BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

___________________

Phạm Ngọc Ánh Tuyết

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ

THUẬT NGUYỄN QUANG LẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

___________________

Phạm Ngọc Ánh Tuyết

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ

THUẬT NGUYỄN QUANG LẬP

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CÁM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến nhà văn Nguyễn Quang Lập, người

đã tạo ra những đứa con tinh thần, khơi gợi cảm hứng và sự yêu thích, thôi thúc tôi thực

hiện đề tài luận văn này. Đồng thời cũng xin cám ơn những ý kiến chia sẻ chân thành của

nhà văn đã giúp tôi có thêm tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu.

Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thành Thi, người thầy đã tận

tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn từ những bước

đầu tiên cho đến khi hoàn thành.

Ngoài ra, sự động viên, ủng hộ từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cũng là nguồn cổ vũ

tinh thần lớn lao cho tôi vượt qua những khó khăn, cũng như sự giúp đỡ tạo điều kiện cho

tôi được thực hiện và hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.

TP.HCM, ngày 30 tháng 9 năm 2013

Học viên

Phạm Ngọc Ánh Tuyết

1

MỤC LỤC

LỜI CÁM ƠN .............................................................................................................. 1

MỤC LỤC .................................................................................................................... 2

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 4

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 9

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 10

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................... 10

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN QUANG LẬP ........................................................................................... 13

1.1. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 .................................................................................................................................... 13

1.1.1. Văn xuôi nghệ thuật .............................................................................................. 13

1.1.2. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 .... 14

1.2. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và vị trí văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của ông ............................................................................................................................................. 21

1.2.1. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và quá trình sáng tác ............................................... 21

1.2.2. Văn xuôi nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập ................................ 26

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG, CẢM HỨNG .......................................................... 32

2.1. Hiện thực chiến tranh và số phận con người .......................................................... 32

2.1.1. Một góc nhìn về hiện thực chiến tranh .................................................................. 32

2.1.2. Số phận con người trong suy cảm của nhà văn ..................................................... 39

2.2. Sự ngộ nhận về lý tưởng và những bi kịch cá nhân ............................................... 44

2.2.1. Bi kịch ngộ nhận về lý tưởng của con người và thời đại ...................................... 44

2.2.2. Bi kịch cá nhân: con người bị sai lệch nhân cách ................................................. 46

2.3. Chuyện “hàng ngày” viết lại từ ký ức ...................................................................... 53

2.3.1. Chân dung con người – “những mảnh đời đen trắng” .......................................... 54

2.3.2. Chân dung bạn văn ................................................................................................ 57

2.3.3. Chân dung tự họa .................................................................................................. 63

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI, NGÔN TỪ .............................................................. 66

2

3.1. Một lối tự sự đa giọng điệu ....................................................................................... 66

3.1.1. Giọng trữ tình tha thiết .......................................................................................... 66

3.1.2. Giọng xót xa, thương cảm ..................................................................................... 68

3.1.3. Giọng hài hước, hóm hỉnh ..................................................................................... 71

3.2. Cách xây dựng đoạn kết gợi nhiều suy cảm ............................................................ 74

3.2.1. Các kiểu đoạn kết .................................................................................................. 75

3.2.2. Tính chất “khoảng lặng” của đoạn kết .................................................................. 79

3.3. Cách tạo lập diễn ngôn trần thuật mang đậm cá tính sáng tạo............................. 81

3.3.1. Diễn ngôn trần thuật và diễn ngôn trần thuật trong văn xuôi hiện đại .................. 81

3.3.2. Sự vận dụng và điều phối linh hoạt các thành phần diễn ngôn trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập ..................................................................................... 82

3.3.3. Tạo diễn ngôn trần thuật đậm chất “khẩu văn” – một hiện tượng độc đáo trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập ..................................................................................... 89

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 111

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học Việt Nam sau 1975 có sự nở rộ và phát triển mạnh mẽ ở loại hình văn xuôi

nghệ thuật. Có thể nói, đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Xu hướng dân chủ hóa

trong văn học đã mở ra cho các nhà văn những chân trời khám phá và những thể nghiệm

mới về hiện thực cuộc sống. Hàng loạt các tác phẩm văn xuôi với những cách tân vượt trội

cùng với sự xuất hiện của một lực lượng đông đảo các nhà văn trẻ đã làm nên diện mạo đặc

biệt cho văn học giai đoạn này.

Thực tế đời sống văn học cho thấy, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay, nhất là sau

1986, từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu lịch sử khá đặc biệt, bởi đã có hàng trăm

công trình nghiên cứu. Người ta gọi văn học Việt Nam sau 1986 là giai đoạn “văn học đổi

mới”, “văn học trong thời kì đổi mới”. Và để làm nổi bật sự đổi mới đó, bên cạnh việc

nghiên cứu tổng quát về những đặc điểm văn học, thành tựu văn học, thiết nghĩ, cần điểm

lại chân dung của từng nhà văn với những thành công, những sáng tạo nghệ thuật của họ đã

ít nhiều góp phần tạo nên bộ mặt cho văn học giai đoạn này.

Nguyễn Quang Lập là một chân dung mới của văn học Việt Nam hiện đại thuộc giai

đoạn này, thành công ở nhiều loại hình nghệ thuật như văn xuôi, kịch, sân khấu điện ảnh.

Riêng về mảng văn xuôi, ông sáng tác không nhiều, nhưng ở mỗi thể loại, ông đều tạo được

những dấu ấn riêng cả về nội dung lẫn phương thức thể hiện. Nguyễn Quang Lập là nhà văn

đã xuất hiện và nổi tiếng từ những năm 80 của thế kỉ trước, nhưng điều đáng nói là sau 20

năm vắng bóng, nhà văn đã trở lại với văn đàn với sức viết dồi dào và làm nên một diện

mạo mới, đặc biệt là chất “khẩu văn”. Nhà văn đã tạo lập cho mình một thế giới nghệ thuật

riêng, mang giọng điệu hài hước, hóm hỉnh nhưng chất chứa trong đó là những chuyện đời,

chuyện người vẫn còn lắm nỗi.

Chọn đề tài Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, người thực hiện

luận văn muốn tìm hiểu một cách hệ thống toàn bộ các sáng tác văn học, khái quát nên

những đặc điểm cơ bản văn xuôi nghệ thuật của nhà văn này cả về phương diện nội dung

lẫn hình thức nghệ thuật. Qua đó, góp phần khẳng định sự đa dạng, phong phú của văn học

Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề

4

Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Lập từ khi ra đời đã tạo được nhiều ấn

tượng, dư vang trong lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự quan tâm của giới

nghiên cứu, phê bình nói riêng. Tuy nhiên, phần lớn là các bài viết ngắn, thiên về cảm nhận,

nhận xét và đánh giá. Những bài viết có tính chất nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế, thường

chỉ quan tâm đến một tác phẩm nào đó, chưa có những bài nghiên cứu mang tính tổng hợp.

Hầu hết các bài viết được đăng rải rác trên các trang báo, tạp chí, từ nguồn internet, hoặc từ

trang cá nhân của một số bạn bè văn chương của nhà văn Nguyễn Quang Lập, và nhất là

được tập hợp khá đầy đủ trong trang cá nhân của ông.

Qua khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi chia các bài nghiên cứu ra hai nhóm bài viết

chính:

(1) Nhóm các bài viết nhận xét, đánh giá về phương diện nội dung tác phẩm Nguyễn

Quang Lập

(2) Nhóm các bài viết có nghiên cứu về nghệ thuật trong tác phẩm Nguyễn Quang

Lập

Theo đó, tác giả luận văn cố gắng điểm qua một số ý kiến nhận xét, đánh giá tiêu

biểu cho từng nhóm bài viết.

Trước hết, cần nói đến các bài viết, ý kiến về tác phẩm Những mảnh đời đen (1)

trắng (cuốn tiểu thuyết duy nhất của Nguyễn Quang Lập tính đến hiện nay). Vừa ra đời, tác

phẩm đã nhận được nhiều ý kiến phê bình, nhận xét bởi tính vấn đề được đặt ra.

Thụy Khuê, trong bài viết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập đã

khái quát tính bi thảm của cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết này. Theo tác giả, “Những

mảnh đời đen trắng là một tác phẩm mạnh và dứt khoát. Là cuộc xung đột giữa hai tầng

lớp xã hội, hai quan niệm sống khác nhau. Giữa hai thế hệ trẻ và già, giữa lớp người có quá

khứ oai hùng và lớp người không được quyền có quá khứ. Giữa lớp bần cố nông làm chủ

tập thể, làm chủ tình thế và lớp trí thức tiểu tư sản “đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương

ruồng bỏ giống nòi khinh” (Thơ Vũ Hoàng Chương). Cả hai giai tầng đều đáng thương mà

không đáng trách. Một bên có khả năng nhận thức mà không được sử dụng. Một bên không

có khả năng mà phải gánh vác những công việc quá sức mình. Sự xung đột trải dài trên hai

thế hệ”[37].

5

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài viết giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết

này đã khẳng định một cách cảm nhận riêng, một cái nhìn rất mới mẻ của Nguyễn Quang

Lập khi viết về đề tài chiến tranh. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là cái nhìn sâu vào

những thương tật chiến tranh đã để lại trong tâm hồn con người. Và “để phát hiện ra những

nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời mà cúi xuống lòng mình, đào bới ở đó

những điều thấy cần nói với mọi người” [46;5]. Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh, tác phẩm có

giá trị và ý nghĩa sâu sắc không phải ở nội dung của nó, mà chính ở cái tâm, cái tình của tác

giả – một người muốn nhìn thẳng vào sự thật, “đó là nỗi căm ghét cái ác, sự đòi hỏi về nhân

phẩm và lòng khao khát hòa bình và hạnh phúc cuộc sống. Cách viết của Nguyễn Quang

Lập là như vậy, là làm thương tổn lương tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn

thiện hơn” [47;7].

Nếu bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ dừng lại ở những lời nhận xét chung,

đánh giá một cách khái quát, thì bài viết Những mảnh đời đen trắng, hai mươi năm có lẻ

của Phạm Xuân Nguyên lại đi sâu vào việc mổ xẻ, phân tích nội dung tác phẩm ở nhiều góc

cạnh. Ông khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ, rằng:

“Cuốn tiểu thuyết này là một bức thông điệp nghệ thuật cho hôm nay và mai sau biết

về một quá khứ của đất nước thân yêu và tội nghiệp. Có một thời đại lầm lỗi như thế

đấy: người ta hào hứng nhiệt tình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội mà không hiểu Chủ nghĩa

Xã hội là gì, người ta nhân danh những lý tưởng cao đẹp của Chủ nghĩa Xã hội để làm

những việc gây ô danh cho lý tưởng đó, và điều tệ hại và nguy hiểm nhất là người ta nói

đến Chủ nghĩa Xã hội mà quên mất con người, xem nhẹ con người với tư cách là một cá

nhân riêng tư và độc đáo. Thực chất đó là sự ngộ nhận về Chủ nghĩa Xã hội, đưa đến

xuyên tạc bản chất chân chính của nó, từ đó gây nên hậu quả khủng khiếp, đau lòng”

[47;294].

Quả thật, nhà phê bình này đã đưa ra những nhận xét khá sâu sắc về nội dung và tính

vấn đề mà tác phẩm đặt ra. Tuy nhiên, cách nhận xét như vậy của tác giả dễ khiến người đọc

hiểu lầm một cách cực đoan rằng ý đồ của nhà văn trong tác phẩm Những mảnh đời đen

trắng dường như là muốn phủ định hoàn toàn một thời đại Xã hội Chủ nghĩa, nghĩa là chẳng

có gì là tốt đẹp trong lòng xã hội đó cả. Trong khi đó, những “người ta” mà nhà phê bình

này gọi là “hào hứng nhiệt tình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội mà không hiểu Chủ nghĩa Xã

hội là gì…” thực chất chỉ là một bộ phận của xã hội, của thời đại, như vậy, không nên đánh

6

đồng để hiểu một cách chung chung về cả thời đại ấy. Nhà văn Nguyễn Quang Lập chỉ cố ý

dựng lại những vấn đề còn tồn tại của một thời đại xã hội với cái nhìn thương hại, tội nghiệp

cho một bộ phận người đang nắm quyền về sự “hiểu biết” nhưng thực chất lại là những kẻ

“kém hiểu biết” về thời đại mình, để từ đó đặt ra một vấn đề cấp thiết của sự nhận thức lại

lịch sử, đánh giá lại một thực tế còn tồn tại trong quá trình đổi mới xã hội, đất nước. Chứ

nhà văn không hề có ý muốn đánh đổ toàn bộ những giá trị đẹp đẽ về một thời đại mà con

người từng tự hào và ca ngợi.

Trong bài viết của mình, tác giả Phạm Xuân Nguyên còn đưa ra những lời nhận xét,

phân tích khá kĩ lưỡng về các nhân vật chính trong tác phẩm. Ông đặc biệt chú ý đến số

phận bi kịch của từng cá nhân. “Những cơn bi kịch này giăng mắc, ràng buộc, đan chéo vào

nhau tạo thành tấn bi kịch của một cộng đồng ở vào thời kỳ lịch sử nhất định”. Lý giải cho

những bi kịch đen trắng trong tác phẩm, nhà phê bình nhận định “Bi kịch này là lầm lỗi của

một thời do con người gây ra và con người phải tự trả giá cho chính nó”. “Cá nhân và lịch

sử ở đây vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau” [47;296].

Không chỉ phân tích tác phẩm để làm toát lên nội dung tư tưởng mà tác giả Phạm

Xuân Nguyên còn nêu lên một số “chỗ yếu”, hạn chế của tác phẩm. Thứ nhất là nhân vật bị

nhiễm “từ trường” của tác giả, ít còn được tự do là mình. Theo bài viết của Phạm Xuân

Nguyên: “Một số người sau khi đọc Những mảnh đời đen trắng nhận xét: truyện viết mạnh

bạo, đạt được nhiều vấn đề suy nghĩ, nhưng nhân vật bị cương cứng quá, có phần bị cường

điệu, không đời thật…”. Và chỗ yếu thứ hai là nhân vật bị nằm ở thế tĩnh quan “tính cách

của chúng được tác giả quy định ngay từ đầu, nhất thành bất biến suốt cả truyện, tác giả

lần lượt bố trí các sự kiện, hành động để chứng tỏ tính cách của chúng như thế mà thôi”

[47;299].

Đối với thể loại tản văn của Nguyễn Quang Lập, trong ba cuốn tản văn thì tác phẩm

Kí ức vụn nhận được nhiều sự chú ý hơn cả. Bài viết Thân phận, tình người trong từng

mảnh “Ký ức vụn” của Nguyễn Đình Xuân đã thâu tóm một cách ngắn gọn và khái quát về

những nội dung trong cuốn tản văn này. Tác phẩm là bức tranh về những con người mà

“Trong họ có những đức tính tốt, xấu, có những mâu thuẫn trái ngược nhau. Người hám

danh hám lợi; người hiền lành, thật thà; người quỷ quyệt, xảo trá… Nhưng những con

người đó làm nên một đời sống xã hội đa dạng, đa chiều, toát lên vẻ đẹp hồn quê và cũng

làm sống lại một thời kí ức chiến tranh trên vùng đất lửa Quảng Bình” [100].

7

Tuy nhiên, theo sự nhận định của tác giả, điều đáng nói hơn là nhà văn Nguyễn

Quang Lập đã đề cao cái tình trong từng mảnh kí ức đó. Viết về những con người đời

thường, “Nguyễn Quang Lập khéo gợi cái tình cả trong những con người khùng khùng, điên

điên; gạn trong họ chất NGƯỜI để mà sống, mà chiêm nghiệm, để lòng ta trong sáng hơn”.

Còn viết về giới văn nghệ sĩ, “Nguyễn Quang Lập không đánh giá, không khái quát sự

nghiệp văn chương, không đi sâu vào tác phẩm; anh chỉ nói về cái tình, vẽ chân dung qua

một vài tính cách của họ”, “Mỗi người một tính cách, một “tật” riêng, nhưng trùm lên các

trang viết ấy là cái tình, tính nhân bản” [100]. Đây là một sự nhận định khá sâu sắc, có ý

nghĩa khẳng định và làm nổi bật giá trị nội dung tản văn Nguyễn Quang Lập.

(2) Về phương diện nghệ thuật, các nhà nghiên cứu, phê bình đặc biệt chú ý đến

cá tính sáng tạo của nhà văn Nguyễn Quang Lập ở thể loại tản văn. Hầu hết đều thể hiện sự

quan tâm và đánh giá cao “chất khẩu văn”, đã làm nên dấu ấn riêng trong sáng tác của

Nguyễn Quang Lập.

Đáng kể nhất là bài viết Ngôn từ qua khẩu văn Nguyễn Quang Lập của tác giả

Nguyễn Hoài Nguyên, đây là bài viết có tính chất nghiên cứu hơn cả. Theo ông “Khẩu văn

Nguyễn Quang Lập có sự pha trộn của lối nói dân gian tự nhiên, sinh động với thể văn hồi

kí phóng túng, đầy cảm hứng. Khẩu văn Nguyễn Quang Lập là viết theo lối nói, như tác giả

đang nói/trò chuyện trực tiếp với người đọc” [67]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích

khá cặn kẽ những đặc điểm ngôn từ mang tính chất “khẩu văn” được thể hiện qua cách sử

dụng từ ngữ và cách tổ chức câu văn: Về từ ngữ, đó là những từ địa phương, khẩu ngữ, từ

thông tục; về cách tổ chức câu văn, “chiêu thức nổi trội nhất về cách tổ chức câu văn là:

câu mà lời thoại diễn ra liền mạch, không có dấu hiệu phân cách giữa lời dẫn thoại, lời

thoại, người kể, người thoại”[67].

Xoay quanh chất “khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập, có nhiều tác giả

gọi bằng những cách khác nhau. Với Đỗ Cao Sang, đó là “dòng văn bạch thoại” (trong bài

viết Ký ức vụn – và dòng văn bạch thoại), còn với Nguyễn Lâm Cúc thì đó là “dòng văn

bụi” (trong bài viết Nguyễn Quang lập với dòng văn bụi). Các bài viết này đều chung nhau

ở việc chỉ ra tính dân dã, bỗ bã là đặc điểm nổi bật của ngôn từ trong các bài tản văn

Nguyễn Quang Lập.

Lối dùng “khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập còn được tác giả Lê

Ngọc coi đó như là một “âm mưu phá vỡ vùng cấm văn chương” để đi đến “khát vọng dân

8

chủ hóa trong sáng tạo” (trong bài viết “Ký ức vụn” – Từ “âm mưu” phá vỡ “vùng cấm”

văn chương đến khát vọng dân chủ trong sáng tạo). Theo tác giả, Nguyễn Quang Lập đã

cố tình làm “thô tục hóa ngôn ngữ” để làm cho đời sống bình dân trở nên hiện thực hơn, gần

gũi hơn. Cách viết ngông, hành văn dân dã, đời thường của nhà văn chính là “bước đột phá

về cách hành ngôn nhắm thẳng tới mục đích phá vỡ tính thi pháp bó buộc của văn tự văn

học, nhằm gây cười cho độc giả. “Vùng cấm” ngôn ngữ của văn chương bắt buộc phải mở

lối cho ngôn ngữ đời thường dung tục đi vào” [64]. Tác giả còn đặc biệt đánh giá cao tính

sáng tạo của nhà văn Nguyễn Quang Lập trong việc tạo dựng thứ văn chương suồng sã, bình

dân, hướng đến đối tượng tiếp nhận là những người bình dân. Do đó, tác giả khẳng định “Từ

âm mưu phá vỡ “vùng cấm” văn chương theo cách nhà văn thể hiện đã hợp thức hóa mối

liên quan giữa tác giả và các hình tượng, chân dung văn học, giữa tác giả và độc giả,

đương nhiên sau đó là các hình tượng, chân dung văn học công chúng. Đó cũng là cách thể

hiện đầy đủ nhất tinh thần và khát vọng dân chủ tự do trong sáng tạo của Nguyễn Quang

Lập” [64].

Tác giả Nguyễn Anh Thế trong bài viết “Ký ức vụn” và chất cười đa giọng điệu đã

khẳng định nét đặc sắc trong các bài tản văn của Nguyễn Quang Lập là ở sự đa dạng, phong

phú của tiếng cười, tạo nên nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. “Cái cười ấy nhiều khi tự

nhiên như thể chất gây cười không cần phải nằm trong ý nghĩa câu chuyện mà nằm chính

trong lớp vỏ chữ”. Và điều đáng nói là “cười đa giọng của Nguyễn Quang Lập không phải

chỉ là cái cười mua vui, không phải là cái cười thuần túy mà nhiều khí chính tiếng cười ấy

là là tiếng khóc cho một thân phận không tên giữa cuộc đời”[79].

Ngoài ra, tác giả Lê Mai trong bài viết “Chất trữ tình” Nguyễn Quang Lập đã tìm

thấy cái hay, cái đẹp và độ lắng trong các bài tản văn của Nguyễn Quang Lập là ở cách cảm

nhận của nhà văn về thiên nhiên, cuộc sống và con người mang đậm yếu tố trữ tình.

Nhìn chung, các bài viết về Nguyễn Quang Lập và các sáng tác của ông vẫn còn khá

khiêm tốn về nội dung cũng như số lượng và chỉ được đăng tải rời rạc trên một số trang báo,

tạp chí, hoặc qua những lời nhận xét, đánh giá trong các bài phỏng vấn được ghi lại. Trong

giới hạn khảo sát và tìm hiểu, cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy một công trình

nghiên cứu hoàn chỉnh nào về nhà văn Nguyễn Quang Lập cũng như các sáng tác của ông.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

9

- Đối tượng: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập

- Phạm vi: Để nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập, người viết tìm

hiểu và khảo sát các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn với các tác phẩm: Tiếng gọi

phía mặt trời lặn (1987), Những mảnh đời đen trắng (1989), Kí ức vụn (2009), Bạn văn

(2011), Chuyện đời vớ vẩn (2011), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (2010),

Chuyện nhà quê (2013), và một số tác phẩm được tham khảo từ trang cá nhân của chính nhà

văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí văn xuôi Nguyễn Quang Lập trong sự

nghiệp sáng tác của nhà văn nói chung.

- Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác định đặc

điểm các thể loại văn xuôi trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập.

- Phương pháp lịch sử được vận dụng để miêu tả, phân tích những đặc điểm văn xuôi

của một nhà văn được đặt trong sự vận động chung của một giai đoạn văn học (cụ thể là giai

đoạn văn học hiện đại Việt Nam sau 1975).

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn hóa học và xã hội học trong

việc tìm hiểu văn hóa vùng miền, đặc biệt là hiện tượng sử dụng khẩu ngữ; nghiên cứu ngôn

ngữ học trong việc khai thác và phân tích chất “khẩu văn”.

Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như thống kê, phân

tích, tổng hợp, giảng bình… để lý giải một số vấn đề, hiện tượng được đặt ra trong tác

phẩm.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Trước hết, đây là đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về đặc điểm văn

xuôi Nguyễn Quang Lập trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó,

đề tài có ý nghĩa tích cực trong việc khẳng định vị trí của văn xuôi Nguyễn Quang Lập nói

riêng và vị trí của nhà văn nói chung, góp phần làm nên diện mạo đa dạng về tác giả, tác

phẩm cũng như phong cách nhà văn ở thời kì văn học hiện đại giai đoạn sau 1975.

Nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập còn có ý nghĩa thực

tiễn trong công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Đặc biệt trong xu

10

hướng đổi mới chương trình, nhiều tác phẩm được viết sau 1975 đã được tuyển chọn giảng

dạy trong nhà trường phổ thông. Bên cạnh một số nhà văn hiện đại quen thuộc, có phong

cách như Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu… nay chúng tôi có dịp

giới thiệu thêm một gương mặt nhà văn mới. Nguyễn Quang Lập và những sáng tác của ông

có thể không mới đối với bạn đọc cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học, nhưng hoàn

toàn xa lạ với môi trường phổ thông. Do đó, với việc giới thiệu thêm một gương mặt mới

trong bối cảnh văn học đương đại, nội dung giảng dạy trong chương trình Ngữ văn phổ

thông sẽ thêm phong phú, rộng mở.

6. Cấu trúc của luận văn

Một tác phẩm nghệ thuật, theo Bakhtin bao gồm hai lớp hình thức: “Hình thức tổ

chức về mặt giá trị hướng tới nội dung” và hình thức tổ chức tác phẩm, còn gọi là kĩ thuật

của hình thức. Cả hai lớp này đều phải được nghiên cứu trong một tương quan hợp lý. Và

với luận văn này, việc nghiên cứu Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, cụ

thể là tìm hiểu và khái quát những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm

văn xuôi của Nguyễn Quang Lập, do đó, sẽ chú trọng đến hai vấn đề được trình bày ở

chương 2 và chương 3.

Cấu trúc luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, phần

trọng tâm là Nội dung chính gồm ba chương.

Chương 1. Văn xuôi nghệ thuật và quá trình sáng tác của Nguyễn Quang Lập

Trong chương này, người viết trước hết sẽ làm rõ một số khái niệm thể loại về văn

xuôi nghệ thuật có liên quan đến những sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Lập được

nghiên cứu như tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn. Tiếp theo là phần khái quát về bối cảnh

đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam giai đoạn sau 1975, từ đó, xác định vị trí của nhà

văn Nguyễn Quang Lập, cùng với việc khái quát, tổng hợp các sáng tác của ông, đặc biệt

chú ý đến vị trí các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà

văn nói chung.

Chương 2. Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập – nhìn từ phương diện nội dung,

cảm hứng

Đây là phần tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu trong văn xuôi nghệ thuật của

Nguyễn Quang Lập trên từng thể loại. Nhìn từ phương diện nội dung, cảm hứng, có thể tìm

11

thấy nhiều đề tài khác nhau trong các sáng tác của Nguyễn Quang Lập sẽ được làm rõ như:

hiện thực về chiến tranh và số phận con người, sự ngộ nhận về lý tưởng của một thời đại và

những bi kịch cá nhân, hay là những chuyện hàng ngày được viết lại từ kí ức. Trong chương

này, nội dung cụ thể của mỗi tác phẩm sẽ được tìm hiểu, phân tích, nhằm làm nổi bật chủ đề

tác phẩm, cũng như tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời và thân phận con người.

Chương 3. Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập – nhìn từ phương diện thể loại,

ngôn từ

Nhiệm vụ của chương là khảo sát một số đặc điểm về thể loại và hình thức ngôn từ

trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập có tác dụng như thế nào trong việc biểu đạt ý nghĩa

nội dung. Chúng tôi đi sâu khai thác các yếu tố chính: Lối tự sự đa giọng điệu; Cách xây

dựng đoạn kết gợi nhiều suy cảm; và đặc biệt là Nghệ thuật tạo lập diễn ngôn mang cá tính

sáng tạo, trong đó đáng chú ý là cách sử dụng ngôn từ và diễn ngôn để tạo nên chất “khẩu

văn” độc đáo.

12

CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG

TÁC CỦA NGUYỄN QUANG LẬP

1.1. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn

sau 1975

1.1.1. Văn xuôi nghệ thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Văn xuôi trong nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập

với văn vần, và trong nghĩa hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ, bao gồm một

phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩm chính luận” [19;293].

Trước thời cận đại, ở hầu khắp các nền văn học dân tộc, văn xuôi phát triển ở ngoại

vi của nghệ thuật ngôn từ, tạo nên những hiện tượng ngôn từ pha trộn, nửa nghệ thuật (biên

niên lịch sử, độc thoại triết học, hồi ký, thuyết pháp, tác phẩm tôn giáo…). Sau này, thuật

ngữ “văn xuôi” đã được dùng để chỉ hình thức văn xuôi hoàn toàn sử dụng ngôn từ làm chất

liệu, nói cách khác, “văn xuôi” là một hình thức của nghệ thuật ngôn từ. Do đó, hoàn

toàn có thể đồng nhất thuật ngữ “văn xuôi” với “văn xuôi nghệ thuật”. Và trong phạm vi

luận văn này, chúng tôi thống nhất dùng thuật ngữ “văn xuôi” với ý nghĩa chỉ “văn xuôi

nghệ thuật”.

Văn xuôi bao gồm nhiều thể loại, theo Từ điển thuật ngữ văn học thì văn xuôi

trong nghĩa hẹp bao gồm các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, kí. Như vậy, khi

nghiên cứu Văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, chúng tôi đã tiếp cận khái niệm “văn

xuôi” theo nghĩa hẹp, với các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn.

Tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống ở

mọi giới hạn không gian và thời gian” [19;328]. Với dung lượng lớn và khả năng phản ánh

sâu rộng về hiện thực cuộc sống, nhiều cuộc đời, nhiều số phận, nhiều tính cách, “tiểu

thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái

cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ”

[19;330].

Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung bao trùm hầu hết các phương diện

của đời sống. Tuy nhiên, với dung lượng ngắn, “truyện ngắn thường hướng tới khắc họa

một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn

13

con người” [19;370]. Nói cách khác, truyện ngắn không có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống

một cách sâu rộng như tiểu thuyết, mà ngược lại, nhà văn chỉ chọn lấy một lát cắt của cuộc

sống để phân tích, lý giải, qua đó thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình.

Ngoài ra, còn có tản văn, chiếm một phần rất lớn trong văn xuôi nghệ thuật của

Nguyễn Quang Lập mà chúng tôi tiếp cận và khảo sát. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:

“Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả

phong cảnh, khắc họa nhân vật” [19;293]. Điều cốt yếu ở tản văn là khả năng “bộc lộ trực

tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả” [19;293]. Một bài tản văn có

dung lượng tương đối khiêm tốn, cấu trúc tương đối phóng túng, ghi lại những rung cảm

nhỏ nhoi nhất của tác giả. Đây là thể loại không kén độc giả, vì nó không đòi hỏi ở người

tiếp nhận khả năng lý giải tình tiết như đọc truyện ngắn hay tiểu thuyết. Trong văn học hiện

đại, tản văn gồm các thể kí, tùy bút, văn tiểu phẩm, văn chính luận, tạp văn, ngụ ngôn, chân

dung văn học,…

Với các tác phẩm Kí ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang

Lập, có người gọi là tản văn, có người gọi là tạp văn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tạp

văn “Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tính nghệ thuật cô đọng,

phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội” [19;294]. Như vậy, nếu dựa vào nội

dung khái niệm này thì khó có thể đóng khung các tập tác phẩm Kí ức vụn, Chuyện đời vớ

vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang Lập vào thể tạp văn. Mặc dù hiện nay, tạp văn có thể

được hiểu theo nghĩa rộng hơn, như một thể văn khá phóng túng, tự do về nội dung, phạm vi

đề tài, kết cấu, ngôn ngữ,… chỉ cốt làm sao có thể bộc lộ, thể hiện được suy nghĩ, cảm xúc

của tác giả.

Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi thống nhất chọn cách gọi các tác phẩm Kí ức

vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang Lập là tản văn.

1.1.2. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975

Đại thắng mùa xuân năm 1975 đưa lịch sử dân tộc bước sang một trang mới, đồng

thời đánh dấu một giai đoạn đổi mới toàn diện của văn học Việt Nam. Đi qua thời chiến,

cuộc sống trở lại với những quy luật bình thường, con người cũng trở về với muôn mặt đời

thường, phải đối diện với những vấn đề về thế sự, nhân sinh và cả những chuyện rất riêng

14

tư. Hiện thực đất nước đổi mới đã mở ra một bước ngoặt phát triển cho văn nghệ, văn học vì

thế tất yếu cũng phải đổi mới theo tinh thần thời đại.

Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng

đường tiếp nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học

sử thi thời chiến sang văn học thời hậu chiến; và từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước

vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. So với thơ ca, văn xuôi có nhiều khởi sắc đáng

kể hơn. Đây là giai đoạn bừng nở và phát triển mạnh mẽ của văn xuôi.

Ở chặng đường thứ nhất, ý thức đổi mới ở các nhà văn được bộc lộ thông qua việc

thay đổi cách viết, cách tiếp cận hiện thực đời sống. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải

(Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn),

Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê), Nguyễn Mạnh Tuấn

(Đứng trước biển)… đã khơi dòng cho một hướng tiếp cận mới trong văn học, đặc biệt là sự

mở ra các vấn đề thế sự, đời tư.

Tuy nhiên, phải đến chặng đường thứ hai mới thấy hết được bối cảnh và không khí

đổi mới toàn diện của văn học sau 1975. Nghị quyết 5 về văn hóa văn nghệ (1987) của Bộ

chính trị đã khẳng định: Tiếng nói của văn nghệ hiện thực Xã hội chủ nghĩa phải là tiếng nói

đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của lương tri, của sự thật. Nhờ sự cổ vũ bởi làn

gió dân chủ và cởi mở của Đảng, văn học cũng phát triển mạnh với xu hướng dân chủ hóa

trong đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần của con người. Nhiều văn nghệ sĩ đã chân

thành bày tỏ suy nghĩ và tâm huyết về văn nghệ. Do đó, văn học trở thành phương tiện cũng

như mảnh đất màu mỡ để các nhà văn phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mình

về xã hội, cuộc sống và con người. Họ say sưa với hành trình khám phá cuộc sống và tìm

kiếm một lối đi riêng cho mình. Nhiều cây bút đã lựa chọn các thể loại văn xuôi như một

phương tiện đắc dụng trong việc thể nghiệm và khám phá hiện thực sâu rộng của cuộc sống.

Có thể coi đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Vì ít có bao giờ văn học Việt Nam

lại có một đội ngũ nhà văn đông đảo và số lượng tác phẩm đồ sộ, đạt chất lượng như ở giai

đoạn này. Bên cạnh những nhà văn đã trưởng thành từ giai đoạn trước đang say mê với

những thể nghiệm mới ở những năm đầu sau 1975 như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,

Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng,… là sự xuất hiện của một loạt cây bút mới như

Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạ Duy Anh,

15

Phạm Thị Hoài,… với những sắc thái khác nhau và những đổi mới mà họ đem đến đã làm

thay đổi toàn bộ diện mạo của văn xuôi Việt Nam.

Văn xuôi nghệ thuật sau 1975 thuộc về “cái đương đại chưa hoàn thành”

(M.Bakhatin), quá trình đổi mới diễn ra phong phú, đa dạng, nhiều chiều nhưng rất phức

tạp. Đặc biệt vào thời điểm những năm 80 trở đi, đã có những bước chuyển mình rõ rệt với

những thay đổi về tư duy nghệ thuật, cảm hứng và cách viết. Nếu như trước 1975, văn xuôi

chủ yếu mang khuynh hướng sử thi với cảm hứng ca ngợi, phù hợp với đối tượng cũng như

hiện thực mà nó phản ánh, thì đến sau 1975, hiện thực cuộc sống mở ra một trang khác, nó

đòi hỏi một cách cấp thiết về sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong lời kêu gọi “Hãy đọc lời

ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, Nguyễn Minh Châu không cố ý phủ nhận

những thành tựu văn học trong quá khứ ở giai đoạn trước mà đó là lời cảnh tỉnh, đòi hỏi văn

học phải được trở về chính mình, đúng với bản chất của nó là sự phản ánh chân thực về con

người và cuộc sống.

Tư duy sử thi ở giai đoạn trước đã được thay thế bằng tư duy tiểu thuyết để phù hợp

với nội dung phản ánh là tính đa chiều của cuộc sống. Không chỉ có thể loại tiểu thuyết mà

cả với truyện vừa, truyện ngắn, tư duy tiểu thuyết cũng được sử dụng tối đa và ngày càng

chiếm ưu thế ở giai đoạn này. Cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật là sự thay đổi tất yếu

các yếu tố cơ bản trong cơ cấu một tác phẩm văn xuôi cả về nội dung như đề tài, chủ đề, cốt

truyện, nhân vật lẫn hình thức nghệ thuật như ngôn từ, lời văn, giọng điệu,… Trong sự thức

nhận về con người và hiện thực trên bình diện chiều rộng và cả chiều sâu đã tạo nên những

hiện tượng văn học mới lạ.

Với xu hướng dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ, văn học Việt Nam giai đoạn

đổi mới đã tìm thấy sự đổi mới qua nhiều khuynh hướng sáng tác. Khuynh hướng nhận thức

lại xuất hiện và phát triển khá sôi nổi vào những năm đầu thời kì đổi mới đòi hỏi sự nhận

thức lại hiện thực với những mặt trái còn bị che khuất, phê phán những cái xấu cái ác đằng

sau những gì được tôn thờ, ca ngợi. Khơi dòng cho khuynh hướng này là tiểu thuyết Thời xa

vắng của Lê Lựu. Tiếp sau đó là hàng loạt các tác phẩm xuất hiện vào những năm cuối thập

kỉ 80 đến 90 như Bến không chồng của Dương Hướng, Đám cưới không có giấy giá thú của

Ma Văn Kháng, Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, Bước qua lời nguyền của

Tạ Duy Anh,… Bên cạnh đó, khuynh hướng triết luận cũng phát triển khá mạnh mẽ thể hiện

sự chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời và con người. Khuynh hướng này không chỉ có ở

16

những nhà văn nhiều từng trải như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải mà còn khơi gợi sự

hứng thú, say mê đối với nhiều cây bút thuộc thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

Quang Lập, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang,… Gần đây lại xuất hiện loại văn xuôi kì ảo như một

sự thể nghiệm và khám phá mới trong sáng tạo nghệ thuật, có thể kể đến các tác phẩm của

Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương,… Dù là sáng tác

theo khuynh hướng nào thì đặc điểm chung của văn xuôi sau 1975 đều hướng đến mục đích

khám phá đời sống muôn màu muôn vẻ trong cái hằng ngày, trong các quan hệ thế sự và đời

tư. Có thể nói, sau 1975, văn học đã từng bước mở ra những chiều kích nhằm khám phá, lý

giải đời sống và con người, góp phần xây dựng con người xã hội. Tinh thần đổi mới tư duy,

“nhìn thẳng vào sự thật” tạo cơ sở cho người cầm bút có điều kiện nhìn lại văn học, cũng

như tìm tòi những hướng đi mới. Nguyễn Đăng Mạnh xem đó là cuộc “tìm đường” của văn

học. Cuộc tìm đường này nhằm đưa văn học vào vị trí xứng đáng với cuộc sống văn hóa và

xã hội, trả nó về với bản chất của nó.

Một trong những đổi mới của văn xuôi giai đoạn này là sự đổi mới quan hệ giữa nhà

văn và hiện thực với nhu cầu được “nói thật”. Do đó, những mặt tiêu cực của hiện thực, cái

xấu cái ác trong cuộc sống, những điểm đen của con người, đều bị đem ra mổ xẻ, phanh

phui đến tận cùng. “Trước năm 1975, văn chương rưng rưng một cảm hứng trước cái cao

cả hào hùng. Sau năm 1975, như để trả lại sự cân bằng, cái méo mó nghịch dị, cái phàm tục

dơ dáng từng làm dậy hứng cho không biết bao nhiêu sáng tác văn chương” [65]. Hiện ra

trong các trang văn xuôi là một hiện thực trần trụi với tính đa sự, đa đoan, cùng những mối

quan hệ phức tạp và chằng chịt của nó. Tuy nhiên, cách nhìn và lối viết của văn xuôi hiện

đại đã thật sự đổi mới, việc phản ánh hiện thực bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu để nhường

chỗ cho việc cắt nghĩa và lý giải thiện thực, và do đó, nhà văn không còn đơn thuần là người

kể chuyện, người ghi chép mà còn tham gia vào tác phẩm để cùng đối thoại với nhân vật,

hoặc là những nhà tư tưởng, là người phát ngôn,…

Sự đổi mới quan niệm về hiện thực tất yếu kéo theo sự đổi mới quan niệm nghệ thuật

về con người. Ý thức cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ và đòi hỏi cần được giải phóng đã làm thay

đổi sâu sắc quan niệm về con người trong quá trình sáng tạo của hầu hết các nhà văn ở giai

đoạn này. “Con người trong văn học hôm nay được nhìn từ nhiều vị thế và trong tính đa

chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia

đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính

17

mình” [52;16]. Con người không chỉ được soi xét trên phương diện xã hội mà còn được mở

rộng, “đào bới” ở bình diện đời tư cá nhân, những bình diện tồn tại riêng lẻ của những mảnh

đời, số phận. Trong khả năng ấy, quan niệm nghệ thuật về con người chẳng những được sâu

sắc, đa dạng và phong phú hơn mà còn khẳng định được thành tựu từng bước trong quá

trình phát triển của nó. Các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn

Khải, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Lê Lựu, Thái Bá Lợi,… đã không ngừng nỗ

lực mở rộng những chiều kích về tâm hồn, đạo đức, lối sống, đào sâu con người ở bản thể

nhà văn trên cơ sở sở trường của mình, để từ đó có sự nhìn nhận, lý giải riêng về con người

hôm nay.

Văn xuôi sau 1975 đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân, xây dựng được khá

nhiều kiểu loại nhân vật, vốn chưa từng có hoặc ít thấy trong giai đoạn trước như: nhân vật

cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kì ảo,… Các nhân

vật tồn tại như một nhân cách, một tính cách riêng biệt chứ không còn là một ý niệm. Và nó

đã trở thành đối tượng thẩm mỹ quan trọng của văn xuôi Việt Nam đương đại. Do đó, người

ta không còn tìm thấy trong văn xuôi hiện đại những kiểu nhân vật điển hình hay nhân vật

phiến diện, một chiều mà thay vào đó là sự đa dạng hoặc xung đột về tính cách của con

người trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi hiện đại. Con người hôm nay được khám phá,

soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc, nên “sẵn sàng” bộc lộ hết các mặt tối và sáng,

tốt và xấu, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thấp hèn, không chỉ có đời sống tình cảm mà

còn có đời sống tự nhiên, bản năng, vừa là con người trong tính nhân loại phổ quát, vừa là

con người cụ thể, cá biệt. Có thể tìm thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là con

người sám hối, con người thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt. Truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại thể hiện sự quan tâm đến con người cô đơn đầy cay đắng.

Trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập là con người vừa anh hùng vừa hèn hạ, con người

mất mát trong chiến tranh, con người bị tổn thương về tâm hồn. Và với tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng, ta có thể tìm thấy những con người vừa đáng ghét vừa đáng thương,… Đặc

biệt, các nhà văn sau 1975 có xu hướng nhấn mạnh phần “bản thể tự nhiên” của con người

trên tinh thần nhân bản, đề cao đời sống tự nhiên, tình cảm tự nhiên của con người với nhu

cầu: con người cần được sống đến tận cùng cá tính. Trên tinh thần đó, các nhà văn ngày

càng quan tâm đến đời sống nội tâm của con người, họ ý thức sâu sắc hơn về nhiệm vụ của

người cầm bút: “Văn chương là chuyện đời thông qua việc đào bới bản thể ở chiều sâu tâm

18

hồn chứ đâu phải là lấy đi cái váng bọt nổi trên bề mặt của ngoại vật” (dẫn theo Lã

Nguyên) [66].

Cùng với sự đổi mới về đề tài, chủ đề, là sự cách tân vượt bậc về nghệ thuật. Chúng

tôi ghi nhận một số xu hướng nghệ thuật nổi bật trong văn xuôi sau 1975 là sự đa dạng hóa

về thi pháp thể loại, điểm nhìn trần thuật, phương thức tiếp cận, ngôn ngữ, giọng điệu,…

Với sự thay đổi điểm nhìn trần thuật theo từng kiểu loại nhân vật, từng vị trí khác nhau,

hoặc nhà văn có thể là người kể chuyện hoặc hóa thân vào nhân vật trong tác phẩm, mà nhờ

đó văn xuôi mang tính thông tin cao, phản ánh và lý giải được các chiều sâu, rộng của cuộc

sống. Nghệ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức và nghệ thuật đồng hiện đã mở ra cho nhà

văn những hướng tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến các tác phẩm như Ăn mày dĩ vãng của

Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thời xa vắng của Lê Lựu, Phiên chợ Giát của

Nguyễn Minh Châu, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban.

Đặc biệt là sự cách tân về giọng điệu và ngôn ngữ. Có thể tìm thấy những giọng điệu chủ

âm trong văn học giai đoạn này là: giọng hài hước, hóm hỉnh; giọng mỉa mai, giễu nhại;

giọng suy tư, chiêm nghiệm; giọng hoài nghi, chất vất; giọng triết lý điềm tĩnh hay giọng trữ

tình tha thiết;… Thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực dường như đã bị chối bỏ, dần trở nên

mờ nhạt, nhường chỗ cho thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Các sáng

tác của thế hệ nhà văn mới trưởng thành từ sau 1975 như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị

Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Quang Lập,… là sự nỗ lực không ngừng đem đến cho

văn học một không khí đời sống thường nhật sinh động, chân thực thông qua lớp ngôn ngữ

bặm bụi đời thường.

Trong bối cảnh ấy, nhà văn Nguyễn Quang Lập là người đặt bút viết muộn hơn so

với những tên tuổi lớn vốn đã nhiều trải nghiệm từ giai đoạn trước đó. Ông thuộc thế hệ các

nhà văn mới xuất hiện và trưởng thành từ những năm 1980. Nhà văn cũng đã thể hiện sự

cảm nhận sâu sắc về hiện thực mà mình đang sống qua nhiều tác phẩm để lại dấu ấn đối với

bạn đọc cũng như thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình. Cũng như các nhà văn

cùng thời, Nguyễn Quang Lập tỏ ra khá nhạy cảm với các vấn đề thế sự, nhân sinh, đặc biệt

là sự quan tâm đến bi kịch và thân phận con người, nhưng nhà văn cũng đã khéo léo chọn

cho mình một chỗ đứng riêng, tránh sự trùng lặp, sáo mòn. Với tiểu thuyết Những mảnh

đời đen trắng và hàng loạt các truyện ngắn được viết từ những năm 1986 trở đi, Nguyễn

Quang Lập không chỉ hòa mình vào xu hướng đổi mới trong văn học với các nhà văn cùng

19

thời mà còn tự mình khẳng định được một phong cách viết đầy cá tính, sáng tạo trong cách

nhìn nhận và phản ánh hiện thực.

Riêng với tản văn, một thể loại vốn ít được chú ý trong văn học ở các giai đoạn

trước, đến giai đoạn hiện đại lại trở thành một thể nghiệm mới, một món ăn tinh thần mới,

có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà văn trẻ trong giai đoạn này. Họ bắt đầu tìm thấy ý nghĩa và

sự cần thiết của thể loại này như một nhu cầu được lắng lòng giữa những bộn bề cuộc sống,

“trong những nhộn nhịp của đời sống hiện nay, trong lúc con người ta đang hối hả chuyện

miếng cơm manh áo, những trang tản văn là lúc lắng lòng lại để cùng nghĩ về từng giây

phút con người bỏ quên hạnh phúc của mình, và bỏ quên nhau, hay ít nhất nghĩ về cuộc đời

ở một tâm trạng thoải mái nhất” [62].

Và thực tế cho thấy thể loại này đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, làm nên

một vị trí riêng khá đặc biệt trong bối cảnh đổi mới văn học giai đoạn sau 1975. Đặc biệt là

trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây, nhiều tác phẩm tản văn ra đời đã góp phần làm

nên sự thành danh cho nhiều nhà văn. Tuy lực lượng sáng tác không đông đảo, và cũng

không có những nhà văn viết riêng cho thể loại này, song đây vẫn là thể loại có sức hấp dẫn

đặc biệt đối với những cây viết thích tung tẩy, và không muốn trói mình vào một khuôn

định nào, thậm chí đôi khi còn là nơi thể hiện cái “ngông” của người viết. Một tác giả trẻ

cũng đã nói về niềm hứng khởi và say mê của mình khi lựa chọn tản văn làm nơi thể hiện cá

tính sáng tạo và suy tư về cuộc sống: “Lựa chọn tản văn để chuyển tải những tứ của đời

sống có cái hấp dẫn là cho phép tôi thoải mái mổ xẻ và đưa ra quan niệm của mình trong

vai trò một người đối thoại với người đọc - dĩ nhiên là những người đọc vô hình mà tôi phải

phân thân đặt mình vào vị trí của họ. Độ tương tác cao của tản văn với đời sống là một

thách thức cũng thú vị” [62].

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự khẳng định một cây bút tài hoa, giàu vốn sống, vốn

văn hóa qua các tập nhàn đàm mà thực chất là tản văn như Nhàn đàm (1997), Người ham

chơi (1998), Miền gái đẹp (2001). Các tập tản văn của Đỗ Chu (Tản mạn trước đèn), Y

Phương (Tháng giêng, tháng giêng, một vòng dao quắm) nhận được giải thưởng văn học của

Hội nhà văn Việt Nam cũng đã cho thấy những sức sống mới của thể loại này trong văn

xuôi hiện đại và bắt đầu mở ra thời kỳ tạp bút, tản văn xuất bản ồ ạt.

Tiếp đó, nhất thiết phải kể đến những cây bút đặc biệt thành công ở thể loại này như

Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phan Thị Vàng Anh, Phong Điệp, và nhất là sự nổi đình

20

nổi đám của Nguyễn Quang Lập,… Mỗi tác giả với một phong cách riêng đầy cá tính đã tạo

nên sự đa dạng về sắc thái cho mảnh đất tản văn, một vùng khám phá mới. Đọc Gáy người

thì lạnh, ta bắt gặp một Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam Bộ, giản dị và hồn hậu. Với Trên

căn gác áp mái của Đỗ Bích Thúy, hay Bay trên mái nhà thành phố của Phong Điệp là nỗi

khoảnh khắc nhớ từ một vùng kí ức trở đi trở lại khi con người ta rời bỏ quê hương ra thành

phố lập nghiệp. Tạp văn Phan Thị Vàng Anh cũng chất chứa nhiều suy tư về cuộc đời và

con người từ những điều nhỏ nhất đến những chuyện quốc gia đại sự… Và với Nguyễn

Quang Lập, ông nói những Chuyện đời vớ vẩn, lần giở lại những Kí ức vụn nhưng thật sâu

sắc và thấm thía về chuyện đời, chuyện người bằng một phong cách khẩu văn đã thực sự

khẳng định và tô đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Với những nét phác họa, điểm qua một vài đặc điểm, tác giả, tác phẩm, chúng tôi

muốn hướng đến cái nhìn bao quát, toàn diện trong một chừng mực nhất định, về văn xuôi

Việt Nam giai đoạn sau 1975 với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn. Qua đó,

những nội dung nêu trên có ý nghĩa góp phần tìm hiểu một cách đầy đủ về nội dung cũng

như nghệ thuật trong sáng tác Nguyễn Quang Lập đặt trong bối cảnh đổi mới văn học nói

chung.

1.2. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và vị trí văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của

ông

1.2.1. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và quá trình sáng tác

Nguyễn Quang Lập (còn có bút danh khác là Hồng Nhật, Hồng Đức, Quang Quang)

sinh ngày 30 tháng 4 năm 1956, quê ở thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng

Bình. Ông không chỉ là nhà văn, mà còn là nhà viết kịch, nhà biên kịch tài năng. Ông vừa là

hội viên Hội nhà văn Việt Nam, vừa là hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội điện

ảnh Việt Nam và Hội nhà báo Việt Nam.

Từ khi còn là học sinh phổ thông, Nguyễn Quang Lập đã bộc lộ khả năng và niềm

yêu thích văn chương qua những bài thơ, là những sáng tác đầu tay của Nguyễn Quang Lập,

và đã giành được giải thưởng thơ của Hội văn nghệ Bình Trị Thiên.

Năm 1980, Nguyễn Quang Lập tốt nghiệp kĩ sư vô tuyến điện đại học Bách khoa Hà

Nội. Nhưng đó không phải là mục tiêu nghề nghiệp mà ông muốn hướng đến. Đối với ông,

đó là con đường sẽ đưa ông đến với cuộc đời, đến với văn chương bằng những trải nghiệm

21

thực tiễn. Nhà văn tâm sự: “Tôi chọn thi vào Đại học Bách Khoa Hà Nội vì nghĩ rằng phải

đi vào công nông trường, xí nghiệp, nhà máy mới hiểu biết cuộc sống một cách sâu sắc để

phục vụ công việc viết văn” [44;190]. Cho nên, ngay từ năm thứ hai Bách khoa, Nguyễn

Quang Lập đã tập tành viết truyện ngắn đầu tiên Tình hoàng hôn, tác phẩm tuy không nhận

được sự ủng hộ của giới bạn văn nhưng tình yêu và mộng ước theo đuổi nghiệp văn chương

vẫn không thôi được ấp ủ, nung nấu trong tâm hồn nhạy cảm của một con người luôn thích

được trải lòng mình với cuộc đời, ham muốn được trở thành một người viết văn thực thụ.

Tốt nghiệp đại học Bách khoa, Nguyễn Quang Lập tham gia quân đội, làm trợ lý kĩ

thuật điều khiển tên lửa sư đoàn 375, quân chủng Phòng không. Và có lẽ, chính sự trải

nghiệm này đã góp phần gợi cảm hứng và sự hiểu biết cho nhà văn ở nhiều tác phẩm viết về

đề tài chiến tranh sau này.

Suốt thời gian từ khi còn là sinh viên cho đến khi vào quân ngũ, Nguyễn Quang Lập

sáng tác thơ là chính, người ta biết nhiều đến Nguyễn Quang Lập chủ yếu về khả năng văn

chương thơ phú. Tập thơ duy nhất của Nguyễn Quang Lập là Kỉ niệm thời trai trẻ, in năm

1988. Tập thơ tuy đã có sự khẳng định về khả năng văn chương của Nguyễn Quang Lập

nhưng chưa làm nên dấu ấn cho nhà văn trong văn học nước nhà nói chung, đồng thời cũng

chưa tạo được tiếng vang nào đáng kể cho giới văn chương cũng như độc giả lúc bấy giờ.

Đến năm 1984, giải ngũ về công tác tại sở Văn hóa – Thông tin Bình Trị Thiên,

Nguyễn Quang Lập vẫn không thôi theo đuổi mộng văn chương, nhưng nghiệp văn của ông

vẫn chưa thể gọi là bắt đầu. Chỉ đến khi truyện ngắn Người lính hay nói trạng được đăng

trên Tạp chí Sông Hương năm 1984 và nhận được lời khen từ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm,

khi ấy được coi là “nhà thơ khét tiếng khắp ba miền”. Đó như một sự động viên, khích lệ

đối với Nguyễn Quang Lập, ông bỏ hẳn thơ, dành hết tâm huyết cho truyện ngắn và bắt đầu

nổi danh như cồn với hàng loạt truyện ngắn, để lại dấu ấn trong làng văn Việt Nam từ đó.

Nói về “nẻo vào văn học” của mình, nhà văn đã bộc bạch một cách chân thành: “Đến nay,

tôi cũng không biết truyện ngắn là gì, nhưng vẫn tiếp tục viết. Có lẽ truyện ngắn cũng giống

như tình yêu. Chẳng ai biết tình yêu là gì, nhưng cứ yêu rồi khắc biết” [44;193].

Với năm truyện ngắn đầu tay, trong đó, ba truyện Cây sến lửa, Tiếng lục lạc và Đò ơi

đều được trao giải thưởng, Nguyễn Quang Lập đã có thể khẳng định được vị trí của mình

trên văn đàn. Các tập truyện ngắn Một giờ trước lúc rạng sáng (1986), Tiếng gọi phía mặt

trời lặn (1989) của Nguyễn Quang Lập được đánh giá là “đã khiến cho người đọc phải

22

chùng lòng”. Sau này, các truyện ngắn đã được chọn in lại trong Mười tám truyện ngắn

Nguyễn Quang Lập (1997), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (2010).

Từ truyện ngắn, nhà văn chuyển sang viết tiểu thuyết và kịch bản sân khấu. Cuốn

tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng (1989), tuy nhận được những ý kiến đánh giá trái

chiều, nhưng nó có ý nghĩa như tiếng nói thức tỉnh mọi người nhận thức lại một thời đại của

xã hội, của đất nước. Bên cạnh đó là các vở kịch Mùa hạ cay đắng và Trên mảnh đất

người đời. Đáng chú ý là vở kịch đầu tay của Nguyễn Quang Lập: Mùa hạ cay đắng, được

viết và dàn dựng vào năm 1987. Vở kịch dựng lại một thời điểm ác liệt của chiến tranh ở

vùng quê Quảng Bình vào mùa hạ 1972. Cô gái Thùy Linh mạnh mẽ, quyết liệt với sống và

yêu. Thùy Linh yêu Hoàng từ thuở nhỏ. Rồi chiến tranh, Hoàng nhập ngũ, lần đầu tiên, cô

biết thế nào là chia ly. Thùy Linh đã không đợi được Hoàng như ngày ước hẹn, cô sa vào

vòng tay của Trần Hới, một kẻ giả trá và cơ hội, rồi có con với hắn. Nhận ra sai lầm, cô

mang con trốn chạy đến xóm Cát và ở với ông già mù như cha con, đợi Hoàng trở về.

Hoàng trở về xóm Cát thì Trần Hới tìm đến, và những chuyện bi kịch đau lòng đã liên tiếp

xảy ra. Một phần nội dung của vở kịch cũng được tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết Những

mảnh đời đen trắng, đó như một hồi ức còn sót lại trong tâm trí nhà văn về những ngày

tháng bom đạn, khói lửa của chiến tranh ở vùng quê Quảng Bình máu thịt, nơi mà nhà văn

đã gắn bó trọn một thời tuổi thơ, tuổi trẻ của mình. Ông đã viết về nó bằng tất cả tình

thương yêu và sự đau đớn.

Từ những tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch của Nguyễn Quang Lập, người

ta thấy toát lên một cái nhìn khá mới mẻ và sâu sắc về chiến tranh. Khi ấy, nhà văn chỉ đang

ở độ tuổi 30, và ngoài 30. Chính cái tuổi cầm bút còn khá trẻ của Nguyễn Quang Lập, cùng

với Lê Lựu (Thời xa vắng), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Dương Hướng (Bến không

chồng) đã làm nên dấu ấn riêng cho cả một thế hệ nhà văn trẻ trưởng thành từ sau chiến

tranh. Nói như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: “họ bắt đầu cầm bút ở thời điểm bản lề

của lịch sử đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, và trên tất cả những gì đổ

nát còn để lại, họ tìm cách kiểm nhận lại quá khứ, không phải dưới con mắt của người lính

đánh giặc, mà bằng cái nhìn thao thức của những người trẻ khao khát hòa bình, nhân phẩm

và hạnh phúc chân thật” [47;6]. Và với Nguyễn Quang Lập, không chỉ có hiện thực đất

nước là nguồn cảm hứng cho những sáng tác của ông mà những trải nghiệm từ chính cuộc

đời mình cũng đã góp phần làm chân thực cho trang viết. Khi trao đổi với tác giả luận văn,

23

nhà văn khẳng định “Chú viết những gì chú đã sống. Văn chú phản ánh một phần ký ức của

chú cộng với những suy ngẫm và chiêm nghiệm của chú. Và có lẽ ai cũng vậy. Chú không

viết được những gì mà chú chưa từng trải. Bộ đội, chiến tranh, núi rừng và cát là những gì

chú đã trải qua”.

Sau một vụ tai nạn, nhà văn bị chấn thương sọ não, liệt nửa người. Biến cố cuộc đời

ấy tưởng chừng đã chấm dứt nghiệp viết của một nhà văn vốn nhiều tâm huyết với văn

chương và cuộc đời. Thế nhưng, ông vẫn gắng gượng chiến đấu với bệnh tật, nặng nhọc

đứng lên bước tiếp con đường văn chương, vẫn miệt mài “lao động chữ một cách nghiêm

túc”. Trong suốt thời gian xảy ra biến cố, Nguyễn Quang Lập chủ yếu viết kịch bản sân

khấu và kịch bản điện ảnh. Ông viết, như một cách để kiếm tiền, kiếm sống, nhưng chắc

chắn, nếu không phải xuất phát từ một cái nhìn sâu sắc, tinh tế với những phát hiện khá

nhạy bén, cùng với ham muốn được lý giải hiện thực thì ông đã chẳng để lại những tác

phẩm điện ảnh có thể đưa ông vào hàng danh dự những nhà viết kịch bản xuất sắc của Việt

Nam.

Có thể nói, chính cú hích số phận này đã biến nhà văn Nguyễn Quang Lập thành

người viết kịch bản lừng danh với hàng loạt vở kịch, phim điện ảnh tạo được nhiều tiếng

vang lớn. Tác phẩm điện ảnh đầu tay của Nguyễn Quang Lập là phim truyện Ngày nghỉ

phép cuối cùng. Tiếp sau đó, với sự thành công của hai tác phẩm điện ảnh Đời cát (giải

vàng Liên hoan phim Châu Á – Thái Bình Dương, giải Bông sen Vàng Liên hoan phim Việt

Nam lần thứ 13) và Thung lũng hoang vắng (giải Fipresci, Bông Sen Bạc tại Liên hoan

phim Việt Nam lần thứ 13), Nguyễn Quang Lập đã vinh dự được trao giải nhà biên kịch

xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam khi đó (năm 2011). Thời gian này Nguyễn Quang Lập

dường như dừng hẳn mảng văn chương để say mê thể nghiệm loại hình nghệ thuật sân khấu,

điện ảnh. Phim, kịch của Nguyễn Quang Lập thuộc loại tác phẩm luận đề, nghiêng về phản

ánh hiện thực cuộc sống. Ông là nhà viết kịch bản có phong cách, có quan điểm riêng, với

ham muốn mãnh liệt được lý giải và nhận thức đời sống theo cách của một nhà văn chính

luận. Do vậy, đối với ông, lời thoại kịch phải “thực sự mang hơi thở đời sống” (trong bài trả

lời phỏng vấn trên báo Tuổi trẻ ngày 27/09/2005), nghĩa là phải chân thực, gần gũi với đời

thường, phải toát lên từ những vấn đề nhức nhối của hiện thực cuộc sống hôm nay. Vở kịch

tâm lý Mùa yêu đương là bức thông điệp về quy luật nhân quả trong đời sống gia đình.

Thông qua đó, vở kịch đan cài những vấn nạn của đời sống gia đình và xã hội, biểu hiện sự

24

tha hóa đạo đức, các giá trị sống trong xã hội hiện đại ngày càng mai một. Vở diễn Những

linh hồn sống mang ý nghĩa triết luận sâu sắc, rằng: “Con người không thể sống yên ổn,

vững vàng trong hiện tại, nếu có sau lưng một quá khứ tội lỗi. Dù muốn dù không cũng phải

trả giá sòng phẳng” (trong bài trả lời phỏng vấn trên báo Tuổi trẻ ngày 27/09/2005). Tác

phẩm điện ảnh Trái tim bé bỏng lại đặt ra vấn đề về hiện tượng lầm đường lạc lối của

những cô gái trẻ khao khát đổi đời để rồi nhận lấy số phận cay đắng, nghiệt ngã.

Không chỉ xuất sắc ở những kịch bản sân khấu và điện ảnh, mà sau gần hai mươi

năm vắng bóng, Nguyễn Quang Lập bỗng dưng trở lại văn đàn với nguồn cảm xúc và sức

sáng tạo dồi dào, mãnh liệt hơn trước qua các tập tản văn Ký ức vụn (2009), Bạn văn

(2011), Chuyện đời vớ vẩn (2011). Đặc biệt là cuốn Ký ức vụn, vừa ra đời đã trở thành

“best seller” của năm 2009. Ban đầu, các bài tản văn này được tác giả viết và đăng rời rạc

trên trang blog cá nhân của mình, như việc bày ra một chiếu rượu để mọi người cùng đọc,

chia sẻ và bình luận. Sau đó, qua lời gợi ý từ bạn bè, tác giả đã cho in các bài viết thành tập

sách. Các tác phẩm này thực sự đã đánh dấu một sự trở lại đầy ngoạn mục của nhà văn

Nguyễn Quang Lập. Đối với nhà văn, đó là một “cuộc chơi” và ông sẽ “chơi” hết mình.

Trước đây, người đọc đã từng biết đến một Nguyễn Quang Lập gai góc, xù xì, giàu

triết luận qua những vở kịch gây tiếng vang vào những năm 1990, một Nguyễn Quang Lập

trữ tình và giàu cảm xúc, nhiều suy tư, trăn trở với cuộc đời qua những truyện ngắn, tiểu

thuyết, cũng như kịch bản phim truyện, và giờ đây lại biết đến một Nguyễn Quang Lập hóm

hỉnh, trào lộng qua những bài tản văn về những con người đời thường từng hiện hữu trong

cuộc sống nhà văn. Mỗi câu chuyện trong các tác phẩm tản văn như một thước phim kí ức

về những cuộc đời, những con người được quay chậm lại trong trí nhớ của nhà văn. Nếu

như hai mươi năm trước, những truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập là những

cuộc đời bi kịch đau xót, nghiệt ngã được kể bằng giọng văn trầm lắng, suy tư, thì hai mươi

năm sau, vẫn là những góc đời buồn, vẫn là những chuyện đời, chuyện người nhưng nhà

văn đã thả vào đó những nụ cười hài hước, hóm hỉnh. Và điều đáng nói, cũng như đáng ghi

nhận nhất ở sự trở lại văn đàn của Nguyễn Quang Lập lần này là việc sáng tạo nên món

“khẩu văn” đang rất được ưa chuộng. Đi theo ngã rẽ “khẩu văn” là cách mà nhà văn lựa

chọn như một cuộc chơi, song cũng để tìm kiếm cho mình một lối đi riêng, dọn cho mình

một chỗ đứng riêng giữa bối cảnh đổi mới đang nhộn nhịp, sôi động của văn học.

25

Thành công với thể nghiệm phong cách khẩu văn ở thể loại tản văn, đầu năm 2013,

Nguyễn Quang Lập cho xuất bản tập truyện ngắn Chuyện nhà quê, gồm một số truyện ngắn

mới và một số truyện ngắn, tản văn đã được in trước đó. Những truyện ngắn đậm chất “khẩu

văn” như một sự tiếp bước và khẳng định một lối đi riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân mà

nhà văn đã lựa chọn trong cuộc chơi văn chương của mình.

Có lẽ, Nguyễn Quang Lập là trường hợp duy nhất có thể khiến người ta ngạc nhiên

đến mức sửng sốt về một nhà văn mà với ông, những biến cố trong cuộc sống, những tai nạn

liên tiếp đã làm tăng thêm nguồn sinh lực vô tận cho ngòi bút. Và chính nhà văn cũng chẳng

thể lý giải được điều đó, ông chỉ biết là mình muốn viết, cần viết và đang viết một cách

nghiêm túc. Cần mẫn và bền bỉ như cây “xương rồng trên cát”.

1.2.2. Văn xuôi nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập

Mặc dù có sức viết dồi dào ở nhiều loại hình nghệ thuật, nhưng nhìn chung về số

lượng tác phẩm cũng như hiệu quả thẩm mĩ và cả sức ảnh hưởng đến đời sống văn học, văn

hóa mà chúng mang lại thì văn xuôi, có thể nói, đã chiếm một vị trí đáng kể trong sáng tác

của Nguyễn Quang Lập, với một tiểu thuyết, ba tập truyện ngắn (với 24 truyện) và ba tập

tản văn gồm tổng cộng 161 bài, so với kịch bản sân khấu và kịch bản điện ảnh, tính đến nay

chỉ có khoảng bảy tác phẩm.

Ông cho rằng “nhà văn nào cũng vậy, chỉ thích một mình với trang giấy trắng. Sân

khấu và điện ảnh là công việc cần có sự liên kết của nhiều người, trong khi nhà văn thích

một mình chịu lấy trách nhiệm, không muốn hệ luỵ đến ai khác” (trong bài trả lời phỏng vấn

trên báo http://vietbao.vn/ 7/10/2004). Khép lại bức màn sân khấu, điện ảnh chính là lúc nhà

văn trở về với những trang viết thấm đẫm những chuyện đời, trải lòng với những số phận

con người.

Về truyện ngắn và tiểu thuyết, ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Tiếng khèn

bè, Tiếng lục lạc, Đò ơi, Tiếng gọi phía mặt trời lặn,… đến tiểu thuyết Những mảnh đời đen

trắng, Nguyễn Quang Lập đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và con người. Cảm

hứng chủ đạo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập là cảm hứng bi kịch về đề tài chiến

tranh, và số phận con người. Viết về chiến tranh, nhà văn đã không nhìn lên những ánh hào

quang của chiến công và sự chiến thắng mà ông cúi xuống để thấy, để cảm nhận và phản

ánh những sự thật đau lòng mà chiến tranh gây ra cho con người. Viết về con người, nhà

26

văn quan tâm đến số phận của cá nhân. Nổi bật lên trong đó là những chuyện đời tư, những

số phận riêng, những bi kịch của con người. Nhà văn xoáy sâu vào những sự thật nghiệt

ngã, những tình cảnh trớ trêu, phũ phàng của cuộc đời, dù là trong chiến tranh hay khi trở về

thời bình, để từ đó tạc nên cái khổ đau của con người. Những cuộc đời, những phận người

trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập dường như không bao giờ được lành lặn. Họ hoặc

phải mang những thương tật vĩnh viễn trên cơ thể, hoặc luôn day dứt, âm ỉ với những tổn

thương trong tâm hồn, về những hạnh phúc không bao giờ được trọn vẹn. Đó là những hậu

quả trong chiến tranh, từ chiến tranh và cả do những biến động của cuộc sống hiện đại, khi

mà người ta không còn sống vì một mục đích chung, con người có thể trở nên ích kỉ, giả

dối, tầm thường.

Đặc biệt, khi viết về con người và những cuộc đời riêng của họ, nhà văn đã làm nổi

bật “chất người” ở nhân vật của mình với sự đan xen những mảng sáng tối trong tâm hồn.

Không có người tốt – người xấu, không có nhân vật chính diện – nhân vật phản diện. Mà ở

đây, con người có sự cộng hưởng của những mặt trái ngược nhau. Chính nhà văn cũng đã

chia sẻ với tác giả luận văn, rằng: “chú muốn miêu tả con người đúng nghĩa, họ có phần cao

cả và thối tha, trong sáng và hiểm độc, chân thành và cơ hội, rộng lượng và ích kỷ,... Chú

phản đối lối nhìn con người một chiều. Vì đua nhau xây dựng con người một chiều như thế

mà văn học ta một thời gian dài chỉ dựng lên các nhân vật na ná người chứ không phải là

người”. Đây là quan niệm khá mới mẻ trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập nói riêng và

hòa với nhận thức chung của các nhà văn cùng thời khi nhìn về con người và hiện thực cuộc

sống hôm nay.

Truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập thường không có độ dày về sự kiện, nhân vật,

mà chỉ là một lát cắt, có khi rất nhỏ về cuộc đời. Nhà văn quan tâm đến việc thể hiện bi kịch

của nhân vật, những trái ngang của cuộc đời hơn là kể chi tiết diễn biến các sự kiện. Trong

các sáng tác của mình, Nguyễn Quang Lập có biệt tài trong việc tạo nên độ sâu của suy

nghĩ, sự lắng lòng của cảm xúc. Các tác phẩm truyện ngắn của ông thường không có những

kịch tính, những cao trào, ít độ căng do có cốt truyện giản dị, được xây dựng từ những chất

liệu đời thường nhưng luôn được điểm vào đó những mạch cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng

của nhân vật làm cho câu chuyện trở nên sâu lắng, để lại một cái nhìn đau đáu khôn nguôi.

Các yếu tố lãng mạn, trữ tình, những đoạn văn giàu chất thơ được gia công đan xen với nội

dung phản ánh hiện thực.

27

Tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập được viết theo khuynh hướng nhận thức lại.

Cũng với cảm hứng về số phận con người, ông quan tâm đến số phận con người trong mối

quan hệ với thời đại. Nói về cảm hứng sáng tác của tiểu tiểu thuyết Những mảnh đời đen

trắng, nhà văn chia sẻ: “Năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp mặt văn nghệ sĩ, có

đặt vấn đề cởi trói cho văn nghệ sĩ, ông nói: Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Hưởng

ứng lời kêu gọi của Nguyễn Văn Linh, chú đã viết cuốn Những mảnh đời đen trắng. Quyền

làm người và khát vọng sống tự do là cảm hứng chung của cuốn sách này”. Nội dung tác

phẩm có tính bi kịch, có những sự kiện dữ dội, nhưng với cách kể hài hước và thái độ bình

thản, câu chuyện đã tạo được sự ám ảnh, thấm thía ở người đọc.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập thường bị bó hẹp trong

không gian đời tư với những tình cảm cá nhân. Không gian lớn hơn thường chỉ quanh quẩn

trong một thôn, một xóm, một làng. Đó là xu hướng chung của nhiều nhà văn ở giai đoạn

văn học sau 1975. Họ cho rằng không gian càng nhỏ hẹp thì đời tư của con người càng được

quan tâm, được soi rọi và khám phá một cách sâu sắc. Truyện ngắn Nguyễn Quang Lập

không có sự đa dạng về kiểu loại hay sự phân tầng nhân vật nhưng luôn đa dạng về những

nỗi khổ đau, sự mất mát mà nhân vật phải gánh chịu. Trong tiểu thuyết, nhân vật được đặt

trong không gian của thời đại, có mối quan hệ rộng hơn so với trong truyện ngắn, nhưng sức

ám ảnh mà nhà văn để lại cho người đọc vẫn là những bi kịch cá nhân riêng lẻ. Đặc biệt,

trong các truyện ngắn lẫn tiểu thuyết của mình, nhà văn hầu như không bao giờ tìm được

một kết thúc có hậu cho câu chuyện, cũng như không bao giờ đưa nhân vật tìm ra lối thoát

cho cuộc đời, số phận của mình. Nên gom lại các thân phận đó là nỗi cô đơn, sự tuyệt vọng,

cái bi kịch.

Nhà văn không có sự chăm chút cầu kì về kỹ thuật sáng tác, nhưng không có nghĩa

tác phẩm của ông chỉ là sự chuyển tải nội dung một cách cầu ơ, hời hợt. Nguyễn Quang Lập

đã lựa chọn một cách viết dung dị, gần như là mộc mạc với việc sử dụng ngôn ngữ đời

thường, đặc biệt là những hình ảnh và ngôn ngữ địa phương gắn liền với vùng quê Quảng

Bình, quê hương của tác giả. Các diễn ngôn trần thuật được vận dụng một cách linh hoạt

cùng với sự đa dạng về giọng điệu, Nguyễn Quang Lập đã làm cho hiện thực cuộc sống

được phản ánh một cách sinh động, nhiều màu sắc, nhiều dáng vẻ.

28

Có thể nói, văn xuôi Nguyễn Quang Lập ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết luôn có

tính tự khẳng định một lối viết vững vàng với nhiều khám phá và phát hiện chân thực về

cuộc sống, về con người, thể hiện cái nhìn riêng của một nhà văn vốn nhiều trải nghiệm.

Đặc biệt, sự trở lại của Nguyễn Quang Lập từ sau hai mươi năm vắng bóng trên văn

đàn, đã thực sự khẳng định tài năng và độ chín của nhà văn trong mảng văn xuôi, nhất là ở

thể loại tản văn. Với các tác phẩm Kí ức vụn (2009), Chuyện đời vớ vẩn (2011) và Bạn

văn (2011), Nguyễn Quang Lập đã chọn cho mình một lối viết mới lạ, độc đáo, hoàn toàn

khác với một Nguyễn Quang Lập trước đó cũng như so với các nhà văn cùng thời. Đề tài

trong tản văn Nguyễn Quang Lập là những câu chuyện đời thường, chuyện hàng ngày được

viết lại từ kí ức của chính nhà văn. Đó là những chuyện kí ức về tuổi thơ, về quê hương và

những người bạn của nhà văn. Có chuyện có thật, nhưng cũng có chuyện được bịa như thật.

Nhà văn thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình: “Phàm là sáng tác đều phải hư cấu cả. Tôi

hư cấu bằng cách thêm bớt các chi tiết có thật, sắp xếp có chủ ý, sao cho đạt được một tác

phẩm như ý muốn. Nếu hiểu nói láo là bịa đặt thì tôi không bao giờ. Tôi ghét cay đắng sự

bịa đặt” [46;340].

Nhưng điều đáng nói và là điểm nổi bật ở các tác phẩm tản văn này không phải chỉ ở

nội dung mà còn ở lối viết phá cách, sáng tạo đến mức táo bạo của Nguyễn Quang Lập so

với các nhà văn trước đó và cùng thời. Nội dung trong tản văn Nguyễn Quang Lập được

chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ bỗ bã, suồng sã, thậm chí là có phần dung tục. Có lẽ vì vậy

mà tản văn Nguyễn Quang Lập tuy không kén người đọc, nhưng không phải người đọc nào

cũng sẵn sàng có thiện cảm với văn của ông. Chính nhà văn cũng thừa nhận điều đó: “Tôi

biết văn tôi như trái sầu riêng vậy, chưa quen ngửi không có nổi, nhưng quen rồi thì thấy

ngon” [46;341]. Tuy nhiên, đằng sau những trang văn ấy vẫn sáng lên tình người, tình đời

giữa nhà văn và những người được nói đến trong bài viết. Trong xu hướng tìm kiếm và thể

nghiệm những lối viết mới mẻ của các nhà văn đương đại, có thể nói, Nguyễn Quang Lập

đã tỏ ra khá nhanh nhạy và cực kì thông minh trong việc lựa chọn cho mình phong cách

“khẩu văn” độc đáo, riêng biệt.

Từ khi ra đời, các tác phẩm tản văn của Nguyễn Quang Lập đã tạo được tiếng vang

lớn. Nhà văn và các tác phẩm tản văn của ông đã trở thành một hiện tượng văn học, gây xôn

xao dư luận cho bạn đọc và giới nghiên cứu, đồng thời cũng đã “dọn” cho Nguyễn Quang

Lập một vị trí xứng đáng trong đời sống văn học đang sôi động với nhiều đổi mới. Có thể

29

nói, với chất “khẩu văn”, một đặc điểm nổi bật nhất của tản văn Nguyễn Quang Lập, nhà

văn đã làm mới ngôn ngữ văn xuôi mới cho văn học hiện đại Việt Nam.

Nhà văn xem cuộc đời như cuộc chơi, trong các thú chơi ấy có “món văn”. Nhưng

“khi chơi phải biết mình là ai, tài mình đến đâu, để tránh cái sự đẽo cày giữa đường”. Và

ông quan niệm, đã là cuộc chơi thì phải chơi hết mình, “thích thì chơi, không thích thì thôi”,

văn chương không phải là chỗ để khoe mẽ, dạy dỗ hoặc cố “ráng sành ra mỡ” (trong bài trả

lời phỏng vấn trên trang http://phaply.net.vn/ 18/01/2012). Với tư tưởng, quan niệm ấy,

Nguyễn Quang Lập đã thổi vào những tác phẩm tản văn của mình một cá tính hoàn toàn tự

do với lối viết khá thông minh, sắc sảo. Do vậy, nhà văn tỏ ra khá bản lĩnh trong ý thức về

tài năng và cá tính sáng tạo của mình. Nhà văn phát biểu: “Có hai điểm mà tôi biết chắc vì

thế bạn đọc thích, đó là văn tôi không phải loại đạo đức giả, thứ hai là văn tôi không hề có

ý định giáo dục ai. Tôi viết chơi, mọi người đọc cho vui, vậy thôi” [46;341].

Thời gian đầu đến với văn chương, nhà văn viết bằng thứ ngôn ngữ cao sang, nghiêm

ngắn vốn dĩ của văn chương, nhưng sau này, với những chuyển biến trong cuộc đời, cũng

như sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, ông đã dành sự ưu ái đặc biệt cho lớp ngôn ngữ

bình dân, đời thường. Nhưng dù viết theo cách nào thì sáng lên trong đó vẫn là tấm lòng

giàu yêu thương và cái nhìn đau đáu, xót xa của nhà văn hướng về cuộc đời và con người.

Cứ vậy mà ông viết, viết không biết mệt mỏi, viết để trải lòng, viết để trải nghiệm, viết để

chia sẻ, viết để giữ cho mình những kí ức còn sót lại, và viết cũng để thể hiện một cái “tôi”

“ngất ngưởng” giữa cuộc đời, đời người và đời văn.

Hơn nửa đời người, đi nhiều, biết nhiều, nhiều bạn bè, nhiều mối quan hệ, nhiều từng

trải, cùng khóc, cùng cười, hoặc là đau đớn, hoặc là “tưng tửng” với bao nhiêu cảnh đời,

gương mặt, từ những người thân đến sơ, từ những người nổi tiếng đến những người vô danh

trong cuộc đời thường… nhà văn đã để lại trên trang viết của mình những nỗi niềm day dứt,

đau xót về cuộc đời, về con người, những con người mà ta chỉ vừa bước ra khỏi nhà, hoặc

chỉ tới đầu ngõ thì đã bắt gặp. Họ gần gũi, họ chân thực, họ hiện hữu quẩn quanh trong cuộc

sống đời thường. Sức viết, sức sáng tạo của nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhất là sự trở lại

ngoạn mục sau thời gian dài vắng bóng đã trở thành niềm cảm phục cho không ít bạn văn

của ông, cũng như lời chia sẻ của tác giả Như Bình: “Tôi luôn nhìn thấy Nguyễn Quang Lập

trong hình ảnh một cây xương rồng già cỗi nhất, xác xơ nhất, và nhiều gai nhọn nhất nhưng

lại sống dai dẳng nhất, sống khỏe nhất trên cái sa mạc mênh mông của đời anh” [9].

30

Tiểu kết:

Nguyễn Quang Lập là nhà văn trưởng thành ở chặng đường sau của văn học hiện đại

sau 1975. Ông cần mẫn với nghiệp viết từ những bước đi đầu tiên thực hiện mộng ước văn

chương đến cả khi gặp biến cố và sau đó ngòi bút của ông lại càng chín chắn hơn, thâm thúy

hơn. Mặc dù có tài năng và thành công trong nhiều lĩnh vực, song, văn xuôi nghệ thuật vẫn

chiếm ưu thế trong ngòi bút của nhà văn trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tản

văn. Quá trình “lao động chữ một cách nghiêm túc” đối với Nguyễn Quang Lập như một

cuộc tìm kiếm, nhặt nhạnh những giá trị cuộc sống từ những điều vụn vặt nhất, đời thường

nhất, thậm chí có cả những cái tầm thường trong đó.

Từ tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng và những truyện ngắn đầu tay đến Kí ức

vụn và các tập tản văn khác, Nguyễn Quang Lập đã khẳng định một sự khác biệt rõ rệt. Có

thể coi đó như hai chặng đường sáng tác của ông. Từ lối viết nghiêm ngắn, chỉn chu, nhà

văn đã chuyển sang phong cách “khẩu văn” như một cách tự làm mới mình.

Ở mỗi chặng đường, mỗi thể loại, Nguyễn Quang Lập đã tạo được những giá trị nội

dung đáng kể, những nét riêng cho thể loại, làm phong phú cho bức tranh về cuộc sống đời

thường trong trang viết của ông. Chương 2 sẽ làm rõ những nội dung được thể hiện trong

các sáng tác của Nguyễn Quang Lập.

31

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP –

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG, CẢM HỨNG

2.1. Hiện thực chiến tranh và số phận con người

2.1.1. Một góc nhìn về hiện thực chiến tranh

2.1.1.1. Đề tài chiến tranh là một trong những đề tài lớn, phổ biến của văn học nhân

loại nói chung. Đối với Văn học Việt Nam nói riêng, cảm hứng về chiến tranh từ lâu đã trở

thành đề tài có tính chất trọng yếu xuyên suốt các thời kì, giai đoạn văn học. Đại thắng mùa

xuân 1975 đã kết thúc một giai đoạn kháng chiến trường kì, vĩ đại và hào hùng của dân tộc

chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đem lại độc lập, tự do, thống nhất cho tổ quốc, đồng

thời cũng đã khép lại một thời kì văn học. Chiến tranh đã đi qua nhưng âm vang khói lửa

chiến tranh không dễ nguôi tắt trong lòng mọi người, nhất là khi hậu quả của nó vẫn còn ám

ảnh day dứt đến thời bình. Do vậy, viết về đề tài chiến tranh như một nhu cầu bức thiết đối

với nhiều cây bút thời hậu chiến.

Viết về chiến tranh trong văn học giai đoạn này, cảm hứng của các nhà văn trước

hiện thực đã có sự chuyển biến, thay đổi sâu sắc so với giai đoạn trước. Nhà văn nhấn mạnh

hơn vào yêu cầu “chân thực”. Không bằng lòng với cái hiện thực được lí tưởng hóa một

chiều, họ xác định “không chỉ nói đến thắng lợi mà còn cần nói đến tổn thất, hi sinh, không

chỉ nói đến niềm vui mà còn nói đến nỗi đau khổ do quân thù gây nên” [88]. Nói cách khác,

họ đòi hỏi tính “chân thực” trong văn học theo đúng nghĩa của nó, không tô hồng, cũng

không né tránh những sự thật về chiến tranh. Chu Lai là một trong những nhà văn Việt Nam

đầu tiên nói về bản chất của chiến tranh khác với quan niệm truyền thống: “Bằng những

kiểm nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng chiến tranh quả thật không vui vẻ gì, đối với bất cứ

dân tộc nào, dù là tự vệ hay xâm lược, chiến tranh đều mang ý nghĩa bi kịch” [39]. Và

“quan trọng nhất là nêu lên được nỗi đau của nhân vật trong chiến tranh, vì chiến tranh là

nước mắt” [40]. Do đó, văn học sau 1975 viết về chiến tranh đặc biệt chú trọng phản ánh

hiện thực còn nhiều khuất lấp mà văn học trước chưa hoặc không dám nói đến, đó là những

nhận thức sai lầm của một thời đại, hay những hi sinh, tổn thất, những mất mát, bi kịch mà

con người phải gánh chịu do hậu quả chiến tranh để lại. Một số truyện ngắn của Nguyễn

Minh Châu như Bức tranh, Cỏ lau được xem như sự kiện văn học về đề tài chiến tranh ở

giai đoạn này.

32

Hình ảnh chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 thường không hoặc ít được miêu tả hay

kể lại một cách trực tiếp mà chỉ thấp thoáng trong kí ức nhân vật hoặc được phản chiếu qua

số phận con người thời hậu chiến nhưng người đọc vẫn thấy sức ám ảnh ghê gớm của nó.

Lấy con người làm hệ quy chiếu, các nhà văn ở giai đoạn này đã nhận thức về chiến tranh

và khai thác nó từ góc độ đời tư, đi sâu khám phá những cuộc đời, những cảnh ngộ, sự mất

mát hi sinh, sự hao mòn nhân tính và những số phận bi kịch của con người thời hậu chiến.

Bi kịch mà con người phải chịu đựng thật kinh khủng và cũng muôn hình vạn trạng. Đó có

thể là bi kịch của những người vợ xa chồng, những tình yêu dang dở; bi kịch của những anh

hùng chỉ có khả năng toả sáng trong chiến trận, chỉ quen với những nguyên tắc ứng xử thời

chiến mà xa lạ với cái đa đoan phức tạp của thời bình; bi kịch của kẻ lầm đường lạc lối; bi

kịch của những nạn nhân di chứng chiến tranh,…

Dành mối quan tâm hàng đầu cho thân phận con người trong cuộc chiến, nhiều cây

bút đã tạo ra bước chuyển mới cho văn học chiến tranh khi đặt trọng tâm vào việc suy tư về

nhân tính và về nghệ thuật. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm có giá trị

phản ánh về hiện thực chiến tranh và tính nhân bản sâu sắc. Nổi bật lên trong tác phẩm là

tâm hồn chai sạn của con người đang sống giữa hai bờ quá khứ và hiện tại, luôn bị ám ảnh

về quá khứ đau buồn của chiến tranh với những hi sinh, mất mát. Ngoài ra có thể thể kể đến

hàng loạt tiểu thuyết và truyện ngắn tiêu biểu cho đề tài chiến tranh mà đối tượng hướng

đến là con người cá nhân, đời tư như Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Lạc rừng của Trung

Trung Đỉnh, Mùa trái cóc ở miền Nam, Cơn giông, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành

của Nguyễn Minh Châu, Ba người trên sân ga của Hữu Phương, Truyền thuyết Quán Tiên

của Xuân Thiều, Chiều vô danh, Bến trần gian của Lưu Sơn Minh, Tiếng vạc sành của

Phạm Trung Khâu, Thung lũng hoa vàng của Huỳnh Thạch Thảo, Người sót lại của rừng

cười, Biển cứu rỗi, Dây neo trần gian, Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo, Hai người đàn bà xóm

trại của Nguyễn Quang Thiều, Những giấc mơ có thực của Vũ Thị Hồng, Bướm trắng của

Thái Bá Tân, Thảm cỏ trên trời của Ngô Thị Kim Cúc, Tiếng chuông trôi trên sông của Vũ

Hồng, Vọng trắng, Đò ơi, Tiếng khèn bè, Tiếng lục lạc của Nguyễn Quang Lập,…

Viết về chiến tranh, các nhà văn không chỉ phản ánh mà còn “sáng tạo hiện thực” và

“suy ngẫm” về nó từ nhiều góc độ. Việc tái hiện hiện thực không phải là mục đích cuối, cho

nên, cùng với việc nhìn lại lịch sử, nhà văn có thể dùng chiến tranh để khảo sát về nhân tính,

về tình yêu, tình dục, về bản năng sống,… của con người trong những tình huống trái

33

khoáy, bất thường. Đây chính là điểm mới lạ và khác biệt so với quan niệm truyền thống khi

viết về chiến tranh trong văn học giai đoạn trước.

Tóm lại, viết về chiến tranh với đối tượng phản ánh là đời tư và bi kịch cá nhân của

con người đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của nhiều cây bút trong văn học giai đoạn

sau 1975, nhất là những nhà văn – chiến sĩ bước ra từ chiến trường máu lửa hoặc đã từng có

thời gian tham gia quân đội. Hơn nữa, cuộc sống và số phận của con người thời hậu chiến

với những nỗi đau, sự mất mát không thể nào bù đắp là một trong những vấn đề nhức nhối,

ám ảnh của thời đại, các nhà văn viết về nó như một nhu cầu bức thiết của văn học giai đoạn

này.

2.1.1.2. Trong nhiều tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập, không khí chiến

tranh đã được dựng lại với hình ảnh khói lửa, đạn bom và cả những mất mát, hi sinh, những

nỗi đau mà con người phải gánh chịu. Tất cả những điều đó có thể nói chính là sự “ghẻ lở”

của chiến tranh mà ở giai đoạn trước đã được che đậy bởi một lớp áo sạch sẽ, lành lặn. Và

bây giờ, người ta thấy cần thiết phải bóc trần lớp áo ấy, để chiến tranh hiện lên một cách

chân thực, như là chính nó. Nguyễn Quang Lập đã cảm nhận và phản ánh hiện thực chiến

tranh từ góc độ đời tư và trong những mối quan hệ cá nhân nhỏ hẹp. Từ những lát cắt về

chiến tranh, nhà văn đã làm nổi bật lên những số phận, những cuộc đời phải gánh chịu

những hậu quả nặng nề từ chiến tranh.

Cây sến lửa là truyện ngắn duy nhất của Nguyễn Quang Lập về chiến tranh được viết

theo tư duy sử thi của giai đoạn trước. Câu chuyện kể về cuộc sống nghèo khổ nhưng vẫn

một lòng đi theo cách mạng trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược của người dân

bản Choong. Với cảm hứng sử thi, Nguyễn Quang Lập đã rất thành công trong việc xây

dựng hình tượng nhân vật người anh hùng Cu-muôn là kết tinh sức mạnh vật chất và tinh

thần của cộng đồng. Tuy nhiên, tác phẩm không dừng lại ở cảm hứng sử thi kể lại một sự

kiện quan trọng của cộng đồng và ca ngợi hình tượng người anh hùng. Điểm mới mẻ và

sáng tạo trong câu chuyện của Nguyễn Quang Lập là đã đặt chiến tranh trong mối quan hệ

cá nhân: tình bạn giữa Cu-muôn và Ba-đoong, thay vì thuần túy là quan hệ giữa cá nhân đối

với quốc gia, dân tộc, với tập thể cộng đồng. Trong tác phẩm, nhân vật Ba-đoong là kẻ phản

bội, đi theo lính Mỹ mặc áo rằn ri, đốt nhà, bắn người khắp bản Choong, giết hại lũ làng, chỉ

trừ nhà người bạn thân là Cu-muôn. Nhưng Cu-muôn không vì thế mà không trách tội Ba-

đoong, ông giết Ba-đoong, và để cứu rỗi linh hồn người bạn, Cu-muôn bảo hồn Ba-đoong

34

hãy nhập vào cây sến mọc thẳng, đêm nào ông cũng đến ôm gốc cây sến mà khóc, để cho

những thương nhớ được thấm vào thân cây như tình bạn còn mãi. Như vậy, chiến tranh ở

đây không chỉ là vấn đề của cộng đồng mà còn là thước đo và là thử thách của tình bạn, thử

thách con người giữa tình cảm cá nhân và lòng trung thành với cộng đồng.

Cảm hứng về chiến tranh của các nhà văn sau 1975 không còn là những lớp hào

quang sáng chói của những cuộc chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa ta và địch. Mà ngược

lại, đó là những thảm cảnh đau đớn, xót xa, những góc khuất của đời người được nhà văn

nói thẳng, nói thật không một chút né tránh. Chiến tranh, tất yếu gắn liền với sự hủy diệt,

với những cảnh chết chóc tang thương. Chiến tranh là bài ca kinh hoàng, “là cõi không nhà,

không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là

thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” [68;32].

Trong truyện ngắn Ngày xửa ngày xưa, cả làng Mùi bị ám ảnh, bị đè nặng bởi không khí

ngột ngạt của chiến tranh. Bom Mỹ cứ chà đi chà lại biến nơi đây thành “tọa độ máu”:

“Chiến tranh đã rơi xuống hết thảy các cánh rừng. Hết cánh rừng này bốc cháu, lại cánh

rừng khác(…). Khi làng Mùi bị bốc hết lớp “ngụy trang” cuối cùng, trơ ra như một miếng

thịt mỡ giữa cái mâm nhẵn thín thức ăn thì hy vọng “được sống đến ngày mai” coi như bị

chấm dứt” [43;8]. Đó là một nỗi bất hạnh khủng khiếp nhất mà tất cả người dân làng Mùi

phải hứng chịu vì chẳng còn cách nào để vượt qua vành đai lửa bao quanh. Mỗi lần nghe

tiếng bom rơi, đạn nổ, thấy những quầng lửa đang bốc cháy, người ta lại đau đớn trong nỗi

sợ hãi: “lần này không biết đến lượt ai?” [43;12]. Nhân vật chính trong tác phẩm là ông

Thiệt cũng không tránh khỏi hậu quả của chiến tranh, “hai tròng mắt đã bật khỏi hố mắt của

ông năm 1968 do một quả rốc-két không lực Hoa Kỳ phóng thẳng xuống suýt nữa làm ông

tan xác”. Ở truyện ngắn Đò ơi, chiến tranh bất ngờ ập đến làng chài: “Hàng vạn viên đạn xả

vào những người dân lương thiện. Không một ai kịp ẩn nấp” [43;156]. Cảnh tượng hãi hùng

ấy đã dẫn đến cái chết thương tâm cho ba trăm nhân mạng xưa nay vẫn cắm dùi làm ăn.

Chưa bao giờ họ ý thức được rằng “mình đang dẫm chân trong cuộc chiến tranh ghê gớm

nhất nửa bán cầu” [43;156]. Chỉ trong phút chốc, làng chài trở thành bãi đất chết đẫm máu

kinh hoàng. Và qua cái nhìn của con chim vẹt trong Tiếng gọi phía mặt trời lặn, chiến tranh

là những bộ mặt méo xệch của đoàn người tải lương đang xuống dốc trong mưa, với những

tiếng kêu đau đớn của người trượt chân, những tiếng súng nổ dữ dội; là hình ảnh chủ nó

đang nằm ở phía sau một hòn đá, nàng nằm sấp, gùi gạo văng ra xa, máu từ bả vai phun

35

ngược lên từng tia máu nhỏ, và những họng súng đang chĩa vào ngực nàng. Tất cả những

cảnh tượng đó chính là hiện thân của cái khốc liệt, dữ dội, của sự bạo tàn trong chiến tranh.

Nói đến chiến tranh, Nguyễn Quang Lập cũng không quên dành những trang văn

trang trọng để ca ngợi, tuyên dương những con người biết cống hiến, dám sống, dám hi sinh

trong cuộc đối đầu với kẻ thù như Thùy Dương và Long trong Người thổi kèn Trompet,

như người lính tình báo Tô Xuân Quỳ trong Vọng trắng, như chú Dũng trong Chuyện sót

lại ở thung lũng Chớpri, như cô giáo Diệp trong Đợi đến mùa hoa Phượng,… Nhưng nhà

văn đã không thể cho họ được lành lặn, được vẹn nguyên đi qua chiến tranh như cái điều tất

yếu về một sự thật phũ phàng, nghiệt ngã mà mọi cuộc chiến tranh đều phải có. Ở tác phẩm

Người thổi kèn Trompet, nhà văn thể hiện rõ nét sự trân trọng đầy yêu thương với cô gái

Thùy Dương xinh đẹp hăng hái tham gia thanh niên xung phong, với anh chàng Long – một

người lính quả cảm, trong cơn mê sản vẫn không ngừng hô hào chiến đấu. Hạnh phúc trong

tình yêu giữa họ được nhà văn đặt trên cái nền của cuộc chiến tranh khốc liệt. Khi Thùy

Dương hỏi “Bao giờ hết chiến tranh, anh?”, Long đáp “Đấy là ngày chúng mình làm lễ

cưới” [43;36]. Đối với họ, niềm tin, hi vọng về tình yêu, về hạnh phúc lứa đôi cũng là niềm

tin về một ngày mai khi chiến tranh kết thúc. Nhưng trong chiến tranh, người ta chẳng thể

nói trước được điều gì, niềm tin, hi vọng của họ cũng trở nên mong manh quá đỗi. Long hi

sinh trong trận bom tọa độ của Mỹ. Cô gái Thùy Dương được may mắn sống sót, nhưng đôi

chân đã không còn. Cô phải sống những tháng ngày còn lại là nỗi niềm da diết với những

điệu nhạc tiếng kèn vẫn du dương trong tâm tưởng cùng với nỗi đau đớn xót xa về sự hi sinh

của người yêu. Cô giáo Diệp trong Đợi đến mùa hoa Phượng đã không ngại hi sinh thân

mình khi một đoàn xe đang bị máy bay địch bao vây tại tọa độ lửa, cần phải có một ngọn

lửa đánh lạc hướng, kéo bom đạn về phía mình, cho đoàn xe an toàn ra tiền tuyến. Trong

Vọng trắng, bộ đội Quỳ đã phải hi sinh danh dự và tình cảm gia đình để trở thành một

người lính tình báo. Những người thân trong gia đình anh đã phải trải qua những tháng ngày

nhục nhã ê chề trước bà con xóm làng vì cái tin anh Quỳ, bộ đội Điên biên phủ, đã vượt

tuyến chạy sang hàng ngũ địch. Xấu hổ và tuyệt vọng, người mẹ già mười bảy năm sống

trong cơn điên loạn. Còn người vợ của bộ đội Quỳ, chưa bao giờ chị tin vào sự thật phũ

phàng ấy, nhưng lại cũng không có gì để vin vào đó mà hi vọng thực ra chồng chị không

phải là kẻ phản bội. Như vậy, chiến tranh, không chỉ có sự mất mát của những con người

phải hi sinh trong cuộc đối mặt với kẻ thù mà còn là cái trăn trở khôn nguôi, nỗi lo và nỗi

đau của những con người ở hậu phương. Vọng trắng là tiếng vọng của những đêm khuya 36

chờ đợi, là niềm hi vọng dù mơ hồ, dù mỏng manh nhưng không gì có thể lay chuyển, là sự

gửi gắm đến người thân yêu nhất. Nhà văn tỏ ra thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với nỗi lòng

của người mẹ, người vợ khi phải đối diện với sự thật nghiệt ngã trong chiến tranh.

Không chỉ có sự sống mà cả những tình cảm cá nhân của con người, những cuộc tình

trai gái, tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình… tất cả đều không tránh

khỏi cái khắc nghiệt của chiến tranh. Một tình yêu đẹp và trong sáng giữa Long và Thùy

Dương chỉ còn là sự hoài niệm khắc khoải trong tâm hồn cô gái tật nguyền (trong Người

thổi kèn Trompet). Một người đàn ông năm mươi tuổi đã phải một mình đối diện với nỗi cô

đơn bên suối Binh Man: “Vợ con và những người ruột thịt của ông đã chết vì bom Napan

trong một đám cháy lớn nhất tỉnh Quảng Bình do đế quốc Mỹ gây ra vào đầu năm 1967.

Cái ngọn lửa trắng ấy đã ám ảnh ông suốt đời”. “Gần hai mươi năm vắng thiếu những hạnh

phúc đời thường nhưng không quên được, không cách gì quên được” (trong Tiếng khèn bè)

[43;221]. Vì chiến tranh mà tình yêu của chú Dũng với cô giáo Thương bị chia cắt. Chú

Dũng đi bộ đội rồi hi sinh, cô Thương chờ đợi trong mỏi mòn, rồi cũng chỉ đành ngậm ngùi

chấp nhận cái sự thật phũ phàng ấy (trong Chuyện sót lại ở thung lũng Chớp ri). Quả thật,

chiến tranh đã gây nên bao cảnh chia lìa, xa cách, để lại cho lòng người những trống trải

không gì có thể bù đắp. Những khao khát về yêu thương về hạnh phúc, cả về tinh thần lẫn

bản năng tự nhiên của con người, đều bị dồn ép, bị đè nén một cách xót xa. Truyện ngắn

Vĩnh biệt mười chín con gà trống là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với người đàn

bà vắng chồng, sống một mình trong căn nhà quạnh vắng suốt mười chín năm. Rồi chồng bà

hi sinh anh dũng tại mặt trận B5, bà trở thành vợ liệt sĩ duy nhất của làng Cò, và cũng là

niềm tự hào duy nhất của làng Cò. Nhưng làm sao người ta hiểu được, người đàn bà ấy đã

phải trải qua mười chín năm chống chọi một cách khổ sở với nỗi cô đơn trống vắng. Người

đàn ông hàng xóm như hiểu rõ nỗi cô đơn của bà. Một kẻ vợ chết bom, một người chết

chồng chết trận đã tìm đến với nhau, lăn xả vào nhau. Nhưng bằng cách gì, bà cũng không

thể trốn chạy khỏi cái nhìn ám ảnh “vừa dịu dàng vừa hờn dỗi” của người chồng quá cố.

Tình cảnh và tâm trạng của người đàn bà trong truyện ngắn này, có thể nói, cũng chính là sự

thật đắng lòng của những người đàn bà chết chồng trong chiến tranh. Trong Những giấc mơ

phải gió, nhà văn đã khiến người đọc phải chạnh lòng trước cái hạnh phúc mong manh của

con người trong chiến tranh. “Mỗi lần tôi ngập vào nàng, chiến tranh chết đứng, chỉ còn

tiếng nàng rên rỉ, đừng có con anh nhé, đừng để em có con. Lúc đầu tôi tưởng nàng sợ bị kỉ

luật, không, một lần nàng áp vào ngực tôi thì thầm, nói em thích có con với anh quá đi mất, 37

nhưng em sợ em chết con nó khổ. Tôi rùng mình, trong suốt cuộc chiến tranh tôi trải qua

chưa lần nào tôi rùng mình, chỉ trừ có lần ấy” [43;82]. Tình yêu giữa cái không khí chiến

tranh khói lửa của người đàn ông ấy chỉ còn là “những giấc mơ phải gió”, cứ day đi trở lại

trong những cơn mộng mị. Nhờ tình yêu đó mà người đàn ông ấy có thể sống, và vẫn sống,

dù là bằng sự đớn đau trong tâm hồn, để có thể đi qua cái khắc nghiệt của chiến tranh.

Trong Hạnh phúc mong manh, chiến tranh cũng đã đem đến cho Thạc và Liên, hai người

lính lạc rừng, cái hạnh phúc bất ngờ trong một đêm mưa gió đầy trời. Rồi cũng chính chiến

tranh đã cướp đoạt cái quyền được hạnh phúc của họ. Thạc không biết Liên đã có với anh

một đứa con. Còn Liên, một người lính nữ bỗng nhiên có thai, cô bị kỉ luật và bị đuổi khỏi

quân ngũ. Cho đến khi họ vô tình gặp nhau ở bến phà, cũng là lúc Thạc theo đơn vị vào

Nam, chỉ kịp biết Liên có sinh cho anh một đứa con mà chưa kịp nhìn thấy nó. Rồi họ bặt

tin nhau từ đó. Ở Bốn mươi chín cây cơm nguội, Nguyễn Quang Lập đã để lại một cảm

giác tê tái buồn thương đến nhói lòng. Một người lính nữ đã từng có những người đàn ông

theo đuổi, nhưng hết người này đến người khác, hoặc là hi sinh, hoặc là vướng mìn. Rồi đến

lúc chị chẳng còn ai theo đuổi nữa, không còn cơ hội tạo dựng hạnh phúc nhưng nhu cầu ái

ân vẫn không thôi ám ảnh chị. Giữa đêm khuya, chị đã lao vào cơn mưa mịt mù, đi như

người mộng du. Chị áp má vào thân cây cơm nguội để tự lừa mình đó là khuôn ngực hay là

gương mặt của người đàn ông, đã mang đến cho chị một cảm giác “mát rượi và ram ráp”

[43;143]. Rõ ràng, chiến tranh dù là sự vây hãm của bom rơi đạn nổ, dù có khốc liệt đến

đâu, dù nhiều mất mát, hi sinh đến mấy cũng không thể dập tắt được khát vọng sống, khát

vọng yêu và được yêu của con người. Nhưng rồi tất cả, tình yêu, sự sống, niềm tin và hi

vọng,… cuối cùng cũng đều trở thành những nạn nhân nghiệt ngã của chiến tranh.

Chiến tranh, không chỉ là nỗi ám ảnh khủng khiếp, kinh hoàng đối với con người

trong những tháng ngày khói lửa mà còn dai dẳng và âm ỉ đến nhức nhối đối với con người

khi trở về thời bình. Chiến tranh đã đi qua, nhưng không cách gì có thể xóa được những

thương tật trên cơ thể đã trở thành những nỗi đau nhức nhối trong tâm hồn con người. Đó là

một cái nhìn mới mẻ, giàu ý nghĩa nhân văn của nhiều cây bút ở giai đoạn này. Truyện ngắn

Tiếng lục lạc của Nguyễn Quang Lập có lẽ là tác phẩm viết về chiến tranh một cách đau xót

nhất. Ở đây không có sự chết chóc, hi sinh, không có những hình ảnh khói lửa, đạn bom,

nhưng lại là nỗi thấm thía về cảnh ngộ đau đớn của đôi vợ chồng anh Chi và chị Lành trước

hậu quả của chiến tranh để lại. Chiến tranh đẩy họ vào cảnh biệt tin nhau. Ngày gặp lại sau

hai mươi một năm thiếu vắng những hạnh phúc đời thường, họ chỉ ao ước có một đứa con 38

trước khi chị không còn cơ hội để sinh nở. Nhưng những cơn sốt rét rừng kinh niên và chất

độc hóa học điôxin khiến chị sinh ra đứa bé là một con người dị dạng: “chân trái cháu bị

gập ra sau, cứng ngắc. Mặt cháu bị bóp méo đến ghê gớm: mí mắt trái phình ra rất lớn kéo

xuống bịt kín toàn bộ gò má. Môi dưới cháu cũng phình to, trệ xuống quá cằm” [43;254].

Chiến tranh, dù phần thắng thuộc về ai, dù sau đó con người đã được trở về hòa bình trong

sự lành lặn, dù đã bình yên với cuộc sống trong hiện tại, nhưng chắc chắn con người hôm nay

vẫn phải gánh chịu những chấn thương từ chiến tranh vọng lại. Sự mất mát đó, sự tổn thương

đó có lẽ còn đau đớn và ghê gớm hơn cả sự hi sinh, nằm lại nơi chiến trường.

Với cảm hứng hiện thực về đời sống chiến tranh, Nguyễn Quang Lập, cũng như các

nhà văn cùng thời khác hầu như đều không quan tâm đến sự sống còn của quốc gia, dân tộc.

Không phải vì điều đó không quan trọng. Mà họ cho rằng, đã đến lúc chiến tranh cần được

nhìn nhận từ góc độ đời tư của con người, từ những nỗi đau cá nhân, những hậu quả nặng

nề, những mất mát đau thương mà con người phải gánh chịu. Với đề tài chiến tranh, những

vấn đề, góc cạnh được nhà văn đặt ra ở đây hoàn toàn không xuất phát từ ý thức hệ mà xuất

phát từ góc độ văn hóa nhân bản. Nhà văn đã cảm nhận chiến tranh như một sự phi lý khủng

khiếp vì nó gây ra bao đau khổ, bi kịch với những số phận cá nhân cụ thể.

2.1.2. Số phận con người trong suy cảm của nhà văn

Không phải chỉ có chiến tranh mới khắc nghiệt với con người mà ngay chính cuộc

sống đời thường vốn dĩ cũng đã tồn tại trong lòng nó những phức tạp, dị nghịch, ám ảnh

không nguôi đối với con người. Dù viết về chiến tranh, hay cuộc sống của con người đi qua

chiến tranh thì mối quan tâm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang Lập vẫn hướng đến con

người với tư cách là một cá nhân riêng lẻ. Nhưng điều đáng nói là trong tác phẩm của

Nguyễn Quang Lập dường như không có bóng dáng của con người hạnh phúc, con người

lành lặn, vẹn nguyên cả về thể xác lẫn tinh thần. Mà hiện lên trong tất cả là cái tuyệt vọng,

nỗi cô đơn, sự đau đớn, cảnh thảm kịch,… Có những cuộc đời, những số phận bị chôn vùi,

bị hủy diệt. Có những con người vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng đều mang những thương tật,

những đớn đau trong tâm hồn.

Lão Thiệt trong truyện ngắn Ngày xửa ngày xưa chính là hiện thân của cái tuyệt

vọng, của thân phận bị lãng quên, của nỗi cô đơn ghê gớm nhất trong mọi nỗi cô đơn. Bộ

đội giải phóng đã đưa tất cả những người dân còn lại của làng Mùi về đồng bằng, chỉ còn

sót lại mỗi mình lão Thiệt. Nhưng lão vẫn kéo dài sự sống mù lòa trong không gian phủ đầy

39

cỏ tranh. Mọi sự hăm dọa của dã thú không làm lão sợ hãi bằng nỗi cô đơn khủng khiếp mà

lão đang trải qua. Suốt hai năm trời sống cô độc ở chốn thung lũng không người, lão bỗng

thấy “thèm người”. “Phải về với đồng bằng thôi”, “về xuôi, phải về xuôi, về với mọi người”,

lão hăm hở nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng vạn lần như thế trên con đường tiến về với loài

người. Nhưng người đã ngoảnh mặt với lão, không một ai đón nhận lão. Người ta cười

nhạo, người ta bực dọc, người ta bỏ đi trước một lão già mù chẳng biết mình đang đi đâu,

tìm ai, chỉ khóc và mếu máo: “tôi về với mọi người” như một gã điên. Người đàn bà của lão

tìm đến nhưng rồi cũng bỏ rơi lão. Lão bò đến một cái dốc, như “một con vượn mù ngồi trên

chạc ba cây dẻ ở đỉnh dốc ngửa cổ cười suốt ngày. Cười đến ngày thứ một trăm thì rơi

xuống chân dốc, chết đáng thương như một con người” [43;26]. Phải chăng, trong cái tận

cùng của cuộc sống ấy, lão mới đích thực là một con người? Chiến tranh tàn khốc đến mấy

lão cũng đã đi qua được, sống cô độc và gian khổ đến mấy lão cũng vẫn sống được. Vậy mà

khi đến với con người, đến với cộng đồng, lão lại bị tách biệt, bị ghẻ lạnh, bị lãng quên

trong chính đồng loại của mình, lão chỉ có thể chết như một sự tất yếu.

Cảm thức về nỗi cô đơn, bị lãng quên, bị bỏ rơi còn được thể hiện qua truyện ngắn

Tiếng gọi phía mặt trời lặn, một truyện ngắn khá xúc động của nhà văn Nguyễn Quang Lập

về một con chim có số phận đặc biệt. Con chim vẹt tên Hơ-rê được nhà văn nhân hóa như

có linh hồn, có cảm xúc, cùng gắn bó và hi sinh trung thành với con người trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ. Nhưng khi mọi người say sưa vui mừng với chiến thắng, người ta đã quên

mất sự tồn tại của nó… Qua hình ảnh cánh chim cô đơn, lạc loài, nhà văn đã tạc nên cái

tuyệt vọng, cái đau đớn của một thân phận bị lãng quên, bị bỏ rơi. Thân phận ấy không chỉ

bó hẹp ở lão Thiệt hay con chim Hơ-rê mà đã trở thành cảm thức, sự ám ảnh của con người

trong cuộc sống, được nhìn qua cảm quan hiện đại của nhà văn. Trong truyện ngắn Đợi đến

mùa hoa phượng, giữa cái thung lũng tù túng, tối tăm và tẻ nhạt, mỗi nhân vật cũng là một

hiện thân của cái cô đơn, tuyệt vọng. Một ông hiệu trưởng bất đắc dĩ, suốt ba chục năm ở

nơi hẻo lánh chưa từng được nếm trải cái vị hạnh phúc của sự yêu thương, để rồi chỉ muốn

ngập chìm phần đời còn lại của mình trong men rượu. Một cô nữ sinh với tuổi thiếu thời

nhiều mộng tưởng điên rồ và xuẩn ngốc, chờ đợi một người đàn ông đẹp như các hiệp sĩ

trong các sách tập đọc. Để rồi phát hiện ra đó là người yêu của cô giáo mình, nhìn thấy cảnh

họ đang quấn lấy nhau, ghì chặt nhau dưới lòng suối, cô trở nên kinh tởm và căm thù cô

giáo, tự biến mình thành một cái bóng nham nhở, sống nghi kị trong cái vỏ bọc tăm tối, chật

hẹp của chính mình. Đó cũng chính là cảm quan chung của nhiều nhà văn hiện đại. Đối với 40

họ, cuộc sống đang ngày càng trương lên những mảng thô ráp, xù xì, khiến con người phải

không ngừng vật lộn với nó trong cái hành trình đi tìm hạnh phúc cho mình.

Bước qua chiến tranh, trở về với cuộc sống thời bình, nhưng dường như con người

trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập chẳng bao giờ được yên thân. Họ thường phải nhận

lấy một cuộc đời nghiệt ngã, một số phận bi kịch, hoặc phải vật vã chống chọi với những cái

tréo ngoeo, bất hạnh giữa đời thường. Trong Tiếng khèn bè là cuộc gặp gỡ đáng thương

giữa một người đàn ông sống cô độc và một cô giáo bị một gã Sở Khanh làm cho trở nên

điên dại. Tiếng khèn bè của người đàn ông ấy đã cứu rỗi linh hồn đớn đau của cô giáo. Hai

con người khốn khổ đã vô tình tìm thấy nhau trong cái cảm giác yêu thương, hạnh phúc

ngọt lành. Nhưng thật mong manh và chóng vánh khi gã Sở Khanh kia lại xuất hiện, khiến

cơn điên loạn của cô giáo dường như không còn cách nào có thể cứu vãn được nữa. Lòng

nhân ái của người đàn ông chỉ còn là một giá trị đơn độc, cô lẻ, nó quá mỏng manh và yếu

ớt giữa cuộc sống hiện đại, xô bồ với lắm thứ tầm thường, giả dối và ích kỉ của con người

mà chính gã Sở Khanh, vốn là một tên lái buôn trong dáng vẻ của một khách du lịch hạng

sang, là một sự đại diện. Trong truyện ngắn Hạnh phúc mong manh, sau ngày giải phóng,

Liên bỏ quê, một mình dẫn con đi khắp nơi tìm bố cho nó, ăn nhờ ngủ đậu khắp đầu đường

xó chợ. Suốt sáu năm ròng rã, sau nhiều lần gõ cửa nhầm hàng trăm nhà thì cuối cùng Liên

cũng tìm gặp được Thạc. Nhưng trớ trêu thay, anh đang sống cùng người vợ mới của anh.

Cuộc chạm trán nảy lửa giữa hai người phụ nữ chung chồng; sự day dứt khó xử của người

đàn ông bị kẹp giữa với trách nhiệm của người làm chồng, làm cha; niềm vui ngây thơ của

đứa con thèm được có ba;… tất cả chồng chéo lên nhau trong căn nhà chật hẹp. Những con

người ở đây đang phải đối diện với một cuộc chiến dữ dội và khốc liệt giữa cuộc sống đời

thường: đó là bi kịch tình yêu và gia đình.

Cảm hứng về con người với cuộc sống đời tư và số phận bi kịch của họ giữa đời

thường đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của nhiều nhà văn, và cũng là một trong

những đặc điểm nổi bật của văn xuôi giai đoạn sau 1975, thể hiện một cái nhìn nhân đạo,

nhân bản đối với con người. Cuộc sống đời thường mở ra những bộn bề, lo toan, những mối

quan hệ phức tạp, chồng chéo, những cảnh huống đầy mâu thuẫn, éo le. Ở đó, nhà văn đã

không ngần ngại phơi bày cả sự hèn hạ, tầm thường của con người.

Ông lái đò trong truyện ngắn Đò ơi vừa là con người cô đơn, vừa là con người tội

lỗi. Chỉ vì trong một lúc không thể chống chọi với nỗi cô đơn và những khao khát của bản

41

năng mà ông đã trở thành kẻ hiếp dâm. Người phụ nữ ấy đã phải gánh lấy tất cả nỗi nhục

nhã, đớn đau, bị gia đình chồng khinh rẻ đuổi đi, sống một mình nuôi con và nhận lấy mọi

tiếng xấu của người đời. Trong khi đó ông lái đó vẫn ung dung được người đời kính trọng

với cái danh “người anh hùng trên sông nước”, “người lái đò kiên cường”, “người đảng

viên trung kiên”,… Để rồi bây giờ, ông phải sống một cuộc đời cô độc với nỗi đau của lòng

tự trọng, sự day dứt của lương tâm. Ông lái đò và hoàn cảnh của ông thuộc kiểu nhân vật tự

sám hối, nhân vật tự thú, là xu hướng chung khá mới mẻ của văn học Việt Nam đương đại

trong nỗ lực giúp con người tự hoàn thiện về nhân cách. Nhân vật phải tự mình phán xét

hành động của mình, tự mình tra vấn, đối diện với lương tâm của mình mà không cần đến

những áp lực xã hội. Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam là sự tự phán xét của

lương tâm trước hai chiều thời gian quá khứ và hiện tại. Ở Bức tranh của Nguyễn Minh

Châu là con người đối diện với chính mình, đang bị “tòa án lương tâm” phân xử tư cách con

người của anh ta trong vai trò một họa sĩ quan hệ với số đông người và đơn thuần là một

người đi đường trong quan hệ với cá nhân anh thợ cắt tóc. Và trong truyện ngắn Đò ơi, ông

lái đò đang phải khốn khổ tự vấn lương tâm mình với “năm mươi hai năm sống lương thiện

và một giờ gây tội ác” [43;162]. Nhà văn đã không để người phụ nữ ấy tố cáo, và ông lái đò

sẽ phải chịu lấy một bản án thông thường cho tội hiếp dâm, mà đã chọn cách giam cầm ông

lái đò vào cái án chung thân cho những ám ảnh đêm khuya day dứt.

Các tác phẩm Người đàn bà đau đớn, Sa mạc trắng, Chuyện không có trong sự

thật của Nguyễn Quang Lập là những truyện ngắn có sức ám ảnh đối với người đọc về

“chân dung con người” trong văn học giai đoạn sau 1975. Ở đây, con người hiện lên như

những thảm kịch, chồng chéo giữa cái thiện và ác, tốt và xấu, giữa phần con và phần người,

giữa đời sống xã hội và đời sống bản năng, có những góc khuất bí ẩn trong đời sống tự

nhiên, đời sống tâm linh khó có thể lý giải. Những người đàn bà ngoại tình, những người

đàn ông chung chạ với vợ kẻ khác, những con người khao khát được sống thực với cái phần

bản năng của mình để rồi phạm phải những sai lầm, tội lỗi,… nhưng không có nhân vật nào

được coi là chính diện hay phản diện, dưới ngòi bút của nhà văn, tất cả họ đều là những con

người đáng thương, khốn khổ. Ở các truyện ngắn này, Nguyễn Quang Lập đã nghiêng về

phần đời sống tự nhiên và tô đậm cái phức tạp của con người, có những đột biến tâm lí, tính

cách, những hành động bất ngờ không thể đoán trước được. Con người hành động có khi

theo sự chỉ huy của ý thức, của lý trí tỉnh táo, nhưng cũng có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói

42

tâm linh, của vô thức, của bản năng. Để rồi cuối cùng, họ trở thành hiện thân của một thảm

kịch.

Trong một số truyện ngắn đậm chất “khẩu văn” mà Nguyễn Quang Lập gọi là

“Chuyện nhà quê”, ông vẫn dành sự ưu ái quan tâm đến con người đời thường với cuộc

sống đời tư và bi kịch cá nhân của họ. Xóm gái hoang là thân phận của những người phụ nữ

bị đẩy ra bên lề cuộc sống. Người thì chồng chết, bị lính Mỹ cưỡng hiếp; người thì bị quyền

lực ức hiếp đến bước đường cùng; người thì lấy phải một anh chồng bị down, gần như

không có những khả năng của một con người bình thường, tất cả họ dọn ra một nơi sống bị

tách biệt với mọi người. Ở Chuyện tình anh cu Đom là thân phận tủi nhục ê chề của cô

giáo Lý. Vì trót tin và yêu lầm một tên khốn nạn, xấu hổ và nhục nhã, cô đã đi mãi không

thấy trở lại, người ta bảo cô ra suối tự tử nhưng không tìm thấy xác. Chuyện đời lắm nẻo lại

là cái tréo ngoeo của một chuyện đời cười ra nước mắt. Một cô Điếm làm vợ chung cho hai

anh em mù. Nghe lời dụ dỗ của một gã đàn ông khác, cô đã lừa hai anh em họ để chiếm lấy

căn nhà nhưng rồi chính cô cũng trở thành nạn nhân của người đàn ông ấy. Bằng một giọng

kể dửng dưng và cái cười hóm hỉnh, như đang đùa cợt với những chuyện được kể, nhà văn

tỏ ra khá quen thuộc với cái gọi là bi kịch, là ngang trái đủ đường, “lắm nẻo” ở cuộc đời. Đã

quá quen thuộc nhưng sao vẫn thấy chua chát.

Có thể thấy, ám ảnh trong các sáng tác của Nguyễn Quang Lập là nỗi cô đơn, sự

tuyệt vọng cứ day đi, trở lại và những thảm cảnh, những bi kịch được bày la liệt giữa cuộc

đời. Đó không chỉ là những hậu quả kéo dài từ chiến tranh mà còn là những hệ quả tất yếu

của cuộc sống sôi động, đa chiều, muôn vẻ. Hiện lên trong đó là con người đời thường, con

người phàm tục, con người bản năng, con người không hoàn hảo, con người khao khát được

sống tự nhiên,… Không chỉ ở Nguyễn Quang Lập, mà trong các sáng tác của Nguyễn Huy

Thiệp, Phạm Thị Hoài, cảm hứng về con người với số phận bi kịch ngổn ngang giữa cuộc

đời đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo. Cách nhìn cuộc đời như một thảm kịch, một bế

tắc ở các nhà văn này xuất phát từ những ám ảnh của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học

đương đại. “Từ nền tảng, hiện sinh đã là một khiếm khuyết, do đó, đời là một bất đắc dĩ, là

một sa ngã, một bỏ rơi, do vậy từ khởi thủy hiện sinh là một đau khổ, một thảm kịch”

[17;159]. Nhưng nhà văn Nguyễn Quang Lập, cũng như các nhà văn khác, họ nói về nỗi sô

đơn, sự tuyệt vọng, thảm kịch của con người không phải bằng sự chán ngán, tuyệt vọng, bi

quan về cuộc đời mà với mong muốn được hoàn thiện con người từ góc độ nhân bản. Và nói

43

như Nguyễn Minh Châu: nhà văn tồn tại trên đời với thiên chức “nâng giấc cho con người

cùng đường tuyệt lộ, cái ác của số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những

con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin

vào con người và cuộc đời”[12;139].

2.2. Sự ngộ nhận về lý tưởng và những bi kịch cá nhân

Một trong những khuynh hướng nổi bật của văn học thời kì đổi mới là khuynh hướng

nhận thức lại hiện thực, lấy lịch sử – quá khứ làm đối tượng phân tích. Vì vậy, nhiều khi

những biến cố lịch sử chỉ còn là những yếu tố ngoại cảnh trong mối quan hệ với số phận con

người. Tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập là tác phẩm dựng

lên một hiện thực xã hội trong một thời kì đổi mới của đất nước. Không khí chiến tranh, yếu

tố lịch sử bị đẩy xuống làm nền, nổi bật lên trong tác phẩm là chủ đề sự ngộ nhận về lý

tưởng và bi kịch cá nhân trong bối cảnh xây dựng Chủ nghĩa Xã hội vào những năm 60 của

thế kỉ trước. Với khuynh hướng nhận thức lại hiện thực, nhà văn đòi hỏi ở người đọc một

cái nhìn khách quan về hiện thực ở một thời đại của xã hội không phải chỉ có những giá trị

đẹp đẽ mà còn có những mặt tồn tại, hạn chế trong lòng xã hội ấy.

2.2.1. Bi kịch ngộ nhận về lý tưởng của con người và thời đại

Một thời đại trong quá khứ được dựng lên trong tác phẩm. Ở đó, người ta hô hào và

nhiệt tình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội với mong muốn đem lại một xã hội mới, cuộc sống

mới với những điều đẹp đẽ và lý tưởng, đặc biệt chú trọng quyền tự do của con người.

Nhưng trên thực tế, một bộ phận trong xã hội ấy, một bộ phận trong những con người đang

nắm giữ vai trò làm chủ tập thể, họ chỉ có lòng quyết tâm mà thiếu đi sự hiểu biết về Chủ

nghĩa Xã hội. Chính điều đó đã vô tình gây ra những hậu quả khủng khiếp và đau lòng cho

cái xã hội tốt đẹp mà con người mong muốn tạo dựng: Quyền sống, quyền tự do của con

người chưa được thực hiện một cách thỏa đáng, thậm chí còn ít nhiều bị o ép, bị biến dạng

do những hạn chế trong quan điểm, tư tưởng.

Bi kịch của thời đại được thể hiện tập trung qua nhân vật Đại úy Thìn, cùng với Chủ

tịch thị trấn Lê Đức Huy, là những người đại diện cho lớp người đang nắm giữ vai trò làm

chủ tập thể. Tuy nhiên, Đại úy Thìn chỉ là một nông dân mà nhờ vào sự liều mạng ông đã

đánh Đông, dẹp Bắc, làm nên uy danh đáng nể trong thời kháng Pháp. Còn Chủ tịch thị trấn

Lê Đức Huy thực chất chỉ là một anh bần cố nông dốt nát, với lí lịch ba đời cùng khổ nên

44

được đánh giá là con người trong sạch, đáng để tin cậy. Rõ ràng, cái cương vị mà họ có

được chỉ nhờ vào sự may mắn, chứ không phải bằng tài năng hay trí tuệ. Nắm trong tay cái

trọng trách làm chủ và xây dựng tập thể nhưng lại hạn hẹp về hiểu biết và yếu kém về khả

năng nên họ chỉ có thể nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội một cách hình thức, máy móc, cũng

là lẽ tất nhiên.

Cái thời đại mà những con ấy đang đại diện, bắt người ta nếu yêu Chủ nghĩa Xã hội

thì phải yêu đúng như họ đang yêu, bắt làm sao thì phải làm vậy. Để xây dựng một Chủ

nghĩa Xã hội trong sạch và lành mạnh, họ chỉ cho phép hát những bài ca cách mạng, những

bài hát yêu nước đòi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vẽ những bức tranh về anh

bộ đội, chị nông dân giơ cao cái liềm, anh công nhân cầm cái búa,… Ngược lại, những bản

nhạc vàng, những bài thơ lãng mạn đều bị xếp vào loại tư tưởng độc hại, những bức tranh về

chủ đề tình yêu cũng bị coi là phản động. Và như vậy, người ta đã vô tình xây dựng một xã

hội chỉ có tính chất minh họa, hình thức, quyền tự do của con người chưa được quan tâm

một cách thỏa đáng. Ngay đến cái việc nhớ ngày sinh của mình, người ta cũng chỉ dám nhớ

đến khi phải kê khai lý lịch hay làm hộ khẩu. Còn việc tổ chức kỉ niệm sinh nhật sẽ bị coi là

trò nhảm nhí, là “sặc mùi tư sản thực dân”. Họ luôn làm rối lên những việc đơn giản nhất,

sợ phức tạp, sợ rắc rối nhưng lại nghi ngờ tất cả những gì dễ hiểu và đơn giản. Chỉ mỗi việc

ông Thanh, bí thư huyện ủy say rượu trong quán thịt chó cũng bị coi là kinh khủng, là mất

thanh danh, là không còn vai trò người cộng sản, thậm chí điều đó còn bị đem ra thảo luận,

mổ xẻ trong Đảng bộ, ông Thanh bị kết tội “sa sút nghiêm trọng ý chí tiến công cách mạng

của người Đảng viên Cộng sản” [47;172] một cách khiên cưỡng.

Tác phẩm dựng lại một thời đại xây dựng xã hội mới, cuốc sống mới, nhưng thật

không khó để người đọc có thể nhận ra trong đó là sự ràng buộc về quyền tự do chân chính

của con người. Một cuộc sống bế tắc, ngột ngạt đang vây hãm, con người như đang bị “uy

hiếp” bởi những quan điểm đã cũ kĩ, lạc hậu. Con người với tư cách là một cá nhân riêng tư

và độc đáo dường như vẫn còn đang bị xem nhẹ.

Để lý giải cho sự hạn chế về tầm nhận thức của một bộ phận đang nắm giữ vai trò

quan trọng trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, nhà văn đã mượn lời của nhân vật

Bí thư huyện ủy Thanh bày tỏ sự ngán ngẩm, mỏi mệt và bế tắc về một lý tưởng xã hội ảo

tưởng, hình thức, chỉ có tính chất minh họa. Ở đó, ông buộc phải làm việc với “các bài nghị

quyết vô bổ, các bài diễn văn vỗ về dân chúng, những trò phú phiếm cờ đèn kèn trống mà

45

ông đã bịa ra để cố chứng minh đời sống chúng ta mới tốt đẹp làm sao, các tràng vỗ tay

đánh lừa nhau, những kẻ xun xoe nhau, những kẻ có học nhưng ương bướng và những

thằng ngu luôn sẵn sàng nhất trí cao ý kiến của ông” [47;252]. Những người có tấm lòng,

có tài năng, nhiệt huyết ngày càng trở nên bất mãn với cái xã hội mà họ hiểu và hiểu lắm về

nó. Họ cứ bị gạt dần ra bên lề xã hội, bị đẩy lùi lại phía sau như bí thư huyện ủy Thanh hoặc

phải tỏ ra “biết điều” để được an phận với cái vị trí của mình như Trưởng ban văn hóa thông

tin Bỉ. Nhân vật Bí thư huyện ủy Thanh có thể nói chính là cái loa phát ngôn của nhà văn

Nguyễn Quang Lập đang nói lên nỗi xót xa của mình trước thời cuộc: “Các anh còn hạn chế

quá nhiều về nhận thức. Người ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng mo cơm và

tấm lòng cộng sản, còn trí tuệ chỉ là cục đá vôi” [47;232].

Đằng sau những khiếm khuyết đó là một nỗi xót xa vô vàn của chính người cầm bút.

Ghi nhận lại một chế độ làm việc còn mang tính hình thức và những con người được nhào

nặn theo một khuôn mẫu định sẵn trong xã hội, nhà văn không cố ý khinh rẻ, coi thường họ.

Mà cái chính ở đây ông muốn lý giải về nguyên nhân của tầm nhận thức còn hạn hẹp, sự

hiểu biết còn nông cạn, dẫn đến việc nhận thức hạn chế về quyền sống, quyền tự do của con

người.

Nói về sự lệch lạc, hạn chế ở một bộ phận còn yếu kém trong một thời đại xã hội,

nhưng nhà văn không nhằm vào việc chỉ trích, mỉa mai hay phê phán, mà tất cả đều xuất

phát từ tấm lòng mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp, những giá trị chân chính, đúng

với nguyện vọng chính đáng của con người về một lý tưởng xã hội đúng đắn. Chính vì vậy

mà trước một thực trạng đau lòng của xã hội, nhà văn đã không khỏi trăn trở và day dứt về

nó: “Chính tư tưởng nông dân đang là căn bệnh nguy hiểm tràn lan toàn xã hội” [47;234],

nó đã nhiễm thành máu. Đó là căn nguyên đẩy con người đến tình trạng ngột ngạt, bức bối,

khó mà sống được, ở một thời đại lẽ ra rất đáng sống.

2.2.2. Bi kịch cá nhân: con người bị sai lệch nhân cách

Để làm nổi bật bi kịch của một thời đại, nhà văn đã dựng nên trong tác phẩm các

cuộc mâu thuẫn, xung đột giữa hai thế hệ già và trẻ, giữa các quan niệm sống khác nhau,

“giữa những người có quá khứ oai hùng và những người không được quyền có quá khứ,

giữa lớp bần cố nông đang làm chủ tập thể và lớp trí thức tiểu tư sản đang bị quê hương

ruồng bỏ” (Thụy Khuê)… Và dù là thế hệ nào, giai cấp nào, lớp người nào đi nữa thì họ đều

trở thành những nhân vật bi kịch của thời đại. Hầu như, không một ai được sống đúng với

46

bản chất, tính cách con người thực của mình, và cũng không được xếp đúng cái vị trí mà lẽ

ra họ nên có. Không ít những con người trong thời đại ấy của xã hội đã trở thành những

nhân vật dở khóc dở cười với những số phận bi kịch, ngang trái.

Trước hết, đó là bi kịch của một số người đang đứng trong hàng ngũ những người

làm chủ tập thể: họ có vai trò, vị trí cao trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, có

nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững sự trong sạch của xã hội ấy nhưng lại là những người thiếu

hiểu biết, hoặc hèn nhát, trở thành những kẻ vô tích sự, dẫn đến sự lầm đường, lạc lối, tiếp

tay cho những kẻ cơ hội lợi dụng. Đại diện cho kiểu người này là Đại úy Thìn và chủ tịch

thị trấn Lê Đức Huy.

Nhân vật Đại úy Thìn luôn cố gắng tỏ ra mình là người xứng đáng được tin tưởng

giao cho những nhiệm vụ quan trọng, xứng đáng là một trong những người đi đầu trong

công cuộc xây dựng và bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội. Nhưng Đại úy càng cố chứng tỏ bản thân

thì lại càng không giấu được sự yếu kém về năng lực và nhận thức. Sự kém cỏi của Đại úy

bắt đầu từ cách nhìn nhận và phân chia toàn bộ dân thị trấn thành hai tầng lớp người mà chỉ

dựa vào lý lịch, hoàn cảnh xuất thân. Ông kì thị những trí thức tiểu tư sản, luôn coi họ chỉ là

những kẻ phá hoại Chủ nghĩa Xã hội. Do đó, Đại úy đã vô tình xem nhẹ tài năng, trí tuệ và

sự cống hiến của con người, vốn là những nhân tố thiết yếu cho công cuộc xây dựng Chủ

nghĩa Xã hội.

Cái đáng trọng ở Đại úy Thìn là sự hiện hữu một lòng nhiệt tình vô cùng đối với Chủ

nghĩa Xã hội. “Đại úy si mê chủ nghĩa xã hội, lúc nào cũng nói về nó với nỗi thèm khát bốc

cháy” [47;35]. Đó là một phẩm chất đáng quý ở Đại úy nói riêng, và ở vị trí của người đang

giữ trọng trách làm chủ tập thể nói chung. Tuy nhiên, sự say mê nhiệt tình đó đã bị đẩy đến

mức cực đoan khi ông coi những bản “nhạc vàng” và những bài thơ “lãng mạn” mà thím

Hoa, vợ ông hay hát hay đọc chỉ là loại tư tưởng độc hại. Đối với Đại úy, đó là “loại nhạc tư

sản hòng ru ngủ con người quên mất nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ Tổ

quốc Xã hội Chủ nghĩa” [47;37]. Ông “gai mắt” khi thấy vợ mặc váy ngủ. Những đôi giày

cao gót vợ ông mua cho con gái đều bị ông chẻ sạch. Đại úy còn giáo dục vợ con đủ điều:

ăn, uống, nói, cười, vui chơi, đi đứng… nhất nhất phải đứng trên quan điểm giai cấp vô sản.

Cả ngủ cũng phải như thế, nhất cử nhất động, răm rắp.

Lòng nhiệt thành quá mức đối với Chủ nghĩa Xã hội đã khiến Đại úy sẵn sàng gạt bỏ

mọi cảm xúc cá nhân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương của chính mình để tôn thờ cái trách

47

nhiệm của một người cộng sản mà chính Đại úy đang ngộ nhận về nó. Ông chỉ một mực làm

tròn những trách nhiệm của một người gắn trên vai cái quân hàm cao nhất ở thị trấn này,

còn lại những chuyện đời tư, những cảm xúc cá nhân đều bị Đại úy coi là tầm thường, vụn

vặt. Sau trận hành hạ tinh thần lẫn thể xác thím Hoa và họa sĩ Tư, Đại úy cũng biết đau xót

nhận ra mỗi lúc một sâu sắc tính chất sai lầm về những ứng xử của mình, Đại úy hiểu rằng,

“Mình không xứng đáng là một con người cộng sản. Người cộng sản không những biết kiên

quyết đấu tranh mà phải biết bao dung và độ lượng” [47;114]. Nhưng nếu phải làm gì đó để

chuộc lỗi hoặc chỉ để xoa dịu những tổn thương và đớn đau của vợ ông, của họa sĩ Tư thì

ông tuyệt nhiên không làm được. Có lẽ vì nó sẽ làm mất đi cái uy danh của vị đại úy như

ông, làm sụp đổ hết những gì mà ông đã cố công xây dựng. Vậy nên, ông vẫn ngẩng cao đầu

trong cái tư thế mình luôn đúng, mình đã làm tròn cái trách nhiệm lớn lao là bảo vệ sự sạch

sẽ, thơm tho của Chủ nghĩa Xã hội. Thậm chí, khi ông nhìn thấy con gái rũ xuống đất gọi

“Ba”, quằn quại trong đường đêm, ngực ông bỗng nhói lên một nỗi xót xa cho số phận hẩm

hiu của mình nhưng nỗi xót xa ấy cũng chỉ nhói lên một giây rồi thôi, bởi vì ông nghĩ “mình

không được phép mềm yếu dù bất kỳ hoàn cảnh nào” [47;191], rồi ông “cắm cổ” đạp xe đi,

mặc kệ con gái đang tuyệt vọng, đau xót với nỗi cô đơn. Sự tôn sùng đến mức si mê phải

chăng đã chế ngự đến cả tình cảm cha con, cái tình cảm rất người trong Đại úy, vô tình biến

Đại úy thành một con người xa lạ, lạnh lùng đến mức tàn nhẫn với cả những người thân yêu

nhất của mình, sẵn sàng dẹp bỏ cả tình thương, lòng nhân ái.

Bi kịch hơn nữa là sự diễn ra liên tiếp các trận chiến bại của trung đoàn do ông chỉ

huy khi chiến tranh xảy ra. Đó là hệ quả tất yếu của sự liều mạng, may mắn mà nhờ đó ông

đã đánh Đông, dẹp Bắc thời kháng Pháp, bây giờ nó đã trở nên vô tác dụng. Và đó cũng là

nguyên nhân tất yếu cho sự thất bại thảm hại của Đại úy về khát vọng xây dựng xã hội.

Đại úy dần mất đi vị thế trong chiến đấu, bạn bè, người thân cũng dần xa lánh. Họa sĩ

Tư đã không che giấu sự phẫn nộ về những nhận thức còn hạn chế của đại úy “có ngày

người ta buộc phải gọi anh là… là con bò đực đáng thương của Chủ nghĩa Xã hội mà thôi”

[47;39]. Bí thư huyện ủy Thanh có lần bẽ bàng nói với đại úy: “Anh quá lơ mơ về Chủ nghĩa

Xã hội, thế mà lúc nào cũng đòi bảo vệ nó” [47;189]. Thím Hoa chỉ trích Đại úy: “Ba nó

luôn luôn nói Chủ nghĩa Xã hội là ưu việt, thế mà động tí là bỏ tù” [47;38]. Đứa con gái

cũng thẳng thừng phản kháng cách giáo dục ba mình. Đại úy Thìn bị lâm vào tình thế cô

đơn, hoàn toàn bị cô lập trong cái xã hội mà chính ông là người cố công gầy dựng và một

48

lòng trung thành với nó, hay nói đúng hơn là Đại úy đã tự cô lập mình. Cuối cùng, Đại úy

chết trong sự cô đơn và thất bại thảm hại như một sự tất yếu. Có thể nói, Đại úy muốn dành

cả đời mình để cống hiến cho xã hội, đó là một ý nguyện đẹp đẽ, nhưng tiếc rằng ông chỉ có

tấm lòng và sự nhiệt thành mà thiếu đi năng lực và còn hạn chế rất lớn về tầm hiểu biết.

Chính điều đó đã dẫn đến những quan điểm chủ quan, mang tính áp đặt, cứng nhắc, làm

méo mó, biến dạng tấm lòng cộng sản của Đại úy một cách đáng thương, tội nghiệp. Lòng

trung thành và sự nhiệt tình của ông chỉ còn là những giá trị vô nghĩa, thậm chí còn trở

thành mối nguy hại cho công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới xã hội.

Cùng tuyến với đại úy Thìn là Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy, người được coi là đại

diện của nhân dân, và là người đáng tin cậy duy nhất của đại úy Thìn. Ông có một quá khứ

vừa đau khổ vừa buồn cười, là một anh bần cố nông, nhờ có cái lý lịch thật trong sạch với

ba đời cùng khổ mà ông được sắp đặt cho nhà cửa, vợ con, địa vị. Nhân vật hiện lên trong

tác phẩm đã tự bộc lộ bản chất dốt nát, hèn nhát và tầm thường, hoàn toàn khập khiễng, trái

ngược với cương vị của mình. Đối với ông, chỉ huy chiếc xe đạp là cả một nghệ thuật, vẽ

cho được một cái chữ thì toát cả mồ hôi. Khi tiếp cận những bức tranh của họa sĩ Tư, ông

không hề chú ý đến những dòng chữ tên đề tài của bức tranh mà chỉ nghiên cứu “nội dung”

các bức tranh qua các “bộ phận bôi bác” của đàn bà rồi thốt lên “chỉ có đàn bà hàng tỉnh

thứ nào thứ ấy mới như thế này chứ nhân dân lao động thị trấn làm gì có” [47;29]. Đó là lời

nhận xét xác đáng và phù hợp với nhận thức của một anh cu Lùn hơn là một Chủ tịch thị

trấn, thể hiện và làm nổi bật sự dốt nát của nhân vật. Khi chiến tranh diễn ra mỗi lúc một ác

liệt, cả thị trấn Linh Giang tan tác trong bom đạn, khói lửa, ông Huy trốn mình dưới hầm cá

nhân. Trong khi bộ đội đối mặt với máy bay từng giây từng phút, người dân cứu vớt những

người gặp nạn thì ông Huy, ông Chủ tịch thị trấn khi thì trốn trong cái cống nước, khi thì

rúc dưới gầm bàn, suốt ngày chui nhủi trong các hầm hào công sự, bụi rậm không dám ló

mặt ra. Đến lúc này, ông không còn biết liêm sỉ là gì nữa, mà trở về bản chất của Cu Lùn,

dõng dạc tuyên bố trước mọi người: “tôi là Cu Lùn, Cu lùn,… không Lê Đức Huy, Lê Đức

Hiết gì cả” [47;245]. Với hoàn cảnh xuất thân, bản chất và tư cách như ông Huy, thử hỏi

làm sao có thể đặt vào đó cái trọng trách của người bảo vệ và xây dựng tập thể.

Đối lập với bi kịch của những người đang nắm quyền làm chủ tập thể là bi kịch của

những người có kiến thức, hiểu biết, sẵn sàng sống chết hiến thân vì Chủ nghĩa Xã hội

nhưng lại bị gạt ra bên lề xã hội, chẳng thể làm được gì cho cái xã hội ấy. Họ đau đớn, quằn

49

quại khi nhìn những kẻ vô tích sự lúc nào cũng như cái loa phát thanh về Chủ nghĩa Xã hội

nhưng kỳ thực lại chẳng hiểu gì về nó. Họ buộc phải làm những việc mà chính bản thân họ

phải thấy khinh bỉ, xem thường. Càng muốn vùng vẫy, đấu tranh, họ lại càng trở nên bất lực

và chán ngán, dẫn đến tư tưởng hoặc là buông xuôi trước thời cuộc, hoặc là liều lĩnh, bất

cần và chống đối. Đại diện cho kiểu người này là Họa sĩ Tư, Bí thư huyện ủy Thanh và thím

Hoa.

Họa sĩ Tư là nhân vật đại diện cho giới trí thức, nhận thức sâu sắc về bản chất của

Chủ nghĩa Xã hội. Họa sĩ chưa một lần nghi ngờ cách mạng và xã hội mà mình đang sống.

Họa sĩ chỉ thấy “ngứa ngáy, khó chịu” về những cá nhân kém cõi đang giữ những vị trí quan

trọng trong xã hội mình tin yêu. Những cá nhân ấy lại đang mặc nhiên được số đông coi

trọng, đang có uy tín cực kỳ. Nói về xã hội mình đang sống, Họa sĩ đã không giấu được thái

độ bức xúc đến đau đớn trước sự lầm lạc của một số người đang nắm quyền chính trị đã và

đang vô tình làm sai lệch lý tưởng xã hội: “Tôi yêu Chủ nghĩa Xã hội, yêu thật sự, thậm chí

có thể chết vì nó chứ không phải yêu để mà chơi. Có điều tôi không thể chịu được thứ Chủ

nghĩa Xã hội qua mồm tay Thìn và những thằng ngu khác. Đó là thứ chủ nghĩa ảo tưởng vì

ngu dốt” [47;73]. Tất nhiên, phát ngôn của Họa sĩ không phải là hoàn toàn đúng đắn, mà nó

chỉ phần nào phản ánh sự bất mãn của con người có lý tưởng đúng đắn về Chủ nghĩa Xã hội

nhưng lại hoàn toàn bất lực trước thời cuộc, đồng thời thể hiện sự bức bối, ngột ngạt của

con người khi mà quyền tự do chưa thực sự được coi trọng. Họa sĩ năm lần bảy lượt bị cho

là có hành vi phản động chỉ vì một lý do hết sức vô lý và ấu trĩ, là vì “trong thời buổi văn

minh lịch sự này mà họa sĩ cứ chằm hăm vào những thứ đã được người đời che đậy để mà

vẽ” [47;16]. Trong khi đó là những bức vẽ mà Họa sĩ đã dành cả đời mình để dày công tạo

nên bộ mặt về nỗi đau chiến tranh. Chủ đề của các bức tranh là “tình yêu”, là “nỗi đau các

bà mẹ”, “hỡi nhân loại hãy chấm dứt chiến tranh”, là “khát vọng sống”,… nhưng lại bị coi

là thứ “văn hóa nô dịch” còn rơi rớt trong lòng Chủ nghĩa Xã hội. Người ta chỉ cho phép,

hay nói đúng hơn là bắt buộc Họa sĩ phải vẽ những bức tranh minh họa cho Đảng, cho công

nhân, cho nông dân, cho phong trào giải phóng,… Đối với họa sĩ, đó chỉ là những bức tranh

mang tính minh họa, cổ động, không phải loại nghệ thuật dành cho một nghệ sĩ. Họa sĩ từ

chối vẽ những bức tranh cổ động, thì mặc nhiên lại bị gán cho tội phản động. Người ta

không thể hiểu được rằng “đó là loại nghệ thuật thô thiển, thứ minh họa đần độn” mà họa sĩ

vẫn khinh rẻ.

50

Bất mãn với thời cuộc, họa sĩ Tư đã chọn cho mình cách sống lập dị, bất cần đời,

ngạo nghễ, khinh khi, thách thức hết thảy mọi người, nhất là những kẻ đang rêu rao Chủ

nghĩa Xã hội. Gần như, không bất cứ một điều gì có thể ràng buộc được họa sĩ. Người dân

thị trấn Linh Giang gọi họa sĩ là thằng hâm, thằng gàn, thằng phá hoại. Nhưng kỳ thực, đó là

thái độ sống bất cần của một con người dám đòi hỏi quyền tự do một cách chính đáng. Nơi

họa sĩ đang sống là túp lều lá mía nhô khỏi mặt đê, bé tí xíu như một cái dấu chấm hết.

Nhưng “chấm hết thế nào được ở cái nơi mà cuộc sống đang cuộn chảy thế kia” [47;59],

hơn một lần họa sĩ cay đắng nhận ra điều đó. Không “chấm hết” được, nghĩa là phải sống

tiếp, phải đối diện với nó, phải chấp nhận, phải im lặng để mọi thứ diễn ra một cách chua

chát và đắng nghét. “Họa sĩ bình thản bước từ nỗi cô đơn này sang nỗi cô đơn khác với bộ

mặt dương dương tự đắc” [47;53]. Chính những quan điểm còn hạn chế và có phần khiên

cưỡng đang tràn lan trong lòng xã hội đã vô tình biến một con người tài năng, trí tuệ, giàu

lòng nhiệt thành, sẵn sàng xả thân để bảo vệ và xây dựng xã hội mình thành một tên gàn,

một kẻ dở hơi, một thằng phá hoại, khùng khùng, điên điên.

Khác với họa sĩ Tư về vị trí trong tập thể, về cương vị xã hội nhưng Bí thư huyện ủy

Thanh cũng nhận lấy chung số phận bi kịch của những người có khát vọng về một lý tưởng

xã hội tốt đẹp, chân chính, nhưng đành bất lực trước thời cuộc. Ông là người có học, thậm

chí là người có học nhất trong đội ngũ những cán bộ ngang cấp với ông trong tỉnh. Khắp

huyện này không ai có bằng tú tài như ông, thế mà ông rũ sạch vinh quang để “xắn quần

móng lợn” hướng đỉnh Chóp Chài tham gia chiến đấu. Ông có hai đời sống. Một đời sống

khuôn khổ mà xã hội đã ấn định sẵn cho ông với cái vị trí danh giá của ông, với những thứ

tầm thường, giả tạo và những việc làm mà chính ông thấy khinh bỉ. Và một đời sống khác

trong thế giới nội tâm, luôn đau đớn, nhức nhối trước những nghiệt ngã cuộc đời mà đến

cuối cùng ông vẫn là người bất lực trong cuộc đấu tranh xóa bỏ những tối tăm, lầm lạc của

xã hội mà mình đang sống. Cùng là những người nắm giữ vai trò làm chủ tập thể, nhưng

bao giờ, luôn luôn, những ý kiến, quan điểm, sự phán xét và hành động của ông Thanh cũng

hoàn toàn trái ngược với đại úy Thìn. Đứng trong hàng ngũ những người có quyền làm chủ,

xây dựng xã hội, ông càng đau xót khi nhận ra những sai lầm, lệch lạc, và sự biến chất

những giá trị chân chính của xã hội mà ông đã dành bao tâm huyết để xây dựng nó. Cuối

cùng, ông đành im lặng rút lui, sống cuộc đời trầm mặc, suốt ngày chỉ trò chuyện với cái

bóng của mình như một kẻ điên dại.

51

Bi kịch của thời đại còn ảnh hưởng, tác động và đè nặng lên các nhân vật thuộc thế

hệ trẻ như Hoàng và Thùy Linh. Họ là những người trẻ lớn lên trong lòng xã hội với khát

vọng tự do, tích cực nhưng rồi lại trở thành nạn nhân của thời đại. Thùy Linh là cô gái mới

lớn, chỉ vừa học hết lớp 10 đã sớm trở thành “người đàn bà đau đớn”. Cô con gái 16 tuổi

của Đại úy, cũng như mẹ cô, không thể chịu đựng nổi sự lạc hậu, cứng nhắc của cha mình

nên đã nhất quyết phản kháng, chống đối. Trước cách giáo huấn cứng nhắc, vô lý mà Đại úy

đã áp đặt vào mẹ con cô, cô đã quyết liệt chống cự, trả treo: “Những gì ba dạy cho mẹ con

và con đều đã lạc hậu hết cả rồi” [47;214]. Rồi cô lấy “trò tình yêu” để thách thức cha

mình. Chính cách giáo dục của Đại úy đã vô tình đẩy Thùy Linh vào nỗi cô đơn bất tận, để

rồi cô vùi mình trong cuộc giao hoan với Hoàng, hòng chống trả nỗi cô đơn. Cô sẵn sàng

đối thoại với Đại úy, đấu tranh với cha mình về những điều mà cô cho là phi lý để tự giải

thoát mình, tìm cuộc sống cho mình: “Mỗi người có một quan niệm dành cho hạnh phúc

của mình. Ba không thể đổ tất cả quan niệm của ba vào đầu con được” [47;214]. Thùy Linh

quyết định bỏ nhà ra đi để chứng minh cô không thể cùng giai cấp với cha cô. Nhưng kể từ

khi Hoàng nhập ngũ, người cha đại úy vì những “nhiệm vụ cao cả” với Chủ nghĩa Xã hội

cũng bỏ rơi mình, Thùy Linh trở nên buông xuôi với cuộc đời. Sự cô đơn và bế tắc đã xui cô

sa vào vòng tay nhơ nhuốc của Trần Hới, đẩy cô vào hố đen cuộc đời. Cô bẽ bàng trước nỗi

đau đớn, tuyệt vọng của chính mình: “Khi người ta biết trước đời mình sẽ không được một

cái gì, người ta cũng chẳng sợ mất một cái gì” [47;213]. Rõ ràng, trong hoàn cảnh đó, Thùy

Linh đã không tìm thấy lối thoát nào cho cuộc đời mình.

Kết thúc tác phẩm là sự ngổn ngang những cuộc đời, những thân phận. Những mảnh

đời đen trắng chồng chéo lên nhau với những số phận đáng thương hơn đáng trách, do thời

thế và do một bộ phận của thời đại ấy đã vô tình đẩy đến những bi kịch đau lòng. Đại úy

Thìn chết trong sự đơn độc và bất lực, bị gạt qua bên lề Xã hội Chủ nghĩa, nơi mà ông luôn

tìm thấy vai trò và trách nhiệm của mình mà ông không bao giờ khước từ nó. Chủ tịch thị

trấn Lê Đức Huy cuối cùng cũng không thể giấu được thân phận, bản chất của một bần cố

nông ngoi lên nhờ gặp thời, để lộ ra bộ mặt hèn nhát một cách xấu hổ, mất tăm biệt tích

trong sự khinh rẻ của người đời. Còn những người có kiến thức, hiểu biết, sẵn sàng sống

chết hiến thân vì Chủ nghĩa Xã hội như Họa sĩ Tư, như Bí thư huyện ủy Thanh lại trở nên

bẽ bàng, đau đớn trong sự bất lực với thời cuộc. Và cả cái chết của thím Hoa, với tội án trốn

nhà để chạy theo người yêu và bị gán cho thân phận “Việt gian bán nước”, cuối cùng thím

đã chết trong sự miệt thị, rẻ khinh của người đời. Một cái chết tất yếu của những người dám 52

chết để được sống. Thế hệ trẻ lớn lên trong lòng xã hội cũng trở thành nạn nhân của những

điều tréo ngoeo, bi kịch. Đó là những hậu quả khủng khiếp và đau lòng của một thời đại xã

hội.

Với khuynh hướng nhận thức lại hiện thực về một thời đại đã qua, và một cốt truyện

hoàn toàn được hư cấu, nhà văn đòi hỏi một sự nhận thức lại về mối quan hệ giữa cá nhân

và cộng đồng từ góc độ nhân bản, đặt ra vấn đề về quyền cá nhân của con người, về bản

chất của tự do. Đồng thời tác phẩm cũng có ý nghĩa cảnh báo về những hậu quả mà con

người phải trả giá nếu đi ngược lại quyền tự do, quyền cá nhân chính đáng của con người.

Trước Những mảnh đời đen trắng, tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu cũng đã nói

lên sự trăn trở về quyền cá nhân và nhân cách tự do của nó. Cuộc đời nhân vật Giang Minh

Sài là tấn bi kịch chua xót của một con người không được là mình, không dám là mình:

“Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu” [54;331]. Có thể tìm thấy nét tương đồng với

bi kịch của nhân vật họa sĩ Tư trong Những mảnh đời đen trắng: “Họ bắt anh nếu đã yêu

(Chủ nghĩa Xã hội) thì phải yêu đúng như họ đang yêu. Họ yêu làm sao thì anh phải yêu

làm vậy.” [47;129]. Nhưng điểm khác nhau là ở chỗ nhân vật Sài đã ngoan ngoãn yên phận

nuông theo ý muốn của thời đại, còn họa sĩ Tư thì vẫn giữ cho mình lối sống ngang ngạnh

chống đối, hoặc như thím Hoa, như Thùy Linh đã chọn cách hành động theo quyền tự do

của riêng mình. Và dù là cách phản ứng nào, thì tất cả họ đều nhận lấy bi kịch như một lẽ tất

yếu khi mà con người chưa thể tạo được sự hài hòa tuyệt đẹp giữa cá nhân và cộng đồng,

quyền tự do của con người chưa được quan tâm một cách sâu sắc, thỏa đáng ở một thời đại

của xã hội. Cũng như chính tác giả đã khẳng định: “Quyền làm người và khát vọng sống tự

do là cảm hứng chung của cuốn sách này” (trao đổi với tác giả luận văn).

2.3. Chuyện “hàng ngày” viết lại từ ký ức

Sau hai mươi nắm vắng bóng, Nguyễn Quang Lập trở lại văn đàn cùng với một

phong cách hoàn toàn mới lạ: phong cách “khẩu văn”, được thể hiện qua ba cuốn tản văn Kí

ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn. Nếu như trước đây, tản văn chỉ dừng lại ở việc thể

hiện những cảm xúc của người viết về một hiện thực nào đó thì trong những năm gần đây,

tản văn ngày càng có xu hướng thể hiện những mẫu chuyện nhỏ, hoặc những chi tiết có ý

nghĩa biểu tượng, nhằm khắc họa một chân dung hay một chuyện đời. Theo đó, ranh giới

giữa hiện thực và hư cấu gần như bị xóa mờ.

53

Và trong tản văn Nguyễn Quang Lập, nội dung chủ yếu xoay quanh những câu

chuyện đời thường, những chuyện có thật hoàn toàn, và cả những chuyện được hư cấu. Đó

là những chuyện hàng ngày, chuyện đời thường được nhà văn “nhặt” lại từ kí ức của mình.

Dường như, biến cố cuộc đời vô tình trở thành sự khơi nguồn cho nhà văn nhớ lại mọi

chuyện trong kí ức, như một mạch sóng ngầm không bao giờ dứt, khiến nhà văn luôn đau

đáu một nỗi niềm về cuộc đời, về con người, khiến ông luôn cảm thấy mình cần viết và phải

viết. Tản văn Nguyễn Quang Lập như một hình thức tái cấu trúc kí ức. Nhà văn viết bất cứ

khi nào chợt nhớ, chợt thấy, chợt ngẫm ra.

Hiện lên trong các trang tản văn của Nguyễn Quang Lập là những hình ảnh người

thân, bạn bè và quê hương. Có những bạn hữu thâm tình, có những người quen sơ, và cả

những người mà nhà văn chẳng nhớ nổi cái tên, tất cả đều được kể lại trong một câu chuyện

ngắn gọn bằng một giọng văn hóm hỉnh, tếu táo. Những con người ấy hiện lên trong trang

văn của Nguyễn Quang Lập một cách công bằng qua những cái dung dị, đời thường và

“hàng ngày” nhất ở họ, có những thói hư, tật xấu và sự đáng yêu cũng như kính trọng

mà không phân biệt chỗ đứng trong cuộc sống. Tất cả đã trở thành những ấn tượng sâu sắc,

có sức ám ảnh và day dứt trong kí ức của nhà văn mà ông muốn chia sẻ, cũng như lời tâm

niệm của ông : “Tôi nghĩ viết văn là để chia sẻ với mọi người về một điều gì đó,

“day dứt, suy nghĩ và đau xót” là những gì tôi muốn chia sẻ với

mọi người. Càng già, càng từng trải người ta càng muốn chia sẻ” [101].

Song, ẩn chứa đằng sau đó là sự trải nghiệm và tình yêu thương sâu sắc của nhà đối

với cuộc đời và con người, đặc biệt là những con người có số phận.

2.3.1. Chân dung con người – “những mảnh đời đen trắng”

Bằng tình yêu sâu sắc đối với quê hương Quảng Bình, Nguyễn Quang Lập đã trân

trọng dành những trang viết kể về những người từng gặp khi nhà văn còn sống ở làng Đông,

ở thị trấn Ba Đồn của vùng quê Quảng Bình. Đó là những người bạn, những người hàng

xóm, là những con người đời thường với những câu chuyện đời thường, thậm chí là vặt

vãnh, nhưng lại là những mảnh đời xót xa, cay đắng, mà nhà văn còn lưu lại trong kí ức của

mình. Mỗi câu chuyện đều có sức ám ảnh, gợi lên một vấn đề nhức nhối trong cuộc sống về

thân phận và tình người.

54

Lật giở lại những trang “kí ức vụn” với những “chuyện đời vớ vẩn”, nhà văn kể về

những “thằng Á”, “chị Du”, “thằng Thanh”, “thằng Tụy”, “thằng sứt môi”, “thằng hai

đầu gối”, “con ăn ruồi” hay những “anh cu Cá”, “cu Luật”, “cu Đô”, “ông cu Hoi”,

“thằng cu Hó”… bằng một cái nhìn gần gũi, thậm chí là nhìn xuống để cảm và hiểu về

những chuyện đời, chuyện người. Trong họ có những đức tính tốt, nhưng cũng có những

thói hư tật xấu. Có những người hám danh, hám lợi, những con người cơ hội, xảo trá, nhưng

cũng có người lành hiền, thật thà… tất cả đã tạo nên một đời sống xã hội đa dạng, đa chiều,

đồng thời làm sống lại một thời ký ức chiến tranh trên vùng đất lửa Quảng Bình, quê hương

của nhà văn. Trên vùng đất ấy đã có những mảnh đời, những phận người khác nhau. Có

người để lại tấm tình sâu sắc, có người “đi như hạt bụi giữa không trung”.

Trong Thằng hai đầu gối là câu chuyện về “thằng Dư” bị dị dạng từ khi mới lọt lòng

mẹ, mỗi bước đi đều khụy xuống hai lần, mi mắt phải là một khối thịt lớn trùm xuống đến

tận cằm. Nó sống lầm lũi, lúc nào cũng cõng đứa em gái trên lưng, ai giúp cũng không cho.

Đến khi em gái chết, nó vẫn cứ khuân khư khư trên lưng, “mình nói em mày chết rồi. Nó nói

không, lầm lì kéo em đi, vừa đi vừa khóc, mắt trái dầm dề nước mắt, mắt phải dầm dề máu”

[46;17]. Trong Thằng sứt môi lại là cảnh ngộ đau lòng của thằng Hoàn, mỗi lần nhớ mẹ lại

đem sáo ra thổi trước hang rắn để gọi rắn ra chỉ vì “ba tao nói mạ tao là con rắn độc”

[46;22]. Hay như câu chuyện về “con L.” trong Chẳng biết vui hay buồn, lấy chồng ba bốn

năm vẫn chưa thể sinh con, bị gia đình chồng mắng nhiếc, chửi bới đuổi về. Bế tắc, L đành

xin người đàn ông khác cho mình đứa con. Tưởng là êm xuôi, nhưng chẳng ngờ người

chồng biết được, L. bị đuổi ra khỏi nhà, đứa con ba chục tuổi đầu lại vào tù ra tù 11 lần. Hóa

ra, cái điều mà L từng mong mỏi và đã thành ước nguyện lại trở nên ngang trái, bi kịch cho

chị. Xúc động hơn cả là câu chuyện về “con Hà” trong Kí ức năm hào, bị chết bom trên

đường ra chợ, trong tay vẫn còn nắm chặt khư năm hào, những đồng tiền được coi là to lớn

đối với một đứa trẻ. Đó là những con người với số phận không lành lặn, bi kịch và nỗi đau

của họ là những câu chuyện của quá khứ, nhưng khi được kể lại qua sự hoài niệm về kí ức

lại trở thành những cảm xúc day dứt và đau đáu của nhà văn trong hiện tại. Cuộc sống có

thể thay đổi nhưng có những bi kịch phủ lên phận người cứ như tuần hoàn, do vậy mà

những câu chuyện ấy có khả năng vượt qua rào cản của thời gian, trở thành sự ám ảnh đối

với nhà văn trong cuộc sống hiện tại.

55

Nếu không kể về những nỗi đau, những số phận nghiệt ngã thì Nguyễn Quang Lập

cũng chỉ để tâm đến những người bình dân, với những câu chuyện đời thường về họ. Từ

những người bạn học, người hàng xóm cùng lứa với mình như thằng Á có sở thích đi rờ con

gái lúc đang ngủ, thằng Thanh từ nhỏ đã sớm biết trò người lớn, rồi lớn lên lại làm chuyện

đồi bại với vợ người ta; chị Thuận có tật ăn ruồi đến kinh tởm; anh cu Đô tối nào cứ đến ba,

bốn giờ sáng lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến

kia trong hàng trăm nóc nhà của những người phụ nữ hoặc là chồng đi công tác xa, hoặc là

chồng chết bom chết bệnh; anh cu Cá làm nghề liệm xác, say xỉn tối này, ra ngoài chửi bới

om sòm nhưng về nhà lúc nào cũng khúm núm, sợ sệt thằng con trai; anh cu Luật hay cãi lý

sự cùn một cách vô cớ; đến cả những bậc tiền bối như ông cu Hoi có tài đặt vè về bất cứ

chuyện gì xảy ra trong thị trấn; ông Trần Chu ở xóm bảy vợ với tình cảnh nhiều vợ, đông

con nhưng lại có thể sắp xếp cho mọi chuyện êm thắm là vì “trăm sự nhờ vào… cu tui”; bà

Thiêm bán hàng nước nhưng lại biết rõ không ít chuyện của giới văn nghệ sĩ;… hoặc đó chỉ

là những hoài niệm về một con chó Giôn đầy nghĩa tình gắn bó với một thời tuổi thơ của tác

giả. Dường như Nguyễn Quang Lập kể rất dễ, bởi đó chỉ là những câu chuyện tầm phơ, tầm

phào, không hề có những dụng công sáng tạo, hư cấu, cũng chẳng có những ý đồ nghệ thuật,

không chứa đựng những tư tưởng, quan điểm với sự đa tầng về ý nghĩa, mà đơn giản chỉ là

sự tái lập kí ức bằng con chữ, nhưng có khả năng tạo nên một thế giới đa dạng, nhiều chiều

về những con người đời thường.

Nguyễn Quang Lập, cũng như thế hệ những người cầm bút thuộc giai đoạn văn học

sau 1975 đều có ý thức hướng đến cái đời thường của những con người bình thường, phản

ánh nó một cách chân thực, sống động vào những trang viết để làm hiện lên chân dung cuộc

sống đa dạng, muôn vẻ. Đi qua thời chiến, với những hình ảnh hoành tráng, những con

người và sự kiện được phủ lên bởi những lớp sơn hào nhoáng, đã đến lúc văn học cần trở về

với cái dung dị đời thường, thậm chí là tầm thường trong cuộc sống.

Xoay quanh những câu chuyện về những người từng gặp nổi bật lên những tính cách.

Viết về những người bạn đời thường, nhà văn đã tái hiện một cách sinh động về những tính

cách trẻ thơ hồn nhiên, vô tư với những trò chơi nghịch ngợm, những kỷ niệm đẹp đẽ ở làng

Đông, hay ở thị trấn Ba Đồn. Kí ức năm hào và Tết miền thơ ấu là câu chuyện kể về tình

bạn đáng yêu giữa “mình” với “con Hà”. “Mình ngồi trong chậu tắm, con Hà chạy vòng

quanh lêu lêu, nói ê ê lớn rồi mà ở lỗ (cởi truồng) xấu quá xấu quá. Đến lượt nó tắm, mình

56

chạy vòng quanh lêu lêu, nói ê ê điệu điệu, giả đò tắm cả quần, con nít tắm cả quần, điệu

điệu” [46;169]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhà văn cũng không né tránh những câu chuyện

dung tục, những thói đạo đức giả, những người chỉ thích sống bằng vẻ bề ngoài như “thằng

Thanh”, “thằng Tụy”, “thằng cu Hó”,… “Thằng Thanh” được chú D khen là văn minh lịch

sự nhất xóm, nhưng chẳng ngờ một lần đi công việc trở về nhà chú lại bắt gặp “thằng

Thanh” đang “giở trò” với vợ mình, hay như thằng Tụy bỏ tiền ra mua lấy tiếng tăm cho

mình, trở thành ông nhạc sĩ nổi tiếng trong khi một nốt nhạc bẻ đôi cũng không biết, còn

thằng cu Hó thì cố gắng làm đủ trò để che giấu cái bản chất quê mùa và phủ lên mình lớp áo

thành thị… Thái độ khách quan của nhà văn về mặt trái ở con người thể hiện cái tâm của

một người cầm bút, hiểu rõ về trách nhiệm của mình với tính chân thực trong văn học.

Song, dù viết ở góc cạnh nào, con người nào, nhà văn cũng dành cho họ sự thân tình,

gần gũi. Bằng cách gọi “con”, “thằng…”, “cu…”, “anh…”, “chị…”, “ông…”, Nguyễn

Quang Lập đã tạo nên một điểm nhìn rất gần với các nhân vật để từ đó làm “hiện thực hóa”

những cái đời thường của con người, của cuộc sống. Tất cả họ, dù tốt dù xấu, đều chân thực,

đều hiện hữu xung quanh cuộc sống chúng ta. Mỗi con người, mỗi cuộc đời đều xứng đáng

được đi vào văn học hay cả điện ảnh như chính tác giả đã chia sẻ, nhiều lần ông muốn làm

phim khi nói về các nhân vật đi qua hồi ức của ông.

2.3.2. Chân dung bạn văn

Ở thể loại tản văn, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã dành riêng một mảng viết về

những người bạn văn. Nếu hình tượng về những người bình dân, những người bạn trong

xóm, trong làng, những người bạn học được Nguyễn Quang Lập “tiếp xúc” trong một phạm

vi cá nhân nhỏ hẹp, thì thế giới bạn văn lại mở ra một không khí đời sống văn nghệ đầy sôi

động qua 74 bài tản văn. Trong đó hiện lên chân dung cụ thể của hơn 50 văn nghệ sĩ (chưa

kể những người chỉ được nhắc đến) là những nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, diễn viên, đạo

diễn,… Họ là những con người có thật nhưng Nguyễn Quang Lập đã biến họ thành những

nhân vật văn học với những điều có thật và những “cảnh” được chính tác giả bỏ công “dàn

dựng” nhưng người đọc khó có thể nhận ra những chi tiết “hư cấu”, một điều tối kị trong thể

hồi kí/tự truyện.

Trong sinh hoạt văn học Việt Nam, trường hợp tản văn Nguyễn Quang Lập nói riêng

và trường hợp những hồi kí/chân dung/tự truyện có mục đích tiếp cận và giải cấu đối tượng

theo lối phơi bày một sự thực đáng tin trong dáng dấp đáng ngờ nhất nói chung, là không

57

nhiều. Trước Bạn văn của Nguyễn Quang Lập có thể kể đến các tập hồi kí Cát bụi chân ai

(1992) của Tô Hoài, Chân dung và đối thoại (1998) của Trần Đăng Khoa. Cả hai tập hồi kí

này, cũng như các tập tản văn của Nguyễn Quang Lập, đều có điểm chung là phá bỏ ranh

giới truyền thống khi viết về chân dung nhà văn. Không chỉ có tài năng của của văn nghệ sĩ

được trân trọng mà cái phần đời thường trong cuộc sống sinh hoạt của họ cũng được quan

tâm, thể hiện bằng một niềm yêu mến sâu sắc. Qua các tác phẩm này, người đọc ông hoàng

thơ tình Xuân Diệu với những triệu chứng của bệnh đồng tính, cách ăn phở của Lê Lựu, hay

những tâm sự đời người của Hoàng Phủ Ngọc Tường… Chân dung các nhà văn nổi tiếng

cũng từng được Trần Đăng Khoa tạc nên một cách chân thực, sinh động. Chẳng hạn như khi

nói về Lê Lựu: “nhôm nhoam, luộm thuộm và lúc nào cũng tất tả, nhếch nhác như một gã

thợ cày vừa từ một thửa ruộng ngấu bùn nào đó bước lên. Gương mặt, đầu tóc, quần áo và

toàn bộ con người anh như đang toả ra mùi bùn đất, mùi nắng gió, bụi bặm của một vùng

đồng bãi châu thổ sông Hồng” [36;76]. Có thể nhận thấy trong đời sống văn học hiện nay,

người đọc ngày càng có nhu cầu và thích thú được biết về sự “ló dạng” con người đời tư/đời

thường của những người nổi tiếng hơn là sự bày biện, phô trương hình ảnh con người nghệ

sĩ, cái mà thông thường dễ bị đông cứng trong khuôn mẫu đạo đức xã hội rằng, người nghệ

sĩ ấy phải hoàn hảo về mặt nhân cách và lí tưởng về mặt thẩm mĩ.

Ở các bài tản văn, ngòi bút của Nguyễn Quang Lập như một ống kính quay gần, quan

sát hết sức tinh tế và khôn khéo để bắt lấy cái phần đáng nói của những người bạn văn, rồi

phác họa lại theo cách riêng của mình. Ở mỗi chân dung bạn văn, qua sự cảm nhận của

mình, nhà văn chỉ điểm lấy một nét riêng độc đáo, hoặc một lát cắt về họ. Nhà văn quan

niệm: “mình viết chân dung cũng như vẽ, phải cố gắng tìm cho ra nét đặc trưng của người

ta, chọn lọc tất cả những gì về người đó rồi viết ra…” [102].

Với chân dung Nguyễn Khải, điểm nổi bật là cái vỗ vai khen ngợi như nhau dành cho

những người đáng khen lẫn không đáng khen và lòng nhiệt thành, tình cảm dành cho những

ai đáng tin lẫn không đáng tin (Nhớ Nguyễn Khải). Với Trần Đăng Khoa là tài nói chuyện

đáng nể trước những đám đông khác nhau như học sinh-sinh viên, cán bộ Đoàn, hội người

mù, trại thương binh,… (Trần Đăng Khoa). Với Phùng Quán là sức hấp dẫn trong lối đọc

thơ và chuyện nợ rượu “dài tập” (Nhớ Phùng Quán). Với Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự

cẩn thận, trau chuốt trong từng câu chữ; hay cái lơ ngơ duyên dáng của một Tuyết Nga xinh

đẹp và tài năng (Tuyết Nga); con người điên điên khùng khùng của một Bùi Giáng gàn dở

58

(Nhớ Bùi Giáng); cái tật “tau hí” của một Hải Bằng nhớ nhớ quên quên, luôn coi thơ mình

là số một (Nhớ anh Hải Bằng);... Tả Xuân Diệu trong một phiên chợ sau khi chứng kiến

chuyện bất bình, Nguyễn Quang Lập đã không ngần ngại cởi bỏ lớp áo thi sĩ “mơ theo trăng

và vớ vẩn cùng mây” của nhà thơ này để trở về với hình ảnh một con người đời thường đúng

nghĩa: “Xuân Diệu gầm lên một tiếng cha mày, chực lao vào đánh chị. Mọi người lao vào

cản ông, mình cũng ôm ông ngăn lại. Xuân Diệu rời đám đông hầm hầm bỏ đi, quên cả bịch

thịt chó” [44;114].

Rất nhiều câu chuyện trong thế giới bạn văn kể về những khoảng lặng, những tình

cảm chân thành, xúc động trong đời sống văn nghệ vốn sôi động. Đó là lúc Hoàng Phủ

Ngọc Tường đang “dầm dề nước mắt” trong tình bạn với Trịnh Công Sơn (Chuyện nhỏ hai

người bạn), cũng như tình bạn thân thiết như chị em ruột thịt giữa Hồng Ánh và Mai Hoa

(Hồng Ánh), hay một Trần Dần đầy suy tư trong từng giây từng phút, có khi ngồi lặng im

đối diện với bức tường in bóng mình, có khi “rung rung như sợ hãi như giận dữ, vừa ho vừa

chỉ lên trời, nói tôi muốn nuốt Hà Nội vào lòng, trớ ra đô thành rởm” [44;196], lại có khi

“ngồi im như pho tượng gỗ xù xì, móc méo” [46;197] bên hồ Ba Mẫu (Nhớ Trần Dần). Đó

cũng là cái lặng lẽ của Bảo Ninh, của Trần Vàng Sao, của Phùng Quán luôn muốn chạy trốn

cái ồn ào của sự nổi tiếng trước công chúng,… Có thể nói, từ chân dung của những bạn văn,

Nguyễn Quang Lập đã làm hiện lên không khí đời sống văn nghệ một thời, có ngọt bùi, có

đắng cay, có hạnh phúc, có khổ đau là điều tất yếu trong đời sống của người nghệ sĩ “đã

mang lấy nghiệp vào thân” (Nguyễn Du).

Giới văn nghệ sĩ vốn là những người thành danh, nổi tiếng và là thần tượng của

người khác. Tuy nhiên, qua cảm nhận độc đáo và cái nhìn rất riêng của Nguyễn Quang Lập,

bằng sự tếu táo và hài hước của mình, nhà văn đã dựng lại chân dung của những người bạn

văn không chỉ có tài năng, cái đáng nể, đáng trọng mà còn mang lấy cái bộ dạng nhếch

nhác, sự bê tha, lố bịch hay những thói hư tật xấu là những đặc điểm, tính cách của con

người đời thường, hàng ngày của họ. Tất cả đều được phô bày ra một cách tự nhiên, chân

thực. Rất nhiều văn nghệ sĩ có tật nghiện rượu và lười tắm. “Anh Quán vẫn hay trêu anh

Tạo, anh Sơn, anh Tường, nói ai cũng như mấy ông thì khỏi lo sông Hương hết nước. Anh

có câu trêu anh Tường: Nếu không tát cạn biển Đông/ Thì cha Hoàng Phủ đừng hòng tắm

cho. Lại có câu trêu anh Sơn: Bao giờ sông cạn đá mòn/ Công Sơn mới rửa hai hòn cho

em.” (Nguyễn Trọng Tạo) [46;233]. Còn Phạm Ngọc Tiến thì có lần tắm xong quên mặc

59

quần áo, cứ thế mà đi ra tiếp bạn của vợ (Phạm Ngọc Tiến). Ở nhiều câu chuyện viết về bạn

văn là những chuyện hài hước, tưng tửng, thậm chí là tục tĩu. Từ chuyện Phạm Ngọc Tiến

ngâm “bộ phận sinh sản” vào nước nóng để chọn giờ lành đẻ con trai (Nhà văn mê con

trai); chuyện khôi hài về một liệu pháp chữa bệnh phản khoa học bằng nước tiểu (Niệu liệu

pháp), đến cả chuyện anh em văn nghệ sĩ hay có tật “sờ chim” nhau mỗi lần ngủ chung

(Chuyện ma)… Mỗi người một “tật”. Những chuyện tưng tửng, hài hước ấy khiến những

chân dung bạn văn đôi khi mang dáng dấp của một bức biếm họa, hí họa. Nhưng tuyệt nhiên

ở đó không hề có bóng dáng của sự chế nhạo hay giễu cợt, mà trái lại, còn có ý nghĩa gợi

lên cái không khí tươi vui, nhộn nhịp, rôm rả những câu nói tiếng cười, đầy ắp sự thân tình,

gần gũi trong đời sống văn nghệ. Đó là những ấn tượng sâu sắc, khó phai trong hồi ức của

nhà văn.

Cũng có thể tìm thấy những chân dung “phản diện”, những câu chuyện “đáng buồn”

hay là những “mặt trái” trong giới văn nghệ sĩ. Một ca sĩ có Cái miệng hình số tám nào đó

đã được tác giả giấu tên là một người đàn bà nạ dòng 65, 67 tuổi cặp kè với “thằng cu chưa

đầy 25 tuổi”, lúc nào cũng uốn éo, nũng nịu. Chị nhờ đứa em (Nguyễn Quang Lập) tổ chức

giùm chị chương trình ca nhạc nhưng vẫn vô tư không thèm “đá động” gì đến việc thanh

toán các chi phí của buổi diễn. Câu chuyện Nhớ Nguyễn Minh Châu đã để lại một khoảng

lặng, một dấu hỏi lớn về tình người, tình đời. Nguyễn Minh Châu sống chân thành và gẫn

gũi như thế, vậy mà khi nghe tin anh mất, Trung Trung Đỉnh chạy ào xuống chỗ mấy nhà

văn đang xem phim trên tivi, nói “anh Châu mất rồi”. Nhưng “Không một cái đầu nào

ngẩng lên. Anh Đỉnh tưởng người ta không nghe, lại nói anh Châu mất rồi. Vẫn không ai

ngẩng đầu lên, phim đang đến đoạn hay. Anh Đỉnh nói to hơn, gay gắt hơn, nói ơ kìa anh

Châu mất rồi mọi người không nghe à. Có người nhăn mặt cái kỉnh, nói biết rồi, và lại dán

mắt vào ti vi” [44;169]. Trong bài Nhà văn nhà veo, tác giả tỏ ra khá bất mãn với sự biến

chất, sai lệch giá trị ở một đại hội Nhà văn: “Đại hội văn chương chẳng thấy bàn văn

chương, chỉ toàn tranh cãi ông này tham ông kia hèn, ông này bất tài ông kia cơ hội”

[45;79], “nhà văn lại đi cãi nhau ỏm tỏi ba chuyện phi văn chương” [45;80], ông thấy chán

ngán về tình trạng đố kị nhau giữa các thế hệ nhà văn đi trước và lớp trẻ đi sau, giữa những

người thành danh và những người chưa có chút tiếng tăm. “Có thể nói chưa ở đâu đố kị, hẹp

hòi lại nặng nề như ở giới văn nghệ” [45;236]. Chuyện Người đẹp lại phơi bày một góc

khuất trong thực trạng về đời sống văn nghệ. Trong những lần đi biểu diễn, nữ nghệ sĩ MYZ

thường bị tấn công bởi sự gạ gẫm trơ tráo của những ông đạo diễn, những vị giám khảo. 60

Một người trong số họ từng nhắn tin cho chị “em nen co them mot huy chuong vang nua de

duoc nghe si uu tu. Anh o phong 216, chieu nay len voi anh nhe” [44;262]. Không cần biết

ông đạo diễn hay vị giám khảo kia, cũng như nữ nghệ sĩ MYZ là ai, và câu chuyện ấy có

bao nhiêu phần trăm là sự thật thì trước thực tế về đời sống văn nghệ từng được biết đến,

người đọc vẫn cảm thấy đó là sự thường tình, không hề có yếu tố “bịa” hay “dựng”.

Cái dạn dĩ của Nguyễn Quang Lập khi viết về bạn văn là đã dám nói to lên những cái

xấu, cái sai của họ, dám vi phạm “vùng cấm” về nhân vật trí thức tài năng, phá vỡ hình

tượng toàn bích của giới văn nghệ sỹ bằng cách dựng lên những chân dung văn học rất bạo,

rất nghịch, nhưng cũng rất “người”. Với cách viết phóng túng, tếu táo, thô và nghịch, nhà

văn đã phơi bày trần trụi chuyện riêng tư của mình, của anh em văn nghệ sỹ, không nề hà cả

chuyện giường chiếu – một vấn đề tế nhị khó nói rất dễ chạm đến lòng tự ái của nhiều nhà

văn đương thời được “chỉ tên điểm tật” một cách rõ ràng, cụ thể. Nói như tác giả Lê Ngọc,

văn chương, xét tới cùng là cuộc chơi của mỗi cá tính. Trong “cuộc chơi liều” ấy, tự do là

một “thiết chế” của sáng tạo. Chỉ có tự do sáng tạo mới đem lại quyền dân chủ cho người

sáng tác và người tiếp nhận, phát huy tối cao quyền tự do cá nhân. Có những điều lớn lao

không bao giờ nói được một điều bé nhỏ. Ngược lại, có những cái tưởng chừng rất tầm

thường, vụn vặt nhưng nhiều khi, lại làm nên chuyện. Cũng theo quan điểm của tác giả này,

điều quan trọng và thiết yếu đối với mỗi người nghệ sĩ là hãy luôn khảo cứu ngay chính bản

thân mình để hiểu mình rõ hơn, biết cách nói ra những điều mình muốn nói, để có tác phẩm

đạt đến tính Chân. Khi nhà văn trình diện hết các phương diện tinh thần của mình, từ đó mà

có được sự đồng cảm từ người đọc, góp phần làm phong phú đời sống, để đạt tới tính Mĩ.

Cái tâm sáng cùng với cái tài cao của người nghệ sĩ sẽ đưa tác phẩm vượt qua mọi rào cản

để đạt được tính Thiện. Đó là giá trị của văn học hôm nay.

Với cái nhìn trực tiếp, cái nhìn của người trong cuộc, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã

khơi lên những “sự thật” ở bề sâu, bề sau, ở những góc khuất trong cuộc sống đời thường

của giới văn nghệ sĩ, thường bị che đi hoặc ít được nói đến trước công chúng. Không thể vẽ

chân dung những người nổi tiếng chỉ bằng những nét vẽ ca ngợi, nét vẽ trang trọng, nét vẽ

thần tượng. Đó là cái độc đáo và mới mẻ của những tác phẩm chân dung. Và đối với

Nguyễn Quang Lập, ông “rất ghét chân dung tạo ra nhằm tâng bốc, khen nhau thì đó không

phải là chân dung, đó là báo cáo thành tích” [102]. Vì thế, nhà văn đã chọn những chi tiết

đời thường rất đắt, rất độc đáo, rất hài, ít người biết như là một điểm nhấn về đối tượng.

61

So với hai cuốn hồi kí của Tô Hoài và Trần Đăng Khoa, các tập tản văn của Nguyễn

Quang Lập đậm đặc chi tiết đời tư hơn nhiều và do đó, những yếu tố của một đời tư như lời

ăn tiếng nói, thói quen ứng xử, sinh hoạt và cả những ham muốn dung tục, cũng được trưng

dụng hữu ích nhằm làm cho đối tượng trở nên cực thực và nhất làcó khả năng tạo ra những

nhận thức mới về đối tượng. Xét cho cùng “con người diễn nôm na ra ai chẳng lằng

nhằng!” [82]. Tuy rất khó giải thích rõ ràng nhưng phải thừa nhận rằng, cái sự lằng nhằng

ấy được hiểu một cách chung chung chính là tính chất, bản chất của con người nhất. Nói

cách khác, đã là con người ai cũng lằng nhằng. Một đời sống hỉ nộ ái ố không hề vô vị, nhạt

nhẽo, thì hãy để nó phơi mở trong vai trò làm sáng lên đối tượng. Nếu đôi khi vì dưới ánh

mắt đạo đức hẹp hòi, mà nó không thể được diễn nôm na, không được thỏa mãn trình diện

thì ngay cả với người nghệ sĩ, hẳn sẽ là tai họa và thậm chí, họ chỉ là những kẻ giả vai. Nhà

văn Nguyễn Quang Lập, cũng như các tác giả viết về chân dung của văn nghệ sĩ đã thực sự

nỗ lực và tìm kiếm một hướng viết mới, đưa nhân vật ra khỏi sự ngưỡng mộ của công

chúng, kéo họ ra khỏi lớp vỏ thần tượng để trở nên tươi tắn trong một dáng vẻ bặm bụi đời

thường.

Những chân dung bạn văn qua những nét phác họa của Nguyễn Quang Lập dù đẹp

hay xấu, dù thanh cao hay thấp hèn, dù lộng lẫy hay nhếch nhác, có những chân dung bạn

văn được viết ra để vui, để cười, vừa hạ thấp, vừa tôn cao cái vị trí của họ trong lòng công

chúng nhưng tất cả đều khẳng định lòng yêu mến và tình cảm chân thành, sâu sắc của tác

giả Nguyễn Quang Lập dành cho những người bạn văn của mình. Tả Xuân Diệu, Nguyễn

Quang Lập đã không giấu được sự yêu mến chân thành khi được tận mắt chứng kiến cái đời

thường nhất của nhà thơ này: “Mình nhìn theo ông mãi, thấy cái lưng to bè của ông đang

len lỏi trong đám đông nhếch nhác tất bật, tự nhiên thương ông quá chừng” [44;114]. Và

khi gặp Trần Dần đang chống gậy đứng lặng bên hồ Ba Mẫu, Nguyễn Quang Lập cũng lặng

lẽ thương cảm: “Mình không nói, anh cũng không nói, toàn thân anh rung rung như sắp bay

đi mất” [46;179].

Với lối bình dân hóa hình tượng người nghệ sĩ, chân dung bạn văn hiện lên thật hơn,

gần hơn. Họ như được rũ bỏ lớp áo nghệ sĩ khuôn khổ, chuẩn mực để trở lại đời sống thật

sau trí tưởng tượng hóm hỉnh của Nguyễn Quang Lập. Ít nhiều những câu chuyện trong số

đó đã trở thành giai thoại về người nghệ sĩ.

62

2.3.3. Chân dung tự họa

Bên cạnh chân dung về những người bình dân và những người bạn văn nghệ sĩ,

chiếm một phần không nhỏ trong các trang tản văn của Nguyễn Quang Lập là những dòng

nhật kí bộc bạch tâm sự, chuyện đời tư của chính nhà văn. Nội dung này trong tản văn

Nguyễn Quang Lập mang dáng dấp của thể loại tự truyện, hồi ký. Viết về chuyện đời tư, kể

về chính mình đang ngày càng trở thành xu hướng của thời đại. Sự tò mò, thị hiếu của công

chúng về những “bí mật” của người nổi tiếng đã góp phần làm nên thành công cho thể loại

này. Ngày càng có nhiều cây bút tỏ ra phấn khởi và hứng thú thể nghiệm nó. Có thể kể đến

Lê Vân với Yêu và sống; Bùi Anh Tấn với Một thế giới không có đàn bà, Les - vòng tay

không đàn ông, Không và Sắc; Thuận với Made in Vietnam, Chinatown và Paris 11 tháng 8,

T mất tích,… Còn với Nguyễn Quang Lập, ông không hề có ý định viết tự truyện hay hồi kí.

Với ông, các bài tản văn đơn thuần chỉ là sự ghi chép lại từ kí ức, những chuyện không đầu

không cuối, không theo một trình tự thời gian không gian nào. Từ những câu chuyện có thật

về cuộc đời mình, hay những chi tiết được “bịa” thêm về những người hàng xóm thời thơ

ấu, những người bạn văn nghệ sĩ, ta có thể bắt gặp trong đó là chân dung về cuộc đời của

chính nhà văn Nguyễn Quang Lập. Ông đã trải qua thời tuổi thơ như thế nào? bạn bè ông là

những ai? họ có gì đáng nhớ? ông đã sống những đâu? đi đâu và làm gì? có những điều gì

đã đi qua từng để lại cho ông những thương yêu, tiếc nuối, từng khiến ông phải xót xa và

đau đớn?,… Góp nhặt lại tất cả sẽ làm nên một Nguyễn Quang Lập. Cũng như lời nhận xét

của nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên: “Gộp các chân dung bạn văn Bọ Lập viết sẽ có

một chân dung Nguyễn Quang Lập, tinh nghịch, đáo để, sâu cay và nhân hậu. Lập có hết

các đức tính hay dở tốt xấu của những người bạn văn, và nói về họ cũng chính là nói về

mình” [44;8].

Viết về chính mình với những câu chuyện có thật, những cảm xúc còn đọng lại trong

kí ức, Nguyễn Quang Lập đã tự họa nên bức chân dung của mình một cách chân thực, sinh

động, đầy thông minh và sáng tạo. Qua đó, người đọc không chỉ biết về một Nguyễn Quang

Lập với những câu chuyện đời tư cá nhân, mà còn nhận ra tính cách, con người của chính

nhà văn.

Trung thu của đứa bé bốn tuổi là kí ức đáng yêu về một “thằng Hai Da” (cũng

chính là “thằng cu Lập”) biết đọc sách từ hồi bốn tuổi, trung thu được ba cho bốn hào thì

chạy ngay ra hiệu sách mua cuốn Vua thủy tề, “cuốn sách mà nó hàng ngày đến hiệu sách

63

ngước nhìn thèm khát, đúng bốn hào. Đó là cuốn sách đầu đời của nó, đến chết nó cũng

không quên” [46;141]. Ở Con chó Giôn lại hiện lên chân dung một đứa trẻ “khóc khan cả

cổ” vì cảnh nghèo phải nghe lời mẹ, cầm lòng đem bán con chó mà nó coi như người bạn

thân thiết nhất của đời mình. Trong Cô giáo lớp vỡ lòng lại là một cậu học trò đã sớm có

tính “tự phụ” khi thấy mình giỏi hơn những bạn bè cùng lứa. Và hàng loạt câu chuyện khác

về tuổi thơ cũng như thời trai trẻ cũng được nhà văn kể lại một cách tỉ mỉ, rành mạch như

những dấu ấn khó phai. Những ngày còn bé với Nguyễn Quang Lập là một tuổi thơ hồn

nhiên, trong veo và tinh nghịch: hay chọc phá bạn bè, bị cô giáo cho điểm 0 vì tội nói dối

(Cô giáo của tôi), giả gái để thầy giáo bắt tội “hủ hóa” (Chuyện trai gái thời bao cấp), theo

bạn bè đi nơm cá, bẫy nhím, bắt gà,… Kể về những ngày đi học của mình, Nguyễn Quang

Lập bộc bạch: “Trong suốt 15 năm đi học, tôi đều được các cô giáo yêu thương, trong khi

các thầy giáo ít ai có thiện cảm với tôi”, vì thầy giáo nào cũng phê bình ông là “cần ngăn

ngừa tính tự phụ” [45;198]. Nhà văn cũng không ngại kể về những chiến tích yêu đương

của mình với những chuyện dở khóc, dở cười, có những mối tình mãi sâu đậm ở một góc

trong tâm hồn, nhưng cũng có những mối tình đi qua nhạt như cơn gió thoảng (Những giao

thừa thương nhớ, Nụ hôn đầu, Ba lần yêu cô giáo, Yêu và ăn). Nhà văn cũng từng có thời

gian làm đại ca “rởm” khi đi bộ đội lên khu Mông Dương (Đại ca), từng khao khát viết

được truyện ngắn nhưng không biết phải viết thế nào cho ra truyện ngắn (Tôi bắt đầu viết

truyện ngắn như thế nào), từng trải qua những tai nạn, biến cố lớn trong đời (Năm lần bị

trời đánh),…

Từ những trang tản văn của Nguyễn Quang Lập cũng đã làm hiện lên chân dung một

người cầm bút nhiều suy tư, nhiều cảm xúc. Có những chuyện rất “thường”, nhưng cũng rất

“đời”, qua cái nhìn của nhà văn đã trở thành những mạch ngầm cảm xúc day dứt khôn

nguôi. Đó là nỗi nhớ niềm thương về những cái vỉa hè xưa cũ nay đã “bị” hiện đại hóa

(Thương nhớ vỉa hè); hay lòng xót xa, ngậm ngùi khi làng cũ quê nhà “vẫn rất nhiều người

giàu sang phú quí, nhưng hồn vía của làng thì đã mất rồi, mất từ lâu lắm rồi” (Hồn quê

đâu rồi) [46;153]. Và cả những câu chuyện dù là viết về tuổi thơ, thời trai trẻ, hay khoảng

thời gian sau này, đều được kể lại bằng cái tâm của một nhà văn, nên chất chứa trong đó là

những cảm xúc lắng sâu, sự hoài niệm đầy trân trọng và yêu thương. Kí ức tuổi thơ sâu sắc

nhất với Nguyễn Quang Lập có lẽ là những chuyện thuở nhỏ với “con Hà” trong Kí ức năm

hào, và được kể lại một lần nữa trong Tết về lại nhớ. Ông kể, khi thấy “con Hà” chết bom

trong tay vẫn khư khư năm hào, “lúc đó mình không khóc, mình nhớ như in khi đó mình 64

không khóc” [46;27]. Nhưng bây giờ, khi đặt bút viết lại những dòng hồi ức ấy, rõ ràng là

một Nguyễn Quang Lập đang rưng rưng, nghẹn ngào trên từng con chữ. Đi qua thời thơ ấu,

thời trai trẻ, bây giờ, Nguyễn Quang Lập đang ngậm ngùi tự họa về tuổi già, về “một thời

vang bóng” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) của mình (trong Chín khúc buồn thiu).

Từ những câu chuyện đời thường, vụn vặt, thậm chí là vớ vẩn, tầm phơ tầm phào

được Nguyễn Quang Lập kể lại, đã tạc nên chân dung một Nguyễn Quang Lập vừa có tính

tự phụ, ngạo mạn của một con người có ý thức về tài năng của mình; vừa có tính hài hước,

tưng tửng của một kẻ ham chơi, thích đùa; lại vừa có cái đa sầu đa cảm, sâu sắc và thâm

trầm của một nhà văn trải đời. Mỗi trang văn là sự kết hợp của một tài năng văn chương và

tính cách phóng túng, tuy nhiên, đằng sau đó, Nguyễn Quang Lập ngậm ngùi che giấu

những nỗi niềm về cuộc đời, về thế sự.

Tiểu kết:

Đề tài chiến tranh và số phận con người là nguồn cảm hứng chủ đạo trong các sáng

tác truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập, với nội dung được hư cấu trên nền

tảng là những trải nghiệm của bản thân tác giả. Trong đó, con người được soi chiếu ở nhiều

phương diện, nhiều tầng bậc. Nhà văn đặc biệt quan tâm, khai thác và đi sâu vào những góc

khuất, những mảng tối trong tâm hồn con người.

Với tản văn, là một thể nghiệm mới của nhà văn trong những năm gần đây, song tác

giả cũng đã tạo được những dấu ấn riêng ở thể loại này. Tản văn Nguyễn Quang Lập là sự

tái lập kí ức bao gồm nội dung hư cấu và phi hư cấu, kể về những câu chuyện vụn vặt,

những “chuyện đời vớ vẩn” xoay quanh cuộc sống con người nhưng có khả năng làm phong

phú bức tranh về cuộc sống đời thường.

Dù ở đề tài nào, nội dung nào, thể loại nào, nhà văn cũng đều bắt lấy cái cái dung dị,

đời thường ở con người và cái bình thường của cuộc sống, viết về nó bằng tất cả sự yêu

thương, trân trọng. Do đó, trang viết của nhà văn bao giờ cũng chân thật và gần gũi, thấm

thía tình đời và tình người. Và để làm nên những giá trị nội dung cho các tác phẩm của

mình, nhưng nhà văn tỏ ra khá tinh tế trong việc lựa chọn cách thức thể hiện trên nhiều

phương diện như giọng điệu, diễn ngôn, ngôn từ,… Vấn đề này sẽ được làm rõ hơn ở

chương sau.

65

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP –

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI, NGÔN TỪ

3.1. Một lối tự sự đa giọng điệu

Trong một tác phẩm văn học, giọng điệu là linh hồn của tác phẩm, và cũng là cái

thần của nhà văn. Nó là một “phạm trù thẩm mĩ”, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên hình

tượng và phong cách nhà văn. Thông qua giọng điệu, nhà văn bày tỏ thái độ, tình cảm, lập

trường, tư tưởng đạo đức của mình với đối tượng được miêu tả. Giọng điệu trong tác phẩm

thường rất đa dạng và phức tạp. Mỗi tác phẩm thường không chỉ có một giọng điệu đơn

thuần mà thường có sự đan xen của nhiều giọng điệu khác nhau trên cơ sở một giọng điệu

mang tính chủ đạo.

Có thể nhận ra trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập một lối tự sự đa giọng điệu.

Tùy theo mảng nội dung, đề tài, cũng như nhân vật đang được nói đến, nhà văn đã khéo léo

lựa chọn cho mình một giọng điệu thích hợp khi trần thuật để làm nổi bật cảm hứng, thái độ

của mình đối với sự kiện, nhân vật. Ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, giọng điệu chủ

đạo là giọng xót xa, thương cảm thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc, tấm lòng nhân hậu

của nhà văn đối với những phận người. Tuy nhiên, đến thể loại tản văn và một số truyện

ngắn được viết theo lối khẩu văn sau này, Nguyễn Quang Lập đã chọn cho mình giọng điệu

hài hước, dí dỏm làm âm điệu chủ đạo, thể hiện thái độ bình thản của con người trải đời và

hiểu đời, giờ đây đã trở nên quá quen thuộc với những chuyện đời hỉ, nộ, ái, ố khi hồi tưởng

và kể lại những chuyện của quá khứ.

3.1.1. Giọng trữ tình tha thiết

Giọng điệu trữ tình trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập trước hết được thể hiện ở

những dòng cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên, khung cảnh. Mỗi con chữ được viết ra từ

những cảm xúc lắng sâu trong tâm hồn nhà văn, quyện lại thành một chất giọng đặc trưng

của một ngòi bút đa cảm.

Ở các bài tản văn Hà Nội trong tôi và Thương nhớ nghìn năm, Thương nhớ vỉa hè,

Nguyễn Quang Lập đã ghi dấu lại một Hà Nội được khắc sâu trong tâm thức của mình. Đó

là “nơi có những đàn cò trắng bay về đậu trên những tàng cây sấu, và giờ đây thỉnh thoảng

vẫn bay về đậu trắng bờ hồ Linh Đàm” [45;256]. Hình ảnh Hà Nội hiện lên trang viết của

Nguyễn Quang Lập thật đẹp, thật thơ mộng với những cây xanh, những bờ hồ, những vỉa 66

hè, gắn liền với những trang lịch sử hào hùng, và giữ lại những khoảnh khắc cuộc đời của

không ít những người nghệ sĩ. Tác giả đã kể về Hà Nội bằng những dòng trữ tình miên man

với những cảm xúc dường như là vô tận. “Ở xa kia, bên kia đường Thanh Niên hình như Lê

Vân đang ngồi bó gối, âm thầm đếm sóng như đếm những cuộc tình tan. Đường Cổ Ngư

người yêu của Trần Tiến đang vừa khóc vừa chạy bời bời sau một cuộc tình dang dở. Bên

kia hồ Trúc Bạch, Nguyễn Khải chiều chiều đứng khoanh tay nhìn xuống đáy hồ, âm thầm

thương nhớ đứa con yêu” [45;250]. Nhà văn đã nhìn Hà Nội trong mọi góc cạnh, để rồi yêu

biết bao một Hà Nội được nhìn qua khung cửa sổ nhà mình. Với giọng trữ tình tha thiết,

lắng sâu, Nguyễn Quang Lập đã tạo nên một khoảng lặng, một góc riêng cho mình trong nỗi

niềm suy tư về Hà Nội, đồng thời cũng phủ lên Hà Nội một chất thơ tuyệt vời. Đọc những

dòng văn Nguyễn Quang Lập viết về Hà Nội, người đọc có cảm tưởng như chính mình đang

trôi theo cái nhìn đăm đắm của nhà văn rơi tỏm vào lòng Hà Nội để cảm nhận hết cái phần

hồn vừa cổ kính vừa thơ mộng của Hà Nội, để yêu, để nhớ, và cũng để xót xa, ngậm ngùi về

một Hà Nội hôm nay.

Từ đô thị quay ngược về vùng quê Quảng Bình, nơi nhà văn được sinh ra và gắn bó

suốt một thời tuổi thơ, hình ảnh con sông quê hương đã trở thành miền kí ức có sức ám ảnh

sâu sắc nhất trong tâm hồn nhà văn. Khi viết tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng,

Nguyễn Quang Lập đã miêu tả dáng vẻ và dòng chảy của sông Linh (hay còn gọi là sông

Gianh) bằng một giọng văn trữ tình mượt mà. Nhưng dường như vẫn chưa thỏa, sau này,

trong bài tản văn Những con rạm bè sông Gianh, nhà văn đã dành hẳn một bài viết riêng

về dòng sông yêu thương ấy. “Gặp thị trấn, dòng sông bỗng vỡ òa ra, chảy tràn trề không

thành dòng, dập dềnh mọi bãi bờ men thị trấn. Lần đầu tiên dòng sông biết đến một miền

quê đông vui, nhộn nhịp, lấp lánh ánh điện và âm vang những âm thanh náo nhiệt mà suốt

160 km từ thượng nguồn nó không hề bắt gặp. Dòng sông không muốn chảy tiếp nữa, cứ

dùng dằng quanh thị trấn cho đến lúc nó sực nhớ nó là dòng sông, đích của nó là biển cả,

thế là nó vội vã lao đi (…)” [45;266]. Với những câu văn dài mềm mại và lối ví von đầy

sáng tạo, làm nên giọng điệu nhẹ nhàng, êm ả, nhà văn đã phả vào dòng sông quê hương

một chút bâng khuâng, một chút xao xuyến khiến dòng chảy của con sông lắng đọng, dịu

dàng như một cô gái điệu đà, e ấp. Nhờ đó mà sông Linh không còn là hình ảnh vô tri, vô

giác của tự nhiên mà nó như có hơi thở, có linh hồn.

67

Và khi viết về con người, nhất là khi cần diễn tả cái mênh mang, khó hiểu của những

cảm xúc bên trong, nhà văn đã thổi vào giọng kể của mình một sự da diết khôn nguôi. Nhân

vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập thường chất chứa một đời sống nội

tâm với những uẩn khúc, quanh co. Và bằng chất giọng trữ tình lắng đọng, nhà văn đã diễn

tả những cảm xúc ấy, tâm trạng ấy một cách thấm thía. Trong Những mảnh đời đen trắng,

Thùy Linh và Hoàng gặp nhau khi họ đều nhận ra mình đã lớn, những câu văn trữ tình của

Nguyễn Quang Lập đã khơi gợi cái thổn thức, xuyến xao trong mỗi người. “Nắng chiều rũ

xuống thành từng đám vàng nhạt dài dọc bờ cát. Họ ngồi im lặng đăm đăm nhìn ra mặt

sông đang chuyển màu tím sẫm. Có gì mà nói khi ngày nào hai người cũng gặp nhau. Chỉ

có nhớ, một nỗi nhớ ngọt ngào cứ vương vấn mãi trong mỗi người khi họ vừa chia tay. Thế

là lại tìm cách gặp nhau, bất cứ lý do gì, có khi là những lý do rất buồn cười” [47;94,95].

Phải bằng chất giọng trữ tình da diết ấy mới có thể làm nổi bật được cái khoảng lặng và

những cảm giác mơ hồ trong tâm hồn con người.

Ở truyện ngắn Tiếng khèn bè, kể về cô giáo Hường tỉnh lại sau một cơ điên loạn vật

vã, giọng kể trữ tình mềm mại của tác giả gợi lên hình ảnh một ban mai trong veo và những

cảm xúc tươi mới thấm sâu vào tâm hồn nhân vật: “Sáng nay, chị trở dậy với một cảm giác

nhẹ nhàng khoan khoái như trước đây chị đã từng có. Chị bước ra khỏi buồng. Tiếng điều

cày rít vang ở trong bếp. Con gà trống đập cánh gáy ở đầu hồi. Chị lùa mười ngón tay lên

mớ tóc rối của mình, nhẹ nhàng bước về phía cửa sổ. Ban mai nào chị chẳng đến bên cửa

sổ, ngày xưa ấy mà” [43;233]. Đoạn văn giàu chất thơ như một khúc nhạc lòng được ngân

lên, nhân vật như đang mơn man cái cảm giác hạnh phúc được tận hưởng một cuộc sống mà

mình từng đánh mất.

Nhờ chất giọng trữ tình bàng bạc, sâu lắng mà câu văn, ý văn của Nguyễn Quang

Lập dù viết về cảnh hay kể về con người cũng đều rất giàu chất thơ, dễ xao động lòng

người. Chất giọng này đã làm cho những câu văn của Nguyễn Quang Lập trở thành những

sợi dây nối đặc biệt trong mối giao cảm giữa người đọc với thế giới nhân vật, hình ảnh trong

sáng tác của nhà văn, cũng như với chính nhà văn.

3.1.2. Giọng xót xa, thương cảm

Trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập hiện lên không ít những nhân vật và cả những

con người có thật là những người có số phận. Nhà văn đã viết về họ bằng tất cả sự yêu

thương, đồng cảm nhưng ông không bộc lộ trực tiếp điều đó trong tác phẩm. Mà thông qua

68

lời kể, giọng kể đầy xót xa, thương cảm, người đọc có thể nhận ra đằng sau đó là một tấm

lòng nhân hậu, thấu hiểu và dường như đang đau đớn cùng với nỗi đau của nhân vật, đang

bẽ bàng với cái éo le của cuộc đời.

Giọng xót xa, thương cảm đặc biệt nổi bật và trở thành chất giọng chủ đạo của nhà

văn khi kể về những bi kịch của con người. Cuộc đời của những con người cô đơn, khao

khát được yêu thương, được hạnh phúc đã được nhà văn kể bằng một âm điệu đầy xót xa,

day dứt. Trong truyện ngắn Ngày xửa ngày xưa, một lão Thiệt góa vợ và một cô Lẹ chưa

từng được “thằng đực” nào tán tỉnh đã tìm gặp nhau như những kẻ khốn khổ: “Họ đứng áp

ngực vào nhau trong đêm tối. Bốn xung quanh là những con đom đóm lập lòe, xa hơn là

những đám lửa cháy rừng kéo dài ngoằn ngoèo như những con rồng lửa. Họ tì vào nhau

giống hai thân cây còi cọc bị bật rễ qua một trận bão lớn” [43;10]. Trong Vĩnh biệt mười

chín con gà trống, người đàn bà suốt mười chín năm vắng chồng, sống trong nỗi cô đơn

cùng cực đã không thể kìm nén được những khao khát về một người đàn ông để rồi nhận lấy

một kết cục tức tưởi, cay đắng: “Bà ngồi ở bậc cửa đến canh ba, nhìn xéo sang nhà người

hàng xóm thấy đèn vẫn sáng, bà đứng vụt dậy, chạy sang. Được ba bước bà thốt nhiên thấy

lạnh ở gáy. Bà quay lại, chồng bà đang nhìn bà, cái nhìn vừa dịu dàng vừa hồn dỗi. Bà ôm

ngực nấc lên. Một luồng điện tê buốt chạy từ gót chân lên ngực bà. Bà rơi xuống. Trăng

sáng quá, sáng đến nỗi từ xa, rất xa vẫn thấy máu trong ngực bà đang chảy” [43;146].

Trong Đợi đến mùa hoa phượng, ông hiệu trưởng đang tự dày vò mình về một tình yêu vô

vọng và rồi từ đó cô đơn suốt ba mươi năm: “Ông hiệu trưởng im bặt. Ông trân trố nhìn chị

rồi vồ lấy chai rượu tu ừng ực. Cần phải say nữa. Mỗi ngày cần phải làm cho mình say

thêm, sao cho toàn bộ ký ức ba mươi năm ngập chìm trong rượu. Khổ thay, thứ gì ông cần

nhấn chìm thì nó lại nổi lên, dập dềnh trong đời sống thường nhật của ông, làm cho ông

không khi nào được thanh thản” [43;125.] Cô Mị cũng đang day dứt, dằn vặt mình về

những sai lầm trong quá khứ chỉ bởi những suy nghĩ ấu trĩ và xốc nổi của trẻ con. “Chị đã

uống quá nhiều. Một chén quên đi. Một chén nhớ hết. Một chén dối mình. Một chén dối

người. Những chén sau là để bóc trần mình và người” [43;124]. Giọng xót xa, thương cảm

trong đoạn văn được tạo nên nhờ sự đan xen lời của nhân vật trong lời người kể chuyện, nhà

văn như đang nói thay cho nhân vật. Có cái gì đó đang uất nghẹn và đè nặng trong tâm hồn

họ. Một cách âm thầm và dai dẳng.

69

Đứng trước nỗi khổ đau của con người, trước cảnh ngộ éo le, sự ngậm ngùi đau xót ở

nhà văn hiện ra trên từng con chữ, có khi âm ỉ, quặn thắt như chính mình là người trong

cuộc. Ở truyện ngắn Vọng trắng, nhà văn đã diễn tả thật xúc động sự cứng cỏi của người

vợ. Trước cái tình cảnh trớ trêu của cuộc đời có thể làm cho người ta dễ ngã gục, nhưng với

chị thì ngược lại. “Chị như con thiêu thân lao vào đống lửa thời gian. Nhưng chị không

chết, không cách gì chết được. Ngày mỗi ngày chị càng rắn lại, càng đanh hơn, vẻ bất cần

đã tràn ngập gương mặt chị” [43;101]. Đằng sau vẻ bất cần ấy là một tâm hồn yếu đuối, sợ

hãi đang cố gồng mình lên để chống chọi, để chờ đợi và hi vọng. Và ở Những mảnh đời

đen trắng, ta lại tưởng như nhà văn đang ngậm ngùi khóc cùng nhân vật của mình. “Thùy

Linh nhào tới ôm chầm lấy thím Hoa. Họ ôm nhau, hai người đàn bà ôm nhau quằn quại.

Và khóc, khóc rất to nhưng không ai biết thốt lên một lời nào cho đúng. Không nói được, họ

chỉ khóc, chỉ gục vào nhau mà nức nở. Chưa bao giờ họ khóc to thế. Trên con đường dẫn họ

về nhà, họ vừa dìu nhau vừa khóc, như là họ đang đưa tiễn một đám tang, có khi còn buồn

hơn thế” [47;92]. Chỉ bằng những tiếng khóc tức tưởi, uất ức của nhân vật, nhà văn đã làm

hiện lên cái đớn đau, khổ sở của họ trước những uẩn khúc khó nói thành lời. Một người đàn

bà đang day dứt về một tình yêu thời tuổi trẻ và một cô gái mới lớn đang sợ hãi trước sự giở

trò của tên khốn nạn. Ở đây, nhà văn chỉ đứng phía ngoài để quan sát, nhưng cũng không

tránh được sự chạnh lòng, buồn thương.

Trong các bài tản văn của Nguyễn Quang Lập kể về “thằng Dư”, “thằng Hoàn”, “con

Hà”, có khi bằng giọng kể hồn nhiên, tinh nghịch, nhà văn đã gợi lại cái không khí của tuổi

thơ. Nhưng khi nói đến sự không may, cái bi kịch của họ, âm điệu chủ đạo vẫn là sự xót xa,

có tiếng thở dài trầm ngâm trên những trang viết về hồi ức. Nhà văn kể về “thằng Dư” hai

đầu gối: “Nó khuân em như khuân một bao tải nặng trịch trên lưng. Em nó nằm sấp sau

lưng nó, hai chân quệt đất, cứ thế để cho nó kéo đi. Mình nói em mày sao, nó nói nóng.

Mình nói đem tao cõng xuống viện cho, nó nói không, cứ thế nhún nhún, đi đi. Mình giật lấy

em nó đòi cõng thì thấy em nó lạnh ngặt, cứng queo từ lúc nào. Mình nói em mày chết rồi.

Nó nói không, lầm lì kéo em đi, vừa đi vừa khóc” [46;17]. Chắc chắn, khi viết những dòng

này, cái vẻ lầm lì, vừa đi vừa nhún của “thằng Dư” vẫn còn có sức ám ảnh trong sự hồi

tưởng của tác giả, khiến ông không khỏi xót xa cho một phận đời. Viết về những người bạn

văn như Mai Hoa, Hồng Ánh, Trần Tiến, Bùi Giáng, Trần Dần,… giọng kể hóm hỉnh, hài

hước đóng vai trò chủ đạo, song, đôi lúc nhà văn cũng phải “mượn” đến chất giọng xót xa,

ngậm ngùi để chia sẻ cùng họ những khoảng lặng trong cuộc đời. Kể về Trần Tiến với một 70

kiếp du ca: “Anh ngồi im nghe anh em bàn tán, mặt mày buồn xo. Bất chợt Trần Tiến cất

tiếng hát. Anh hát bài Những đôi mắt mang hình viên đạn. Lúc đầu còn hát nhỏ sau anh hát

to, rất to. Sự bùng nổ cảm xúc hiếm hoi của Trần Tiến(…). Anh đột ngột dừng lại giữa

chừng, ngồi rũ ra không nói gì. Rất lâu sau anh ngước lên rưng rưng nhìn mình, nói Biển

Đông đang nổi sóng mà tao già mất rồi mày ạ. Khốn thế” [46;57]. Một Trần Tiến đầy nỗi

ưu tư, “rưng rưng” về chuyện chính trị nước nhà, bây giờ nhớ lại, điều đó cũng trở thành nỗi

“rưng rưng” trên ngòi bút của nhà văn.

Nguyễn Quang Lập viết về cái đau khổ, cái buồn thương của con người, viết bằng

những cảm xúc ngậm ngùi, xót xa, đó cũng sự bộc lộ những nỗi niềm suy tư, trăn trở của

chính nhà văn. Trước những con người khao khát yêu thương, khao khát hạnh phúc, những

số phận hẩm hiu và bất hạnh, ông không chỉ đang chia sẻ cùng họ mà còn khao khát cho họ

những gì còn khiếm khuyết trong tâm hồn. Tất cả đều xuất phát từ trái tim nhân hậu của nhà

văn hướng về cuộc đời và con người, để đồng cảm và yêu thương một cách chân thành.

Chất giọng xót xa, thương cảm trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập như những giọt nước

mắt trong trẻo và đẹp đẽ khơi dậy ở người đọc cái tình người, tình đời.

3.1.3. Giọng hài hước, hóm hỉnh

Ở các sáng tác được viết vào cuối những năm 80 của thế kỉ trước, Nguyễn Quang

Lập chọn cho mình một cách viết khá nghiêm ngắn, chỉn chu. Những chuyện được kể là

những cảnh éo le, những cuộc đời, số phận bất hạnh,… nên giọng điệu chủ đạo là sự trầm

tư, sâu lắng đầy suy tư, trăn trở. Hai mươi năm sau, vẫn là cái nhìn đau đáu vào cuộc đời,

vào hiện thực cuộc sống hôm nay, vẫn thương vẫn xót và từng khóc từng cười với những

con người, những chuyện đời nhưng nhà văn đã chọn cho mình một lối kể chuyện thật dí

dỏm, hài hước, làm bật lên những tiếng cười, những tràn cười sảng khoái, có những tiếng

cười vui, nhưng cũng có những tiếng cười ra nước mắt, cười mà đau.

Giọng hài hước, hóm hỉnh trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập trước hết được xuất

phát từ tính cách dí dỏm, ưa châm chọc của một con người đi nhiều biết nhiều, ham chơi và

thích đùa. Mặt khác, nó cũng bắt nguồn từ sự nhạy cảm nhưng vẫn bình thản để phản ứng

nhanh trước lối sống giả tạo, tầm thường, thói đạo đức giả, hay những hèn kém của con

người. Song, có đôi khi nó đơn giản chỉ là sự biểu hiện của một cá tính “ngông”.

71

Ở tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, chất giọng hài hước thật sự đắc dụng

trong việc tạo nên cái lố bịch, hèn kém và tầm thường của ông chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy.

Nhà văn tả cảnh ông Huy tập xe đạp thật buồn cười. Ông ta treo chiếc xe đạp lủng lẳng từ

trần nhà, rồi ngồi lên đó “cắm cổ đạp”. Đối với ông, “chỉ huy chiếc xe đạp là cả một nghệ

thuật” [47;16]. Và khi ông học chữ thì “vẽ cho được một chữ toát cả mồ hôi hột” [47;17].

Nhà văn đã cố tình dùng những từ to tát (chỉ huy) và bóng bẩy (nghệ thuật) để diễn tả thái

độ của ông Huy đối với một việc làm hết sức bình thường, nhỏ nhặt; dùng sai từ (“vẽ” thay

vì “viết”) để bộc lộ sự yếu kém của nhân vật. Qua giọng kể, lời kể hài hước do sự vênh lệch

giữa phương tiện và nội dung biểu đạt đem lại, nhà văn đã cố tình làm cho nhân vật này

hiện lên như một con rối đang làm trò. Do vậy, giọng hài hước ở đây mang ý nghĩa chế giễu

và châm biếm nhân vật.

Ở tản văn Nguyễn Quang Lập và các truyện ngắn đậm chất “khẩu văn” của ông,

giọng hài hước chủ yếu được thể hiện qua cách sử dụng những từ ngữ suồng sã, bỗ bã; cách

dùng các yếu tố tục, tiếng tục; hay ở lối diễn đạt câu văn một cách chủ ý để làm bật lên

những tràng cười sảng khoái.

Trong “Thằng Á, chị Du”, tài năng của “thằng Á” được tác giả phác họa như sau:

“Mỗi lần thi đứa nào đái xa hơn, nó không có đối thủ, bắn một phát dài sáu, bảy mét. Bọn

mình phục lăn” [46;28]. Trong Xóm bảy vợ, lối nói dân dã của người bình dân được phát

huy tối đa để tạo nên giọng điệu hài hước khi kể về ông Trần Chu, một người nhiều vợ đông

con mà tuyệt chưa bao giờ để xảy ra điều gì bất hòa. “Thằng Dục nói bác làm sao tài vậy, kể

chúng cháu nghe với. Ông cười hè hè nói thì cứ tụt quần ra mần thôi, khó chi”; “Thằng

Hoan nói nhưng các cô ở gần nhà làm sao mà đoàn kết? Ông nói đoàn kết chớ, bà mô kêu

ca ghen tuông, tui đè cổ mần cho cả đêm, trợn mắt ra, sau không dám kêu ca”[46;54]. Ở

Chuyện ma, kể về căn phòng khách có ma, và điều đó được chứng thực bằng hiện tượng

những người ngủ lại đêm ở đây đều bị “sờ mó” bởi hồn ma. Trong đó có đoạn văn đậm chất

“khẩu văn”, sử dụng những từ tục, tiếng chửi làm nên chất giọng tưng tửng, tếu táo khiến

người đọc cười nghiêng ngửa:

“Tối sau Bảo Ninh nói mày cút sang phòng khách ngủ để tụi tao ngủ đây. Mình cười

nói các ông hay nhỉ, tôi sang ngủ với ma còn các ông về ngủ với vợ tôi à? Bảo Ninh cười

khì khì nói ờ nhỉ, quên quên(…)” [46;80].

72

“Vừa chợp mắt Bảo Ninh bỗng vùng dậy hét vang đù mẹ thằng Lập nha! Mình ngồi

dậy hỏi sao. Bảo Ninh nghiến răng dơ nắm đấm đe đe: Mày sờ chim tao. Mình cười phì nói

bộ tôi không có chim sao phải sờ chim ông” [46;81].

Đọc đoạn văn trên, người đọc không chỉ cười sảng khoái mà còn có thể cảm thấy như

chính nhà văn đang kể lại câu chuyện ngay trước mắt mình. Hơn nữa, chắc chắn đó phải là

một người thích đùa cợt, thích châm chọc thì mới có được giọng kể như vậy. Ở đây, giọng

điệu hài hước đến mức sỗ sàng còn được tạo nên nhờ sự gần gũi, thiết thân giữa người kể

chuyện và những người bạn của mình trong câu chuyện. Cũng nhờ sự thân mật đó mà thậm

chí, với cả những chuyện được coi là nghiêm túc, tế nhị như trong Người đẹp, Phạm Ngọc

Tiến, Nhà văn thèm con trai,… nhưng qua lối kể hài hước của nhà văn, nó cũng trở thành

chuyện buồn cười, cái đáng cười. “Chiến dịch đẻ con trai” của vợ chồng Phạm Ngọc Tiến

vốn là chuyện chỉ có người trong cuộc mới biết, vậy mà qua cách kể, cách so sánh, ví von

hết sức tự nhiên, dí dỏm của nhà văn, người đọc cảm thấy như mình là người chứng kiến

quá trình “thực thi chiến dịch” của họ. “Đang sướng nhảy lên, vợ nó đẩy xuống, nói ngâm

mau lên. Vợ nó hòa nước sôi, lấy nhiệt kế đo đủ 40 độ rồi bảo nó ngồi vào chậu. Nó cằn

nhằn chưa thấy ai khủng bố hạ bộ chồng như vợ tôi đây. Vợ nó trừng mắt nói anh đừng có

nói tào lao, ngâm đủ 10 phút! Rồi vợ nó nằm ngửa nhìn đồng hồ. Nó ngồi ngâm, nhìn giàn

thiên lí tuyệt hảo của vợ nó đang phơi ra mà không làm gì được, tức muốn chết… vừa đủ 10

phút nhỏm đít đứng dậy thì chim cò cũng tong teo, đi đời nhà ma” [44;372]. Đành rằng,

không thể phủ nhận cái cười ở đây được bật ra từ nội dung câu chuyện. Nhưng phải qua

cách kể, lối kể vô cùng hài hước, tếu táo với một thái độ cố tình trêu ghẹo, châm chọc của

người kể chuyện thì nội dung mới được chuyển tải theo mục đích làm bật lên tiếng cười.

Chính lối kể chuyện đã cuốn hút sự chăm chú theo dõi của người đọc, đọc và cười, rồi tự

động lờ đi phần trăm sự thật của câu chuyện.

Việc xây dựng câu văn một cách có chủ ý cũng là một trong những cách tạo nên chất

hài hước cho câu chuyện được kể. Trong truyện ngắn Quê choa chí dị, giọng kể hài hước

được thể hiện qua những câu văn dài dòng, lủng củng, cùng với lối diễn đạt “huề vốn” được

tạo nên một cách cố ý:

“Người ta phát hiện một cánh tay người chết mà không rõ nguyên nhân. Cánh tay

được anh cu Thái chuyển lên thôn. Thôn khen ngợi anh cu Thái mưu trí dũng cảm và khẳng

định rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Tuy nhiên quản lý một cánh tay không phải nhiệm

73

vụ của thôn, thôn chuyển lên xã. Xã khen ngợi thôn đã nâng cao cảnh giác, giữ vững lập

trường và khẳng định việc khẳng định rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Mặc dù vậy quản

lý một cánh tay cũng không phải nhiệm vụ của xã, xã chuyển lên huyện. Huyện khen xã đã

nâng cao cảnh giác, giữ vững lập trường, năng động sáng tạo và khẳng định việc khẳng

định của xã về khẳng định của thôn rõ ràng đây là cánh tay của ai đó” [48;29].

Với lối kể chuyện như vậy, nhà văn đã khắc họa và tô đậm tính chất lôi thôi, rách

việc của lối sống và những quy cách kiểu làng quê.

Văn chương vốn có rất nhiều lối viết, lối kể, rất nhiều giọng điệu khác nhau. Trong

sáng tác của Nguyễn Quang Lập, ta cũng có thể tìm thấy sự đa dạng về giọng điệu. Có

những tác phẩm nhất quán một giọng điệu, cũng có những tác phẩm đan xen nhiều giọng

điệu. Tuy nhiên, trong ba giọng điệu mà người viết khái quát được trong sáng tác của

Nguyễn Quang Lập đã được nói ở trên, thì giọng hài hước, hóm hỉnh, cách kể chuyện dí

dỏm, tếu táo dù không phải giọng kể chủ đạo, nhưng là một trong những nét nổi bật nhất

làm nên phong cách nhà văn. Đó cũng là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Quang Lập, là

sự khác biệt rõ rệt nhất giữa Nguyễn Quang Lập và các nhà văn khác cùng thời. Các giọng

điệu được tạo nên từ một cái nhìn rất gần đối với con người và cuộc sống của một tâm hồn

nhạy cảm và nhân hậu. Dù viết về điều gì, viết bằng chất giọng nào thì sâu trong tất cả vẫn

là tấm chân tình của nhà văn dành cho con người và cuộc đời.

3.2. Cách xây dựng đoạn kết gợi nhiều suy cảm

Trong cấu trúc của một văn bản tự sự bao giờ cũng có đoạn kết. Nhưng đoạn kết của

một tác phẩm không phải bao giờ cũng mang ý nghĩa kết thúc câu chuyện được kể. Các văn

bản tự sự trong văn học trung đại, văn học dân gian, hay văn xuôi truyền thống nói chung

thường có kết thúc cụ thể, dạng kết thúc khép kín, dù đó là một kết thúc có hậu hay một kết

thúc bi kịch. Nhưng trong văn xuôi hiện đại, đặc biệt là văn xuôi những năm 80, khi mà

hiện thực cuộc sống được soi sáng từ nhiều góc độ, được phản ánh một cách sâu rộng thì

việc chọn lấy một kết thúc cho câu chuyện được kể dường như cũng trở thành nỗi trăn trở

không nhỏ của hầu hết những người cầm bút. Bởi khi đứng trước sự đa chiều của cuộc sống

và ý thức được tính phức tạp của cuộc đời, của số phận con người, nhà văn khó có thể tự

quyết cho cuộc đời nhân vật cũng như câu chuyện của mình hướng đến một kết thúc tốt đẹp,

và nếu phải chọn lấy một kết thúc gọi là hợp tình hợp lý thì càng khó hơn. Do đó, xu hướng

kết thúc khép lại câu chuyện là một kết cục bi kịch dường như là tính tất yếu của hiện thực 74

cuộc sống theo cảm quan hiện đại trong văn học sau 1975, nhưng phổ biến vẫn là xu hướng

kết thúc mở để người đọc tự chọn lấy một cách kết thúc theo ý mình cũng là sự lựa chọn

thông minh của người viết. Ở góc độ tổ chức tác phẩm theo ý đồ sáng tạo của tác giả, gần

đây là một lối viết khơi gợi nhiều hơn là thuyết lý, tuyên truyền, dạy bảo theo một công thức

định sẵn. Tác giả thường chọn cách “bỏ ngỏ” tác phẩm của mình, để lại một khoảng trống

cho người đọc cùng tham gia tranh luận, trở thành những người đồng sáng tạo. Nhiều tác

phẩm văn xuôi hiện đại vì thế mà gần như không có đoạn kết, tác phẩm khép lại nhưng nhà

văn vẫn “bắt” người đọc phải tự suy ngẫm để đi đến kết thúc cho câu chuyện theo một cách

riêng của mình.

3.2.1. Các kiểu đoạn kết

Một trong những điểm nổi bật làm nên tài kể chuyện của Nguyễn Quang Lập là cách

xây dựng đoạn kết khá đặc biệt, tạo được bất ngờ, ấn tượng và thường để lại một dư vang

dài trong lòng người đọc. Đoạn kết trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập nổi bật lên với

hai đặc điểm: thứ nhất là tính đa dạng các kiểu đọan kết, trong đó đáng chú ý là kiểu đoạn

kết không có tính kết thúc; thứ hai, dù là truyện ngắn, tiểu thuyết hay các câu chuyện trong

tản văn, có những kết thúc trọn vẹn, có những kết thúc dở dang nhưng nhìn chung đều

không thể làm vừa lòng những ai thích một kết thúc có hậu. Nhà văn thường dừng lại câu

chuyện ở sự dở khóc dở cười của các nhân vật, cái lưng chừng của sự việc hay những kết

thúc đắng lòng, những kết cuộc bi kịch, hoặc có khi nhà văn chẳng cần chọn lấy một cái kết

nào cho câu chuyện của mình, mà chỉ để người đọc tự suy cảm về nó.

Thông thường, một tác phẩm được xây dựng theo lối truyền thống sẽ có một kết thúc

khép kín, hướng đến một kết thúc cuối cùng, cụ thể cho toàn bộ nội dung câu chuyện. Một

số truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập cũng có đoạn kết được xây dựng theo hướng này,

nghĩa là sự việc và nhân vật là được nhà văn chọn lấy, định sẵn một kết cục cụ thể, rõ ràng.

Nhưng đáng chú ý là tất cả đều là cái kết cục đầy bi kịch của nhân vật: Ngày xửa ngày xưa

kết thúc cuộc đời lão Thiệt bằng việc biến lão thành con vượn mù và “chết đáng thương như

một con người; Người đàn bà đau đớn trở thành một bà điên trần truồng để trả giá cho

những việc làm của mình; Chuyện không có trong sự thật là cảnh người đàn bà treo cổ tự

vẫn bên cạnh con chó bị một nhát dao xốc ngược từ cổ họng ra sau ót, có lẽ đó là sự giải

thoát tốt nhất cho họ. Trong Vĩnh biệt mười chín con gà trống, người đàn bà đang vụt chạy

sang nhà ông hàng xóm bằng tất cả nỗi khao khát thì bị ám ảnh bởi cái nhìn của người

75

chồng quá cố, “Bà ôm ngực nấc lên, một luồng điện tê buốt chạy từ gót chân lên ngực bà.

Bà rơi xuống” [43;116]. Người đàn bà đã chết ngất đi trên những bước chân chạy đi tìm

hạnh phúc cho riêng mình;… Với dạng kết thúc này, nhà văn không chỉ giữ lấy quyền “định

đoạt” phần kết cho câu chuyện mà còn nhấn mạnh bi kịch, nỗi đau của nhân vật cũng như

“phơi bày” sự khắc nghiệt của cuộc đời.

Song, phần lớn tác phẩm của Nguyễn Quang Lập thường xây dựng đoạn kết không

có tính kết thúc sự việc, nghĩa là câu chuyện không có một kết thúc cụ thể, rõ ràng. Kết thúc

tác phẩm thường là sự việc chưa hoàn chỉnh, nhân vật chưa đi hết con đường đời của mình

cũng như số phận của họ vẫn chưa ngã ngũ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng câu chuyện thì vẫn

còn dở dang, nhân vật bị đặt ở cái lưng chừng của hoàn cảnh, sự việc không dừng lại ở đó,

mà người đọc phải tự tìm lấy một kết thúc cho câu chuyện. Đó là dạng đoạn kết mở hoặc tác

phẩm gần như không có đoạn kết. Trong các tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết, Nguyễn

Quang Lập cũng đã tạo ra những đoạn kết theo dạng này.

Trước đây, khi đọc Chí Phèo của Nam Cao, người đọc cũng từng trăn trở: Liệu thị có

đang mang cái thai của Chí Phèo hay không? không biết rồi đây thị sẽ sinh con trai hay gái?

Nó sẽ là một người lương thiện hay trở thành một kẻ như cha nó?... Thì bây giờ, với các

dạng đoạn kết không có tính kết thúc trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập, người đọc

cũng gặp phải cái trăn trở, day dứt tương tự.

Với dạng kết thúc mở, đoạn kết của tác phẩm có khả năng mở ra nhiều hướng phát

triển khác nhau cho sự việc và nhân vật. Do đó, người đọc hoàn toàn phải tự chọn lấy một

hướng kết thúc cho câu chuyện theo ý mình. Đoạn kết của Những mảnh đời đen trắng kết

thúc tác phẩm nhưng lại mở ra những cảnh đời, những phận người đang ngổn ngang, chồng

chéo, bày la liệt những phần đen trắng giữa cuộc đời: “Bây giờ cô (Thùy Linh) đang nằm

trong túp lều lá mía, thổn thức khóc gọi mẹ mình. Hoàng đang nằm trên hòn đá “Trịnh –

Nguyễn phân tranh” đau đáu nghĩ về cô. Ba Hoàng đang ngồi nói chuyện với cái bóng của

mình trên vách. Trần Hới đang cúi xuống bộ ngực non tơ của Lệ Minh… Ông Lê Đức Huy

vừa vồ được con rắn mối, ngồi nhai ngấu nghiến. Bỉ đang bịt miệng cười một mình. Họa sĩ

Tư đang ngồi trong phòng xét hỏi của thị trấn Đ. Bà Hiền đang vung roi múa hát…”

[47;291]. Tác phẩm dừng lại, nhưng nhân vật vẫn phải sống tiếp những phần đời còn lại của

mình. Rồi đây, Hoàng có còn tìm đến Thùy Linh? Liệu anh có đủ cao thượng để chấp nhận

cô và đi tiếp cái tình yêu đầu đời của mình hay không? Thùy Linh sẽ làm gì với đứa con

76

hoang của Trần Hới đang lớn dần trong bụng cô? Họa sĩ Tư có bị kết tội là phẩn tử phản

động, hay sẽ lại bình thản sống ngạo nghễ với đời, “ngất ngưởng” với cái quyền tự do của

riêng mình?... Tất cả những điều đó, nhà văn đã trao quyền định đoạt lại cho người đọc.

Ông chỉ để lại trên trang viết của mình cái bi kịch của một thời với những cuộc đời đen

trắng. Trong Hạnh phúc mong manh, cuối cùng Liên đã chọn cách dẫn thằng cu Nhơn ra đi

để trả lại hạnh phúc cho Mai. Thạc và Mai chạy đi tìm hai mẹ con Liên. Cuộc tìm kiếm ấy

sẽ đi đến đâu? Và liệu họ có còn quay lại được với nhau như Liên nghĩ? Hay Thạc sẽ phải

sống một mình để mãi day dứt về hai mẹ con Liên, và cả hai mẹ con Mai?... Có lẽ, Nguyễn

Quang Lập cũng không thể tự mình chọn lấy một cái kết nào có thể gọi là hợp lý cho câu

chuyện, chỉ để lại một cái nhìn đau đáu cho người đọc về bi kịch tình yêu và gia đình của

con người thời hậu chiến.

Ở một số tác phẩm có kết thúc mở, mặc dù đoạn kết không đi đến phần kết thúc sự

việc một cách hoàn chỉnh, nhưng cũng không mở ra nhiều hướng kết thúc cho câu chuyện,

mà người đọc có thể tìm thấy một diễn biến tiếp theo của sự việc đã được dự đoán trước ở

phần “điểm dừng” của câu chuyện. Trong Tiếng khèn bè, tiếng khèn của ông Nông như một

vật thiêng có thể trấn áp cơn điên loạn của cô giáo Hường, trả lại bình yên cho họ. Nhưng

khi tên Hùng (kẻ đã gây nên sự điên loạn của cô Hường) xuất hiện trở lại thì dường như

tiếng khèn bè đã không còn tác dụng nữa. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh ông Nông vẫn cứ

thổi hoài, thổi hoài, tiếng khèn len lỏi trong tiếng thét điên loạn của cô Hường. Câu chuyện

dừng lại ở đó, nhưng người đọc có thể tự hiểu rằng ngày nào tên Hùng vẫn còn tồn tại thì

ngày ấy tiếng khèn bè cũng trở nên vô nghĩa. Có thể, tiếng khèn bè sẽ xoa dịu cơn điên loạn

của cô giáo Hường trong một lúc nào đó, nhưng rồi tên Hùng sẽ lại xuất hiện và mọi việc sẽ

lặp lại. Ở Tiếng lục lạc, tác phẩm cũng như câu chuyện được dừng lại ở hình ảnh người bác

sĩ già đang thở dài nhìn ra ngoài sân, đại tá Chi đang hạnh phúc bên những người lính quay

tròn xung quanh, chờ đợi được trông thấy đứa bé, niềm hạnh phúc lớn nhất của ông. Với

“điểm dừng” này, người đọc hoàn toàn có thể viết tiếp diễn biến tiếp theo là sự đau đớn, hụt

hẫng của mọi người khi phải đón nhận một sự thật phũ phàng về hình hài dị dạng của đứa

bé mới sinh. Và cuối cùng là sự bế tắc, tuyệt vọng của hai vợ chồng anh Chi – chị Lành, vì

họ đã chẳng còn cơ hội để sinh con nữa. Đó là hướng phát triển tất yếu của sự việc trong câu

chuyện. Cái thở dài lặng im của bác sĩ Giàu không biết phải nói thế nào với bố của đứa bé

về cái điều nghiệt ngã kia, cũng chính là cái lặng im buồn thương, xót xa của nhà văn khi

phải viết tiếp câu chuyện là sự đau đớn tột cùng của nhân vật. Có lẽ vì vậy mà nhà văn chỉ 77

để câu chuyện dừng lại ở sự xuất hiện của bi kịch chứ không đẩy đến phần nhân vật phải đối

diện và nhận lấy bi kịch của mình. Từ “điểm dừng” của đoạn kết, người đọc sẽ tự tiếp nhận

phần nội dung tiếp theo của câu chuyện, và thường là phần đỉnh điểm của bi kịch, mà không

cần đến lời kể của người kể chuyện. Do đó, với dạng kết thúc này, nhà văn có thể giảm

tránh đi phần nào sự nghiệt ngã, phũ phàng của cuộc đời, cũng như hạn chế đi một phần nỗi

đau cho nhân vật của mình.

Các truyện ngắn Đò ơi, Sa mạc trắng, Bốn mươi chín cây cơm nguội lại là những

tác phẩm gần như không có đoạn kết. Nhà văn cũng không hề có chủ ý xây dựng phần kết

cho câu chuyện của mình. Đoạn kết của tác phẩm như một dấu chấm lửng cho câu chuyện

được kể. Ở điểm dừng của câu chuyện, nhà văn không bàn luận, không đánh giá, cũng

không gợi mở hay định hướng phần tiếp theo của diễn biến sự việc cũng như hành động của

nhân vật. Ở truyện ngắn Sa mạc trắng, kết thúc tác phẩm, nhà văn đã “ném” đôi dâm phu

dâm phụ giữa cái lưng chừng của bãi cát mênh mông, với phần con và phần người đang vật

lộn lẫn nhau trong mỗi người. Cái mênh mông, vô cùng của bãi cát cùng với sự đe dọa của

cái đói cái khát cũng chính là cái mênh mông của đời người, của cuộc trốn chạy với muôn

vàn những khó khăn mà họ đang phải đối diện. Ở truyện ngắn Đò ơi, nhà văn đẩy ông lái đò

đến trước nhà chồng của người đàn bà từng bị ông hiếp dâm, ông nghiến rắng đập cửa,

nhưng không một ai nghe thấy. Tác phẩm kết thúc, ông lái đò coi như bị “chết đứng” ở đấy.

Có thể là hôm nay, ngày mai, và cả những ngày sau nữa, ông vẫn đến, vẫn đập cửa, nhưng

vẫn không một ai mở cửa, không một ai nghe thấy, đó như một sự trừng phạt, một sự trả giá

cho những lỗi lầm của ông trong quá khứ. Đoạn kết của Bốn mươi chín cây cơm nguội là

cái cảm giác mát rượi của người đàn bà bốn mươi tuổi đang áp mặt mình vào thân cây cơm

nguội để tự lừa dối mình đó là gương mặt, hay khuôn ngực của người đàn ông. Cứ thế mà

mát rượi và mát rượi. Kết thúc tác phẩm, nhà văn vẫn đang “cột chặt” nhân vật ở cây cơm

nguội thứ bốn mươi chín để tô đậm, để nhấn mạnh nỗi cô đơn, cũng như sự khao khát tột độ

của người phụ nữ về hạnh phúc ái ân. Chính ở cái lưng chừng của sự việc là những suy tư,

chiêm nghiệm của người đọc về câu chuyện được kể trong tác phẩm.

Với các dạng đoạn kết không có tính kết thúc sự việc, người đọc bị đặt vào tình thế

“buộc” phải trở thành người đồng sáng tạo với nhà văn. Nhờ đó, người đọc không chỉ có

cảm giác được dự phần vào câu chuyện, mà đôi khi còn có thể bắt gặp chính mình trong đó.

78

Và như vậy, việc viết tiếp câu chuyện có thể tạo hứng thú cho người đọc trong quá trình tiếp

nhận tác phẩm.

3.2.2. Tính chất “khoảng lặng” của đoạn kết

Nổi bật lên trong các dạng đoạn kết của Nguyễn Quang Lập, dù là đoạn kết khép kín

hay đoạn kết mở, thì vẫn là cái cảm giác tê buốt có sức ám ảnh và tạo dư vang trong cảm

nhận của người đọc về một nỗi đau âm ỉ, dai dẳng. Kết thúc trong sáng tác của Nguyễn

Quang Lập là kết thúc buồn, kết thúc đắng lòng, kết thúc không có hậu. Hoặc là tác phẩm

dừng lại ở “cái chết” của nhân vật, hoặc là nhân vật vẫn sống bằng sự đau đớn trong tâm

hồn. Tất cả đã để lại một khoảng lặng lớn trong suy cảm của người đọc. Đọc xong Ngày

xửa ngày xưa, người ta vẫn thấy thương cho cái phận đời của lão Thiệt đã không được sống

như một con người; đóng lại những trang Đò ơi, ta vẫn nghe đâu đó tiếng đập cửa, tiếng gọi

đò giữa những tiếng mưa, tiếng gió; kết thúc Bốn mươi chín cây cơm nguội, ta vẫn không

khỏi chạnh lòng thương cảm trước cái khao khát về hạnh phúc ái ân của người phụ nữ; và

khép lại Những mảnh đời đen trắng vẫn còn hiện ra trong suy cảm của người đọc là những

mảng đen trắng chồng chéo nhau giữa cuộc đời, đắng đót, xót xa…

Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập như Tiếng kèn Trompet, Sa mạc trắng,

Đò ơi, Tiếng khèn bè, Chuyện sót lại ở thung lung Chớpri, Bốn mươi chín cây cơm

nguội… được kết thúc bằng sự xuất hiện của dấu chấm lửng, để lại một cảm giác ngậm

ngùi, đau xót.

Có khi, nhà văn mượn đến một cách diễn đạt có phần tha thiết, sâu lắng để khơi gợi

một chút miên man, bàng bạc ở đoạn kết của tác phẩm, cũng là để nhấn mạnh cái xót xa,

đắng lòng của câu chuyện. Trong Vĩnh biệt mười chín con gà trống là hình ảnh “Trăng

sáng quá, sáng đến nỗi từ xa, rất xa, vẫn thấy máu trong ngực bà đang chảy” [43;116];

trong Tiếng khèn bè, ông Nông ôm chiếc khèn thổi hoài, thổi hoài… “Ông nghe thấy tiếng

khèn bè đang bay lên, chao đảo, lại lên cao, cao mãi… phía trời xanh” [43;242]; ở Những

ảnh đời đen trắng, kết thúc tác phẩm là hình ảnh những mảnh đời đang được bày la liệt,

ngổn ngang, chồng chéo “vào lúc nắng đã tắt, li ti những ngôi sao mờ, đấy là một buổi

chiều ảm đạm của thị trấn” [47;291]. Các đoạn kết khép lại tác phẩm nhưng lại mở ra một

khoảng lặng ở người đọc, là những day dứt khôn nguôi về số phận con người và sự khắc

nghiệt của cuộc đời.

79

Trong tản văn Nguyễn Quang Lập, những câu chuyện được kể là những lát cắt của

hồi ức được viết lại, không đầu, không cuối. Nhưng kết thúc trang viết, kết lại câu chuyện

kể vẫn thường là những nỗi niềm đau đáu về cuộc đời và con người. Khép lại trang viết về

Thằng hai đầu gối là hình ảnh thằng Dư khuân trên vai mình đứa em gái đã chết, “lầm lì

kéo em đi, vừa đi vừa khóc, mắt trái dầm dề nước mắt, mắt phải dầm dề màu” [46;17]. Viết

về “con Hà” trong Kí ức năm hào, hình ảnh cuối cùng đọng lại trên trang văn của Nguyễn

Quang Lập cũng như ấn tượng lớn đối với người đọc là cảnh “Con Hà nằm trên tấm chiếu

hoa trải giữa sân, phủ một tấm vải trắng trùm kín đầu. Không thấy gì hết, chỉ thấy bàn tay

nhỏ xíu của nó chuồi ra khỏi tấm phủ đang nắm chặt khư năm hào” [46;27]. Ông cu Hoi

đọc sang sảng 400 câu vè kể về chuyện đời mình, “đọc xong thì cấm khẩu, đi” [46;130].

Anh Thu, một người sống ngay thẳng, lương thiện, cuối cùng bị tội ăn cắp chỉ vì nghe lời

thầy bói, kết thúc trang viết của Nguyễn Quang Lập, “anh ngửa cổ cười hậc một tiếng, nói

thì cũng coi như xong một đời, có gì đâu” [46;111]. Người bạn văn Trần Dần “chống gậy

đứng lặng lắc phắc nhìn như xé xuống đáy hồ(…). Rất lâu sau mới cất tiếng rung rung, nói

Tạo hóa là trời cho, phàm trời cho cái gì không lo giữ, bỉ của trời, thì có ngày rước lấy họa

đó em” [46;197]… Ngay cả với những câu chuyện hài hước, tưng tửng, có vẻ như kể cho

vui, nhưng phần cuối câu chuyện vẫn là cái khắc khoải, đắng lòng của nhà văn. Trong

Thằng Á, chị Du, kể về cái tật thích rờ con gái của thằng Á, nhưng chưa bao giờ nó đụng

được đến chị Du, người mà nó “mê nhất”, còn chị Du thì chẳng ưa gì thằng Á. Và kết lại

những dòng hồi ức ấy là một hình ảnh đầy xúc động “thằng Á đi bộ đội, đến năm 1974 thì

báo tử. Tự nhiên thấy chị Du đeo tang, chị cuốn cái tang trắng trên đầu, đi từ đầu làng đến

cuối xóm, mặc kệ ai muốn nói gì thì nói” [46;33].

Ở đoạn kết của nhiều bài tản văn, Nguyễn Quang Lập thường trực tiếp bộc lộ cảm

xúc của mình về nhân vật và câu chuyện được kể. Mặc dù có những cách diễn đạt khác

nhau, nhưng chung quy lại vẫn là cảm giác buồn thương, tiếc nuối về những chuyện “buồn

vui một thuở”, như: “Buồn ơi là buồn” (kể về thằng sứt môi), “mình nghẹn đắng” (chuyện

Chẳng biết vui hay buồn), “mình ngồi yên rưng rưng, không biết nói sao” (kể về Tết miền

thơ ấu), “Bốn chục năm rồi, nhớ đến phút giây ấy vẫn còn đắng” (kể về nụ hôn đầu),

“Chào Sài Gòn nhé, lần này vào sao buồn thế” (Chín khúc buồn thiu), “viết đến đây thì

ngồi khóc” (kể về con chó Giôn),… Chính điều đó đã làm cho đoạn kết của Nguyễn Quang

Lập tăng thêm khả năng dồn nén cảm xúc, khơi gợi mối suy cảm cho người đọc, đồng thời

khắc sâu ấn tượng với người đọc về câu chuyện, về nhân vật được nói đến. Nhờ vậy mà 80

những câu chuyện tưởng chừng như rất dung dị, đời thường, được kể một cách đơn giản,

bình thường nhất nhưng lại có sức sống không nhỏ trong ấn tượng của người đọc.

Những đoạn kết không mang tính kết thúc, câu chuyện bỏ ngỏ cùng với tính chất

khoảng lặng được tạo nên đã mở ra những chiều kích khác nhau trong tâm tưởng, suy nghĩ

của người đọc. Những số phận bất hạnh, những cuộc đời éo le, những tình cảnh ngang trái

được mở ra buộc người đọc phải suy cảm về nó. Nói như nhà lý luận phê bình văn học

Huỳnh Như Phương: “Xã hội chúng ta bây giờ là một cuộc thảo luận lớn. Văn học cũng là

một cuộc thảo luận lớn” [87;297]. Và với những đoạn kết gợi nhiều suy cảm như trong sáng

tác của Nguyễn Quang Lập, nhà văn đã kéo người đọc bước vào cuộc chơi văn chương của

chính mình, để cùng bàn luận, cùng lý giải về các hiện tượng cuộc sống.

3.3. Cách tạo lập diễn ngôn trần thuật mang đậm cá tính sáng tạo

3.3.1. Diễn ngôn trần thuật và diễn ngôn trần thuật trong văn xuôi hiện đại

3.3.1.1. Một văn bản trần thuật được cấu tạo bởi một hệ thống các diễn ngôn, được

chia ra thành hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người nhân vật và diễn ngôn của

người kể chuyện.

Diễn ngôn của nhân vật là thành phần diễn ngôn trực tiếp. Với nguyên tắc miêu tả lời

nói, văn học có thể tái hiện mọi biểu hiện bên ngoài của con người như nét mặt, giọng điệu,

thái độ,… hoặc trong hoạt động nội tâm của con người. Vì vậy, diễn ngôn của nhân vật

không chỉ là lời thoại của nhân vật được thể hiện trực tiếp trong một cuộc thoại, mà đó còn

là lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Xét ở góc độ cách thức hoạt động giao tiếp, diễn ngôn

trực tiếp, hay diễn ngôn của nhân vật là một hệ thống gồm hai thành phần: diễn ngôn đối

thoại và diễn ngôn độc thoại. Nói tóm lại, có thể hiểu diễn ngôn của nhân vật là diễn ngôn

thoại.

Diễn ngôn của người kể chuyện/người trần thuật là thành phần diễn ngôn gián tiếp.

Nó chứa đựng chức năng trần thuật như giới thiệu, miêu tả, bình luận, phân tích, đánh giá

đối tượng. “Lời trực tiếp là một hiện tượng độc đáo, có nhiều dạng thức” [73;288]. Nó có

thể là lời kể một giọng, hoặc lời kể nhiều giọng.

3.3.1.2. Trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975, đặc biệt là từ 1986 trở đi, hầu

hết các nhà văn đương đại đều có ý thức sâu sắc về bối cảnh sáng tạo mới. Do đó, nhiều nhà

văn đã thể nghiệm sự đổi mới trong văn học ngay ở cách tạo lập diễn ngôn mang tính sáng

81

tạo cá nhân, họ chủ động thay đổi cách nhìn của mình, thể hiện bản lĩnh cá nhân trong việc

cố gắng xác lập lại các quy tắc vận hành của diễn ngôn văn chương. Những diễn ngôn kiểu

mẫu của tư duy sử thi được dùng để phát ngôn về dân tộc, cách mạng đã không còn vị trí.

Diễn ngôn văn học bây giờ chỉ chú trọng vào sự thật, đòi hỏi một cách nói thật mang tính

nghệ thuật và có tư tưởng sâu sắc. Trong văn học trung đại, cũng như các tác phẩm tự sự

của văn học dân gian, người kể chuyện thường không xuất hiện trong tác phẩm, diễn ngôn

của người kể chuyện hoàn toàn mang tính trung tính, chỉ thuần túy kể lại sự kiện, nhân vật.

Đến văn học hiện đại, ý thức cá nhân đã thâm nhập vào giọng điệu của người kể chuyện một

cách rõ nét và sâu sắc. Do đó, diễn ngôn của người kể chuyện thường mang tính phong cách

hóa, đó có thể là phong cách riêng của chính nhà văn, nhưng cũng có thể là sự giễu nhại

theo phong cách của một đối tượng nào đó nhằm thực hiện ý đồ của người kể chuyện.

Từ những nhà văn hiện đại ở giai đoạn trước như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng,… các thành phần diễn ngôn đã được vận dụng khá linh hoạt để tạo hiệu quả

thẩm mĩ cho một tác phẩm văn học. Nam Cao là nhà văn khá nhuần nhuyễn trong việc kết

hợp lời của người kể chuyện và lời của nhân vật để tạo thành lời nửa trực tiếp, hoặc lời

phong cách hóa. Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan lại thành công với lời văn giễu nhại,

châm biếm.

Đến thế hệ các nhà văn trưởng thành từ sau 1975, việc tạo lập và điều phối các thành

phần diễn ngôn càng được chú trọng. Đó là một trong những nét đổi mới quan trọng của văn

xuôi sau 1975, đồng thời đã thể hiện những cố gắng sáng tạo để đổi mới của các nhà văn ở

giai đoạn này. Có thể coi Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có lòng nhiệt thành khá lớn trong

nỗ lực đổi mới văn xuôi với việc tổ chức các diễn ngôn trần thuật một cách sáng tạo.

3.3.2. Sự vận dụng và điều phối linh hoạt các thành phần diễn ngôn trần thuật

trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập

Trong một văn bản tự sự, diễn ngôn của người kể chuyện thường chiếm vai trò chủ

đạo trong sự tương tác các diễn ngôn. Tuy nhiên, trên thực tế, dù là diễn ngôn của người kể

chuyện hay diễn ngôn của nhân vật cũng đều phụ thuộc vào sự điều phối của chính nhà văn

trong quá trình tổ chức, sắp xếp các diễn ngôn trần thuật. Hay nói cách khác, nhà văn có thể

sử dụng vai trò điều phối tương tác diễn ngôn ở một mức độ nào đó, theo một cách nào đó

nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật riêng của mỗi người trong từng ngữ cảnh trần thuật cụ thể.

Với sự vận dụng linh hoạt, uyển chuyển các diễn ngôn trần thuật, nội dung sự việc sẽ không

82

bị khô cứng trong sự đơn điệu, nhàm chán, mà được chyển tải một cách sinh động, giàu khả

năng khơi gợi cảm xúc ở người đọc.

Nhìn chung, truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập ít có lời thoại, đa phần là lời của

người kể chuyện. Đến tản văn, lời thoại xuất hiện đậm đặc hơn, song cũng bị “cương tỏa”

bởi quyền nói của người kể chuyện. Tác phẩm của Nguyễn Quang Lập, trừ tiểu thuyết

Những mảnh đời đen trắng, còn lại hầu như không có sự xung đột kịch tính, xung đột quan

điểm nên không có sự đối thoại, tranh luận giữa các nhân vật. Lời thoại chỉ xuất hiện khi

cần thiết để làm nổi bật một nét tính cách, hoàn cảnh nào đó của nhân vật. Diễn ngôn trần

thuật trong tác phẩm phần lớn là lời của người kể chuyện.

Đối với diễn ngôn gián tiếp, tức diễn ngôn của chủ thể trần thuật, Nguyễn Quang Lập

sử dụng diễn ngôn kể là chủ yếu. Với vai trò chủ đạo của diễn ngôn gián tiếp, người kể

chuyện chiếm lấy quyền kể, quyền thể hiện nhân vật bằng lời của mình, ngay cả nội tâm

nhân vật cũng được thể hiện qua miêu tả của người kể chuyện. Do đó, nhân vật ít có cơ hội

được tự bộc lộ chính mình bằng lời thoại. Tuy nhiên, trong quá trình trần thuật, nhà văn đã

khéo léo kết hợp các diễn ngôn kể, diễn ngôn tả, đoạn bình luận, trữ tình ngoại đề hay lời

cảm thán bộc lộ cảm xúc trực tiếp của người kể chuyện.

Mở đầu truyện ngắn Đò ơi là sự xuất hiện hình ảnh ông lái đò. Qua lời kể và cách

miêu tả sinh động của người kể chuyện, dáng vẻ trầm lặng của ông lái đò trở thành hình

tượng có sức ám ảnh xuyên suốt tác phẩm.

“Người lái đò leo lên bờ, đứng trên một mô đất cao, chống nạnh ngó trân trân về

phía bên kia bờ sông (a), ông đứng yên như một pho tượng đúc sẵn hàng giờ liền (b). Và khi

nắng tắt hẳn, dòng sông trở nên phẳng lặng, chuyển sang màu nâu nhạt (c) thì ông lẫn vào

hàng trăm cây bần mọc rậm rạp ở đây (d). Đến gần có thể nhầm đó là một cây bần chết,

rụng lá đã lâu ngày” (e) [43;155].

Đoạn văn trên kể về một việc làm được lặp lại mỗi ngày của ông lái đò. Trong đó,

các diễn ngôn (a), (d) thuật lại hành động; diễn ngôn (b), (e) miêu tả dáng vẻ của ông lái đò

bằng biện pháp nghệ thuật so sánh; diễn ngôn (c) miêu tả hoàn cảnh không gian, thời gian.

Nhờ đó, sự việc không chỉ được kể lại mà còn được khắc sâu, nhấn mạnh để làm nổi bật

hình tượng nhân vật.

83

Trong truyện ngắn Đợi đến mùa hoa phượng, kiểu diễn ngôn được thay đổi liên tục,

mạch diễn ngôn được dẫn dắt từ từ: “Đêm chưa tàn, rượu vẫn còn, nhưng chị và ông đều đã

say (a). Cuộc say không tính trước (b). Mà đã mấy ai tính trước những cuộc say (c)”

[43;124]. Có thể thấy, diễn ngôn (a) là lời kể. Đến diễn ngôn (b) là lời bình luận sự việc

được kể ở trước đó. Sang diễn ngôn (c) lại là lời trữ tình ngoại đề mang tính triết lý, chiêm

nghiệm về cuộc đời. Cách tạo lập và sắp xếp diễn ngôn của người kể chuyện một cách khéo

léo, tinh tế như vậy có ý nghĩa nhấn mạnh việc cô Mị và ông hiệu trưởng say không chỉ là

chuyện thường ngày, mà dường như những cuộc say đó còn chứa đựng bao nhiêu là nỗi

niềm, tâm sự của họ. Có thể bắt gặp kiểu diễn ngôn là lời trữ tình ngoại đề, những suy tư,

chiêm nghiệm của tác giả xen kẽ với lời của người kể chuyện trong quá trình tự sự ở các tác

phẩm khác như Những mảnh đời đen trắng, Hạnh phúc mong manh, Tiếng lục lạc,…

Cách xây dựng diễn ngôn vừa kể, vừa xen lẫn lời trữ tình ngoại đề, bộc lộ thái độ

trực tiếp của người kể chuyện như vậy xuất hiện khá phổ biến trong các bài tản văn của

Nguyễn Quang Lập. Nhờ đó mà các câu chuyện kể luôn sinh động, hấp dẫn, bởi người đọc

không chỉ tìm thấy nội dung một sự việc được kể lại mà còn hiểu được thái độ, tình cảm của

nhà văn đối với những câu chuyện còn lưu lại trong kí ức của mình nói riêng, và với con

người, cuộc sống nói chung. Trong bài tản văn Kí ức năm hào, tác giả vừa thuật lại nội

dung sự việc, vừa trực tiếp bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình.

“Mạ cười xoa đầu nói giỏi hè giỏi hè. Rồi rút cho mình năm hào. (a)

Sau này có lúc mình làm đến vài trăm triệu nhưng chưa bao giờ có được cảm giác

hân hoan như khi cầm năm hào mạ cho ngày ấy. (b)

Bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy rưng rưng. (c)

Mình cầm năm hào chạy ú xuống nhà con Hà xì tiền ra khoe, nói tao có năm hào.”

(d) [46;24].

Hai diễn ngôn (b), (c) trong đoạn văn trên là lời trữ tình ngoại đề, có ý nghĩa nhấn

mạnh giá trị năm hào đối với tuổi thơ, đó là một trong những kí ức có sức sống mạnh mẽ.

Đồng thời cũng bộc lộ chân dung con người tác giả qua thái độ trân trọng những giá trị đẹp

đẽ của quá khứ.

Diễn ngôn của người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập không hoàn

toàn là lời của chủ thể trần thuật mà có sự thay đổi, chuyển biến một cách linh hoạt. Để

84

thuật lại nội dung sự việc một cách bình thường, khách quan, tức người kể chuyện đứng ở

ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên ngoài, nhà văn sử dụng loại diễn ngôn đơn thuần là của

người kể chuyện. Tuy nhiên, “Người tường thuật một mặt cố tách mình ra khỏi câu chuyện,

nhưng mặt khác khi cần thiết lại hòa nhập mình với nhân vật để phơi bày toàn bộ thế giới

nội tâm của con người” [38;168]. Khi đó, người kể chuyện đã lấy thế giới nội tâm của nhân

vật làm chỗ đứng để kể chuyện, tức chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên

trong. Do điểm nhìn của chủ thể trần thuật gần như trùng khít với điểm nhìn của nhân vật,

nên nhà văn đã lựa chọn kiểu diễn ngôn nửa trực tiếp hoặc phong cách hóa để trần thuật.

Diễn ngôn của người kể chuyện lúc này sẽ do dòng suy nghĩ, ý thức của nhân vật chi phối,

dẫn dắt câu.

Dẫn chứng với truyện ngắn Hạnh phúc mong manh, điểm nhìn trần thuật được xê

dịch liên tục, do đó, diễn ngôn của người kể chuyện cũng được thay đổi một cách linh hoạt,

sáng tạo. Người kể chuyện khi thì đứng ở vị trí của nhân vật Liên để kể: “tám năm nay – từ

ngày giải phóng miền Nam, chị từ giã đời quân ngũ, đưa con về quê nhà, thấp thỏm đợi chờ

anh. Chờ mãi (…) rồi cũng đến lúc chị chua xót nhận ra: Anh sẽ mãi mãi không thuộc về

chị nữa, hạnh phúc đã tuột khỏi vòng tay của chị” [42;133]; khi thì đứng ở nhân vật thằng

cu Nhơn: “Sáu năm nay nó luôn bấu víu vào một tao gióng, lon ton chạy theo nồi cháo

miếng canh của mẹ đi khắp mọi đường ngang ngõ dọc thành phố Quy Nhơn, bao giờ nó

cũng dừng lại trước ngõ nhà người ta, chỉ vậy thôi để rồi lại dừng lại trước ngõ nhà người

khác(…). Nó không hề thấy một người thân thuộc nào trong “Thành phố cháo miến canh”

của mẹ nó” [42;126]; có khi lại đứng ở nhân vật Thạc: “Anh không ngủ được, không cách gì

ngủ được. Đã hơn một tháng, từ ngày Liên mang con về đây, anh như người rối loạn tâm

thần. Đầu tiên là mừng rỡ, mừng đến phát cuồng(…). Sau đó là những phút sượng sùng.

Sượng sùng và bối rối khi anh bảo với chị rằng anh đã có vợ” [42;132]. Bằng cách thay đổi

điểm nhìn như vậy, người kể chuyện có điều kiện tiếp nhận và thuật lại các sự vật, hiện

tượng bằng con mắt của nhân vật, suy nghĩ, đánh giá của nhân vật. Các đoạn văn trên về

hình thức là lời của người kể chuyện, nhưng rõ ràng với việc sử dụng dày đặc những từ ngữ

chỉ cảm giác và suy nghĩ, cho thấy người kể chuyện đã dõi theo thế giới tâm tưởng của nhân

vật như chính họ đang tự nhận thức, tự cảm thấy. Sự linh hoạt của nhà văn trong quá trình

xây dựng diễn ngôn của người kể chuyện đã có tác dụng rất lớn trong việc phản ánh nội tâm

nhân vật một cách cụ thể, sinh động, làm nổi bật lên hoàn cảnh bi kịch của từng nhân vật.

Với các diễn ngôn xuất phát từ điểm nhìn ở nhân vật Liên thì bi kịch của chị là bi kịch của 85

một người mẹ đơn thân, sống lầm lũi và cay cực giữa cuộc đời, đau đớn và nhẫn nhục với

bao mất mát, khao khát kiếm tìm lại hạnh phúc đã lạc mất để rồi nhận ra hạnh phúc sẽ

không bao giờ thuộc về mình. Và với các diễn ngôn từ điểm nhìn nhân vật cu Nhơn thì bi

kịch của nó là bi kịch của một đứa trẻ với tuổi thơ gắn liền cái khổ, cái nghèo của mẹ và

thèm khát được có ba. Tương tự như vậy với Thạc thì anh trở thành người bị kẹp giữa trong

bi kịch tình yêu và gia đình.

Kiểu diễn ngôn của người kể chuyện được nhìn bằng cảm xúc, tâm trạng của nhân

vật xuất hiện khá phổ biến trong tiểu thuyết và các truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập. Bởi

nhân vật chính ở các tác phẩm này đều mang những khuất lấp trong thế giới nội tâm của

mình. Và với vai trò chủ đạo trong tác phẩm, diễn ngôn của người kể chuyện đã chiếm lấy

phần phản ánh thế giới cảm xúc, tâm hồn của họ một cách sâu sắc, tinh tế. Trong truyện

ngắn Đợi đến mùa hoa phượng, diễn ngôn của người kể chuyện khách quan, và diễn ngôn

của người kể chuyện đứng ở vị trí của nhân vật được đan xen nhau khi kể về ông hiệu

trưởng: “Ông trân trố nhìn chị rồi vồ lấy chai rượu tu ừng ực (a). Cần phải say nữa (b). Mỗi

ngày cần phải làm cho mình say thêm, sao cho toàn bộ ký ức ba mươi năm ngập chìm trong

rượu (c). Khổ thay, thứ gì ông cần nhấn chìm thì nó lại nổi lên, dập dềnh trong đời sống

thường nhật của ông, làm cho ông không khi nào được thanh thản” (d) [43;125]. Trong

đoạn văn, diễn ngôn (a) là lời của người kể chuyện khách quan, còn các diễn ngôn (b), (c),

(d) là lời người kể chuyện đứng ở vị trí của nhân vật để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng,

tình cảnh của nhân vật. Với việc đan xen các kiểu diễn ngôn như vậy, đoạn văn không chỉ

kể lại hành động “lấy chai rượu tu ừng ực” của ông hiệu trưởng, được thể hiện qua diễn

ngôn đầu tiên mà còn lý giải nguyên nhân của hành động đó, đồng thời thể hiện tình cảnh

khổ sở của ông hiệu trưởng, được thể hiện qua các diễn ngôn còn lại.

Tương tự như vậy, với tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, người kể chuyện vừa

kể, vừa dừng lại phân tích, mổ xẻ những suy tư, trăn trở của Đại úy Thìn:

“Đại úy vẫn ngồi nhổ râu, mồ hôi chảy đầm đìa. Ông đã nhận ra, mỗi lúc một sâu

sắc thêm, tính chất sai lầm về những ứng xử của mình đối với vợ ông và Họa sĩ Tư.

Nếu chỉ riêng Họa sĩ không thôi, Đại úy sẽ chẳng ân hận gì sất (…). Chưa bao giờ

ông nhận Họa sĩ là em mình, “nó ở bên kia giới tuyến” – nhiều lần ông công bố thế với mọi

người. Đến lúc này ông vẫn giữ nguyên lập trường, không một xê dịch nhỏ.

86

Nhưng với thím Hoa thì khác. Đó là vợ ông(…). Vậy mà ông đã xử sự với thím còn tệ

hơn xử sự một tên tù binh Pháp. Đây là phép so sánh mà Đại úy đã nghĩ tới. Càng nghĩ

càng đau lòng”. [47;114].

Ở đây, người đọc không chỉ thấy cảnh thao thức, trằn trọc của Đại úy mà qua sự phân

tích cặn kẽ của người trần thuật còn có thể cảm thấy như nhân vật đang tự đối diện với

chính mình, tự phân tích, lý giải và phán xét những hành động nhẫn tâm mà ông đã làm với

Họa sĩ Tư và thím Hoa. Qua đó, người đọc không chỉ tiếp nhận sự việc mà còn hiểu được sự

day dứt khôn nguôi, cũng như bản chất của nhân vật.

Chủ thể trần thuật trong quá trình trần thuật, đôi khi còn tạt ngang những đoạn đối

thoại, tâm tình với nhân vật, với người đọc, vừa thể hiện thái độ thương cảm của nhà văn

với nhân vật, vừa khơi gợi sự đồng cảm nơi người đọc dành cho nhân vật. Ở tiểu thuyết

Những mảnh đời đen trắng, người kể chuyện tỏ ra đang đồng cảm với cuộc trốn chạy đầy

tội lỗi của Họa sĩ Tư và thím Hoa: “Hình như, cuộc ra đi được họ quyết định trong chớp

nhoáng, trong những phút giây éo le nhất, và đi, vội vội, vàng vàng. Đi vậy mà đi? Lấy gì

mà ăn? Áo đâu mà thay?” [47;195]. Những câu văn với hình thức câu hỏi có ý nghĩa nhấn

mạnh tình cảnh bế tắc của hai con người khốn khổ, đồng thời khơi gợi ở người đọc một sự

đồng thuận với thái độ, tình cảm của tác giả. Trong Hạnh phúc mong manh là sự thương

xót đối với Mai: Hình như chị vừa rũ sạch được một cái gì vừa nãy hãy còn nặng trĩu trong

ngực mình. Chị thấy mình linh động hẳn lên. Chị muốn hát? Không. Muốn nhảy? Không.

Muốn ném cái gì thật xa? Không. Chị không muốn gì hết. Nhưng chị cảm thấy toàn thân

đang bốc cháy (…). Chị chạy đến một tấm gương lớn. Một phụ nữ khỏa thân đang nhìn chị”

[41;136]. Người kể chuyện vừa kể, vừa đặt ra câu hỏi rồi tự trả lời như đang đối thoại với

người đọc trong quá trình tự sự.

Về diễn ngôn trực tiếp của nhân vật, như đã nói, trong phẩm tiểu thuyết và các truyện

ngắn của Nguyễn Quang Lập thường ít có lời thoại, song nhà văn luôn có dụng ý trong việc

bố trí, sắp đặt, giản lược hay gia tăng các lời thoại, cuộc thoại sao cho phù hợp với ngữ cảnh

cụ thể. Trong truyện ngắn Hạnh phúc mong manh, khi Thạc và Liên bất ngờ gặp lại nhau

sau bao nhiêu năm thất lạc, họ cứ muốn quấn lấy nhau không rời, thì thằng cu Nhơn bước

vào, nó chìa ra một quả trứng chim.

- Ô – anh nói – Con nhặt ở đâu đấy?

87

- Ở trên cây ổi, ba à – nó hí hửng đưa quả trứng cho anh.

- Con đừng leo trèo linh tinh – chị nói

- Chắc là còn hai quả nữa – anh nói

- Con không thấy ba à, hình như nó nở thành chim mất rồi – nó nói.

- Chưa đâu – anh nói – chắc là con tìm chưa kỹ.

- Đừng có leo trèo linh tinh – chị nói

- Thế thì con sẽ tìm tiếp – nó nói

- Ừ – cố lên, con… – anh nói [42;131].

Qua cuộc đối thoại trên, người đọc dễ dàng nhận ra “ý đồ” của người cha và sự ngây thơ của

đứa con trai anh. Cái hạnh phúc tưởng đã đánh mất, giờ đây lại bất chợt được tìm thấy, bao

nhiêu cảm xúc trong anh như muốn vỡ òa trong sự âu yếm cùng chị. Không thể để con trẻ

thấy cảnh âu yếm của người lớn, nên anh đang cố tìm cách để xua đứa con trai ra ngoài, để

chỉ còn lại mình anh và Liên trong căn phòng.

Ở tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, cốt truyện có sự xung đột giữa các giai

cấp, các thế hệ. Và để thể hiện những mối quan hệ đối kháng ấy nhà văn đã tạo ra những

cuộc đối thoại giữa các nhân vật qua đó bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của cá nhân, giai cấp,

thế hệ của mình. Giữa Đại úy Thìn và Họa sĩ Tư là xung đột giai cấp; giữa Đại úy Thìn và

bí thư huyện ủy Thanh là mâu thuẫn của những người cùng giới tuyến nhưng trái ngược

nhau về nhận thức, quan điểm; giữa Đại úy Thìn và cô con gái Thùy Linh là sự xung đột thế

hệ. Nhà văn đã để cho các cặp nhân vật này thường xảy ra những cuộc đối thoại, sự chạm

trán nảy lửa. Cuộc đối thoại giữa Đại úy và Thùy Linh thể hiện sự quyết liệt của mỗi nhân

vật muốn bảo vệ quan điểm của mình đến cùng:

- “Tao nhắc lại: đó không phải trò của tình yêu, con mất dạy. Đấy là trò của quân tư

sản, quân phản động!

- Đấy là quan niệm của ba.

Đại úy trợn mắt hỏi:

Cái gì? -

Thùy Linh ngước lên, bình thản nói:

88

- Mỗi người có một quan niệm dành cho hạnh phúc của mình. Ba không thể đổ tất cả

quan niệm của ba vào đầu con được.

A! Thế nghĩa là mày nói tao không dạy được mày chứ gì? -

Thùy Linh đứng bật dậy, mặt rắn lại:

- Đúng vậy. Ba không thể dạy ai được hết. Tất cả những gì ba định dạy cho mẹ con và

con đều lạc hậu hết rồi.

“Bốp” một tát giáng xuống mặt Thùy Linh, cô gục xuống một lát, nhổ nước bọt. Vài

chục giây sau cô lại ngẩng phắt lên:

- Bây giờ ba muốn gì ở con thì ba nói đi. Con lớn rồi, không ngu ngốc như ba tưởng.

[47;214]

Qua cuộc đối thoại, ta thấy được sự phản kháng mạnh mẽ và đầy bản lĩnh của cô gái trẻ với

khát vọng tự do về quyền được làm chủ cuộc sống của mình và sự kiên định đến cùng của

Đại úy về những tư tưởng, quan điểm đã lạc hậu, lỗi thời của thế hệ mình.

Trong truyện ngắn Ngày xửa ngày xưa, cuộc đối thoại xô bồ, hỗn tạp giữa lão Thiệt

và đám đông đã cho thấy thái độ phản ứng của mọi người trước sự xuất hiện của ông. Trước

bao nhiêu câu hỏi của mọi người, ông vẫn cứ nói đi nói lại đúng một câu trả lời: “Tôi về với

mọi người” [43;22]. Nhưng “mọi người” cụ thể là những ai, ở đâu thì ông hoàn toàn không

biết. Nên càng hỏi, người ta chỉ càng bực dọc, khó chịu trước một lão mù ngớ ngẩn. Người

ta chỉ thấy lão như một thằng điên, thằng dở hơi, còn lão thì đang cô đơn, đang bị đám đông

hất hủi một cách tội nghiệp.

Ở thể loại tản văn của Nguyễn Quang Lập, cũng như một số truyện ngắn đậm chất

“khẩu văn”, lời thoại của nhân vật xuất hiện nhiều hơn. Tuy nhiên, nó vẫn bị chi phối bởi

quyền nói tuyệt đối của người kể chuyện. Nội dung vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần

nghiên cứu về đặc điểm “khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập được trình bày ở

phần sau.

3.3.3. Tạo diễn ngôn trần thuật đậm chất “khẩu văn” – một hiện tượng độc đáo

trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập

Nỗ lực đổi mới không ngừng là hướng đi chủ yếu của văn học Việt Nam sau 1975.

Đặc biệt là giai đoạn “hậu đổi mới” (từ giữa những năm 90 của thế kỉ trước đến nay), vấn đề

89

quan tâm lớn nhất không còn là viết về cái gì mà là viết như thế nào. Trong đó, nhất thiết

phải kể đến việc cách tân ngôn ngữ văn xuôi. Thực tế đời sống cho thấy thời đại nào có

ngôn ngữ của thời đại đó, thế hệ nào có ngôn ngữ của thế hệ đó. Do đó, thế hệ nhà văn trẻ

trưởng thành từ sau 1975 đã nỗ lực không ngừng trong việc sáng tạo và đổi mới ngôn ngữ

văn xuôi để phù hợp với thời đại của mình. Có thể thấy điều đó qua một loạt sáng tác của

các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn

Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư… Trong xu hướng đó, nhà

văn Nguyễn Quang Lập cũng đã tìm cho mình một sự thể nghiệm mới qua một số tác phẩm

đậm chất “khẩu văn”.

Sau hai mươi năm vắng bóng trên văn đàn, Nguyễn Quang Lập trở lại và mang theo

món “khẩu văn” – một đặc điểm quan trọng ở thể loại tản văn của ông, làm khuấy động bầu

không khí văn học đương đại. Với các tác phẩm tản văn Kí ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và

Bạn văn lần lượt ra đời, Nguyễn Quang Lập đã khẳng định một phong cách văn xuôi hoàn

toàn mới lạ, so với một Nguyễn Quang Lập trước đó, cũng như với các nhà văn cùng thời.

Không chỉ có tản văn, mà một số truyện ngắn sau này của ông cũng được thể nghiệm lối

viết này.

“Khẩu văn”, về khía cạnh ngôn từ văn học, có thể được hiểu nôm na là văn nói,

dùng rộng rãi khẩu ngữ tự niên, pha trộn lối kể dân gian với tùy bút hiện đại. Nó lồng ghép

những câu chuyện lưu truyền, dùng để kể cho nhau nghe lúc nhàn đàm. Do đó, có thể coi

“khẩu văn” là văn học dân gian hiện đại. Như vậy, nó phù hợp với đặc điểm tản văn của

Nguyễn Quang Lập, đó là những câu chuyện trong hồi ức tác giả về đời thường, được nhớ

lại và kể lại một cách ngẫu nhiên, tùy cảm hứng. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi không bàn đến

loại hình văn học hay thể loại văn học mà muốn hướng đến việc nghiên cứu “chất khẩu

văn”, “hiện tượng khẩu văn”, “lối khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập. Như

vậy, “khẩu văn” ở đây được hiểu là tính chất, đặc điểm của ngôn từ và diễn ngôn.

Trước Nguyễn Quang Lập, cũng đã có một số nhà văn khai thác lối viết này như

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, và cả Nguyễn Minh Châu, nhà văn luôn

có thức trong việc cách tân nghệ thuật, đến các nhà văn cùng thời có Nguyễn Huy Thiệp,

Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư,… Tuy nhiên, tạo nên một phong cách khẩu văn đặc

trưng riêng biệt thì phải kể đến Nguyễn Quang Lập. Có thể nói, từ Nguyễn Quang Lập,

phong cách “khẩu văn” bắt đầu được định hình trong giới độc giả, người ta bắt đầu nói

90

nhiều và bàn nhiều về chất khẩu văn. Đây là một hiện tượng độc đáo trong văn xuôi Nguyễn

Quang Lập, thể hiện cá tính sáng tạo của một nhà văn luôn có ý thức đem đến những cách

tân cho nghệ thuật, góp phần làm nên diện mạo mới cho văn học.

Nhìn chung, khẩu văn Nguyễn Quang Lập là sự pha trộn của lối nói dân gian tự

nhiên, sinh động với thể văn hồi kí phóng túng, đầy cảm hứng. Khẩu văn Nguyễn Quang

Lập là dạng văn được viết theo lối nói, xét ở góc độ ngôn từ và hình thức tổ chức lời văn,

tác giả như đang nói chuyện, trò chuyện trực tiếp với người đọc.

3.3.3.1. Hiện tượng “loạn ngôn” trong sử dụng ngôn từ

Do ảnh hưởng của những ám ảnh hiện sinh, cảm quan của một số nhà văn đương đại

về hiện thực là sự đảo lộn mọi trật tự, giá trị đời sống. Hiện tượng loạn ngôn là một trong

những biểu hiện của cảm quan hiện sinh trong văn học đương đại. Có thể hiểu đây là một

cách nói năng bừa phứa, không theo một chuẩn mực ngôn ngữ nào. Nó hoàn toàn được phát

ngôn một cách tự do theo thói quen, sở thích của cá nhân mà không chịu bất kì một sự chi

phối nào về quy tắc ngôn ngữ, quy tắc giao tiếp, quan hệ xã hội hay chuẩn mực văn hóa của

thời đại.

Ở thể loại tản văn, hay truyện ngắn đậm chất khẩu văn, với việc sử dụng ngôn ngữ

vỉa hè, ngôn ngữ chợ búa một cách tự do, phóng khoáng tạo thành hiện tượng loạn ngôn,

Nguyễn Quang Lập đã có ý thức tô đậm tính chủ thể của người kể chuyện, cũng như thể

hiện cái “ngông” của chính tác giả. Có thể nói, Nguyễn Quang Lập là một hiện tượng trong

số các nhà văn có khuynh hướng đi tìm, thể hiện và muốn khẳng định tính chủ thể của cá

nhân mình trong thế giới muôn màu, muôn sắc, phong phú và đa dạng của văn học.

Cùng thời với Nguyễn Quang Lập, các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị

Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh cũng đã đem vào văn xuôi của mình những

ngôn ngữ đời thường, tiếng địa phương dân dã bỗ bã, hay ngôn ngữ chợ búa, thậm chí là lớp

từ thông tục, tiếng tục, tiếng chửi mà không màng đến vai vế, chuẩn mực xã hội. Nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp với cảm hứng phê phán lối sống thành thị chịu sự ảnh hưởng của hiện

thực kinh tế thị trường, đã phơi bày mặt trái xã hội là sự hiện thân của những con người bị

xói mòn, bị tha hóa về nhân cách. Do vậy, trong lời ăn, tiếng nói của họ, đa số là lớp từ khẩu

ngữ với những lời mắng mỏ, tiếng chửi rủa, dè bỉu nhau. Trong Không có vua, lão Kiền là

“vua”, giữ nền nếp, tôn ti trật tự trong nhà nhưng phát ngôn của lão thường bắt đầu bằng

91

tiếng chửi thề: “mẹ kiếp”, “cha chúng mày”, “mẹ cha chúng mày”,… Lão chửi bất cứ ai và

bất cứ thời điểm nào. Và ngay với nhà văn Nguyễn Quang Lập, ở các tác phẩm truyện ngắn

và tiểu thuyết ra đời vào cuối những năm 80 của thế kỉ trước cũng đã có sự xuất hiện của

ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ chợ búa bất kể vai vế xã hội. Trong Những mảnh đời đen

trắng, lời của Họa sĩ Tư: “Bí thư huyện ủy thì cái mả mẹ gì mà chẳng biết” [47;157], trưởng

phòng Thông tin – văn hóa Bỉ: “Mẹ, cú này phải đấu với Trần Hới… Cùng lắm thì bố mày

về hưu, sợ đếch gì” [47;238]. Lời của người kể chuyện: “Bỉ phủi đít quần “dọt” về, nhanh

hơn chớp” [47;238]. Trong truyện ngắn Đò ơi, một vị tướng khi nói về tài nghệ trên sông

nước của ông lái đò: “Té ra không phải lúc nào mình cũng làm tướng được các ông ạ?

Thằng cha ấy khá đấy nhẩy!” [43;160]. Với việc sử dụng “ngôn ngữ quảng trường” (từ

dùng của Barkhtin) như vậy làm chất liệu sáng tác, các nhà văn đã đưa văn chương đến gần

hơn với hiện thực cuộc sống.

Tuy nhiên, phải đến với tản văn của Nguyễn Quang Lập thì phong cách “khẩu văn”

với kiểu nói năng bừa phứa ấy mới được hình thành một cách rõ nét, độc đáo và sáng tạo.

Trong “khẩu văn” Nguyễn Quang Lập, có thể nói, những từ ngữ sách vở hay thuộc kiểu văn

chương nghiêm ngắn gần như đều bị “xóa sổ”. Nhà văn đã đem vào các sáng tác của mình

đầy rẫy những lớp từ khẩu ngữ là những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người bình dân,

những từ địa phương của phương ngữ Quảng Bình nói riêng và của vùng Bắc Trung Bộ nói

chung, và không ngại văng ra những tiếng chửi, tiếng tục, thậm chí có cả những từ ngữ

được viết sai chính tả một cách cố ý. Tất cả đều được sử dụng với mức độ dày đặc, “loạn

xạ” trên các trang viết của ông. Chân dung cuộc sống nhờ đó mà hiện lên như thật, sống

động, gần gũi. Hơn nữa, việc sử dụng sáng tạo và linh hoạt các từ khẩu ngữ, từ địa phương,

tiếng chửi tục còn có khả năng gây bất ngờ, tạo nên những nhận thức mới về đối tượng.

Trước hết, ta tìm hiểu lớp từ khẩu ngữ. Đó là những từ ngữ thuộc phong cách ngôn

ngữ sinh hoạt, dùng ở lời nói miệng, thể hiện rõ nhất trong đối thoại. Nguyễn Quang Lập đã

sử dụng lớp từ khẩu ngữ thường xuyên, dày đặc nhưng luôn có ý thức chọn lọc cho phù hợp

với từng đối tượng, ngữ cảnh nhất định. Lớp từ khẩu ngữ trong sáng tác của Nguyễn Quang

Lập trước hết là sự mô phỏng nguyên vẹn lối nói năng đời thường, làm cho câu chuyện kể

càng trở nên thú vị, sinh động. Tiếp nhận văn bản được viết bằng lời nói dân dã hàng ngày,

người đọc sẽ cảm thấy các nhân vật và sự kiện như đang ở cuộc đời thực, thay vì bị đóng

khung trên những trang văn. Viết về các nhân vật, tác giả dùng cách xưng hô bằng các đại

92

từ thằng, con, cu, thằng cu, anh cu, ông cu, mụ, mẹt,… để thể hiện sự gần gũi, thân mật, đến

mức suồng sã gần như không hề có một khoảng cách nào giữa họ với tác giả.

Trong quá trình tái cấu trúc kí ức qua những câu chuyện kể, tác giả còn bộc lộ những

thái độ, cảm xúc của mình về đối tượng. Do đó, lớp từ khẩu ngữ đắc dụng trong việc miêu

tả cũng như bày tỏ tình cảm của tác giả về các nhân vật sự kiện. Đối tượng được khắc sâu,

tạo được ấn tượng với người đọc nhờ việc sử dụng các từ khẩu ngữ mang ý nghĩa miêu tả

như: đen thui, vàng hoe, trắng bóc, trơn mồm, mót (chồng), buồn thiu, gái gú, gái gẩm,

(cười) khậc, (cười) ré, (cười) xoe xoe, è he, ngon ơ, khoẻ re, oách kinh, ỏm tỏi, lón

thón (chạy), trơ mép, chắc ăn, tót (vào), (ngồi) chồm hỗm, há mồm, (nói) lia xia, loạng

quạng, lêu têu, độp (liền), dở ẹc, tắc tị, lác mắt, tí tớn, bố nhắng, hổ lốn,… và những cách

kết hợp từ để tạo ra những danh từ mới như giải déo, người ngợm, phim trú, nhà văn nhà

veo, bờ lốc bờ leo, phi công phi keo tiến sĩ tiến siếc, văn nghệ văn gừng, thủ trưởng thủ

triết,… Điều đặc biệt là ta khó có thể thay thế những từ khẩu ngữ này bằng những từ ngữ

sách vở bóng bẩy mà không làm mất đi hiệu quả thẩm mĩ của nó. Khi cần diễn tả thái độ,

cảm xúc, Nguyễn Quang Lập còn sử dụng những tổ hợp từ khẩu ngữ một cách khéo léo,

linh hoạt và sáng tạo như: đâm nghiện, phục lăn, chán ốm, chán òm, chán mớ đời, mừng

húm, mừng tha dép, mừng hết lớn, sướng rêm, sướng râm ran, ngất ngây con cà cưỡng,

cười ré, khoẻ re, giỏi cực, hay hè, trắng gớm, trật chỏng vó, sợ bằng chết, nảy đom đóm,

hăng máu vịt, câm miệng hến, trơ mắt ếch, khoẻ như tru, đập một phát, mặt xanh như đít

nhái,… Và những kiểu nói năng lặp từ chỉ xuất hiện trong lời thoại hàng ngày như rứa a

rứa a, ừ đo ừ đo, giỏi hè giỏi hè, hay hè hay hè, sướng cuống cà kê, mừng nha mừng nha,

quẹt quẹt ẻ ẻ, thở vô thở ra, ê ê trật trật, sai sai ngu ngu,…cũng đã mô phỏng lại nguyên

vẹn sự biểu lộ cảm xúc, lời thoại của nhân vật. Với cách sử dụng khẩu ngữ phong phú, đa

dạng với tần số dày đặc như vậy, tác giả đã làm cho nhân vật hiện lên như thật, họ như đang

đi đứng, nói năng ngay trước mắt người đọc. Chẳng hạn trong Con ăn ruồi có đoạn: “Khi đó

thầy ra bài tập toán, cả lớp hí húi làm. Một con ruồi đậu trên má chị. Chị đập một phát rồi

ngó trước ngó sau, dần dần đưa con ruồi từ má lăn vào miệng. Chị nhai chóp chép giống y

chang người ta nhai kẹo cao su, dù con ruồi bé tí. Chị nuốt đánh ực, miệng hít hà, đã quá

trời” [46;12]. Các từ khẩu ngữ “hí húi”, “đập một phát”, “ngó trước ngó sau”, “chóp

chép”, “y chang”, “nuốt đánh ực”, “hít hà”, “đã quá trời” đang tái hiện cảnh ăn ruồi lén

lút và cảm giác sung sướng của chị Thuận hết sức chân thực, người đọc cảm thấy như chính

mình là người đang chứng kiến sự việc. Còn trong Tết miền thơ ấu, có đoạn miêu tả cảnh 93

“con Hà” và “mình” đang tắm: “Mình ngồi trong chậu tắm, con Hà chạy vòng quanh lêu

lêu, nói ê ê, lớn rồi mà còn ở lỗ (cởi truồng), xấu quá xấu quá. Đến lượt nó tắm, mình chạy

vòng quanh lêu lêu, nói ê ê điệu điệu, giả đò tắm cả quần, con nít tắm cả quần, điệu điệu.”

[45;169]. Với kiểu nói lặp như “ê ê”, “điệu điệu”, “xấu quá xấu quá”, người đọc có thể nhận

ra trong đó là tình bạn gắn bó, thân thiết của một thời tuổi thơ trong vắt của tác giả.

Bên cạnh lớp từ khẩu ngữ, lớp từ địa phương vùng phương ngữ Bình Trị Thiên cũng

được sử dụng giàu màu sắc biểu cảm, góp phần hòa âm cho lời văn, hòa ý cho nội dung câu

chữ, làm tăng giá trị thẩm mĩ cho tác phẩm. Với Nguyễn Ngọc Tư, việc sử dụng phương

ngữ Nam Bộ cũng là một trong những đặc trưng trong các sáng tác của mình, làm nên nét

phong cách riêng cho nhà văn. Có thể nói, việc sử dụng phương ngữ quê hương như một

tình cảm tri ân sâu sắc của các nhà văn đối với vùng đất nơi mình được sinh ra và lớn lên.

Nguyễn Quang Lập cũng đã sử dụng từ địa phương để ghi lại lời ăn tiếng nói của người dân

quê mình như bọ, mạ, mần, mô, chi, ri, đa, răng, rứa, ni, chộ, hè, oa chà, ua chầu chầu, …

Có trường hợp, Nguyễn Quang Lập dùng cách phát âm miền Bắc không phân biệt n/l để

dựng chân dung nhân vật, như trong lời nói của bà Thiêm: “bà nói anh Nập đừng nói ninh

tinh, cấp trên nghe được thì phiền nắm. Mình nói cấp trên nào ở đây mà nghe, bà nói sao

không, ông Phong Nê đi đái chỉ chửi bậy một câu mà thấu tận tai cấp trên, sắp kỉ nuật rồi”

[46;122].

Đặc biệt và gần như khác biệt trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập so với các tác

giả khác là việc sử dụng các từ thông tục. Đó là lối nói năng tục tằn, thô lỗ có thể bắt gặp ở

những người bình dân, và thường thấy ở những đối tượng được coi là thiếu văn hóa. Người

ta còn gọi đó là thứ ngôn ngữ vỉa hè, chợ búa. M.Barkhtin khi nghiên cứu tiểu thuyết của

Rabelais đã gọi đó là “ngôn ngữ quảng trường”. Và với Nguyễn Quang Lập, trong nhiều câu

chuyện kể, ông đã dùng lớp từ này hết sức tự nhiên, thoải mái như đ.mạ, l.mạ, đú má, mẹ,

đéo biết, mặc cha mi, câm mồm mi đi, cút cha mi đi, ăn cứt với nó,… Thông thường, người

ta dùng những từ ngữ này, lối nói năng này không phải để xúc phạm nhau, chửi bới nhau mà

chủ yếu là để nói cho “sướng miệng”. Nhưng không phải chỉ có những đối tượng là người

bình dân như những “anh cu”, “thằng cu” trong xóm quê mình mới được Nguyễn Quang

Lập dùng lớp từ này để kể chuyện về họ, mà với cả những người trí thức thuộc giới văn

nghệ sĩ, nhà văn cũng dùng lớp từ này để dựng lại những câu chuyện hết sức “trơn tru”.

Chẳng hạn trong Chuyện ma: “Bảo Ninh nói mẹ, ông đếch ngủ phòng đó nữa… mẹ, ông

94

đếch ngủ phòng đó nữa” [46;80]. Còn khi kể chuyện về Trần Đăng Khoa, tác giả nhờ nhà

thơ này đi nói chuyện với trường Trưng Vương, “nếu có nhận lời cũng phải khó khăn lắm,

chứ nhận phát nhẹ tênh kiểu này dễ ăn cứt với nó lắm” [46;236]. Nói về việc sử dụng từ ngữ

mang yếu tố tục Nguyễn Quang Lập cho rằng: “nếu loại bỏ hết cái tục thì cuộc sống cũng

như văn chương sẽ nhạt đi nhiều lắm. Phải nói cái tục một khi đặt đúng chỗ nó sẽ được

thanh hóa, hết bậy, lời nói hay câu văn bỗng nhiên có sức quyến rũ lạ thường. Nhưng dùng

nó không dễ. Muốn dùng nó thì anh phải khá nhạy cảm với cái bậy, biết ghê răng với cái

bậy. Tôi không dám nói tôi giỏi dùng cái tục, bởi vì không phải khi nào tôi dùng nó cũng

thành công, nhưng tôi là kẻ dám dùng. Một khi tôi biết chắc không thể kiếm được cái thanh

nào thay thế được cái tục, và chỉ cái tục mới làm tỏa sáng câu văn thì có đánh chết tôi cũng

dùng” [103].

Kiểu nói năng dân dã, bỗ bã, đến mức sỗ sàng như vậy được tác giả dùng trong lời kể

chuyện gần như là một thói quen, một sở thích, xuyên suốt trong các bài tản văn, dù đó là

người bình dân hay người trí thức, người đáng trọng hay kẻ đáng khinh, chỉ cốt làm sao để

câu chuyện và nhân vật hiện lên như thật. Viết văn, làm văn bằng những lớp từ ấy, dường

như Nguyễn Quang Lập cũng không màng đến sự khó chịu của một số người đọc vốn không

quen với thứ “ngôn ngữ quảng trường” như thế trong văn chương. Không chỉ vậy, tác giả

còn cố tình “chơi” cả những từ ngữ sai chính tả như: “em chai”, “nhìu nhìu”, “em xợ”,

“mịa”, “dzô”, “dzê – dzê” (yeah), “dzậy thôi”. Bắt gặp những từ ngữ như vậy ta dễ có cảm

giác như đang có sự “lệch pha” giữa văn chương nghệ thuật và những bài viết đậm chất

“khẩu văn” của tác giả. Nhưng có lẽ, phải như thế mới là Nguyễn Quang Lập.

Ở một số sáng tác của các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị

Vàng Anh,… cũng có sự xuất hiện của những ngôn ngữ đời thường, chợ búa như thế này.

Nhưng xét về mức độ sử dụng, tần số xuất hiện thì có lẽ, lớp từ này được nhà văn Nguyễn

Quang Lập dùng nhiều hơn hẳn. So sánh các tác phẩm có sử dụng lớp từ khẩu ngữ, từ địa

phương, từ thông tục, tiếng chửi của Nguyễn Quang Lập với các tác phẩm của Nguyễn Huy

Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư, ta sẽ thấy rõ điều đó.

Bảng 4.1 (Phụ lục 1)

95

Tổng số từ

(khẩu ngữ, Trung bình Tác giả Tác phẩm Tổng số dòng số từ/dòng

từ địa phương, từ thông tục, tiếng chửi)

Thằng Thanh 68 0.76 90

Nguyễn Quang Lập Chuyện ma 52 0.24 225

Anh cu Luật 37 0.42 88

Xóm gái hoang 197 0.35 555

Kí ức năm hào 47 0.46 102

Cún 22 0.07 325 Nguyễn

Huy Thiệp Tướng về hưu 27 0.05 517

Những người thợ xẻ 16 0.02 880

Đưa sáo sang sông 32 0.08 402

Không có vua 82 0.13 623

Cải ơi 70 0.31 224 Nguyễn

Ngọc Tư Thương quá rau răm 62 0.28 222

Nhớ sông 41 0.22 187

Duyên phận so le 42 0.22 195

Cuối mùa nhan sắc 44 0.15 295

Qua bảng thống kê trên, ta thấy, trung bình số từ (là khẩu ngữ, từ địa phương, từ

thông tục) trên mỗi dòng ở các tác phẩm của Nguyễn Quang Lập bao giờ cũng cao hơn so

với trong tác phẩm của hai nhà văn còn lại. Điều đó cho thấy hiện tượng loạn ngôn diễn ra

khá phổ biến trong các tác phẩm của Nguyễn Quang Lập. Do đó, có thể nói, đây chính là

một trong những điểm nổi bật trong bài tản văn của ông.

Hiện tượng “loạn ngôn” xuất hiện khá phổ biến, đến mức tự nhiên trong văn Nguyễn

Quang Lập xuất phát trước hết từ cá tính tự do của nhà văn. Nhưng mặt khác, chính nhờ

mối quan hệ rất mực thân thiết, gần gũi giữa nhà văn và các nhân vật được kể đã tạo nên

điểm nhìn gần cho nhà văn khi ông cần dựng lại đối tượng. Chính điều đó đã chi phối cách

nói năng của nhà văn trong việc tiếp cận đối tượng. Ở hầu hết các bài tản văn hay truyện

96

ngắn đậm chất “khẩu văn”, tác giả chọn vai trần thuật ở ngôi thứ nhất, người trần thuật tự

xưng “mình” một cách thân mật. Chẳng hạn trong Nhớ anh Hải Bằng: “Anh cúi xuống

búng chim mình một cái, nheo mắt cười chào, hỏi ba mình con anh có đứa mô biết mần thơ

không. Ba mình nói dạ không, con tôi toàn giỏi tự nhiên, không đứa nào mê văn chương.

Anh lại bóp chim mình cái nữa, nói tiếc hè”[44;45]. Với cách xưng hô như vậy, nhà văn đã

thu hẹp khoảng cách giữa người kể chuyện và người đọc. Người kể chuyện nói với người

đọc mà như đang nói với mình, đang tự mình bộc lộ, tự mình giãi bày. Điều đó cho phép

người kể chuyện được nói năng một cách tự nhiên, không ngại cả những cách nói sỗ sàng

hay những lời lẽ nói tục, chửi thề.

Với ngôn ngữ dân dã, đời thường để tạo nên giọng văn bỗ bã, Nguyễn Quang Lập đã

đưa những câu chuyện của mình đến gần hơn với người đọc, xóa nhòa ranh giới giữa văn

học và cuộc sống. Như lời nhận định của GS.TS.Trần Ngọc Vương: “Sống bằng cảm xúc

hướng thượng rất mệt mỏi, đến lúc nào đó chúng ta phải đi bằng hai chân trên mặt đất với

tất cả sắc thái đa chiều cuộc sống” (dẫn theo Kim Sen) [70]. Những chuyện đời, chuyện

người được kể theo lối khẩu văn hiện lên một cách chân thực, tự nhiên, gần gũi như chính

cuộc đời và những gương mặt mà ai cũng có thể bắt gặp hàng ngày trong cuộc sống quanh

mình. Mặt khác, việc sử dụng chất “khẩu văn” trong diễn ngôn trần thuật cũng nhằm xóa bỏ

thứ văn chương viết bằng ngôn ngữ cao sang, thanh nhã, đòi hỏi một cái nhìn công bằng

hơn đối với thứ ngôn ngữ vỉa hè, chợ búa. Cuộc đấu tranh đó trong sáng tác Nguyễn Quang

Lập thậm chí bị đẩy đến mức cực đoan.

3.3.3.2. Hình thức đa thanh trong tổ chức lời văn

Hiện tượng đa thanh là một vấn đề của thi pháp học và ngôn ngữ học hiện đại.

Lý thuyết đa thanh xuất phát từ nghiên cứu của Bakhtin khi phát hiện ra tính chất đa thanh

của tiểu thuyết Đôtôiepxki, một loại tiểu thuyết hiện đại phá vỡ tính chất đơn thanh của tiểu

thuyết truyền thống. Đôtôiepxki đã tạo ra nhiều tiếng nói trong một tiếng nói để tái hiện

cuộc đối thoại bên trong của nhân vật. Và trong văn học Việt Nam, lý thuyết đa thanh của

Barkhtin được ứng dụng khá phổ biến để giải quyết một số hiện tượng văn học hiện đại.

Khái niệm đa thanh được hiểu đơn giản là lời văn đa giọng trong phát ngôn của nhà văn

hoặc của nhân vật. Có thể bắt gặp hiện tượng đa thanh trong văn của Nguyễn Công Hoan,

Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,… Đến các nhà văn hiện đại từ sau 1975, Nguyễn Huy Thiệp đã

97

tạo ra nhiều tiếng nói của nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau bên ngoài môi trường xã hội

để từ đó tạo ra cuộc đối thoại không khoan nhượng giữa các nhân vật.

Trong khẩu văn Nguyễn Quang Lập, tính chất đa thanh được ghi nhận ở góc độ hình

thức trong tổ chức lời văn. Nhà văn đã tạo ra nhiều giọng trong cùng một giọng khi lời của

nhân vật bị hòa lẫn trong lời của người kể chuyện. Trong tác phẩm, lời thoại của nhân vật

xuất hiện nhưng quyền nói của nhân vật hoàn toàn bị tước bỏ, ngược lại quyền nói của

người kể chuyện được tập trung và phát huy cao độ. Theo đó, các dấu hiệu chính tả thông

thường được dùng để phân tách lời của người kể chuyện và lời thoại của nhân vật như

xuống dòng, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, thay đổi một số đại từ,… đều bị xóa bỏ. Chẳng

hạn như trong Xóm bảy vợ có đoạn: “Mình hỏi các cô biết bác đã có vợ nhiều vẫn về với

bác à? Ông nói về chớ. Thằng Dục nói họ vẫn yêu bác như thường à? Ông nói yêu chớ,

không yêu răng về.” [46;53]. Đoạn về hình thức là lời kể chuyện của tác giả, có sự tham

thoại của các nhân vật “mình” (cũng là người kể chuyện), thằng Dục và ông Trần Chu. Lời

thoại của các nhân vật “thằng Dục”, “thằng Hoan” và ông Trần Chu đều được nói lại

nguyên vẹn qua lời của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất tự xưng “mình”. Nếu theo quy tắc

ngữ pháp, chính tả thông thường, thì cuộc thoại phải được trình bày như sau: “Mình hỏi:

“các cô biết bác đã có vợ nhiều vẫn về với bác à?”. Ông nói: “về chớ”. Thằng Dục nói:

“họ vẫn yêu bác như thường à?”. Ông nói: “yêu chớ, không yêu răng về”. Tuy nhiên, ở

đây, nhà văn đã cố tình xóa bỏ những dấu hiệu phân tách lời người kể chuyện và lời của

nhân vật, làm cho lượt thoại của nhân vật bị hòa trộn, chuồi lẫn trong lời của người kể

chuyện.

Tương tự như vậy trong Chuyện tình anh cu Đom, lời của người kể chuyện: “mình

chạy vào hỏi cô, nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái rau,

mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu. Mình nhăn răng cười, nói em biết cô yêu ai rồi.

Nghe vậy cô Lý tái mặt, vội vàng ôm lấy mình, nói em đừng nói với ai cả, nghe chưa”

[48;85]. Đọc đoạn văn, rõ ràng đây là cuộc đối thoại giữa “mình” và cô Lý nhưng tuyệt

nhiên không hề có một dấu hiệu nào phân tách lời thoại và lời kể chuyện mà tuồng như chỉ

có lời của người kể chuyện. Hay nói cách khác, lời của cô Lý đã bị nhập hoàn toàn vào lời

của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất là “mình”.

Hình thức tổ chức lời văn không có dấu hiệu phân tách lời kể chuyện và lời thoại

được vận dụng xuyên suốt trong hầu hết các bài tản văn và một số truyện ngắn đậm chất

98

“khẩu văn” của Nguyễn Quang Lập. Không chỉ ở văn Nguyễn Quang Lập, mà trong văn

Nguyễn Ngọc Tư, ta cũng có thể bắt gặp cách tổ chức lời văn như vậy. Trong Cải ơi, “Diễm

Thương nói tui mắc cười quá ông Năm à, tui lên tivi để cha mẹ nhìn mà họ không biết tui là

ai, còn người dưng liếc ngang là nhớ liền” [94;12]. Điểm chung của hai nhà văn ở đây là

dùng kiểu lời văn với hình thức đa thanh. Lời nhân vật chuồi lẫn trong lời kể chuyện để tạo

nên giọng kể tự nhiên, gần gũi với đời thường, người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận. Tuy

nhiên, hiện tượng này trong văn Nguyễn Ngọc Tư không có sự đáng kể. Nhưng với Nguyễn

Quang Lập, hiện tượng này đã trở thành một đặc điểm riêng, phong cách riêng trong các

sáng tác đậm chất “khẩu văn” của ông.

Hầu hết trong 3 tập tản văn và một số truyện ngắn “khẩu văn” của Nguyễn Quang

Lập đều sử dụng hình thức lời thoại nhân vật bị hòa trộn với lời của người kể chuyện. Hình

thức lời thoại nhân vật được tách biệt với lời dẫn truyện tuy cũng có nhưng với tần số rất

thấp. Trong toàn bộ 161 bài tản văn và 12 truyện ngắn “khẩu văn” chỉ có khoảng 20 lời

thoại trực tiếp của nhân vật được sử dụng với hình thức này. Còn lại là lời thoại nhân vật bị

trộn lẫn với lời dẫn truyện, kiểu tổ chức lời văn như vậy xuất hiện khá phổ biến, gần như là

xuyên suốt. Thống kê lời thoại trực tiếp của nhân vật ở một số bài tản văn (ở cả ba nội dung

viết về người bình dân, bạn văn và bản thân) và truyện ngắn, ta thấy số lời thoại bị hòa trộn

với lời dẫn truyện bao giờ cũng nhiều hơn số lời thoại được tách biệt với lời dẫn truyện một

cách đáng kể. Thậm chí, ở nhiều bài tản văn và truyện ngắn đậm chất “khẩu văn” của

Nguyễn Quang Lập, hoàn toàn chỉ xuất hiện lời thoại bị trộn lẫn với lời người kể chuyện.

Bảng 4.2 (Phụ lục 2)

STT Tác phẩm Tổng số lời thoại trực tiếp Số lời thoại được tách biệt với lời dẫn truyện Số lời thoại bị hòa trộn với lời dẫn truyện

1 Kí ức năm hào 19 2 17

2 Thằng cu Hó 48 1 47

3 Trần Đăng Khoa 22 1 21

4 11 2 9 Trung thu của đứa bé bốn tuổi

5 Cái miệng hình số tám 17 0 17

6 Chuyện tình anh 48 0 17

99

cu Đom

Với hình thức đa thanh trong tổ chức lời văn, nhà văn đã phát huy tối đa quyền kể

của người kể chuyện. Người kể nhờ vậy vừa kể lại sự việc, vừa “diễn” lại nguyên vẹn lời

của nhân vật, vừa chiếm lấy quyền bình phẩm, đánh giá sự việc, nhân vật theo cách nhìn của

mình. Đồng thời, nhịp độ trần thuật nhờ đó cũng được đẩy nhanh hơn, lượt thoại của các

nhân vật luân phiên nhau liên tục, làm cho lời kể chuyện trở nên tự nhiên hơn, xóa đi

khoảng cách giữa văn viết và văn nói. Hiện tượng này xuất hiện khá phổ biến trong tản văn

Nguyễn Quang Lập. Trong Kí ức năm hào, lượt thoại giữa hai nhân vật “mình” và “nó”

xuất hiện liên tiếp nhau: “Nó nói để tao cất cho, mi cất mấy anh mi lấy mất. Mình nói mai

mi đi chợ mua ăn hết luôn. Nó nói mua chi, mình nói bánh tráng bánh đúc, chỉ hai đứa mình

ăn thôi không cho đứa mô hết. Nó nói ừ không cho đứa mô hết. Mình nói ừ không cho đứa

mô hết” [46;26]. Trong Nhạt giai… giai nhạt, hai nhân vật cũng luân phiên nhau vai nói và

vai nghe: “Nó nói nhạc Beethoven hay anh nhỉ, anh nói cũng hay. Nó nói anh có thích nhạc

Trịnh không, anh nói cũng thích. Nó nói anh có mê Opera không, anh nói cũng mê. Nó bảo

Ngọc Đại tài đấy chứ anh nhỉ, anh nói thằng ấy cũng tài. [46;69]. Sự trộn lẫn lời nhân vật

trong lời dẫn truyện đã làm tăng nhanh tốc độ cuộc thoại cũng như dung lượng thông tin

trong cuộc thoại. Điều đáng nói hơn là trong sự tiếp nhận của người đọc, dường như các

cuộc thoại ấy đã được thoát ly khỏi trang viết, hiện lên một cách sinh động, chân thực trong

sự tiếp nhận của người đọc.

Tiểu kết:

Trong sáng tác của mình, Nguyễn Quang Lập đã khéo léo lựa chọn những giọng điệu

khác nhau khi trần thuật: giọng trữ tình tha thiết, giọng xót xa thương cảm, hay giọng hài

hước, hóm hỉnh. Nhà văn còn tỏ ra linh hoạt, uyển chuyển trong cách vận dụng và điều phối

các diễn ngôn trần thuật. Đặc biệt là hiện tượng “loạn ngôn” trong cách sử dụng ngôn từ và

hình thức đa thanh trong tổ chức lời văn đã tạo nên một phong cách “khẩu văn” rất độc đáo.

Đó là điểm nổi bật đáng ghi nhận trong trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập trong những

năm gần đây nói riêng và trong văn xuôi nghệ thuật của ông nói chung. Tất cả các yếu tố

nghệ thuật đó đã góp phần làm tăng giá trị thẩm mĩ cũng như hiệu quả tiếp nhận cho nội

dung tự sự trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập.

100

KẾT LUẬN

1. Trong xu hướng vận động không ngừng của ý thức xã hội cũng như ý thức văn học

sau 1975, mỗi nhà văn đều nỗ lực để tìm kiếm một lối đi riêng cho mình. Ở Nguyễn Quang

Lập, mộng ước văn chương từ thời trai trẻ đã chắp bút cho ông “lao động chữ một cách

nghiêm túc”, cần mẫn và bền bỉ như cây “xương rồng trên cát”. Sự gặp gỡ và cộng hưởng

giữa tài năng nghệ thuật và khát vọng dân chủ, đổi mới sáng tạo của người nghệ sĩ đã giúp

ông tự định vị cho mình một chỗ đứng riêng trong thế giới văn nghệ đông đảo và sôi nổi,

phong phú và đa dạng. Nguyễn Quang Lập viết văn mà như đang trò chuyện, đang tâm tình,

viết như một cách để trải lòng hoặc đơn giản có khi chỉ như một cách tán gẫu về chuyện đời.

Đối với ông, văn chương cũng là một trong những thú chơi trong cuộc đời của mình. Nhà

văn sống thật với những cảm xúc của mình để từ đó bắt lấy cái phần hồn của cuộc sống, và

thấu hiểu cho những phận người. Có lẽ, đó là tôn chỉ cho ngòi bút mà nhà văn tự vạch ra

cho mình. Chính vì thế mà dù sáng tác ở nhiều thể loại, nhiều nội dung nhưng nhà văn đều

chủ yếu lấy cái tình để làm bản lề cho ngòi bút.

2. Về đề tài, có thể nhận thấy trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập là sự quan tâm

đặc biệt đến cái đời thường của cuộc sống, của con người, dù đó là thời bình hay thời chiến,

là những người bình dân hay người nổi tiếng. Con người với nỗi cô đơn và những số phận

bất hạnh; cuộc sống với những cảnh éo le, ngang trái; tình đời với những buồn, vui, khóc,

cười; hay những chuyện tầm phơ tầm phào;… tất cả đều trở thành nguồn cảm hứng bất tận

cho ngòi bút của ông.

Từ tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng và những truyện ngắn đầu tay đến Kí ức

vụn, Nguyễn Quang Lập tỏ ra từng trải hơn, chín chắn hơn, thâm thúy hơn, nhưng giờ đây,

có vẻ như ông nhìn đời một cách nhẹ nhàng và bình thản hơn, không quá nặng lòng, cũng

không nhiều xót xa, nhưng đó không phải là sự hời hợt, cầu ơ vốn không nên có ở người

nghệ sĩ, mà vì con người ấy đã quá nhiều từng trải, và quá quen thuộc với những câu chuyện

về cuộc đời. Ở các tập tản văn, về nội dung lẫn hình thức viết, Nguyễn Quang Lập viết như

chơi, viết như nói, có vẻ hời hợt, giản đơn, song, đằng sau cái sự dễ dàng nhưng không dễ

dãi ấy là cả một tấm lòng của người nghệ sĩ vẫn đau đáu hướng về cuộc đời.

Chính nhờ cái tâm và cái tầm của người cầm bút mà những cái đời thường, bình dị,

vụn vặt, thậm chí là những mặt trái, mặt xấu của con người có thể đi vào những trang viết

101

của Nguyễn Quang Lập một cách tự nhiên với một thái độ đầy trân trọng đối với con người.

Nhưng không chỉ có những chuyện đời, chuyện người, mà phảng phất trong đó là sự gắn bó

máu thịt thiết tha của nhà văn với quê hương Quảng Bình, nơi có thị trấn Ba Đồn, có làng

Đông, có thung lũng Chớp ri. Tình cảm đó được thể hiện qua những hình ảnh gắn liền với

quê hương như con sông, con đường, cái chợ, cái ao,…; qua chất giọng địa phương “đặc

sệt” mà nhà văn đem vào trang viết bằng giọng điệu của nhân vật và cả giọng của người kể

chuyện. Đó như là sự tri ân sâu sắc của nhà văn đối với nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

3. Văn xuôi Nguyễn Quang Lập không gò gẫm cầu kì về kĩ thuật, nhưng với cái tài

và cái tâm của người cầm bút, các sáng tác của ông cũng đã có những điểm nổi bật về nghệ

thuật đáng ghi nhận. Nội dung tác phẩm được trần thuật bằng những giọng điệu khác nhau,

có khi là giọng trữ tình mượt mà, sâu lắng; có khi là giọng xót xa, thương cảm; hoặc giọng

hài hước, hóm hỉnh. Mỗi giọng điệu đều đắc dụng trong việc chuyển tải một nội dung nhất

định. Bên cạnh đó, nhà văn còn chú trọng xây dựng những đoạn kết gợi nhiều suy cảm cho

người đọc. Đó là những đoạn kết mở để người đọc đồng sáng tạo; những đoạn kết có tính

chất khoảng lặng, có độ lắng sâu, khơi gợi những suy cảm ở người đọc. Không riêng gì

Nguyễn Quang Lập, đây cũng là một trong những đặc điểm mang tính tất yếu của văn học

giai đoạn sau 1975, có ý nghĩa phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống thời kì đổi mới với

tính đa sự, đa đoan của nó. Sự linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng ngôn từ và tổ chức lời

văn đã góp phần làm tăng hiệu quả thẩm mĩ cho nội dung trần thuật.

Thể nghiệm phong cách “khẩu văn” trong sáng tác là một bước chuyển lớn trong

nghiệp cầm bút của Nguyễn Quang Lập. Trong xu hướng đổi mới văn học, có thể nói, nhà

văn Nguyễn Quang Lập, với sự thể nghiệm này đã thực sự phát huy được tính dân chủ trong

văn học. Tính dân chủ trong văn học không phải ở chỗ muốn nói sao thì nói, muốn viết sao

thì viết mà đó là cách làm sao cho mọi nội dung, mọi đề tài và cả những cách viết, lối viết

mà nhà văn đang thể nghiệm đều được tiếp nhận, được có chỗ đứng, góp phần làm nên

phong cách của nhà văn, cũng như đặc điểm văn học của thời đại, của giai đoạn. Và trong

sáng tác của Nguyễn Quang Lập, những lời ăn tiếng nói hàng ngày, kể cả những lời lẽ

suồng sã, thông tục đều được sử dụng một cách khéo léo, hình thức câu văn như lời nói

được nhất quán trong cách viết đã làm nên chất “khẩu văn” riêng biệt. Đây là một hiện

tượng ngôn từ độc đáo, làm phong phú thêm bức tranh ngôn ngữ tiếng Việt, đồng thời thể

hiện cá tính tự do, sáng tạo của nhà văn.

102

4. Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành từ sau 1975, Nguyễn Quang Lập vừa hòa mình

vào xu hướng đổi mới văn học từ việc đổi mới đề tài, nội dung đến cách viết, nhưng đồng

thời, nhà văn cũng tỏ ra khá bản lĩnh trong việc xây dựng một phong cách riêng cho mình.

Một trong những phẩm chất của người nghệ sĩ là sự tự ý thức về tài năng của họ. Có lẽ vì

thế mà từ Những mảnh đời đen trắng đến Kí ức vụn, hay nói cách khác, từ chặng đường

thứ nhất bước sang chặng đường thứ hai, sáng tác của Nguyễn Quang Lập ngày càng trở

nên khác biệt và đặc biệt cả về nội dung lẫn hình thức. Không phải không có những hạn chế,

thiếu sót trong các tác phẩm của Nguyễn Quang Lập, cũng như tác giả Phạm Xuân Nguyên

đã chỉ ra những “chỗ yếu” trong cuốn tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng. Tuy nhiên,

nhìn chung, những gì Nguyễn Quang Lập đã tạo dựng được trong các sáng tác của mình

hoàn toàn có thể khẳng định tầm vóc của một nhà văn giàu tài năng và khát vọng.

103

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thái Phan Vàng Anh (2008), Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại, Tạp chí

Sông Hương, số 237.

2. Phan Thị Vàng Anh (2011), Truyện ngắn, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.

3. Phan Thị Vàng Anh (1993), Khi người ta còn trẻ: tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1984), Thử nghĩ về chất văn xuôi, Tạp chí Sông Hương, số 8.

5. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

6. M.M.Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

7. M.M.Bakhtin (Trần Đình Sử dịch, 1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

9. Như Bình, Nguyễn Quang Lập – “nhà văn trên cát”,

nguồn http://vanchinh.net/ 04/07/2012 10:39

10. Gillian Brown, (Trần Thuật dịch, 2002), Phân tích diễn ngôn, Nxb Đại học quốc gia, Hà

Nội.

11. Hà Minh Châu (2010), Vũ Bằng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ĐH

KHXH&NV, TPHCM.

12. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Minh Châu (2012), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học,

Hà Nội.

14. Nguyễn Minh Châu, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa,

15. nguồn http://phebinhvanhoc.com.vn/ 25/12/2012 8:15

16. Nguyễn Lâm Cúc, Nguyễn Quang Lập với dòng văn bụi,

nguồn http://nguyenlamcuc.vnweblogs.com/ 04/07/2012 10:15

17. Lê Tiến Dũng (1991), Bước phát triển của văn xuôi Việt Nam sau 1975, Tạp chí Cửa

Việt, số 6.

104

18. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử hiện diện ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên 2007), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

22. Đỗ Hồng Hạnh (tuyển chọn, 2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa Sài

Gòn.

23. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học: vấn đề và suy nghĩ,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

24. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

25. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội.

26. Nguyễn Thị Hoa (2008), Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện

ngắn “Cánh đồng bất tận”, Kỷ yếu sinh viên khoa học toàn quốc, Huế.

27. Phạm Thị Hoài (1989), Mê lộ: tập truyện ngắn, Nxb Tổng hợp Phú Khánh.

28. Tô Hoài (1995), Cát bụi chân ai, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

29. Hội nghiên cứu – giảng dạy Văn học TP.HCM (2005), Bình luận văn học, Nxb Văn hóa

Sài Gòn, TP.HCM

30. Thu Huyền, Tự truyện có phải thể loại của người viết trẻ,

nguồn http://phongdiep.net/ 12/12/2012 9:30

31. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn sau 1975, Tạp

chí Văn học, số 2.

32. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc trong truyện ngắn đương đại, Tạp chí Văn học,

số 5.

33. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975

– 2000, Nxb ĐHQG, HCM.

105

34. Nguyễn Khải (1984), Văn xuôi trước yêu cầu cuộc sống mới, Tạp chí Văn nghệ quân

đội, số 1

35. Trần Thiện Khanh (2010), Quy ước diễn ngôn văn chương giai đoạn 1986 – 1991, Tạp

chí Sông Hương, số 254.

36. Ma Văn Kháng (2008), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn.

37. Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

38. Thụy Khuê, Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập,

nguồn: http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-017/ 04/07/2013 9:00

39. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học Tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

40. Chu Lai (1987), Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật trong chiến tranh, Tạp chí Văn nghệ

quân đội, số 4.

41. Chu Lai, Viết về chiến tranh cần chân thực,

nguồn http://Media.vn 16/05/2013 7:50

42. Thạch Lam (1972), Theo giòng: vài ý nghĩ về văn chương, Nxb Đời nay, Sài Gòn.

43. Nguyễn Quang Lập (1987), Tiếng gọi phía mặt trời lặn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

44. Nguyễn Quang Lập (2010), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

45. Nguyễn Quang Lập (2011), Bạn văn, Nxb Trẻ, TP.HCM.

46. Nguyễn Quang Lập (2011), Chuyện đời vớ vẩn, Nxb Văn học, Hà Nội.

47. Nguyễn Quang Lập (2011), Ký ức vụn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

48. Nguyễn Quang Lập (2012), Những mảnh đời đen trắng, Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Nguyễn Quang Lập (2013), Chuyện nhà quê, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

50. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực Xã hội chủ nghĩa, Nxb

KHXH, Hà Nội.

51. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

52. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

106

54. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên 2006), Văn học sau 1975 những vấn

đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

55. Lê Lựu (2001), Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

56. Phương Lựu (chủ biên, 2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

57. Lê Xuân Lít (2001), Cảm nhận và phê bình văn học: Bàn về Chân dung và đối thoại

của Trần Đăng Khoa, ĐHQG Hà Nội.

58. Lê Mai, Chất trữ tình Nguyễn Quang Lập,

nguồn http://lemaiblog.wordpress.com/ 04/07/2012 10:00

59. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên, 1987), Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Văn học Việt Nam sau 50 năm và trước 5 năm (kỷ niệm 20

năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất tổ quóc 1975 – 1995), Tạp chí Văn học, số

4.

61. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách,

Nxb Văn học, Hà Nội.

62. Ngô Minh, Bạn văn – viết theo lối “khẩu văn”,

nguồn http://quechoablog.wordpress.com/ 04/07/2012 10:30

63. Nguyễn Hồng Nga, Tản văn – thể loại không dành cho người viết trẻ,

nguồn http://phongdiep.net 24/04/2013 19:49

64. Trần Thị Tuyết Nga (2011), Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo, Luận văn thạc

sĩ, Đại học sư phạm TP.HCM.

65. Lê Ngọc, Ký ức vụn – Từ “âm mưu” phá vỡ “vùng cấm” văn chương đến khát vọng

dân chủ trong sáng tạo,

nguồn http://bolapquechoa.blogspot.com/ 04/07/2012 10:30

66. Lã Nguyên (1988), Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình, Tuần báo Văn

nghệ, số 45.

67. Lã Nguyên (1999), Khi nhà văn “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” (về truyện ngắn

Ma Văn Kháng), Tạp chí Văn học, số 9.

68. Nguyễn Hoài Nguyên (2012), “Ngôn từ qua khẩu văn Nguyễn Quang Lập”, Tạp chí Từ

điển học và bách khoa thư, số 4.

69. Bảo Ninh (1991), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

107

70. Đỗ Cao Sang, Kí ức vụn – và dòng văn bạch thoại, nguồn www.quechoa.vn

71. Kim Sen, Nguyễn Quang Lập nói tục rất có… duyên

nguồn http://baodatviet.vn/ 04/07/2012 10:15

72. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

73. Trần Đình Sử (2008), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

74. Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb

ĐHSP, Hà Nội.

75. Trần Đình Sử (2012), Lý luận văn học (T2): Tác phẩm và thể loại, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

76. Chu Thị Thanh Tâm (1995), Đề tài diễn ngôn, Luận án phó tiến sĩ, ĐH Sư phạm Hà

Nội.

77. Đỗ Ngọc Thạch, Đọc “Chân dung và đối thoại” của Trần Đăng Khoa,

nguồn http://www.bichkhe.org 13/05/2013 20:30

78. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, Tạp chí Văn nghệ,

số 6.

79. Bùi Việt Thắng (2011), Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb

Đại học quốc gia, Hà Nội.

80. Nguyễn Anh Thế, “Kí ức vụn” và chất cười đa giọng điệu,

nguồn: http://quechoablog.wordpress.com/2009/11/27/ 04/07/2012 10:00

81. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án tiến sĩ,

ĐH KHXH&NV, TPHCM.

82. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, Nxb Trẻ, TP.HCM

83. Nguyễn Huy Thiệp, Sao cứ đùa anh là thạch nhọn

nguồn http://nguyenhuythiep.free.fr/giangluoi/ 13/05/2013 20:30

84. Bích Thu (2008), “Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên

cứu văn học, số 9.

85. Lý Hoài Thu, Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới,

nguồn http://khoavanhoc.edu.vn / 13/05/2013 20:30

86. Lý Hoài Thu (2004), Sự vận động của thể văn xuôi trong văn học thời kì đổi mới, Tạp

chí Sông Hương, số 186.

87. Dương Thế Thuật (2011), Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân, Luận văn thạc sĩ,

Đại học sư phạm TP.HCM.

108

88. Phan Trọng Thưởng (tuyển chọn và biên soạn, 1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn

học, Nxb TP.HCM.

89. Nguyễn Đình Tiên (1976), Viết về chiến tranh sau chiến tranh, Tạp chí Văn nghệ quân

đội, số 9.

90. Tzvetan Todorov (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, 2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb

ĐHSP, Hà Nội.

91. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới,

nguồn www.vienvanhoc.org.vn 13/05/2013 20:00

92. Lê Thị Nguyệt Trong (2011), Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP TPHCM.

93. Hà Xuân Trường (1987), Văn học nghệ thuật trong đổi mới tư duy, Tuần báo Văn nghệ,

số 1.

94. Hà Xuân Trường (1987), Mấy vấn đề về văn học và nghệ thuật hiện đại, Tuần báo Văn

nghệ, số 1.

95. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.

96. Nguyễn Ngọc Tư, Nước chảy mây trôi,

nguồn http://www.viet-studies.info 08/07/2013 9:15

97. Hoàng Thị Văn (2011), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSPTPHCM.

98. Lại Thị Hồng Vân (2001), Chất sử thi và chất trữ tình trong tiểu thuyết Nguyễn Minh

Châu, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm TP.HCM.

99. Trần Văn Viễn (2009), Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP

TPHCM.

100. Trần Ngọc Vương, Tục hóa – quay về để tiến tới, nguồn www.vienvanhoc.org.vn

22/07/2013 9:00

101. Nguyễn Đình Xuân, Thân phận và tình người trong từng mảnh Kí ức vụn,

102. nguồn http://xuan1068.vnweblogs.com/ 04/07/2012 9:15

103. Cuộc trò chuyện thú vị với “Bọ Lập” về thế sự và văn chương,

nguồn http://phaply.net.vn/ 04/07/2012 9:15

104. Khẩu văn và “bạn văn”, nguồn http://quechoa.vn/ 04/07/2012 9:15

109

105. Nguyễn Quang Lập phô diễn khẩu văn,

nguồn http://quechoablog.wordpress.com/ 04/07/2012 9:15

110

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

BẢNG THỐNG KÊ KHẨU NGỮ, TỪ ĐỊA PHƯƠNG, TỪ THÔNG TỤC,

TIẾNG CHỬI TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN QUANG LẬP, NGUYỄN HUY THIỆP VÀ NGUYỄN NGỌC TƯ

Tác giả Tác phẩm Khẩu ngữ Từ địa phương Tổng số từ Từ thông tục, tiếng chửi

68

Thằng Thanh

cứt cứt (2), đom đom, ẻ ẻ Nguyễn Quang Lập

răng, mi (2), mạ, rứa, (2), hè

thằng (26), con (8), tao, tụi bây, rình, chạy loăng quăng, hễ (2), hun, nhăn răng cười, được chớ, mừng húm, ai dè, lôi cổ, xử, chúng nó, xấu hổ chết đi được, nói tục kinh hồn, tui (3), con nít, bây chừ

52 Chuyện ma

thằng bố láo, của bố nó, cút, mẹ,

chi (3), rứa (5), răng, ni (3), nì, chi mô, è he

đếch biết, to đùng, hồi này, vọt, thằng, mày, chúng mày, hay sao á, đứng dúm dó, cười khẹc khẹc, xanh như đít nhái, cười khì khì, đếch ngủ, tao (7), tụi tao, tán nhăng tán cuội, cười khậc một tiếng, giống y chang, chả tin, chóp chép miệng, hễ, mụ, lúc cúc chạy, tào lao, câm mồm.

37 Anh cu Luật

cái thằng, tui (3), hễ, y như, anh cu, hồi đó, hồi này, tội hè, ê ê trật trật, tao, ngu chi ngu tàn bạo, tức mới gớm chớ, xem mê man, tịt

mi (3), chi (4), răng, mô, rứa (7), ni, ua chầu chầu

thằng cha, thằng ngu, câm cha mồm, cút cha mi đi, đ.mạ, cười con cu tao, tiếng cứt

111

ẻ,

197

Xóm gái hoang

cút, ẻ vô, cha tổ Đế quốc Mỹ, cố tổ mi, đù mạ, ẻ vô, chết cha Mỹ Diệm, cái mả cha mi, cu, chim, bướm

mặt trời chui lên, hễ, con nít, đông nghịt, tức cười, tụi bạn, tui (10), xong om, thiệt, mụ (23), cu (24), mừng húm, cự nự, sướng mê man, riết, thiệt, cười cái hậc (5), ế câm ế cảy, câm mồm, khóc rống lên, phải cái, đuổi cổ, hồi này, con mẹt, phải cái, rã họng, dóng mồm, ngủ ngáy, nhóng cổ cãi, to đại chang, bầu bán, hợp tác với hợp teo, bây chừ, sướng ngây ngất, nhảy cà tẫng, sướng rêm, nhào ra, thắng hoài thắng hủy, ngu chi ngu lạ (2), miệng chóp chép, cười cái, liếc cái, chõ mồm, hun, ngó bộ, tụi bây, khóc rú lên, lôi cổ, nhảy chồm chồm.

lẹo chắc, oa rứa a, oa chà, chi (10), răng (10), rứa (7), ni, nì (2), mô (4), ri (3), tề, mần (9), hè (7), dở dở, quẹt quẹt, ua chầu chầu (4), ua chà, nời (4), oa làng ơi, ua chao ơi, đo (3), ê hề, e hè (2), bọ

47

Kí ức năm hào

mạ (6), chi, mô (3), mi (4), hè (5)

gắt um lên, mừng hết lớn, y xì, chạy ù (2), con Hà (6), tao (3), tởm (4), hồi này, cười he he he, nhăn răng cười, mừng muốn ngất, nuốt nước bọt ừng ực, ú té chạy, sực nhớ, nát bét, khó rú.

22 Cún

mày (14), tao, cái thằng, chuyện quái quỷ.

Nguyễn Huy Thiệp

thằng già khốn nạn, thằng khốn kiếp, chúng mày, thằng

112

chồng mất dạy

27

Tướng về hưu

tao (6), mày (6), thằng (6), xí xớn, hết sạch, ngọt xớt, láo, thuở nảo thuở nào.

kinh bỏ mẹ, bùa con khỉ, mẹ khỉ, mẹ mày

16

Những người thợ xẻ

đánh bỏ mẹ, ăn cứt sắt, đồ chó

thằng, chúng mày, tao, cu Dĩnh, đồ phải gió, thỉnh mất, cái thằng nào, cái lão, điều hay hớm, xôm, chúng ông, thằng đàn ông, con đàn bà,

xơi, mi 32

Đưa sáo sang sông

lung tung, thằng (6), mày, tao, tết nhất (2), xôm, gớm, mà lị

quân dã man, đồ chết đâm chết chém, đồ ranh con, mẹ mày, mẹ cha nó, con mẹ mày, đồ nỡm, đồ giặc cái, mẹ khỉ, cút, xéo, mẹ cha mày, chúng mày (4)

82

Không có vua

công chức gì mặt mày, đồ ruồi nhặng, mẹ cha mày, bọn mọt sách, bọn teo tóp, phơi phóng cẩn thận, chuyện này chịu, chữ tác chữ tộ, mày (13), tao (18), học với hành, thằng (9), lúi húi nhặt rau, lúi húi làm việc, xua tay quầy quậy, thằng bạn, hiểu quái gì, run bắn người, gớm, nói lăng nhăng, xán lại, quên

113

khuấy, ngáy khò khò, đạp túi bụi, chúng mày (2), toi trăm bạc, cút (2), nảy đom đóm mắt, với lại, tống cổ ra đường, kinh, tết nhất, ngó (2)

chúng mày, khó tính bỏ mẹ, mẹ cha mày, đánh bỏ mẹ, lũ chúng mày, đồ khốn nạn, cứt (4)

tía thằng cha 70 Cải ơi

Nguyễn Ngọc Tư

thằng (2), con, cười hề hề, mò về, cả bầy, ai dè, coi, chạy xịt khói, chạy ngời ngời, cười thúi mũi, y hệt, đau quá trời, buồn ác chiến, phải hôn, thiệt, lớn dữ dằn, bây, ngó, dễ ợt, mầy, vậy cà (3), mừng hết lớn, nhảy cà tưng, tui (8), nè, lớn quá chừng hen, tỉnh bơ ba khía, hay hết biết, cười héo queo héo quắt, con nhỏ (7), có duyên hết hồn, chết bờ chết bụi, búa la xua, ngó, làm sui chơi, lu bu, , nhớ mồn một, gọn hơ, sướng rơn, chạy tọt, teo héo, thèm lên ti vi muốn chết giấc, ngồi chình ình, mắc ngán, chớ chi, văn nghệ văn gừng, chớ bộ, mắc cười, hổng biết, giả đò, trâu cộ, nhằm nhò.

62

Thương quá rau răm

thằng, mấy hồi, mừng hụt, thổi xà quần, bay xà quần, nghen, dậm chân dậm cẳng, lớ ngớ chạy vào, tẽn tò quay ra, ngó, quá trời buồn, cũ mèm, thằng nhỏ,

114

ngó bộ, ốm nhom, tiếng radio khọt khẹt, sống không nổi chớ chơi à, mắc cỡ gần chết, tỉnh bơ, tà tà, hễ, mầy, tui, tươi rói, chú mày, quá chừng hay, đám con nít, sưng chù vù, mắc cười, tụi nó, tong tả đi, giống hệt, sực nhớ, có sao không ta, mắc gì, chối bay, hết trơn, rồi cà, vắng dễ sợ, ngó (2), thằng, tụi này, tùm lum (2), cằng nhằng cử nhử, tụi kia, tụicon gái, sà vô, nhảy tưng tửng, tụi con gái, dữ dội, thấy mồ, thiệt là, đi lẹ lẹ, dễ ợt, giòn rụm, vậy cà, hổng, thở ra cái phù, rịt chân, sực nhớ (3).

41 Nhớ sông

thằng chồng

trôi xùm xòa, nhớ ràng ràng, con Thủy (12), nè, mềm xèo, hệt, bò chán bò chê, tỉnh bơ, lu bù, tỉnh như không, nghen, đám đàn bà con gái, uống sương sương, quá trời đất đi, trả lời muốn mệt, ổng, phải chi, xơ rơ đứng, mắc mớ gì, bây, sướng thấy mồ, tui, chế (3), bây (4)

cha nội 42

Duyên phận so le

vắng teo, nhậu nhẹt, hồi nào giờ, mầy, ngó (2), coi (3), mừng húm, tổ bố, cười nói bạo liệt, điệu này, hôn hít (2), ốm tong teo, quên mất tiêu, nhỏ teo, con nhỏ, nhẹ hều, mắc chán, quá chừng (3), khờ ịt, tùm lum, vậy cà, thằng cha, lui cui, nói láp váp, thúi ủm, độ

115

rày, mắc mớ gì, trớt quớt, hèn chi, nói chuyện khơi khơi, y chang, con nít, mắc dịch, hay ho, chút đỉnh, nhằm nhò, buồn ác, buồn vô địch

44

Cuối mùa nhan sắc

thiếu điều nhỉ nước đái

có ý nghĩa ghê lắm, héo queo, rớt cái độp, rách te tua, ít xịu, nhiều ơi là nhiều, chút đỉnh, già cóc già kiết, hổng thèm, bay xà quần, tạt vô, mấy đứa, quá trời đi, cổ (2), ảnh, bây (4), tao (3), có nhớ miếng nào đâu, coi nhon lành, lạ hết biết, kiểu này, tui, cười cái rần, cỡ đó, hổng, đẹp quá chừng, lụi hụi, mắc cười, thấy mà ham, vậy nghen, thấy mà ham, thiệt, nè, tụi tui, à nghen, buồn thiệt là buồn, tụi trẻ.

Chú thích: Phần đánh số trong ngoặc đơn thể hiện số lần được sử dụng lặp lại của từ

116

PHỤ LỤC 2

BẢNG THỐNG KÊ LỜI THOẠI TRỰC TIẾP

TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN QUANG LẬP

STT Tác phẩm Lời thoại trực tiếp

1 Kí ức năm hào

(1) lần nào về xin học phí mạ cũng gắt um lên: Đi học sau này có làm vương làm tướng chi không mà tháng nào cũng đòi tiền tao.

(2) Có lần cô giáo nói: Nhà thầng Đạng mà không có tám hào học phí à, vô lí.

(3) Mạ cười xoa đầu nói con giỏi hè.

(4) Mình cầm năm hào chạy ù xuống nhà con Hà xì tiền ra khoe, nói tao có năm hào!

(5) Mình lấy ngón tay ấn ấn hỏi đau không.

(6) Nó nói mới mọc hơi đau đau giờ hết rồi.

(7) Mình nhìn đôi núm vú say sưa, nói hay hè hay hè.

(8) Nó nói rồi to bằng người lớn tề.

(9) Mình nói tởm hè.

(10) Nó lườm nói tởm răng mà tởm, phải to bằng người lớn để cho con bú chớ.

(11) Mình nhăn răng cười, nói tởm.

(12) Mãi sau nó không hỏi nữa thì lại nói tao mất năm hào rồi.

(13) Nó giật cuốn vở bài tập toán lật lật mấy trang rồi chìa ra tờ năm hào, nói đây nì!

(14) Nó nói để tao cất cho, mi cất mấy anh mi lấy mất.

(15) Mình nói mai mi đi chợ mua ăn hết luôn.

(16) Nó nói mua chi.

(17) Mình nói bánh tráng bánh đúc, chỉ hai đứa ăn thôi, không cho đứa mô hết.

(18) Nó nói ừ, không cho đứa mô ăn hết.

(19) Mình nói ừ không cho đứa mô ăn hết.

117 2 Thằng cu Hó (1) Nó bảo cái tên Hó tối mò, quê một cục, nghe cái tên

chó nó muốn làm việc với tao.

(2) Mình hỏi tên Lập được chưa.

(3) Nó bảo chấp nhận được.

(4) Con mình nói mời bác ăn cơm.

(5) Nó bảo mày không biết dạy con mày à?

(6) Mình hỏi sao.

(7) Nó nói phải dạy tụi nó con mời bác xơi cơm.

(8) Mình nói ăn với xơi khác gì nhau.

(9) Nó cười, nói mày là nhà văn Thủ đô rồi con ạ, đừng có bảo thủ.

(10) Nó nói mày phải khẩn trương hòa tan ngay cái bản sắc nhà quê hủ lậu của mày đi.

(11) Đứa thứ nhất nói một hơi cháu mời bác xơi cơm con mời bố xơi cơm con mời mẹ xơi cơm em mời anh xơi cơm.

(12) Nó bảo mày vứt nó vào sọt rác đi, quê lắm.

(13) Mình nói chà, xe chỉ là phương tiện, mình chưa có tiền đi xe tốt thì đi xe này, việc gì đâu?

(14) Nó cười khịt khịt, xoa đầu mình, nói quê lắm con ơi.

(15) Nó nói phô cái nghèo khổ ra ai thương mà người ta khinh

(16) Mình nói không có thì thôi, ráng hành ra mỡ làm gì?

(17) Nó xoa đầu mình cười, nói con ơi con răng mà quê rứa con.

(18) Nó nói mày viết bài hiền lắm, quê.

(19) Mình hỏi sao

(20) Nó bảo thỉnh thoảng phải đá vài tiếng Tây vô cho nó sang.

(21) Mình bảo tiếng Anh của tao chưa qua trình độ How are you, biết gì mà viết.

(22) Nó ném ra cuốn luận văn tiến sĩ của nó, nói mày xem đây.

(23) Nó cười, nói tao biết mịa gì tiếng Tây, ghi thế cho đỡ quê.

118

(24) Mình nói thế thì chỉ mang tiếng dốt ngoại ngữ chứ sao gọi là quê.

(25) Nó nói dốt gì không nói chứ ở đô thành mà dốt ngoại ngữ gọi là quê.

(26) Mình nói mày sợ quê hơn sợ dốt à?

(27) Nó nói đúng, ở đô thành sợ nhất là bị người ta coi là quê mùa.

(28) Mình nói mày nói tiếng bọ không xong, sao dám dịch tiếng Anh, tiếng Pháp.

(29) Nó nói tao bảo tụi học trò nó dịch thô ra, tao làm lại thơ, rứa là thành dịch giả, thấy chưa con.

(30) Mình cười nói mày làm mấy chuyện đó là quê đấy con ạ.

(31) Nó xoa đầu mình, nói mày ngu lắm, học làm sang sao gọi là quê.

(32) Mình nói sao mà khiêm tốn thế.

(33) Nó cười, nói muốn lên lãnh đạo trước hết phải khiếm tốn.

(34) Mình cười nói mấy trò diễn đó mới gọi là quê mùa đấy con ơi.

(35) Nó xoa đầu mình, nói thằng này quê mùa toàn diện và vững chắc, không cải tạo được.

(36) Nó nói Đông nói Tây rồi nói: “Tôi có đọc tờ Niu oóc ti mét, người ta nói rằng…”

(37) Mình gặp riêng nó, nói mày quê bỏ mẹ!

(38) Nó hỏi sao.

(39) Mình nói tờ New York Times, mày lại phát âm ra Niu oóc ti mét, phát âm không được thì đọc cái mịa gì.

(40) Cuối buổi nó lại lên phát biểu, lại chống tay, hất tóc, nhấp ngụm nước, nói nhân nói chuyện ngoại ngữ, tôi nói luôn hôm qua tôi cố tình phát âm New York Times thành Niu oóc ti mét, tôi để ý xem thì thấy chỉ có một phần ba là bịt miệng cười, còn lại chẳng ai hiểu tôi nói sai hay đúng.

(41) Tan hội nghị mình bắt tay nó, nói chúc mừng ông đã gỡ được một bàn thua.

119

(42) Nó nói thấy chưa, thấy ông thành thị chưa!

(43) Mình nói thấy rồi, kiểu này ông dễ về làm hiệu trưởng trường đại học ngoại ngữ lắm.

(44) Nó vênh mặt lên, nói chứ sao, viện phó rồi.

(45) Mình nói giỏi giỏi, ông thành thị giỏi giỏi.

(46) Nó cười khe khe kéo mình đi uống bia, nâng cốc nói chúc sức khỏe đồng chí ngu lâu, nhà quê vĩnh viễn.

(47) Mình chạm cốc nó, nói chúc sức khỏe đồng chí giả cầy, mau thăng quan tiến chức.

(48) Nó nói mày nói đúng, không giả cầy làm sao ra ông thành thị mà lên quan.

3 Trần Đăng Khoa

(1) Nó gặp mình, nói ông viết sai có một từ mà làm khổ ông, khổ cả chúng tôi.

(2) Mình hỏi từ nào.

(3) Nó nói cái ông nhân vật trong truyện đếch phải chính khách.

(4) Ông Z. gặp mình ở cổng Văn nghệ Quân đội thì vỗ vai nói không có gì đâu, Lập yên tâm, tụi mình biết cách làm cho mọi chuyện ổn thỏa mà.

(5) Nhưng vào gặp anh Huân thì nói tôi vừa đuổi cổ thằng Lập đi rồi.

(6) Nó vỗ vai nói ông tài.

(7) Nó vỗ vai cái ông khác bên cạnh nói ông tài.

(8) Tụi bạn bĩu môi xì, bốc phét! Mày mà quen được Trần Đăng Khoa, lại còn chơi nữa, cứ làm như tụi tao ngu lắm.

(9) Vợ thằng Phong dạy trường Trưng Vương gọi điện cho mình, nói 20/11 này anh làm sao mời được Trần Đăng Khoa về nói chuyện cho em với.

(10) Nó nói như không: Ai chứ bố đã bảo thì tôi phải đi chứ.

(11) Nó đến, cười cái xoẹt nói tắc đường.

(12) Mình thở phào nhẹ nhõm nói cảm ơn ông quá, nói thật tôi tưởng ông không đến.

(13) nó cười nhẹ tênh, nói ông không biết tôi quí ông à.

120

(14) Thằng Bùi Chí Vinh nói chiều nay tao với thằng Khoa nói chuyện ở trường Công Đoàn, mày đến xem tao đấu với nó.

(15) Nó cười khì nói thua… đú má.

(16) Họ rỉ tai nhau nói ông Khoa này tầm cỡ ủy viên trung ương.

(17) Một nữ thương binh bỗng đứng vụt lên kêu to cảm ơn đồng chí nhà thơ Trần Đăng Khoa!

(18) Hỏi mình ông Khoa có vợ chưa.

(19) Mình nói chưa.

(20) Chị bảo tôi cũng vừa bỏ chồng, ông làm mối tôi đi

(21) Mình nói hồi sáng bà còn kêu ông Khoa bẩn nổi tiếng mà, khéo không phải lấy đũa gắp chim ông ấy đấy.

(22) Chị nói kệ, gắp thì gắp, tôi cũng phải kiếm miếng thiên tài đã.

(1) Mạ nó nói thằng ni làm cái chi rứa hè! 4 Trung thu của

đứa bé bốn tuổi (2) Nó nói con sợ gãy cổ

(3) Nó hỏi răng lại anh chi, ba? Anh chị chớ.

(4) Ba nó trố mắt nhìn nó: con đọc được chữ à.

(5) Nó nhăn răng cười nói chữ thì có chi mà không biết

(6) Ba nó đưa tờ bào Nhân dân, chỉ cái đầu đề nói con đọc ba nghe.

(7) Ba nó ôm nó lên chạy ba vòng quanh sân hét to: vơ làng nước ơi, con tui biết đọc chữ đây nì.

(8) Mọi người cũng không tha, nói thằng ni hay, đọc chữ thì có chi mà khóc.

(9) Ba nó hỏi con làm chi rứa.

(10) Nó nói con nhúng nước cho chữ chết hết đi, biết chữ cực lắm.

(11) Ba nó đưa cho nó bốn hào nói ba thưởng Trung thu cho con.

(1) bà cười thẹn thùng, ngậm ngón tay đung đưa em xợ lắm. 5 Cái miệng hình

số tám (2) bà đập thằng D. nũng nịu nói xấu em nha, nói xấu em

121

nha.

(3) chị cười rất tươi, nói ui em, nói em mới dzô đa em.

(4) mình nói em là Lập đây mà.

(5) chị cười to nói chời ơi, Nguyễn Quang Lập sao chị không nhớ được.

(6) Chị nhìn mình cười cười, nói em mới dô đa em.

(7) Chị nói bạn trai chị đó.

(8) chị nói em tổ chức cho chị ở đây vài sô.

(9) Mình nói mình chị diễn làm sao?

(10) Chị nói được hết, chị hát vo, không cần đàn đóm.

(11) hát xong chị lại hỏi chừ hát bài chi?

(12) chị ôm mình, nói cảm ơn em chai nhìu nhìu à nghen.

(13) chị quay lại, hớt hơ hớt hải nói Lập ơi chị không có dzé, chị không có dzé.

(14) Mình nói em không lấy tiền chị ấy à, ngộ nhỡ không gặp anh thì sao?

(15) Nó bảo nói chị rồi, chị nói có gì cứ hỏi anh Lập.

(16) Chị mỉm cười tươi tắn, miệng uống hình số tám, nói em mới dzô đa em.

(17) Chị lại mỉm cười tươi tắn, miệng uống hình số tám, nói em mới dzô đa em.

(1) Mình hỏi anh, nói răng anh tên Đom. 6 Chuyện tình anh

cu Đom (2) Ông cười cái hậc, nói đom!

(3) Anh nói nhìn cái chi, lên lớp bảy là bằng cu tao thôi mà.

(4) Mình nói anh yêu cô Lý à?

(5) Anh nói yêu chớ, sợ chi không yêu.

(6) Mình nói răng anh yêu cô Lý?

(7) Anh nói con nớ bụ to

(8) Anh vỗ vai mình đánh bốp, nói a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải không, duyệt tao bài thơ.

(9) Mình ôm bụng cười rũ, nói anh làm thơ như ẻ.

122

(10) Anh trợn mắt lên, nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tao gieo vần êm như nhíp.

(11) Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho.

(12) Anh ôm lấy mình ra sức nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy trắng năm hào hai mới cứng.

(13) Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô mới sợ.

(14) Anh hỏi dọa răng.

(15) Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng yên Đom/ Thì đế quốc Mỹ thả bom xuống liền.

(16) anh đưa mình tập giấy năm hào hai, nói cám ơn mi, nhờ thơ mi tao sờ được bụ con Lý rồi.

(17) mình chạy vào hỏi cô, nói cô đang yêu à.

(18) Cô cười, nói ừ

(19) Mình hỏi cô yêu ai.

(20) Cô ngừng thái rau,mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu.

(21) Mình nhăn răng cười, nói em biết cô yêu ai rồi.

(22) Nghe vậy cô Lý tái mặt vội ôm lấy mình, nói em đừng nói với ai cả nghe chưa.

(23) Mình lại vọt đi tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.

(24) Anh cười cái hậc, nói è he, mần cặc chi tau.

(25) Anh nói tau hun cái nghe chưa.

(26) Mình nói ngoạm chỗ mô.

(27) Anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu.

(28) Mình nhăn răng cười, nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay.

(29) Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là đồ con nít.

(30) Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh.

(31) Anh cốc đầu mình phát, nói thằng ni tò mò tọc mạch gớm.

123

(32) Mình túm áo anh, nói kể đi.

(33) Anh nói cả nhà con Lý căm thù nhà tau như đế quốc Mỹ, nghe chưa.

(34) Mình hỏi răng căm thù.

(35) Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô.

(36) Mình sợ quá ôm lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết.

(37) Cô ôm đầu hét rất ro, nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!

(38) Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm.

(39) Anh Đom cười, nói hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe xác tau.

(40) Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh.

(41) Anh cười cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.

(42) Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói lắm rồi.

(43) Ba cô Lý cầm dao lung sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt được tau chặt mi ra ba khúc.

(44) Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về?

(45) Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng.

(46) Anh khoa chân múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa.

(47) cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa nói chi, nói lại nghe coi.

(48) Anh cười nhăn nhở, nói chi mô, nói chi mô.

Chú thích: - Phần đánh số trong ngoặc đơn thể hiện thứ tự lượt thoại

- Lời thoại trực tiếp được in đậm bởi tác giả luận văn

124