ hệ thống Sổ nghiệp
34
vụ) là chủ yếu, phương pháp điều tra xã hội ít được thực hiện, cụ thể:
- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tổng hợp số liệu từ
báo cáo thống kê của các bộ phận nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện.
- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tổng hợp số liệu từ
báo cáo thống kê của các Phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
và báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tổng hợp số liệu từ
báo cáo thống kê của các Viện nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
- Báo cáo thống kê của Vụ, Cục nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao tổng hợp số liệu từ báo cáo thống kê của các Phòng nghiệp vụ thuộc các Vụ,
Cục.
- Báo cáo thống kê của Viện kiểm sát quân sự trung ương tổng hợp số liệu từ
báo cáo thống kê của cấp mình và cấp dưới (Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu,
Viện kiểm sát quân sự khu vực).
- Trên cơ sở các báo cáo thống kê của các đơn vị và của Viện kiểm sát các
cấp truyền về, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cục Thống kê tội phạm và Công
nghệ thông tin) có trách nhiệm tổng hợp thành báo cáo thống kê chung của toàn
quốc.
Việc tổng hợp số liệu của Viện kiểm sát các cấp được thực hiện hoàn toàn tự
động bằng phần mềm thống kê nên quy trình thống kê này bảo đảm tính chính xác
cao. Phần mềm thống kê của ngành Kiểm sát còn cho phép lựa chọn số liệu theo
thời gian, theo địa phương và theo cấp...
Thống kê xét xử trong các vụ án hình sự cũng áp dụng quy trình, phương
35
pháp này.
2.1.3. Bộ tiêu chí thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân
dân
Công tác thống kê nói chung và thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự
được thực hiện song song với thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân (ngày 26/7/1960 -
thành lập ngành Kiểm sát nhân dân). Trong phạm vi Luận văn này, bản thân em chỉ
nêu các chỉ số (Bộ tiêu chí) thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự từ năm 2015
đến nay, cụ thể như sau:
Ngày 04/10/2013 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ
thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số
452/QĐ-VKSTC) áp dụng từ năm 2009, trong đó có Biểu số 03/2013. Thống kê kết
quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 09/2013.Thống kê kết
quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựcụ thể:
- Biểu số 03/2013. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự, gồm 8 tiêu chí, trong đó phân tổ theo tội danh, điều luật, số vụ án/ bị cáo
Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
- Biểu số 09/2013. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự,gồm 28 tiêu chí về thụ lý, giải quyết (xử lý) của Tòa án (xét xử, đình chỉ,
tạm đình chỉ)...
Ngày 06/4/2016 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ
thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số
188/QĐ-VKSTC) áp dụng từ năm 2009, trong đó có Biểu số 04/2016. Thống kê kết
quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2016. Thống kê
kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, cụ thể:
Ngày 13/11/2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hệ
thống biểu mẫu thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân (kèm theo Quyết định số
560/QĐ-VKSTC), trong đó có Biểu số 03/2019. Thống kê THQCT và KSXX sơ
36
thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 10/2019. Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, Biểu số 04/2019. Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự:
Tất cả các tiêu chí này được phân tổ theo tội danh và địa bàn phạm tội
(huyện, tỉnh).
2.2. Thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao
Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ cấu tổ chức bộ máy, nhất là xuất phát
từ phạm vi và phương pháp thu thập, về số liệu thống kê mà ngành Kiểm sát nhân
dân thu thập được là thống kê tất cả các tội danh (điều luật) mà người phạm tội bị
xét xử (bao gồm: xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và xem xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự) trên
phạm vi toàn quốc, trong đó còn phân tổ thêm theo chương (nhóm tội), thân nhân
của người phạm tội, phân loại tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng) và kết quả giải quyết của Tòa án các cấp cũng như
việc áp dụng hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo đã bị xét xử… theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do “điều kiện” quy định của Luận văn
không cho phép đưa tất cả các số liệu đã xét xử đối với người phạm tội mà trong
phạm vi Luận văn này, trên cơ sở rà soát Bộ Chỉ số thống kê xét xử các vụ án hình
sự, tác giả chỉ tập trung đánh giá, phân tích tình hình (vụ án/ bị cáo) phạm tội và bị
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thông qua kết quả số liệu do ngành Kiểm sát nhân
dân đã thu thập được trên phạm vi toàn quốc giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
(5 năm) với những nội dung cơ bản như sau:
2.2.1. Thống kê xét xử sơ thẩm
2.2.1.1. Số vụ án, bị cáo đã xét xử sơ thẩm
Tổng số đã xét xử trên toàn quốc từ năm 2015 đến năm 2019 là: 301.085 Vụ,
508.355 bị cáo
Số vụ án, bị cáo xét xử giữa các địa phương là rất khác nhau có địa phương
37
có số vụ án/ bị cáo xét xử cao, có địa phương rất thấp.
Bảng 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm theo từng năm, từng địa phương (từ
năm 2015 đến năm 2019)
Số vụ án, bị cáo đã xét xử sơ thẩm theo từng năm (Từ năm 2015 đến năm 2019)
Tên đơn vị
2015
2016
2017
2018
2019
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án
Bị cáo
TP. Hà Nội
5.835
9.986
6.510
10.520
6.047
10.083
6.604
11.448
6.290
10.499
Hà Giang
293
522
311
592
270
513
341
587
324
574
Cao Bằng
422
651
467
694
475
710
579
905
665
1.047
Bắc Kạn
386
634
328
438
314
528
321
455
333
463
Tuyên Quang
493
1.039
471
823
554
1.100
603
1.186
648
1.186
424
653
Lao Cai
508
778
430
654
466
689
492
754
920
1155
Điện Biên
661
881
918
1143
858
1136
869
1054
403
515
Lai Châu
526
800
610
878
500
683
393
547
Sơn La
1.137
1.785
1.328
1.905
1.415
2.005
1.538
2.158
1.382
1.969
464
806
Yên Bái
473
734
470
738
490
882
441
764
547
926
Hoà Bình
465
786
472
704
485
755
462
678
Thái Nguyên
1.176
1.941
1.130
1.809
1.227
2.074
1.419
2.502
1.570
2.640
Lạng Sơn
659
1356
737
1417
962
1616
994
2118
881
1631
Quảng Ninh
1.154
1.886
1.189
2.161
1.203
2.071
1.365
2.199
1.308
2.108
Bắc Giang
988
2.302
899
1.722
926
1.743
922
1.578
1.051
1.874
Phú Thọ
964
1.961
1.090
1.997
939
1.804
984
2.146
977
1941
Vĩnh Phúc
823
1.494
769
1.453
828
1.460
950
1.597
857
1.495
Bắc Ninh
963
1885
997
1911
1528
2458
1543
2465
1334
2248
Hải Dương
963
1869
882
1662
1179
2022
1284
2200
1051
1917
TP. Hải Phòng
1.154
1.991
1.145
1.872
1.128
1.932
1.136
2.034
1.008
1.751
Hưng Yên
661
1490
696
1402
674
1243
718
1367
718
1399
Thái Bình
819
1.470
923
1.596
982
1.643
954
1.662
897
1.581
Hà Nam
556
1059
579
1066
630
1.172
577
985
545
894
Nam Định
840
1.463
1.156
1.892
1.091
1.752
1.096
1.806
1.091
1.717
Ninh Bình
542
1.262
539
1.108
554
1.198
601
1.196
689
1.326
38
Thanh Hoá
1.627
3.125
1.845
3.496
1.643
3.002
1.724
3.114
1.905
3.827
Nghệ An
2.173
4.099
2.308
3.928
2.210
3.825
2.444
4.393
2.665
4.470
Hà Tĩnh
598
1.160
563
1.057
516
910
513
1015
656
1.131
Quảng Bình
482
892
435
726
386
594
403
624
523
823
Quảng Trị
426
774
339
569
279
488
317
513
431
633
Thừa Thiên Huế
636
1.092
572
995
563
897
626
1.015
645
1.123
TP. Đà Nẵng
654
1.117
643
1.163
706
1.095
830
1.429
878
1.375
Quảng Nam
756
1.259
760
1.226
681
1.114
764
1.220
826
1.400
Quảng Ngãi
437
850
393
705
310
485
319
476
322
551
Bình Định
645
1.265
602
1.199
540
966
609
1.236
640
1.280
Phú Yên
450
752
458
752
425
728
341
529
328
582
Khánh Hoà
739
1.251
848
1236
667
969
730
1.143
685
1.026
Ninh Thuận
365
645
372
635
321
494
374
588
308
501
Bình Thuận
1.020
1.576
897
1.297
842
1.203
948
1.352
941
1.263
Kon Tum
323
634
326
518
319
531
284
456
311
537
Gia Lai
904
1.895
856
1.730
861
1.577
873
1.515
747
1.344
Dak-Lak
1.435
2.577
1.296
2.357
1.189
2.064
1.205
2.504
1.176
2.131
Đăc Nông
643
1.361
590
1.215
563
1.208
519
1.108
564
1.161
Lâm Đồng
943
1.756
868
1.582
950
1.536
892
1.541
1.005
1.689
Bình Phước
948
1.738
979
1.659
884
1.476
1.012
1.807
1.015
1.656
Tây Ninh
953
1.795
889
1.477
803
1.298
1.049
1.905
1.076
2.098
Bình Dương
2.177
4.584
1.887
3.573
1.556
2.844
1.838
3.183
1.917
3.365
Đồng Nai
2.298
4.198
2.132
3.447
1.789
2.954
1.935
3.185
1.975
3.350
BR - Vũng Tàu
843
1.440
934
1.439
919
1.470
971
1.543
1.007
1.463
TP. Hồ Chí Minh
5.192
8.022
5.451
8.839
4.690
7.165
4.438
7.018
4.452
7.360
Long An
953
1.707
869
1.346
734
1.116
787
1.253
909
1.432
Tiền Giang
698
1.017
659
829
699
882
804
1.086
799
1.051
Bến Tre
463
760
459
654
423
529
477
627
491
648
Trà Vinh
419
608
428
598
389
529
417
619
449
633
Vĩnh Long
487
744
502
710
426
602
470
667
546
766
39
Đồng Tháp
814
1.269
666
1.072
618
817
729
1.012
748
1.145
An Giang
731
1.040
693
1.122
599
914
770
1.070
752
1.045
Kiên Giang
1.124
2.022
1.195
1.989
1.000
1.612
1.000
1.767
938
1.722
Cần Thơ
873
1.514
843
1.363
848
1.347
929
1.461
857
1.249
Hậu Giang
407
617
359
573
299
469
377
610
347
621
Sóc Trăng
377
641
363
475
369
502
439
645
423
568
Bạc Liêu
486
914
387
609
368
527
423
570
394
652
Cà Mau
765
1.300
656
962
638
865
762
1.053
689
936
Dựa trên Bảng 2.1. nêu trên ta thấy được các tỉnh có số lượng vụ án, bị cáo
tăng giảm không đồng đều theo từng năm và tình hình tội phạm tập trung nhiều ở
một số tỉnh TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Nghệ An…Số
vụ án, bị cáo tăng giảm cụ thể trong 5 năm được thể hiện theo Bảng, Biểu đồ sau
Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương
(từ năm 2015 đến năm 2019)
Tên Đơn vị Số vụ án Số bị cáo
40
Số TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 TP. Hà Nội TP. Hồ Chí Minh Tỉnh Nghệ An Tỉnh Đồng Nai Tỉnh Bình Dương Tỉnh Thanh Hoá Tỉnh Sơn La Tỉnh Thái Nguyên Tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Đak-Lak Tỉnh Quảng Ninh TP. Hải Phòng Tỉnh Hải Dương Tỉnh Nam Định Tỉnh Kiên Giang Tỉnh Phú Thọ 31.286 24.223 11.800 10.129 9.375 8.744 6.800 6.522 6.365 6.301 6.219 5.571 5.359 5.274 5.257 4.954 52.536 38.404 20.715 17.134 17.549 16.564 9.822 10.966 10.967 11.633 10.425 9.580 9.670 8.630 9.112 9.849
41
4.838 4.786 4.770 4.674 4.658 4.648 4.575 4.350 4.252 4.241 4.233 4.227 4.226 3.787 3.711 3.669 3.659 3.575 3.545 3.510 3.467 3.042 3.036 2.925 2.887 2.879 2.846 2.769 2.608 2.432 2.431 2.431 2.338 2.320 2.313 2.229 2.102 8.336 9.219 8.573 7.355 8.104 6.691 7.952 6.934 6.854 8.061 8.138 7.499 5.369 6.219 6.179 5.625 4.865 5.315 5.191 5.116 6.901 5.122 5.946 6.090 5.176 6.053 5.273 5.334 4.007 3.423 3.849 3.489 3.924 3.528 3.218 3.659 2.987 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 Tỉnh Bình Phước Tỉnh Bắc Giang Tỉnh Tây Ninh Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Tỉnh Lâm Đồng Tỉnh Bình Thuận Tỉnh Thái Bình Tỉnh Cần Thơ Tỉnh Long An Tỉnh Gia Lai Tỉnh Lạng Sơn Tỉnh Vĩnh Phúc Tỉnh Điện Biên Tỉnh Quảng Nam TP. Đà Nẵng Tỉnh Khánh Hoà Tỉnh Tiền Giang Tỉnh Đồng Tháp Tỉnh An Giang Tỉnh Cà Mau Tỉnh Hưng Yên Tỉnh Thừa Thiên Huế Tỉnh Bình Định Tỉnh Ninh Bình Tỉnh Hà Nam Tỉnh Đăc Nông Tỉnh Hà Tĩnh Tỉnh Tuyên quang Tỉnh Cao Bằng Tỉnh Lai Châu Tỉnh Hoà Bình Tỉnh Vĩnh Long Tỉnh Yên Bái Tỉnh Lao Cai Tỉnh Bến Tre Tỉnh Quảng Bình Tỉnh Trà Vinh
Tỉnh Bạc Liêu Tỉnh Phú Yên Tỉnh Sóc Trăng Tỉnh Quảng Trị Tỉnh Hậu Giang Tỉnh Quảng Ngãi Tỉnh Ninh Thuận Tỉnh Bắc Kạn Tỉnh Kon Tum Tỉnh Hà Giang 2.058 2.002 1.971 1.792 1.789 1.781 1.740 1.682 1.563 1.539 3.272 3.343 2.831 2.977 2.890 3.067 2.863 2.518 2.676 2.788
54 55 56 57 58 59 60 61 62 63
Biểu đồ 2.1 Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương
42
(từ năm 2015 đến năm 2019)
Dựa trên Bảng 2.2. và Biểu đồ 2.1 nêu trên ta thấy được một số địa phương
43
có số (vụ án/ bị cáo) xét xử sơ thẩm cao là TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Nghệ An,
Đồng Nai, Thanh Hóa và một số địa phương có số (vụ án/ bị cáo) xét xử sơ thẩm
thấp là Hà Giang, Kon Tum, Bắc Kạn, Ninh Thuận, Quảng Ngãi. Tổng số vụ án, bị
cáo xét xử sơ thẩm tại 5 địa phương có số lượng cao chiếm tỷ lệ 28,83% số vụ án
và 28,79% số bị cáo so với toàn quốc trong 05 năm. Trong khi đó, tổng số vụ án, bị
can xét xử sơ thẩm tại 5 địa phương có số lượng thấp chiếm tỷ lệ 2,76% số vụ án và
2,74% số bị cáo so với toàn quốc. Số vụ án, bị cáo của của 5 địa phương có số
lượng xét xử sơ thẩm cao gấp khoảng hơn 9 lần so với số vụ án, bị cáo khởi tố của
5 địa phương có số lượng thấp. Riêng hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã
chiếm 18,44% về số vụ và 17,89% số bị cáo so với toàn quốc. Hai tỉnh Hà Giang,
KonTum chỉ chiếm 1,03% về số vụ và 1,07% số bị cáo xét xử sơ thẩm so với toàn
quốc. Như vậy, số vụ án, bị cáo của TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã xét xử sơ
thẩm đã gấp khoảng 18 lần so với số vụ án và 17 lần so với số bị cáo đã xét xử sơ
thẩm của 2 tỉnh Hà Giang và KonTum.
Nếu so sánh số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm giữa địa phương cao nhất và địa
phương thấp nhất thì thành phố Hà Nội có số vụ án cao gấp 20 lần số vụ án và 20
lần số bị cáo đã xét xử sơ thẩm so với Hà Giang.
2.2.1.2. Động thái tình hình xét xử sơ thẩm (vụ án/ bị cáo) từ năm 2015 đến
2019
Qua so sánh số liệu xét xử năm 2019 với các năm 2015 đến năm 2018 thấy:
Động thái của tình hình tội phạm được thể hiện ở bảng biểu và Biểu đồ 1 như sau:
Bảng 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019
Năm 2015 2016 2017 2018 2019
59.840 60.495 57.879 61.669 61.851
106.200 101.537 95.141 103.574 103.217
Số vụ án xét xử sơ thẩm Tổng số bị cáo xét xử sơ thẩm
44
Biểu đồ 2.2. Động thái của tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo các chương của BLHS cũng khác nhau rất
nhiều. Các chương có tỷ lệ xét xử cao (theo BLHS năm 2015) là Chương XIV (Các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người); Chương
XVI (Các tội xâm phạm sở hữu); Chương XVIII (Các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế); Chương XX( Các tội về ma túy); Chương XXI (Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng).
Một số chương có tỷ lệ xét xử sơ thẩm thấp gồm: Chương XIII (Các tội xâm
phạm an ninh quốc gia); Chương XV (Các tội xâm phạm quyền tự do của con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân); Chương XVII (Các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân và gia đình); Chương XIX (Các tội phạm về môi trường); Chương
XXII (Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính); Chương XXIV (Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp). Riêng Chương XXVI (Các tội phá hoại hòa bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh) không xét xử vụ nào.
45
Biểu đồ 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử theo một số chương của BLHS
Qua so sánh số liệu xét xử giữa các Chương (nhóm tội) trong 5 năm từ năm
2015 đến năm 2019 ta có:
Bảng 2.4. Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo nhóm, chương của BLHS
Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số vụ án Số bị cáo Nội dung (nhóm, chương) Chương XIII, XXVI (An ninh; Phá hoại 83 0.03% 189 0.04% hòa bình)
Chương XIV (Xâm phạm tính mạng, 40,579 13% 59,008 12% sức khỏe...)
Chương XV (Xâm phạm quyền tự do, 881 0.29% 2,464 0.48% dân chủ…)
Chương XVI (Xâm phạm sở hữu) 111,924 37% 159,917 31%
Chương XVII (Xâm phạm chế độ hôn 29 0.01% 39 0.01% nhân gia đình)
Chương XVIII (Xâm phạm trật tự quản 5,880 1.95% 10,736 2.11% lý kinh tế)
Chương XIX (Tội phạm về môi trương) 1,213 0.40% 1,946 0.38%
46
Chương XX (Tội phạm về ma túy) 85,100 28.20% 106,342 20.86%
Chương XXI (Xâm phạm an toàn công 51,390 17.03% 157,953 30.99% cộng...)
Chương XXII (Xâm phạm trật tự quản 2,990 0.99% 6,931 1.36% lý hành chính)
Chương XXIII (tội phạm về chức vụ) 1,265 0.42% 3,238 0.64%
Chương XXIV (Xâm phạm hoạt động 387 0.13% 948 0.19% tư pháp)
Chương XXV (Nghĩa vụ, trách nhiệm 13 0.00 21 0.00% của quân nhân)
Tổng số 301,734 100% 509,732 100%
Nhóm các chương có tỷ lệ xét xử thấp gồm các Chương XIII, XV, XVII,
XXII, XXIV chỉ chiếm tỷ lệ 1,28% trên tổng số vụ án và 1.73% tổng số bị cáo xét
xử toàn quốc (3871 vụ/8854 bị cáo) tiếp đến Chương XXII (Xâm phạm trật tự quản
lý hành chính) chiếm tỷ lệ 0,99% trên tổng số vụ án và 1,36% tổng số bị cáo xét xử
toàn quốc (2.990 vụ án /6931 bị cáo) và Chương XVIII (Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế) chiếm tỷ lệ 1,95% trên tổng số vụ án và 2,11% tổng số bị cáo xét
xử toàn quốc (5.880 vụ/ 10.736 bị cáo).
Nhìn chung, cơ cấu của tội phạm theo nhóm, chương không đồng đều, trong
đó Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu) và Chương XXI (Xâm phạm an toàn
công cộng) đã xét xử chiếm tỷ trọng lớn nhất là 31% bị cáo, chiếm tỷ trọng lớn thứ
hai là Chương XX (Các tội phạm về ma túy) chiếm 20,86% bị cáo, Chương XIV
(Xâm phạm tính mạng sức khỏe) chiếm tỷ trọng lớn thứ ba là 12% bị cáo, Chương
XVIII (Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) chiếm tỷ trọng lớn thứ tư là 2,11% bị cáo.
Riêng đối với các chương còn lại chỉ chiếm1.73% trên tổng số bị cáo đã xét xử sơ
thẩm, thể hiện tại Biểu đồ 5 như sau:
47
Biểu đồ 2.4. Tỷ trọng xét xử sơ thẩm các tội phạm theo chương
(nhóm tội) từ năm 2015 đến 2019
2.2.1.3. Động thái tình hình xét xử sơ thẩm (vụ án/ bị cáo) theo từng tội danh
từ năm 2015 đến 2019
Từ số liệu thực tế về thống kê tội danh đã xét xử tại Viện kiểm sát nhân dân
tối cao được thực hiện ở bảng số liệu Bảng 2.2 (theo từng năm, từng đơn vị từ năm
2015 đến năm 2019 thống kê tội danh đã xét xử). Từ số liệu này đưa ra được tỷ lệ
một số tội danh bị cáo đã xét xử theo bảng dưới đây:
Bảng 2.6. Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử một số tội danh từ năm 2015 đến năm 2019 Năm Năm Năm Năm Năm
Tên điều luật 2015 2016 2017 2018 2019
13,66% 15,96% 22% 23% 24,79%
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy Đánh bạc 23,48% 21,11% 21% 37% 22,24%
Trộm cắp tài sản 23,90% 22,11% 21% 32% 17,84%
8,03% 7,78% 8% 8% 6,99%
48
3,80% 4,05% 4% 3% 3,30% Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của Vp các quy định về điều khiển phương tiện giao thông
Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc 1,84% 1,77% 2% 2% 2,22%
Cướp giật tài sản 2,79% 2,59% 2% 2% 1,96%
Giết người 1,91% 1,74% 2% 2% 1,73%
Cướp tài sản 2,81% 2,32% 2% 2% 1,58%
1,23% 1,32% 1% 1% 1,43%
1,36% 1,17% 1% 1% 1,00%
Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2,82% 2,77% 3% 3% 0,51%
49
Biểu đồ 2.5. Động thái tình hình tội phạm của một số tội danh theo bị cáo từ năm 2015 đến 2019
2.2.2. Hình phạt áp dụng của các tội phạm bị xét sơ thẩm qua các từ năm
2015 đến 2019)
Nhìn chung, cơ cấu hình phạt đã áp dụng có sự phân biệt rõ, trong đó số bị
cáo bị tuyên phạt hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ trọng cao nhất là 351.427 bị cáo
chiếm 71.24%, số bị cáo bị tuyên phạt hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm
tỷ trọng cao thứ hai là 90.710 bị cáo chiếm 18.39%. Đối với số bị cáo bị tuyên hình
phạt tù chung thân, tử hình là 3.403 bị cáo chiếm 0.69% trên tổng số bị cáo đã xét
xử sơ thẩm, được thể hiện tại Bảng và Biểu đồ như sau:
Bảng 2.7. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Hình phạt
2015
2016
2017
2018
2019
569
593
680
650
911
Chung thân, tử hình
74.138
77.207
67.117
61.826
71.139
Tù có thời hạn
21.457
16.369
17.644
16.772
18.468
3.548
3.373
3.530
3.786
4.698
Tù có thời hạn nhưng được hưởng án treo Cải tạo không giam giữ
6.642
6.443
5.005
4.691
6.032
Hình phạt chính khác
50
Biểu đồ 2.6. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Bảng 2.8. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Hình phạt
2015
2016
2017
2018
2019
0,54%
0,57%
0,72%
0,74%
0,9%
Chung thân, tử hình
69,71%
74,25%
71,08%
70,43%
70,22%
Tù có thời hạn
20,18%
15,74%
18,69%
19,11%
18,23%
Tù có thời hạn nhưng được hưởng án treo
3,34%
3,24%
3,74%
4,31%
4,64%
Cải tạo không giam giữ
6,25%
6,2%
5,3%
5,34%
5,95%
Hình phạt chính khác
Biểu đồ 2.7. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm trong 5 năm (Từ năm 2015 đến năm 2019)
2.2.3. Chỉ số tội phạm (tỷ lệ bị cáo xét xử sơ thẩm so với 100.000 dân theo
địa bàn phạm tội từ 14 tuổi trở lên)
Chỉ số tội phạm năm 2019 của từng địa phương
Tổng số đã xét xử sơ thẩm trên toàn quốc năm 2019 là 61.838 vụ án, 103.143
bị cáo chiếm tỷ lệ 0,14% so với tổng dân số (Con số cụ thể của năm 2019)1có độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi trở lên).
1(Số liệu dân số do Tổng cục Thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp)
51
Chỉ số tội phạm được tính bằng số bị cáo đã xét xử sơ thẩm so với dân số có
độ tuổi từ 14 tuổi trở lên (tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Được thể hiện ở Bảng 3
như sau:
Bảng 2.9. Chỉ số tội phạm theo từng địa phương
(Xếp theo thứ tự chỉ số tội phạm giảm dần)
Số bị cáo Xếp hạng Tỉnh, thành phố Dân số trên 14 tuổi Chỉ số tội phạm
Điện Biên 1155 0,30% 389.065 1
Thái Nguyên 2640 0,27% 971.309 2
Lạng Sơn 1631 0,27% 606.834 2
Cao Bằng 1047 0,26% 406.723 4
Đắk Nông 1161 0,25% 458.138 5
Bắc Ninh 2248 0,24% 943.121 6
Tây Ninh 2098 0,23% 909.661 7
Sơn La 1969 0,23% 871.416 7
Bình Phước 1656 0,22% 739.119 9
Quảng Ninh 2108 0,22% 979.745 9
Tuyên Quang 1186 0,20% 579.445 9
Bình Dương 3365 0,19% 1.737.861 12
Nghệ An 4470 0,19% 2.409.891 12
Vĩnh Phúc 1495 0,18% 816.437 14
Phú Thọ 1941 0,18% 1.070.617 14
Bắc Kạn 256.058 463 0,18% 14
Hà Nội 5.851.621 10499 0,18% 14
Ninh Bình 1326 0,17% 761.558 18
Lai Châu 515 0,17% 301.192 18
Lâm Đồng 1689 0,17% 1.009.390 18
52
Bà Rịa-Vũng Tàu 1463 0,17% 878.487 18
Đà Nẵng 22 847.141 1375 0,16%
Hưng Yên 23 932.598 1399 0,15%
Đắk Lắk 23 1.447.728 2131 0,15%
Hoà Bình 25 639.410 926 0,14%
Bắc Giang 25 1.307.217 1874 0,14%
Kon Tum 25 537 0,14% 382.933
Hà Nam 25 894 0,14% 638.171
Thanh Hoá 25 3827 0,14% 2.753.651
Đồng Nai 25 3350 0,14% 2.454.873
Quảng Trị 31 633 0,13% 470.944
Yên Bái 31 806 0,13% 601.690
Hải Dương 31 1917 0,13% 1.444.505
Bình Thuận 31 1263 0,13% 964.856
Lào Cai 31 653 0,13% 502.504
Gia Lai 31 1344 0,13% 1.062.342
Thừa Thiên Huế 37 1123 0,12% 908.826
Kiên Giang 37 1722 0,12% 1.397.725
Quảng Bình 37 675.221 823 0,12%
Cần Thơ 37 1249 0,12% 1.026.734
Nam Định 37 1717 0,12% 1.429.369
Quảng Nam 37 1400 0,12% 1.172.575
Long An 37 1432 0,12% 1.202.881
Hà Tĩnh 37 1131 0,12% 967.322
Hải Phòng 45 1751 0,11% 1.566.742
Thái Bình 45 1581 0,11% 1.445.531
45 Ninh Thuận 462.083 501 0,11%
45 7360 0,11% TP. Hồ Chí Minh 6.997.152
53
49 1280 0,10% Bình Định 1.222.352
Khánh Hoà 1.003.833 1026 0,10% 49
Hậu Giang 616.186 621 0,10% 49
Hà Giang 578.420 574 0,10% 49
Cà Mau 983.820 936 0,10% 49
Vĩnh Long 843.371 766 0,09% 54
Bạc Liêu 724.180 652 0,09% 54
Đồng Tháp 1.346.501 1145 0,09% 54
Phú Yên 711.821 582 0,08% 57
Trà Vinh 823.770 633 0,08% 57
Tiền Giang 1.416.533 1051 0,07% 59
Bến Tre 1.035.768 648 0,06% 60
An Giang 1.682.036 1045 0,06% 60
Quảng Ngãi 996.332 551 0,06% 60
Sóc Trăng 1.038.265 568 0,05% 63
Địa phương có chỉ số tội phạm cao nhất là Điện Biên là 0,30% (1155 bị cáo/
389.065 người dân), gấp hơn 6 lần địa phương có chỉ số tội phạm thấp nhất là Sóc
Trăng 0,05% (568 bị cáo/1.038.265 người dân).
Năm địa phương có chỉ số tội phạm cao nhất là Điện Biên, Thái Nguyên,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Đắk Nông.
Điện Biên có chỉ số tội phạm cao nhất là 0,3% (1155 bị cáo/ 389.065 người
dân).
Thái Nguyên có chỉ số tội phạm cao thứ hai là 0,27% (2.640 bị cáo/ 971.309
người dân).
Lạng Sơn có chỉ số tội phạm cao thứ hai là 0,27% (1.631 bị cáo/ 606.834
người dân).
Cao Bằng có chỉ số tội phạm cao thứ tư là 0,26% (1047 bị cáo/ 406.723
54
người dân).
ĐắK Nông có chỉ số tội phạm cao thứ năm là 0,25% (1.161 bị cáo/ 458.138
người dân).
Năm địa phương có chỉ số tội phạm thấp là Sóc Trăng, An Giang Quảng
Ngãi, Bến Tre, Tiền Giang.
Sóc Trăng có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,05% (568 bị cáo/1.038265 người
dân).
Quảng Ngãi có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (551 bị cáo/996.332
người dân).
An Giang có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (1.045 bị cáo/1.682.036
người dân).
Bến Tre có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,06% (648 bị cáo/1.035.768 người
dân).
Tiền Giang có chỉ số tội phạm thấp nhất là 0,07% (1051 bị cáo/1.416.533
người dân).
Ngoài ra, trong cuốn tài liệu “Báo cáo tình hình tội phạm” hằng năm (do
Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng) còn phân tích thêm tình hình tội phạm bị
xét xử sơ thẩm theo dân tộc, giới tính, phân loại hình phạt, người chưa thành niên bị
xét xử sơ thẩm (người dưới 18 tuổi), các tội phạm tham nhũng và việc áp dụng hình
phạt đối với tội phạm về tham nhũng, việc áp dụng án treo, so sánh số liệu xét xử
(sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) qua từng năm, theo địa bàn xét xử
(huyện, tỉnh)…
2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự
của ngành Kiểm sát nhân dân
2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân
2.3.1.1 Những ưu điểm
Có thể nói, từ khi thành lập ngành Kiểm sát nhân dân đến nay (năm 1960),do
thực hiện tốt công tác thu thập, thống kê và quản lý số liệu thống kê tư pháp hình sự nói chung và số liệu thống xét xử các vụ án hình sự nói riêng thì ngành Kiểm sát
nhân dân đã tạo lập được cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về tình hình về số vụ án, bị
55
cáo bị xét xử về hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm) theo từng
địa phương cũng như trên phạm vi toàn quốc qua hàng năm. Đặc biệt, từ cơ sở dữ
liệu đã thu thập và quản lý được giúp chúng ta đánh giá, phân tích tương đối chuyên
sâu, toàn diện về tình hình tội phạm bị xét xử tại Việt Nam được chính xác, đầy đủ như: Số vụ án, số bị cáo bị xét xử, phân tích được các đặc điểm về thân nhân của
người phạm tội như: Giới tính (Nam, Nữ), nhóm tuổi, dân tộc (Kinh và dân tộc
khác), trình độ học vấn, nhất là các loại hình phạt áp dụng có 2 cấp xét xử (sơ thẩm,
phúc thẩm) tỷ lệ đồng phạm, tỷ lệ đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, phân tích được cơ cấu tội phạm theo chương tội phạm, theo địa phương (đơn vị hành chính)... Đây là cơ sở, kênh thông tin quan trọng để các nhà quản lý, hoạch
định chính sách của Việt Nam sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự Việt Nam cho phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như hội nhập quốc tế, nhất là ngày càng bảo đảm lợi ích tốt nhất, đối xử một cách bình đẳng, công bằng
nhất, phù hợp với độ tuổi, trình độ học vấn, văn hóa... và ngày càng tiệm cận với
các nguyên tắc, chuẩn mực tiến bộ của quốc tế đối với người phạm tội tại Việt
Nam, từ đó có chính sách tái hòa nhập cộng đồng phù hợp...
Thống kê tội phạm phạm nói chung và thống kê tội danh đã xét xử nói riêng
là hoạt động thu thập, tổng hợp, phân tích tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội
phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trên phạm vị toàn quốc hay ở một vùng
lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định. Nên kết quả
của hoạt động thống kê này là phương tiện chủ yếu để đánh giá về tình hình tội
phạm và kết quả về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm, qua số liệu thống
kê có thể thấy được tình hình diễn biến của tội phạm, mức độ phạm tội, nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, đồng thời có thể tìm ra những giải pháp thích
hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn. Số liệu thống kê này đã
trở thành một trong những căn cứ quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền lập kế hoạch, chương trình, đánh giá, phân tích thực trạng và đề ra giải pháp phòng, chống vi phạm, tội phạm ở địa phương và là cơ sở để từng ngành có biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả ở địa phương và là cơ sở để từng ngành có những biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả, chất lượng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Số liệu thống kê đã trở thành cơ sở khách quan để đánh giá về chất lượng hoạt động không những của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà còn cả các cơ
quan tư pháp nói chung, đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng
56
chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh
phòng chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá, xây dựng, hoạch định chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự; xây dựng,
củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp.
Kết quả thống kê những tội danh đã xét xử cũng như kết quả thống kê tội
phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian qua còn phục vụ đắc lực cho
công tác lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp và tham
mưu, đề xuất với các cơ quan của Đảng, Nhà nước những nội dung quan trọng góp
phần xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách ổn định và phát triển kinh tế.
2.3.1.2. Nguyên nhân
Để đạt được những kết quả nêu trên, ngoài sự nỗ lực, tận tâm, tận lực của các
cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trực tiếp làm công tác thống kê, sự tập trung
chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp, còn xuất phát từ một số tác động chủ
yếu sau:
Thứ nhất, Sự quan tâm của Đảng và chủ trương về cải cách tư pháp, đã tác
động mạnh mẽ đến việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan tư
pháp, trong đó có trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác thống, đặc biệt là
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã xác định “Nâng cao chất
lượng công tác thống kê tư pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực
hiện công tác này”.
Thứ hai, Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ
và quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác thống kê hình sự, thống
kê tội phạm được ghi nhận rõ hơn trong các văn bản pháp luật, các văn bản hướng
dẫn thi hành như: Luật tổ chức VKSND năm 2014, Thông tư liên tịch số
05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Quy
định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự...
Thứ ba, Ngành Kiểm sát đã chú trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác thống kê như: Phần mềm tổng hợp thống kê trong toàn ngành Kiểm sát đã
được thực hiện từ năm 1990, đến nay đã được thực hiện ở 63 tỉnh, thành phố và
57
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số liệu từ Viện kiểm sát cấp tỉnh được truyền về
Viện kiểm sát tối cao qua mạng Internet, ở cấp huyện phần mềm này được sử dụng
để kiểm tra, lưu trữ số liệu thống kê; Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng
được cơ sở dữ liệu thốn kê tổng hợp trên cơ sở của hệ thống phần mềm này; Hệ
thống phần mềm xét xử sơ thẩm đã được triển khai từ năm 2014 cho cả 3 cấp
huyện, tỉnh và trung ương, phần mềm này là cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu về
thống kê tội phạm. Việc tổng hợp số liệu thống kê tội danh đã xét xử được thực hiện
hoàn toàn bằng máy vi tính, dữ liệu thống kê ban đầu được tập trung về một nơi nên
số liệu thống kê đảm bảo tính chính xác, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể
thống kê theo khoảng thời gian lựa chọn khác nhau. Đây là một phương pháp thống
kê hiện đại đã được Luật Thống kê ưu tiên phát triển. Phần mềm “Quản lý án hình
sự” đã được triển khai đến trong toàn ngành Kiểm sát, theo mô hình tổ chức thông
tin của hệ thống phần mềm này thì thông tin từ hồ sơ án ở tất cả các cấp kiểm sát
khi phát sinh (trong tất cả các giai đoạn tố tụng) được cập nhật trực tiếp vào trung
tâm tích hợp dữ liệu tại Viện kiểm sát tối cao thông qua mạng Internet,.
Thứ tư, Ngành Kiểm sát đã chú trọng, thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm, từng bước đổi mới lề lối quản lý, điều hành và các phương thức công
tác thống kê; trong xây dựng và hoàn thiện các Quy chế nghiệp vụ.
Thứ năm, Tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất trong toàn ngành Kiểm sát ngày
càng được quan tâm hơn. Có nhiều biện pháp để xây dựng, củng cố hệ thống Viện
kiểm sát cả về đội ngũ cán bộ và tổ chức; tăng cường công tác tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, Kiểm sát viên về chuyên môn, nghiệp
vụ, trưởng thành về chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh trong công tác.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, qua thực tiễn và trên cơ sở số liệu thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân đã thu thập và thống kê được thì vẫn còn một số hạn chế, thể hiện cụ thể qua một số đánh giá sau:
Thứ nhất, mặc dù cơ quan VKSND là cơ quan được giao chủ trì việc thực
hiện thống kê tội phạm nhưng tổ chức của cơ quan, Bộ phận Thống kê tội phạm
trong ngành Kiểm sát nhân dân vẫn chưa được kiện toàn. Mô hình tổ chức và cách
58
thức thực hiện thông kê tội phạm chưa ổn định, nhất quán, cụ thể: Cục Thống kê tội
phạm và Công nghệ thông tin thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập
năm 2003 nhưng hệ thống các đơn vị thống kêchuyên trách trực thuộc (Bộ phận
thống kê thuộc Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thuộc Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh) hoặc tại VKSND cấp huyện tính đến nay là không có bộ phận
thống kê chuyên trách mà chỉ là kiêm nhiệm. Do vậy, tính chuyên sâu không bảo
đảm nên ảnh hưởng phần nào đến chất lượng của số liệu thống kê thu thập được,
trong đó có số liệu thống kêxét xử các vụ án hình sự…
Thứ hai, Hệ thống chỉ tiêu mang nặng tính báo cáo công tác, phản ánh kết
quả hoạt động đấu tranh với tội phạm đó xảy ra tức là cũng bị động trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, chưa đi sâu vào nghiên cứu đánh giá, phân tích dự
báo tình hình tội phạm để chủ động trong việc chuẩn bị lực lượng đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Chưa cơ quan nào xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thông kê
tội phạm phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thành hệ thống chỉ
tiêu thống kê riêng (độc lập) mà các chỉ tiêu này hiện vẫn đang được nằm trong hệ
thống biểu mẫu thống kê của các ngành. Phương pháp tính thống kê hiện này trong
hệ thống thống kê hiện hành của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn thường thống kê
theo số vụ và số bị can, bị cáo mà chưa thống kê theo hành vi phạm tội.
Có thể nói những quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự đã làm cho Viện
kiểm sát gặp phải những khó khăn nhất định khi thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự và khi làm công tác thống kê vì thông tin về hoạt động
điều tra đến với Viện kiểm sát còn thiếu tính kịp thời; các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự hiện hành về thời hạn chuyển các quyết định tố tụng từ cơ quan tiến
hành tố tụng này sang cơ quan tiến hành tố tụng khác chưa được chặt chẽ.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém trong công tác thống kê tội phạm nói chung cũng
như công tác thống kê các tội danh đã xét xử nói riêng bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, nhưng chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Biểu mẫu thống kê hiện nay còn có hạn chế như: Biểu mẫu mới chỉ thống
59
kê theo điều luật mà Tòa án đã xét xử, chưa phân tổ về hành vi phạm tội đối với một
số tội ghép, chưa phân tổ cụ thể đối với lĩnh vực phạm tội ví dụ: “Tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm”, mới chỉ thống kê Điều 190 (BLHS 2015) mà chưa phân tổ
riêng hành vi sản xuất, hành vi buôn bán; Đối với các tội về tham nhũng chưa phân
tổ cụ thể từng lĩnh vực mà bị cáo đã tham nhũng, nên gặp rất nhiều khó khăn trong
việc khai thác số liệu, nếu cần khai thác từng hành vi hoặc từng lĩnh vực bị xâm
phạm thì phải khai thác trong hồ sơ vụ án sẽ mất nhiều thời gian nhất là những vụ
án đã đưa vào lưu trữ.
- Các Phòng nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh, các VKSND huyện, thành phố có
vị trí rất quan trọng trong công tác thống kê các tội danh đã xét xử của ngành Kiểm
sát, đây là những đơn vị trực tiếp tiến hành thu thập, đối chiếu, xây dựng số liệu các
chỉ tiêu thống kê. Tuy nhiên, hiện nay công tác thống kê tội phạm nói chung và
thống kê tội danh đã xét xử nói riêng ở những đơn vị này chưa có cán bộ thống kê
chuyên trách, cán bộ làm công tác thống kê phải kiêm nhiệm nhiều công việc và chỉ
có trình độ chuyên môn là Cử nhân luật, không có trình độ chuyên sâu về công tác
thống kê, một số cán bộ làm công tác thống kê chưa chịu khó nghiên cứu về công
tác thống kê, cán bộ thống kê ở các đơn vị thường là những người mới vào ngành,
công tác bàn giao, học hỏi chưa được nhiều. Bên cạnh đó, sự quan tâm chỉ đạo của
một số lãnh đạo các đơn vị về tầm quan trọng của công tác thống kê còn chưa thực sự đầy đủ, dẫn tới thiếu kiểm tra, đôn đốc thực hiện tốt công tác này.
- Thống kê hình sự, thống kê tội phạm hiện nay đang áp dụng hình thức chế
độ báo cáo thống kê (báo cáo thống kê cơ sở và báo cáo thống kê tổng hợp). Báo
cáo thống kê cơ sở (báo cáo thống kê của cấp huyện, các phòng nghiệp vụ thuộc
cấp tỉnh, các viện nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp cao, các vụ nghiệp vụ trực
thuộc Viện kiểm sát tối cao) có ý nghĩa quyết định đến chất lượng báo cáo thống kê tổng hợp. Nhưng hiện nay, phần lớn các đơn vị vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (đếm sổ), nên có nhiều ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo nhất là độ chính xác và tính kịp thời.
- Cán bộ thống kê của Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát tối cao mới
chủ yếu tham gia vào quá trình tổng hợp thống kê. Còn việc ghi chép, thu thập số liệu và tổng hợp thống kê chủ yếu do cán bộ thụ lý của Viện kiểm sát các quận,
huyện và các đơn vị nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát tối cao.
60
Cũng tương tự, việc phân tích thống kê mới chỉ dừng ở việc các cán bộ tổng hợp
của Viện kiểm sát các cấp đánh giá tình hình và kết quả hoạt động trong phạm vi
cấp mình, đơn vị mình và toàn quốc. Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông
tin chỉ thực hiện việc tổng hợp, kiểm tra số liệu thống kê trong toàn ngành để báo cáo và một số ít việc phân tích thống kê mang tính chất nghiên cứu chuyên đề và
nghiên cứu đề xuất thiết kế và cải thiện hệ thống các chỉ tiêu trong các biểu mẫu
thống kê. Tham gia vào hoạt động thống kê có rất nhiều người thực hiện chứ không
chỉ đơn thuần là do cán bộ thống kê của Viện kiểm sát các cấp thực hiện; hoạt động
thống kê nằm rải ở quá nhiều đầu mối, nhiều khâu, nhiều người tham gia như hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên.
- Công nghệ thông tin đã được triển khai ứng dụng trong công tác thống kê
nhưng chưa sâu, chưa đáp ứng được so với yêu cầu công việc, hệ thống máy vi tính đang sử dụng nhiều máy có cấu hình thấp, hết khấu hao nên trong quá trình sử dụng
các phần mềm thống kê thường hay báo lỗi, việc sử dụng một số phần mềm còn
phải mất nhiều thao tác, tính năng kiểm tra, khai thác dữ liệu đã được cập nhật trên
một số phần mềm còn chưa cao.
Kết luận Chương 2
Trên cơ sở vận dụng lý luận về thống kê các tội phạm đã xét xử, Chương 2
của luận văn đã khảo sát, đánh giá, làm rõ thực trạng thống kê tội phạm đã xét xử
của VKSND tối cao, trong đó làm rõ những thực trạng tác động đến công tác thống
kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay đó là thực trạng
cơ sở pháp lý; cơ cấu về tổ chức bộ máy và phương pháp thu thập, thống kê xét xử
các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân. Tác giả tiến hành khảo sát, đánh
giá công tác thống kê trên cơ sở thực tiễn hoạt động thống kê các vụ án đã xét xử
của VKSND tối cao trong các năm từ 2015 đến nay. Từ đó đưa ra những phân tích,
đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác thống kê xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Những số liệu phân tích một cách có hệ thống, những đánh giá khách quan trên cơ sở nghiên cứu số liệu và tổ chức, hoạt động của VKSND tối caotrong công tác thống kê các tội danh đã xét xử trong thời gian qua là cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc đưa ra những quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thống
61
kê các tội danh đã xét xử trong thời gian tới.
Chương 3
HOÀN THIỆN THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ
3.1. Quan điểm hoàn thiện thống kê tội danh đã xét xử
3.1.1. Thống kê tội danh đã xét xử phải toàn diện, đầy đủ, kịp thời về tình
hình tội phạm cả về mặt lượng và mặt chất của từng loại tội phạm, là cơ sở để
Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách phù hợp trong đấu tranh phòng chống tội
phạm
Để công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả, trước hết cần
phải nhận diện được tội phạm, xác định được nguyên nhân, điều kiện, quy luật, thủ
đoạn hoạt động phạm tội và dự báo được sự phát triển của tình hình tội phạm từ đó
đề ra những giải pháp đấu tranh đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, cần thiết phải có một
hệ thống thống kê tội phạm hiện đại, đủ mạnh để thu thập đầy đủ các thông tin, số
liệu về các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, về con người vi phạm và kết quả điều
tra, xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng một cách khách quan, toàn diện, chính
xác, từ đó nghiên cứu tìm ra nguyên nhân, điều kiện hoạt động phạm tội và quy luật
của chúng để đề ra giải pháp hợp lý, tạo thế chủ động trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
Vì vậy, tổ chức thực hiện thống kê tội phạm phải làm thường xuyên, liên tục
nhằm thống kê tình hình tội phạm và kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm của
các cơ quan tiến hành tố tụng đúng thực tiễn khách quan, đầy đủ kịp thời, không
được lơ là qua loa, cốt làm cho xong. Vì vậy, đòi hỏi những người được giao nhiệm
vụ thực hiện công tác thống kê phải nâng cao trình độ, năng lực làm công tác thống
kê tội phạm.
3.1.2. Thống kê tội phạm phải gắn với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự
Trong quá trình phát triển và quản lý quá trình phát triển của đời sống kinh tế
xã hội đang diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp bao hàm cả những thuận lợi và khó
khăn. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
62
dân và vì nhân dân, Nhà nước phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Luật hình sự là một công cụ chuyên chính
đối với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân mà nhiệm vụ của luật hình
sự đã đề ra. Do đó, thống kê tội phạm phải phục vụ kịp thời công tác lập pháp, các
số liệu thống kê về đối tượng phạm tội, về số lượng tội phạm, về tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội… là những căn cứ thực tế để xây dựng và hoàn thiện
pháp luật hình sự và đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
Vai trò của thống kê tội phạm được luận chứng về lý thuyết và thực tiễn,
nhưng phát huy được vai trò của thống kê tội phạm trong thời gian tới cần phải gắn
với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự.
3.1.3. Thống kê tội phạm được coi là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Về công tác thống kê tội phạm Đảng đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng công
tác thống kê tư pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực hiện công
tác này” [2] và đã thể chế quan điểm này vào Điều 34 Luật tổ chức VKSND năm
2014, cụ thể đã giao cho VKSND chịu trách nhiệm thực hiện việc TKTP và trong
phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng khác có trách
nhiệm phối hợp với VKSND trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Vì vậy, thống kê tội
phạm là một trong những chức năng, phải là một trong những nhiệm vụ và quyền
hạn của VKSND nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung, nhiệm vụ này
phải được tổ chức và hoạt động mang tính độc lập tương đối, có chức năng nhiệm
vụ cụ thể nhằm mục đích để điều tra thu thập, tổng hợp số liệu được chính xác, kịp
thời phục vụ việc nghiên cứu, phân tích đưa ra những nhận định, đánh giá về quy
luật hoạt động của tội phạm, các dự báo về tình hình, xu hướng phát triển của các
loại tội phạm nói chung và từng loại tội phạm cụ thể nói riêng.
Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ
của mình để thực hiện thống kê tội phạm. Cơ quan Công an có chức năng thống kê
tội phạm (bao gồm thống kê tin báo tố giác tội phạm và kết quả xử lý tội phạm ở
63
giai đoạn điều tra), Toà án nhân dân thống kê tội phạm trong giai đoạn xét xử… Cơ
quan thống kê tội phạm của VKSND ngoài trách nhiệm thống kê của ngành mình
phải chịu trách nhiệm về độ chính xác và sự thống nhất về số liệu thống kê tội phạm
đã công bố.
3.1.4. Thống kê tội phạm phải được hiểu đúng và thực hiện thống nhất
Theo quy định tại Điều 3 Luật thống kê năm 2015 và Điều 6 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, thì có hoạt động thống kê tội phạm là điều tra, tổng hợp, phân
tích và công bố các thông tin phản ánh bản chất và quy luật của hiện tượng tội phạm
trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể, do cơ quan thống kê tội phạm
của VKSND chủ trì, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng khác để thực hiện
nhiệm vụ này. Như vậy, thống kê tội phạm không đơn giản chỉ là việc đưa ra các số
liệu có tính chất toán học mà vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là thông qua
các số liệu thống kê về tội phạm, cần phải rút ra được kết luận cần thiết về tội phạm
và giải thích nguyên nhân của hiện tượng tội phạm đó. Chỉ khi nào cơ quan thống
kê tội phạm thực hiện được yêu cầu này thì thống kê tội phạm mới có vai trò, ý
nghĩa thiết thực đối với quản lý, chỉ đạo điều hành nói chung và đấu tranh phòng và
chống tội phạm nói riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng của Đảng, Nhà nước.Vì
vậy, thống kê tội phạm phải được thực hiện một cách chuyên nghiệp hóa, có như
vậy mới đáp ứng được các yêu cầu trên.
3.1.5. Thống kê tội phạm phải gắn liền với hoạt động xã hội hoá kết quả
thông tin về tội phạm
Thống kê tội phạm là loại thông tin phải được xã hội hoá (trừ thống kê tội
phạm thuộc hoặc liên quan đến bí mật quốc gia). Nhà nước, cơ quan Thống kê tội
phạm không được độc quyền thông tin về tội phạm, không được vi phạm quyền
được thông tin của công dân. Các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, các học viên
cao học, sinh viên, các nhà quản lý, nhà kinh doanh đều phải được tiếp cận với kết
quả thống kê tội phạm. Kết quả thống kê tội phạm được công khai sẽ là tốt hơn
nếu mọi người nhận thức được xã hội mình đang sống để phòng tránh những
64
nguồn nguy hiểm từ lực lượng tội phạm đang rình rập tấn công. Và có như vậy số
liệu thống kê tội phạm mới được sử dụng, mới phát huy tốt hiệu quả vai trò của
mình trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
3.1.6. Thống kê tội phạm phải tuân thủ những quy định của pháp luật về
thống kê, giữ vững kỷ luật thống kê
Theo quy định của Luật thống kê năm 2015, thì hoạt động thống kê tội phạm
phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê nói chung. Đồng thời,
để đảm bảo thu thập được những số liệu thống kê tội phạm được chính xác cần phải
có những chế tài để xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về
thống kê nói chung và thống kê tội phạm nói riêng.
Vì vậy, phải tiến hành đồng thời cả việc xây dựng, hoàn thiện và việc thực
hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đắn pháp luật thống kê tội phạm thì mới đảm bảo thu
thập được những số liệu thống kê tội phạm khách quan, kịp thời.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng (hiệu quả) thống kê các tội danh
đã xét xử.
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của thống kê tội tội danh đã xét xử và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đối với công tác thống kê tội phạm
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thống kê tội phạm đặc biệt
là thống kê tội danh đã xét xử trong thời gian tới đòi hỏi phải có sự nhận thức
thống nhất từ lãnh đạo đến toàn thể công chức, viên chức của các cơ quan tư
pháp nói riêng và cơ quan Nhà nước nói chung về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác thống kê tội phạm, khắc phục quan điểm không cho rằng thống kê
tội phạm chỉ là một hoạt động bổ trợ cho công tác thông tin báo cáo, số liệu
thống kê tội phạm chỉ phục vụ để xây dựng các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo
chuyên đề của các ngành mà chưa coi đây là một lĩnh vực công tác chuyên môn,
như Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã thể hiện "VKSND thực hiện việc thống
kê tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng khác phối hợp với VKSND thực hiện
nhiệm vụ này", có coi thống kê tội phạm là một lĩnh vực hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ thì mới được sự quan tâm đầy đủ để góp phần thực hiện tốt chức năng,
65
nhiệm vụ thống kê tội phạm, đảm bảo phát huy được vai trò của thống kê tội
phạm trong đấu tranh phòng và chống tội phạm của Đảng và Nhà nước. Ngoài
ra, số liệu thống kê tội danh đã xét xử có vai trò to lớn trong việc phục vụ cho
công tác nghiên cứu tội phạm học để thông qua đó giúp cho việc đánh giá chính
xác về diễn biến THTP, nguyên nhân, điều kiện phát sinh và phát triển của tội
phạm, kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng
để từ đó dự báo xu thế phát triển của tội phạm trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp
cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm đấu
tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả.
Bởi vậy, phải có sự nhận thức thống nhất đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của
thống kê tội phạm đặc biệt thống kê tội danh đã xét xử nhất là đối với các công
chức, viên chức trực tiếp thực hiện công tác thống kê tội phạm. Để làm được điều
này, cần phải tuyên truyền, phổ biến nâng cao trách nhiệm cho Lãnh đạo các cấp, các
ngành, các cán bộ làm công tác thống kê tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng có
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của thống kê tội phạm bằng nhiều
hình thức phong phú, đa dạng; nhiều phương pháp khác nhau như viết các bài trên các
phương tiện thông tin đại chúng, hay thông qua các hội nghị tập huấn chuyên ngành
hoặc bằng cách lồng ghép với các chương trình, nội dung đào tạo trong các trường đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của các ngành. Đây là điều kiện tiên quyết quyết định đến
chất lượng, hiệu quả của thống kê tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Vì khi đã có nhận
thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của thống kê tội phạm thì thống kê tội phạm sẽ được
quan tâm đầy đủ và tạo mọi điều kiện bảo đảm về mặt pháp lý, về các nguồn lực cần
thiết để phát huy hơn nữa vai trò của thống kê tội phạm trong đấu tranh phòng và
chống tội phạm.
Về mặt pháp lý bảo đảm thực hiện thống kê tội phạm hiện nay ở nước ta còn
một số hạn chế, bất cập đó là: ngoài Điều 34 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014 về việc giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác thống kê tội
phạm và Thông tư liên tịch số 05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
ngày 12/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
66
Công an, Bộ Quốc phòng Quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện
thống kê hình sự liên ngành hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật
trong công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm thì chưa có văn bản quy phạm
pháp lý nào cao hơn quy định về thực hiện thống kê tội phạm. Do vậy, để nâng cao
chất lượng thống kê tội phạm thì một trong những giải pháp có tính chiến lược là
Đảng, Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo kịp thời cho nghiên cứu để xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực thống kê tội phạm như: Xây dựng và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn về công tác thống kê thống kê tội
phạm nhằm làm căn cứ, cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tốt hơn
nữa với Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ thống kê tội
phạm. Trong khi chưa xây dựng được văn bản luật có tính pháp lý cao hơn về
thống kê tội phạm thì vẫn phải tiếp tục tổ chức thực hiện tốt việc thống kê tội
phạm theo quy hiện hành, đồng thời đúc rút kinh nghiệm, tổng kết những khó
khăn vướng mắc và đề xuất các giải pháp để đề nghị cấp có thẩm quyền là ủy
ban thường vụ Quốc hội cho nghiên cứu, xây dựng Pháp lệnh thống kê tội phạm
thay cho Thông tư liên tịch số 05 nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh và văn bản hướng dẫn việc phân loại, quản lý những thông tin thống kê
cần bảo mật theo quy định của Nhà nước, những thông tin thống kê nào được công
bố rộng rãi, quy trình, thẩm quyền công bố số liệu… làm cơ sở cho việc áp dụng
trong hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Quá trình sửa đổi bổ sung các quy định
pháp luật luôn phải gắn với hoạt động thực tiễn, gắn với hoạt động tổ chức thực
hiện thống kê tội phạm liên ngành, có sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị nhằm
xác định đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, phạm vi trách nhiệm, phương pháp, hình thức
tổ chức phù hợp với từng cơ quan, từng bộ phận cụ thể và mối quan hệ giữa các cơ
quan, đơn vị để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong hoạt động thống kê tội phạm.
Ngoài ra, cơ sở của thống kê tội phạm là xuất phát từ pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự, thi hành án hình sự nên để việc thống kê tội phạm được kịp thời có hiệu quả,
chính xác thì cũng cần phải sửa đổi, hoàn thiện các luật này được phù hợp.
3.2.2. Xây dựng mô hình báo cáo thống kê đảm bảo việc thu thập và quản lý
67
số liệu.
Để đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất, đến chuẩn hoá dữ liệu, số liệu thống kê
tội danh đã xét xử, một trong những giải pháp có tính then chốt đó là cần xây dựng
một mô hình báo cáo thống kê phù hợp, đảm bảo việc thu thập số liệu, trong đó
phân công trách nhiệm của 04 cấp trong việc thu thập, tổng hợp, quản lý số liệu
thống kê.
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống chỉ tiêu thống kê tội phạm phục
vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm
Hệ thống chỉ tiêu thống kê tội phạm còn là cơ sở để phân công, phối hợp
trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích và công bố thông tin thống kê về tội phạm,
xây dựng Chương trình điều tra thống kê tội phạm, xây dựng biểu mẫu thu thập
thống kê và chế độ báo cáo thống kê tổng hợp, thống kê cơ sở, xây dựng định
nghĩa, phương pháp tính chỉ tiêu thống kê, hệ thống thống kê tội phạm bao gồm
danh mục chỉ tiêu, các phân tổ chủ yếu, kỳ hạn báo cáo và phân công thực hiện việc
thống kê tội phạm.
Theo khoản 2, Điều 8 của Luật Thống kê quy định: “Căn cứ vào Hệ thống
chỉ tiêu thống kê quốc gia, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngành Bộ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành các chỉ tiêu thống kê
phục vụ yêu cầu quản lý, sử dụng thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách” [71, tr.9].
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu thống kê tội phạm là cần
thiết. Tuy nhiên, để thu thập được các số liệu thống kê tội phạm đảm bảo độ chính
xác và thống nhất, công việc không kém phần quan trọng là phải xây dựng, hoàn chỉnh,
bổ sung hệ thống các khái niệm, phương pháp tính đối với các chỉ tiêu thống kê tội
phạm cụ thể. Việc chuẩn hóa các khái niệm, phương pháp tính các chỉ tiêu thống kê tội
phạm cũng có những khó khăn, phức tạp vì những số liệu thống kê tội phạm luôn luôn
là những con số động (luôn thay đổi), không phải là số tĩnh. Ví dụ: đối với một vụ án
hôm nay chỉ khởi tố 1 bị can nhưng sau đó lại thêm 2 bị can nữa hoặc một bị can bị
khởi tố điều tra ở 2 vụ án khác nhau; việc trả hồ sơ bổ sung nhiều lần của 1 vụ án, hủy
án để điều tra, truy tố, xét xử lại, tách bị can để xét xử (có bị can trốn)… mà các thông
68
tin về quá trình giải quyết vụ án có mối liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời
nhau. Vì vậy, việc xây dựng khái niệm, phương pháp tính chỉ tiêu thống kê là rất quan
trọng, nó quyết định tính chính xác, thống nhất của số liệu thống kê tội phạm nên cần
phải được chuẩn hóa, xây dựng theo đúng chuẩn mực thống kê và có sự thống nhất
giữa các ngành với nhau để cùng thực hiện, áp dụng thống nhất trong các cơ quan tiến
hành tố tụng (liên ngành).
Để nâng cao chất lượng thống kê tội phạm, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực của nước ta và với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin thì công tác thống kê tội phạm cần phải thay đổi cơ
bản và đáp ứng đầy đủ một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, thống kê tội phạm phải đảm bảo thu thập đầy đủ, kịp thời các số liệu
về tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng,
không được bỏ sót, lọt các đối tượng cần phải thống kê như: số vụ phạm tội, số
người phạm tội, các hành vi phạm tội, nạn nhân, những thiệt hại do tội phạm gây
ra....
Hai là, số liệu thống kê tội phạm sau khi đã được tổng hợp phải được
phân tích về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm, quy luật hoạt động phạm
tội để đưa những dự báo về tội phạm trong thời gian tiếp theo từ đó đề ra các
biện pháp phòng và chống tội phạm phù hợp, có hiệu quả.
Ba là, đẩynhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thống kê
tội phạm nhằm nâng cao tính chính xác, độ tin cậy và sự kịp thời của thống kê tội
phạm.
Bốn là,xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê tội phạm nhằm có đủ các
thông tin, số liệu về tình hình tội phạm, kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan bảo vệ
pháp luật để phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cụ thể cần một số
các thông tin, số liệu thống kê tội phạm cơ bản như sau:
3.2.4.Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện hoạt động thống kê tội phạm
Những bất cập, tồn tại trong tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện thống kê
69
tội phạm của Viện kiểm sát các cấp và của các cơ quan tư pháp có thể thấy rằng với
thực trạng tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện hoạt động thống kê tội phạm hiện
nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu nên chưa phát huy hết vai trò của thống kê tội
phạm. Để nâng cao chất lượng công tác thống kê tội phạm nhằm phát huy vai trò
của thống kê tội phạm nhất thiết phải đổi mới cả về tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý
và thực hiện công tác thống kê tội phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu như sau:
- Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện công tác thống kê tội phạm, trước tiên là
thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân (cơ quan chủ trì việc thực hiện thống kê tội
phạm) cần được tổ chức thống nhất. Theo đó, tất cả các VKSND cấp tỉnh đều có phòng
Thống kê tội phạm, căn cứ vào số lượng án, số lượng đơn vị hành chính trên địa bàn
mà số lượng biên chế cán bộ của Phòng được phân bổ cho phù hợp.
- Yêu cầu đặt ra đối với lãnh đạo các đơn vị thống kê tội phạm là phải có đủ
khả năng kiểm tra số liệu, phân tích số liệu và dự báo được tình hình tội phạm. Cán
bộ làm công tác thống kê tội phạm cần được chuyên môn hoá và được đào tạo
chuyên sâu (về công tác thống kê tư pháp, về tin học, về nghiệp vụ kiểm sát, nghiệp
vụ thống kê, phân tích thống kê…) và phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên;
được bố trí công tác ổn định, tránh luân chuyển thường xuyên cán bộ làm công tác
này khi không có lý do đặc biệt và khi chưa có cán bộ thay thế tương đương.
- Đối với VKSND cấp huyện, trong điều kiện thực hiện việc tăng thẩm quyền
cho các cơ quan tư pháp cấp huyện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
thì cần bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách làm công tác thống kê tội phạm. Vì từ khi
tăng thẩm quyền giải quyết án hình sự cho cấp huyện đến nay số lượng án hình sự cấp
huyện phải giải quyết đã tăng trên 20% so với trước).
Căn cứ vào các yêu cầu trên và để khắc phục được các hạn chế của thống
kê tội phạm hiện nay, cần phải xây dựng mô hình bộ máy tổ chức quản lý và
thực hiện thống kê tội phạm tập trung vào một mối; đơn vị thực hiện thống kê tội
phạm ở cấp tỉnh và cán bộ thống kê tội phạm ở cấp huyện sẽ quản lý theo dõi toàn
bộ hoạt động thống kê tội phạm từ khâu thụ lý, ghi chép sổ sách, lập báo cáo thống
kê mà những thông tin thống kê này được lấy trực tiếp từ hồ sơ vụ án hình sự. Với
70
tổ chức bộ máy như vậy có ưu điểm như sau:
+ Tăng cường tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ
trong các khâu, các bộ phận nghiệp vụ chỉ tập trung vào lĩnh vực chuyên môn của
mình.
+ Nâng cao tính kịp thời, chính xác, khách quan của số liệu thống kê. Từ đó
việc phân tích thống kê sẽ sâu sắc và sát với thực tế hơn.
+ Hạn chế tình trạng án bị bỏ lọt, bỏ quên hoặc vay mượn để báo cáo thống
kê chạy theo thành tích ảnh hưởng đến tính khách quan, chính xác của con số thống
kê vì có một bộ phận độc lập, khách quan, chuyên nghiệp quản lý và theo dõi tiến
độ giải quyết vụ án.
+ Thuận lợi cho việc tập huấn nghiệp vụ bồi dưỡng công tác thống kê tội
phạm, đồng thời rất thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác này để nhằm thay đổi về cơ bản phương pháp thống kê trong điều kiện ngành
Kiểm sát nhân dân và của các cơ quan tư pháp đang còn khó khăn về cơ sở vật chất, về
con người như hiện nay (chủ yếu thực hiện thống kê bằng phương pháp thủ công).
Nhằm đảm bảo tính khả thi cao cho việc triển khai quản lý án hình sự - thống kê bằng
ứng dụng Công nghệ thông tin.
+ Khắc phục tình trạng hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành phải sử dụng
nhiều nguồn số liệu khác nhau, vì tính bị động của hệ thống thống kê tội phạm đối
với những thông tin số liệu mang tính thời sự, đột xuất dẫn đến việc vừa thừa, vừa
thiếu, vừa mâu thuẫn.
3.2.5. Đầu tư khoa học - kỹ thuật công nghệ thông tin và truyền thông vào
công tác thống kê tội phạm
Để thực hiện tốt công tác thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân
nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung thì cần thiết phải chuẩn bị tốt cơ sở vật
chất và điều kiện làm việc, trong đó trọng tâm là tin học hóa công tác thống kê
tội phạm. Để thực hiện giải pháp này thì cần phải xây dựng một mạng thông tin
Internet cho các cơ quan tư pháp, mạng Internet trong nội bộ các ngành và trang
bị đầy đủ máy tính, tiến hành hoà mạng, lập các Trung tâm tích hợp dữ liệu về
71
thống kê tội phạm; xây dựng các phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác
thống kê tội phạm, toàn bộ cơ sở dữ liệu sẽ tập trung tại các trung tâm tích hợp
dữ liệu (tuỳ theo mô hình mạng lựa chọn mà Trung tâm tích hợp đặt tại các tỉnh,
các khu vực hay tập trung toàn bộ tại các cơ quan trung ương). Việc thống nhất
sử dụng một phần mềm sẽ thống nhất được công tác đào tạo, quản lý và phát
triển các ứng dụng, đồng thời tiết kiệm được kinh phí xây dựng phần mềm do
mỗi địa phương tự xây dựng một phần mềm riêng cho mình.
Công nghệ thông tin là công cụ, phương tiện để quản lý, khai thác các thông
tin về thống kê tội phạm một cách nhanh chóng, chính xác, thông suốt và hiệu quả.
Xuất phát từ vai trò rất quan trọng của công nghệ thông tin đối với hoạt động thống
kê như vậy, nên Luật Thống kê và các Nghị định của Chính phủ đã quy định “Nhà
nước ưu tiên đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông và phương pháp
thống kê tiên tiến vào hoạt động thống kê” [23, tr.7] hoặc Điều 3, Nghị định số
40/2004/NĐ-CP ngày 13/2/2004 của Chính phủ về việc ứng dụng khoa học vào hoạt
động thống kê đã yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông vào hoạt động
thu thập, xử lý, tổng hợp, công bố thông tin, xây dựng ngân hàng dữ liệu thống kê…
Do vậy, việc hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê là một
giải pháp và cũng là điều kiện tất yếu để thực hiện nhiệm vụ thống kê tội phạm có hiệu
quả.
Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê tội phạm
của các ngành tư pháp nói chung và của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng đều vừa
được thực hiện bằng thủ công, vừa áp dụng công nghệ thông tin như các Báo cáo
thống kê cơ sở (báo cáo thống kê được lập tại VKSND cấp huyện, các phòng
nghiệp vụ ở cấp tỉnh, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối cao) lập báo cáo
bằng thủ công (đếm sổ). Còn báo cáo thống kê tổng hợp (cấp tỉnh tổng hợp từ báo
cáo của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, các phòng nghiệp vụ, Cục Thống kê tội
phạm tổng hợp từ báo cáo của cấp tỉnh và các đơn vị nghiệp vụ) được tổng hợp
bằng máy vi tính.
Tuy nhiên, hiện nay trong ngành KSND hệ thống sổ ghi chép số liệu ban đầu
72
(các sổ thụ lý, các sổ nghiệp vụ...) có hai chức năng là cơ sở để lập báo cáo thống kê
và là thủ tục hành chính tư pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên khi
ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hoạt động nghiệp vụ thì hầu hết các thông
tin để lập báo cáo thống kê và thông tin về hành chính tư pháp được cập nhật vào hệ
thống máy tính. Nếu hệ thống sổ nghiệp vụ vẫn giữ nguyên như cũ thì việc ghi chép
trùng lặp, vừa phải cập nhật vào máy vi tính vừa phải ghi vào sổ... Vì vậy, cần phải
đổi mới về phương thức ghi chép thông tin ban đầu. Các sổ nghiệp vụ cần phải
được xây dựng phần mềm sổ thụ lý điện tử được sử dụng từ cấp huyện, cấp tỉnh,
cấp cao, cấp tối cao để thuận tiện cho quá trình quản lý và bỏ phương pháp thủ công
là làm sổ giấy và hết kỳ báo cáo đếm từ sổ để thống kê vào biểu. Việc triển khai hệ
thống thống kê được mô tả như trên trong toàn quốc cần phải có bước đi thích hợp,
thời gian đầu (giao thời của hai phương thức thống kê hiện hành và phương thức
mới từ 3 đến 5 năm) song song với việc triển khai hệ thống mới thì phương thức cũ
vẫn phải duy trì cho đến khi hệ thống mới thay thế hoàn toàn hệ thống cũ.
Nhằm bảo đảm phát huy tốt hơn nữa vai trò của thống kê tội phạm trong
công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm thì tiến tới cũng cần phải đổi mới
việc thực hiện thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên ngành giữa Bộ Công an,
VKSND, TAND, Bộ Quốc phòng về phương pháp quản lý, xây dựng và thực hiện
tổng hợp báo cáo thống kê tội phạm, chuyển từ phương pháp thủ công bằng việc
ứng dụng tiện ích của công nghệ thông tin (bằng phần mềm quản lý án). Sau khi
ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện thành công quản lý án và thống kê án hình sự,
thì với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện thống kê hình sự, thống kê tội
phạm phải nghiên cứu, đề xuất để các ngành tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án) đều phải thực hiện việc quản lý án và thống kê án hình sự bằng
phần mềm quản lý. Việc quản lý án này phải được thực hiện liên thông và kết nối
với nhau. Mỗi cơ quan tư pháp theo chức năng nhiệm vụ của mình phải cập nhật
các thông tin cơ bản theo quy định của BLHS, tố tụng hình sự về vụ án, bị can vào
phần mềm quản lý án và thống kê án hình sự từ khi vụ án được khởi tố, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự. Đồng thời, có sự phân quyền quản lý, theo dõi và
73
chỉ đạo cụ thể những ai, cơ quan nào, thẩm quyền đến đâu thì được quản lý, kiểm
tra những vụ án nào? thẩm quyền và phạm vi quản lý này được thực hiện giống
như thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã quy định rõ trong Bộ luật tố tụng hình
sự và BLHS. Sau mỗi kỳ thống kê VKSND được giao chủ trì thực hiện việc thống
kê tội phạm sẽ tiến hành in báo cáo do VKSND lập trên cơ sở các ngành đã cập
nhật vào phần mềm quản lý án hình sự và thống kê chung ra và tổ chức đối chiếu
số liệu với Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân (Thông tư liên tịch số
05/2018/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Quy
định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự để kiểm tra, bổ
sung các thông tin còn thiếu được kịp thời. Đồng thời căn cứ vào kết quả thống kê
này để kiểm định, kiểm tra lại việc cập nhật thông tin của “Hệ thống quản lý án
hình sự và thống kê” có chính xác không.
3.2.6. Xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực hiện thống kê tội phạm
Về công tác cán bộ, trước hết cần tránh khuynh hướng chủ quan đơn giản,
sắp xếp những người năng lực kém làm công tác thống kê tội phạm mà cần bố trí
những cán bộ có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, cần mẫn, có sức khoẻ và ổn
định để thực hiện nhiệm vụ này. Cán bộ thống kê phải được chuẩn hoá về trình độ,
có kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ kiểm sát hoặc đại học luật, trình độ nghiệp vụ
thống kê và trình độ ứng dụng CNTT. Đồng thời, có chính sách, chế độ khuyến
khích tạo điều kiện để cán bộ thống kê chuyên tâm công tác.
3.2.7. Xã hội hóa thông tin thống kê tội phạm và hội nhập quốc tế trong việc cung
cấp thông tin về tội phạm nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm xuyên quốc gia
Số liệu thống kê tội phạm sau khi đã được tổng hợp, ngoài mục đích phục vụ
cho việc quản lý chỉ đạo điều hành, cũng cần phải được phổ biến và công bố rộng
rãi trong nhân dân để mọi người biết (trừ một số thông tin về tội phạm liên quan đến
an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, vụ án đang trong quá trình điều tra) và cùng góp
sức lực đề xuất hoặc có trách nhiệm hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Đặc biệt là các nhà nghiên cứu tội phạm học, luật học có những thông tin, số
74
liệu kịp thời phục vụ cho việc nghiên cứu, phân tích để dự báo và đề ra các giải pháp
đấu tranh với tội phạm được kịp thời, phù hợp như hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây
75
dựng chương trình trọng tâm trọng điểm về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
KẾT LUẬN
Thống kê tội phạm có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh phòng và chống
tội phạm, cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình tội phạm, cũng như kết quả xử
lý tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và của cơ quan tư pháp hình
sự nói riêng trên phạm vi lãnh thổ, địa phương và trên phạm vi toàn quốc trong một
giai đoạn nhất định.
Thống kê tội phạm là cơ sở để Đảng và Nhà nước đưa ra các chính sách hình
sự đúng đắn, kịp thời; tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như cơ chế chính
sách kinh tế - xã hội và các biện pháp phòng, chống tội phạm hiệu quả hơn. Đặc
biệt, kết quả thống kê tội phạm sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước kiểm soát được tình
hình tội phạm, đánh giá được khả năng, năng lực của các cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự; hiệu quả của các cơ quan này trong việc làm giảm
thiệt hại về tinh thần, vật chất do tội phạm gây ra, cùng những hạn chế, bất cập, bài
học kinh nghiệm để xác định phương hướng, giải pháp tăng cường đấu tranh với các
loại tội phạm.
Vì vậy, trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, thống kê tội
phạm được coi là một công cụ hữu hiệu để nghiên cứu tội phạm và người phạm tội,
đánh giá thực trạng tình hình tội phạm, xây dựng dự báo tình hình phạm tội sẽ
xảy ra trong tương lai để từ đó hoạch định chương trình, kế hoạch phòng, chống
tội phạm. Chính vì vậy thống kê hình sự, thống kê tội phạm đã và đang được tất
cả các nước trên thế giới quan tâm. Thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm
ở nước ta cũng như các nước trên thế giới cho thấy rằng: Hành vi phạm tội được
thực hiện đa dạng, phức tạp về thời gian, địa điểm, phương thức, thủ đoạn... Các
yếu tố về thân nhân người phạm tội cũng hoàn toàn khác nhau do đó các nhà
nghiên cứu về tội phạm học đã sử dụng nhiều phương pháp thống kê hình sự,
thống kê tội phạm khác nhau để khai thác, thu thập những thông tin về tội phạm
xảy ra phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.
Do vậy, để công tác đấu tranh phòng và chống tội có hiệu quả thì yêu cầu
76
cấp bách hiện nay là phải nâng cao chất lượng thống kê tội phạm. Muốn vậy, trước
hết phải đổi mới và thống nhất về nhận thức đối với cán bộ về thống kê tội phạm,
vai trò và ý nghĩa của nó trong hoạt động công tác của các cơ quan tư pháp đồng
thời phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu đổi mới cả về tổ chức và hoạt động của
công tác thống kê theo hướng khoa học và hiện đại để phát huy vai trò của nó phục
vụ nhiệm vụ đấu tranh và phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết đặt ra đối với công tác thống kê tội phạm nhằm khắc phục những tồn tại,
yếu kém trong công tác thống kê tội phạm, đáp ứng ngày một hiệu quả hơn nhu cầu
thông tin thống kê tội phạm của hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành và của hoạt
động hoạch định các chính sách quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
trước những yêu cầu đặt ra của thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
77
hoá đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ
Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020".
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ
Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".
3. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về "tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình
hình mới.
4. Bộ Công an - Tổng cục cảnh sát nhân dân (1994), Tội phạm ở Việt Nam, thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài KX-04-14, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
5. Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (2017), Nxb Công an
nhân dân.
6. Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan (2015), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng Cục thống kê (Viện Khoa học thống kê)
(2005), Thông tin tư liệu năm 2005 của Tổng Cục Thống kê, Viện khoa học
thống kê - ISS.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13/02/2004 qui định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê năm 2003.
9. Dương Tuyết Miên (2012), Sách chuyên khảo: Tội phạm học đương đại,
NXB Chính trị- Hành chính
10. Nguyễn Minh Đức (2006), "Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thống kê
và công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm sát.
11. Lại Thị Thu Hà (2005), "Bàn về hệ thống tổ chức, quản lý và thực hiện hoạt
động thống kê trong ngành Kiểm sát nhân dân", Tạp chí kiểm sát, (18).
12. Nguyễn Duy Hồng (2005), Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới, Đề tài khoa
78
học cấp bộ.
13. Phạm Hỗ (2003), Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm với vấn đề hợp tác
quốc tế trong phòng chống tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê
hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, HN 2003.
14. Nguyễn Văn Lan (2001), Một số yêu cầu về nâng cao chất lượng công tác
thống kê tội phạm, Tạp chí Công an nhân dân số 9/2001.
15. Nguyễn Quang Lộc (2003), Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm trong
ngành Toà án nhân dân, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự -
Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.
16. TS Nguyễn Văn Mạnh, TS Trịnh Đức Thảo, TS Lê Văn Hòe (2009), Tập
bài giảng - Một số vấn đề cơ bản về hành chính học (dùng cho các lớp đào
tạo hệ cử nhân chính trị) - Học viện chính trị Quốc gia Hồ chí Minh, khoa
học nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
17. Đinh Xuân Nam (2003), Phương pháp thống kê tội phạm phục vụ cho công
tác nghiên cứu tội phạm, xây dựng chương trình, kế hoạch phòng ngừa tội
phạm ở một số nước trên thế giới hiện nay, Báo cáo khoa học tại hội thảo
Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.
18. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1993), Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật hình sự nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật tố tụng hình sự
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày
2/4/2002.
23. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Luật thống kê và các văn
bản hướng dẫn thi hành, Nxb Thống kê, Hà Nội.
24. Quách Anh Sùng (2001), Một số vấn đề cơ bản về thống kê tội phạm trong
79
ngành kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
25. Nguyễn Viết Thế (2003), Vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào công
tác Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo
Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.
26. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24
tháng 11 năm 2005 của Thủ tuớng Chính phủ ban hành hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia.
27. Thủ tướng Chính phủ (2005), QĐ số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02/06/2010 của
Thủ tuớng Chính phủ về ban hành hệ thống chỉ tiêu Thống kê quốc gia
28. Nguyễn Xuân Thuỷ (2003), Chức năng, nhiệm vụ và đối tượng của Thống
kê hình sự - Thống kê tội phạm, mối quan hệ giữa Thống kê hình sự -Thống
kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự - Thống kê tội
phạm liên ngành, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Tiến (chủ biên) (2010), Kiến thức Thống kê dành cho các cán
bộ lãnh đạo, Nxb Thống kê, Hà Nội.
30. Phạm Quang Trung (2003), Vấn đề ứng dụng tin học vào công tác Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm, Báo cáo khoa học tại hội thảo Thống kê hình sự - Thống kê tội phạm liên ngành, Hà Nội.
31. Trường Đại học kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình Lý thuyết thống kê, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
32. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân.
33. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2016.
34. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1970), Chỉ thị số 10-CT ngày 10/10/1970
về tăng cường công tác thống kê.
35. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo về kết quả hoạt động của
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và phương hướng, biện pháp thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII trong ngành
Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng.
80
36. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động của Ban chỉ đạo ngành Kiểm sát nhân dân về các Chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
37. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (Vụ công tác lập pháp), Những sửa đổi cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
38. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2005), Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp bộ. Tháng 7 năm 2005 - Chủ nhiệm
Đề tài: CN Nguyễn Duy Hồng. Thư ký đề tài Phạm Văn Được.
39. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2011), Đề án xây dựng hệ thống thống kê hình sự - thống kê tội phạm trong ngành kiểm sát nhân dân
giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm (2003), Chuyên đề
một số vấn đề lý luận cơ bản của thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên
ngành - Ban chỉ đạo liên ngành xây dựng Đề án Thống kê hình sự, thống kê
tội phạm, Hà Nội.
41. Nguyễn Hồng Vinh (2007), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm
sát nhân dân, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
42. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển ngôn ngữ, Nxb Thông tin, Hà Nội.
43. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam.
45. Trần Thủy Quỳnh Trang, Phòng TKTP và CNTT Viện KSND TP. Hồ Chí
Minh (2014), Thống kê tội phạm, thống kê hình sự - Lý luận và thực tiễn.
46. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
“Cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của thống kê tư pháp và việc xây dựng, hoàn
81
thiện chế độ thống kê tư pháp ở Việt Nam”.