VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT HUẤN
ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT HUẤN
ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi,
nội dung cũng như các số liệu trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực.
Những kết quả trong luận văn chưa từng được công trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Viết Huấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC
TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ............................................................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh các
tội phạm về ma túy ........................................................................................... 8
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy ..................... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG ...................................... 20
2.1. Khái quát tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
......................................................................................................................... 20
2.2. Thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trên đại bàn tỉnh Cao
Bằng ................................................................................................................ 38
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH ĐÚNG CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ....................................... 53
3.1. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội phạm về ma
túy .................................................................................................................... 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội phạm về ma
túy .................................................................................................................... 55
3.3. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội phạm về ma túy .......... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TAND Tòa án nhân dân
TNHS Trách nhiệm hình sự
VAHS Vụ án hình sự
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma
tuý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .............................................. 20
Bảng 2.2. Tỷ lệ các tội phạm về ma túy trong tổng số tội phạm nói chung
đã được xét xử trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .......................... 21
Bảng 2.3. So sánh số vụ phạm tội về ma túy với số vụ phạm tội nói chung
và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .......... 22
Bảng 2.4. So sánh số bị cáo phạm tội về ma túy với số bị cáo phạm tội nói
chung và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) 23
Bảng 2.5. Cơ cấu theo tội danh ..................................................................... 26
Bảng 2.6. Cơ cấu của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) theo hành vi phạm tội .............. 26
Bảng 2.7. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội ....................................................... 27
Bảng 2.8. Cơ cấu theo loại chất ma túy bị thu giữ ...................................... 29
Bảng 2.9. Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng ................. 29
Bảng 2.10. Cơ cấu theo hình thức phạm tội ................................................. 30
Bảng 2.11. Cơ cấu theo động cơ phạm tội ................................................... 31
Bảng 2.12. Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội ........................... 31
Bảng 2.13. Cơ cấu theo đặc điểm về lý lịch tư pháp của người phạm tội .. 33
Bảng 2.14. Cơ cấu theo đặc điểm người phạm tội là người nghiện hay
không nghiện ma túy ...................................................................................... 34
Bảng 2.15. Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội .................... 35
Bảng 2.16. Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội ................................... 35
Bảng 2.17. Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội ................................. 36
Bảng 2.18. Cơ cấu theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội ................... 37
Bảng 2.19. Tội danh do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối với các
vụ án về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2014-2018 ................. 38
Bảng 2.20. Số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết sơ thẩm các vụ án về ma
túy của TAND hai cấp tỉnh Cao Bằng (2014-2018) ..................................... 40
Bảng 2.21. Số liệu thống kê giải quyết phúc thẩm các vụ án về ma túy của
TAND tỉnh Cao Bằng (2014-2018) ............................................................... 41
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã có những quy
định rất rõ về người bị buộc tội qua đó làm căn cứ để các Nhà làm luật xây
dựng các quy định về định tội danh cho người có tội. Như vậy, điều đó có
nghĩa chừng nào chưa có bản án kết tội của TAND đã có hiệu lực pháp luật
thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Một người khi thực
hiện các hành vi của bản thân với tư cách từ “người phạm tội” trở thành
“người có tội” nhất định phải có một bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật
của TAND và được chứng minh theo trình tự luật định. Phán quyết của
TAND mang tính tuyệt đối vì xét xử là hoạt động của TAND nhằm đưa ra
phán quyết cuối cùng mà quyết định này liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng nhất như tự do, danh dự, tài
sản, nhân thân, thậm chí cả tính mạng con người. Do đó, để TAND các cấp
xem xét và xét xử sau đó đưa ra một bản án công bằng, có căn cứ và đúng
pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt là các hoạt
động cơ bản và quan trọng mang tính quyết định, xác định một người có tội
hay không có tội. Vì thế, công tác định tội danh của TAND các cấp được
thực hiện đúng không những để quyết định hình phạt đúng, mà còn phân
hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và
tự do của con người, của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Ngược
lại, nếu TAND các cấp thực hiện việc định tội danh cho người có tội sai sẽ
dẫn đến một loại hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính công
minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt do TAND quyết định, truy
cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo
danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy
1
tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và TAND, giảm hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Thực tiễn xét xử các VAHS cho thấy, hiện nay, các cơ quan tiến
hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy. Trong giai đoạn qua, tình hình tội phạm về
ma túy trên thế giới nói chung và Việt Nam có sự biến đổi cả về số lượng
và tính chất các vu ̣án, số đối tượng và số lượng ma túy, diễn biến phức
tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh, trật tự chung của xã hội cũng
như sức khỏe của cộng đồng, người dân với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ
thể thực hiện tội phạm. Trong quy định của pháp luật hình sự hiện hành có
khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội
phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thường dễ bị lúng túng gây nhiều
tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu chính xác. Bên canḥ đó, các quy
định trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
đều có các ý kiến đề nghị sửa đổi các tội phạm về ma túy, điều đó cho thấy
xung quanh tội này còn nhiều vấn đề cần được tiếp tiếp tục trao đổi, nghiên
cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn để hoàn thiện hơn nữa các tội phạm về
ma túy, tạo điều kiện cho việc định tội danh được chính xác.
Trong thời gian từ năm 2013 đến hết năm 2018, TAND cấp tỉnh cũng
như cấp huyện tỉnh Cao Bằng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng, tính
cấp thiết và không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải
quyết, xét xử đúng người đúng tội các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra
việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán,
đảm bảo các quyết định của TAND đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ
hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi đặc biệt đối với định tội
danh các tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác
2
xét xử vẫn còn một số ít các cá nhân, trường hợp thực hiện, áp dụng không
đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội cũng như sự ảnh
hưởng đến xã hội của tội phạm ma túy nên dẫn đến việc định tội danh cho
các tội phạm về ma túy còn thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn
tồn tại ở các tội phạm về ma túy. Với lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài:
“Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” làm
đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả tìm đọc các tác phẩm khoa học về
tội phạm ma túy cũng như định tội danh đối với loại tội phạm này, cụ thể:
Cuốn sách “Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực
hành)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm
và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản cho thấy đó là những nghiên cứu lý luận
chung về định tội danh mà không có công trình nào định tội danhđối với
một nhóm tội phạm cụ thể. Còn trong nước, người viết chia thành các
nhóm vấn đề sau:
Nhóm thứ nhất - Hệ thống các giáo trình, sách chuyên khảo, sách
tham khảo liên quan đến vấn đề định tội danh và tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, có thể kể đến các công trình
sau:GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh,
Chương I - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003 và 2007; PGS.TS. Trịnh
Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài
tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về định tội danh, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 1999, tái bản năm 2010;
3
Nhóm thứ hai - Hệ thống các luận văn, luận án tiến sĩ luật học, nói
chung, chỉ có một số công trình đề cập riêng rẽ đến vấn đề định tội danh
hoặc về các tội phạm về ma túy như: Nguyễn Thanh Dung, định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2012; Đoàn Thị Thu Thúy, định tội danh đối với các
tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Đắc Lắk, luận văn Thác sĩ luật học,
Học viên Khoa học xã hội Việt Nam, 2018…
Nhóm thứ ba - Hệ thống các bài viết khoa học, đề tài nghiên cứu
khoa học và trên Tạp chí TAND và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng
chỉ mang tính chất đơn lẻ và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội
phạm, cũng như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể, như: Phan Anh
Tuấn, định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của
nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; Nguyễn
Thị Hợp, Pháp luật về xác định tội danh và thực tiễn áp dụng, Tạp chí
TAND, số 15/2011;
Như vậy, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình sách báo đã
nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động
định tội danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá một số nhận
định liên quan đến yếu tố định tội danh…Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với các tội phạm về
ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để
làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và
định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng, cũng như đánh giá
4
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, từ đó đưa ra đề xuất yêu cầu
và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn Cao Bằng nói riêng, cả nước
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về định tội danh các tội phạm về
ma túy; phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy; cũng như các giai đoạn định tội danh đối
với các tội phạm về ma túy;
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với các tội phạm
về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và
một số nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc
định tội danh đối với các tội phạm về ma túy từ thực tiễn Cao Bằng nói
riêng, cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh đối
với các tội phạm về ma túy của TAND các cấp tỉnh Cao Bằng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
định tội danh đối với các tội phạm về ma túy theo luật hình sự Việt Nam
(như: khái niệm, phân loại, cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học, các giai đoạn
của việc định tội danh đối với tội phạm này), đánh giá thực tiễn định tội
5
danh các tội phạm về ma túy (Theo Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật
Hình sự năm 2015).
Về không gian: trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Về thời gian: trong giai đoạn 05 năm từ 2014 - 2018
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các lý luận về khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và quan
điểm, định hướng của Đảng về chính sách pháp luật hình sự; quan điểm,
đường lối xử lý đối với các tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình
sự như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên
những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp
TAND tối cao và TAND tỉnh Cao Bằng để phân tích các tri thức khoa học
luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội
danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về định tội danh trong pháp luật
hình sự Việt Nam nói chung, lý luận về định tội danh đối với một tội phạm
6
cụ thể - các tội phạm về ma túy nói riêng, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người,
bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình
sự Việt Nam liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với
các tội phạm về ma túy nói riêng tại TAND các cấp ở địa phương từ những
thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Cao Bằng, qua đó, nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và
tự do của con người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm
pháp luật trong thực tiễn giải quyết các VAHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với các tội phạm về ma túy
tại tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng
đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội
danh các tội phạm về ma túy
1.1.1. Khái niệm định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là hoạt động nhận thức
mang tính logic, để hoạt động nhận thức này được tiến hành một cách hiệu
quả, chủ thể nhận thức. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, đề tài luận văn
làm rõ hơn các nội dung về các tội phạm ma túy. Cụ thể, các hành vi được
xác định là cấu thành thành tội phạm về ma túy:
Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma tuý (Điều 192); Các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma tuý; chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 193, Điều 194); Các
hành vi tổ chức sử dụng trái phép, chứa chấp việc sử dụng trái phép, cưỡng
bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197, 198,
200); Các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý (Điều 195); Các hành vi sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc
sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 196); Hành vi vi phạm
quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác
(Điều 201).
Theo quy định của BLHS năm 2015 thì thấy hầu hết các các tội phạm
về ma túy đều được quy định là tội phạm có cấu thành hình thức nên hậu
quả không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm.
8
Về độ tuổi chịu TNHS, theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 thì:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, về độ tuổi chịu
TNHS thì đối với các tội tại Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy);
Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển
tráiphép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252
(tội chiếm đoạt chất ma túy) là từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, còn lại đối với các
tội phạm về ma túy khác thì độ tuổi chịu TNHS là đủ 16 tuổi.
Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì định tội danh là hoạt
động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý
khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp
luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương
đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất
định [50, tr.27].
Do đó dưới góc độ khoa học luật hình sự, trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn theo quan điểm của học viên thì định tội danh có thể được
hiểu là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và TAND), người tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành
vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội hay không, và phạm tội
theo điều luật nào của BLHS.
9
Từ những phân tích trên và trên cơ sở khái niệm định tội danh, trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn có thể hiểu về định tội danh các tội phạm
về ma túy như sau: định tội danh các tội phạm về ma túy là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng, trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các
tình tiết thực tế của vụ án, nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội
trên thực tế với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm về ma túy, được quy
định trong Chương XVIII từ Điều192 đến Điều 201 của BLHS năm 1999
(Chương XX từ Điều 247 đến 259 của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017), từ đó xác định một người có phạm tội về ma túy hay không và
phạm tội theo điều luật nào của Chương này.
1.1.2. Đặc điểm định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh các tội phạm về ma túy là định tội danh đối với một
loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành của
một quốc gia và là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan
liên quan. Định tội danh các tội phạm về ma túy liên quan đến nhiều vấn đề
trong đó liên quan rất nhiều đến vấn đề chứng cứ đã được thu thập, kiểm
tra, đánh giá.
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy có những đặc điểm được
dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm ma túy;
Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy phải dựa vào cấu thành
tội phạm vật chất của tội phạm được quy định trong BLHS.
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy phải được tiến hành trước,
trên cơ sở đó mới có thể tiến hành được việc quyết định hình phạt.
10
1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh các tội phạm về ma túy
“Trong lý luận về Luật Hình sự căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội
danh và hậu quả của việc định tội danh, người ta phân biệt thành hai loại
định tội danh:định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức”
[50, tr.27]. Như vậy, theo cách tiếp cận này, có thể phân chia định tội danh
các tội phạm về ma túy ma túy làm hai dạng: định tội danh chính thức và
định tội danh không chính thức.
1.1.2.1. Định tội danh chính thức các các tội phạm về ma túy
Định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy là hoạt động
mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, chủ thể tiến hành hình thức định
tội danh này được quy định trong BLTTHS, đó là các cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng.
1.1.2.2. Định tội danh không chính thức các tội phạm về ma túy
Chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội phạm
về ma túy có thể là bất kỳ ai quan tâm đến VAHS và nắm được các tình tiết
của vụ án đó, tuy nhiên chủ thể phổ biến của hoạt động định tội danh
không chính thức đối với tội phạm về ma túy là các nhà khoa học, những
người đang nghiên cứu luật hình sự [50].
Kết quả của định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma
túy không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của người bị định tội
danh vì không xuất phát từ quyền lực nhà nước và không đại diện
choquyền lực nhà nước nên chủ thể của hoạt động định tội danh không
chính thức không có quyền áp đặt các biện pháp cưỡng chế cho kết quả
định tội danh của mình.
11
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là một giai đoạn cơ bản của
việc áp dụng pháp luật.định tội danh đúng đối với các tội phạm về ma túy
có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất lớn.
1.1.3.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy nhằm mục đích bảo vệ quy
định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, bảo vệ an ninh và trật tự xã
hội; định tội danh đối với tội phạm về ma túy góp phần đưa các quy định
của pháp luật, nhất là quy định của BLHS vào thực tiễn cuộc sống.
Không chỉ có tính chất chính trị, định tội danh đối với tội phạm về
ma túy còn là hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện
qua một số khía cạnh cụ thể sau đây: Thông qua định tội danh đối với tội
phạm về ma túy, Nhà nước ta thực hiện nghiêm những cam kết quốc tế về
quyền con người thông qua việc bảo đảm về an toàn và an ninh, trật tự xã
hội đấu tranh phòng chống lại hành vi phạm tội này.
1.1.3.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý
Đối với pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự: hoạt động
định tội danh đối với tội phạm về ma túy của TAND các cấp là cơ sở để
xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đúng, xác định thời hạn điều
tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù
hợp với quy định của BLTTHS hiện hành đối với người phạm tội nói chung
Đối lập với định đúng tội danh là trường hợp có sự sai lầm trong
định tội danh đối với tội phạm về ma túy. Định tội danh sai không chỉ làm
choviệc quyết định hình phạt không đúng, không công bằng, xâm phạm đến
12
quyền con người, quyền công dân mà còn dẫn đến việc áp dụng pháp luật
hình sự không có căn cứ, trái pháp luật.
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy
Có nhiều quan điểm của các nhà luật học về các căn cứ pháp lý của
định tội danh: Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì những căn cứ
pháp lý của định tội danh được hiểu dưới hai khía cạnh rộng và hẹp: “Ở
khía cạnh rộng thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống
các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở duy nhất (trực tiếp),
cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là
cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm.
1.2.1. Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh các tội phạm về
ma túy
Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội phạm về ma
túy làcác văn bản pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự, mà trước hết và chủ
yếu là BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. BLHS là cơ sở pháp lý
duy nhất có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất trong việc định tội danh.
Trong thực tiễn định tội danh, các điều luật của BLHS là căn cứ pháp lý
duy nhất các cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong các quyết định và
văn bản tố tụng khác khi quy kết TNHS cho người phạm tội.
Những quy định của BLHS là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác xác
định hành vi xảy ra trong thực tế có cấu thành tội phạm về ma túy đã nêu
trên hay không; nếu phạm tội thì phạm tội gì và thuộc vào điều khoản cụ
thể nào.
13
BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018) quy định về các tội phạm về ma túy tại Chương XX gồm
13 điều, từ Điều 247-259.
BLHS năm 2015 đã tách Điều 194 BLHS 1999 thành 04 tội riêng
biệt quy định tại các Điều: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249);
Tội vận chuyểntrái phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép
chất ma túy (Điều 251); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252). Quy định
rõ ràng, cụ thể về định lượng để truy cứu TNHS trong từng tội phạm [20];
1.2.2. Cở sở pháp lý về hình thức của định tội danh các tội phạm về
ma túy
Có những quan điểm khác nhau về cơ sở pháp lý của định tội danh,
có quanđiểm cho rằng cơ sở pháp lý chỉ bao gồm pháp luật hình sự, cũng
có quan điểm cho rằng ngoài cơ sở pháp lý trực tiếp là pháp luật hình sự thì
BLTTHS - cơ sở pháp lý gián tiếp của việc định tội danh. Trong trường
hợp định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy học viên đồng ý
với quan điểm: khi hiểu theo nghĩa rộng, nếu các quy phạm BLHS đóng vai
trò là cơ sở pháp lý duy nhất trực tiếp (về nội dung) thì các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý giántiếp không kém quan trọng [4,
tr.30]. Cơ sở pháp lý về hình thức được hiểu là các băn bản pháp luật quy
định về thủ tục tố tụng làm cơ sở cho việc định tội danh và giải quyết
VAHS.
Nếu không thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định thì
việc định tội danh đối với tội phạm về ma túy không có giá trị.Pháp luật tố
tụng hình sự quy định về chứng cứ, về trình tự, thủ tục thu thập, kiểm tra,
đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh đối với tội phạm trong đó có tội
phạm về ma túy.
14
1.2.2. Các giai đoạn định tội danh các tội phạm về ma túy
Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật
của các vụ án ma túy: Trong giai đoạn này, chủ thể định tội danh phải thực
hiện hai nhiệm vụ cụ BLTTHS năm 2015 không quy định “chủ thể” sử
dụng chứng cứ trong khái niệm về chứng cứ, đó chính là quy định tiến bộ
trong tố tụng hình sự, tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng, đặc
biệt là người bị buộc tội, người bào chữa, bị hại... có thể tham gia vào quá
trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Đối với việc quy định quyền và
nghĩa vụ của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; nguyên
đơn dân sự; bị đơn dân sự; người bào chữa đều có quyền “trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Đồng thời bổ sung thêm quyền và nghĩa
vụ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
bị hại, đương sự có quyền “thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ”.
So sánh đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy định
của BLHS về các tội phạm về ma túy để xác định sự tương đồng: Trong
giai đoạn này, chủ thể định tội danh phải làm những việc sau đây: Phải đối
chiếu từng tình tiết của vụ án xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm
tương ứng trong BLHS. Sau đó, đối chiếu, so sánh tổng thể các tình tiết của
vụ án với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Phải phát hiện, tìm ra
sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ án với các dấu hiệu pháp lý
mà BLHS mô tả trong các điều luật thuộc chương các tội phạm về ma túy.
Sau khi xác địnhcó sự đồng nhất với cấu thành tội phạm tội có thể chuyển
sang kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự khác để kết luận có hay
không có tội phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra thì thuộc loại tội nào,
15
thuộc điều, khoản nào. Tiếp đó, phải xác định xem có yếu tố đồng phạm
không, ai và vai trò đồng phạm, phải xác định giai đoạn thực hiện tội phạm
được thực hiện ở giai đoạn hoàn thành hay chuẩn bị phạm tội, và kiểm tra
các vấn đề khác có liên quan, đặc biệt là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS quy định tại BLHS.Kết thúc giai đoạn này đã có căn cứ để xác định
đối tượng đã thực hiện hành vi nào và hành vi này đã cấu thành tội nào
trong nhóm tội về ma túy quy định tại BLHS, xác định được các điều luật
khác trong phần chung của BLHS được áp dụng để giải quyết vụ án.
1.2.3. Định tội danh các tội phạm về ma túy trong một số trường
hợp đặc biệt
1.2.3.1. Định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành
vi chuẩn bịcho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa
mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên
nhân khách quan là tội phạm. “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội” (đoạn 1 Điều 15 Bộ luật hình sự 2015).
Căn cứ theo khái niệm nêu trên, ta có thể thấy rằng trong một vụ án
hình sự, để xác định về trường hợp phạm tội chưa đạt, ta cần xem xét các
yếu tố sau:
Về mặt khách quan của tội phạm: Trong trường hợp phạm tội chưa đạt,
người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi liền
trước đó được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khác với tội phạm
16
hoàn thành, người phạm tội đã dừng lại khi chưa thoả mãn hết các dấu hiệu
trong mặt khách quan, khi chưa hoàn thành việc phạm tội của mình.
Về mặt chủ quan của tội phạm: Có thể thấy rằng nguyên nhân khiến
cho việc dừng hành vi phạm tội lại khi chưa hoàn thành được tội phạm là
do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Về mặt ý chí, họ
vẫn muốn thực hiện đến cùng các hành vi để hoàn thành tội phạm. Đây
cũng là một điểm để phân biệt giữa trường hợp phạm tội chưa đạt (Điều
15) và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16).
Căn cứ vào thái độ, tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt,
khoa học pháp lý thường chia phạm tội chưa đạt thành hai loại như sau:
chưa đạt đã hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành.
Từ những phân tích nêu trên, ta có thể thấy rằng, nguyên nhân khiến
người phạm tội dừng lại, không hoàn thành các hành vi phạm tội của mình
là xuất phát từ các yếu tố bên ngoài, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan
của người phạm tội. Họ vẫn muốn thực hiện đến cùng các hành vi để đạt
được kết quả, gây tổn hại và xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà luật
hình sự bảo vệ. Do đó, tuy trên thực tế, phạm tội chưa đạt tuy chưa phải là
hành vi thực hiện tội phạm hoàn thành nhưng đã phần nào xâm hại trực tiếp
đến khách thể hoặc trực tiếp đe doạ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Do đó, pháp luật hình sự đã quy định: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.
Tội danh mà họ bị truy cứu trong trường hợp này chính là tội phạm mà
họ dự định thực hiện nhưng chưa thể thực hiện đến cùng hành vi của mình.
- Về hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khoản 3 Điều 57
Bộ luật hình sự 2015 đã quy định như sau:
17
“Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng
có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng
hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
1.2.3.2. Định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng
phạm
Thứ nhất, hành vi phạm tội đồng phạm phải xâm hại cùng khách thể là
chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, an toàn, trật từ xã hội....
Thứ hai, trong trường hợp có sự tham gia của nhiều dạng người thì
hành vi phạm tội của người thực hành là căn cứ để định tội, người thực hành
thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào thì những người đồng phạm khác sẽ
phải chịu TNHS đến giai đoạn đó.Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm
tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội chỉ đặt ra trong trường hợp hành vi phạm
tội của người thực hành trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả đó là kết quả tất
yếu của hành vi phạm tội mà người thực hành đã thực hiện.
Thứ ba, Những người tham gia trong đồng phạm bao giờ cũng thực
hiệntội phạm với lỗi cố ý.
1.2.2.3. Định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp có
nhiều hành vi phạm tội
Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại
các điều luật khác nhau, từ Điều 192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành
vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để
thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm
đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm
tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn.
18
Tiểu kết chương
Định tội danh các tội phạm về ma túy là hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trên cơ sở các chứng cứ, các
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự
phù hợp giữa hànhvithực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể
được quy định tại chương các tội phạm về ma túy trong BLHS, từ đó xác
định một người có phạm tội về ma túy hay không, và phạm tội theo điều
luật nào của chương này.Định đúng tội danh các tội phạm về ma túy có ý
nghĩa chính trị - xã hội, pháp lý hết sức quan trọng, đòi hỏi người có thẩm
quyền phải có được những kiến thức lý luận, kiến thức pháp lý và thực tiễn
chuyên sâu mới có thể đánh giá một cách chính xác hành vi phạm tội để từ
đó định đúng tội danh đối với các tội phạm này. Chính vì vậy, việc phân
tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh
các tội phạm về ma túy nói riêng là nhiệm vụ quan trọng trong việc xác
định tội danh các tội phạm về ma túy nói riêng và đối với các tội phạm
hình sự nói chung.Việc làm sáng tỏ các cơ sở lý luận về định tội danh các
tội phạm về ma túy sẽ làm cơ sở cho việcđịnh tội danh đối với tội phạm về
ma túy đượcchính xác, tránh được oan sai, bỏ lọt tội phạm, nhằm bảo vệ
pháp chế XHCN và công bằng trong xã hội.
19
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
2.1. Khái quát tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng
2.1.1. Thực trạng về mức độ của các tội phạm về ma túy trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng
Theo số liệu thống kê, trong khoảng thời gian 5 năm của giai đoạn
2014 - 2018, TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã xét xử sơ thẩm
tổng cộng 825 vụ án với 1090 bị cáo thực hiện các hành vi phạm tội về ma
túy. Như vậy, trung bình mỗi năm trên toàn tỉnh xảy ra 165 vụ án với 218
bị cáo bị đưa ra xét xử. Trong đó, thấp nhất là năm 2014 với 116 vụ và 162
bị cáo, cao nhất là năm 2018 với 220 vụ và 306 bị cáo phạm các tội về ma
túy. Số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về ma tuý trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng trong từng năm thuộc giai đoạn nghiên cứu được thể hiện qua
bảng sau.
Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma
tuý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018)
Số vụ Số bị cáo Năm
162 116 2014
176 128 2015
179 148 2016
267 213 2017
20
220 306 2018
825 1090 Tổng
Số trung bình/ năm 165 218
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Bảng số liệu trên đã phản ánh một cách khái quát thực trạng các tội
phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn mức
độ nghiêm trọng của loại tội phạm này chúng tôi so sánh số liệu của các tội
phạm về ma túy với một vài số liệu có liên quan sau đây:
Thứ nhất, đánh giá, so sánh mức độ của các tội phạm về ma túy với
tội phạm nói chung xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn 2014
- 2018 cả về số vụ án và số người phạm tội, thể hiện qua Bảng sau:
Bảng 2.2. Tỷ lệ các tội phạm về ma túy trong tổng số tội phạm nói
chung đã được xét xử trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018)
Các tội phạm về ma túy Tội phạm nói chung
Tỷ lệ % Tỷ lệ Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo (1/3) % (2/4)
(2) (3) (4) (1)
1090 1974 3057 41,8% 35,7% 825
Trung 218 394,8 611,4 41,8% 35,7% 165 bình
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy các tội phạm ma về
túy chiếm tỷ lệ khá cao, tới 41,8% về số vụ và 35,7% về số bị cáo so với
tổng số tội phạm nói chung trên toàn tỉnh Cao Bằng. Nghĩa là cứ 100 vụ án
xảy ra trên địa bàn tỉnh thì có đến gần một nửa là tội phạm về ma túy. Đây
21
là con số khá lớn nếu so sánh với tỷ lệ tội phạm ma túy trong tổng số tội
phạm nói chung tại các tỉnh thành lân cận trong thời gian gần đây như:
Thái Nguyên : 26,7% số vụ, 20% số bị cáo [1, tr.10]; Lạng Sơn: 17,9% số
vụ, 15% số bị cáo [9, tr.8]; Như vậy, thông qua việc so sánh số liệu thống
kê chúng ta có thể nhận định, các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng có tính phổ biến cao, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tội phạm nói
chung.
Thứ hai, so sánh tội phạm về ma túy với một số nhóm tội phổ biến
khác xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Cùng với các nhóm tội khác, tội
phạm về ma túy chỉ là một trong các thành tố làm nên thực trạng của tội
phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do vậy, để có một đánh giá
toàn diện về loại tội phạm này chúng ta cần đặt trong sự so sánh với các
nhóm tội khác xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn 2014 -
2018.
Bảng 2.3. So sánh số vụ phạm tội về ma túy với số vụ phạm tội nói
chung và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 -
2018)
Các tội Tổng số tội Các tội Các tội phạm xâm Các nhóm phạm nói phạm về ma phạm về sở phạm tính tội còn lại chung túy hữu mạng
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
vụ (%) vụ (%) vụ (%) vụ (%) vụ (%)
1974 100 825 41,8 533 27 454 23 162 8,2
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
22
Trong 5 năm (2014 - 2018), các tội phạm về ma túy là nhóm tội
phạm chiếm tỷ lệ cao nhất trên địa bàn tỉnh Cao Bằng với 41,8% về số vụ
và 35,7% về số bị cáo. Các nhóm tội khác có tỷ lệ thấp hơn rất nhiều so với
các tội phạm về ma túy là tội phạm xâm phạm sở hữu (27% số vụ, 28,5%
số bị cáo) và tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người (23% số vụ, 23% số bị cáo). Các tội danh thuộc các nhóm
tội khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ (8,2% số vụ, 12,8% số bị cáo). Như vậy, trong
tổng số tội phạm nói chung đã xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, các tội
phạm về ma túy là nhóm tội phạm phổ biến nhất.
Bảng 2.4. So sánh số bị cáo phạm tội về ma túy với số bị cáo phạm tội
nói chung và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 -
2018)
Các tội Tổng số Các tội Các tội phạm xâm Các nhóm người phạm phạm về ma phạm về sở phạm tính tội còn lại tội túy hữu mạng
Số bị Tỷ lệ Số bị Tỷ lệ Số bị Tỷ lệ Số bị Tỷ lệ Số bị Tỷ lệ
cáo (%) cáo (%) cáo (%) cáo (%) cáo (%)
3057 100 1090 35,7 871 28,5 703 23 393 8,2
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Thực trạng tội phạm ẩn:
Trên đây là các số liệu được thống kê qua quá trình xét xử của
TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, có nghĩa đây đều là số liệu về
tội phạm rõ đã được các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, truy tố, xét
xử và đưa vào thống kê hình sự. Còn một bộ phận các tội phạm về ma túy
23
đã xảy ra trên thực tế nhưng không được thể hiện trong các số liệu thống kê
tội phạm của các cơ quan chức năng do không được phát hiện, xử lý hoặc
đưa vào thống kê tội phạm chính là tội phạm ẩn của các tội này. Trên thực
tế, khó có thể đưa ra một con số chính xác về tỷ lệ ẩn của các tội phạm về
ma túy trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng. Tuy
nhiên, có thể nhận định tỷ lệ ẩn của tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng là khá cao, dựa vào các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, theo các công trình khoa học đã được công bố, tại Việt
Nam hiện nay, tỷ lệ ẩn của tội phạm về ma túy lên tới 90 - 95%, có nghĩa là
mới chỉ có từ 5-10% tội phạm về ma túy bị phát hiện xử lý [14, tr.539]; đây
chỉ là con số mang tính tham khảo, tuy nhiên tội phạm về ma túy trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng cũng không không nằm ngoài nhận định trên.
Thứ hai, hiện nay, hình thức sử dụng ma túy của các con nghiện chủ
yếu là sử dụng Heroin bằng cách tiêm chích vào cơ thể. Trong giai đoạn
2014-2018, mỗi năm Cao Bằng có khoảng 1294 người nghiện ma túy [17],
như vậy, nếu trung bình mỗi người sử dụng 02 tép Heroin, tức khoảng
0,04gam (đơn vị mà các đối tượng thường chia nhỏ để bán lẻ) thì mỗi năm
nhu cầu ma túy cho số người nghiện tương đương 1889,2 gam Heroin.
Trong khi đó, không kể các loại ma túy khác, lượng Heroin mà các ngành
chức năng thu được mới là trên 32 kg Heroin trong cả giai đoạn 2014 -
2018, nghĩa là trung bình mỗi năm thu được 6,4kg Heroin, con số này mới
chỉ đáp ứng được nhu cầu của 33,6% số lượng Heroin mà người nghiện sử
dụng, số còn lại (66,4%) lượng ma túy còn lại có thể coi là không phát
hiện, bắt giữ được, chưa kể các chất ma túy khác và các chất ma túy không
phục vụ nhu cầu sử dụng của con nghiện trong tỉnh.
24
Thứ ba, do có phong tục sử dụng cây và quả thuốc phiện làm thuốc
nên tại Cao Bằng, đặc biệt là tại các huyện vùng sâu vùng xa, nơi sinh sống
của đồng bào dân tộc ít người, người dân bản địa vẫn có tập tục trồng cây
thuốc phiện để sử dụng. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong giai đoạn 2014-
2018 các ngành chức năng đã triệt phá được khoảng trên 1500m2 và hơn
3000 cây thuốc phiện tại các địa bàn khác nhau [15]. Tuy nhiên, trong
thống kê chính thức, chưa có trường hợp nào bị xử lý về hành vi trồng cây
thuốc phiện và các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 192) trong giai
đoạn 2014-2018.
2.1.2. Thực trạng về tính chất các tội phạm về ma túy trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng
Thực trạng về tính chất thể hiện qua cơ cấu của các tội phạm về ma
túy. Cơ cấu chính là yếu tố phản ánh tính chất của tội phạm, nếu như thực
trạng phản ánh yếu tố định lượng của tình hình tội phạm thì cơ cấu phản
ánh yếu tố định tính của tình hình tội phạm. Nói cách khác, chúng ta có thể
rút ra tính chất của các tội phạm về ma túy dựa trên việc phân tích cơ cấu
của các tội phạm ma về túy theo những tiêu chí khác nhau. Bên cạnh xây
dựng số liệu dựa trên việc phân tích các số liệu thu thập được từ các cơ
quan tố tụng, chúng tôi đã chọn ngẫu nhiên để nghiên cứu nội dung đối với
150 vụ án/192 bị cáo phạm các tội về ma túy từ TAND các cấp trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng. Từ đó, tiến tới làm rõ tính chất của các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng thông qua việc phân tích cơ cấu của các tội
phạm về ma túy theo các tiêu chí khác nhau. Cụ thể:
25
* Cơ cấu theo tội danh
Bảng 2.5. Cơ cấu theo tội danh
Tên tội danh Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái 1087 99,7 phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
Các tội khác (về ma tuý) 3 0,3
Tổng 1090 100
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Qua bảng số liệu thống kê về tội danh, ta thấy trong cả giai đoạn
nghiên cứu (2014 - 2018) tuyệt đại đa số các bị cáo đều phạm vào tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định
tại Điều 194 BLHS (BLHS) với 99,7% số bị cáo. Chỉ có 3 bị cáo phạm tội
thuộc các tội danh khác (về ma tuý) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng bị xét xử.
Riêng tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS là tội ghép với nhiều hành vi
phạm tội khác nhau đó là: tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt. Để
hiểu rõ hơn, chúng ta nghiên cứu cơ cấu các hành vi thuộc tội danh này qua
bảng số liệu sau:
Bảng 2.6. Cơ cấu của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) theo hành vi phạm tội
Hành vi phạm tội Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Tàng trữ trái phép chất ma túy 96 50
Mua bán trái phép chất ma túy 83 43,2
26
Vận chuyển trái phép chất ma túy 9 4,7
Chiếm đoạt chất ma túy 0 0
Trường hợp nhiều hành vi khác 4 2,1
Tổng 192 100
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Theo bảng số liệu, tổng số người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma
túy là nhiều nhất (96 bị cáo) chiếm 50%, Số người phạm tội mua bán trái
phép chất ma túy đứng thứ hai (83 bị cáo) chiếm 43,2%. Không có bị cáo
nào phạm tội chiếm đoạt chất ma túy. Như vậy, tàng trữ và mua bán là các
hành vi được người phạm tội thực hiện phổ biến nhất.
* Cơ cấu theo địa bàn phạm tội
Trong giai đoạn 2014 - 2018, trên toàn tỉnh Cao Bằng, nếu tính trên
đơn vị hành chính cấp huyện, không địa phương nào không xảy ra các vụ
phạm tội về ma túy. Số liệu trong bảng số liệu sau không bao gồm 120 vụ
án với 177 người phạm tội về ma túy thuộc thẩm quyền xét xử của TAND
tỉnh Cao Bằng.
Bảng 2.7. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội
Số vụ Số bị cáo
TT Địa bàn Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng (%) lượng (%)
1 Thành phố Cao Bằng 40,4% 338 37% 285
2 Trùng Khánh 14,3% 141 15,4% 101
3 Phục Hòa 7,7% 68 7,4% 54
27
4 Hạ Lang 44 6,2% 59 6,5%
5 Bảo Lâm 40 5,7% 51 5,6%
6 Trà Lĩnh 31 4,4% 48 5,3%
7 Nguyên Bình 28 4% 39 4,3%
8 Quảng Uyên 24 3,4% 32 3,5%
9 Hòa An 23 3,3% 33 3,6%
10 Hà Quảng 20 2,8% 27 3%
11 Thông Nông 19 2,7% 27 3%
12 Thạch An 19 2,7% 26 2,8%
13 Bảo Lạc 17 2,4% 24 2,6%
Tổng 705 100% 913 100%
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Theo số liệu thống kê, Thành phố Cao Bằng là nơi xảy ra nhiều vụ
phạm tội về ma túy nhất cả về số vụ án (40,4%) và số người phạm tội
(37%).Các huyện khác có tỷ lệ tội phạm về ma túy cao là Trùng Khánh
(14,3% số vụ án, 15,% số bị cáo), Phục Hòa (7,7% số vụ án, 7,4% số bị
cáo), Hạ Lang (6,2% số vụ án, 6,5% số bị cáo), đây đều là các huyện có
đường biên giới với Trung Quốc. Các huyện không có đường biên giới là
Nguyên Bình, Quảng Uyên, Hòa An chiếm tổng cộng 10,7% số vụ án và
12,4% số bị cáo. Người phạm tội thường chọn các khu vực có đông dân cư
sinh sống hoặc các khu vực khác có tình hình an ninh trật tự phức tạp, khó
quản lý như Thành phố Cao Bằng, thị trấn các huyện hoặc các khu kinh tế
sát cửa khẩu để thực hiện hành vi phạm tội. Điều này dẫn đến sự chênh
28
lệnh nhất định về mức độ của tội phạm về ma túy giữa các đơn vị hành
chính cấp huyện tại tỉnh Cao Bằng.
* Cơ cấu theo loại chất ma túy bị thu giữ
Bảng 2.8. Cơ cấu theo loại chất ma túy bị thu giữ
Loại ma Ma túy tổng Loại ma túy Nhiều loại túy thu Heroin hợp khác ma túy giữ
Số lượng 117 vụ = 78% 18 vụ = 12% 14 vụ = 9,3% 1vụ = 0,7%
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Trong giai đoạn 2014 -2018 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, số ma túy
thu được từ các vụ án chủ yếu vẫn là Heroin chiếm 78% (117 vụ) trong
tổng số vụ án được chúng tôi nghiên cứu. Các loại ma túy truyền thống như
thuốc phiện, cần sa… chiếm tỷ lệ nhỏ (14 vụ, chiếm 9,3%) thay vào đó là
sự gia tăng của các loại ma túy tổng hợp (18 vụ chiếm 12%).
* Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng
Bảng 2.9. Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng
Trên Loại và Đến 3 Trên 3 Trên 7 Tù chung 15 mức hình năm năm đến 7 năm đến thân, tử Tổng năm phạt tù năm tù 15 năm tù hình tù
Số bị cáo 358 315 318 27 72 1090
Tỷ lệ % 32,8% 28,9% 29,2% 6,6% 2,5% 100%
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
29
Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2014 - 2018 trên toàn tỉnh Cao
Bằng, TAND các cấp đã xử phạt xử phạt với hình phạt cao nhất đến 3 năm
tù đối với 358 bị cáo chiếm 32,8%; trên 3 năm tù đến 7 năm tù đối với 315
bị cáo chiếm 28,9%; trên 7 năm đến 15 năm tù đối với 72 bị cáo chiếm
6,6%; trên 15 năm đối với 72 bị cáo chiếm 6,6% và phạt tù chung thân, tử
hình đối với 27 bị cáo, chiếm 2,5%. Như vậy, hình phạt dành cho các bị
cáo phạm tội về ma túy rất nghiêm khắc. Loại và mức hình phạt đã được áp
dụng được thể hiện qua biểu đồ sau đây:
* Cơ cấu theo hình thức phạm tội
Tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng chủ yếu là phạm tội
đơn lẻ, tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhất định các vụ án được thực hiện với
hình thức đồng phạm. Chúng ta cùng theo dõi bảng số liệu sau:
Bảng 2.10. Cơ cấu theo hình thức phạm tội
Tống số Phạm tội riêng lẻ Đồng phạm
150 vụ 115 35
100% 76,7% 23,3%
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Theo số liệu thống kê, có tới 76,7% số vụ án về ma túy được thực
hiện riêng lẻ, các đối tượng phạm tội phần nhiều là các đối tượng nghiện
hút mua đi bán lại ma túy để sử dụng và nuôi sống bản thân. Trong 23,3%
số vụ án còn lại phạm tội theo hình thức đồng phạm, có nhiều vụ án thể
hiện sự cấu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội, cá biệt, có vụ án có
tới 7 bị can thực hiện tội phạm. Chính sự tổ chức chặt chẽ, hành vi cố tình
câu kết chống đối pháp luật ở những vụ đồng phạm càng thể hiện mức độ
nguy hiểm cao của các tội phạm về ma túy.
30
* Cơ cấu theo động cơ phạm tội
Nghiên cứu đối với 150 bản án sơ thẩm với 192 người phạm tội
chúng tôi nhận thấy mục đích cuối cùng của những người phạm tội chủ yếu
là buôn bán ma túy để kiếm lời, để sử dụng hoặc phục vụ cả hai mục đích
trên. Điều đó được thể hiện qua bảng sau đây:
Bảng 2.11. Cơ cấu theo động cơ phạm tội
Động cơ thỏa mãn nhu Động cơ vụ lợi Cả hai cầu sở dụng ma túy
82 bị cáo = 42,7% 91 bị cáo = 47,4% 19 bị cáo = 9,9%
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Theo bảng số liệu trên, tổng số người phạm tội có động cơ thỏa mãn
nhu cầu sử dụng ma túy chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 47,4% (91 bị cáo), tiếp
đó là số người có động cơ vụ lợi, làm giàu bất hợp pháp từ lợi nhuận rất
lớn của việc mua bán ma túy mang lại với 42,7% (82 bị cáo). Số còn lại là
các trường hợp người phạm tội vừa có động cơ hám lợi, vừa có động cơ
thỏa mãn nhu cầu sử dụng của bản thân. Các đối tượng này vừa tàng trữ để
sử dụng vừa để mua bán nhằm kiếm lời, phục vụ nhu cầu cuộc sống, đồng
thời thỏa mãn nhu cầu hút, chích ma túy của bản thân họ.
* Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội
Bảng 2.12. Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội
Nghề nghiệp Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Cán bộ, công chức 2 1%
Làm ruộng 32 17,7%
31
Nghề nghiệp khác 57 29,7%
Không nghề nghiệp 101 52,6%
Tổng số 192 100%
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Theo bảng số liệu chúng ta thấy, trong số 192 bị cáo thuộc 150 vụ
án được được nghiên cứu, chỉ có 1% (2 bị cáo) người phạm tội là cán bộ
công chức. Người phạm tội có nghề nghiệp là làm ruộng chiếm 17,7%;
nghề nghiệp khác chiếm 29,7%, số còn lại có tới 52,6% số người phạm tội
là các đối tượng không nghề nghiệp. Một điều đáng lưu ý, theo nghiên cứu
của chúng tôi, đa số các ngành nghề của người phạm tội về ma túy là các
ngành nghề cho thu nhập thấp hoặc không ổn định, chẳng hạn như bốc vác,
xe ôm, lao động tự do... Như vậy, thu nhập và việc làm cũng là các nhân tố
ảnh hưởng đến tình hình tội phạm về ma túy.
Ví dụ: Vụ án Đàm Thị Bay, sinh năm 1987, hộ khẩu thường trú: Hòa
Mục, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn có hành vi tàng trữ 0,19 gam Hêrôin.
Quá trình xét xử, TAND thành phố Cao Bằng đã tuyên phạt Bay 36 tháng
tù về tội Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1, Điều 194
BLHS. Trong vụ án này, Đàm Thị Bay là đối tượng không có nghề nghiệp,
là người ngoại tỉnh (tại thời điểm phạm tội, Bay tạm trú tại: tổ 8, phường
Sông Bằng, thành phố Cao Bằng nhưng khộng đăng ký tạm trú), bản thân
nghiện ma túy, lang thang tại khu vực bến xe khách thành phố Cao Bằng để
mua đi bán lại ma túy cho những người nghiện ma túy khác để có tiền đảm
bảo nhu cầu cuộc sống và thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân.
32
* Cơ cấu theo đặc điểm về lý lịch tư pháp của người phạm tội
Bảng 2.13. Cơ cấu theo đặc điểm về lý lịch tư pháp của người phạm tội
Tái phạm, tái phạm Tổng Phạm tội lần đầu nguy hiểm
1090 bị cáo = 100% 130 bị cáo = 11,9% 960 bị cáo = 88,1%
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Theo số liệu thống kê, có 88,1% số bị cáo là người phạm tội lần đầu,
11,9% số bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Trong số đó có những đối tượng có nhiều tiền án vì phạm các tội về ma
túy. Mặc dù đã phải chịu các hình phạt nghiêm khắc của pháp luật do các
hành vi của mình gây ra nhưng các đối tượng này vẫn cố tình vi phạm pháp
luật vì nhiều lý do. Ngoài các yếu tố khách quan gây khó khăn cho người
phạm tội trong việc tái hòa nhập cộng đồng thì tâm lý coi thường pháp luật
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái phạm của
người phạm tội.
Mặc dù không chiếm đa số nhưng các đối tượng phạm tội trong
trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm thể hiện mức độ nguy hiểm cao
hơn nhiều so với người phạm tội lần đầu, nhiều vụ án thể hiện tâm lý coi
thường pháp luật đã ăn sâu trong bản chất của các đối tượng phạm tội. Ví
dụ: Hồi 12h50 ngày 31/7/2014 đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy
công an thành phố Cao Bằng bắt quả tang Đàm Việt Nghiêm, sinh năm
1974, trú tại tổ 5, Ngọc Xuân, Thành phố Cao Bằng có hành vi tàng trữ trái
phép chất ma túy. Tang vật thu giữ là 01 gói Heroin có trọng lượng 0,12
gam. Qua xác minh nhân thân, Nghiêm là đối tượng nghiện ma túy đã có 1
tiền sự về hành vi gây rối trật tự công cộng và 4 tiền án mà trong đó có 2
33
tiền án về tội trộm cắp tài sản, 1 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma
túy và 1 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
* Cơ cấu theo đặc điểm người phạm tội là người nghiện hay không
nghiện ma túy
Bảng 2.14. Cơ cấu theo đặc điểm người phạm tội là người nghiện hay
không nghiện ma túy
Tổng Nghiện ma túy Không nghiện ma túy
462 bị cáo =42,4% 628 bị cáo =57,6% 1090 bị cáo = 100%
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Cao Bằng, trong giai đoạn
2014 - 2018 có tới 42,4% (462 bị cáo) số người phạm tội về ma túy là
người nghiện ma túy. Để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, người nghiện
ma túy thường phải mua ma túy, sau đó tàng trữ để sử dụng dần hoặc vận
chuyển đến nơi thích hợp để sử dụng. Trong số này có nhiều bị cáo là
người nghiện ma túy vừa tàng trữ để sử dụng, vừa mua đi bán lại cho
những người nghiện khác để kiếm lời, phục vụ nhu cầu hút, chích ma túy.
628 bị cáo còn lại (57,6 %) không nghiện ma túy mà buôn bán ma túy với
mục đích là kiếm lời từ lợi nhuận của hoạt động này mang lại.
* Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội
Trình độ học vấn thấp là một lý do khiến nhận thức của người phạm
tội về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước bị hạn chế.
Điều này có ảnh hưởng nhất định đến việc phát sinh tội phạm về ma túy.
Nhiều người vì các lý do khác nhau mà phải bỏ dở việc học giữa chừng
trước khi trở thành người phạm tội. Chúng ta cùng nghiên cứu cơ cấu theo
trình độ học vấn của người phạm tội qua bảng số liệu sau:
34
Bảng 2.15. Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội
Trình độ học vấn Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Không biết chữ 8 4,1%
Tiểu học 12 6,3%
Trung học cơ sở 96 50%
Trung học phổ thông 73 38%
Cao đẳng, đại học 3 1,6%
Tổng 192 100%
Nguồn: Nghiên cứu 150 vụ án/ 192 bị cáo
Theo số liệu thống kê, Các bị cáo đã tốt nghiệp trung học cơ sở và
trung học phổ thông chiếm đa số với 88% (169 bị cáo). Chỉ có 1,6% có
trình độ học vấn là cao đẳng hoặc đại học (3 bị cáo). Số còn lại (10,4%) là
các bị cáo có trình độ học vấn từ tốt nghiệp tiểu học trở xuống. Trình độ
học vấn thấp còn có thể là một rào cản đối với không ít người trong việc
định hướng và tiếp cận một công việc mang lại thu nhập như ý muốn. Các
nhân tố trên đều có tác động đến việc gia tăng của tội phạm về ma túy.
* Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội
Bảng 2.16. Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội
Từ 14 đến Từ 16 đến Từ 18 tuổi Từ 30 tuổi Độ tuổi dưới 16 dưới 18 đến dưới Tổng trở lên tuổi tuổi 30 tuổi
1 8 247 834 Số bị cáo 1090
0,1% 0,7% 22,7% 76,5% Tỷ lệ % 100%
35
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Theo số liệu thống kê, chúng ta thấy, người phạm tội có độ tuổi từ 18
đến 30 tuổi chiếm 22,7% và dưới 18 tuổi chiếm 0,8%. Người phạm tội ở độ
tuổi từ 30 trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất với 76,5% (834 bị cáo) số bị cáo bị
đưa ra xét xử. Ở độ tuổi này nhìn chung mỗi người đã có sự trưởng thành
về thể chất, sự chín chắn về suy nghĩ và có thể coi là độ tuổi lao động sung
sức nhất; tuy nhiên đây cũng là độ tuổi chịu nhiều áp lực: phải gánh vác
nhu cầu tài chính, phải trở thành trụ cột của gia đình... Nhiều người phạm
tội bị tác động mạnh bởi các áp lực này và bị cuốn vào các tệ nạn xã hội
trong đó có việc tàng trữ, sử dụng ma túy; trong số đó không ít người chọn
việc mua bán ma túy để giải tỏa áp lực về thu nhập. Cơ cấu của tội phạm về
ma túy theo độ tuổi người phạm tội được thể hiện qua biểu đồ sau đây:
* Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, người phạm tội về ma túy chủ yếu vẫn
là nam giới. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.17. Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội
Đặc điểm giới tính Nam Nữ Tổng
Số bị cáo 984 106 1090
Tỷ lệ (%) 90,3 9,7 100
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Cùng với công tác nâng cao bình đẳng giới, phụ nữ ngày càng tham
gia nhiều hơn cũng như có nhiều đóng góp to lớn vào các hoạt động xã hội
nói chung. Hệ quả là tỷ lệ nữ giới phạm tội nói chung và phạm tội về ma
túy nói riêng có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê, các vụ phạm
tội về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng do nam giới thực hiện vẫn chiếm
36
tỷ lệ cao với 90,3% (984 bị cáo). Nữ giới phạm tội chỉ chiếm 9,7%. Khí chất
nóng nảy, thiếu kiềm chế, dễ bị kích động thường gặp ở nam giới có thể là
nguyên nhân khiến tỷ lệ tội phạm ở nam giới cao hơn nữ giới. Ngoài ra, nữ
giới thường có nhiều công việc như chăm sóc nhà cửa, nuôi con.v.v để giảm
áp lực do thất nghiệp, trong khi đó nam giới thường phải chịu áp lực nhiều
hơn từ áp lực thu nhập, trở thành trụ cột gia đình…, đây cũng là nguyên nhân
khiến cho nguy cơ trở thành tội phạm ở nam giới cao hơn nữ giới.
* Cơ cấu theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội
Cao Bằng là một tỉnh biên giới địa đầu phía đông bắc, trong cơ cấu
các dân tộc, dân tộc Kinh chỉ chiếm 5,8% dân số, 94,2% còn lại là các dân
tộc ít người khác (Tày, Nùng, H’Mông…) cùng sinh sống. Do đó, cơ cấu
của tội phạm về ma túy xét theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội cũng
có những đặc trưng riêng thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.18. Cơ cấu theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội
Tổng Dân tộc Kinh Các dân tộc thiểu số
1090 bị cáo = 100% 672 bị cáo = 61,7% 418 bị cáo = 38,3%
Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng
Với đặc điểm đặc thù về địa lý, dân cư nên người phạm tội về ma túy
là người dân tộc ít người chiếm tỷ lệ khá cao với 38,3% tương đương 418
bị cáo. Tuy nhiên, điều cần lưu ý, người dân tộc Kinh trên toàn tỉnh chỉ
chiếm 5,8% dân số nhưng lại chiếm tới 61,7% tổng số người phạm tội (672
bị cáo). Đặc điểm cư trú của người dân là một trong các nguyên nhân của
tình trạng trên. Mặc dù người dân tộc ít người chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu
dân số nhưng họ tập trung sống tại các vùng nông thôn và sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, những nơi ít xảy ra tội phạm. Trong khi đó, hầu hết
37
người dân tộc Kinh trên địa bàn tỉnh đều sống tại khu vực thành thị, tập
trung đông dân cư, đây cũng là các điểm nóng tồn tại các hành vi phạm tội
về ma túy
2.2. Thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trên đại bàn
tỉnh Cao Bằng
2.2.1. Kết quả định tội danh các tội phạm về ma túy trên đại bàn
tỉnh Cao Bằng
Qua các số liệu tại mục 2.1. nêu trên thấy rằng tình hình tội phạm về
ma túy giai đoạn 2014-2018 tại địa bàn tỉnh Cao Bằng ngày càng tăng, tỷ lệ
các vụ án ma túy so với tổng số lượng án hình sự là 24%, tỷ lệ bị cáo bị xét
xử về các tội ma túy so với tỷ lệ các bị cáo bị xét xử là 15%. Các tội phạm
về ma túy được đưa ra xét xử và định tội danh đa số là các tội “Tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” (Điều
194); năm 2014 có 01 vụ án, 01 bị cáo định tội danh vềtội “Chứa chấp việc
sử dụng trái phép chất ma túy” (Điều 198); đối với các tội phạm về ma
túykhác không có. Các vụ ánvề ma túy được giải quyết triệt để trong năm,
không có án tồn, án quá hạn. Do làm tốt công tác điều tra, thu thập chứng
cứ ngay từ ban đầu, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
được hiện sát sao.
Bảng 2.19. Tội danh do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối với
các vụ án về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2014-2018
Tổng số vụ Cơ quan điều Viện kiểm sát TANDđịnh án các tội tra định tội Năm định tội danh tội danh về phạm về ma danh về ma về ma túy ma túy túy túy
38
2014 116 116 116 116
2015 128 127 128 128
2016 148 148 148 148
2017 213 212 213 213
2018 220 219 219 219
(Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng)
Trong quá trình định tội danh, do các căn cứ, trình tự thủ tục pháp
luật được các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tuân thủ một cách triệt
để. Bên cạnh đó có sự phối hợp, trao đổi kịp thời giữa các cơ quan TAND,
Viện kiểm sát đối với hoạt động điều tra, truy tố chính vì vậy quá trình
định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh luôn được chính xác,
đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, số lượng các vụ án
TAND trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung không có trường
hợp thay đổi về tội danh. Lý do trả hồ sơ thường liên quan đến yêu cầu
phảigiám định hàm lượng chất ma túy đối với các tội “Mua bán, vận
chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy” (Điều 194), vì vậy số lượng án trả
hồ sơ các năm 2016, 2017, 2018 tăng, do thực hiện theo hướng dẫn tại
Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/09/2014 của TANDTC. Không có
vụ án nào TAND đình chỉ vụ án.
39
Bảng 2.20. Số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết sơ thẩm các vụ án về
ma túy của TAND hai cấp tỉnh Cao Bằng (2014-2018)
Năm Số vụ án thụ Số vụ án trả Số vụ án xét Số vụ án đình
lý xử chỉ hồ sơ cho
VKSND
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
2014 116 162 1 1 115 161 0 0
2015 128 176 2 3 126 173 0 0
2016 148 179 1 1 147 178 0 0
2017 213 267 3 4 209 263 0 0
2018 220 306 4 4 216 302 0 0
Tổng 825 1090 11 13 814 1077 0 0
(Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng)
Việc định tội danh các tội phạm về ma túy là một khâu quan trọng
của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, do
nhiều chủ thể khác nhau tiến hành. Cùng với việc phát triển cả về số lượng
và chất lượng nhằm củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, Thẩm phán của
TAND hai cấp, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong
đối với cán bộ, công chức ngành TAND được lãnh đạo TAND tỉnh chú
trọng quan tâm.
40
Bảng 2.21. Số liệu thống kê giải quyết phúc thẩm các vụ án về ma túy
của TAND tỉnh Cao Bằng (2014-2018)
Số vụ Giữ Số vụ Đình chỉ xét xử nguyên Sửa án Hủy án án sơ phúc Năm phúc án sơ sơ thẩm sơ thẩm thẩm thẩm thẩm thẩm
116 6 0 5 1 0 2014
128 7 0 4 2 1 2015
148 7 1 4 1 1 2016
213 9 1 5 3 0 2017
220 8 0 4 3 1 2018
825 37 2 22 10 3 Tổng
Tỷ lệ (%) 100 4,48 0,24 2,67 1,21 0,36
(Nguồn: TAND tỉnh Cao Bằng)
Chuyển biến trong việc cải cách tư pháp của TAND hai cấp trong
tỉnh Cao Bằng thể hiện rõ nhất chính là việc đổi mới tổ chức phiên tòa cả
về nội dung và hình thức. TAND hai cấp đã bố trí phòng xử án theo mô
hình mới, vị trí ngồi của những người tiến hành tố tụng, người tham gia, đã
được thay đổi. Hội đồng xét xử giữ vị trí là “trọng tài” xem xét quyết định,
phân định trên cơ sở hoạt động tranh tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội;
bên nguyên đơn và bên bị đơn. Luật sư chính thức được ngồi ngang hàng
với đại diện Viện Kiểm sát trong các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Đây
không chỉ là sự thay đổi về hình thức phiên tòa, mà còn là sự thể hiện tinh
thần đổi mới, cải cách tư pháp từ mô hình tố tụng xét hỏi sang mô hình
41
tranh tụng, coi tranh tụng là khâu đột phá. Theo Tòa án nhân dân tỉnh, thực
tiễn đổi mới hình thức phiên tòa thời gian qua cho thấy, việc tranh tụng
giữa Kiểm sát viên với Luật sư và những người tham gia tố tụng dân chủ,
bình đẳng hơn. Tại phiên tòa, đặc biệt là phần tranh luận, bị cáo, người bị
hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự được quyền trình bày ý kiến tranh luận của mình, được tham gia đối đáp
với các ý kiến, quan điểm trái ngược với ý kiến, quan điểm của mình một
cách công bằng, dân chủ và khách quan.
2.2.2. Hạn chế, vướng mắc trong định tội danh các tội phạm về ma
túy trên đại bàn tỉnh Cao Bằng
2.2.2.1. Hạn chế, vướng mắc trong định tội danh các tội phạm về ma
túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Thực tế cho thấy, công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma
túy hiện nay gặp khó khăn chủ yếu từ việc định tội danh nhất là đối với tội
Mua bán trái phép chất ma túy. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, việc xác
định hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma
túy và mua bán trái phép chất ma túy cũng có những khó khăn trong nhận
thức. Đối với những vụ án mua bán trái phép chất ma túy mà xác định được
rõ kẻ mua, người bán thì việc xử lý không quá khó khăn.
Tuy nhiên, trong thực tế, có không ít vụ án các cơ quan tiến hành tố
tụng tỉnh Cao Bằng không xác định được đối tượng mua và việc chứng
minh hành vi mua bán trái phép chất ma túy chủ yếu chỉ dựa và lời khai
của người bị bắt. Mục 3.3 Thông tư 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 liệt kê các hành vi được coi là
mua bán trái phép chất ma túy trong đó có hành vi:… e) Tàng trữ chất ma
túy nhằm bán trái phép cho người khác; g) Vận chuyển chất ma túy nhằm
42
bán trái phép cho người khác. Tuy nhiên, việc chứng minh được ý thức chủ
quan của một người là rất khó khăn dẫn đến tình trạng thường gặp là trong
quá trình điều tra vụ án lúc đầu đối tượng khai nhận mục đích cất giấu hoặc
vận chuyển ma túy nhằm mục đích bán nhưng sau đó lại thay đổi lời khai là
để sử dụng dẫn đến việc phải thay đổi quyết định khởi tố về tội Tàng trữ
trái phép chất ma túy. Cũng như vậy, tại phiên tòa xét xử vụ án Mua bán
trái phép chất ma túy khi bị cáo phản cung, thay đổi lời khai mục đích cất
giấu hoặc vận chuyển ma túy chỉ nhằm mục đích sử dụng dẫn đến việc
TAND trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đối với các vụ án về ma túy, lãnh đạo Viện kiểm sát cần yêu cầu
Kiểm sát viên phải chủ động tham gia vào quá trình điều tra ngay từ đầu
khi Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm. Việc này giúp cho Kiểm sát viên
nắm bắt tình hình vụ án ngay từ đầu, lấy lời khai của đối tượng thực hiện
hành vi phạm tội để có căn cứ tham mưu cho lãnh đạo viện ban hành các
quyết định phê chuyển quyết định gia hạn tạm giữ hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn tạm giữ…
Việc ghi lời khai, hỏi cung bị can ở giai đoạn điều tra, truy tố có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội của đối tượng. Từ
đó, Kiểm sát viên có thể đề xuất lãnh đạo viện phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can, duyệt cáo trạng đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Như
phần trên đã nói đối với trường hợp không xác định được đối tượng mua và
việc chứng minh hành vi mua bán trái phép chất ma túy chủ yếu chỉ dựa
vào lời khai của người bị bắt để làm rõ ý thức chủ quan của đối tượng là
nhằm bán trái phép chất ma túy cho người khác. Do đó, việc Kiểm sát viên
lấy lời khai và hỏi cung bị can trước khi đề xuất lãnh đạo viện ban hành
một quyết định tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp Kiểm sát viên có
thể kiểm tra lại tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều
43
tra cung cấp; kiểm tra lại tính khách quan của các biên bản ghi lời khai,
biên bản hỏi cung bị can của Điều tra viên; củng cố niềm tin nội tâm của
Kiểm sát viên khi đề xuất lãnh đạo viện ra các quyết định tố tụng. Bên cạnh
đó, việc Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung bị can cũng là vũ khí để đấu
tranh với đối tượng phạm tội tại TAND. Trường hợp tại TAND, bị cáo thay
đổi lời khai việc cất giấu ma túy trong người là nhằm mục đích sử dụng
chứ không phải mục đích bán kiếm lời thì Kiểm sát viên cần dựa vào
những lời khai của bị cáo khi làm việc với Kiểm sát viên để đấu tranh
thuyết phục bị cáo nhận tội. Câu hỏi mà Kiểm sát viên có thể đặt ra để hỏi
bị cáo như: Khi Kiểm sát viên lấy lời khai của bị cáo bị cáo khai tình trạng
sức khỏe tốt, đủ minh mẫn để làm việc với Kiểm sát viên; bị cáo khai
không bị đánh đập, bức cung, dùng nhục hình; bị cáo đã khai nhận cất giấu
ma túy trong người để đi bán kiếm lời và cam đoan lời khai của mình là
đúng thì lý do tại sao tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo lại thay đổi lời
khai? Đối với những câu hỏi dạng này, bị cáo thường có thái độ bối rối và
không trả lời được câu hỏi của Kiểm sát viên.
Chính vì vậy, khi lấy lời khai, hỏi cung bị can, Kiểm sát viên bên
cạnh việc hỏi rõ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội thì cần có
những câu hỏi khác mang tính đấu tranh để thể hiện sự minh bạch và khách
quan của quá trình làm việc với đối tượng như: Hỏi về tình trạng sức khỏe,
tinh thần của đối tượng; hỏi đối tượng trong quá trình làm việc với Cơ quan
điều tra có bị đánh đập, bức cung, dùng nhục hình không? (kết hợp với việc
quan sát thái độ của đối tượng khi trả lời những câu hỏi này, quan sát thân
thể đối tượng có thương tích gì không); hỏi đối tượng có khiếu nại gì về
quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và
cán bộ điều tra không? hỏi đối tượng có muốn khai báo thêm gì không?
Yêu cầu đối tượng cam đoan về lời khai của mình… Khi lấy lời khai và hỏi
44
cung bị can, Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên, cán bộ điều tra rời
khỏi phòng hỏi cung để đảm bảo tính khách quan của quá trình làm việc.
Sau khi kết thúc việc lấy lời khai Kiểm sát viên phải yêu cầu bị can đọc lại
biên bản và ký xác nhận vào từng trang của biên bản.
Qua thực tiễn định tội danh của các chủ thể tiến hành tố tụng trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng, trong đó có TAND hai cấp tỉnh Cao Bằng đối với các
tội về ma túy trong giai đoạn 05 năm (2014 - 2018) cho thấy về cơ bản, các
chủ thể định tội danh đã xác định tội danh chính xác, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Còn có trường hợp quá trình điều tra, truy tố hoạt động thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, chưa toàn diện nên ảnh hưởng
đến việc định tội danh: Một số cán bộ điều tra còn thiếu sự linh hoạt, nhạy
bén trong tư duy nghiệp vụ, dẫn đến quá trình thu thập chứng cứ còn chưa
đầy đủ, toàn diện, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhiều lúc còn cẩu thả.
Ngày 19 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở TAND tỉnh Cao Bằng xét xử
phúc thẩm công khai VAHS phúc thẩm thụ lý số: 40/2018/TLPT-HS ngày
26 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo Lê Quang N do có kháng cáo của bị
cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2018/HS-ST ngày 02 tháng 10
năm 2018 của TAND huyện K, tỉnh Cao Bằng.
Hồi 10 giờ 20 phút ngày 06 tháng 6 năm 2018, tổ công tác Đội Cảnh
sát điều tra Công an huyện K đang làm nhiệm vụ tại tổ 11, thị trấn K,
huyện K, tỉnh C phát hiện Đàm Văn B và La Văn H đang sử dụng trái phép
chất ma túy, kiểm tra phát hiện trong tay của Đàm Văn B có 01 gói bằng ni
lon màu trắng, bên trong có các cục chất rắn màu trắng, B khai các cục chất
rắn màu trắng đó là Heroine do B nhờ H đi mua với Lê Quang N, cư trú tại
tổ 4, thị trấn K, huyện K về sử dụng, tổ công tác đã tiến hành lập Biên bản
45
bắt người phạm tội quả tang đối với Đàm Văn B, La Văn H về hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy, đồng thời tiến hành khám xét khẩn cấp người và
chỗ ở của Lê Quang N. Quá trình khám xét phát hiện thu giữ trong túi quần
đằng trước bên trái đang mặc của N 03 gói bên trong có các cục chất rắn
màu trắng, trên nóc tủ kính gần ghế dài tại phòng khách 01 gói bên trong
có các cục chất rắn màu trắng, N khai nhận các cục chất rắn màu trắng bên
trong các gói Công an thu giữ được là Heroine. Ngoài ra, Công an còn tạm
giữ 02 cân tiểu ly điện tử, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO,
1.690.000 đồng tiền Việt Nam và các vật chứng liên quan.
Hồi 09 giờ 20 phút ngày 07-6-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an huyện K đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng vật
chứng thu giữ của Đàm Văn B, La Văn H, Lê Quang N và lấy mẫu gửi
giám định, vật chứng là các cục chất rắn màu trắng trong gói ni lon màu
trắng thu giữ của B và H có khối lượng 0,58 gam (không phẩy năm mươi
tám gam); vật chứng là các cục chất rắn màu trắng trong 4 gói thu giữ trong
túi quần và trên nóc tủ của Lê Quang N là 4,49 gam (bốn phẩy bốn mươi
chín gam).
Ngày 07-6-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra
Quyết định trưng cầu giám định số 41/CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Cao Bằng giám định chất ma túy. Tại Kết luận giám
định số 110/GĐMT ngày 18-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an
tỉnh Cao Bằng kết luận: “02 (hai) Mẫu chất bột màu trắng bên trong 02
phong bì niêm phong, ký hiệu M1, M2 gửi giám định là ma túy, loại:
Heroine”.
46
Quá trình điều tra, Lê Quang N khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy
nên mua ma túy về sử dụng và bán lại cho một số người nghiện khác kiếm
lời, cụ thể:
+ Khoảng 07 giờ ngày 06-6-2018 bán cho M, cư trú tại xóm P, xã T,
huyện K, tỉnh C số tiền 500.000 đồng;
+ Khoảng 10 giờ ngày 06-6-2018, bán cho La Văn H, cư trú tại tổ 8
thị trấn K, huyện K, tỉnh C số tiền 1.800.000 đồng;
+ Khoảng 16 giờ ngày 06-6-2018, bán cho Ă, cư trú tại xóm I, xã Ô,
huyện K, tỉnh C số tiền 300.000 đồng. Ngoài ra, N còn được bán cho một
số người khác không rõ họ, tên, địa chỉ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2018/HS-ST ngày 02-10-2018 của
TAND huyện K, tỉnh Cao Bằng đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang N phạm tội “Mua bán trái phép chất
ma túy”. Áp dụng điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51
của BLHS, xử phạt: Lê Quang N 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành án
phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 07-6-2018.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; khoản 2 Điều
106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm
phong ghi: vật chứng vụ án tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, Mẫu
M1 và Mẫu M2; 02 cân tiểu ly điện tử, 03 mảnh giấy. Ngoài ra, TAND cấp
sơ thẩm còn quyết định bị cáo Lê Quang N phải chịu án phí hình sự sơ
thẩm là 200.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước và tuyên quyền kháng cáo
của bị cáo.
Ngày 10-10-2018, bị cáo Lê Quang N kháng cáo xin giảm hình phạt
với lý do bố đẻ bị cáo là Lê Văn G được Nhà nước tặng thưởng Huân
47
chương Kháng chiến, khi xét xử sơ thẩm gia đình chưa tìm thấy để giao
nộp cho TAND. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Quang N vẫn giữ
nguyên nội dung kháng cáo và khai: Ngày 06-6-2018, bị cáo bán ma túy
cho H 1.800.000đ, bán cho M 500.000đ, bán cho Ă 300.000đ. Công an
khám xét chỗ ở thu giữ của bị cáo 04 gói Heroine có khối lượng 4,49 gam.
Bố bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, đề nghị
Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án xác định: Hành vi mua bán trái phép
5,07 gam Heroine, đối với 2 người trở lên của Lê Quang N đã phạm tội
mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm c, i khoản 2 Điều 251 của
BLHS, do vậy TAND cấp sơ thẩm xử phạt Lê Quang N về tội “Mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 của BLHS là có
căn cứ. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 của
BLHS “Phạm tội 02 lần trở lên” là chưa chính xác, bởi N bán ma túy cho
M, Ă và La Văn H mỗi người một lần, cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết
định khung “Đối với 02 người trở lên” là có căn cứ, bố bị cáo được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, đây là tình tiết mới. Đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều
357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo và giảm hình phạt,
xử phạt Lê Quang N từ 07 năm đến 08 năm tù. Bị cáo Lê Quang N không
có lời bào chữa, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm
hình phạt.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án
đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
48
[1] Lời khai của bị cáo Lê Quang N tại phiên tòa phúc thẩm hoàn
toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều
tra vụ án, Do vậy, bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Quang N về tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 của BLHS
là có căn cứ pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Lê Quang N: Bị cáo
có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người thuộc trường
hợp phạm tội “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều
251 của BLHS, khối lượng Heroine thu giữ của Đàm Văn B, La Văn H là
0,58 gam, khối lượng Heroine thu giữ trong người và tại chỗ ở của bị cáo
là 4,49 gam, bị cáo phải chịu TNHS đối với khối lượng Heroine đã bán cho
Đàm Văn B, La Văn H và khối lượng Heroine thu giữ trong người, tại chỗ
ở của bị cáo với tổng khối lượng 5,07 gam thuộc trường hợp quy định tại
điểm i khoản 2 Điều 251 của BLHS. Do vậy, TAND cấp sơ thẩm xử phạt bị
cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c và
điểm i khoản 2 Điều 251 của BLHS là có căn cứ pháp luật. Đối với tình tiết
định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của BLHS, căn cứ các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Lê Quang N thì
N bán Heroine cho M, Ă, La Văn H mỗi người một lần, không có người
nào N được bán Heroine cho 02 lần trở lên nên TAND cấp sơ thẩm áp dụng
tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” là chưa chính xác. TAND chỉ áp dụng
đồng thời cả hai tình tiết định khung quy định tại điểm b “Phạm tội 02 lần
trở lên” và điểm c “Đối với 02 người trở lên” quy định tại khoản 2 Điều
251 của BLHS khi bị cáo có hành vi bán trái phép chất ma túy cho 02
người trở lên, trong đó có người được bán ma túy cho từ 02 lần trở lên.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Lê Quang N có giấy xác nhận của cơ
quan có thẩm quyền về việc bố bị cáo là ông Lê Văn G có nhiều công lao
49
trong kháng chiến được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ cứu nước hạng Nhất theo Quyết định số 1173-KT/CTN ngày 13-
3-1997 của Chủ tịch Nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên cần chấp
nhận kháng cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều
355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận
kháng cáo và giảm hình phạt cho bị cáo Lê Quang N có căn cứ chấp nhận.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Lê Quang N được Hội đồng
xét xử chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong định tội danh
các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
* Nguyên nhân khách quan
- Những bất cấp trong các quy định của pháp luật. Án ma túy là loại
án có đặc thù riêng mà hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động
định tội đối với các tội phạm về ma túy vẫn chưa đầy đủ và bất cập ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng định tội danh trong giải quyết án ma
túy.BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có một số điểm mới
khắc phục những bất cập của BLHS năm 1999.Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày24/12/2007 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy”
của BLHS năm 1999, trong đó đã hướng dẫn cách thức, phương pháp tính,
quy đổi định lượng ma túy, định lượng xác định cấu thành tội phạm đối với
các hànhvi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy tạo thuận
lợi cho quá trình giải quyết vụ án về ma túy.
50
* Về nguyên nhân chủ quan
Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, trách nhiệm của một số Kiểm sát
viên và Điều tra viên chưa cao, chưa thực hiện đầy đủ các quy trình nghiệp
vụ và các quyđịnh pháp luật, hoạt động kiểm sát điều tra đối với các vụ án
ma túy chưa cao. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử còn mang tính hình
thức kiến thức pháp lý còn hạn chế.
Do nhận thức không thống nhất về các quy định của pháp luật hình
sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, TAND khiến cho việc định tội
và quyết định hình phạt các vụ án không có sự nhất quán.
51
Tiểu kết chương
Trên cơ sở lý luận về định tội danh các tội phạm về ma túy, thực
trạng các quy định của BLHS năm 2015, so sánh với các quy định tại
BLHS năm 1999, chương 2 của luận văn nghiên cứu thực trạng tình hình
các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Thực trạng hoạt động
xét xử, định tội danh các tội phạm về ma túy của TAND các cấp trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có diễn biến phức tạp, đặc biệt khi tỉnh Cao
Bằng là một trong những địa phương là điểm trung chuyển trên con đường
vận chuyển chất ma túy ra các nước trong khu vực. Trên cơ sở nghiên cứu
thực trạng, chương 2 luận văn cũng đã rút ra được các hạn chế, tìm ra các
nguyên nhân của hạn chế trong việc định tội danh các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
52
Chương 3
NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
3.1. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội
phạm về ma túy
3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội
Ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 53/CT-TW khẳng
định quyết tâm chống oan, sai trong hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng
công tác tư pháp, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người,
của công dân...Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản năm 2011 đã đề ra: Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,
bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật về hình sự... đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp... [8, tr.250].
Như vậy, cùng với sự lớn mạnh của kinh tế thị trường, tình hình tội
phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy nói riêng và đặc biệt trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời
gian vừa qua cũng vẫn có xu hướng diễn biến phức tạp, khó lường.
Vì vậy, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danhcác
tội phạm về ma túy chính là đáp ứng yêu cầu chính trị - xã hội trong việc
bảo đảm ổn định trật tự, an toàn xã hội và sự yên bình cho nhân dân, qua
đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
53
3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn
Từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy nói
chung, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy nói riêng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng của ngành TAND, cũng như
qua báo cáo của các cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy, tình hình tội phạm
nói chung vẫn diễn biến phức tạp, gây mất ổn định về chính trị, an ninh và
an toàn xã hội [6].
Ngoài ra, trong số các tội phạm đã bị xét xử, mặc dù trung bình một
năm trong thời gian 05 năm (2014 - 2018), TAND tỉnh Cao Bằng xét xử
825 vụ án và 1090 bị cáo về các tội phạm ma túy và việc nghiên cứu, khảo
sát thực tiễn cho thấy không có nhiều tồn tại, hạn chế trong việc định tội
danh (đã phân tích trong Chương 2 luận văn này), song nếu cố gắng tới
mức thấp nhất hạn chế này cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định
về chính trị, an ninh và an toàn xã hội, cũng như qua đó thực hiện nghiêm
minh pháp chế xã hội chủ nghĩa, cũng như uy tín của TAND và các cơ
quan bảo vệ pháp luật được nâng lên rõ rệt.
Chính vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện quy định của BLHS Việt
Nam về các tội phạm về ma túy và các văn bản hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật - cơ sở pháp lý của việc định tội danh chính xác và đúng
pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bên cạnh đó, Luật tổ chức TAND năm 2014 ra đời [25, Điều 2]. Cho nên,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với các tội phạm
ma túy dưới phương diện lý luận và thực tiễn đóng vai trò quan trọng, góp
phần hạn chế tới mức thấp nhất các tồn tại trong thực tiễn giải quyết VAHS
về tội phạm này.
54
3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự
Qua nghiên cứu, khảo sát chất lượng của hoạt động định tội danh đối
với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy của TAND tỉnh Cao Bằng cho thấy, về cơ bản được bảo đảm và tuân
thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện nghiêm túc các quy định của BLHS,
Bộ luật tố tụng hình sự, đặc biệt trong việc thụ lý và giải quyết vụ án về tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội
phạm về ma túy
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải
pháp và chỉ đạo quyết liệt nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị và cộng đồng trong cuộc chiến chống ma túy; công tác tuyên truyền,
giáo dục, phòng chống ma túy được triển khai sâu rộng; trên cả nước đã
xuất hiện nhiều mô hình, điển hình trong phòng chống ma túy; công tác
đấu tranh, phòng chống ma túy từng bước được xã hội hóa, thu hút đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Qua đó, đã kiềm chế được tốc độ gia
tăng người nghiện, nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng
chống ma túy… Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, tình hình tội phạm
và tệ nạn ma túy vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; thực tiễn đấu tranh,
phòng chống loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn; lực lượng chuyên
trách phòng, chống ma túy còn mỏng, nhất là tại các địa bàn trọng điểm;
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ cơ sở chưa đồng đều, trang
thiết bị được trang bị còn hạn chế; đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc
trong thực thi pháp luật về phòng chống ma túy…
55
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tội phạm ma
túy
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng chống ma túy năm
2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008), thì: a) Chất ma túy là các chất gây
nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ
ban hành.b) Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ
gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. c) Chất hướng thần là chất
kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể
dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.d) Tiền chất là các hóa chất
không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy, được
quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. đ) Thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh
mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2 và khoản
3 Điều này.e) Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh
túc), cây côca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ
quy định.
Điều đó cho thấy, việc giám định chất ma túy, xác định chính xác
trọng lượng, hàm lượng chất ma túy trong các vụ án ma túy là rất cần thiết,
nhằm bảo đảm tính khách quan, chính xác trong xét xử của TAND nói
riêng và bảo đảm không làm oan sai của các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung.
+ Điều 193. Tội sản xuất trái phép chất ma túy. Mà theo đó, tại điểm
đ, e, g khoản 2; điểm b, c, d khoản 3 và điểm a, b, c khoản 4 của Điều này
có quy định:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm: …đ) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc
56
cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; e)
Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; g)
Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới
một trăm gam;…
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm: … b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa
hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam; c)
Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm
gam; d) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam
đến dưới ba trăm gam;…
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần
sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;b) Hêrôin hoặc
côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; c) Các chất ma tuý khác ở
thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; …”
+ Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy. Mà theo đó, tại điểm g, h, i, k, l khoản 2; điểm a, b, c, d,
đ, e khoản 3 và điểm a, b, c, d, đ, e khoản 4 Điều này có quy định:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm:… g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc
cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;h) Hêrôin
hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; i) Lá, hoa,
quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới
hai mươi lăm kilôgam;k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi
kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng
57
từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;m) Các chất ma tuý khác ở
thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;…
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc
cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;b) Hêrôin
hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam; c) Lá,
hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm
kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;d) Quả thuốc phiện khô có trọng
lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;đ) Quả thuốc phiện
tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi
kilôgam; e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm
gam đến dưới ba trăm gam;…
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần
sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;b) Hêrôin hoặc
côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; c) Lá, hoa, quả cây cần sa
hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;d) Quả
thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên; đ) Quả thuốc
phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;e) Các
chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; …”
+ Điều 195. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền
chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy. Mà theo đó, tại điểm đ
khoản 2; khoản 3 và khoản 4 Điều này có quy định:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ sáu năm đến mười ba năm:… đ) Tiền chất có trọng lượng từ hai trăm
gam đến dưới năm trăm gam…
58
3. Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ năm trăm
gam đến dưới một nghìn hai trăm gam, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến
hai mươi năm.
4. Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ một nghìn
hai trăm gam trở lên, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.…”
Như vậy, câu hỏi đặt ra liệu hướng dẫn tại Thông tư liên tịch
08/2015/TTLT về giám định hàm lượng chất ma túy trong các vụ án về ma
túy liệu có phù hợp không?
Về vấn đề này, theo quan điểm của tác giả như sau:
Theo quy định tại Chương XVIII của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009 viết tắt BLHS nằm 1999) thì có một số loại thảo mộc có
chứa chất ma túy như: Lá, hoa, quả cây cần sa; lá côca; quả thuốc phiện; có
những chất ma túy được tinh chế qua quá trình sản xuất như: Hêrôin,
Côcain, nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, các chất ma túy khác ở
thể rắn và thể lỏng. Tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm của từng loại ma
túy, khung hình phạt áp dụng tương ứng với trọng lượng của từng loại chất
ma túy được quy định khác nhau. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 3 Điều
194 của BLHS năm 1999 thì người mua bán trái phép quả thuốc phiện tươi
có trọng lượng từ 50kg đến dưới 150kg thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20
năm; nếu chất ma túy là Hêrôin thì trọng lượng quy định là từ 30g đến dưới
100g. Như vậy, việc xác định loại chất ma túy, hàm lượng, trọng lượng
chất ma túy trong các vụ án về ma túy là rất quan trọng và là căn cứ để truy
cứu TNHS đối với người phạm tội.
Tại điểm a và b tiểu mục 1.1 Mục 1 Phần I Thông tư liên tịch
17/2007/TTLT cũng đã hướng dẫn: “a) Đối với các chất ma tuý ở thể rắn
được hoà thành dung dịch (như dung dịch thuốc phiện, dung dịch hêrôin
59
dùng để tiêm, chích hoặc chất ma tuý ở thể lỏng đã được pha loãng để tiện
cho việc sử dụng thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma tuý ở thể
lỏng mà cần xác định hàm lượng moocphin trong dung dịch để tính trọng
lượng của chất ma tuý đó.
Kế đến, Công văn 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014, của TAND tối
cao ban hành, có ghi rõ: “Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 nêu
trên thì: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là ma túy
hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải
trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất mà túy,
tiền chât.
Tuy vậy, qua công tác giám đốc việc xét xử, Tòa án nhân dân tối cao
thấy còn nhiều trường hợp Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào kết quả giám
định về trọng lượng của các chất nghi là chất ma túy để kết tội các bị cáo,
mà không yêu cầu xác định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu được
đó, như vậy là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự và hướng
dẫn của liên ngành dẫn đến hậu quả có thể xát xử oan, sai.
Để khắc phục ngay tình trạng này, Tòa án nhân dân tối cao cần yêu
cầu Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa
án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cần quán
triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17
nêu trên về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy
trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các
bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội về ma túy” của Bộ luật
hình sự 1999.”
Như vậy, khi xét xử các vụ án về các tội phạm về ma túy thì phải có
kết quả trưng cầu giám định hàm lượng ma túy trong các chất thu giữ được
60
nghi là ma túy để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo, bảo đảm việc xét xử
khách quan, chính xác.
Theo Từ Điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung tâm Từ
điển học, xuất bản năm 1999, tại trang 403 có giải thích danh từ “hàm
lượng” là: Lượng của một chất chứa trong một hỗn hợp hoặc trong một
chất nào đó, tính bằng phần trăm (%).Ví dụ: trọng lượng vàng có chứa
trong khối mỏ quặng sẽ khác với trọng lượng toàn bộ khối mỏ quặng đó.
Từ kết quả giám định hàm lượng chất ma túy ở ví dụ vừa nêu, rõ
ràng là thật sự cần thiết, nhằm bảo đảm việc xét xử được chính xác và quan
trọng hơn là bảo vệ được quyền con người theo tinh thần Hiến pháp năm
2013 đã quy định, mà theo đó, nếu cho rằng trọng lượng Hêrôin thu được là
1.000g, TAND sẽ xử bị cáo ở mức án tử hình; còn nếu xác định chính xác
chỉ có 50g Hêrôin thì bị cáo chỉ bị xét xử tối đa là 20 năm tù. TAND không
thể xét xử người phạm tội sản xuất buôn bán, tàng trữ 1kg chất ma túy có
chứa 2% chất gây nghiện (tương đương 20mg chất gây nghiện) giống như
1kg chất gây nghiện mà hàm lượng 100% chất gây nghiện.
Công văn số 20542/QLD-KD ngày 25/11/2014 của Cục Quản lý
Dược – Bộ Y tế, về việc giám định chất ma túy theo Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP do Phó cục trưởng
Nguyễn Tất Đạt ký, có viết rõ: “Chất ma túy cần được xác định và phân
loại khác nhau vì trong Danh mục các chất ma túy do Ủy ban kiểm soát ma
túy quốc tế cũng như danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành
kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 bao gồm nhiều loại
chất ma túy khác nhau, mỗi loại có cấu tạo, thành phần, mục đích sử dụng
khác nhau, từ đó có các biện pháp quản lý, kiểm soát phù hợp cũng như xử
lý theo các mức độ khác nhau, ví dụ: Điều 194 BLHS quy định tội tràng
61
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong một
khung hình phạt: Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 5gam đến dưới
30gam nhưng các chất ma túy khác ở thể rắn khác có trọng lượng từ 20mg
đến dưới 100mg… Việc giám định hàm lượng có thể khó khăn, có thể kéo
dài thời gian giải quyết các vụ án nhưng việc xét xử sẽ bảo đảm khách
quan, chính xác, đúng người, đúng tội”
Việt Nam hiện đã tham gia các Công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị của con người. Bởi vậy, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
luôn phải đảm bảo sự công bằng, công lý và vì quyền con người, nên việc
giám định hàm lượng chất ma túy theo đúng hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch 17/2007/TTLT và Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT là căn cứ để
TAND tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan
sai và bỏ lọt tội phạm.
3.2.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT sửa đổi, bổ sung tiểu mục 1.4
Mục 1 Phần I Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT, như sau: “1.4. Trong mọi
trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám
định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được.
Bởi vậy, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử luôn phải bảo đảm
sự công bằng, khách quan và quyền con người muốn vậy thì đối với các vụ
án về ma túy việc giám định hàm lượng các chất ma túy là hết sức cần
thiết.
Thông tư 08/2015/TTLT có hướng dẫn “…Trường hợp không thu
giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định
được trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua bán,
62
vận cuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người phạm tội bị truy cứu TNHS
về các tội danh và điều khoản tương ứng.”
Thông tư 08/2015/TTLT cũng bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiểu
mục 3.7 Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT: “Người nào tàng
trữ trái phép, vận chuyển trái phép một trong các chất ma túy có số lượng
được hướng dẫn từ điểm a đến g tiểu mục 3.6 Mục 3 Phần II Thông tư này
mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy
khác, nhưng chứng minh được là nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma
túy, tuy đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng biện
pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thì phải chịu TNHS về tội sử dụng
trái phép chất ma túy theo Điều 199 BLHS.”. Bãi bỏ hướng dẫn tại điểm b
tiểu mục 7.3 Mục 7 Phần II Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT: “Người
nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất
ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình
thì không phải chịu TNHS về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma
túy…” và Mục 8 Phần 2 của Thông tư này “Tội sử dụng trái phép chất ma
túy”.
Việc bãi bỏ những phần trên theo tác giả là hợp lý vì những phần
trên liên quan đến tội “sử dụng trái phép chất ma túy” đã được phi tội phạm
hóa từ năm 2009. Vì: BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã
không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm. Xong như
hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT thì vô hình dung những
người nghiện ma túy ở một góc độ nào đó lại được “miễn trừ” về pháp luật
điều đó là không công bằng. Trong khi hành vi tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy, đã được quy định trong BLHS là tội phạm thì tất cả những
hành vi liên quan đến việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều phải
bị truy cứu TNHS. Do vậy, những người nghiện hút ma túy tụ tập nhau lại
63
để sử dụng ma túy cũng không thể được miễn trừ như hướng dẫn tại Thông
tư liên tịch 17/2007/TTLT được, mà cần phải bị truy cứu TNHS. Có như
vậy, mới bảo đảm nguyên tắc công bằng.
3.3. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội phạm về ma
túy
3.3.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công
tác tổ chức, cán bộ tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán
Liên tục tuyển chọn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là
đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm, vì đội ngũ này có vai trò, ý nghĩa quyết
định trong việc xử lý các vụ án. Riêng về đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm -
những người cần cân nảy mực để định tội danh và quyết định hình phạt,
mặc dù trong những năm qua, Nhà nước tuy đã có sự đổi mới về yêu cầu
này, đặc biệt là tiêu chuẩn hóa về bổ nhiệm Thẩm phán, nhưng trong thời
gian tới cần thực hiện tốt Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân năm 2014 vừa được Quốc hội thông qua.
Cho nên, giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp
nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán nói riêng đã
đến lúc thực sự cần quan tâm, sự quan tâm đó thể hiện qua việc lựa chọn
một cách chặt chẽ và có khoa học để bảo đảm chất lượng, có chương trình
đào tạo khả năng hành nghề của Thẩm phán và phải được sát hạch bằng hệ
thống chuyên môn, có đủ khả năng nhận định một cách khách quan, chính
xác để đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay và trong tương lai về hoạt
động điều tra, truy tố và xét xử.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch và luân chuyển, biệt phái, điều
động cán bộ, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ TAND và Hội thẩm TAND.
Thực hiện Kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của Bộ Chính trị về
64
việc đào tạo cán bộ của ngành TAND và ngành Kiểm sát nhân dân, TAND
tối cao đã triển khai xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngành TAND đến năm 2020, Đề án về đào tạo chuyên gia đầu ngành
về pháp luật và nghiệp vụ TAND, Đề án phối hợp với các trung tâm đào
tạo để xây dựng cơ chế đào tạo nguồn cán bộ cho các TAND vùng sâu,
vùng xa... [37, tr.24].
Đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám đốc việc xét
xử, kịp thời phát hiện, uốn nắn, rút kinh nghiệm những sai sót về nghiệp vụ
trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án; tăng cường công tác xét xử lưu
động đối với các VAHS, hạn chế tới mức thấp nhất việc trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật…
3.3.2. Nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án nhân dân
Cần nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan Điều tra, Viện kiểm
sát và TAND trong giải quyết các VAHS trong đó có các tội phạm về ma
túy.
Liên ngành Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và TAND cần xây dựng
quy chế phối hợp trong việc giải quyết các vụ án về ma túy. Trong đó, quy
định đối với những vụ án phức tạp, vụ án có phương thức, thủ đoạn mới thì
phải có sự thống nhất giữa các cơ quan tố tụng về từng vấn đề cần điều tra,
làm rõ. Đối với những vấn đề nào có thể làm được thì triển khai thực hiện
ngay, còn vấn đề nào không thể làm được, những vấn đề nào khó khăn,
vướng mắc trong vụ án thì traođổi, thống nhất trước, tránh tình trạng Điều
tra viên, Kiểm sát viên không bám sát hồ sơ, dẫn đến việc điều tra thiếu
sót, có nhiều vấn đề chưa được làm rõ nên phải trả hồ sơ nhiều lần, thậm
chí có thể dẫn đến oan, sai.
65
Đối với những vấn đề nào có thể làm được thì triển khai thực hiện
ngay, còn vấn đề nào không thể làm được, những vấn đề nào khó khăn,
vướng mắc trong vụ án thì trao đổi, thống nhất trước, tránh tình trạng Điều
tra viên, Kiểm sát viên không bám sát hồ sơ, dẫn đến việc điều tra thiếu
sót, có nhiều vấn đề chưa được làm rõ nên phải trả hồ sơ nhiều lần, thậm
chí có thể dẫn đến oan, sai.
Do đó, cần nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát và TAND trong giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Liên ngành Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và TAND cần xây dựng quy chế phối hợp trong việc
giảiquyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy.
66
Tiểu kết chương
Từ thực tiễn xét xử, định tội danh các tội phạm về ma túy trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng của TAND các cấp, từ những hạn chế được rút ra và
nguyên nhân tìm được Chương 3 của luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định pháp luật và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự,
tố tụng hình sự hiện hành trong định tội danh các tội phạm về ma túy của
các cấp ngành liên quan. Bên cạnh đó, các giải pháp được đề xuất sẽ làm
sáng tỏ hơn những vướng mắc trong thực trạng giải quyết các vấn đề về
định tội danh các tội phạm về ma túy của các địa phương cụ thể.
67
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật học: “định tội danh các
tội phạm về ma tuý từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” cho phép đưa ra một số kết
luận chung sau đây: Tình hình tội phạm về ma túy ngày càng gia tăng về số
lượng và tính chất phức tạp, điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành và toàn xã
hội phải chung tay nhằm phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa
đối với loại tội phạm này và những hệ lụy do nó đem lại. Do đó, học viên
nghiên cứu về “định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng” là có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.Trong luận văn học viên đã
bước đầu tiếp cận, khái quát, đưa ra có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về định tội danh các tội phạm về ma tuy trong quá trình giải quyết
các vụ án. Khảo sát đánh giá tình hình diễn biến tội phạm, công tác giải
quyết án hình sự về ma túy từ năm 2014 đến năm 2018 của các cơ quan
tiến hành tố tụng tỉnh Cao Bằng. Trên cơ sở đó, học viên đã đề cập đến
những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của
những hạn chế vướng mắc trong việc định tội danh các tội phạm về ma túy.
Trên cơ sở nghiên cứu khía cạnh pháp lý hình sự và thực tiễn định tội danh
các tội phạm về ma tuý tại địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2014 - 2018,
luận văn đã đưa ra một số giải pháp đảm bảo định tội danh đúng đối với
các tội phạm về ma tuý.
68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - TAND tối cao - Bộ Tư pháp
(2007), Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP
ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999.
2. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - TAND tối cao - Bộ Tư pháp
(2015), Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP
ngày 14 tháng 11 năm 2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 24 tháng
12 năm 2007.
3. Lê Văn Cảm (2010), Chương XXXI “Một số vấn đề lý luận chung về định
tội danh”, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
4. Lê Văn Cảm, Trịnh Quốc Toản, định tội danh (2011), Lý luận, Lời giải
mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Chính phủ (2013), Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 ban hành
các danh mục chất ma túy và tiền chất.
6. Chính phủ (2015), Nghị định 126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015, sửa đổi,
bổ sung danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo nghị
định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ ban hành các danh
mục chất ma túy và tiền chất.
7. Chính phủ (2018), Nghị định 19/2018/NĐ-CP 02/02/2018 Quy định về việc
tính khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều luật của BLHS
năm 2015.
8. Nguyễn Thanh Dung (2012), Luận văn thạc sỹ “định tội danh các tội phạm
về ma túy”, Khoa Luật Đại học Quốc Gia.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải
cách tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
10. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
12. Lê Văn Đệ (2010), định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Trần Mạnh Hà (2011), Luận văn thạc sỹ luật học, Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất
ma túy.
14. Nguyễn Thị Phương Hoa (2006), Hoàn thiện khái niệm chất ma túy trong
pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 3 (tr 22-30).
15. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
16. Dương Tuyết Miên (2007), định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
17. Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội
danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
18. Trương Thị Tuyết Minh (2005), Mối quan hệ giữa định tội danh và cấu
thành tội phạm, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6 (tr 13-17).
19. Quốc hội (2009), BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
20. Quốc hội (2015), BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
21. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2003.
22. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2015.
23. Quốc hội (2000), Luật Phòng, chống ma túy ngày 09 tháng 12 năm 2000.
24. Quốc hội (2008), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
ma túy ngày 03 tháng 6 năm 2008.
25. Đinh Văn Quế (2000), Bình luật khoa học BLHS - Phần chung Nxb TP Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
26. Đinh Văn Quế (2001), Bình luật khoa học BLHS - Phần các tội phạm (Tập
4: Các tội phạm về ma túy), Nxb TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
27. Đinh Văn Quế (2001), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
28. Phạm Thị Hồng Thắng (2015), Luận văn thạc sỹ định tội danh đối với tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
29. TAND huyện Quảng Yên, Cao Bằng (2017), Bản án số 35/2017/HSST
ngày 23/6/2017.
30. TAND huyện Bảo Lạc, Cao Bằng (2017), Bản án số: 30/2017/HSST ngày
24/5/2017
31. TAND thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng (2016), Bản án hình sự sơ
thẩm số 21/2016/HSST ngày 29/02/2016
32. TAND tỉnh Cao Bằng (2018), Bản án phúc thẩm số 10/2018/HS-PT ngày
19/3/2018
33. TAND tỉnh Cao Bằng (2018), Bản án phúc thẩm số 45/2018/HS-PT ngày
19/11/2018.
34. TAND tỉnh Cao Bằng (2013), Báo cáo tổng kết năm 2013 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2014.
35. TAND tỉnh Cao Bằng (2014), Báo cáo tổng kết năm 2014 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015.
36. TAND tỉnh Cao Bằng (2015), Báo cáo tổng kết năm 2015 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016.
37. TAND tỉnh Cao Bằng (2016), Báo cáo tổng kết năm 2016 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017.
38. TAND tỉnh Cao Bằng (2017), Báo cáo tổng kết năm 2017 và phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018.
39. TAND tối cao (2014), Công văn 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014.
40. TAND tối cao (2015), Công văn 315/TANDTC-PC về việc thực hiện Thông
tư liên tịch sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên lịch số 17, ngày
11/12/2015.
41. Trịnh Quốc Toản (1999), Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng
dẫn phương pháp định tội danh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Trường Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập
1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Trường Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập
2), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Phạm Minh Tuyên (2006), Luận án tiến sỹ TNHS đối với các tội phạm về
ma túy trong Luật hình sự Việt Nam.
45. Phạm Minh Tuyên (2013), Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý
luận và thực tiễn xét xử, Nxb Hồng Đức.
46. Đào Trí Úc (2001), Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội
phạm theo Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6 (tr
3-16),
47. Phùng Thế Vắc, Trần Văn Luyện, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Đức Mai,
Nguyễn Sỹ Đại, Nguyễn Mai Bộ (2001), Bình luật khoa học BLHS 199
(phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.
49. Võ Khánh Vinh (2003), Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Tạp chí TAND số 11 (tr 6-11), số 12 (tr 4-8).
50. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học Xã
hội.
51. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học
Xã hội.