ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC

----  ----

HOÀNG THỊ MỸ NHỊ

NIỀM BI CẢM (AWARE) TRONG

"TRUYỆN GENJI" CỦA MURASAKI SHIKIBU

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 602230

Hà Nội, tháng 10 năm 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC

----  ----

HOÀNG THỊ MỸ NHỊ

NIỀM BI CẢM(AWARE) TRONG

“TRUYỆN GENJI” CỦA MURASAKI SHIKIBU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 602230

Người hướng dẫn khoa học : GS.TS NGUYỄN ĐỨC NINH Hà Nội, năm 2008

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 2 1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................. 2 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN ........................................................... 4 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................. 4 4. PHẠM VI VĂN BẢN SỬ DỤNG .............................................................................. 4 5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ...................................................................................................... 5 5.1 Tài liệu tiếng Anh ................................................................................................... 5 5.2 Tài liệu tiếng Việt ................................................................................................... 9 6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ......................................................................................... 12 CHƯƠNG I .................................................................................................................... 13 THỜI ĐẠI HEIAN VÀ KHÁI NIỆM ........................................................................... 13 NIỀM BI CẢM (AWARE) ............................................................................................. 13 I.1 Thời đại Heian ....................................................................................................... 13 I.2 Khái niệm về niềm bi cảm (aware) ....................................................................... 28 CHƯƠNG II .................................................................................................................. 35 NIỀM BI CẢM VỚI SỐ PHẬN CÁC NHÂN VẬT ................................................... 35 II.1 Bi cảm với thời gian đã mất của các nhân vật ...................................................... 35 II.1.1 Thời gian trôi chảy ............................................................................................ 35 II.1.2 Thời gian đồng hiện và dòng ý thức nhân vật ................................................... 44 II.2 Bi cảm trước sự vô thường của cái đẹp ................................................................ 55 II.2.1 Cái đẹp bất tử, cái đẹp cứu vớt thế giới ............................................................ 56 II.2.2 Sự vô thường của cái đẹp .................................................................................. 60 CHƯƠNG III ................................................................................................................ 73 NIỀM BI CẢM VỚI THIÊN NHIÊN TƯƠI ĐẸP ..................................................... 73 III.1 Thiên nhiên bi cảm trước cuộc đời luân chuyển................................................ 74 III.2 Thiên nhiên bi cảm với nỗi niềm hoài cổ ............................................................ 84 III.3 Niềm bi cảm trước sự phù du của vẻ đẹp thiên nhiên ....................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 93 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 97

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 1

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

MỞ ĐẦU

1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Nếu ai đó muốn tìm kiếm một huyền thoại lãng mạn về quả cầu

lửa vĩ đại - Mặt Trời của vũ trụ thì ngay tại vùng Đông Á nghìn lẻ một bí

ẩn, hãy đến chân ngọn Phú Sĩ quanh năm tuyết phủ, tìm một cánh hoa anh

đào còn sót lại từ vô lượng kiếp sinh, cùng một chút tĩnh tâm, trầm mặc của

Thiền tông. Nơi đây, ánh sáng của nữ thần Mặt Trời Amaterasu sẽ khai mở

một huyền sử tuyệt đẹp cho đất nước có tới 4000 hòn đảo lớn nhỏ này và

lưu danh cho nó cái tên gọi Phù Tang hay Nhật Bản với ý nghĩa là xứ sở

Mặt Trời mọc.

Từ những cuộc thiên di từ Trung Quốc, Triều Tiên…của người

Môngôlôít châu Á sang các quần đảo này, đến một nền văn minh phát triển,

đó là khoảng thời gian khá dài. Nhưng với các huyền sử Kojiki và Nihon

shoki, bình minh cả lịch sử Nhật đã bắt đầu với nhiều hoa trái và nhiều bất

ngờ. Dù là quần đảo biệt lập lục địa, văn hóa Nhật vẫn sớm hình thành phát

triển và tiếp thu hết sức tài tình các nguồn văn hóa ở châu Á lúc bấy giờ là

văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ. Cùng với mạch ngầm dồi dào của văn hóa

bản địa, vườn hoa mới của nhân loại bắt đầu bừng nở cho cái đẹp hiện sinh,

cho những gì thiêng liêng và cao rộng của tâm hồn con người hòa nhập với

thiên nhiên, đất trời, vũ trụ.

Nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến một xứ sở văn

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 2

học diệu kỳ của những bài thơ ngắn đến bất ngờ (thơ haiku) và cuốn tiểu

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

thuyết trường thiên dài cũng bất ngờ (Truyện Genji). Truyện Genji được

xem là một tiểu thuyết dài độc đáo, ra đời trong khoảng thời gian những

năm đầu của thế kỷ XI (1004-1011). Đây là một hiện tượng văn học sớm về

mặt thể loại. Nó đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển

của văn học trên thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng Truyện Genji

là tiểu thuyết tâm lý xuất hiện sớm nhất, đã chinh phục chúng ta bằng thế

giới tâm hồn sống động, chân thực và gợi cảm. Tiểu thuyết đã phản ánh

những cung bậc đời sống xã hội phức tạp của con người thuộc tầng lớp quý

tộc thời Heian. Tất cả nằm trong ngòi bút tài tình của Murasaki

Shikibu(978? – 1016?), một người phụ nữ quyền quý và đa cảm.

Truyện Genji nổi tiếng không chỉ bởi sự khai sáng của nó về mặt thể

loại mà còn bởi xuyên suốt tác phẩm là tư duy thẫm mĩ độc đáo: niềm bi

cảm(aware). Truyện Genji đề cao yếu tố mĩ, quan niệm thẩm mĩ trong bối

cảnh thời trung cổ Nhật Bản. Cảm thức aware trong tác phẩm mang đến

những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, con người, về nỗi buồn, cái đẹp của

vạn vật. Đó chính là đặc trưng mỹ cảm truyền thống của Nhật Bản và cũng

là chủ đề chính của tác phẩm.

Tuy vậy, trong nghiên cứu và giới thiệu văn học Nhật Bản ở Việt

Nam chúng ta còn rất ít chú ý nghiên cứu, khai thác đặc trưng thẩm mỹ này

của văn học Nhật Bản vốn ra đời từ thời kì đầu trung đại. Vì thế, đề tài

“Niềm bi cảm(aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu” có ý

nghĩa khoa học thiết thực và cần thiết. Một mặt nó góp phần giúp các nhà

nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam hiểu rõ hơn cơ sở mỹ cảm làm nên nét

độc đáo của văn học Nhật Bản. Mặt khác, cũng từ cơ sở này, chúng ta có

thể lí giải phần nào các hiện tượng, các đường nét riêng của văn học hiện

đại Nhật Bản - một nền văn học đồng văn với Việt Nam nhưng lại khác xa

với Việt Nam, thậm chí với cả Trung Hoa - một nền văn học đồ sộ mà nó

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 3

chịu ảnh hưởng.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

1.2. Văn học Nhật Bản đã được đưa vào chương trình giảng dạy

trong nhà trường phổ thông, Cao đẳng, Đại học ở Việt Nam. Đề tài nghiên

cứu về niềm bi cảm góp phần làm rõ hơn cái đẹp của Truyện Genji, có thể

còn là một tư liệu chuyên sâu về một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Nhật

Bản, giúp ích ít nhiều cho việc giảng dạy và giới thiệu văn học Nhật Bản

trong nhà trường. Từ đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa

hai nền văn hoá, văn học Việt - Nhật, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác

phát triển của hai quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá

của nhân loại.

2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

Mục đích của luận văn là phân tích bình luận tác phẩm, các mối quan

hệ trong tác phẩm để làm rõ phạm trù bi cảm, một phạm trù mỹ học thời

Heian của Nhật Bản. Từ đó có thể thấy quan niệm về cái đẹp, những biểu

hiện của cái đẹp trong văn học Nhật Bản trung cổ làm nên tính duy cảm,

duy mỹ độc đáo của người Nhật.

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là khảo sát và

phân tích cái bi cảm trong số phận của các nhân vật, trong cái đẹp vô

thường của cảnh vật thiên nhiên.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để đạt được hiệu quả tốt, luận văn sử dụng phương pháp khảo sát,

phân tích các mối quan hệ để triển khai và làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.

4. PHẠM VI VĂN BẢN SỬ DỤNG

Về văn bản nghiên cứu, tác giả dựa trên văn bản tác phẩm đã dịch ra

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 4

tiếng Việt do Nguyễn Đức Diệu chủ biên, gồm hai tập của nhà xuất bản

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Khoa Học Xã hội xuất bản năm 1991 làm đối tượng nghiên cứu chính, bên

cạnh đó còn tham khảo bản tài liệu tiếng Anh của Arthur Waley, Edward

G. Seidensticker, bản tóm tắt tiếng Anh của tác giả: Mari Nagase từ nguồn

UNESCO cung cấp.

5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Truyện Genji là tiểu thuyết trường thiên, tiểu thuyết tâm lý mang đầy

đủ các cung bậc tình cảm của tình yêu, luyến ái…và thẫm đẫm chất hiện

thực thời Hiean của xứ Phù Tang. Vậy nên nó là tâm điểm của nhiều cuộc

thảo luận, là đề tài của nhiều nhà nghiên cứu ở Nhật cũng như trên thế giới.

Ở Việt Nam, văn học Nhật Bản được biết đến nhiều là Kawabata Yasunari,

sau đó là Oe Kenzaburo, Yamamoto Banana và Haruki Murakami và một

số tác giả khác. Còn Truyện Genji vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Tuy

vậy tác phẩm cũng đã được tìm hiểu trên vài phương diện mang lại những

gợi mở sâu sắc, quý báu hỗ trợ cho chúng tôi có những định hướng cụ thể

khi tiến hành thực hiện đề tài.

5.1 Tài liệu tiếng Anh

Trên các kênh thông tin về văn học Nhật ở nước ngoài, tư liệu

nghiên cứu bằng tiếng Anh khá phong phú. Các học giả quan tâm đến văn

học Nhật đã dịch và giới thiệu, thảo luận thông qua Anh ngữ nhằm đưa tác

phẩm văn học gần với cộng đồng quốc tế hơn. Từ việc tìm hiểu những tài

liệu nghiên cứu tác phẩm Truyện Genji, chúng tôi rút ra được những vấn đề

có liên quan như:

Trong cuốn: “A reader’s guide to Japanese Literature”(Hướng dẫn

độc giả làm quen văn học Nhật Bản)[81], J.Thomas Rimer đã đánh giá hệ

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 5

thống nhân vật của tác phẩm Truyện Genji mang tính chân thực, tiêu biểu

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

là nhân vật Genji. Từ nhân vật đóng vai trò trung tâm này, nhiều mối quan

hệ xung quanh tạo nên những câu chuyện, tình tiết phức tạp được chuyển

tải qua cảm quan Phật giáo. Nó giống như vòng tròn của cuộc đời trôi chảy

theo kiếp luân hồi. Khả năng thẩm thấu nghệ thuật của tác giả qua niềm bi

cảm đối với sự phù du của kiếp người. Tác giả J.Thomas Rimer đã đánh giá

tác phẩm trên ba khía cạnh cơ bản: tính hiện thực, cảm quan Phật giáo và

niềm bi cảm tồn tại trong toàn bộ tác phẩm. Trong đó, tính hiện thực là

công cụ nhằm chuyển tải tư tưởng của tác giả qua sự ảnh hưởng của Phật

giáo và quan niệm thẩm mĩ niềm bi cảm(aware).

Cuốn “A dictionary of Japanese culture”(Từ điển văn hoá Nhật

Bản) [76] của Seisuko Kojima và Gene A.Crane cũng đưa ra hai vấn đề

chính trong Truyện Genji: âm hưởng Phật giáo và mỹ quan thẩm mĩ. Tác

giả đã cho rằng chủ đề về Phật giáo trong tác phẩm tập trung vào khía cạnh

sự ngắn ngủi, phù du của cuộc đời và yếu tố nghiệp hiển hiện trong tác

phẩm. Cảm quan thẩm mĩ của tác phẩm là: “xúc cảm thẩm mỹ gắn với nỗi

buồn man mác” hay được gọi là niềm bi cảm. Hai yếu tố trên có sự ảnh

hưởng to lớn đối với tác giả và tác phẩm và đó là ý nghĩa sâu sắc, chủ đề

chính được rút ra từ tác phẩm.

William J. Puett trong cuốn “Guide to the Tale of Genji”(Hướng dẫn

về tác phẩm Truyện Genji)[84] đề cập khái niệm aware được hiểu trong

nhiều hoàn cảnh, trên nhiều phương diện và từ nhiều ý kiến tranh luận khác

nhau. Các tác giả Morris, Valey, Tsunoda, Keene, De Bary, Miner,

Cranston, Anesaki đều có cách định nghĩa về khái niệm aware, và họ cũng

có những điểm chung bổ sung cho nhau cùng đi đến thống nhất về khái

niệm và cách biểu hiện của quan niệm thẩm mĩ này. Tác giả chỉ ra rằng: có

hai nguyên lý đang vận hành trong Truyện Genji. Trong khi tiểu thuyết lấy

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 6

cớ miêu tả đời sống cung đình Heian đã khéo léo thể hiện đề tài của mình

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

qua miêu tả sự ngắn ngủi của tình yêu, miêu tả cuộc sống tao nhã và cái

đẹp. Và rốt cuộc là tiểu thuyết viết về niềm bi cảm, nỗi buồn. Cái đẹp trong

tác phẩm còn thể hiện trong miyabi (tao nhã), một quan niệm thẩm mĩ

thanh cao, đặc sắc của đời sống cung đình thời Heian tiếp nối cho đến ngày

nay của người Nhật. Một trong những đối tượng của miyabi là người phụ

nữ đẹp, thậm chí tiểu thuyết được viết bởi người phụ nữ. Người phụ nữ

trong tiểu thuyết xuất hiện trong thời điểm đỉnh cao nhất của họ như là đối

tượng của vẻ đẹp hoàn hảo. Từ tiểu thuyết, hiện thực về đời sống đã trải

qua như: sự tao nhã, tinh tế, cái đẹp được ghi chép như sự hoài cổ về cảnh

buồn bã, u hoài, một cách sống hay một khoảnh khắc toả sáng trong văn

hoá Heian.

Trên trang website http://www.inform.umd.edu[75], Pin Fang Su đã

có bài thảo luận về nhân vật Genji. Theo học giả, để hiểu nhân vật Genji

chúng ta có thể tìm hiểu những vấn đề xung quanh nhà văn Murasaki

Shikibu và những người phụ nữ bên cạnh Genji. Trước khi bàn về Genji

người ta đã nghĩ đến những gì ảnh hưởng tới Mursaki Shikibu để tạo nên

KoGenji, (Ko trong nghĩa cổ có nghĩa là xinh đẹp và duyên dáng). Một

chàng hoàng tử đẹp từ dáng vẻ bên ngoài, hấp dẫn từ những cốt cách bên

trong, từ tài năng thiên bẩm, từ vị thế xuất thân…đã làm mê đắm bao cô gái

con nhà quyền quý, tài sắc, đức độ vẹn toàn. Tác giả bài viết cho rằng, để

xây dựng hình tượng Genji như vậy, nhà văn đã có một quá trình nung nấu

từ chính cuộc đời riêng tư của mình. Khi còn trẻ, Murasaki đã mồ côi mẹ

và được cha dạy dỗ cùng với người anh trai trong môi trường học vấn bậc

cao. Bà tỏ ra có trí thông minh hơn người và học nhanh hơn anh trai, biết

đọc cả chữ Hán, thứ chữ chỉ dành cho Nam giới. Bà sớm ý thức về bản thân

mình và vì vậy lấy chồng muộn khi đã 29 tuổi xuân. Chồng là một người

đàn ông đã có vợ cũng không tài cán gì. Cuộc sống dường như quá ngắn

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 7

ngủi và bất hạnh so với những gì bà mong muốn.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Genji là hình tượng nhà văn muốn gửi gắm những niềm mơ ước về

một người đàn ông lý tưởng. Ở chàng hội tụ tất cả những gì tinh tuý nhất.

Tuy vậy đã có nhiều người khen, chê về hình tượng lý tưởng này. Theo học

giả Pin Fang Su có nhiều lí do để có thể khẳng định Genji là người đàn ông

lý tưởng trên cơ sở đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ.

Trước hết, Heian là thời kỳ kéo dài từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII, thời

Trung cổ Nhật Bản với chế độ phong kiến đa thê. Tuy nhiên chính bản thân

chàng Genji hào hoa cũng có sự cuốn hút đặc biệt. Genji rất thông minh và

khéo léo trong thể hiện tình cảm của mình. Genji là người chu đáo, ân cần,

có trách nhiệm khi chăm sóc tất cả các người tình của mình. Chàng là một

người đa cảm, lãng mạn. Trong khi thế sự luôn thay đổi, chàng không

màng đến chính trị mà say mê với nghệ thuật, hội hoạ, thi ca, nhảy múa,

chữ nghĩa. Như vậy, Pin Fang Su đã đưa ra quan điểm của mình khi bình

giá về nhân vật từng có nhiều tranh cãi để từ đó khẳng định tính hiện thực

của tác phẩm và sự ảnh hưởng đối với tư tưởng của chủ thể sáng tạo ra nó

là niềm bi cảm(aware).

Ở một nghiên cứu khác, đăng tải trên website http://www.wsu.edu

[67], viết về cơ sở của mono no aware được trình bày bắt nguồn từ ý thức

của người Nhật. Motoori Norinaga, một học giả người Nhật, cho rằng, ý

thức đó xuất hiện đầu tiên ở người Nhật và kết nối với thế giới qua ngôn

ngữ thi ca bằng cách làm riêng của họ. Mono no aware là khái niệm trung

tâm, cơ bản của quan niệm thẩm mĩ người Nhật trong thời hiện đại. Đó là

công cụ giao cảm đầu tiên của con người với thế giới chỉ có ở Nhật.

Nói đến aware trong Manyoshu(Vạn diệp tập), người Nhật cho rằng

đây là tác phẩm thể hiện đặc trưng quan niệm thẩm mĩ của họ lẫn quan

niệm sống của họ trong quá khứ. Bằng cách cảm nhận đặc biệt về cuộc

sống thông qua aware, người Nhật đã phản ánh bi kịch của cuộc sống con

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 8

người trên trái đất này. Từ đó phát hiện ra quan niệm thẩm mĩ aware và

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

mono no aware là nguyên lí cơ bản trong cách thể hiện của các sáng tác

văn học viết và phim hiện đại.

Kondo Tomie trong cuốn: 105 key words for understanding

Japan(105 từ khoá để hiểu đất nước Nhật Bản) [66] đã xác định thuật ngữ

aware là kết tinh quan niệm thẩm mĩ thời kì Heian. Con người thời Heian

say mê cái đẹp, đặc biệt là nữ giới trong cung đình. Đỉnh cao của cảm giác

khi thưởng thức cái đẹp thể hiện trong aware khi tiếp xúc với cái nhất thời,

thoáng qua, phù du của sự vật như: mùa, sự cầu nguyện hay tiếng reo vui,

hay cảnh vật buổi sáng cũng làm cho con người xúc động sâu sắc.

Trong bài báo: Genji monogatari: a romance in three parts (Truyện

Genji: tác phẩm lãng mạn gồm ba phần) [65], Leslie Inamasu đã trình bày

quan điểm của mình về tình yêu trong ba người phụ nữ với ba tính cách, số

phận khác nhau nhưng cả ba hợp lại thì trở thành một người phụ nữ hoàn

hảo. Ở họ, phẩm chất của người phụ nữ vượt qua mọi giới hạn của mẫu

người phụ nữ Heian theo quan điểm của Murasaki Shikibu. Nếu Yugao là

một mẫu phụ nữ nồng nhiệt, say đắm trong tình yêu thì Akashi là một

người vợ người mẹ quý tộc, còn Ukifune là nguyên mẫu của một Nicô.

Ukifune là sự tiếp nối của Yugao trong mối quan hệ: Genji và Tono Chujo,

Kaoru và Niuo. Ở ba người phụ nữ này xuất hiện tình yêu chớp nhoáng,

lãng mạn, cuồng nhiệt khi tình yêu đến với mình. Tất cả họ đều nằm trong

sự chi phối của quan niệm thẩm mĩ của nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm.

Nhà văn đã hư cấu nên câu chuyện về triều đình Heian và những người phụ

nữ có vị trí trong xã hội đó với những mối quan hệ phức tạp nhằm làm nổi

bật đời sống tinh thần của họ trong mối quan hệ với hiện thực đời sống

cung đình.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ 9

5.2 Tài liệu tiếng Việt

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Công trình “Lịch sử văn học Nhật Bản”[44] của Suichi Kato do Trần

Hải Yến dịch là bức tranh đầy đủ nhất về văn học Nhật Bản. Trong phần

viết về Truyện kể Genji, tác giả cuốn sách đã đưa ra những phân tích giá trị

về hình thức lẫn nội dung của tác phẩm. Tác giả bàn về lối tự sự, phong

cách văn chương, ngôn ngữ, sự ảnh hưởng của tôn giáo đối với tác phẩm.

Đặc biệt, nhà nghiên cứu đã đề cập đến dòng chảy thời gian trong tác phẩm

là sự phát hiện rất có giá trị liên quan đến cảm thức thẩm mỹ aware. “Vậy

cái gì là riêng chỉ Genji monogatari có và thể hiện trong suốt 54 chương

sách? Theo tôi đó là sự nhận thức về tính hiện thực của dòng chảy thời

gian, cảm giác về tính hiện thực của thời gian như một cái gì đó khiến cho

mọi hoạt động và cảm xúc của con người ý thức rằng họ chỉ sinh ra trên trái

đất này chỉ một lần: “Đời chẳng dài chi hãy tận hưởng nó dù chỉ còn lại

một hay hai ngày”(Tenarai). Điều này nghĩa là sự hữu hạn của đời người và

sự vĩnh hằng đều gói gọn trong “chỉ một hai ngày” [44,153]. Vấn đề này

được tác giả đề cập trên nhiều khía cạnh biểu hiện trong tác phẩm và nghệ

thuật của tác giả mang lại những gợi mở sâu sắc cho người đọc. Chính tác

giả đã đề cao vai trò của dòng chảy thời gian như là một yếu tố quan trọng,

quyết định thành công của tác phẩm sau này: “…Murasaki đã thành công

trong việc truyền đạt cường độ thời gian. Sự thật về tính nhân đạo mà Genji

monogatari trình bày với chúng ta không phải là số phận, cũng không phải

sự phù du của kiếp người mà là dòng chảy thời gian, một điều rất bình

thường nhưng lại rất căn bản đối với chúng ta. Để thể hiện hoặc lí giải sự

thật này quả thật cần đến một tiểu thuyết trường thiên” [44,153].

Trong “Cảm nhận mới về văn hoá và văn học Trung Quốc”[48], Lê

Huy Tiêu đã so sánh tác phẩm “Truyện kể Genji” với tác phẩm“Hồng Lâu

Mộng”. Ông đã tìm ra mối quan hệ giống nhau giữa hai tác phẩm thể hiện

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

10

qua hai nhân vật chính: Genji và Giả Bảo Ngọc - những chàng trai đẹp, tài

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

hoa, phong lưu. Cả hai đều có tài chiếm trái tim của các mỹ nhân và cũng

đem lại không ít đau khổ. Hệ thống các nhân vật nữ cũng tài hoa mệnh bạc,

sống trong tình yêu thuỷ chung, son sắt. Bên cạnh đó về mặt nghệ thuật:

phương pháp tả thực, kết cấu chặt chẽ, về độ dài tác phẩm, xây dựng hình

tượng nhân vật, kết cấu thơ ca lẫn văn xuôi đều có sự giống nhau. Tác giả

bài viết còn đưa ra sự khác biệt trong hai tác phẩm như về hôn nhân, thái

độ phản ánh của nhà văn.

Một trong những cuốn sách nghiên cứu khá sâu và đầy đủ về văn học

Nhật Bản là cuốn“Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868”[5] của Nhật

Chiêu. Tác giả đã đề cập nhiều vấn đề về tác phẩm Genji monogatari. Ông

cho rằng thời kì Heian là thời kì của cái đẹp và Truyện Genji thể hiện thế

giới của niềm bi cảm. Tác phẩm chịu sự chi phối của cảm thức chung tinh

tế đó. “Genji là tác phẩm cổ điển hiếm hoi cố gắng phát hiện thế giới bên

trong ấy qua những cảm thức say mê, mơ mộng, tưởng nhớ, tuyệt vọng, u

buồn. xao xuyến…đặc biệt là niềm bi cảm đối với thời gian”[5,116]. Và

“Thời gian có thể huỷ diệt tất cả, nhưng các nhân vật của Murasaki thường

vượt ra khỏi sự chế ngự của thời gian dù họ vẫn bị huỷ diệt. Ta vẫn nhớ về

họ như nhớ tuổi trẻ và sắc đẹp. Họ không tàn tạ”[5,119]. Như vậy, Nhật

Chiêu đã phát hiện niềm bi cảm trong tác phẩm thể hiện rõ nhất qua yếu tố

thời gian trong vòng đời của nhân vật. Niềm bi cảm ấy còn thấm đẫm vào

thiên nhiên. “Tóm lại aware là một niềm bi cảm trước vẻ đẹp não lòng của

thiên nhiên và nhân thế” [5,121].

Cuốn “Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại”[42] của N.I.Kônrat do

Trịnh Bá Đĩnh dịch đã nêu ra năm ý kiến khác nhau của giới phê bình về

tác phẩm Truyện Genji. Đầu tiên là cuốn tiểu thuyết như sự truyền bá ngấm

ngầm cho đạo Phật, tác phẩm được viết với mục đích giáo huấn, Truyện

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

11

Genji là tác phẩm vô luân, khiêu dâm, đây là cuốn sử biên niên trá hình và

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

cuối cùng tác phẩm chuyên làm sáng tỏ những nguyên tắc độc đáo của mĩ

học Nhật Bản biểu hiện trong định thức mono no aware(sự quyến rũ của sự

vật). Tác giả dẫn quan điểm của nhà sử học Nhật Bản Igarashi “…đối với

Murasaki viết tiểu thuyết không phải là việc tổ chức tài liệu để tiêu khiển

cho những bà buồn chán trong những lúc rỗi rãi, mà là công việc tái tạo lại

bức tranh của cuộc sống con người với tất cả những biểu hiện của nó trong

đó có cả những người tốt và những kẻ ngu ngốc. Cái đó một lần nữa lại là

điều mới mẻ với nhà văn Nhật Bản thời kỳ này.”[42,177] sau đó khẳng

định: “thể loại của tác phẩm là tiểu thuyết hiện thực, phong cách - vabun,

đề tài - người bạn tình và người phụ nữ Heian. Đó là ba toạ độ của

Genji”.[42,186]. Bên cạnh đó, còn có cách lí giải về bố cục tác phẩm của

giáo sư Phujioka. Từ cách chia tác phẩm ra thành ba tập lớn, giáo sư cho

rằng: “Khi đọc tác phẩm dù không chủ tâm thì vẫn có cảm giác rằng nó có

ba phần: “tuổi trẻ, những năm trưởng thành và khi về già của nhân vật hoặc

theo một kết cấu khác: những năm vô tư, những năm vinh quang, những

năm trả giá”[42,204]. Qua đó giáo sư đặt tác phẩm trong sự vận động của

thời gian và hoàn cảnh với sự phát triển của nhân vật chịu sự ảnh hưởng

của lý thuyết Phật giáo.

Trên đây là những công trình nghiên cứu chính đã công bố có liên

quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả trong luận văn này. Tất cả các kết

quả nghiên cứu của các học giả đi trước đã giúp cho tác giả luận văn có cơ

sở để triển khai đề tài nghiên cứu của mình.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn được

cấu trúc thành ba chương:

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

12

Chương I: Thời đại Heian và khái niệm niềm bi cảm(aware)

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Chương II: Niềm bi cảm với số phận các nhân vật

Chương III: Niềm bi cảm với thiên nhiên tươi đẹp

CHƯƠNG I

THỜI ĐẠI HEIAN VÀ KHÁI NIỆM

NIỀM BI CẢM (AWARE)

I.1 Thời đại Heian

Thời kì Heian kéo dài từ năm 794 đến năm 1185. Năm 781, Thiên

hoàng Kammu lên ngôi và dời kinh đô từ Nara về kinh Heian vào năm 794

đánh dấu đất nước bước sang một thời đại mới kéo dài khoảng 400 năm.

Đây được xem là thời kì văn hoá, xã hội phát triển mạnh mẽ và đa dạng.

Trong thời kì này đặc biệt có sự phát triển của dòng họ nhiếp chính

Fujiwara, dòng họ thống trị triều đình, bành trướng thế lực. Dựa vào vị thế

Thiên hoàng, các nhánh của dòng họ này một mặt có những cải cách để

củng cố luật lệnh, một mặt tranh giành quyền lực lẫn nhau tạo nên những

biến cố về chính trị. Các gia tộc khác đều bị dòng họ này đồng hoá bằng

các cuộc hôn phối. Vậy nên, giới quý tộc thời kì này rất giàu có, xa hoa,

hưởng lạc. Các công trình văn hoá được xây dựng nhiều phục vụ cho tín

ngưỡng và sự phát triển của đô thị. Cuối thời Heian, loạn chiến tranh giành

quyền lực diễn ra khiến chính trị xã hội bất an. Tầng lớp võ sĩ, cũng như

các thế lực mới khác bắt đầu có vị trí trong xã hội. Xã hội đang chuyển dần

sang xu hướng khác, nhường lại một thời kì vàng son đã qua để bước vào

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

13

một thời kì mới với nhiều biến cố, thời kì Kamakura.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Có thể nói, bất kỳ một quan niệm thẩm mĩ thuộc thời kỳ nào trong xã

hội cũng đều chịu sự ảnh hưởng của các tư tưởng thời đại đó. Niềm bi

cảm(aware) được xem là một quan điểm thẩm mĩ bị ảnh hưởng sâu sắc từ

tôn giáo mà đậm nhất vẫn là Phật giáo(Thiền Zen) trong thời đại Heian.

*Tôn giáo

Những thay đổi trong thế giới quan của người Nhật có sự xâm nhập

của các hệ thống tư tưởng nước ngoài: Phật giáo, Khổng giáo, Cơ đốc giáo

và chủ nghĩa Mác về sau, trong đó Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn

hoá Nhật và xuất hiện từ rất sớm trên đất nước mặt trời mọc này. Phật giáo

vào Nhật qua con đường Bách Tế vào khoảng thế kỷ thứ VI, còn Khổng

giáo du nhập vào Nhật sớm hơn (thế kỷ IV) nhưng Phật giáo đóng vai trò

quan trọng trong bộ máy nhà nước của họ. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI

ảnh hưởng Phật giáo đậm nét nhất. Tuy nhiên, người Nhật vẫn có sự tồn tại

lâu bền của văn hoá bản xứ. Vậy nên, thế giới quan người Nhật là hệ thống

tư tưởng đa thần , phức tạp. Bởi vậy J.Mtel một nhà Nhật Bản học đã cho

rằng: “Người Nhật mượn Phật giáo và Nho giáo cũng như người châu Âu

đã mượn đạo cơ đốc và triết học Hy Lạp về cái Logos. Nhưng họ từ chối

cái mệnh trời, những khoa thi và các viên chức Nho sĩ sự hoa mỹ bồng bột

của một số nghệ thuật tạo hình. Sau cùng, hoàn cảnh đảo quốc đã cho phép

Nhật Bản có ý thức về cả tính độc đáo của nó lẫn sự tồn tại của các nền văn

minh khác. Trung Quốc chỉ biết có một nền văn minh, nghĩa là bản thân nó,

còn những người khác đều là man rợ. Nhật Bản, trong khi giữ khoảng cách

với nền văn minh Trung Hoa, thậm chí còn có khả năng hơn để hiểu về tính

đa dạng của các giá trị về văn minh, và như vậy là nó có thể mở cửa mà

không từ bỏ bản thân mình”[31,53].

Từ thời Nara(710 - 794) Phật giáo được đưa vào trong chính sách của

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

14

nhà nước, chùa chiền được xây dựng khang trang bên cạnh đời sống nhân

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

dân nghèo khổ. Cuộc sống bị đảo lộn bởi thế lực nhà sư lên ngôi. Vào thời

Heian, tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người

dân theo đúng nghĩa của nó, bởi có sự can thiệp của giai cấp thống trị nhằm

kìm giữ sự lộng hành của giáo giới, tăng ni phật tử, không để xảy ra như

thời Nara. Phật giáo tạo cho người dân niềm tin vào cuộc sống, vào thế giới

bên kia của cuộc đời, tin vào đức Phật để con người sống hướng thiện. Tuy

nhiên, đây là thời kỳ cực thịnh của giai cấp quý tộc nên đã tác động rất lớn

tới đời sống chính trị và tôn giáo. Lúc này ở Nhật xuất hiện các tông phái

Phật giáo mới. Các giáo phái du nhập từ Trung Hoa như: Thiên thai tông

và Chân ngôn tông. Trong số các tín đồ có nhân vật Kukai đã sáng lập ra

Mật giáo, được xem là người thông tuệ nhất trong lịch sử tôn giáo Nhật

Bản, đã ảnh hưởng đến ngay cả giới quý tộc, triều đình phong kiến. Hành

đạo của Mật giáo, Chân ngôn tông có nhiều yếu tố trong đó có Thiền định.

Ông truyền dạy con đường thành Phật thông qua thực hiện các thực hành

của Mật giáo trong đó có việc ngồi Thiền. Và con người khi đạt đến tối

thượng gọi là Chân ngôn. Chân ngôn đã trở thành tôn giáo của dân tộc, do

đó văn học nghệ thuật được khuyến khích dưới sự ảnh hưởng của Kukai.

Chính nghệ thuật bị ảnh hưởng, đi liền với tôn giáo vì bàn đến nghệ thuật là

đến với cái chân-thiện-mỹ và văn học đã làm nên công cụ là phương tiện

sinh động nhất về nhân sinh quan tôn giáo. Trong văn hoá, đặc biệt là văn

học, tác phẩm Manyoshu(Vạn diệp tập) đề cập đến “sự phù du của kiếp

người” và có thể xem một phần ảnh hưởng của Phật giáo. Tuy nhiên quan

niệm sự phù du của kiếp người không phải hạt nhân triết học của Phật giáo.

Sự ảnh hưởng của Phật giáo còn thể hiện rõ vào thời kỳ Heian, tuy

nhiên, nó đã bị biến đổi trong cảm quan của người Nhật cùng với sự xâm

nhập của Thần đạo(Shinto). Sự dung hợp giữa Phật giáo và Thần đạo diễn

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

15

ra vào thời Nara. Đến thời Heian Phật giáo có sự bảo trợ của chế độ phong

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

kiến nên phát triển mạnh và chia nhiều tông phái, trong đó có Thiền tông.

Một số giáo phái Phật giáo cho rằng: chúng ta đang sống trong thời thứ ba,

xét trong sự luân chuyển về mặt thời gian thì thế giới này đang nằm trong

sự suy thoái. Vậy nên đời sống của con người được xem là suy đồi trầm

trọng. Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong suy tư của người Nhật về

thực tại tối hậu. Cho dù họ bị ảnh hưởng sâu rộng của quan niệm Thần Đạo

về thế giới, nhân sinh nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi viễn tượng Phật giáo về

cái vô thường, vô ngã, duyên khởi nghiệp.

Nghệ thuật Phật giáo ở Nhật cũng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng

đến cảm quan thẩm mĩ người Nhật. Nhất là khi xã hội xem Phật giáo là

quốc giáo, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của đế chế cai trị. Nghệ

thuật Phật giáo được sử dụng rất nhiều trong hành đạo nhằm mục đích làm

cho không khí tiến hành nghi lễ, tạo nên không gian và thời gian linh

thiêng, nhằm tăng cường quyền năng tối thượng của Phật giáo. Mặc dù

nghệ thuật Phật giáo Trung Hoa du nhập vào Nhật nhưng đã được văn hoá

của dân bản xứ tái tạo lại. Nghệ thuật Thiền Zen ở Nhật chịu ảnh hưởng

quan niệm thẩm mĩ của đời nhà Tống ở Trung Hoa. Đặc điểm của nó là sử

dụng những khoảng trống cần thiết, sự kiềm chế …để tạo nên một cảm giác

gọi là “sắc là không, không là sắc” theo quan niệm của Đại Thừa. “Nghệ

thuật Phật giáo ở Nhật Bản, giống như nghệ thuật Shinto(Thần đạo), luôn

luôn phản ánh mối quan tâm về tính tự nhiên và giản dị, mang lại quan

niệm rằng đời sống là nghệ thuật sống đẹp và thanh cao”[56,354].

Bên cạnh đó, quan niệm phi nhị nguyên của Đại Thừa về luân hồi và

niết bàn biểu hiện dưới dạng cái Đẹp trong đời sống thường nhật. Quan

niệm về cái Đẹp rất đơn giản nhưng rất khó biểu hiện. Chẳng hạn như nét

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

16

chấm phá trong bức tranh thiên nhiên hoặc trong những bài thơ. Phật giáo

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nắm bắt một cảm nhận sâu xa của trải nghiệm niết bàn trong khoảnh khắc

ngay giữa đời sống tự nhiên để diễn tả cảm thức về cái vô thường. Chính vì

vậy tất cả “niềm bi cảm” bị chi phối bởi thế giới quan Phật giáo, đậm đặc ở

Thiền Zen.

Quan niệm đạo đức của Thiền trong Phật giáo đã khẳng định thực tại

có cả đúng và sai, thiện và ác. Và mọi giá trị đạo đức đều là tương đối. Đức

hạnh không chỉ tuân giữ giới luật mà còn phải trải nghiệm, thức tỉnh nội

tâm mà thành. Như vậy, Thiền tông đã đề cao sự vận động nội tại của bản

thể con người. Tính hướng nội thể hiện rõ trong quan niệm về đạo đức này.

Chính vì vậy Thiền ở Nhật đã chỉ ra con đường chuyển hoá rất đặc trưng là

không chủ đích, không chủ tâm. Dogen khuyên rằng chỉ nên ngồi yên lặng

không làm gì, để cho tâm trí trống rỗng. Để như vậy để nhận ra tâm thanh

tịnh của Phật giáo và trải nghiệm trạng thái giác ngộ và thực hành tham

thiền. Thiền khi vào Nhật Bản đã lột bỏ tính huyền bí của Ấn Độ và tính

chất trừu tượng, siêu hình, quan điểm nghịch thường của Đạo Lão và tư

tưởng thực dụng của Khổng Giáo. Thiền mang đặc điểm tinh tế, chính xác

và đơn giản ở Nhật. Vừa là nguồn gốc phát sinh cũng là cơ sở của văn học

nghệ thuật ở Nhật Bản, Thiền gợi hứng cho Trà đạo, Hoa đạo, Thư đạo,

Thiền hoạ, Khứu đạo, Cung đạo, Kiếm đạo…

Thần đạo là một tín ngưỡng tôn giáo bản địa xuất phát từ Nhật Bản,

tuy vậy nó vẫn có ảnh hưởng của Phật giáo và mối quan hệ đó qua lại lẫn

nhau. Do tính chất mặt trời của Phật đại nhật mà các tín đồ của Chân Ngôn

cho là vị thần tối cao của Thần đạo: Amaterasu(nữ thần mặt trời) là hiện

thân của đại Phật ở Nhật. Đó là cái gốc của Thần đạo Nhị nguyên, có sự

bao hàm cả Đạo Phật và Thần đạo. Vì thế việc hành đạo của cả hai cùng

một lúc nhưng không mâu thuẩn với nhau. Vậy nên vẫn có người theo quan

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

17

điểm tôn giáo kết hợp giữa Phật giáo và Thần đạo. Tuy nhiên giữa chúng

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

có sự khác biệt rõ nét. Thần đạo dạy rằng tự nhiên và con người vốn trong

sạch tự nguyên khởi thì Phật giáo Nhật Bản nhấn mạnh rằng: ý niệm về “sự

giác ngộ tự bản nguyên”. Hay Thần đạo cho rằng sự ô nhiễm và uế tạp ám

cái bản tính tự nhiên thì Phật giáo chỉ ra rằng cái giác ngộ bản nguyên bị

mờ ám bởi tham, sân, si. Thần đạo cho rằng sự thất bại và cái chết xảy ra,

gắn liền với sự sinh ra đời sống. Mọi tội lỗi là uế tạp và Kami(thần) là

thanh sạch. Tuy nhiên tội lỗi và bạo hành cũng có Kami, chúng là nguồn

gốc sinh ra cái thiện và cái ác trên thế giới. Vì vậy Motoori Norinaga giải

thích rằng: “Shinto nhìn nhận cái chết và cái ác như một phần của sự sống

mà không phải từ chối bằng niềm hi vọng vào kiếp sau. Chẳng có gì đáng

buồn hơn cái chết, còn sai lầm thì như bụi bẩn bay vào cơm”[56,311]. Điều

đó cho chúng ta thấy rằng nhà Shinto học nổi tiếng này đã chỉ ra vấn đề cơ

bản của Thần đạo khi phủ nhận cái chết để đề cao sự sống có ý nghĩa trên

thế giới thực tại này. Và trong quan niệm của Thần đạo điều con người trở

nên sống có ý nghĩa hơn, viên mãn hơn chính là con đường thanh tẩy. Thần

đạo chỉ ra rằng con đường thanh tẩy trước hết phải có trái tim trong sáng.

Thanh tẩy cả về thể xác và tâm hồn. Vì vậy phải cải biến nội tâm, hình thành

tình cảm kính sợ và trọng vọng, ngưỡng mộ và sùng bái đối với Kami.

Quan niệm Thần đạo cho rằng: các thành tố tự nhiên đều là những đứa

con thanh khiết, đẹp của Kami(Thần), con người cùng với Kami kết hợp

nhằm phát triển những điều tốt đẹp đó. Sự hiện diện của Kami không chỉ

qua lời nói mà còn thể hịên qua năng lực nhận thức thẩm mĩ về cái đẹp

trong giới tự nhiên. Điều này gần gũi với cách cảm thụ cái đẹp trong quan

niệm thẩm mĩ aware. Nhân sinh quan của Thần đạo đã mang lại cho hình

thức nghệ thuật ý thức về tính giản dị, tự nhiên, sự phản ánh trái tim trong

sáng và chân thật. Qua các nghi lễ thờ cúng, lễ hội, nhạc,… cho thấy Thần

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

18

đạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm nghệ thuật đương đại khi Thần đạo

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Nó còn ảnh

hưởng sâu sắc đến văn học trong các tác phẩm thờ cúng cổ xưa theo hình

thức Uta hay waka tồn tại nhiều trong các văn bản huyền thoại và đặc biệt

trong tập thơ Manyoshu(Vạn diệp tập). Nhiều bài thơ thể hiện mối tương

giao, tương cảm tự do giữa con người và Kami.

Quan niệm đạo đức của Thần đạo xem cảm thức đạo lý là thuộc tính tự

nhiên của nhân sinh. Trong xã hội tồn tại các trạng thái: chết, tình dục,

trộm cắp…Cái ác xuất hiện là do Kami nổi giận, cái thiện xuất hiện khi

Kami nguôi giận và ban cho sự sống những ân huệ. Tất cả đều từ Kami mà

ra. Như vậy điều may mắn và rủi ro xảy ra không tuân theo một chuẩn tắc

nào, cái ác, cái thiện không theo nguyên lý và không kiểm soát được.

Shinto là phóng túng, vô luân? Không hoàn toàn như thế. Nói chung con

người phải tuân theo một trái tim chân thành, cư xử phải tao nhã, phù hợp,

hướng đến cái thiện. Cái ác tâm, thù hận, ích kỷ…phải từ bỏ và làm việc

theo thiện chí, hợp tác trong con đường đến với cái thiện. Như vậy, nhằm

vào sự phát triển nội tại của bản thể trong sự chuyển biến Shinto đã đưa ra

một quy tắc về con tim chân thành, phẩm chất đạo đức quan trọng là chân

thực và trọng danh dự. Xuất phát từ nhân sinh quan ấy, Shinto đặt việc xử

thế trong mối tương tác phải hợp cảnh, hợp tình và mang tính tự nhiên chủ

nghĩa. Bởi lẽ, tất cả sự vật và con người đều bắt nguồn từ Kami nên luôn

mang trong mình bản chất thanh khiết lành mạnh và đời sống thiện lành là

đời sống hoàn toàn tự nhiên. Con người không đối lập với tự nhiên. Nhu

cầu của con người là bản năng tự nhiên, những đam mê, ham muốn đều

lành mạnh và làm theo trái tim chân thành, ngay thẳng-tình dục. Bởi vậy,

người Nhật luôn mở lòng đón lấy thiên nhiên tươi đẹp và làm cho nó trở

nên tươi đẹp hơn. Chính một số khía cạnh của sự hoà hợp đó là giá trị mà

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

19

người Nhật luôn mong muốn ở nghệ thuật ý thức được trách nhiệm của con

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

người đối với Kami làm cho đời sống của họ cùng với thế giới tự nhiên trở

nên đẹp nhất.

Đạo đức trong quan niệm của người phương Đông là những hành

động của xã hội thuộc về con người, một mô hình về cách sống, hay là

quan niệm sống, bao gồm cả thái độ của con người đối với thần thánh(tôn

giáo), những nguyên tắc hành xử giữa sinh vật này và sinh vật khác. Đạo

đức Nhật Bản có nét riêng biệt, độc đáo tuy vẫn nằm trong sự chi phối của

hệ thống tư tưởng phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc. Người Nhật Bản

cố đại cho rằng mọi hiện tượng đều là biểu hiện của thần (Kami). Trong

Nihon shoki, người Nhật quan niệm rằng con cháu của đôi vợ chồng

Izanagi và Izanami ban sơ là đảo và đất liền chứ không phải con người.

Cho nên con người không được xem là trung tâm hay có vị thế cao hơn

hoặc đối lập với tự nhiên. Tất cả đều nằm trong mối quan hệ gia đình. Con

người, thiên nhiên và thần linh luôn có mối quan hệ gần gũi trong đời sống

cộng đồng, trong nghệ thuật cũng như trong tư tưởng thẩm mĩ mọi thời đại

ở Nhật.

Quan hệ qua lại giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo và Thần đạo tạo

nên một sự gặp gỡ chung ở lòng vị tha, trung thành và lối sống hướng đến

cái thiện. Sự dung hợp đó hun đúc cho tính cách của người Nhật mang đậm

tính nhân văn, nhân ái. Họ có xu hướng đi sâu vào cái tâm linh, hướng nội

với những giá trị đạo đức cao đẹp, thánh thiện, trong sáng, đẹp đẽ nhằm

mang lại những quan niệm thẩm mĩ về cuộc đời về con người trong mối

tương giao, hoà hợp với thiên nhiên tươi đẹp trên xứ sở hoa anh đào. Tư

tưởng tâm linh của người Nhật được bắt nguồn, tiếp biến qua nhiều thế hệ.

Theo nhà nghiên cứu Vladimir Devidé cho rằng: “…thiên hướng cơ bản

trong triết học và văn hoá phương Tây dựa trên sự rõ ràng và dựa vào cái

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

20

đang thực sự tồn tại. Cái tốt, cái đẹp và sự sáng tạo, tất cả đều được định

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nghĩa trong sự tồn tại của nó. Vì thế sự không hoàn hảo hay khuyết thiếu sẽ

bị coi là một dạng không tồn tại. Ngược lại, thiên hướng cơ bản trong triết

học và văn hoá Phương Đông lại nghiên về hư vô, không phải với nghĩa

phủ định của phương Tây, một thuật ngữ rất vô thức song lại có ý nghĩa

cực kì to lớn trong cội nguồn văn hoá và tâm lí con người Nhật

Bản…”[80,125]. Như vậy, mỹ cảm aware thấm nhuần trong văn hoá

Nhật Bản và được bắt nguồn từ sự kết hợp giữa các tôn giáo khác nhau.

Trong đó, thẩm mĩ Thiền có ảnh hưởng lớn nhất, trong đặc tính văn hoá

của người Nhật đã góp phần làm nên sự hoà hợp tuyệt vời giữa nghệ

thuật và tôn giáo.

Có thể nói cảm xúc aware phát triển theo tự nhiên, trong sự xung đột

mâu thuẫn giữa tín ngưỡng tự nhiên của Shinto giáo và những điều cấm của

Phật giáo. Sự xung đột đó đã một phần thúc đẩy đi đến sự thống nhất tư

tưởng hoà hợp với thiên nhiên nhằm chống lại triết lý có tính siêu nghiệm

của một thế giới khác ngoài tự nhiên. Nằm trong ý thức hệ đó, thời Heian,

người Nhật đã biết cách cảm thụ cái đẹp u huyền.

* Phong tục

Quan niệm thẩm mĩ của người Nhật có nét độc đáo riêng biệt. Ảnh

hưởng mạnh nhất đối với nghệ thuật là quan niệm về cái đẹp, cách cảm

nhận cái đẹp và tạo nên cái đẹp của người Nhật. Ở Nhật, đi khắp đất nước

từ Hokkaido đến Kyushu chúng ta thấy ở đâu cũng có hoa đua nở bốn mùa

khoe sắc, hoa trong vườn, hoa trồng trong chậu, hoa trên các nẻo đường

khiến du khách phải ngỡ ngàng vì sao mảnh đất cằn cỗi này lại có những

sắc màu của sự sống mơn mởn và tươi đẹp đến thế. Đó là xuất phát từ quan

niệm sống của họ thích làm đẹp bằng cách trang trí tỉ mỉ cho mình từ

những cái nhỏ nhất, tuy đơn giản nhưng toát lên vẻ đẹp tiềm tàng đầy sức

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

21

sống. Không rắc rối cầu kì trong bố trí màu sắc hay đồ vật nhưng người

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

xem vẫn thấy một sự thanh nhã, lịch thiệp, sang trọng và tìm thấy cái đẹp

trong sự đơn giản đó. Đó cũng chính là sở trường của người Nhật khi nắm

bắt thần thái của sự vật để làm tôn thêm cái đẹp của nó. Khi nhìn vào sự vật

người xem cảm nhận cả cảm xúc của người tạo ra nó. Họ đặt cái đẹp trên

một quan niệm cao hơn bao quát lấy nó là Đạo: trà đạo, hoa đạo, kiếm

đạo…Khi tạo ra các phạm trù được xem là đạo người Nhật đã đưa quan

niệm tâm linh vào bên trong để nó có sức sống trong cuộc đời.

Ở Nhật cái đẹp gắn với nỗi buồn, với sự mong manh, yếu đuối, khó

nắm bắt. Từ sự vật đến con người, từ hình thức đến nội tâm, cái đẹp ẩn sâu

không hiển hiện, nếu bắt gặp một tâm hồn biết cảm nhận thì vẻ đẹp đó càng

long lanh, thắm đượm hay thâm trầm, nhẹ nhàng, mênh mang. Như phù du

trong cuộc đời, cái đẹp có thể xuất hiện trong khoảnh khắc nhưng cũng mất

đi trong giây lát, để rồi nó vẫn còn tồn tại mãi trong nhân gian về một cái

đẹp vĩnh hằng. Quan niệm đó cắm sâu cội rễ trong cảm quan truyền thống

của người Nhật từ xa xưa và được phát triển khi có tôn giáo chắp cánh. Bởi

thế, nền nghệ thuật Nhật Bản đã có những cách xử thế rất độc đáo, vượt lên

trên các quan niệm đạo đức, tôn giáo, để đạt tới cái đẹp thuần khiết, hướng

tới cái vô tận của thế giới. Người Nhật có tín ngưỡng tôn thờ cái đẹp và họ

xem cái đẹp là tiêu thức, chuẩn tắc trong cuộc sống; hay họ lấy cái đẹp để

tạo nên thước đo đạo đức của con người.

Có thể thấy người Nhật có tính duy mỹ. Từ xa xưa họ đã quen sống

trong tư duy mỹ thuật độc đáo đó. Mọi vật hợp rồi tan, còn cái đẹp thì tồn

tại mãi nên đã tạo nên sự nuối tiếc cho cuộc đời và chính sự nuối tiếc đó

cũng là vẻ đẹp cao cả nhất. Vậy nên con người giữa thế giới này bình tâm,

tự tại mà sống, không cần bám vào bất cứ cái gì nhưng vẫn tha thiết với

cuộc đời, sống hết mình với cuộc đời. Bởi vậy đến bây giờ có người chất

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

22

vấn vì sao thế hệ trẻ ngày càng xa rời tôn giáo? Không có tôn giáo làm sao

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

trị được lòng dân? Người Nhật có quan điểm sống riêng, luôn luôn tuân

theo quy tắc của xã hội, theo chuẩn tắc của truyền thống dân tộc và các mối

quan hệ xã hội ràng buộc khác. Dù một dân tộc có bị văn hoá phương Tây

xâm nhập nhưng nó vẫn giữ cho mình những sợi dây liên hệ cơ bản không

bao giờ mất với cội nguồn dân tộc.

Như vậy từ xa xưa đến thời kỳ Nara cho đến thời kỳ kinh đô chuyển

về ở Heian, Nhật Bản đã phát triển thịnh vượng văn hoá bản địa mang lại

sự phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Điều đó thể hiện rõ trong

nghệ thuật, đặc biệt là trong văn học. Quan điểm thẩm mĩ aware và mono

no aware cũng không nằm ngoài quy luật của sự phát triển đó. Do vậy

aware là trạng thái của cái đẹp do chủ quan tạo ra hơn là kinh nghiệm

khách quan mang đến, một trạng thái cơ bản bên trong hơn là trạng thái bên

ngoài. Nó khác với quan niệm về vẻ đẹp ở phương Tây là tìm kiếm sự hoàn

hảo ở bên ngoài khách thể, một tác phẩm đạt đến sự cao quý, hoàn thiện,

tuyệt vời nhất hoặc là một tác phẩm với bố cục khó hiểu đòi hỏi người cảm

nhận phải biết cách thưởng thức nó. Một vẻ đẹp đạt đến đỉnh cao và duy

nhất. Còn ý tưởng người Nhật là nhìn thấy vẻ đẹp trong kinh nghiệm của

một trái tim, tâm hồn có xúc cảm, đồng cảm đối với khách thể. “Đối với

thiên nhiên, người Nhật đứng trước mối quan hệ nhiều chiều: vừa bình

đẳng, gần gũi trong sự giao cảm thuần phác, vừa xa lạ, huyền bí trong niềm

thành kính thiêng liêng pha lẫn nỗi hãi hùng trần tục. Cách ứng xử chủ đạo

của người Nhật đối với thiên nhiên là cố gắng thích ứng, truy cầu những lợi

ích của nó để phục vụ cho mình, không phá vỡ hệ sinh thái, bảo vệ môi

trường”[53,112]. Thiên nhiên thường được miêu tả trong trạng thái nguyên

sơ. Sự cảm kích trước cái Đẹp như là một trạng thái nhất thời và không

nắm bắt được giống như thuyết hư vô và nó bắt nguồn, quan hệ với triết lý

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

23

của Zen(Thiền), tính siêu nghiệm của thế giới trần tục.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

*Truyền thống văn học

Nói đến cơ sở để hình thành nên khái niệm thẩm mĩ aware không thể

không nhắc đến yếu tố truyền thống văn học. Tuy nhiên cho đến thời Heian

và từ tác phẩm Genji monogatari mới có thể xem là cái mốc quan trọng

trong quá trình phát sinh và phát triển sau này của aware, vậy nên những

yếu tố văn học tạo nên tiền đề trước đó còn rất mờ nhạt, hầu như chưa được

chỉ mặt, đặt tên mà biểu hiện trên các yếu tố riêng lẻ.

Có thể xem Vạn diệp tập là tập thơ đánh dấu những bước đi của aware

trước thời Genji monogatari. Đây là tập thơ đến bây giờ vẫn chưa xác định

rõ soạn giả là ai. Người đóng góp to lớn cho tập thơ đó là Otomono

Yakamochi. Những bài thơ trong Manyoshu(Vạn diệp tập) chủ yếu được

sáng tác trong thế kỷ thứ VII, thứ VIII trên nhiều đề tài về đời sống xã hội,

về tình yêu thiên nhiên, nam nữ, anh em…của các tác giả từ người bình dân

đến thái tử, từ người vô danh đến những người có tên tuổi trong giới văn

học. Các tác giả tiêu biểu như Hitomaro, Kurohito, Akahito, Otokami. Tập

thơ ghi rõ nhiều trạng thái tình cảm của con người rất chân thật và sinh

động. Trong tập thơ những cảm giác của con người được trải nghiệm thể

hiện trong thơ với nhiều tình huống rất đặc biệt có thể là cảm giác của con

người trước cái chết, trước những tình huống oái oăm của cuộc tình, trước

vẻ đẹp thâm u của thiên nhiên…Tất cả đem lại tiếng nói đa thanh cho tập

thơ và trong đó bao gồm những âm thanh buồn, dịu dàng phảng phất những

nỗi sầu muộn khôn tả trước thời thế, nhân sinh. Tất cả tạo nên một nguồn

sống mới cho cảm thức thẩm mĩ sau này của văn học: aware.

Nếu Vạn diệp tập biểu hiện bao quát toàn bộ cuộc sống với những

cung bậc tình cảm hồn nhiên, phong phú thì đến thời Heian, Kokinshu(Cổ

kim tập) thể hiện tài năng sáng tạo mang tính nghệ thuật cao hơn. Tập thơ

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

24

được xem như: “một núi đá rêu phong, cổ kính và hùng vĩ trong nền thơ ca

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

trữ tình Nhật Bản”[5,79]. Trong tập thơ này có một người nổi tiếng tài hoa,

đa tình với cuộc đời trôi nổi, phiêu lưu tính ái Ariwara Narihira. Thơ ông

tràn đầy những khát khao yêu đương và trường cửu. Không kém phần mây

mưa với chữ tình, nhà thơ nữ Ono no Komachi mang vào trong các tác

phẩm của mình sự ám ảnh của tàn phai và u tịch. Thơ nàng luôn đượm

buồn và ảo mộng. Trong Cổ kim tập, đề tài tình yêu chiếm lĩnh chủ đạo.

Bên cạnh đó những bài thơ viết về thiên nhiên cũng không kém phần sôi

nổi.

Bên cạnh sự lan toả mạnh mẽ của thơ ca thời đại, sự ảnh hưởng của

trào lưu văn học nữ lưu cũng tạo nên nguồn cảm hứng lớn, định hướng cho

xu thế chung của các tác giả nữ trong cách phản ánh. Họ thường hay chú ý

đến cách phân tích tâm lý của con người, thường viết lại câu chuyện cuộc

đời với tất cả nỗi buồn vui khi trải nghiệm những trạng thái tình cảm éo le

trong xã hội phù hoa, và phút chốc bỗng nhận ra sự bất ổn đang nằm trong

sự bền vững, sự đau khổ đang nằm trong niềm hạnh phúc lớn lao. Họ dự

đoán về cuộc đời dưới sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo sâu rộng.

Đội ngũ nữ nhi thường tình ấy đã tạo nên tiếng nói độc đáo riêng biệt cũng

bởi sự uỷ mị, yếu ớt, kín đáo, đằm thắm mà không kém phần dữ dội, mạnh

bạo của những tâm hồn biết nói với cuộc đời qua trang giấy.

Trong thời đại này, trào lưu văn học nữ giới bắt đầu xuất hiện. Theo

Hữu Ngọc thì đây là “một thời trữ tình ngọt ngào nữ tính” và “Cuộc sống ở

cung đình thanh lịch, êm đềm trôi trong cầm kì thi hoạ và thú vui, mang cái

duyên dáng đôi khi uỷ mị nữ tính. Nhưng do ảnh hưởng của đạo Phật, xã

hội quý tộc hưởng lạc và duy mỹ ấy vẫn đượm một nỗi buồn ngao ngán về

kiếp phù du ở trần thế”[37,16]. Phụ nữ là người đóng vai trò quan trọng

trong văn học viết bằng chữ Kana. Thời kì Heian các quý cô thường sống

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

25

trong điều kiện đầy đủ và được dạy dỗ cẩn thận về mọi mặt. Phụ nữ ở chốn

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

kinh đô ẩn mình trong sách vở và cảm xúc sâu kín trong các tác phẩm của

họ. Cho nên hàng loạt các tác phẩm văn học mà chủ yếu các cuốn nhật kí ra

đời. Kagero monogatari (Truyện kiếp phù du) do mẹ của Fujiwara

Michitsuma viết. Lối viết của bà ảnh hưởng đến các tác phẩm sau này:

Nhật kí Izumi Shikibu, Nhật kí Murasaki, Nhật Ký thời ở Sarashina, Truyện

Genji, Sách Gối Đầu. Trong đó Truyện Genji là thành quả cao nhất của văn

chương nữ giới. Tác phẩm đã được hư cấu để diễn tả đầy đủ cội nguồn tâm

lí đa dạng, phức tạp của con người. Tập tuỳ bút Sách gối đầu có cách xử lí

không kém phần tinh tế và trau chuốt, đi sâu vào thế giới mỹ quan với bối

cảnh là sinh hoạt cung đình thời Heian.

* Murasaki Shikibu với niềm bi cảm cuộc đời

Nhà văn nữ Murasaki Shikibu(978?-1016?) hay To Shikibu là con gái

của một quan địa phương Fujiwari Tametoki. Họ hàng của bà là chi phía Bắc

của dòng họ quý tộc Fujiwara sống trong thời Heian của Nhật Bản, kinh đô

đang đóng ở Kyoto thời đại Thiên hoàng Ichijo (986-1011). Họ hàng của bà

có truyền thống văn chương. Tsutsumi Chuunagon là thi nhân waka có tiếng.

Tametoki cha của nhà văn đã từng dạy thiên hoàng Kazan khi là thái tử. Ông

Tametoki còn rất giỏi thơ chữ Hán và thơ quốc âm.

Khi lên bốn, bà sống trong một gia đình thiếu vắng hình bóng mẹ.

Sau đó một thời gian hai người chị và em của bà cũng đã mất sớm. Nữ sĩ

được sự chăm sóc trực tiếp của cha và sớm bộc lộ tài năng học vấn của

mình nhất là khi bà tiếp xúc với các kiến thức văn hoá thời đại đến từ

Trung Hoa.

Hai mươi chín tuổi Murasaki làm vợ lẽ cho Fujiwara Nobutaka. Bốn

năm sau thì chồng chết, bà ở một mình nuôi con nhỏ lúc đó mới lên ba tuổi

tên là Kenshi - nữ thi nhân Daini-no-Sammi. Năm 1005, Thiên hoàng

Ichijô triệu bà vào cung hầu hoàng hậu Chugu Shoshi và được đãi ngộ như

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

26

một nữ học sĩ. Trong thời gian này Murasaki Shikibu viết Nhật

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

kí(Murasaki nikki) và vẫn viết tiếp Truyện Genji. Năm 1013, bà không làm

việc nữa và mất sau đó khoảng năm 1016 khi đó mới ngoài 40 tuổi.

Murasaki Shikibu là người có công ghi lại sự phát triển của chữ viết

dân tộc Nhật được gọi là chữ viết từ phụ nữ. Chứng kiến cảnh sống cung

đình, sớm mẫn cảm với cuộc đời, nhà văn đã có cách cảm nhận về cuộc

sống rất sâu sắc. Hơn nữa, do tác động của các yếu tố văn hoá, cùng với

kiến thức sâu rộng của mình, nhà văn đã để lại những trăn trở về cuộc đời

mang hơi thở thời đại. Điều đó thể hiện rõ nét trong cuốn nhật kí Murasaki

Shikibu nikki của bà.

Trong nhật kí, nữ sĩ thể hiện rõ thái độ của mình đối với thời đại

mình đang sống, với thế thái nhân tình mà trực tiếp là cuộc sống cung đình

xa hoa, phồn thịnh. Một nỗi buồn mênh mang bao trùm lấy cả tinh thần

cuốn Nhật kí mà nguyên do cơ bản là nỗi cô đơn khôn cùng xâm chiếm cả

tâm hồn nhạy cảm của nhà văn. Thật vậy, trong nhật kí có viết: “Mảnh đất

Tsuchimikado vẫn mang vẻ đẹp thần tiên cứ mỗi độ thu về. Những ngọn

cây bên hồ hay những cây bụi nhỏ gần bên con suối như được nhuộm

những sắc màu khác nhau mà những sắc màu đó lại càng sâu thẳm hơn

trong ánh sáng dịu dàng của màn đêm. Thanh âm của nước hoà vào trong

đêm tối hay là tiếng rì rầm tụng kinh không bao giờ ngừng lại làm nhẹ vơi

nỗi sầu như cơn gió nhẹ làm mát lòng người”[60,71]. Từ cuộc sống riêng

tư, từ cuộc hôn nhân không mấy suôn sẻ đến cuộc sống trong cung đình đã

làm cho nhà văn cảm thấy cuộc đời tẻ nhạt và khổ hạnh. Sự cô đơn càng ẩn

sâu trong một tâm hồn nồng nàn với tình yêu và cuộc sống. Dường như tất

cả những gì phồn hoa ở cung đình không làm cho nhà văn cảm thấy thoả

mãn. Bà cho rằng “Tôi nhớ cuộc sống trước kia của mình như một người lữ

khách lang thang trên những nẻo mộng đời, và tôi chán ghét mình đã quá

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

27

quen thuộc với nếp sống cung đình…”[35], hay “định mệnh của tôi là cô

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

đơn”[35].

Khả năng nhận thức cuộc sống của Murasaki rất tinh tế khi ở bên

cạnh hoàng hậu Akiko. Có lẽ là do chứng kiến cảnh sống cung đình nên

Murasaki Shikibu có một vốn sống khá phong phú, tạo nền tảng cho chất

liệu hiện thực trong Truyện Genji. Từ chuyện mâu thuẩn trong mối quan hệ

giữa hoàng hậu Teishi (Sadako) và Shoshi (Akiko) cùng với dòng dõi quý

tộc Fujiwara đến với hình tượng văn học Kokiden ghen ghét với Kiritsubo

trong Truyện Genji. Hơn thế, hình ảnh Murasaki Shikibu được nhìn thấu

qua nhân vật Murasaki no Ue. Còn riêng hình ảnh Genji thì không có nhân

vật nào ngoài đời làm nền tảng bởi vì theo nhà văn: "khắp trong triều

không có lấy được một người như Genji". Hình ảnh của chàng hoàng tử

xinh đẹp, hào hoa, phong nhã này là kết tinh những tâm nguyện về mẫu

người đàn ông mà tác giả gửi gắm niềm mong ước trong cuộc đời. Không

chỉ là chuyện cuộc đời mà còn là chuyện của lòng người được chuyển tải

qua nhân sinh quan của tác giả xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

I.2 Khái niệm về niềm bi cảm (aware)

Quan niệm thẩm mỹ niềm bi cảm theo ngôn ngữ Nhật được phiên âm

bằng Romanji là aware, được xem là thuật ngữ rất khó dịch. Theo nghĩa

gốc thì aware có nghĩa là buồn. Nó đã được nhiều học giả định nghĩa theo

nhiều cách khác nhau.

Theo Morris thì đây là một từ được dùng thường xuyên trong Truyện

Genji và những tác phẩm văn học cổ điển khác. Hiểu theo nghĩa bóng, nó

có nghĩa là xúc cảm (pathetic), rung động (moving), cái đẹp(beautiful).

Cụm từ mono no aware tương ứng với Sự tiếc nuối trước sự vật (the pity

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

28

of thing). Nó luôn được đóng vai trò làm chủ đề chính trong tiểu thuyết của

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Murasaki.

Còn Valey cho là: “Tiếng kêu thể hiện sự thương cảm hay nỗi buồn

đau” (exclamation of sympathy or distress)[84,105].

Hay “… Lời than vãn không rõ ràng về nỗi buồn mơ hồ” (an

ejaculation of vague and undefined sadness)[84,254] là định nghĩa của

Seidensticker về aware.

Tsunoda, Keene, De Bary đều thống nhất cho rằng aware xuất hiện:

“Trong những tác phẩm cũ, lần đầu tiên được sử dụng như một tiếng kêu

thể hiện sự ngạc nhiên hay vui thích, sự phản ứng rất tự nhiên của con

người. Các nhà phê bình phương Tây về văn học Nhật Bản gọi đó là

“ahness” của sự vật…Còn trong hoàn cảnh nào đó nó biểu thị nỗi đau đớn

dịu dàng.”[84,172].

“…Từ lúc đầu là lời nói “Ah!” “Oh”. Từ thời Heian, nó được sử dụng

để biểu thị cảm giác một cách rõ ràng. Như là một tư tưởng thẩm mĩ làm cơ

sở, nó có tính thanh nhã, kết hợp với cảm xúc bi ai” (Hisamatsu).[84,103]

Điều này giống trong tác phẩm Heike monogatari, phần chú thích của

dịch giả: “Nét sầu khổ siêu phàm mà đạo Phật thường gọi là

“aware”…Thật khó có thể định nghĩa một cách hoàn chỉnh từ này trong

một cuốn sách. Nói ngắn gọn thì aware bắt nguồn từ chữ “A! Ware” đây là

một câu cảm thán được sử dụng từ trước thời kỳ Heian. Đầu thời kỳ Heian

(thế kỉ XI) câu này biến thành một danh từ để chỉ một kiểu cảm xúc nào đó.

Xúc cảm này bao giờ cũng có những yếu tố cơ bản như nhau, tuy có thể thể

hiện trong những hoàn cảnh khác nhau…”[73]

Còn Miner thì “…Từ thuật ngữ cho rằng vẻ u sầu mang lại nét thẩm mĩ

hay xúc cảm trước nỗi buồn của cái đẹp thuần khiết….Sự biến đổi của cảm

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

29

xúc khi nắm bắt được vẻ đẹp, nỗi buồn và sự phù du của cuộc đời”[84, 103]

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

“… Aware có một quá trình phát triển lâu dài. Từ một tiếng kêu cảm

phục, ngạc nhiên hay vui thích cho tới ý nghĩa hiện tại “sự đau khổ”. Trong

thời Heian nó được sử dụng điển hình nhất là biểu thị một cảm giác dịu

nhẹ, nhuốm nỗi buồn tiếc nuối trước cái đẹp ngắn ngủi, chóng

tàn”(Cranston)[84,232].

“…Một cảm giác thích sự dịu dàng mà ở đó có cả sự nồng nàn và khổ

hạnh, trong những khoảnh khắc như vậy xúc cảm bản thể trỗi dậy, trong sự

hân hoan hoà lẫn nỗi sầu muộn xâm chiếm” (Anesaki)[84,64]

Theo Morinaga, mono no aware là cảm xúc thuần khiết và cao thượng

gần với suy nghĩ của con người và tự nhiên. Theo lý thuyết nghĩa của mono

no aware mang tính bao quát, toàn diện như toàn bộ dải cảm xúc của con

người và có thể xem là một giá trị nhân văn, nhưng trong thực tế sử dụng,

thường tập trung vào vẻ đẹp của sự phù du và tâm hồn nhạy cảm có khả

năng hiểu được cái đẹp ấy.

Theo Suichi Kato, “Mono no aware là xu hướng hướng thượng đưa

văn học từ chỗ tầm thường lên trình độ thẩm mĩ hàm dưỡng những gì thanh

cao, thiện và mỹ để đem lại những gì thư thái cho tâm hồn con người. Khái

niệm này thường được dịch theo nghĩa đen “thương cảm” hay “buồn

thương””[45,17].

Kondo Tomie cho rằng aware còn thể hiện xúc cảm mãnh liệt. Điều đó

có nghĩa bao gồm cả sự cảm kích, niềm vui thích, sự khoái lạc, hân hoan,

vui sướng và có thể thốt nên lời “sugoi-wow!” có nghĩa là “tuyệt vời!”.

Vào thời Heian thuật ngữ được ghi lại có thể đó là tâm trạng của con người

trước mùa xuân đang dần rụng rơi theo thời gian, hay vẻ đẹp hào quang của

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

30

con người và sự vật, vẻ đẹp nguy nga lộng lẫy của một căn phòng được

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

trang hoàng khéo léo, ngát hương. Tất cả đều xuất phát từ sự nhạy cảm

trước cái đẹp. Và có thể được miêu tả qua thuật ngữ: aware. Ông cũng cho

rằng: “cảm xúc không đơn thuần thể hiện cái đẹp như thế nào mà còn thể

hiện cảm xúc hầu như không chịu đựng được. Aware được xuất hiện có thể

trong giây lát, khoảnh khắc của sự sửng sốt, ngạc nhiên hay cảm giác bỗng

thấy rùng mình, run sợ”[66,185]. Vào thời Heian cảm thức về cái đẹp quả

thực đã kết tinh trong thuật ngữ này.

Nhật Chiêu cho rằng: “Aware thường được hiểu là bi cảm, một cảm

xúc xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật mà bản chất là vô thường. Do

đó aware là một trực giác thẩm mĩ chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Aware

nói đầy đủ hơn, mono no aware, dịch sát nghĩa “nỗi buồn của sự vật”. Nó

không phải cái bi đát trong mỹ học phương Tây cổ điển hay cái buồn lãng

mạn. Không ngông cuồng cũng không bi tráng, aware là một cảm thức

thâm trầm trước cái đẹp não lòng của thiên nhiên và con người”[5,67].

Như vậy, thuật ngữ aware xuất hiện sớm trước thời Heian thường

dùng để chỉ thái độ, xúc cảm ngạc nhiên, vui thích hay buồn bã trước hoàn

cảnh nào đó mà con người không kiểm soát được cảm xúc của mình và thốt

nên lời: aware! Đến thời Heian, aware dùng để chỉ xúc cảm, nhạy cảm.

Trong nghĩa rộng hơn, là những cảm xúc sâu kín được gợi lên bởi sự tác

động của đối tượng bên ngoài như hoàn cảnh, thiên nhiên, con người đóng

vai trò đồng cảm, bị tương tác. Trên thực tế, aware có nghĩa phổ biến là

một cảm giác buồn nhất thời. Aware được hiểu là niềm bi cảm trước vẻ đẹp

phù du. Đến thế kỷ XVIII, học giả nổi tiếng: Motoori Norinaga (1730-

1801) đã phát triển aware thành mono no aware. Theo nghĩa gốc của từ thì:

mono là sự vật, no là của, aware là sự buồn bã; mono no aware dịch sát là

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

31

nỗi buồn của sự vật. Đây là khái niệm dùng để chỉ cảm thức thẩm mĩ độc

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

đáo của người Nhật: cảm xúc xao xuyến, nỗi niềm bi cảm trước sự vật hay

trước cái đẹp. Trong đời sống hiện đại, aware còn có thể hiểu thêm đó là sự

khốn khổ, bất hạnh. Và cũng có ý tưởng cho rằng mono no aware đã tạo

nên tính đặc trưng giá trị văn hoá ở Nhật Bản.

Không chỉ có mono no ware tồn tại trong cảm quan thẩm mĩ của người

Nhật, trong tiến trình phát triển lâu dài trước và sau nó còn thấy xuất hiện

các khái niệm cũng mang những đặc điểm, có mối liên quan chung và riêng

với nhau cùng nằm trong hệ thống mỹ học của Nhật Bản.

Yugen là khái niệm thẩm mĩ của Nhật Bản rất khó dịch và hầu như

không định nghĩa rõ ràng được. Từ này xuất hiện đầu tiên trong các tác

phẩm viết về triết học của Trung Hoa, nó có nghĩa là mơ hồ, thần bí. Tác

giả cuốn Hojoki là Komo no Chomei đã cho rằng Yugen là mối quan tâm

đầu tiên của ông. Ông đưa ra ý kiến rằng: “Nó như một buổi sáng mùa thu

bao la, thanh vắng và tĩnh mịch, chúng ta mơ tưởng lại và tự nhiên không

kìm nén được những giọt lệ tuôn trào. Những cách hiểu khác đều đề cập

đến khả năng tưởng tượng rất quan trọng. Ví như khi ngắm một ngọn núi

trong sương mờ thì cảnh vật rất mờ ảo, mơ hồ chưa thể đoán định ra kích

thước của nó cao rộng bao nhiêu. Hay dù cho có thể nhìn thấy những chiếc

lá thu trong sương, thì cảnh vật rất quyến rũ. Phong cảnh và khung cảnh vô

hạn tạo nên cho chúng ta sự tưởng tượng phong phú, thú vị hơn và bất cứ

cái gì cũng có thể rõ ràng hơn trong sự tưởng tượng đó. Như vậy Yugen

dùng để chỉ cái sâu thẳm huyền bí của vạn vật”[82]. Nó gợi nên sự huyền

diệu, sự thăm thẳm của cuộc đời trong mối quan hệ với vũ trụ bao la này.

Có thể gọi Yugen là nỗi u huyền. “Aware chú trọng đến khoảnh khắc, nỗi

vô thường, đến bản thân sự vật, không mấy quan tâm đến cái bóng vô tận ở

sau hoặc ở trong sự vật. Còn Yugen thì không dừng lại hình sắc, nó gợi ra

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

32

tính chất huyền diệu thăm thẳm của cuộc sống, cái ẩn giấu nhưng lại là sự

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

sống, là linh hồn của hình sắc. Aware có màu sắc lãng mạn, Yugen là bóng

tối biểu tượng. Aware thuộc về cảm xúc, Yugen nằm ở tâm linh”[5,146].

Sabi là khái niệm có từ trước khi Basho và các môn đệ của ông đề cập

nhiều trong thơ Haiku. Thuật ngữ này thường xuất hiện trước đó, trong Vạn

diệp tập. Sau đó nó được thể hiện trong Haiku, đến thời của Basho thì nở

rộ. Và trong haiku thì nghĩa Sabishi (cô độc, buồn bã) được nhấn mạnh hơn

và sabi(shi) được khắc hoạ bằng sự tĩnh mịch và cô độc dường như thường

xuyên tạo nên sự độc đáo giữa hai yếu tố chủ quan và khách quan. Nghĩa

rộng của Sabi là cô tịch, cô liêu. Sabireru có nghĩa là hoang vắng. Sabi

hướng đến cái cô độc, nhẫn nhục, thanh bình, mang tính chất bình dân

trong nền văn hoá thời Edo(1600-1868). Nó còn dùng để diễn tả cái hiu

quạnh, cô liêu đến mức vẻ đẹp xuất hiện hầu như rất nhạt nhoà. Làm nền

tảng cho Mỹ học này là quan điểm vũ trụ điển hình của Phật tử trung đại,

công nhận sự cô độc hiện hữu ở mọi chúng sinh và cố tự mình nhẫn nhục,

hoặc thậm chí tìm kiếm vẻ đẹp bên trong sự cô độc ấy”[13,435]. Như vậy

hiểu một cách đơn giản là vẻ đẹp được tìm thấy trong sự cô liêu, tàn phai

của nhân thế. Cái đẹp nằm trong cái buồn đang hiển hiện trên đỉnh cô

phong. Đó là quan niệm mỹ học sâu xa liên quan đến niềm bi cảm.

Iki và sui là quan điểm mỹ học và đạo đức của thị dân trong thời kỳ

Edo(1600 - 1868). “Về mặt mỹ học, cả hai khái niệm đều hướng đến vẻ đẹp

kiểu tư sản, hợp thời trang, thanh lịch mang sắc thái gợi cảm. Về mặt đạo

đức, người ta hình dung một đời sống tao nhã(miyabi) của một con người

giàu có nhưng không gắn với tiền bạc, thích thú vui khoái lạc nhưng không

hề có ham muốn xác thịt, hiểu được mọi rắc rối, phức tạp của cuộc sống

trần tục nhưng có khả năng tự mình thoát khỏi ràng buộc”[13,437]. Đặc

điểm của Iki và Sui giống với aware thể hiện ở những hiểu biết đồng cảm

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

33

xúc ở con người. Iki chỉ tâm hồn, tình cảm cao thượng, cách ăn mặc, tác

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

phong của một con người có tâm hồn cao thượng. Iki thường được nói tới

vẻ đẹp gợi cảm hơn, tinh tế hơn nên dùng để mô tả phụ nữ mà đặc biệt là

người liên quan đến việc vui chơi giải trí.

Như vậy, “những quan niệm thẩm mĩ như mono no aware thời

Heian, yugen thời Kamakura, wabi và sabi thời Muromachi, iki thời

Tokugawa đã không tàn lụi trong thời kỳ chúng được tạo ra mà vượt lên để

tồn tại bên cạnh tư duy thẩm mĩ của thời đại kế tiếp. Ngay sau thời kì

Meiji(Minh Trị 1862-1912) các nhà thơ đã tiếp tục duy trì mono no aware,

các diễn viên kịch no duy trì kyogen, các nghệ nhân trà duy trì sabi và

geisha duy trì iki, tất cả những điều này vẫn như vậy cho tới ngày hôm

nay”[45,2]. Cùng với sự phát triển mọi mặt của văn hoá, xã hội Heian,

quan niệm thẩm mĩ niềm bi cảm(aware) được đặt nền móng và hình thành

trên cơ sở tư duy triết học, tôn giáo, phong tục và truyền thống văn học của

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

34

xứ sở Phù Tang. Tất cả tạo nên một thời kì thịnh vượng và tươi đẹp.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

CHƯƠNG II

NIỀM BI CẢM VỚI SỐ PHẬN CÁC NHÂN VẬT

II.1 Bi cảm với thời gian đã mất của các nhân vật

Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới không chịu sự chi

phối của thời gian. Nếu thời gian vật lí tồn tại khách quan thì thời gian

nghệ thuật vừa mang tính chủ quan lẫn khách quan. Cho nên “sự miêu tả,

trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm

nhìn nhất định trong thời gian”[18,322]. “Các nhà tiểu thuyết trình bày tiểu

thuyết theo quan điểm và cách đánh giá của anh ta. Cuộc đời tức là thời

gian. Mỗi một cá thể “tiêu thụ” thời gian theo cách thức của riêng mình.

Qua tác phẩm, nhà văn bộc lộ quan niệm của mình về thời gian trong sự thể

hiện cuộc đời và con người. Và vì con người là trung tâm của mọi ngành

nghệ thuật xưa nay nên nó cũng mang những âu lo về sự hữu hạn của sinh

tồn vào đó. “Vết ngoạm của thời gian” đã bật lên thành tiếng kêu than,

thành kinh nghiệm đau đớn trong văn chương của nhiều thời đại và trong

nhiều quốc gia…”[19,65]. Qua thời gian, người nghệ sĩ bộc lộ quan điểm,

tư tưởng của mình về cuộc đời. Bên cạnh đó, nó còn là biểu tượng thể hiện

cách cảm nhận của con người về nó.

II.1.1 Thời gian trôi chảy

Thời gian trôi chảy theo dòng đời các nhân vật trong tác phẩm

Truyện Genji báo hiệu những số phận con người đang trôi vô định giữa

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

35

nhân gian. Chỉ có một số nhân vật gắn bó với cuộc đời trong thời gian dài,

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

còn các nhân vật khác đều diễn ra ngắn ngủi. Nhưng trong khoảng thời gian

ngắn ngủi ấy họ sớm nếm trải vị đắng của cuộc đời. Thời gian cuộc đời trôi

qua nhanh như một giấc mơ, “… cảm giác về tính hiện thực của thời gian

như một cái gì đó khiến cho mọi hoạt động và cảm xúc của con người ý

thức rằng họ chỉ sinh ra trên trái đất này chỉ một lần: “Đời chẳng dài chi

hãy tận hưởng nó dù chỉ còn lại một hay hai ngày”(Tenarai). Điều này

nghĩa là sự hữu hạn của đời người và sự vĩnh hằng đều gói gọn trong “chỉ

một hai ngày”[45,154]. Số phận con người như hạt sương đêm chỉ chờ

vầng dương lên là tan hết, tàn lụi đi. Ý thức được sự ngắn ngủi của cuộc

đời, các nhân vật trong tác phẩm được nhà văn thổi vào hơi thở dài triền

miên những sầu lo. Thời gian! Nếu hiện thực là giấc mộng đời thì con

người sẽ ra sao khi tỉnh mộng. Sự vật vần xoay giữa biển đời đau thương,

chốn bụi trần nhiều cám dỗ.

Thời gian trong Truyện Genji trở thành một cảm thức đặc biệt nổi bật.

Thời gian của cảm xúc u buồn, mất mát, sầu khổ và tiếc nuối. Thời gian

đang diễn tiến ngay trong tác phẩm và thời gian đã mất. Thời gian của

những phút giây thăng hoa của hạnh phúc tràn đầy gắn với những nỗi đau

mất mát của cái chết đầy bi ai. Thời gian như bánh xe quay đi không bao

giờ trở lại cuốn theo tuổi thanh xuân, sự sống tươi trẻ, bao vinh hoa trên cõi

đời này để rồi bắt con người phải đối diện với sự tàn lụi của cuộc đời là cái

chết. Thời gian quá khứ càng dài thì tương lai càng ngắn ngủi và con người

không biết ngày mai hay ngày nào là ngày cuối cùng bởi cuộc đời là phù

du, khó định đoạt. Hệ thống nhân vật trong tác phẩm luôn bị chi phối bởi

thời gian. Hai mối quan hệ thời gian và nhân vật có sự tương tác lẫn nhau

không tách rời. Bởi thời gian là định mệnh. Con người tồn tại trong hai thế

giới khác biệt. Một thế giới với bao thăng trầm của cuộc đời và một thế

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

36

giới bên kia mịt mờ sương khói - cõi vĩnh hằng.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Thời gian rong ruổi cùng với các nhân vật của mình, trôi chảy như một

dòng sông không ngừng nghỉ. Thời gian dài, có tính biên niên xuất hiện rõ

nhất với các nhân vật chính như: Genji và Kaoru. Cuộc đời của hai nhân

vật này nối tiếp nhau tạo nên cho tác phẩm sự liền mạch của hai vòng đời

làm trung tâm cho toàn bộ cốt truyện với các sự kiện bao quanh, những

biến cố phức tạp. Bên cạnh đó còn có nhiều mảnh đời đan xen trong cuộc

đời họ với những số phận nổi trôi, phù du. Sự xuất hiện của hàng loạt nhân

vật bạc mệnh đã tô điểm cho cảm thức thời gian trong tác phẩm thêm hiệu

quả và mang sắc màu Phật giáo - quan niệm về sự tồn tại của con người ở

cõi đời.

Trong suốt 54 chương của tác phẩm, cuộc đời Genji hầu như chiếm

phần lớn nội dung. Genji được nhà văn miêu tả từ khi sinh ra cho đến khi

qua đời lúc năm mươi hai tuổi. Suốt năm mươi hai năm sống trên cõi đời

được phản ánh trên trang sách gắn với những mốc thời gian đặc biệt. Khi

tiếp nhận tác phẩm, người đọc dễ dàng nhận ra diễn tiến dòng đời như cuốn

sử biên niên được phiêu bồng trên từng trang cảm xúc. Mỗi chương sách là

một khúc tình ca lãng du, là những trải nghiệm của muôn vàn phút giây

tình cảm đắm đuối, si mê. “Có người nói Genji đẫm màu sắc dục. Thì đúng

như vậy. Nhưng người ta vẫn tìm thấy sắc dục trong kinh Phật và kinh

Thánh. Đấy là Phương tiện, là Upaya, như Murasaki đã nhắc nhở

ta”[4,221].

Sự xuất hiện của nhiều người phụ nữ xung quanh Genji xinh đẹp, hào

hoa, mỗi người có một vị trí khác nhau đối với chàng. Đầu tiên là người mẹ

xuất hiện cùng với mối tình đẹp với nhà vua đã ra đi để lại kết quả là Genji

hào quang ra đời. Mẹ chàng là người phụ nữ xinh đẹp nhưng bị nhiều

người dèm pha. Buồn khổ nàng xin rời cung và trở nên “võ vàng tàn úa vì

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

37

nỗi buồn đau. Nàng chìm sâu vào những ý nghĩ sầu não, nhưng khi nàng cố

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

gắng để thốt nên lời thì hầu như không ai nghe được tiếng nàng. Nàng nói

“Rời bỏ người, đi con đường mọi chúng sinh phải đi”. Rồi nàng ra đi về với

cõi vĩnh hằng để lại bao nỗi nhớ nhung, đau buồn của vua cha. Lên ba,

chàng đã phát tiết khôi ngô tuấn tú. Lên sáu tuổi, Genji đẹp tuyệt vời đến

nỗi hầu như khó mà tin được rằng cậu được dành cho cõi trần thế, người ta

sợ rằng cậu ở trần gian này không được lâu dài. Lên bảy tuổi, thông hiểu

kinh sách Trung Hoa sau đó được nhận vào cung Kokiden. Khi nhà vua

đón tiếp các sứ giả vào cung, họ nhìn thấy Genji không giấu sự giật mình

kinh ngạc.

Đến mười hai tuổi, chàng thành thạo các bài học vỡ lòng và nghi lễ.

Sau khi được làm lễ thăng chức và cắt tóc, Genji cưới vợ là con gái của

quan tả thừa tướng. Từ đây cuộc đời của chàng bắt đầu có nhiều cuộc phiêu

lưu tình ái, những nỗi khổ đau mất mát. Từ nhỏ chàng đã mất mẹ, lớn hơn

một chút mất bà ngoại, người đã nuôi nấng chàng sau khi mẹ mất. Dường

như nỗi bất hạnh đầu đời đã khiến cho Genji là người đa cảm. Đã có ý kiến

cho rằng cuộc đời chàng là một cuộc kiếm tìm một hình ảnh người phụ nữ

chính là mẹ chàng. Quá khứ không chút kí ức đã làm chàng luôn trăn trở,

tưởng tượng, khao khát và dấn thân. Cuộc đời luôn đi theo tiếng gọi yêu

thương và chàng trở thành con người sống phóng túng hình hài với nhiều

phụ nữ. Điều đó làm cho chàng cảm thấy thú vị. Chàng đến với những

người phụ nữ thường là trong thoáng chốc, có khi chỉ là chuyện tình một

đêm hay là sự phũ phàng hờ hững như với Utsusemi(nàng xác ve),

Yugao(cúc chiều)…

Trong thời gian ở trong cung chàng phải lòng Fujitsubo - nguời mẹ

kế. Chàng đến thăm Fuitsubo, nhưng nàng cố tỏ ra không mảy may động

lòng. Ngày lại ngày trôi qua, buồn bã và vô vị. Mối gắn bó giữa họ mới

mong manh, phù du làm sao! Kết quả của mối tình vụng trộm đó là nàng

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

38

sinh hạ cho chàng một hoàng tử xinh đẹp giống hệt chàng, đã làm cho

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Genji vừa mừng vừa lo lắng trong nỗi ân hận, day dứt và lo sợ. Nỗi bất

hạnh ấy như âm ỉ khiến chàng ngày càng suy tư và sống cẩn trọng hơn.

Năm hai mươi hai tuổi chàng chứng kiến cú xốc bất ngờ khi Aoi chết

để lại đứa con nhỏ. Chàng bế con trên tay mà không cầm được nước mắt.

Genji tỏ ra ân hận vì những tháng ngày sống buông thả bên ngoài không

quan tâm đến vợ, và chàng đã tự giam mình trong vòng bảy tuần ở Sanjo

không đi ra ngoài. Ngày lại ngày than khóc và thành tâm cầu nguyện. Trần

thế đã chẳng tử tế gì với chàng, và bây giờ đây, u sầu hơn bao giờ hết,

chàng nghĩ rằng giá như chàng không có dây ràng buộc mới với trần thế,

chắc chàng đã từ bỏ nó để đi theo điều mà từ lâu đã là ý hướng của chàng.

Mốc thời gian này đã khiến Genji bình tâm lại sau các cuộc chơi tình ái,

nhưng rồi bản tính đa sầu đa cảm đã đánh thức trái tim dễ rung động trước

cái đẹp.

Khi đã hai bảy tuổi chàng được Oborozukiyo thu xếp gặp gỡ, hầu như

đêm nào cũng vậy, họ lại gặp nhau. Thỉnh thoảng chị nàng tức là Kokiden

tình cờ ở nhà. Càng nguy hiểm Genji càng cảm thấy dễ bị kích thích, hứng

thú, cho nên chàng đến thăm nàng dày hơn và rất kín đáo. Có lần Genji bị

phát hiện với nàng trong phòng ngủ. Kokiden có mưu đồ hại Genji nên

chàng bị lưu đày ở Suma. Thời gian ở Suma chàng thấm thía vị đắng cuộc

đời mình và nhận ra bao nhiêu điều tội lỗi.

Ở đảo hoang, chàng luôn sống trong những phút giây bất ổn của tâm

hồn. Chàng đã vùi mình vào thú vui nghệ thuật và viết thư về thăm người

thân. Trong đêm khuya tiếng chàng tụng kinh niệm Phật vang lên sầu thảm,

báo hiệu một sinh linh đang trên con đường giác ngộ. Nhưng chàng không

thể quên các người tình của mình. Thậm chí đêm đêm chàng dồn tâm trí

cho cầu nguyện nhưng đến sáng thì nhớ những người phụ nữ đã từng yêu.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

39

Trong tâm hồn Genji lúc nào cũng diễn ra trạng thái kiềm chế, càng kiềm

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

chế con tim chàng càng thôi thúc, giục giã với vô vàn ký ức ào về làm cho

con người thêm buồn bã. Chàng lại mang đàn Koto ra gảy, mỗi cung âm

như ngấn dòng lệ tràn, tất cả người hầu xung quanh chàng không ai kìm

nén được nỗi lòng mình. Rồi chàng nhận ra điều đó và lo lắng cho mọi

người.

Cuộc đời chàng luôn được tác giả miêu tả trong dòng thời gian tuôn

chảy theo quy luật vốn có của nó. Như hạt mưa rơi xuống đất không thể trở

về trời được nữa, Genji không thể làm lành lại những vết thương lòng cũng

như tội lỗi của mình. Chàng có thể làm gì được khi bản thân không thể

thoát khỏi những dục vọng đời thường. Nhưng ở Genji không có sự trị vì

của ham muốn chính trị, quyền lực, cho nên không muốn tranh giành với

ai, thậm chí chẳng màng quan tâm đến. Mọi thoã mãn thú vui cá nhân đều

xuất phát từ sự ngưỡng mộ cái đẹp, sự đa cảm, đa sầu của tâm hồn chàng

với con người và cuộc đời.

Sau khi trở về hoàng cung, Genji đã trải qua cái chết của Fujitsubo, lúc

đó chàng ba mươi hai tuổi. Từ thời gian này trở đi, chàng sống trong êm

đềm với quyền lực và những người phụ nữ yêu quý xung quanh mình.

Trong đó có Murasaki, cô cháu gái của Fujitsubo.

Bốn mươi hai tuổi, Genji đang ở đỉnh cao của sự nghiệp thì Murasaki

ốm nặng. Nàng luôn tỏ ra bản lĩnh nhưng trong tâm tư luôn sầu khổ vì

Genji thay đổi, nhất là khi Genji cưới công chúa Ba. Đến năm chàng bốn

mươi tám tuổi thì vợ chàng ngoại tình với Kashiwagi. Vì đã ý thức về lỗi

lầm của mình, nàng đã quy y khi con trai Kaoru còn rất nhỏ. Nỗi đau ấy

như một sự quả báo cho thời gian trước của Genji. Mọi cái xảy ra như trong

nháy mắt. Cuộc đời quả là quá ngắn ngủi. Chàng luôn dằn vặt với lỗi lầm

của mình, càng ngày Genji càng ý thức nhiều hơn về hành vi đó. Khi con

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

40

người đã ở giai đoạn đỉnh cao của cuộc đời, thường hay nghĩ về những

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

tháng ngày quá khứ trước đây. Genji ngậm đắng nuốt cay và có lúc muốn

giải thoát. Chàng luôn tỏ ra bi quan, uể oải.

Khi Genji ở tuổi năm mươi, Murasaki qua đời đã làm cho cuộc đời

này như không còn có ý nghĩa gì nữa. Chàng chỉ muốn trốn khỏi bụi trần

để thoát hết đau thương. Tất cả những gì cuộc đời mang lại, từ những biến

cố đầu đời đến cuối đời chủ yếu là những nỗi đau mất mát, sự ra đi trong

sầu tủi. Thời gian cuộc đời quá ngắn ngủi trên trần gian. Cuối cùng, sự ra đi

của Murasaki đã làm cho Genji không thể gượng dậy được nữa. Năm mươi

hai tuổi, Genji phân phát tài sản, xa lánh người đời và sau đó từ giã cõi

chúng sinh.

Cuộc đời của một con người gắn với một thời đại lịch sử nhất định,

thời đại Heian với những rực rỡ và bi tráng. Triều đại nào cũng có lúc thịnh

lúc suy, cuộc đời nào cũng có những cung bậc thăng trầm làm cho con

người phải nếm trải mọi khổ đau lẫn vui buồn. Năm tháng đã qua đi nhưng

những trang sử về cuộc đời vẫn hiển hiện trên trang giấy với những hình

hài sống động. Đọc tác phẩm Truyện Genji, độc giả như đang đắm mình

trong những số phận đầy nỗi bi ai.

Câu chuyện không đơn giản dừng lại ở hình ảnh của một con người

mà nó còn tiếp nối đến đời sau, khi Kaoru là đứa con riêng của vợ Genji -

công chúa Ba khôn lớn. “Murasaki xây dựng cốt truyện dưới sự tác động

thống nhất của hai sự kiện cơ bản của nội dung thứ nhất, theo trình tự thời

gian của hành động, và thứ hai theo trình tự hoàn cảnh”[42,200]. Kaoru

cũng được tái hiện theo thời gian tuyến tính. Vào tuổi bốn mươi tám, Genji

đón Kaoru ra đời. Chàng là kết quả của cuộc tình vụng trộm giữa Onna san

và Kashiwagi. Cuộc đời Genji kết thúc khi Kaoru vừa mới lên năm. Kaoru

hội tụ mọi phẩm chất của con nhà dòng dõi và sớm trở thành nhân vật có

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

41

quyền lực trong triều đình. Mười tám tuổi là quan nội chấn, mười chín tuổi

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

giữ chức chỉ huy cấm vệ quân và được phong hàm tam phẩm. Mọi việc

trong triều đình chàng đều tỏ vẻ rất có khả năng vì chàng là người có tư

chất thông minh, điềm đạm, chính chắn và tỏ ra rất nhã nhặn, khéo léo

trong cách ứng xử và xử lí công việc.

Sống trong nỗi hoài nghi về chính cuộc đời mình, chàng đã đến Uji,

một vùng núi nằm phía Bắc kinh đô và gắn bó với Hoàng Tử Tám. Chính ở

đây, Kaoru đã hiểu rõ về bí mật cuộc đời mình. Khi hoàng tử Tám mất, đã

gửi gắm hai cô gái lại cho chàng. Kaoru đem lòng thương yêu Ogimi

nhưng nàng lại ghép em gái Nakanokimi cho chàng. Còn Kaoru đã tạo điều

kiện cho Nakanokimi gần gũi Niou. Và sau đó Niou đón Nakanokimi về

kinh để lại người chị trong nỗi buồn đau. Một thời gian sau, Ogimi qua đời

khi còn đang rất trẻ để lại tình yêu của Kaoru trên cõi đời với nỗi buồn

thương.

Khi đã hai sáu tuổi, Kaoru cưới công chúa Hai. Dường như tình yêu

thương đối với Ogimi không hề nguôi ngoai trong lòng chàng nên ngày

đêm nhớ nhung sầu muộn. Hình ảnh của Ogimi sống lại trong Kaoru khi

nhìn thấy người con lưu lạc của hoàng tử Tám là Ukifune. Sự vật vần xoay

như cái nghiệp chướng ở đời, Ukifune khước từ tất cả để đến với chân tu và

đã qui y khi còn rất trẻ.

Con đường đi của nhân vật không chỉ dừng ở đó mà vẫn còn tiếp nối

trong lòng bạn đọc về những câu chuyện không hồi kết. Chỉ có những

mảng tâm trạng đang khắc khoải ở cuối tác phẩm để lại những dư ba về số

phận con người trong các cuộc phiêu lưu tình ái, trong những nẻo ngang

trái của cuộc đời. “Murasaki Shikibu thể hiện kỹ năng thực sự khéo léo

trong việc không ngừng làm sống lại những hoàn cảnh tương ứng với mỗi

cảnh ngộ mà các nhân vật gặp phải. Đây là một trong những biện pháp đặc

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

42

thù của bà để lý giải về thời gian, thể hiện tiêu biểu qua hai cuộc ngoại tình:

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

một của Genji với Fujitsubo và một nữa của vợ ông, Onnsan no Miya với

Kashiwagi”[45,155].

Thời gian trôi chảy theo dòng đời của các nhân vật. Nhà văn bám theo

trình tự của hai nhân vật chính Genji và Kaoru để thuật lại các sự kiện

trong tác phẩm của mình xoay quanh hai nhân vật đó. Dường như thời gian

không ngừng lưu chuyển kéo theo sự đổi thay không ngừng của cuộc sống.

Thời gian từ khi nhân vật ra đời cho đến khi trưởng thành và trải qua các

mốc sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời qua hàng loạt bức tranh tâm lí

sống động, sâu sắc và bi ai. “Cuộc sống của Kaoru - con trai trên danh

nghĩa là của Genji. Nhân vật này sống hít thở toàn bộ các môi trường mà

Genji đã trải qua và cũng ở chính cùng một nơi. “Cuộc sống vẫn được tiếp

tục, trên sân khấu của nó chỉ có nhân vật là thay đổi cón tất cả các quan hệ

vẫn y nguyên” dường như Murasaki muốn nói như vậy”[42,204].

Thời gian như nói hộ cảm xúc của con người. Các vòng đời xuất hiện

như một sự tiếp nối của duyên phận, của cái nghiệp ở đời. “Thời gian trong

bi cảm của Murasaki thường bôi xoá các nhân vật của nàng, để lại khoảng

trống trên bức tranh cuộn của định mệnh, hơn là kéo lê cuộc đời của họ vào

già. Đó là một thời gian nữ tính, nó thích cái chết của tuổi trẻ hơn là sự héo

hắt già cỗi. Có lẽ chính vì vậy mà Murasaki đặt hai chàng trẻ tuổi Kaoru và

Niou vào khoảng trống mà Genji để lại. Nàng không bằng lòng kết thúc tác

phẩm với cái chết của Genji. Nàng muốn một lần nữa, tuổi trẻ và tình yêu

lại cháy sáng”[5,118].

Murasaki đã từng cho rằng tác phẩm của bà còn là hiện thực, một hiện

thực không thể nằm ngoài đời sống cung đình Heian. Chính vì vậy, dòng

chảy thời gian trong tác phẩm cũng là một yếu tố tạo nên tính hiện thực đó

một cách rõ nét qua những quãng đời, số phận hay những suy tư sâu kín cất

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

43

giấu trong tâm khảm. Khi đó, khoảng thời gian của những cảm xúc con

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

người bộc lộ thì hiện thực cuộc sống lại hiện về với tất cả những gì như

đang còn tươi mới. Miêu tả nhân vật trong mối quan hệ với thời gian, tác

giả đã đặt nhân vật trong mối liên hệ chặt chẽ khi con người luôn ý thức

về sự tồn tại của mình. Và khi thời gian được đồng hiện thì dòng ý thức

của nhân vật cũng đồng thời xuất hiện với tất cả những sự kiện, tâm tư

và cảm xúc.

II.1.2 Thời gian đồng hiện và dòng ý thức nhân vật

Thời gian đồng hiện không tồn tại khách quan bên ngoài mà tồn tại ở

cảm xúc bên trong của con người. Khoảnh khắc hiện tại nhường chỗ cho

những mảng thời gian quá khứ hiện về với bao nỗi niềm hoài nhớ. Chính

lúc đó dòng ý thức bắt đầu tái hiện với sự tác động của hoàn cảnh hiện tại

làm cho con người hồi tưởng. Thời gian được quy chiếu qua cách nhìn của

nhân vật cho nên nó có độ lùi nhất định để tái hiện quá khứ, một sự dịch

chuyển cả về không gian lẫn thời gian khiến con người sống trong cảm xúc

xáo trộn. Thời gian lẫn cảm xúc quá khứ và hiện tại luôn có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau không tách rời, khiến cho dòng ý thức của nhân vật

trong tác phẩm luôn trôi chảy, liên hồi. Mặc dù có sự ngưng đọng tạm

thời hay là độ lùi nhất định nào đó thì tác phẩm vẫn có sự hợp lí về mặt

xây dựng tâm lí nhân vật. Có thể nói, trong tác phẩm Truyện Genji, tần

xuất xuất hiện thời gian hồi tưởng không nhiều nhưng nó là tiểu thuyết

đầu tiên miêu tả cảm xúc của con người một cách tinh tế và tạo tiền đề

cho các tác phẩm sau này.

Trong suốt thời gian đầu đời, Genji được sống trong sự chăm sóc của

cha. Được đưa vào cung khi đang còn rất trẻ, chàng được giáo dục cẩn thận

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

44

và sớm phát tiết tài năng của mình. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, chàng

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

luôn nhớ về hình bóng người mẹ bất hạnh đã ra đi khi chàng chưa có khả

năng tự nhận thức về thế giới. Trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời với

những chuyện tình lãng mạn và không ít những khổ đau, Genji thỉnh

thoảng sống lại những khoảnh khắc khi thì buồn đau, khi day dứt, hối tiếc,

cũng có khi hân hoan, sôi nổi. Tất cả thời khắc ấy đều dâng trào trong con

người chàng những cảm xúc khó tả và nồng nhiệt với chính cuộc đời mình.

Như vậy, “Bằng việc chồng chất quá khứ, hiện tại và tương lai trong cảm

xúc ở một thời điểm, tác giả minh chứng cho dòng chảy thời gian một cách

sinh động”[45,155].

Dưới ánh trăng, lúc chàng nhìn chiếc quạt vừa nhận, nỗi nhớ nhung,

hoài niệm bị khuấy động sâu sắc. Chàng nghĩ về bài thơ đồng cỏ hoang vu

của mình. Ngày trước, chàng và em gái Kokiden gặp nhau trong khoảng

thời gian quá ngắn ngủi, chỉ đủ trao nhau chiếc quạt. Và bây giờ nhìn thấy

nó chàng lại mơ tưởng về hình bóng cố nhân.

Có lẽ khi con người đối diện với những biến cố lớn của cuộc đời

thường khiến họ hay nghĩ suy về quá khứ của mình đã trải qua. Đó có thể

là những nỗi niềm hối tiếc… Vậy nên khi chứng kiến cảnh Aoi chết, chàng

trở về Sanjo không sao ngủ được. Chàng nghĩ đến những năm tháng họ

sống bên nhau, cách đối xử với vợ mình không đúng khi chàng sống buông

thả với những chuyện ong bướm. Và chàng nghĩ rằng mình đã để lại nỗi

oán hận cho nàng đến khi chết. Chính vì thế Genji ân hận vô cùng. Giờ

khắc ấy chàng tự dằn vặt mình và biết rằng tất cả đã quá muộn. Khi Tono

Chujo và Genji cùng ngồi nói chuyện, “họ ngồi điểm lại tất cả những

chuyện ong bướm nho nhỏ của họ và những chuyện khác nữa, rồi câu

chuyện của họ cuối cùng xoay quanh sự phù du của sự đời, khiến họ để rơi

những giọt lệ cảm khái” [10,232].

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

45

Ngày qua ngày, thời gian dần trôi nhưng tình sự vẫn còn vương vấn.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Sau khi vua cha mất, Fujitsubo tìm mọi cách từ chối tình cảm của chàng

khiến Genji buồn vô vọng. Lúc này thế lực vua cha đã hết và dường như

Genji không được sủng ái nữa. Thời thế đã đổi thay, cuộc sống thật buồn

tẻ, cảnh xe ngựa dập dìu ngày xưa chỉ còn trong dĩ vãng. Chàng cảm thấy

hoàn cảnh của mình thật thê thảm. Tuy vậy, trong trái tim Genji không thể

nào quên đi hình bóng người mẹ kế. Chàng nhìn trộm Fujitsubo mà nước

mắt trào ra. Đối với Genji, “nàng là cả một sự quyến rũ đê mê khi nàng

ngồi lặng lẽ chìm đắm vào những trầm tư sâu xa và rối loạn”[10,261]. Tâm

trạng quẫn bách đến mức chàng thốt nên lời: “Có lẽ ta chết mất”. Chàng

nói trong cơn say đắm cuồng nhiệt. “Ta không chịu đựng nổi với ý nghĩ là

nàng biết ta vẫn còn sống.” Mà nếu ta chết, mối tình của ta đối với nàng sẽ

là một chướng ngại trên con đường cứu rỗi của ta”

“Kiếp sau mà giống kiếp xưa

Hai ba kiếp nữa lệ ta chưa cầm

Và tội lỗi cũng sẽ là tội lỗi của nàng” [10,262]

Genji ý thức rằng sống trên đời nhưng chỉ thấy nỗi thống khổ mênh

mông. Chàng đang có một niềm tâm sự và đợi cho ngày khổ tháng sầu trôi

qua vô vọng. Còn Fujitsubo quyết định xuống tóc để tách hoàn toàn với

Genji nhưng thật khó khăn để dứt khoát khi trong lòng nàng vẫn yêu

thương chàng. Có lẽ nàng không thể mắc sai lầm hơn nữa và quyết giữ bí

mật cho đến trọn đời. Trước tình cảnh đó, Genji đấu tranh để tự kiềm chế,

bởi vì nỗi đau đớn quá lộ liễu sẽ gây nên sự tò mò. Genji đi vào gặp nàng

và kìm được nước mắt chực trào ra khi những kỉ niệm về những ngày qua

ùa về trong tâm trí chàng. Bởi vì rất nhiều người xung quanh, chàng không

thể nào bày tỏ những ý nghĩ hỗn loạn của mình. Nỗi đau trong lòng chàng

không thể nào hơn thế. Hình bóng người phụ nữ ám ảnh suốt bao đêm

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

46

trường không bao giờ nguôi nhưng chàng vẫn đau đáu, kiếm tìm để rồi thất

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

vọng đớn đau.

Mãi thôi không dừng lại với những cơn sóng tình của mình Genji đã

mang lại những tai hoạ và sai lầm. Trước đó đã tạo nên nghiệp chướng cho

mình và lần này chàng bị một sự trừng phạt thích đáng. Genji sau khi bị

phát giác gian tình với một người phụ nữ chính là em của Kokiden và đã bị

đày đi đảo xa. Khi ở Suma, nhìn mưa cắt qua dòng kí ức, chàng không thể

nào quên đi người tình của mình. Cho nên “nỗi khao khát của chàng thêm

da diết khi nhớ lại bài thơ li biệt của Fujitsubo, rồi lần lượt các kỉ niệm

khác hiện về khiến chàng phải quay mặt đi để giấu nước mắt”[10,307].

Dường như bao kỉ niệm về người mẹ kế này không bao giờ nguôi trong

lòng chàng. Dù chàng ở đâu, làm gì cũng luôn nhớ về nàng trong nỗi niềm

khắc khoải nhớ mong da diết. Sự khao khát đến tận cùng đó khiến chàng

sầu khổ và cảm thấy cô đơn. Đối với chàng, cuộc sống mỏng manh cứ theo

đuổi như những đợt sóng biển sầu bọt vẫn cứ nối tiếp nhau vỗ vào mạn

thuyền. Số phận của kẻ lưu đày như giọt sương run rẩy đầu cành lá mà thôi.

Chàng nghĩ đến nhà vua và đêm cuối cùng họ nói chuyện với nhau.

Chuỗi ngày sống lưu đày, tâm hồn luôn bất ổn và buông lỏng, chán nản

nhưng làm cho chàng có những suy nghĩ nghiêm túc về mình và cuộc đời.

Dường như chàng lớn hơn về mọi mặt. Đây là chuỗi ngày sám hối của

Genji, cũng là chuỗi ngày tràn đầy những thương nhớ khôn nguôi đến

những người thân của mình. Nhìn những kỹ vật sao mà cay đắng thế. Ở đấy

chàng bị nỗi khao khát dày vò. Genji cảm nhận thời gian trôi nhanh qua

ánh trăng tà, trằn trọc cả đêm không ngủ được nằm nghe tiếng chim trong

bình minh.

“Tiếng chim kêu trong ngày mới rạng

Khuây khỏa lòng kẻ gối chiếc chăn đơn”[10,311]

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

47

“Ở Suma, năm mới đã tới, ngày dài hơn, thời gian đi chậm lại. Cây anh đào

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

mà Genji trồng năm trước đã lác đác nở hoa, bầu không khí dịu ấm, và các

hoài niệm lại cuồn cuộn đổ về khơi nguồn cho bao nhiêu nước mắt.

Chàng khao khao khát nghĩ đến các tình nhân mà vì họ chàng đã khóc

lúc chàng chuẩn bị vĩnh biệt thành đô vào cuối tháng hai năm ngoái…

Chàng nghĩ đến hội vui hoa anh đào đáng nhớ, nghĩ đến cha, và dáng người

đẹp kì lạ của anh chàng-bây giờ đã là vua; và chàng nhớ lại như thế nào,

anh của chàng đã dành cho chàng đặc ân là đọc thơ Trung Quốc của

chàng”[10,313]

Trải qua những ngày tháng cô đơn, lạnh lẽo ở Suma, Genji không thể

quên những người tình ngày xưa vẫn mong ngóng ở kinh thành nhưng cũng

không sao kiềm chế được tình cảm với người con gái Akashi, cho nên

chàng sợ Murasaki biết. Và cũng từ đó chàng tự hứa với mình không “dấn

thân vào những cuộc duyên tình mới”[10,348]. Điều đó thật là không tưởng

đối với một người đa tình, phóng túng như Genji. Nhưng dù sao chàng

cũng đã nghĩ đến và quán triệt tư tưởng của mình để kết thúc những ngày

tháng nông nổi, phiêu bồng trên nẻo mộng đời.

Có thể nói, những thời gian đồng hiện qua nhân vật Genji chủ yếu là

những chuyện tình lãng mạn, những cảm xúc sâu kín. Vậy nên chứa chất

bao sầu lo, bi ai. Dường như nỗi sầu khổ ấy cứ miên man trong tâm trí

đồng thời đong đầy trong thời gian làm cho quãng đời trôi qua thêm nặng

trĩu. Chính những trăn trở đó được chuyển tải theo thời gian đồng hiện đã

khéo léo khắc đậm chủ đề chính của tác phẩm, niềm bi cảm nhân thế.

Genji luôn chung thuỷ với tình cảm của chính mình đối với các cô

gái chàng đã trải qua. Dù đó là người đã làm chàng không hài lòng về sắc

đẹp, thân phận, thậm chí gây nên mất mát, khổ đau, khó chịu nhưng khi đã

chấp nhận họ chàng luôn có trách nhiệm chăm sóc, quan tâm. Trong góc

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

48

khuất của tâm hồn, chàng luôn nhung nhớ, đợi một ngày nào đẹp trời để thể

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

hiện. Sau này, khi gửi một bức thư cho nữ tu sĩ quận chúa Asagao rồi nhận

được một bức thư nhỏ buộc bằng sợi dây nghi thức của nàng, chàng nhớ lại

cách đó đúng một năm vào cái đêm đáng nhớ ở điện thờ. Mọi kỉ niệm ùa

về. Cái đêm chàng muốn ái ân với quận chúa nhưng bị khước từ và thay thế

bằng người em. Chàng thầm trách móc thần linh đã xui khiến điều đó xảy

ra…bây giờ lại hối tiếc và cảm thấy kì cục. Tuy vậy sau một thời gian khá

dài Genji vẫn dây dưa, níu kéo. Sự đa cảm của chàng như sợi dây da quấn

lấy mình xuân. Sự trở lại của Asagao qua hồi ức với khoảng thời gian đã

qua không làm chàng giận dữ mà cảm thấy muốn tiếp tục, muốn tơ vương.

Cũng có khi chàng nhớ đến những kỉ niệm về một người bạn thân và

nghĩ về chuyện đời. Tại đại lộ thứ sáu, hoàng thượng đến thăm Genji và mở

tiệc mua vui. Khi sai người hái bông cúc, ông nhớ lại khoảng thời gian khi

còn trẻ đã từng nhảy điệu “sóng xanh” với Tonno chujo cùng với bài thơ và

bông hoa cúc tặng bạn:

“Hoa tươi đây cũng như ta

Tiếc thời xưa đã đi xa xa rồi”[11,20]

Và rồi Tonno chujo cũng tặng lại chàng bài thơ:

“Hoa tươi nay đã nhuộm màu

Liệu hoa còn có ngày nào hoàng kim?

Và rồi họ kết thúc trong không khí của mùa thu đầy lá rụng khiến

mọi người luyến tiếc một ngày sắp tàn.

Bôn ba với bao cô gái chốn kinh kì, Genji có vẻ không buông tha

cho người đẹp nào. Nếu có cơ hội là chàng có thể tìm mọi cách chiếm lĩnh

người đó cho mình. Khi nhà vua yếu ốm, lúc đó Genji ở tuổi bốn mươi,

chàng mượn lời uỷ thác của nhà vua đã đón công chúa Ba về dinh của

mình. Chàng say sưa bên nàng làm cho Murasaki rất buồn và lo lắng.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

49

Không những thế chàng còn suốt ngày sức nước hoa và tắm rửa. Nhưng khi

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

đã có công chúa Ba rồi chàng vẫn quyết định đi đến gặp Oborozukiyo.

Điều đó làm chàng nhớ lại những tháng ngày đi vụng trộm trước

đó…Dường như các người tình của chàng trở đi trở lại trong tâm trí với

biết bao kỉ niệm khó quên. Chính chàng không thể để họ trong cô đơn, lạnh

lẽo, đợi chờ mà luôn hâm nóng tình cảm trong mọi hoàn cảnh có thể. Họ

bên nhau hàn huyên chuyện cũ và cả hai đều buồn. Genji đã khóc thực sự

khi nhắc đến tình cảm của hai người. Lòng chàng thổn thức như ngày nào.

Sự đa sầu đa cảm của chàng quả là khó tìm thấy ở một người bình thường.

Có lẽ trong không gian trái tim của Genji nỗi buồn đầy ắp đã dâng

lên thành nỗi sầu muôn kiếp của con người khi ý thức về thân phận của

mình mang đậm màu sắc Phật giáo: cuộc đời là bể khổ. Điều đó cũng dễ lí

giải khi con người nằm trong thời đại chịu sự chi phối của cảm quan Phật

giáo rất rõ. “Những hứa hẹn về một cõi hạnh phúc vô vi nào đó cũng chỉ là

điều hư ảo mà tôn giáo dùng nó như một phương tiện để vỗ về đặng mong

con người nguôi ngoai kiếp bụi trần của mình mà thôi. Thực tế thì nỗi

phiền muộn cứ mãi đeo bám lấy cuộc đời mà chẳng có cách nào chối bỏ

được…”[53,105]. Họ kiếm tìm gì ở cuộc đời này? Chỉ là phải hiện hữu

chăng. Tất là nằm ở số kiếp. Vì vậy họ không cần đấu tranh cho chính mình

mà luôn an phận sống trong điều kiện có sẵn. Và rồi một ngày ý thức được

những gì xung quanh mình đều là phù phiếm thì hỡi ôi tất cả chỉ là một nỗi

niềm sầu bi xâm chiếm. Bởi thế con người không thể tự cởi trói cho mình

khỏi cuộc đời và những sầu muộn. Nỗi sầu càng sầu thêm.

Vậy nên, họ thường hay sống với những khoảnh khắc ở quá khứ và

kỉ niệm cứ lại về. Sau này, khi đến thăm đền Kamo để làm lễ, trên đường

trở về, Genji nhớ lại ngày phu nhân Rokujo bị chặn ở bên ngoài khu vực

làm lễ và gây sự với Aoi. Theo chàng, cư xử của Rokujo điên rồ và xem đó

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

50

là điều đáng tiếc và đau buồn của ngày xưa. Vinh quang trên cõi đời này

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

chỉ là nhất thời bởi chẳng có gì trên cõi đời tồn tại mãi. Cho nên chàng

“lạnh người khi nghĩ đến tuổi già không tránh khỏi…”. Ý thức về sự hữu

hạn của cuộc đời, nỗi lo âu về tương lai, cho nên thời gian quá khứ cứ khắc

khoải trong ý thức của con người và ám ảnh họ bởi cái chết và nỗi cô đơn.

Quá khứ đã tạo nên một áp lực lớn đè lên tâm lí của con người, nhất là

người luôn ý thức về sự tồn tại của mình. Đó có thể niềm vui hay nỗi buồn

nhưng thời gian quá khứ đã mất đi không tìm lại được, tất cả chỉ là hoài

niệm để lại sự nuối tiếc, xót xa.

Con người là hiện thân của quá khứ, hiện tại và đang chờ đón tương

lai. Vậy nên, không thể cởi bỏ tấm áo quá khứ đã khoác lên trong tâm hồn

của họ. Những gì thuộc về quá vãng đau buồn dễ làm người ta động lòng

trắc ẩn. Và khi cơn sóng gió đã qua, ngày để tang Fujitsubo đã hết, Genji

lại nhớ đến Asagao và viết cho nàng lá thư “Ta có thể hình dung những

hoài niệm êm ả đang vấn vương trong lòng nàng trong những ngày này

Bao giờ nước sẽ trở về

Lẽ nào cuốn mất não nề cỏ tang”[10,464]

Còn Asagao thì sống trong buồn chán. Khi gió trên cây nguyệt quế

xào xạc nàng lại nghĩ đến lễ hội và vô vàn những hoài niệm. Ngày lại qua

ngày nàng sống trong hoài niệm và trả lời thư Genji:

“Cuộc đời dâu bể

Hôm qua tang tóc chìm sâu

Hôm nay rửa tội nước hầu cạn đi

Mọi vật hình như thoáng qua và hư ảo”.[10,464]

Khi dòng chảy thời gian trở đi trở lại thì nỗi ám ảnh về cuộc đời lại

xuất hiện. Và thời gian chỉ là “ngày lại qua ngày theo một chuỗi dài u

ám”[10,369], còn nỗi cô đơn giăng trải như một nhà sư trong tác phẩm đã

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

51

nói: “Tôi thấy trước mắt nỗi đau buồn có thể huỷ diệt con người ta như thế

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nào”. Có lẽ vì thế mà cuộc đời con người chân chất sầu bi. Họ không biết lí

giải thế nào ngoài việc tin vào số kiếp: “Ở kiếp trước, có những kẻ nào đó

đã làm những điều sai trái”; “độc địa như thế có vẻ còn chưa đủ, ông trời

bỗng dưng đem đến cho một chút niềm vui-thật ra thì chỉ một chút thôi rồi

ông lại lấy đi mất. Trước kia, tốt đẹp biết bao! Người ta nói cõi đời là

chuyện sắc sắc không không. Đã đành là thế, nhưng cảnh ngộ của chàng

thật đáng buồn, chẳng còn biết trông cậy vào ai!” (lời của một nữ tì).

Sau này khi Genji chứng kiến cảnh Murasaki chết, chàng đã nhiều

lần thấy buồn nhưng chưa bao giờ chàng cảm giác cô đơn như bây giờ.

Trong quá khứ và tương lai không ai chịu nỗi buồn như chàng. Và chàng

lại nhớ đến buổi sáng khi mẹ Yugiri mất. “Lúc đó ông bình tĩnh hơn. Mẹ

Yugiri mất ngày mười bốn, còn Murasaki mất vào rạng sáng ngày mười

lăm”. Genji lòng buồn vô hạn và ngồi nhớ lại những kỉ niệm ở quá khứ khi

nhìn thấy Murasaki và nghĩ là mình đang sống trong mơ.

Ngày nối ngày càng dài thêm, Genji không muốn mình sống nơi này

nữa, ông muốn lên núi cao nơi không còn ai biết đến, không có tiếng chim

kêu. Bên ông bây giờ chỉ còn có phu nhân Akashi để tâm sự. Ông đến

phòng phu nhân mà hình ảnh của Murasaki lại hiện ra trước mắt làm lòng

thêm đau nhói. Rồi Genji nhắc lại những kỉ niệm ngày xưa. “Mùa xuân

năm ấy khi hoàng hậu Fujitsubo mất, trông thấy mầu cờ tang là ta thấy đau

lòng…ta không thể quên được Murasaki, người đã chung sống với ta từ

nhiều năm nay. Ta là người dạy dỗ nàng từ lúc nàng còn nhỏ. Thế rồi nàng

bỏ ta mà đi trong lúc ta đã gần sang thế giới bên kia. Khi nghĩ đến những kỉ

niệm giữa ta và nàng, ta không chịu nổi đau đớn. Ta xúc động khi nhớ lại

Murasaki có phẩm chất tuyệt vời về tình cảm, trí tuệ và tài

năng…”[11,242]. Đến tuổi xế chiều ngoài năm mươi, Genji mất đi một

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

52

người vợ như là cú sốc cuối cùng để kết thúc cuộc đời của mình. Ông

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

không thể gượng dậy được nữa. Và nỗi buồn không sao tả xiết. Vậy nên

khi Genji nhận được thơ của Akashi ông lại nhớ đến Murasaki và mối quan

hệ tình địch giữa họ ngày xưa.

Tác phẩm xoay quanh cuộc đời Genji trong mối quan hệ với nhiều

người phụ nữ và tình yêu giữa họ. “Những mối tình của Genji thường

đượm buồn trong một vẻ đẹp cao thượng”, “chàng hào hoa và trân trọng

tình yêu. Trân trọng phụ nữ. Mọi người đàn bà trong đời chàng đều

thuộc về người nữ vĩnh cửư”[5,124]. Tâm lí của Genji là sự hội tụ của

nhiều người đàn ông trong xã hội mà Murasaki đã khéo léo thể hiện

trong tác phẩm.

Hình ảnh Kaoru nối tiếp Genji. Chàng là người đa tài, đa tình. Trong

một lần đến Uji nhìn sông nước mây trời, sương phủ trắng những ngọn đồi,

xa xa phía bờ sông, những con thuyền chở đầy củi ra vào tấp nập, hình ảnh

Ukifune gợi cho anh nhớ về Oigimi. Anh miên man nghĩ về những chuyện

của ngày xưa cũ. Còn Ukifune thì miên man nghĩ đến những vướng mắc

với Niou. Sự im lặng của cô chứng tỏ với anh một điều cô đã chín chắn

hơn. Trong những tháng vừa qua Kaoru buồn não nề khi mà ngày Ukifune

chuyển về thành phố đã đến. Trong khi đó ở biệt thự Ono, Ukifune đang

nhìn chăm chú những con đom đóm bay quanh các con nước trong khu

vườn và nhớ về quá khứ. Cách cư xử của nàng với hai người tình không rõ

ràng. Điều đó làm nàng dằn vặt và luôn nghĩ về những gì đã làm. Có thể

trong nàng lúc này nỗi niềm ân hận làm cho những suy nghĩ quẩn quanh

xâm chiếm bởi nỗi cô đơn. Đó là trạng thái con người không thể dung hợp

giữa hiện tại và quá khứ.

Nàng ý thức rất rõ về tương lai đang bị nỗi đau gặm nhấm mà khởi

sự từ một quá khứ sai lầm. Quyết định từ giã cõi đời trong tâm trạng rối

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

53

bời, Ukifune cảm thấy thanh thản hơn. Nhưng cuộc đời vốn trớ trêu khi cô

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

được sống. Và nỗi cô đơn ấy không được giải thoát, bám riết lấy nàng cho

nên nàng đã nương nhờ cửa Phật mong cứu rỗi linh hồn mình khi đang còn

rất trẻ. Sự kết thúc đó là kết quả của một tâm hồn luôn trăn trở, suy tư và cô

đơn không được xẻ chia, tràn ngập một nỗi niềm bi cảm nhân thế. Cuộc đời

nàng ngắn ngủi với tuổi xuân. Thời gian cuộc đời bị xâm chiếm bởi nỗi sầu

bi, chính nó đã đóng đinh lên số phận con người, tạo nên định mệnh vô

cùng khắc nghiệt.

Cảm thức về thời gian và cuộc đời diễn ra trong vòng luân hồi: “Ba

mươi năm trôi qua mà cứ ngỡ như hôm qua hoặc hôm nay. Một cõi trần

phù du, hư ảo, nhưng không dễ gì mà dứt bỏ nơi trú ngụ tạm thời nó dành

cho con người cùng với cây hoa lá của bốn mùa. Và:

Khi mối mọt đã gặm hết cánh cổng này,

Vùi dưới tuyết, bờ dậu này cũng đành suy sụp.”[11,455]

Thời gian không làm phai xoá kí ức về quá khứ mà nó làm cho quá

khứ càng dày thêm, khắc khoải khôn nguôi. Bởi lẽ cuộc sống vận động

theo quy luật vô thường. Cho nên “Những kỷ niệm vui buồn quá khứ chỉ

còn là những viễn ảnh mờ xa rơi rớt lại trong ký ức. Những dự hướng

tương lại chưa đến chỉ là những bóng ma của hư tưởng. Một cuộc vui nào

rồi cũng phải qua đi. Một nỗi buồn nào rồi cũng phải nhạt theo năm tháng.

Cổ Đức có dạy: "Thời gian tợ tên bắn, ngày tháng như thoi đưa. Vô thường

chóng qua mau, gắng gỗ chớ dần dà! Ngày tháng cứ thản nhiên trôi qua,

mạng sống cũng theo đó dần dần đoạn giảm”[12].

Có lẽ “sự ám ảnh của thời gian không bao giờ buông tha người viết

tiểu thuyết”. Cho nên cảm thức về thời gian cũng là một cách bộc lộ rõ nhất

quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Trong Truyện Genji, aware không đơn

thuần là một cảm quan thẩm mỹ mà còn là cảm thức về thời gian cuộc đời.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

54

Theo Nhật Chiêu thì Truyện Genji “là một trong các tác phẩm cổ điển hiếm

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

hoi cố gắng phát hiện cái thế giới bên trong ấy, thế giới của cảm thức, tâm

thức. Về điểm ấy nó mang tính hiện đại và gần gũi với những tác phẩm như

Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust và Đến ngọn hải đăng của

Virginia Woolf. Điểm gặp gỡ của Genji và hai tác phẩm hiện đại kể trên là

cảm thức đối với thời gian. Thời gian đã mất lồng vào nhau, sự suy tàn và

cái chết…Với tác phẩm ấy, nhân vật trung tâm dường như chính là thời

gian. Các nhân vật tuy có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau nhưng giữa

họ bao giờ cũng có thời gian”[4,219]. Bởi chính sự cách tân về mặt thời

gian, một trong những yếu tố để Murasaki Shikibu được xem là nhà văn

đánh dấu mốc quan trọng, đầu tiên về thể loại tiểu thuyết trên Thế giới.

II.2 Bi cảm trước sự vô thường của cái đẹp

Vô thường là một khái niệm trong quan niệm về thế giới của đạo

Phật. Chịu ảnh hưởng thế giới quan Phật giáo, nhà văn đã mang lại cho

chúng ta những số phận con người nằm trong quy luật vô thường của nó.

Vô thường có nghĩa là không đứng yên, luôn dịch chuyển và không tồn tại

mãi. Thế giới sinh, diệt trôi chảy. Theo đức Phật thì “Tất cả những gì trong

thế gian đã là biến đổi hư hoại - đều là vô thường”. Cho nên đời, vạn vật vô

thường, chúng sinh, con người, thân xác đều vô thường. Vì vậy vô thường

là một định luật phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và nhân sinh. Trong tác phẩm

tuỳ bút Cảm nghĩ trong am(Hojo-ki) của Kamo no Chomei đã viết: “1-Cái

vô thường của đời người và nơi trú ngụ: Sông kia chảy mãi chẳng lúc nào

ngừng mà nước có bao giờ lại là dòng nước cũ. Bọt cặn dậy lên từ những

nơi nước úng cũng có lúc tụ lúc tan chứ không giữ nguyên hình dạng lâu

dài. Con người sinh ra ở đời cũng như chỗ trú ngụ của họ, so với dòng

sông, có khác gì đâu.”[55]

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

55

Vậy nên, cái đẹp hiện thân trên cõi đời này chịu tác động của quy

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

luật sinh, trụ, hoại, diệt mà bản chất của nó là vô thường, là ảo ảnh của

cuộc sống. Cái đẹp và nỗi buồn trong quan niệm thẩm mĩ của người Nhật

luôn gắn bó với nhau. Khi nỗi buồn nằm trong cái đẹp thì sự vật càng có

sức quyến rũ, sâu sắc và thực hơn. Bởi cái đẹp đó đang mang trong mình

một tâm hồn sâu kín, e ấp mỏng manh hay yếu ớt càng làm cho sự vật có ý

nghĩa trên cõi đời này. Suy cho cùng, cảm thức thẩm mĩ aware cũng là một

phạm trù của cái đẹp.

II.2.1 Cái đẹp bất tử, cái đẹp cứu vớt thế giới

Cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển gắn liền với sự phát

triển của loài người. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá và định

hướng đạo đức, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực

sống của con người nói riêng, của xã hội nói chung. Trong nghệ thuật, cái

đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng có sức lôi cuốn, cổ vũ, cảm hóa

mạnh mẽ. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái cảm. Trước

cái đẹp, là niềm hân hoan, sự say mê lâu bền. Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái

đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái cốt lõi của

nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng

tạo mình "theo quy luật của cái đẹp". Tuy nhiên quan niệm về cái đẹp

không như nhau. Nếu phương Tây thường tìm tới cái đẹp trong sự phóng

khoáng, hùng vĩ, thì phương Đông tìm trong sự tinh tế, tỉ mỉ.

Xuất phát trên quan niệm thẩm mĩ của người phương Đông cùng

với quan niệm thẩm mĩ giai đoạn trung cổ của dân tộc mình, nhà văn

Murasaki đã xây dựng Genji thành một nhân vật lí tưởng. Nhân vật có vẻ

đẹp toàn vẹn từ ngoại hình đến tài năng. Ở chàng hội tụ nhiều vẻ đẹp của

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

56

mẫu người đàn ông lí tưởng. Vẻ đẹp ấy cũng chỉ là một sinh vật đang vận

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

động trong không gian ở “kiếp này” mà thôi. Nó cũng chịu sự chi phối của

số mệnh, quy luật của cuộc sống. Tuy nhiên bản thân nó khi đang tồn tại

vẫn có một uy lực nhất định khiến nhân gian luôn phải xao xuyến, cúi đầu.

Vậy nên sự xuất hiện của chàng hoàng tử Heian là một niềm vui, tươi mới,

tắm mát cả không gian và thời gian. “Chàng đến nơi này mang một niềm

vui thú. Lúc này mảnh trăng hạ tuần đang còn chiếu sáng trên bầu trời buổi

bình minh làm tăng vẻ đẹp của ban mai. Bầu trời tuy dửng dưng nhưng lúc

này, tuỳ theo người ngắm mà nó tỏ ra thân ái hay buồn bã”.[10,54]. Vẻ đẹp

như cơn mưa mùa hạ khiến vạn vật như được tái sinh. Một cái đẹp mang lại

ảnh hưởng to lớn, có ý nghĩa đối với cuộc sống biết nhường nào. Bởi vậy

mà chàng lôi cuốn đến mê hoặc các thiếu nữ từ “dáng điệu cử chỉ của

chàng dịu dàng quyến rũ khiến yêu tinh quỷ sứ cũng không thể cưỡng lại

chàng”[10,64] đến “những lời nói ngọt ngào vẫn tuôn tràn xen vào những

câu châm ngôn bùi tai khiến cho một người phụ nữ dễ dàng đầu

hàng”[10,65]. Cũng vì thế mà “người ta nói nếu thấy được chàng thì ngay

một vị thánh cũng trút bỏ được những tục luỵ trần gian và cảm thấy như thể

sống thêm nhiều năm”[10,123]. Quả thật, vẻ đẹp của Genji hào quang như

chính tên gọi của chàng, chiếu rọi khắp thế gian và làm cho con người sống

có ý nghĩa hơn, thanh sạch hơn khi tiếp xúc với chàng.

Cái đẹp có thể cảm hoá lòng người, cải tạo tâm ý: “diện mạo đẹp

tuyệt vời, và giá như nàng có oán hận gì thì nó cũng tan biến đi

ngay”[10,285]. Chính vì khi sinh ra chàng đã mang vẻ đẹp rạng ngời của

một bậc đại nhân, cho nên mọi người rất lo lắng cho chàng. Khi bị đày đi

Suma, chàng đến thăm Bố vợ để chia tay, mọi người nhìn chàng “nghĩ đến

sự phù sinh”. Vẻ đẹp gắn liền với sự vô thường. Số phận của cái đẹp chóng

tàn lụi trên nhân gian nhưng hình ảnh của nó vẫn còn lưu giữ trong lòng

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

57

người, cho nên nó tồn tại mãi mãi. Chính sự vô thường của tạo hoá cũng là

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

một cái đẹp để con người trân trọng nâng niu thời khắc đẹp đẽ ấy. Vẻ đẹp

không chỉ mang lại cho con người sự ưu ái của tạo hoá mà còn đọng lại

trong vạn vật thiên nhiên.

Khi ở trên núi chữa bệnh, sau cái chết của người tình hoa phấn và

tâm bệnh không ổn định, sau bao ngày vật vã với nỗi đau, hoảng loạn dày

vò, lần đầu tiên Genji nhìn thấy “Bầu trời bình minh dày đặc, chim cất

tiếng hót văng vẳng từ đâu xa. Những cây trổ hoa và cỏ giăng trải như tấm

thảm phía trước mặt chàng. Chàng lấy làm lạ lùng và thích thú ngắm con

nai khi thì dừng lại gặm cỏ lá gần nhà, khi thì đi lang thang đây đó. Chàng

hầu như quên ốm đau”[10,129]. Ở ngọn núi này tất cả cảnh vật như chậm

rãi sinh sôi. Thiên nhiên thanh tịnh, ôn hoà và đẹp khiến lòng người cũng

cảm thấy thanh thản, an lành. Sự vật làm cho lòng người quên đi mọi ưu

phiền, nâng đỡ lấy một tâm hồn tội lỗi.

Cái đẹp tồn tại nhiều nơi và cũng có khi trên má hồng của người

thiếu nữ khiến Genji không thể không thốt nên lời: “Ôi! Quyến rũ biết bao

nhiêu, giá như ở nơi đây có một cô nàng xinh đẹp để người ta chỉ triền

miên với những ý nghĩ ưu ái, để hàng ngày khao khát được gặp nàng! Nếu

thế, chàng có thể quên đi mối tình vô vọng, bị cấm đoán của

mình”[10,170]. Sự khao khát của trái tim biết chiếm lĩnh và thưởng thức

cái đẹp khiến Genji không thể nào nguôi muốn kiếm tìm cho mình những

nguồn vui mới. Những người đẹp có thể làm chàng tạm thời quên đi nỗi

buồn riêng. Nhưng chính bản thân chàng cũng đã đủ để vẻ đẹp thiên nhiên

phải ghen tị, bị lu mờ. Cho nên “Ở gần chàng các bông hoa bị mất đi vẻ

tươi thắm rực rỡ”[10,209]. Hay khi chàng nhảy điệu “làn sóng xanh” thì

“một cơn rùng mình như từ thế giới bên kia lướt qua đám đông…chàng

đem lại niềm vui trong con mắt, sự thanh thản cho tâm hồn.”[10,182].

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

58

Genji là hình ảnh khổ công của nhà văn. Xây dựng cho mình một

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

hình tượng hoàn mĩ như thế, nhà văn không ngừng ca ngợi nhưng cũng có

khi bà tỉnh táo nói rằng: “Có thể tôi nhận xét quá thường xuyên về điều

này, nhưng biết sao được, khi mà cứ mỗi lần tôi thấy chàng thì vẻ đẹp của

chàng lại đập vào mắt tôi”. Vẻ đẹp tạo nên một ám ảnh trong tâm tưởng,

định hình rất rõ, chỉ cần nhắc tới là có thể hình dung ra ngay như một cái

khuôn đã định sẵn trong kí ức. Khao khát tìm kiếm một người đàn ông lí

tưởng trong đời nhưng sự đời không như nữ sĩ mong muốn đã thôi thúc tâm

trí nhà văn luôn nghĩ về hình bóng giai nhân tuyệt mĩ đó. Người đàn ông

mà bao nhiêu phụ nữ hằng mong muốn có thể trong đó có bà. Ngoài ra cách

miêu tả cố ý lặp lại trong tác phẩm không hết các lời ca ngợi của tác giả

cũng là phương thức thể hiện quan niệm về cái đẹp của nhà văn đối với

cuộc sống.

Murasaki Shikibu cũng dành sự ca ngợi cho vẻ đẹp của các cô gái,

đặc biệt là hình bóng một người phụ nữ luôn trung thành với chàng và đắm

say chàng đó là Murasaki no Ue. Nàng xinh đẹp, trong sáng, thuỷ chung,

tinh tế, sâu sắc, dịu hiền khiến cho bất kì ai nhìn thấy nàng cũng cảm thấy

cuộc đời này đáng để sống hơn. Ở nàng có sức lôi cuốn lạ lùng và dễ cảm

hoá lòng người không chỉ vẻ đẹp bề ngoài mà còn vì tố chất bên trong phát

tiết những phẩm chất cao quý của một người phụ nữ, người vợ.

Sau này khi cưới nàng công chúa Ba xinh đẹp, yêu kiều Genji đã

nhìn thấy tội lỗi của mình trong tội lỗi của nàng. Tuy nhiên khi nhìn thấy

công chúa Onna xinh đẹp, ngây thơ khiến Genji “mọi ý nghĩa về lòng không

chung thuỷ của nàng biến tan khỏi tâm hồn chàng. Với vẻ đẹp như thế, mọi

sự đều có thể dung thứ.” Vẻ đẹp hoá giải lòng người rộng lượng và vị tha

hơn. Chính vì thế biết rằng nàng Onna xinh đẹp kia có con với người khác

Genji vẫn gồng mình, âm thầm chịu đựng và cũng tự dằn vặt mình.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

59

Vẻ đẹp tồn tại có thể ở thiên nhiên hay ở con người đều chịu sự chi

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

phối của quan niệm về cái đẹp của mỗi thời đại, cách cảm nhận cái đẹp của

chủ thể thẩm mĩ đó. Vậy nên cái đẹp trong văn hoá Heian không nằm ngoài

cảm quan Phật giáo và quan niệm truyền thống của dân tộc. Một dân tộc

luôn trân trọng nâng niu, gìn giữ vẻ đẹp của tạo hoá. Vẻ đẹp cũng rất thiêng

liêng, bản thân nó có sức mạnh ghê gớm có thể xoá bỏ hận thù, cứu rỗi tâm

hồn…Mãnh lực của cái đẹp được con người nâng lên một cấp độ cao hơn

để tôn sùng nó. Do vậy người Nhật trong vẻ đẹp đơn sơ, thanh nhã của việc

uống Trà đã nâng lên thành Trà đạo. Cách cắm hoa, thưởng thức vẻ đẹp của

hoa được nâng lên thành Hoa đạo…Đó là cách một dân tộc luôn khẳng

định giá trị của cái đẹp ở đời. Bởi vậy, hơn ai hết, người Nhật là một dân

tộc sùng bái cái đẹp đến mức cao nhất và cái đẹp có tác dụng sâu bền nhất

đối với cuộc sống của họ. Vẻ đẹp không mất đi trong họ khi tâm hồn còn

biết lay động với cuộc sống.

Nhà văn Nhật Chiêu khi bàn về cái đẹp đã cho rằng “cái đẹp thì bất

tử nhưng những hiện thân của nó thì phù du, chỉ là những khoảnh khắc, là

vô thường”[5,119] và “Sự vô thường của thế gian là nỗi buồn vừa là vẻ

đẹp. Vô thường là đẹp. Tác phẩm Genji monogatari là tiếng hát về niềm bi

cảm đầy nghịch lí ấy.”[5,120]. Quả thực đúng như vậy. Vẻ đẹp không thể

tồn tại theo dạng sinh học mãi mãi, mà nó sẽ mất đi theo thời gian. Nó xuất

hiện có thể chỉ trong khoảnh khắc để toả sáng rồi biến mất. Và chính sự

phù du đó của cái đẹp tạo nên sự nuối tiếc cho người cảm nhận nó và để lại

ấn tượng không thể tàn phai, để lại nỗi buồn, niềm vương vấn. Và đó cũng

chính là vẻ đẹp bất tử.

II.2.2 Sự vô thường của cái đẹp

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

60

Trong quan niệm thẫm mĩ của người Nhật, cái đẹp có thể tồn tại

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

thoáng qua, trong khoảnh khắc dù ngắn ngủi nhưng đã toả sáng, cũng như

chính bản chất của bông hoa anh đào sớm khoe sắc trong gió xuân rồi ra đi

khi đang độ viên mãn nhất, để lại sự nuối tiếc về cánh hoa mỏng manh, đẹp

lung linh giữa đất trời. Cái đẹp không chỉ thể hiện sự hoàn hảo của một con

người hay sự vật mà còn có tính gợi buồn. Bởi cái đẹp đi qua ngắn ngủi,

phù du như ảo ảnh. Vậy nên cái đẹp bếp bênh như chính cuộc đời vậy.

Nhìn ngắm, chứng kiến cái đẹp ra đi, con người không khỏi lo âu, buồn bã

thậm chí bất lực.

Theo quan niệm của người Phương Đông, cái đẹp cũng thật đáng sợ.

Bởi nó dự cảm một điều không tốt xảy ra trong tương lai. Cho nên “Trông

thấy vẻ mặt khôi ngô tuấn tú của Genji trong buổi triều tập hôm qua, tâm trí

nhà vua tràn ngập những điều linh cảm bất thường”[10,180]

Số phận các mỹ nhân trong tác phẩm là một minh chứng cho cái đẹp

tồn tại trên cõi đời này bị tàn phá bởi thời gian. Họ tàn lụi đi như bông hoa

mới nở bị cơn gió xuân vùi, như cánh hoa sen bị gió dập, hoặc như cánh

hoa bướm bị nặng trĩu những hạt sương. Họ như con thuyền mỏng manh

trôi vô định, phù du giữa biển đau thương, chốn bụi trần, bị kéo theo bởi

bánh xe sinh tử của trần tục. Có lẽ tất cả cũng đều nằm trong sự chi phối

của thời gian, cho nên con người cảm nhận sâu sắc hơn về bản chất vô

thường của tạo hoá:

“Trong mơ màng sâu thẳm

Về nỗi thời gian dập vùi hết thảy

Ta nghe những tiếng động rơi

Trên một cái chuông chùa…kéo dài ra mãi”

Saigyo

Đặt mình trong đội ngũ các nhân vật trẻ tuổi của tác phẩm, nhà văn

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

61

Murasaki đã khai thác triệt để những nhiệt huyết của họ với cuộc đời. Là

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nhà văn nữ, vốn có sự nhạy bén với cuộc sống, với trình độ uyên thâm của

những con người chốn hậu cung, nàng đã hiểu hết những cuộc đời ngắn

ngủi của các mỹ nữ và sự đời oan trái của họ. Hơn thế, do chịu sự cho phối

của cảm quan thẫm mĩ người Nhật về cái đẹp, nhà văn đã khéo léo đưa vào

tác phẩm những người phụ nữ đẹp, tinh tế, trẻ trung, sôi động có thể sớm

bước vào cõi chết khi trên mình còn nồng vị son trẻ hay sớm lui vào chốn

cửa Phật để chôn vùi tuổi thanh xuân và thời gian cuộc đời. Nhà văn đã để

cho nhân vật của mình lựa chọn hai con đường từ giã cuộc đời một cách

khắc nghiệt. “Trần thế này quả là quá bấp bênh, và trước đây bây giờ cũng

đã là thế, đặc biệt đối với phụ nữ. Họ là những cánh bèo trôi dạt.”

Hầu hết các nhân vật nữ của Truyện Genji đều có một vẻ đẹp riêng.

Nếu Fujitsubo đẹp dịu hiền đầy nữ tính, rất nhu mì thì Aoi vợ Genji đẹp đài

các nhưng lạnh lùng đến khó hiểu. Nếu Rokujo đẹp với kinh nghiệm đầy

mình thì Murasaki đẹp một cách ngây thơ, trong trắng. Nếu Oborozukiyo

đẹp đầy nhục thể thì Akashi đẹp một cách cao đạo. Còn Asagao đẹp lại đa

tài…Nhiều phụ nữ xung quanh Genji nhưng không phải ai cũng xinh đẹp,

trẻ trung. Có cô mũi khoặm, có bà gần sáu mươi…Nhưng tất cả họ đều bị

cuốn hút bởi vẻ đẹp hào hoa, phong nhã, cách cư xử tinh tế, dịu dàng cũng

có lúc mạnh bạo của một trái tim biết nói, một tâm hồn luôn khát khao yêu

đương, luyến ái của Genji. Họ xuất hiện trong cuộc đời Genji khi đang độ

xuân tràn, khoảng thời gian đẹp nhất của người con gái.

Những số phận người phụ nữ như những bông hoa sớm nở tối tàn, để

lại sự tiếc nuối, sự bừng ngộ, rưng rưng cảm xúc về nỗi buồn của sự mất

mát bi thương. Có hai cách trốn chạy khỏi cuộc đời là: lui vào cõi Phật, xa

lánh cuộc đời hoặc tìm đến cái chết. Nhưng dù thế nào con người cũng xác

định từ giã cuộc sống này để quên đi hỉ, nộ, ái, ố mà yên phận tại một nơi

nào đó. Họ phản ứng lại với cuộc đời bằng sự ra đi, lạnh lùng và tàn nhẫn,

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

62

sầu muộn và khổ hạnh khiến xã hội cũng héo hắt, rơi rụng như lá mùa thu

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

đang độ thu tàn. Con người cũng là một phần của tự nhiên chịu quy luật

của sinh, lão, bệnh, tử để rồi vòng đời nối tiếp vòng đời như kiếp luân hồi

như vòng nhân quả. Con người phải sống theo cái Nghiệp của họ, không

một sự giải thoát, bí bách và bi ai.

Các mỹ nhân sinh ra trên cuộc đời như con phù du mong manh và vô

định. Họ thoáng xuất hiện rồi ra đi như giọt sương ban mai trên đầu ngọn

cỏ, sự tồn tại của họ như khoảnh khắc trong chớp mắt, vừa có sự hiện hữu

của thời gian vừa có sự hiện hữu của tuổi trẻ, của cái đẹp. Tất cả đều tồn tại

trong vô thường. Những nhân vật được xem là tài hoa bạc mệnh sống trong

khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng để lại cho chúng ta ấn tượng sâu sắc về

vẻ đẹp, tuổi trẻ và cái chết.

Có lẽ số phận của người phụ nữ như thế không chỉ tồn tại trong

Truyện Genji mà trước đó đã xuất hiện rất nhiều. Đặc biệt trong bài bi ca

nổi tiếng của Hitoma viết sau cái chết của vợ thể hiện rất rõ về cái chết của

cuộc đời ngắn ngủi đó:

“Bên bờ sông ngày trước

Chúng tôi cùng ngắm nhìn

Cây du xanh lá

Khi mùa xuân sang

Cây du tươi thắm

Đẹp xinh cũng như nàng

Và cả tâm hồn tôi

Say đắm một tình yêu.

Nhưng nàng đã chết

Phù du cuộc đời

Làm sao trốn tránh

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

63

Khi phải tàn rơi?

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

…”

(Bài 210-Manyosu)

Nhà thơ đã ý thức được quy luật của của sống, “phù du cuộc đời”

không thể nào khác. Đó có thể là cách xử thế của con người Nhật vậy. Họ ý

thức rất rõ về cái chết và sống hết mình khi còn trên nhân gian này. Đối

mặt với cái chết một cách nhẹ nhàng và thanh thản hơn: “Làm sao trốn

tránh, khi phải tàn rơi”. Là quy luật không thể khác được, vậy nên phải biết

chấp nhận nó dù rất đau buồn.

Trong Truyện Genji, nhà văn không nằm ngoài quan niệm của mình

về cái đẹp hiện hữu vô thường. Bởi vậy cái đẹp luôn sớm mất đi chỉ còn là

nhân ảnh. Mẹ Genji là ái phi của nhà vua, sống tại hoàng cung Paulownia.

Khi sinh hạ với nhà vua một hoàng tử xinh đẹp là chàng Genji hào quang

thì bà bị bệnh nặng, rời hoàng cung về nhà. Là phu nhân đẹp kiều diễm,

bây giờ nàng võ vàng, tàn úa vì nỗi buồn đau. Sự dèm pha, ghen ghét ở

chốn hậu cung làm nàng chìm sâu vào những ý nghĩ sầu não, nhưng khi

nàng cố gắng để thốt nên lời thì hầu như không ai nghe được tiếng nàng.

Rồi nàng rời bỏ người, đi con đường mọi chúng sinh phải đi. Nàng chết qua

nửa đêm, đám tang thật đau buồn. Ngày nối tiếp ngày buồn thảm, các cung

nữ cảm thấy như đang bị chìm trong mùa thu sương móc đầm đìa. Nhà vua,

trong thời gian này, tưởng như đi lang thang vật vờ trong một cơn ác mộng,

và khi sự xúc động lắng xuống thì người nhận ra rằng cơn ác mộng vẫn

triền miên. Cô đơn và đau buồn đến xé gan xé ruột , người thấy không tài

nào đương đầu với thiên hạ. Khi đó Genji đang còn quá nhỏ để nhận biết

điều gì đang xảy ra. Mẹ nàng là một kiếp hoa vùi, đã ra đi trong độ xuân

sắc. Cuộc sống thật ngắn ngủi.

Khi Genji lớn lên, mở đầu cho những chuỗi ngày dài u ám, có lẽ là

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

64

khi chàng đụng chạm đến Nàng Hoa Phấn. Tâm hồn chàng bị quyến rũ của

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

những bông hoa phấn, chiếc quạt và bài thơ làm cho Genji không còn kiềm

chế được sự đa tình nữa và tìm mọi cách tiếp cận nàng. Nàng dịu dàng và

thầm lặng, người bé nhỏ, xinh đẹp, mảnh mai. Sau này Genji nghĩ đến nàng

và nói: “những phụ nữ trầm tĩnh, ngây thơ lại có cái đẹp riêng của

họ”[11,160]. Nàng không có bất cứ nét nào đặc biệt xinh đẹp, nhưng với

dáng thong thả mảnh khảnh, nom nàng xinh đẹp yếu ớt đến nỗi chàng gần

như sợ phải nghe tiếng nàng. Khi chinh phục được nàng, hai người cùng

nhau đi trong ánh trăng và bên nhau. Rồi Genji bỗng thấy người tình

Rokujo xuất hiện bên gối và chàng thực sự hoảng sợ. Chàng thấy một bóng

người bên gối nàng và nghĩ là người đàn bà trong giấc mơ, nó biến ngay

như ma hiện hồn. Chàng gọi to và đánh thức nàng nhưng nàng đã ngừng

thở. Bất ngờ và dường như chết lặng chàng ôm lấy nàng, thất vọng đắng

cay. Sau cái chết của nàng hoa phấn, Genji ốm nặng và luôn dằn vặt tâm

hồn, lòng nặng trĩu nối nhớ nhung.

Người đời chỉ nhớ đến nàng với vẻ đẹp nhỏ nhắn, nhẹ nhàng và yếu

ớt. Nàng ra đi khi tuổi thanh xuân đang tràn trề, khi tình yêu đang còn sức

trẻ. Trong nàng không có sự tàn lụi của tuổi thanh xuân mà nàng vẫn đẹp

mãi với hình ảnh của mình. Sự ra đi của một người phụ nữ đã là quá đủ cho

chàng trai sớm dấn thân vào con đường tình ái khi mới mười bảy tuổi. Sự

tổn thương về tâm hồn không thể tránh khỏi.

Dường như nhà văn cố tình để cho những người phụ nữ bên cạnh

Genji xuất hiện và ra đi trong khoảng thời gian đẹp nhất của họ. Tất cả

mang lại cho chàng những nỗi đau khác nhau. Mười hai tuổi, chàng đã cưới

vợ hơn tuổi mình, lúc đó Aoi đang độ xuân thì. Không tình yêu và sự quan

tâm thích đáng, Genji hầu như quên đi người vợ xinh đẹp, quyền quý mà

thảnh thơi với các cô gái khác để rồi một ngày, cái ngày định mệnh đó lại

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

65

đến quá bất ngờ khiến chàng suy sụp, hối hận. Lúc đó, chàng vừa mới hai

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

mươi hai tuổi, Aoi đang đứng trước cái chết cận kề. Nàng là một người phụ

nữ khá lạnh lùng. Genji nghĩ: “Đôi khi ta nghĩ, giá như nàng tỏ ra là một

người vợ hơn một chút thì sẽ hay biết mấy. Ta đã đau ốm, ta thấy bị xúc

phạm chứ không ngạc nhiên, vì nàng chẳng hỏi han đoái hoài đến sức khoẻ

của ta!”… “vẻ đẹp lạnh lùng của nàng quả là đáng sợ”. Ngay cả khi nằm đó

nàng vẫn còn rất xinh đẹp. “Genji kéo rèm ra và nhìn xuống vợ. Với đứa

con trong bụng, nàng nom nặng nề nhưng rất đẹp…Đám tóc dài, trĩu nặng,

vén sang một bên, in đậm trên những chiếc áo trắng, và chàng thấy nàng

còn đáng yêu hơn là lúc ăn mặc chải chuốt hồi còn là cô dâu”[11,224],

“nàng gầy mòn tiều tuỵ và như đang nằm kề cái chết nom thảm thương

nhưng vẫn còn xinh đẹp. Tóc nàng bóng láng vẫn mượt mà. Những bím tóc

dày tuôn xuống gối càng đẹp bội phần không gì sánh nổi.” Aoi ra đi vào

nửa đêm, khi sắc đẹp ấy vẫn còn nguyên vẹn. Nàng đã vò võ, tàn úa theo

ngày tháng trong nỗi sầu muộn, ma quái của linh hồn nào đó đã dày vò

nhưng ở nàng sắc đẹp không hề tàn phai. Sự mất mát này làm cho cả hoàng

cung buồn thê thảm. Cảnh tượng Aoi mất khiến Genji ngơ ngẩn hơn bất cứ

lúc nào, đến mức nhìn bầu trời ban mai Genji lẩm bẩm:

“Là mây hay khói hoả thiêu?

Lòng ta xúc động khó chiều nói ra”

Hay:

“áo ta màu sắc nhạt tênh

lệ tuôn tay áo biến thành vực sâu”

Chàng tin vào số mệnh. ”[10,229]

Số mệnh của người phụ nữ là gì? Tài hoa bạc mệnh chăng? Vậy con

người sinh ra trên cõi đời này nếu được xem là có sắc có tài thì bị chịu

chung quy luật của nó? Tất cả đều nằm trong hai chữ “định mệnh”! Cách

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

66

đây mấy thế kỷ nhà thơ Nguyễn Du của chúng ta cũng đã xây dựng hình

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

tượng nhân vật Thuý Kiều sắc tài vẹn toàn nhưng nàng bị chi phối bởi

“định mệnh”. Âu cũng là “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” hay cũng là

“Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Sắc đẹp ra đi không định đoạt được với

thời gian, bởi cái đẹp là vô thường. Con người chỉ biết rằng nó sẽ sớm ra đi

nhưng cũng chính là cách để lưu lại trên cõi đời trong thời khắc đẹp đẽ

nhất, không có dấu hiệu tàn phai.

Vẻ đẹp trong cuộc sống hiển hiện ở khắp nơi. Quan trọng là con

người có thể tìm thấy nó và nắm bắt được hay không. Bằng một tâm hồn đa

cảm, dễ rung động trước cái đẹp, cùng với một kí ức không rõ ràng về

người mẹ thân yêu, Genji đã tìm thấy Fujitsubo trong hoàng cung. Đối với

chàng, Fujitubo là một ảo ảnh của “vẻ đẹp thần tiên”. Chàng ao ước giá

như chàng có thể có được ai đó giống nàng nhưng không ai thực sự được

như thế. Vợ chàng cũng đẹp nhưng khao khát cháy bỏng trong trái tim

chàng đối với người phụ nữ kia như ngọn lửa, cũng là nỗi thống khổ đã bắt

đầu từ đấy. Genji thầm nghĩ giá như chàng có thể ở bên người thứ phi mà

chàng khao khát. Nỗi xúc động dày vò thân xác và tâm hồn khiến Genji

ngày đêm quấn quýt bên cạnh vua cha bởi vì khi đó có nàng.

Nàng là một công chúa thứ tư của một tiên vương. Nàng rất giống

người mẹ quá cố và xuất hiện trong cung sau cái chết của Kiritsubo-mẹ

chàng. Nàng còn rất trẻ chưa đến tuổi đôi mươi, khả ái và e ấp. Fujitsubo

luôn được sự sủng ái của nhà vua nên ông thường hay quấn quýt bên nàng.

Yêu say đắm Genji nhưng nàng không thể thoát xác với tình yêu của mình.

Cả hai đều trong tình trạng phải kiềm chế tình cảm, nhưng rồi họ cũng

không giữ được và có con.

Hình bóng nàng lúc nào cũng xinh đẹp. Nàng đẹp ngay cả khi bị ốm,

ngồi nhìn ra vườn, dáng người nhìn nghiêng của nàng xinh đẹp khôn tả.

Đối với Genji lúc này nàng là “cả một sự quyến rũ đê mê khi nàng ngồi

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

67

lặng lẽ chìm đắm vào những trầm tư sâu xa và rối loạn. Đám tóc như suối

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

tuôn xuống đôi vai, đường nét khuôn mặt, nước da đỏ hây hây, sao mà xinh

đẹp và lôi cuốn!”[10,261]. Hình ảnh một người đàn bà đẹp và buồn. Chính

vẻ đẹp đó làm Genji đê mê và có những hành động đi trái ngược đạo lí của

gia tộc, đạo đức của con người.

Ý thức về điều đó, nàng luôn tìm mọi cách để ngăn cản Genji. Nàng

quyết định xuống tóc. Mọi cái đến bất ngờ như trong mộng. Genji có mặt

lúc đó và nhìn vào thấy “thoáng ẩn hiện những tay áo nâu, vàng - tất cả

chìm trong nỗi buồn u uất nhưng đồng thời lại đẹp một cách bình dị, bí

ẩn”[10,275]. Chàng buồn bã vô cùng. Cái đẹp của người phụ nữ kia nay đã

trở nên vô hồn với nhân gian. Một bức tường ngăn cách nào có thể bước

qua được. Nàng chấm dứt hệ luỵ trần gian bằng cách của nàng. Nhưng rồi

cũng không cưỡng lại được quy luật của tạo hoá. Ở tuổi ba mươi bảy nàng

ra đi khi đang còn rất xinh đẹp. “Nàng đã qua tuổi ba mươi bảy nhưng vẫn

giữ được nhan sắc lộng lẫy. Thậm chí như vậy lại đáng buồn hơn vì đang

còn trẻ trung đến thế mà có thể nàng phải chết.”[10,434]. Cái chết đang dần

đến, thời gian như buông xuôi: “chàng đang nói thì nàng mất, như một

ngọn lửa vụt tắt. Tôi sẽ không nói gì thêm nỗi đau đớn của chàng”[10,436].

Genji đau khổ đến khốn cùng. Hình bóng nàng có lẽ đã chìm dần vào giấc

ngủ ngàn thu để rồi “mỗi khi nằm xuống vẫn nghĩ đến Fujitsubo thì bỗng

mơ thoáng thấy nàng”[10,462]. “Nỗi nhớ thương người phụ nữ quá cố thật

không sao tả xiết. Tim chàng đập dồn dập và mặc dù cố hết sức, chàng oà

khóc.”[10,462].

Trong Vạn diệp tập, Hitomaro cũng từng khóc thương cho mỹ nhân

như “núi mùa xuân”, mềm mại “như cây tre non”, “Người con gái ấy đã

chết như sương móc buổi sáng, sương mù buổi chiều”[42,116]. Còn khi

khóc thương người vợ quá cố thì: “Nước dòng sông gầm réo chảy sục sôi

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

68

dưới chân núi Makimukuyama. Cuộc đời con người cũng như bọt nước trên

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

dòng sông này”[42,117]. Fujitsubo ra đi khiến trái tim mẫn cảm của Genji

tê tái nghĩ đến thời cuộc và lòng như trầm tĩnh lại, tâm hồn chàng xiêu viêu

theo năm tháng. Thời gian quả là quá khắc nghiệt đối với kiếp người như

kiếp con phù du. Âu cũng là sự vô thường của tạo hoá. Nhưng khi đối mặt

với nó, con người không thể tĩnh tâm đón nhận, nhất là khi vẻ đẹp sớm ra

đi khi hình bóng mĩ nhân đang độ xuân tràn. Luyến tiếc và u buồn, Genji

như mất đi một niềm tin yêu ở cuộc đời.

Như vậy, chưa phải nỗi đau đã hết, sau này chàng còn phải nếm trải

không chỉ là nỗi buồn mà còn sự cô đơn đến thê thảm. Sự xuất hiện của

một thiếu nữ như là sự tiếp nối người xưa, tiếp nối cuộc đuổi bắt của Genji

về bóng dáng một người phụ nữ. Murasaki từ nhỏ rất xinh và giống

Fujitsubo kì lạ. Nét đẹp của nàng ngây thơ, đáng yêu. “Muasaki như bông

hoa cẩm chướng dại điểm mấy giọt sương long lanh. Cô đẹp mê hồn”.

Murasaki, càng ngày càng xinh đẹp, thông minh, dễ thương hơn. Nàng là

người phụ nữ tinh tế, khéo léo, tốt bụng và tự tin. Một người vợ sống cam

chịu và chung thuỷ. Hình ảnh của nàng được ví như “một cây anh đào dại

xinh đẹp đang nở hoa qua sương mù mùa xuân…Một vẻ đẹp mê hồn khôn

cưỡng”[10,591]. “Sắc đẹp lý tưởng và rực rỡ như toả ánh hào quang ra

xung quanh. Nếu so sánh nàng với hoa, thì nàng như một bông hoa anh đào

không có trên đời.”[11,98]. Nàng đẹp, xinh tươi như thế nhưng cũng sớm

vụt tắt trong nhân gian cũng chỉ vì sầu thảm. Có lẽ nỗi cô đơn đã giết chết

bao tâm hồn trong câu chuyện cuộc đời này. Cô đơn đến đỉnh điểm của nó

tạo nên cấp độ cao hơn là nỗi sầu nhân thế. Nỗi sầu thảm mênh mông, vô

định khiến con người cảm thấy sự tồn tại của họ có ý nghĩa gì khi cuộc đời

kéo dài thê lương. Việc ra đi trong cơn tâm bệnh đã kết thúc cuộc đời một

cách nhanh chóng đã để lại nỗi đau khổ cho bao nhiêu người.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

69

Hình ảnh Murasaki giống như bông hoa anh đào đang lúc viên mãn

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nhất khoe sắc rồi chóng rụng rơi khi chưa đến độ phai tàn. Nàng chết vào

rạng sáng. “Genji đưa đèn lại gần và ngắm Murasaki: ông thấy luyến tiếc

khuôn mặt đẹp tuyệt trần, đáng yêu và duyên dáng của nàng…Mái tóc nàng

để xoã tự nhiên, vừa dầy, vừa mượt mà, đẹp trông rất hấp dẫn. Dưới ánh

đèn, nước da trắng của nàng trông trắng hơn khi nàng còn sống. Có thể nói

thân thể bất động đang nằm kia là sự hoàn mĩ. Nhìn Murasaki đẹp như thế,

đẹp hơn hẳn người đời và không ai sánh được…”[11,233]. Và nhà văn đã

đưa ra lời đồn cho cái chết của nàng: “Mọi cái đều như hoa anh đào…”, có

ai đó viết trong một bài thơ như vậy”[11,120]. “Tuy hoa anh đào không

tươi mãi nhưng hương thơm của nó truyền lại muôn đời”[11,252]. Sự kết

thúc một cuộc đời nhẹ nhàng và thanh thản đến mức con người khó có thể

chấp nhận nó. Đó cũng là do quan niệm đương thời của người Nhật về cái

chết. Họ không xem thường nó nhưng cũng không xem đó là sự ra đi đầy

đau khổ mà chỉ là quy luật của con người, tạo hoá. Cho nên họ đón nhận nó

với tâm thế bình tĩnh hơn. Ngày xưa người Nhật cao tuổi có thể vào núi để

chết và không phải ăn uống nhiều tốn kém cho gia đình…Hay những bà mẹ

nghèo khổ không nuôi được con có thể giết đi để con không phải sống khổ

nhưng xã hội không lên án. Quan niệm về cái chết của những mĩ nhân hay

những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng cũng vậy. Họ tìm đến cái chết khi muốn

lưu giữ lại ở cuộc đời hình ảnh của mình khi đang còn độ sung mãn nhất

của khả năng, tài nghệ, vinh quang. Cách làm của họ có phần tiêu cực

nhưng cũng có thể lí giải được. Cũng như những bông hoa đẹp trong thời

Heian vậy. Sau này đến đời Kaoru, các hình ảnh người phụ nữ cũng ra đi

theo cách đó một cách nhẹ nhàng.

Oigimi đã “ra đi giống như một bông hoa đã lụi tàn. Bật đèn lên,

Kaoru nhìn vào khuôn mặt đã mất của Oimigi và thốt lên “Đây là mơ ư?”.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

70

Cô ấy vẫn còn rất đẹp và trông giống như đang ngủ. Anh ta chải tóc cho

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Oigimi và nghe thấy mùi hương tỏa ra từ tóc cô ấy. Anh ấy ao ước được

mãi ngắm nhìn cô ấy như cái vỏ của con châu chấu.”[79]. Ngay tại thời

điểm ra đi, Ogimi cũng như những phụ nữ khác vẫn lưu lại nét đẹp của

mình. Tuổi già chưa kịp đến, nhan sắc chưa kịp ra đi. Cô nằm đó với hình

hài như đang sống. Sự hụt hẫng, bất ngờ khiến Kaoru đau khổ vô cùng sau

đó quyết định ở lại Uji.

Những người phụ nữ chịu quy luật vô thường của tạo hoá chi phối.

Vẻ đẹp của họ không thể bị huỷ hoại bởi họ sớm ra đi khỏi thế giới này để

lưu giữ cho mình vẻ đẹp dù rất ngắn ngủi như ánh sao sa loé sáng trên bầu

trời. Sự ra đi mang lại nỗi buồn thương, sự tiếc nuối cho người ở lại, thậm

chí là hậu thế chúng sinh, nhưng chính nỗi đau niềm nhớ tiếc ấy lại đem

đến một sắc thái mới của cái đẹp: niềm bi cảm-aware.

Cuộc đời ngắn ngủi cũng có thể được tính khi con người sớm từ bỏ

thế giới này để đến với một thế giới khác, trốn chạy chính mình để tìm nơi

thanh tịnh, tu dưỡng tâm hồn không vướng bận bụi trần ai. Đó cũng là cách

xử thế của không ít người đẹp trong Truyện Genji. Dường như Murasaki

Shikibu tìm cho họ một con đường giải thoát an toàn theo quan niệm của

bà. Một hướng đi mới của cuộc đời phù hợp với xu thế thời đại. Trốn vào

cõi Phật con người chấm dứt khỏi cuộc sống bi ai. Nhưng làm cho những

người ở lại nỗi đau thêm chồng chất, sầu muộn càng đong đầy.

Trong tác phẩm rất nhiều nhân vật muốn trốn vào cõi Phật như nhà

vua, Oborozukiyo, Oigimi, Asagao,…Công chúa Ba đi tu khi đang tuổi

thanh xuân, trong thời gian sinh nở. Sau này, Kaoru phân vân về xuất thân

của mình và tự hỏi vì sao mẹ chàng lại đi tu khi đang còn quá trẻ? Tuy

nhiên nhân vật tiêu biểu nhất theo quan niệm của Murasaki Shikibu về

hành động trốn vào cõi Phật có lẽ là Ukifune. Oigimi có một cô em gái

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

71

cùng cha khác mẹ, tên là Ukifune. Nàng cũng xinh đẹp như Oigimi.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Ukifune ngây thơ và ngoan ngoãn, xinh đẹp. Tuy nhiên nàng một lúc yêu

cả hai người Kaoru và Niou. Nàng đi lại với họ rất nhiều lần. Sau đó, ý

thức tội lỗi của mình nàng tự tử. Nằm dưới gốc cây, với một mái tóc dài

óng ả, nàng đã được cứu sống. Sau đó, nàng quyết định lui vào cõi Phật để

tĩnh tâm và siêu thoát, quên đi chuyện đời. Trước khi xuống tóc, vị giám

mục nhắc nhở cô, “Con không được hối tiếc những gì đã có trong quá khứ

kể cả tuổi trẻ và sắc đẹp.” nhưng “cô cảm thấy vui vì mình đã tự đưa ra

được một quyết định trước sự phản đối của những người khác. Ukifune cố

gắng đẩy mình vào trạng thái trầm tư dưới tên của đức Phật để quên đi quá

khứ.” Một con người kiên định. Sau khi đã lui vào chốn cửa Phật nàng từ

chối gặp Kaoru và người thân. Rồi tất cả câu chuyện cuộc đời đều chấm

dứt. Và không còn ai biết gì về họ nữa. Niềm bi cảm cũng đã khép dần để

lại một dư ba lắng sâu trong lòng người. Cô là đại biểu cho rất nhiều người

nương nhờ cửa Phật, thể hiện đạm nét tư tưởng của nhà văn. Murasaki

không quên tìm cho nhân vật một lối thoát. Kể cả các nhân vật nam chính

như nhà vua thoái vi, Genji… đều tìm đến để mong lấy lại linh hồn mình

đã mất, tìm lại sự thanh thản và quên đi cuộc đời đắng cay, cuồng loạn.

Cách giải thoát ấy thấm đẫm chất Phật, tính Phật.

Có người cho rằng tác phẩm Truyện Genji mang đậm giáo lí nhà

Phật, trong đó có cảm thức thẩm mĩ aware. Nếu sự vật tồn tại trong thế giới

là vô thường thì cái đẹp càng trở nên mong manh hơn trong sự vô thường

ấy. Cho nên, quan niệm thẩm mĩ này in đậm hơn, sâu sắc hơn trong đời

sống người Nhật và chi phối những quan niệm thẩm mĩ khác, mang lại một

sắc thái đặc trưng Nhật Bản trong tác phẩm văn học. Chính nó góp phần

làm nên sự toả sáng cho Truyện Genji cũng như văn học Nhật trên văn đàn

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

72

quốc tế.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

CHƯƠNG III

NIỀM BI CẢM VỚI THIÊN NHIÊN TƯƠI ĐẸP

Từ xa xưa, người Nhật đã có tín ngưỡng sùng bái thiên nhiên. Thiên

nhiên được xem thiêng liêng, đáng được trân trọng và tôn thờ như thần

linh. Vậy nên con người luôn có tâm thế hoà hợp vào thiên nhiên để sống.

Dù cho thiên nhiên khắc nghiệt, nghèo nàn, con người vẫn luôn luôn giữ

gìn và bảo vệ. Thiên nhiên vừa là niềm cảm hứng cho con người vừa là

phương tiện chuyển tải những cảm xúc mà con người gửi gắm. Từ thế kỷ

XII, nhà văn kiệt xuất Murasaki Shikibu đã cho rằng:

“Nghe kêu ra rả ve sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”[11,245]

Lòng người nhuốm lấy cảnh vật, ngược lại cảm xúc sâu kín bên

trong được gợi nên bởi đối tượng bên ngoài là thiên nhiên khiến cả người

và cảnh đồng cảm, tương giao. Vậy nên thiên nhiên trong tác phẩm

Truyện Genji được thấm đẫm cảm xúc bi ai, xao xuyến của lòng người

trước nỗi sầu nhân thế. Thiên nhiên không chỉ đẹp, hân hoan, vui sướng

mà còn gợi thương, gợi nhớ, gợi buồn, gợi sầu tạo nên lớp lớp những

mảnh tâm trạng, thể hiện sự phù du của nó để rồi tất cả bị cuốn theo dòng

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

73

thời gian của cuộc đời.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

III.1 Thiên nhiên bi cảm trước cuộc đời luân chuyển

Trong tác phẩm hầu như các cuộc chia li đều gắn liền với mối tình

nào đó của Genji, cho nên sự chia li đó dù chỉ là nhất thời hay vĩnh viễn

cũng đều nhuốm màu sắc tâm trạng. Cuộc chia li nào cũng mang lại nỗi

buồn khôn tả thấm đẫm lên cảnh vật thiên nhiên. Nhà văn mượn thiên

nhiên nói lên trạng thái của lòng người. Dường như khó có thể so sánh

cuộc chia li nào buồn hơn cuộc chia li nào. Bởi vì mỗi lần ra đi con người

có một tâm trạng riêng.

Trong văn học Việt Nam, cuộc tiễn biệt giữa Thuý Kiều và Thúc

Sinh được xem là tiêu biểu và đẹp:

“Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.”

Nguyễn Du

Còn trong Truyện Genji thì lần chia tay giữa Genji và Rokujo được

xem là lưu luyến và đẹp nhất. Trong tình cảm lứa đôi, chữ yêu cũng liên

quan đến chữ duyên và khi hai người muốn tình yêu đó trọn vẹn phải có chữ

phận. Không có chữ phận thì tình yêu vẫn còn nhưng con người phải ra đi.

Nếu cuộc đời là một con đường thì con người gặp nhau hay đi ngang qua

nhau là chuyện bình thường. Cho nên hợp rồi tan của một mối tình có lẽ

cũng đến tự nhiên như hơi thở khiến con người khó có thể định đoạt được.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

74

Trước khi chia tay, Genji và Rokujo đã có thời gian bên nhau trao

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

đổi bao nhiêu tâm sự buồn vui của nỗi lòng. Cho đến sáng, hai người chia

tay nhau đầy lưu luyến. Genji dịu dàng nắm lấy tay nàng và nói:

“Trời rạng sáng nói lời vĩnh biệt

Lời vĩnh biệt ướt đẫm sương mai

Buồn sao buồn thế trời thu?”

Một ngọn gió lạnh thổi qua, một chú dế thông có vẻ như nhận ra đã

đến lúc cất tiếng. Chú cất lên một điệu nhạc nỉ non mà một kẻ đa tình được

may mắn không thể bưng tai làm ngơ. Có lẽ nỗi lòng của họ đang lớp lớp

sóng dồi cho nên những vần thơ dường như xa lánh họ. Mãi sau, nàng đáp:

“Một lần vĩnh biệt vào thu

Buồn sao buồn thế, không đâu, cũng buồn

Dế kia, đừng mãi khóc than…”

…Kẻ ra đi người ở lại. Nàng ở lại lòng đã mềm yếu…và nàng chìm

vào nỗi mơ màng, buồn thảm. Các hình bóng ẩn hiện ánh trăng, mùi hương

thơm chàng để lại phảng phất ở phía sau khiến cho bọn nữ tì phải bàng

hoàng”[10,251]

Mùa thu thường biểu trưng cho sự tàn rơi, héo úa, tan tác, chia lìa

của thiên nhiên. Lá thu rụng đầy muôn nẻo, đỏ úa cả lối về trên xứ Phù

Tang minh chứng cho sự tàn phai của thời gian một cách nhanh chóng.

Trong khắc khoải mùa tàn, những đàn chim bay về phương Nam tránh giá

lạnh thì tiếng quạ kêu vang trong thanh không gợi nên bao nỗi niềm thương

cảm. Âm thanh mùa thu dễ khiến con người nhạy cảm hơn bao giờ hết. Lưu

Trọng Lư đã từng nghe tiếng thu dưới bàn chân của con nai vàng đạp trên

“lá vàng khô”. Còn Murasaki lắng nghe mùa thu qua tiếng dế khóc than.

Âm thanh ấy như khuấy động cái thanh tịnh, êm ả nhưng chứa chất sầu bi.

Tình yêu của Genji còn được vùi sâu trong tình ái và sự ra đi là một

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

75

sự mất mát quá lớn. Dẫu biết rằng không ai muốn từ bỏ người mình yêu

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nhưng đến bao giờ những trái tim yêu lại đập cùng nhịp? Trái tim và ý chí

con người cũng không biết được bởi cuộc đời vốn biến đổi vô thường.

Rokujo cùng con ra đi, Genji sống một ngày cô đơn, chìm trong sự đăm

chiêu, buồn bã, thậm chí không về thăm Murasaki. Nhưng còn buồn bã hơn

với nỗi lòng của người tình nhân đang rong ruổi trên dặm đường xa gió bụi.

Nàng ra đi trong ánh bình minh ảo não. Khung cảnh cuộc tiễn biệt đẹp như

trong bức tranh thuỷ mặc. Người nghệ sĩ thật khó khi diễn tả tâm trạng qua

vài đường nét nhưng nhà văn đã tài tình đưa tâm vào cảnh để cuộc chia li

nồng đượm lửa tình và không kém buồn đau.

Chia tay tình yêu quả là khó khăn nhưng trong cuộc đời Genji sự ra

đi khi trong người mang nhiều tội lỗi như tội đồ bị xa lánh mới chính là

nỗi thống khổ thực sự. Chàng ra đi trong tình trạng bị hình phạt đi đày.

Trước lúc lên đường chàng chia tay rất nhiều người và đã trải qua rất

nhiều tâm trạng. Mỗi lần như thế mọi cảnh vật dường như cũng buồn theo

bước chân chàng.

Cuối tháng ba, Genji đến thăm Bố vợ. Chàng vào phòng Aoi và nhìn

thấy mọi vật như xưa nhưng người không thấy đâu nên nghĩ đến cõi phù

sinh mà buồn bã. Genji và Tonno Chujo ngồi uống rượu tới khuya đến khi

trời sắp rạng. “Trong ánh bình minh le lói, trăng rất đẹp. Hoa anh đào đã

qua thời kì nở rộ. Mọi vật nhoà đi trong sương mù nhẹ, buồn hơn và gây

cảm khái hơn một đêm thu.”[10,289]. Khi chia tay ra về chàng mang lại nỗi

buồn lưu luyến cho mọi người: “sự thất vọng của chàng khiến cho loài hổ

báo cũng phải rõ nước mắt…đau buồn chồng chất buồn đau, nước mắt tuôn

rơi hầu như để đem lại những nỗi bất hạnh ”[10,290]. Chàng ra về trong khi

trăng đang lặn trên bầu trời. “Trăng lặn bao giờ cũng buồn, và chàng chợt

nghĩ đến hoàn cảnh của nó cũng khá giống với cảnh ngộ của mình. Ánh

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

76

trăng chiếu vào màu đỏ thắm của chiếc áo tình nhân và chính mặt trăng

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

cũng có vẻ đang khóc”[10,293].

Ánh trăng trong tác phẩm diễn tả phong phú tâm trạng con người

nhất. Ánh trăng như giãi bày nhiều cung bậc tình cảm, chứa chất bao nhiêu

tâm sự. Ánh trăng khi tròn khi khuyết, ánh trăng mùa thu hay mùa đông,

xuất hiện lúc vui hay lúc buồn đều rất đẹp và biểu cảm. Dường như ánh

trăng chiếu khắp góc khuất của tâm trạng. Nhìn ánh trăng có thể thấy được

suy nghĩ con người lúc này. Và chính ánh trăng cũng bị khúc xạ bởi tâm

trạng. Vậy nên ánh trăng đang khóc hộ cho Genji trước quyết định lên

đường. Ngày ra đi mà chưa hẹn ngày tái ngộ, biết đâu là nẻo đường đời ở

tương lai. Sóng nước trùng dương bao la còn thế giới mai sau có vẻ mù mịt

sương khói và bất ổn.

Suốt cuộc đời Genji luôn được sự răn dạy của vua cha. Hình bóng

vua cha như đi suốt cuộc đời của chàng. Bởi vậy trước khi đi xa, Genji đến

mộ chia tay cha. Ở đây, “cỏ mọc rậm rạp trên lối mòn dẫn tới mộ. Sương

như tụ lại nặng nề hơn dưới bước chân đi. Trăng đã lấp sau một đám mây

và vườn cây nom tối sầm và khủng khiếp. Tưởng chừng như khi trở lại,

chàng có thể lạc đường.”[10,296]. Cảnh vật tĩnh mịch đến hoang vu. Sương

dường như “nặng nề” hơn bao giờ hết. Hạt sương vốn nhẹ bám đầu ngọn cỏ

vậy mà giờ đây nó đang chở nặng tâm trạng khiến chùng xuống. Một cảm

giác cô liêu đến ghê rợn khiến con người không khỏi cảm giác cô đơn.

Nhất là khi lìa xa chỗ này để đến một nơi chưa bao giờ chàng bước chân

tới. Có thể là còn kinh khủng hơn những gì ở đây.

Genji không quên chia tay các tình nhân của mình, nhất là đối với

Murasaki. Chàng dành cho nàng một ngày thật êm ả. Nhưng thời khắc chia

tay cũng sẽ đến. Họ hẹn thế với nhau rồi dùng dằng, đành dứt áo ra đi.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

77

Thiên nhiên hiện ra trong giây phút đó thật buồn: “Hôm đó là một ngày

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

xuân dài, gió xuôi…chàng thấy tất cả sự vật buồn bã, xa lạ…Trạm Oe điêu

tàn đổ nát, chỉ còn là một vườn cây thông đánh dầu nơi đó đã được xây

dựng hồi xưa”. Cảnh vật hoang sơ và xa lạ, dường như nín lặng trong nỗi

buồn của con người khiến ngày như dài thêm và gió cũng không muốn

khuấy động không gian. Thiên nhiên, cảnh vật và lòng người chảy xuôi

theo thời gian để tất cả trôi qua một cách hờ hững. Genji lúc này như sống

với quá khứ, trong ảo ảnh của hiện tại. Suốt hành trình, khuôn mặt nàng

Murasaki in đậm tâm trí chàng, lòng thì đau như dao cắt.

Khi chàng từ biệt mọi người thì ánh trăng dịu dàng, buồn bã. Trăng

lặn bao giờ cũng buồn khiến chàng nghĩ đến cảnh ngộ của nó cũng như của

mình. Ánh trăng chiếu vào màu đỏ thắm của chiếc áo người tình nhân và

chính mặt trăng có vẻ cũng đang khóc. Khắp triều đình chìm đắm trong

cảnh sầu não khôn nguôi.

Đến quá nửa chiều thì chàng tới nơi. Bao nhiêu niềm thương nhớ

trào dâng cùng sóng nước biển đông vỗ vào mạn thuyền. Trong tâm trạng

con người như thế thì ngay cả ở Suma gió mùa thu cũng mang đến buồn bã.

Ở nơi lưu đày mùa thu im lặng và hiu quạnh. “Sóng vỗ bờ-như lời than của

nỗi lòng ao ước bất lực. Gió vi vu-như kẻ đưa thư cẩu những ai đang buồn

đau”[10,305]. Những ngọn gió ở đảo khéo nói hộ lòng người. Nó chuyển

tải hết cả những nỗi đau niềm nhớ. Niềm bi cảm dường như bao phủ khiến

con người cũng không còn thiết tha gì nữa ở cuộc đời chỉ muốn trốn chạy

khỏi chính mình. Và khi nằm mơ nhìn thấy cha già hiện về, Genji lại thấy

“những đám mây vạch những đường buồn bã ngang bầu trời”[10,32]. Đám

mây như cắt ngang miền tâm trạng. Những đường “buồn bã” xoẹt qua ôm

lấy không gian mênh mông sầu thảm.

Hình ảnh nỗi buồn giăng mắc qua không gian như thế thật độc đáo

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

78

và nói được rất nhiều về tâm trạng kẻ lưu đày đang một mình ở chốn quạnh

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

hiu này. Nằm trên đảo hoang vu, mênh mông, con người như ôm trọn cả

không gian đất trời trong tầm mắt khiến nỗi buồn dễ dàng lan toả khắp

không gian. Nỗi buồn không cần bao trùm lấy bầu trời mà chỉ cần những

đường vạch cũng đủ để không gian ấy thấm đẫm nỗi sầu. Và chính “Chàng

mang trong mình nỗi buồn bi thiết của hiện hữu. Chàng có khả năng đồng

cảm với mọi người và thiên nhiên. Đó là tính chất lỗi lạc của

chàng”[7,124].

Chia tay để ra đi thật là khó khăn nhưng khi trở về chia tay với người

ở lại càng khó hơn gấp bội. Mối tình chóng vánh ở chốn lưu đày làm cho

Genji càng ảo não:

“Sóng lùi khỏi bãi buồn sao

Kẻ đi người ở buồn nào buồn hơn”

Nàng đáp lại lời chàng:

“Chàng đi lều cỏ tan hoang

Ước gì em được đi cùng sóng kia”

Họ chứa chan nước mắt, những giọt lệ tiễn biệt vô cùng lưu luyến.

Có lẽ nói đến chia tay là nói đến nỗi buồn và nước mắt biệt li. Cho nên

không có cuộc chia ly nào dễ dàng và dứt khoát. Khi chia tay quê nhà

Akashi và mẹ lên chốn kinh thành còn Bố cô ở lại, “Mùa thu buồn man

mác. Gió mùa thu lạnh lẽo và côn trùng mùa thu ồn ã, nỉ non khi ngày đã

rạng sáng và cũng là ngày li biệt.”. Nói đến mùa thu là nói đến nỗi buồn

nhưng càng buồn hơn khi có ngày li biệt. Cho nên mùa thu lạnh lẽo vô

cùng, tê tái thịt da. Sương giăng cũng gieo vào lòng người nỗi buồn thảm.

Sương sớm như xoá nhoà tất cả và người ở lại chỉ còn ánh mắt giõi theo

nhưng mờ nhân ảnh, chỉ nhìn thấy sương mù xa xa. Lòng người cũng ngổn

ngang trăm mối. Sương như tấm màn che lấp vạn vật, ngăn cách không

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

79

gian khiến giờ khắc li biệt thêm muôn vàn nhớ thương, sầu tủi.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Cho dù sự ra đi không hẹn ngày về nhưng cả người đi và kẻ ở vẫn hi

vọng một ngày tương lai sẽ được sum vầy. Còn sự ra đi theo sinh mệnh của

cuộc đời thì thật khó khăn để chấp nhận sự thực đớn đau đó. Thiên nhiên

trước thời khắc chia lìa cuộc đời con người cũng đau khổ không kém.

Ngay tại nhà bà ngoại, trước tâm trạng đau khổ của sự chia lìa,

Kiritsubo mất, nhà văn đã miêu tả thiên nhiên tồn tại trong thế cô tịch, cảnh

vật chìm trong bóng tối. Cây cối rậm rạp không được ai chăm sóc. Gió

cũng gào thét hãi hùng. Nhìn thiên nhiên ai cũng thấy có một sự bất ổn tồn

tại ở nơi đây. Quạnh hiu và cô liêu đến mức chỉ có ánh trăng là biết xoay

xở để lườn qua lá cành chằng chịt. Trong khi đó vua cha của Genji đang

đợi tin của nàng hầu Myobu. Họ gặp nhau khi đêm đã muộn, trăng đã

xuống phía trên đồi, không khí trong sáng như pha lê, gió mát lạnh, và

tiếng nỉ non của côn trùng trong cỏ mùa thu tưởng chừng cũng mang lại

nước mắt. Cảnh tượng khiến Myobu không thể cầm lòng được:

“Đêm thu ngắn, khôn cầm nước mắt.

Cảnh vắng thanh dế mệt mỏi nỉ non.”

Bà ngoại Genji:

“Buồn bã thay tiếng côn trùng trong lau sậy

Buồn bã hơn, sương rơi xuống tự trời mây.”

Thiên nhiên mùa thu độc nhất âm thanh côn trùng rên rỉ như cùng

khóc than, còn sương rơi như dòng nước mắt tuôn chảy từ bầu trời đêm

thanh vắng. Mọi vật như tham gia góp thêm vào sự chua xót, nỗi buồn

thương da diết. Tất cả nỗi buồn của sự mất mát đó thấm đẫm vào cảnh vật:

“Lệ mờ trăng, mờ cả hoàng cung.

Giữa lau sậy, căn nhà kia cũng mờ đi trong lệ”

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

80

Thiên nhiên như bị phủ vây bởi niềm đau của nhà vua cho nên “lệ

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

mờ trăng” và “nhà kia cũng mờ đi trong lệ”. Sự đau khổ cứ tuôn chảy mãi

không thôi như những giọt lệ tràn. Không thể miêu tả hết được cảm xúc của

con người lúc này, nhà văn mượn thiên nhiên để nói hộ lòng người đang

giằng xé bởi nỗi đau. Thiên nhiên bao la và mênh mông nhưng lại bị ôm

trọn bởi tình cảm của con người. Sự xót thương của nhà vua trước cái chết

của quý phi khiến tất cả cảnh vật đều rơi lệ. Tình yêu của vua dành cho

nàng thắm thiết và ân tình.

Gái thuyền quyên khó ở lâu bên cạnh trai anh hùng, nhất là những

chàng trai hào hoa, phong nhã, có vị trí xã hội cao như Genji. Mỗi người

phụ nữ qua đi trong cuộc đời chàng khó mà giữ nổi linh hồn cho đến khi

đầu bạc răng long. Hầu hết họ ra đi khi còn quá trẻ. Tuy nhiên hầu hết vẫn

có một thời gian bên chàng đủ để đắm say và đau khổ. Có một nhân vật ra

đi quá nhanh khiến người trong cuộc cũng ngỡ ngàng, chua xót. Nàng hoa

phấn là một nhân vật như thế.

Sự ra đi của nàng đầy bí ẩn, trong một không khí rợn ngợp, âm thanh

như những tiếng ma hời. Lúc nàng chết đã quá nữa đêm thì cảnh vật cũng

lên cơn cuồng nộ. Gió dường như thổi mạnh hơn, gào rú sầu thảm trên các

rặng thông. Còn âm thanh của đêm nghe kinh sợ bởi tiếng kêu lạ lùng,

trống rỗng của một con chim đêm vọng lại. Cảnh vật ấy cùng với cái xác

không hồn nằm kia không một lời giải thích đã tạo nên cảnh tượng hãi

hùng, khiến con người cảm thấy hoảng sợ. Nằm bên cạnh nàng mà chàng

vẫn không hiểu được, không chấp nhận được cái chết của nàng. Lòng

chàng lớp lớp buồn đau lẫn nỗi thất vọng cay đắng, sự hoang mang đến tột

độ. “Sao nàng không để ta nghe tiếng nàng một lần nữa”. Ta trao cho nàng

tình yêu của ta, nhưng đến nông nỗi nào mà chưa gì đã nửa đường đứt

gánh, nàng bỏ ta ở lại với nỗi thảm sầu cơ cực này?” chàng oà khóc nức nở

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

81

không thôi”[10,108]. Và “Lúc này ngày đầu mùa đông. Mưa rơi lạnh lẽo

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

như để đánh dấu ngày li biệt, bầu trời âm u buồn bã.” [10,117]. Sự ra đi đột

ngột của nàng Hoa Phấn khiến cho bầu trời cũng sầu muôn nẻo. Genji bị

một cú sốc về tinh thần nghiêm trọng khiến chàng phải lên núi chữa bệnh.

Dường như thiên nhiên không thể nào khác được khi chứng kiến

cảnh tượng của con người buồn đau. Cảm thức aware trải rộng khắp, chi

phối cả thiên nhiên trong tác phẩm. Bởi aware không phải là hiện tượng

khách quan mà là yếu tố chủ quan của lòng người. Trước nỗi đau đời, con

người nhìn thấy thế giới qua lăng kính thấm đẫm chất aware. Vậy nên, hầu

hết thiên nhiên trong tác phẩm Truyện Genji không nằm ngoài quan niệm

thẩm mĩ cơ bản này.

Sự mất mát quả là quá lớn đối với một tâm hồn đa cảm như chàng

trai hào quang Genji. Mẫn cảm với đời, thương hoa tiếc ngọc là đặc điểm

của Genji khi đến với những người phụ nữ của mình. Vậy nên sự ra đi của

họ khiến Genji vô cùng đau khổ. Aoi mất khi đang còn rất trẻ để lại hai đứa

con xinh đẹp. Genji ngơ ngẩn khiến cho “mảnh trăng hạ tuần tháng tám

treo trên bầu trời thường xui nên những ẩn nghĩ rầu rĩ-Buổi bình minh của

một ngày thu muộn, khi mà chính tiếng gió có vẻ như luồn vào thấu xương,

chàng thức dậy sau một đêm trằn trọc trong nỗi cô đơn, chàng ngồi lên nhìn

ra khu vườn mịt mù suơng phủ”[10,230]. Hình ảnh sương mờ lại được

được miêu tả trong tâm thế của con người đang chứa chất nỗi sầu bi. Sương

mang đến một cảm giác mịt mùng khó tả. Lòng người lúc này khó có thể

được giãi bày. Trong cái lạnh tê tái của một ngày thu muộn, chớm đông, sự

cô quạnh, vắng vẻ tô đậm thêm nỗi buồn của sự chia li trong thời khắc mùa

tàn. Thiên nhiên cũng câm lặng, chết cóng dưới sương giá. Còn gió thổi

mạnh cùng với mưa thu tầm tã muốn ganh đua với nước mắt của con

người. Sự ra đi của Aoi đã đau buồn, năm sau vua cha mất càng làm cho

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

82

Genji suy sụp. Con người như kiếp phù sinh, ý thức được điều đó khiến

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

chàng muốn xa lánh cuộc đời. Nhà vua băng hà cũng khiến cả hoàng cung

chìm trong cảnh bi thương. Gió lại nổi cơn cuồng phong, mưa tuyết như

hiểu lòng người lại rơi bất chợt. Tất cả bị cuốn đi nhanh chóng trong cảnh

trời người tang thương. Những gì còn lại ở đời thật là bấp bênh, tạm bợ.

Dường như thiên nhiên chứng kiến cảnh ra đi của con người cũng rơi

rụng, tàn úa như chính số phận chủ nhân của chúng. Fujitsubo mất làm cho

“những màu sắc của mùa xuân muộn nhường chỗ cho màu xám và

đen…Cây cối trên đỉnh núi đứng sừng sững nhuốm ánh nắng ban chiều.

Phía dưới, những dải mây kéo lê thê, màu xám đục”. Có thể xem cảnh vật

không còn ánh sáng và sức sống của mùa xuân. Không gian bị nhuốm một

màu xám xịt của mây và nắng chiều. Thời gian như ngưng đọng lại, kéo dài

lê thê của phút giây mất mát, tang tóc. Cảnh vật bị nhuốm nỗi u sầu đến

mức biến đổi cả thần thái của một mùa xuân muộn. Nhưng vẻ đẹp của nó

vẫn không mất đi, một bức tranh đẹp mà buồn sâu thẳm:

“Giải mây vắt ngang nắng chiều

Phải chăng đồi núi, tiêu điều chịu tang?”

Người buồn thì ngắm nhìn cảnh vật nơi đâu cũng buồn. Cho nên khi

Murasaki mất “ngay cả khi mùa xuân đã sang, Genji vẫn có cảm giác trời

đất tối tăm và tâm hồn nặng trĩu.”[10,237]. Vậy nên cố nhân không thể

phản ánh thiên nhiên nằm ngoài quy luật tâm lí đó. Vì vậy thiên nhiên cũng

không nằm ngoài cảm thức thẩm mĩ aware mà nhà văn đang mang trong

mình khi phản ánh nó. Nhất là khi con mắt nhìn đời thấu tỏ ấy lại có một

nỗi buồn vô hạn trước chính cuộc đời và sự cuộc của mình. Hơn thế nữ sĩ

còn tắm cho nhân vật mình một cảm quan Phật giáo sâu rộng về quan niêm

nhân sinh. Qua cảm thức aware, tác phẩm đã mang đến một cách phản ánh

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

83

đối với thiên nhiên trong mối quan hệ tâm và cảnh.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

III.2 Thiên nhiên bi cảm với nỗi niềm hoài cổ

Trong tác phẩm Truyện Genji, Murasaki Shikibu đã mang đến cho

độc giả nhiều bất ngờ. Nhà văn đã để lại những thành tựu đáng kể cho tiểu

thuyết hiện đại. Về sau, khi tiếp nối cách khai thác truyện trên cơ sở dòng ý

thức, Kawabata đã có những thành công nhất định. Một trong những yếu

tố làm nên thành công đó cũng nhờ vào việc khai thác nội tâm nhân vật

trong dòng chảy của cảm xúc, thường là sự hoài niệm về quá vãng xa xôi

trong mối liên hệ với hiện tại. Dường như hai nhà văn gặp nhau ở đặc điểm

tạo ra vật khơi mào cho nỗi niềm hoài cổ chính là ở thiên nhiên. Nó như là

biểu trưng cho số phận con người, cho nên hễ bắt gặp hình ảnh thiên nhiên

ấy thì mọi cảm xúc nhanh chóng bộc lộ. Và khi con người đang trong thời

gian trở về với kí ức thì mọi cảnh vật như được tắm táp bởi tâm trạng.

Trong cảnh mùa đông khắc nghiệt, “tuyết rơi chồng chất, không gian

u ám, gió gào giận dữ. Khi đèn tắt, không có ai để thắp lại. Chàng nghĩ đến

cái đêm cuối cùng ở với nàng Hoa Phấn.” Cái đêm khiến chàng bao đắng

cay, hoang mang về cái chết của nàng. Một cái chết đầy bí ẩn như chính

thân phận nàng. Chàng nhớ lại ngôi nhà điêu tàn của nàng nhưng không cô

đơn như hiện tại. Hiện tại thì không ấm cúng như khi ở bên nàng ngày xưa.

Cảm xúc tình cảm lại về khi hiện tại đang diễn ra khiến tâm lí nhân vật

thêm xáo trôn và có sự so sánh. Dường như thiên nhiên gợi lại bao nỗi

niềm. Chỉ cần đồng cảnh sắc khiến con người vốn nhạy cảm suy tư ngay về

quá khứ buồn đau và tội lỗi.

Trong toàn bộ năm mươi bốn chương của tác phẩm, chương Genji ở

Suma gợi nên nhiều trắc ẩn nhất. Lúc này Genji đang ở giai đoạn giao thời

giữa con người trẻ tuổi bồng bột và con người chính chắn, chững chạc. Sự

giao thoa trong thời điểm này khiến chàng luôn ý thức về mình trong mối

quan hệ xung quanh về cách sống, thái độ sống. Chỉ có ở Suma Genji mới

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

84

hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình đối với triều đình. Chàng đang

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

dần dần hoàn thiện mình sau cú vấp váp này để chuẩn bị đạt đến giai đoạn

vinh quang nhất của cuộc đời. Bên cạnh đó chàng cũng không quên hâm

nóng trái tim. Dưới ánh trăng hạ tuần với mùi thơm hoa cam thoang thoảng

bay, chàng nghĩ đến Murasaki và người tình vườn cam với biết bao niềm

mong nhớ. Hình ảnh hoa cam và mùi thơm của nó là đặc trưng cho số phận

người con gái trong khu vườn ngày xưa chàng xăm xăm băng lối đi tìm.

Mỗi hình ảnh thiên nhiên gợi nên bao nỗi niềm tâm sự.

Vào mùa thu, ánh trăng thu gợi nhớ những đêm hoà nhạc ở triều

đình. Nhìn ánh trăng, chàng nghĩ về những người mình thương nhớ chắc

cũng đang ngắm trăng và nhớ đến chàng. Sự mong mỏi ngóng trông hình

bóng chốn kinh thành khiến chàng luôn đau đáu trong lòng một nỗi nhớ.

Cũng là mùa thu nhưng sự ra đi của Fujitsubo làm cho Genji không thể

quên. Một không gian mùa thu gợi nên bao nhiêu điều tâm sự. “Mưa mùa

thu rơi lâm thâm. Các luống hoa gần hiên ngả màu sắc lộn xộn được mưa

làm dịu đi và lần lượt gợi về trong tâm trí Genji những hoài niệm của quá

khứ khiến mắt chàng mờ lệ…Chàng nói với nàng chỉ qua một bức mành

”.[10,442]. Hoa của ngày xưa và hoa của bây giờ có khác gì đâu nhưng đời

người đã sang trang. Cảnh đấy còn người đâu nỗi sầu khôn tả. “Thế đấy

hoa mùa thu lại nở nhưng còn dở dang. Một năm khá đáng sợ, nhưng thấy

chúng trở lại cũng khuây khoả được phần nào, không hoa nào quên thời

điểm thích đáng của nó”[10,442]. Trông hoa lại ngẫm đến người mà lòng

Genji buồn khôn tả. Nàng như bong hoa mùa thu nở muộn màng chóng tàn

phai bởi cơn gió thu. sự dở dang đó có phải do cuộc đời trớ trêu mang lại

hay là kiếp phù du của loài hoa? Có lẽ cả hai. vậy nên con người làm sao

không buồn khi nhìn thấy cảnh hoa dang dở. Nỗi sầu bi lên tận trời xanh.

Trong mùa xuân, vạn vật sinh sôi và sum họp. Không khí xuân thật

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

85

rộn rã vui tươi. Nhưng xuân của kỉ niệm lại về khiến lòng người thêm nôn

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

nao. Bởi lẽ bây giờ họ đang hội ngộ trong sắc xuân, nhưng không còn

hương nồng của một thời nông nổi. Oborozukiyo và Genji gặp nhau để hàn

huyên sau bao ngày tháng xa cách vì dính vào chuyện tình ái. Họ ngồi bên

nhau cho đến khi trời sáng dần. “Tiếng chim hót vang lên trong ánh bình

minh, trong bầu trời trong vắt. Hoa anh đào vẫn nở rộ. Nhìn những lùm cây

cành lá xanh tươi mờ mờ trong sương sớm, ông chợt nhớ rằng mối tình xa

xưa của hai người trong “bữa tiệc bên vườn hoa đậu tía” cũng nảy nở vào

mùa này.”[11,51]. Chính mối tình này đã mang lại những ngày tháng khổ

sở ở Suma. Tình cảm ấy bây giờ vẫn còn luyến lưu nhưng mỗi người an bài

một số phận khác nhau có thể nào trở lại như ngày xưa cũ. Khi năm mới

bắt đầu, cây anh đào lác đác nở hoa, không khí mùa xuân ấm dịu xua tan

những ngày đông lạnh giá thì chàng lại nhớ về người tình bé nhỏ của mình

Murasaki - bông hoa anh đào rực rỡ.

Nếu mùa xuân của đất trời rộn rã gợi về bao kỉ niệm buồn man mác

thì mùa xuân của lòng người thật úa tàn, tan tác:

“Mùa này hoa ở khắp nơi

Riêng anh đào ở nhà tôi úa tàn” [11,160]

Đó là tâm trạng của Yugiri khi chứng kiến cảnh Kashiwagi mất để

lại đứa con riêng với công chúa Ba. Dù cho ngoài kia hoa anh đào nở rộ

nhưng hoa trong vườn nhà bạn chàng hoa vẫn rơi rụng tả tơi:

“Mùa xuân hoa nở trong vườn

Khi hoa rụng xuống bâng khuâng nỗi lòng”[11,160]

Nỗi buồn của sự mất mát chi phối cả không gian xuân và sắc xuân. Không

còn sự dịu ngọt của chúa xuân mang lại, mà chỉ còn nỗi buồn gặm nhấm.

Dù cho mùa xuân cây cối ra hoa, sương bao phủ lấy vườn cây, chim

hót líu lo trên cây mận đỏ của Murasaki ngày trước, ngắm cây mận Genji

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

86

ngâm thơ:

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

“Nhà đây hoa đấy người đâu

Hoạ mi chim hót âu sầu lòng ta”[11,240]

Genji thấy cảnh vật trong vườn vẫn không thay đổi cho dù mùa thì

đã sang. Ông không quên nỗi sầu thảm trong lòng, luôn tự dằn vặt và muốn

từ bỏ thế giới này, đến một nơi thật xa không còn tiếng chim ca. Với nỗi

buồn không sao xua tan được, Genji nói: “Không có phụ nữ thì hoa cũng

không còn đẹp với ta nữa”[11,241].

Không chỉ ở Genji mà những nhân vật khác cũng có sự khơi gợi từ

hình ảnh thiên nhiên của đất trời để đến với lòng người. Khi mùa xuân lại

trở về với ngôi làng bên núi. Ukifune nhìn thấy cây hồng mận nở hoa bên

mái hiên, màu sắc và hương thơm lại giống như hôm nào. Một thời chinh

chiến với yêu đương đã qua được gợi về. Cô lại nhớ đến Niou ngày xưa.

Viết một bài thơ và cài vào đó một cành non cây hồng mận, Ukifune như

thoả nỗi lòng, xoa dịu đi nỗi đau trong tâm hồn cô những ngày tháng qua.

Thiên nhiên gợi về biết bao cảm xúc thầm kín. Quyết định quên đi cuộc đời

này nhưng làm sao quên được khi mọi vật như buổi ban đầu…Cảnh vật

như mở cánh cửa lòng rồi khép lại trong nỗi nhớ thương mênh mông.

Mùa xuân dù cho thiên nhiên tụ họp vui vầy nhưng cũng không thể

nào xoá đi được dấu chân của thời gian và kỉ niệm, vậy nên thiên nhiên

trong niềm hoài cổ càng đối lập với thiên nhiên thực tại đang diễn ra. Thiên

nhiên bị khúc xạ qua tâm trạng khiến nó trở nên ngắn ngủi, lụi tàn. Đành

rằng mùa thu là mùa của tàn tạ nhưng mùa xuân cũng lụi tàn không kém.

Cuộc đời vốn phù du dâu bể.

Không chỉ có mùa thu của sự tàn phai hay mùa đông của sự mất mát

mà mùa hạ cũng gợi sầu. Âm thanh tiếng than của mùa hạ đến trong lòng

người chứa chất sầu bi, ảo mộng.

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

87

“Nghe kêu ra rả ve sầu

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”[11,245]

Âm thanh của ve rôm rả giữa ngày hè cũng không khuấy động được

không gian. Mà tiếng ve kêu gợi nên bao niềm sầu thảm. Genji ngắm sen

mùa hạ nở mà thẩn thờ đứng đợi hoàng hôn buông xuống. Cô đơn trống

vắng rợn ngợp đất trời. Nỗi buồn mất đi người vợ yêu quý đã làm Genji

suy sụp. Sự ra đi của Murasaki như là vết thương cuối cùng trên cuộc đời

này làm ông gục ngã. Mấy năm sau thì ông mất. Quả là thiên nhiên và lòng

người tương giao tương hợp đồng cảm với nhau trong luống đoạn trường.

Cái tâm bao trùm lấy cảnh vật khiến cho cảnh sắc thiên nhiên cũng mang

cái hồn phách của con người mà khôn xiết sầu bi, thương nhớ. Giờ đây, khi

những người ông yêu thương dần dần ra đi, Genji một mình quạnh vắng:

“Trông mây lại nhớ đến mình

Vườn hoang vắng lạnh ta đành ngắm sương”[11,246]

Thiên nhiên gợi mở lòng người trong nỗi niềm trắc ẩn. Cuộc đời chỉ

là những tháng ngày của nỗi nhớ triền miên về miền quá khứ. Mây bây giờ

không phải là “khói hoả thiêu” nữa mà chỉ gợi nhắc về những kỉ niệm xưa

cũ. Thiên nhiên là cái duyên cớ trực tiếp làm nên những kỉ niệm vui buồn:

“Hoa ngày xưa hai ta cùng ngắm

Hoa ngày nay ta chỉ một mình”[11,246]

Cái ngày xưa ấy gợi về còn bởi nguyên nhân sâu xa của lòng người

thổn thức với tình đã xa. Hình ảnh bông hoa chúm chím nở gợi nên cho

Genji bao nhiêu điều. Đến lúc nỗi sầu khôn tả xiết, ông gửi hồn mình vào

ngỗng trời tung cánh bay trong mây kia. Thời gian - cuộc đời là chuỗi ngày

lo âu và buồn tẻ. Và cũng có khi ông lại ước gì thời gian quay trở lại để

được hưởng giây phút yêu đương như các cô gái trẻ đang nô đùa:

“Hôm nay ai nấy đều vui

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

88

Riêng ta đơn độc không nguôi cơn sầu”[11,247]

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Rồi sau đó ông lại thất vọng với chính cuộc đời mình, sầu não, bi ai:

“Người buồn cảnh vật không vui

Hôm nay có phải cuối đời ta chăng”[11,249]

Mượn thiên nhiên để gửi gắm niềm tâm sự, vậy nên thiên nhiên luôn

là tấm gương phản chiếu tâm trạng của con người. Trong tâm trạng hoài cổ,

thiên nhiên cũng góp phần không nhỏ vào việc khơi gợi tình cảm. Mỗi

bước đi của thiên nhiên ghi lại bao dấu ấn của biến cố cuộc đời nên khi bắt

gặp lại hình ảnh thiên nhiên ở hiện tại con người lại càng thêm suy tư với

thời cuộc, tìm kiếm thời gian đã mất trong niềm hoài vọng ấy. Thiên nhiên

cũng thấm đẫm nỗi bi ai, sầu muộn trước vòng quay của thời gian. Và thiên

nhiên cũng có số phận như chính con người. Sự phù du của cuộc đời là

không tránh khỏi.

III.3 Niềm bi cảm trước sự phù du của vẻ đẹp thiên nhiên Cũng như con người, thiên nhiên sinh diệt theo quy luật của tạo hoá.

Thiên nhiên tươi đẹp xuất hiện một lần trên cõi đời rồi cũng tàn phai. Thời

gian sinh tồn ngắn ngủi và ra đi thì nhanh chóng. Vậy nên vẻ đẹp của thiên

nhiên có khi chỉ là thoáng qua.

“Hoa kia đời ngắn ngủi thay

Bình minh đã nở, héo ngay trưa hè”

Và nó không còn như ta thường thấy nữa”[10,278]

Đời hoa cũng như đời người bỗng chốc hoá thành thiên cổ, bởi vậy

con người không khỏi bàng hoàng thốt lên: “ngắn ngủi thay”. Dường như

con người bừng ngộ trước cảnh héo tàn. Nó biến đổi theo quy luật vô

thường của tạo hoá khiến người thưởng thức nó cũng “mang mang thiên cổ

sầu”, nuối tiếc cho kiếp hoa sớm tàn phai khi vừa khoe sắc. Và cuộc đời

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

89

cũng chỉ là hư ảo:

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

“Hoa đào ơi

Nhan sắc phai rồi

Hư ảo mà thôi

Tôi nhìn thăm thẳm

Mưa trên đời tôi”[5,300]

Komachi

Trong quan niệm về cái đẹp của người Nhật thì cái đẹp không chỉ bao

gồm cái buồn mà còn bởi sự mỏng manh, nhỏ bé. Có thể cái đẹp là một

bông hoa điểm xuyết đủ để nói lên hương sắc của một rừng hoa chứ không

hẳn là cả một vườn hoa đua nhau khoe sắc. Đẹp trong cái giản dị và tinh tế,

sang trọng và quý phái, nhạt nhoà và mộng mơ… Tất cả đều nói lên vẻ đẹp

của thiên nhiên trong bàn tay chăm tỉa của con người. Bởi vậy thiên nhiên

cũng là tâm ý, tâm tình sâu rộng.

Một đoá hồng xuất hiện trong ánh mắt của kẻ si tình bị từ chối cũng

chỉ là một bông hoa cô độc mà thôi. Dù nó xinh tươi hay héo tàn cũng thấy

vẻ đẹp toát ra từ loài hoa chúa của muôn loài này: “Đây đó dưới mái hiên,

một bông hồng cô độc đang độ nở hoa, bình dị mà gây ấn tượng hơn cả một

vườn hoa nở rộ vào mùa xuân hay mùa thu”[10,278]. Vậy nên nàng chỉ là

một nhánh anh đào trong thời điểm sang mùa. Genji gửi cho Fujitsubo một

lá thư kèm theo một cành anh đào mà hoa đã rơi rụng.

“Tôi, kẻ thôn dã bơ vơ

Bao giờ thấy lại hoa xưa đô thành?”

Fujitsubo phúc đáp trong tâm trạng đau khổ:

“Hoa rụng nhanh sao! Mặc xuân qua

Chàng còn trở lại đô thành hoa”[10,297]

Kiếp hoa cũng như kiếp người trong thời gian của cuộc đời trôi chảy

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

90

không giữ lại được cho mình kiếp sống xưa. Hoa sớm rụng rơi “nhanh sao”

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

dù có muốn níu kéo cũng có ích gì. Bởi kiếp hoa là kiếp phù du trôi nổi.

Đến khi nào thì quay lại thời gian của quá khứ. Một câu hỏi không có lời

giải đáp. Kỉ niệm tan vào hư không mặc cho nỗi đau của con người xâm

chiếm. Kiếp hoa đã hết nhưng kiếp người vẫn còn đó đau đáu nỗi buồn

khôn tả.

Hình ảnh của thiên nhiên được nhà văn dùng làm biểu tượng cho

nhân vật của mình để nói đến sự lay lắt, mong manh của sự hiện diện của

con người trên cõi đời không mấy tươi đẹp. Cuộc đời mới “bấp bênh” làm

sao. Con người cũng chỉ là những nhành đậu tía:

“Tuân theo đậu tía lắt lay

Dập dờn vẫy gọi từ cây đợi chờ”

Chia tay nàng hoa cam, Genji hoạ nên mấy câu thơ như thế để tiễn

biệt. Nàng đáp lại:

“Năm năm tháng tháng đợi chờ

Cây thông chờ đợi hững hờ làm sao

Rước mời chàng bước chân vào

Chính cây đậu tía, phải nào cây thông.”

Cây đậu tía đung đưa trước gió chùm hoa xinh như đang thách thức

lại với thời gian luân chuyển nhưng nào đâu phải là cây thông. Nó chỉ là

một loài hoa sống “lay lắt” có thể hôm nay còn ngày mai sẽ ra đi cũng như

những bông hoa phấn thoắt hiển hiện rồi vĩnh biệt cuộc đời làm cho con

người không thể nào quên được: “những bông hoa phấn đầm đìa sương

móc mà chàng đã được trông thấy một cách quá ngắn ngủi. Từ đó chàng đã

biết nhiều loại phụ nữ khác nhau, nhưng chàng chỉ có một nỗi luyến tiếc

mãnh liệt là người tình hoa phấn không còn ở lại trên đời”[10,500].

Người Nhật càng trân trọng cái đẹp thiên nhiên bao nhiêu thì tâm

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

91

hồn họ càng nhạy cảm, tinh tế bấy nhiêu. Chưa thấy một dân tộc nào có

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

cảm thức thẩm mĩ hướng về cái đẹp một cách tuyệt đối như họ. Cái đẹp có

thể cảm hoá được tất cả, là tiêu chuẩn để đánh giá đạo đức con người…Khi

cái đẹp không còn nữa, sự tiếc nuối bắt đầu xuất hiện cùng với nỗi buồn.

Thiên nhiên của sự tàn phai làm cho Akikonomu “nhìn hoa rụng bao giờ

cũng buồn, nhưng khi nhìn những giọt sương rơi xuống tan tác như những

viên ngọc long lanh, nàng thấy gần như đau khổ thật sự”[10,590]. Ý thức

về sự phù du của thiên nhiên, con người không thể bình tâm trước sự cuộc

đó cũng là do họ có một tâm hồn mẫn cảm, dễ vỡ. Hơn thế, con người cho

rằng thiên nhiên mang trong nó một linh hồn sống và vì vậy nó cũng như

kiếp người ngắn ngủi và vô thường, nhất là khi nó bị khoác lên tấm áo của

tâm trạng.

Trong mối quan hệ với tự nhiên, người Nhật luôn có tâm thế hoà

hợp, làm chủ: “việc cảm thụ phẩm chất thẩm mỹ của thiên nhiên bao giờ

cũng được quy định bởi mức độ nhận thức của con người về thiên nhiên,

bởi mức độ làm chủ thiên nhiên, bởi trình độ và tính chất của sự đồng hoá

thiên nhiên”[28,219]. Nỗi niềm sâu kín của lòng người hoà vào thiên nhiên

khiến cho cảnh vật thêm phần sống động. Thiên nhiên cũng chịu ảnh hưởng

của thế giới quan của con người trong sự dung hợp của các mối quan hệ về

tín ngưỡng, tôn giáo làm cho “Tính cách của người Nhật thấm đậm tính

nhân văn bác ái sâu sắc. Người ta cho rằng khi hướng tới tâm linh tức là

con người hướng tới cái thánh thiện, cái đẹp bởi cái thiêng là chất keo kết

dính và chuyển tải những giá trị đạo đức và thẩm mỹ của con người, cố kết

cả một cộng đồng trong sự giao cảm thuần khiết và thiêng liêng. Từ sự cởi

mở này đối với tôn giáo phần nào chúng ta lí giải được đức khoan dung,

lòng cởi mở và sự hoà đồng với con người và thiên nhiên của người

Nhật”[53,152]. Và chính tâm thế tương giao đó cho nên thiên nhiên trong

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

92

cảm nhận của con người luôn tươi đẹp dù có đậm chất sầu bi nhân thế.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Trong mọi hoàn cảnh, khi sợi tơ lòng lên tiếng, người bạn tâm giao ấy luôn

luôn có mặt đã làm nên những bản tình ca tuyệt diệu.

KẾT LUẬN

Murasaki Shikibu(978? - 1016?) là nhà văn xuất sắc của nền văn hoá

Heian. Truyện Genji là thành tựu kết tinh của văn hoá dân tộc Nhật Bản

thời kỳ đầu trung cổ. Tác phẩm đã tạo nên sức hút mạnh mẽ, chinh phục

bao trái tim bạn đọc. Vì vậy, xứ sở Phù Tang trở thành cái nôi của tiểu

thuyết và được đánh giá là một nền văn học lớn trên toàn Thế giới.

Murasaki - một nữ văn sĩ cung đình đã làm nên điều tuyệt vời ấy khi mang

đến cho nhân loại cảm hứng nghệ thuật đầy tính sáng tạo, trong đó cảm

thức thẩm mĩ niềm bi cảm(aware) đã được thể hiện một cách hiệu quả

trong tác phẩm, tạo nên sắc thái độc đáo, phản ánh bản chất, đặc trưng quan

niệm của người Nhật trong cách cảm thụ và hướng tới cái Đẹp.

1. Ngay từ thời trung cổ, đời sống cung đình đã mang lại những yếu

tố văn hóa xã hội phong phú. Trước hết, có thể thấy về cơ cấu nhà nước,

thể chế chính trị vững chắc của một giai đoạn được xem là thịnh vượng

trong lịch sử phát triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản. Từ sự cai trị

của dòng họ quý tộc Fujiwara đến sự ảnh hưởng của các tư tưởng thời đại

bên ngoài tạo cho văn hóa Nhật có sự kế thừa, tiếp thu chọn lọc, tiếp biến

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

93

nền văn hóa mang đậm cốt cách của dân tộc bản địa.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Với tâm thế hoà hợp, mở rộng đón hướng gió văn hoá mới ngoại

nhập, người Nhật đã hấp thu các tôn giáo ở bên ngoài mà đậm đặc nhất

trong giai đoạn này là Phật giáo. Con đường của giáo phái này vào Nhật

Bản xuất phát đầu tiên từ Triều Tiên, sau đó du nhập từ Trung Hoa và Ấn

Độ. Phật giáo mang lại hơi thở mới cho thế giới quan của người Nhật. Từ

quan niệm đạo đức, lối hành xử, thực tại tối hậu đến con đường giải thoát

của mọi chúng sinh…Phật giáo mang lại cho con người khả năng nhận thức

về thế giới, cách chế ngự bản than, trong đó Thiền đóng vai trò rất lớn đối

với đời sống dân tộc Nhật. Người Nhật tiếp thu Phật giáo không theo

nguyên bản mà theo cách riêng của họ, làm nên đặc trưng riêng cho Phật

giáo ở đây. Với nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, nó ảnh hưởng

lớn đến tư tưởng tác phẩm, phong cách sáng tạo của người nghệ sĩ. Niềm bi

cảm sinh ra trong sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo ấy.

Bên cạnh yếu tố ngoại nhập, yếu tố nội sinh tạo nên nền tảng cơ bản

của tinh thần người Nhật là Thần Đạo. Đây là tôn giáo bản địa, đề cao cuộc

sống con người, làm cho con người sống có ý nghĩa hơn, bình tâm, thanh

tẩy tâm hồn, sống trong sáng, chân thành, giản dị, hoà đồng và tĩnh tại.

Theo quan niệm của Thần đạo, Thế giới này có nhiều các vị thần(Kami)

tuỳ thuộc vào khả năng cảm thụ thẩm mỹ của con người đối với tự nhiên.

Thần đạo và Phật giáo có mối quan hệ qua lại trong sự giao thoa, phát triển.

Cùng với đời sống văn hoá lâu đời, phong tục bản xứ, người Nhật có xu

hướng đi sâu vào tâm linh, đề cao giá trị đạo đức cao đẹp, giá trị thẩm mĩ.

Niềm bi cảm (aware) xuất hiện trong văn học không chỉ đến khi có

tác phẩm Truyện Genji mà nó được đánh dấu bởi thời gian trước đó như

trong Vạn diệp tập. Sau này, trong thời Heian, còn có tập thơ Cổ kim tập

với tác giả nổi tiếng Narihira, Komachi. Cảm thức thẩm mĩ này xuất phát

từ tư duy duy mỹ cũng như được ảnh hưởng từ các hình thái tôn giáo, nhất

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

94

là Phật giáo. Hơn thế, chính bản thân nhà văn là một nữ sĩ mang đậm

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

phong cách nữ tính của trào lưu văn học nữ lưu trong giai đoạn này cùng

với cuộc đời đầy sóng gió của cá nhân và đời sống cung đình bà đang

chứng kiến. Tất cả hiện thực đời sống được đưa vào tác phẩm bằng tất cả

những xúc cảm chân thật mà lãng mạn, sâu sắc mà cũng rất phiêu bồng như

mộng đời ảo vọng với nhân tình bi ai. Bao trùm lên tác phẩm không chỉ là

chuyện đời mà còn là chuyện của lòng người, của tình yêu lứa đôi, là tình

ái nồng nàn, khổ hạnh.

2. Qua lăng kính nhà văn, tác phẩm thể hiện cảm thức thẩm mĩ niềm

bi cảm với số phận các nhân vật. Xoay quanh trục hai nhân vật chính với sự

tiếp nối hai cuộc đời, nhân vật được xây dựng nằm trong cảm thức về thời

gian. Bởi thời gian là số đo cuộc đời con người trong thế vận động của quy

luật luân hồi, của sự vô thường của cuộc sống. Khi đặt nhân vật trong thời

gian, niềm bi cảm được bộc lộ rõ nhất. Thời gian của cuộc đời là thời gian

đã mất, cuốn đi cả tuổi trẻ, tình yêu, nỗi buồn và niềm hạnh phúc. Nhà văn

xây dựng thời gian có tính biên niên, tiếp nối cũng như dòng đời chảy trôi

không ngừng nghĩ.

Trong tác phẩm, hiện thực cuộc sống được tái hiện không chỉ theo

thời gian khách quan mà còn theo thời gian của tâm lí nhân vật. Trong nỗi

niềm hoài cổ và dòng ý thức, tâm lí nhân vật trở nên sống động hơn, sâu

sắc hơn. Sợi dây cảm xúc xuyên suốt từ đầu đến cuối được khai thác triệt

để. Niềm bi cảm được bộc lộ trên nhiều cung bậc. Đó không chỉ là nỗi

buồn, cô đơn của kiếp người mà còn là sự nuối tiếc cái đẹp tàn phai mà con

người cảm nhận được và người Nhật muốn hiện hữu cảm xúc đã qua bằng

một thực thể tương đồng trong hiện tại. Và khi ấy niềm bi cảm aware xuất

hiện rõ nhất, sâu đậm nhất.

Người Nhật vốn coi trọng, tôn thờ cái đẹp. Bởi vậy, vẻ đẹp cũng là

thước đo để đánh giá đạo đức con người. Nó có sức mạnh lôi cuốn, cảm

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

95

hoá lòng người, cứu vớt thế giới. Trong Truyện kể Genji, ngoài hai nhân

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

vật nam chính, các nhân vật nữ chính khác đa số là những mỹ nhân. Vẻ đẹp

của họ khiến người thưởng thức nó cũng mê mẩn, vạn vật như được tái

sinh. Tuy thế, con người như kiếp phù du(kagero) trôi nổi. Cái đẹp nhanh

chóng mất đi mang lại sự nuối tiếc, bi cảm.

3. Cuộc đời thấm đẫm nỗi sầu bi khiến vạn vật cũng ưu thời không

kém. Thiên nhiên tươi đẹp lại mang lấy cả hồn người mà sinh sôi. Trong

tác phẩm Truyện Genji, thiên nhiên xuất hiện với tần xuất rất cao, cảnh đã

nói hộ lòng người. Trong khoảnh khắc nào đó, thiên nhiên có thể là hồi

tưởng quá khứ hay viễn ảnh xa mờ, làm chứng cho những cuộc chia li đầy

tâm trạng. Có cuộc chia li nhanh chóng chỉ sau thời gian hội ngộ của những

mối tình thoáng qua. Có những cuộc chia li vĩnh viễn khi con người phải về

với thế giới bên kia. Hay những cuộc chia tay tạm thời với cõi trần tục. Tất

cả đều mạng lại những cảm xúc xao xuyến, buồn thương. Cho nên, thiên

nhiên trong thế giới niềm bi cảm nhuốm màu tâm trạng.

Thiên nhiên như minh chứng cho những kí ức quá vãng xa xôi. Hình

ảnh thiên nhiên hiện tại và quá khứ lặp lại khiến lòng người xao xuyến,

bâng khuâng. Cũng như con người, thiên nhiên sớm tàn phai khi đang độ

viên mãn mang lại vẻ đẹp phù du ở trần thế. Cái đẹp không chỉ đọng lại

trong vẻ tươi đẹp của thiên nhiên mà còn ở cách con người thưởng thức nó.

Vậy nên, thiên nhiên vừa đẹp lại vừa tinh tế, sống động, sâu sắc, đầy bi ai.

Từ một phạm trù thẩm mĩ đương đại aware, nhà văn đã thể hiện

quan niệm, tư tưởng của mình về cuộc đời. Nhà văn chú trọng phản ánh thế

giới tâm hồn của nhân vật bằng việc khai thác tâm lí qua những cuộc phiêu

lưu tình ái, cùng với dòng chảy của thời gian tạo nên những vết cắt số phận,

những aware trong tâm thức của nhân vật. Qua tác phẩm, bức tranh văn

hoá, xã hội, con người thời Heian hiện lên sinh động, đầy đủ nhất. Với ngòi

bút diễm tình, tràn trề xúc cảm cùng với chất hiện thực, Murasaki đã mang

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

96

lại những giá trị nhân bản sâu sắc cho Truyện Genji.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

Luận văn nghiên cứu một khía cạnh biểu hiện trong tác phẩm Truyện

Genji của Murasaki Shikibu. Hy vọng trong tương lai, những nỗ lực của

chúng tôi có thể mở rộng hơn trong việc tiếp cận nền văn học rộng lớn và

phong phú của Nhật Bản. Trên chặng đường học tập, nghiên cứu văn học

nước ngoài của mình, chúng tôi mong muốn sẽ tìm hiểu các khía cạnh khác

trong toàn bộ tiểu thuyết của Murasaki Shikibu qua cái nhìn toàn diện và

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

đối sánh với các nhà văn khác của nền văn học xứ sở Phù Tang.

1. Bùi Thị Mai Anh(2002), Chất sa bi trong tác phẩm Nẻo đường sâu thẳm

lên miền Oku của Matsuo Basho, LVThS, ĐHSP HN, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân(1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

3. Arthur Golden(2006), Hồi ức của một Geisha, Văn Hoà, Kim Thuỳ dịch,

Nxb Văn học, Hà Nội.

4. Nhật Chiêu(2003), Câu chuyện văn chương phương Đông, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

5. Nhật Chiêu(2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

6. Nhật Chiêu(1997), “Manyoshu(Vạn diệp tập) hay là thơ ca từ mọi nẻo

đường đời”, Tạp chí văn học(9), Hà Nội.

7. Nhật Chiêu(1999), Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Nhật Chiêu(2000), “Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: Hình và

bong”, Tạp chí văn học(3), Hà Nội.

9. Nhật Chiêu(2001), “Genji monogatari-kiệt tác văn học Nhật Bản”, Tạp chí

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

97

Văn học(11), Hà Nội

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

10. Nguyễn Đức Diệu(Chịu trách nhiệm xuất bản)(1991), Truyện kể

Genji(TậpI), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Nguyễn Đức Diệu(Chịu trách nhiệm xuất bản)(1991), Truyện kể

Genji(TậpII), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Tuệ Minh Đạo, “Vô thường”, http://thuvienhoasen.org.

13. Eiichi Aoki(chủ biên)(2006), Nhật Bản đất nước và con người, Nguyễn

Kiên Trường dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

14. Gertrude Fritsch(biên soạn)(2002), Truyện cổ Nhật Bản, Văn Hoà dịch,

Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.

15. Đoàn Lê Giang(2005), “So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển

Việt Nam và Nhật Bản”, Tạp chí văn học(9), Hà Nội.

16. Khương Việt Hà(2006), “Mỹ học Kawabata Yasunari”, Nghiên cứu văn

học(6), Hà Nội.

17. Hajime Nakamura(1998), Những phương thức tư duy phương Đông, Tư

liệu dịch, ĐH Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi(chủ biên)(1999), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

19. Đào Duy Hiệp(2001), Thơ, truyện và cuộc đời, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

20. Lê Từ Hiển(2002), “Basho và Huyền Quang sự gặp gỡ với mùa thu hay sự

tương hợp về cảm thức thẫm mỹ”, Tạp chí văn học(7), Hà Nội.

21. Lê Từ Hiển, Nguyễn Nguyệt Trinh(2005), “Vài nét về thơ Nhật Bản”,

Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á(1), Hà Nội.

22. Hồ Hoàng Hoa(chủ biên)(2001), Văn hoá Nhật những chặng đường phát

triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Lê Huy Hoà, Nguyễn Văn Bình(2002), Những bậc thầy văn chương thế

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

98

giới, Nxb Văn học, Hà Nội.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

24. Kim Văn Học(Biên soạn)(1999), Tìm hiểu văn hoá của người Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Dương Thu Ái, Nguyễn Kim Hanh dịch, Nxb Văn

hoá thông tin, Hà Nội.

25. Quốc Hùng(chủ biên)(2007), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

26. Ngô Thị Lan Hương(2003), Niềm bi cảm "aware" trong tiểu thuyết Ngàn

cánh hạc của Yasunari Kawabata, LVThS, ĐHSP HN, Hà Nội.

27. Đỗ Huy(1984), Cái đẹp, một giá trị, Nxb Thông tin lí luận, Hà Nội.

28. IU.B.Bô-Rep(1974), Những phạm trù mỹ học cơ bản, Hoàng Xuân Nhị

dịch, Trường đại học tổng hợp, TP Hồ Chí Minh.

29. Đỗ Văn Khang(2002), Mỹ học đại cương, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

30. Kitagawa(2002), Tôn giáo Nhật Bản, Hoàng Thị Thơ dịch, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

31. Vũ Khiêu(1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

32. Ôn Thị Mỹ Linh(2006), Con người tha hoá trong tiểu thuyết Một nỗi đau

riêng của Oe Kenzaburo, LVThS, ĐHSP HN, Hà Nội.

33. Nguyễn Thị Mai Liên(2006), “Yassunari Kawabata-Lữ khách muôn đời đi

tìm cái đẹp”, Nghiên cứu văn học(7)Hà Nội.

34. Cao Thị Mai Lý(2005), Một số đặc điểm nghệ thuật của Truyện Genji,

LVThS, ĐHSP HN, Hà Nội.

35. “Murasaki Shikibu”, http://nhatban.net.

36. Hữu Ngọc(1992), “Cảm nghĩ về văn hoá Nhật Bản”, Tạp chí văn học(4),

Hà Nội.

37. Hữu Ngọc(2006), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

38. Hữu Ngọc(1992), Nghĩ về cấu trúc văn hoá Nhật Bản, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

39. Hữu Ngọc(1992), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Hữu Ngọc(1993), Chân dung văn hoá đất nước mặt trời mọc, Nxb Thế

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

99

giới, Hà Nội.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

41. Vũ Thị Trang Nhung(2003), Tìm hiểu Phật tính trong một số nhân vật nữ

của Kawabata, Báo cáo khoa học sinh viên, ĐHSP HN, Hà Nội.

42. N.I.Konrat(1995), Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại, Trịnh Bá Đĩnh

dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

43. N.I KONAT(1998), Phương Đông và Phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. N.T.Fedorenko(1999), “Kawabata-con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Văn học

nước ngoài(4), Hà Nội.

45. Shuichi Kato(2005), Lịch sử văn học Nhật Bản(tập 1), Trần Hải Yến dịch,

Viện văn học, Hà Nội.

46. Shuichi Kato(2005), Lịch sử văn học Nhật Bản(tập 2), Trần Hải Yến dịch,

Viện văn học, Hà Nội.

47. Shuichi Kato(2005), Lịch sử văn học Nhật Bản(tập 3), Trần Hải Yến dịch,

Viện văn học, Hà Nội.

48. Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh(1984), Đi tìm cái đẹp, Nxb TP Hồ Chí Minh, Hồ

Chí Minh.

49. Lê Huy Tiêu(2004), Cảm nhận về văn hoá và văn học Trung Quốc, ĐHQG

Hà Nội, Hà Nội.

50. Lương Duy Thứ(chủ biên)(2000), Đại cương văn hoá phương Đông, Nxb

Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

51. Lưu Đức Trung(2003), Bước vào vườn hoa văn học Châu Á, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

52. Thông tin khoa học xã hội(1998), Văn học Nhật Bản, Hà Nội.

53. Nguyễn Thị Hồng Thu(2005), Tục ngữ Nhật Bản về văn hoá ứng xử,

LVThS, ĐHSP HN, Hà Nội.

54. Nguyễn Nam Trân, “Màu sắc Phật giáo trong văn học Nhật Bản”,

http://thuvienhoasen.org.

55. Nguyễn Nam Trân, “Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản”,

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

100

http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/vhsnb/vhsnb.htm.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

56. Theodore M.Ludwig(2000), Những con đường tâm linh phương Đông,

Dương Ngọc Dũng, Hà Hữu Nga, Nguyễn Chí Hoan dịch, Nxb Văn hoá,

Hà Nội.

57. V. Pronikov, I. Ladanov(2004), Người Nhật, Đức Dương biên soạn,

Trường Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

58. V.V.Ôtrinicốp(1996), “Những quan niệm thẫm mỹ độc đáo về nghệ thuật

của người Nhật”, Tạp chí văn học(5), Hà Nội.

59. Mạnh Xuân(2001), “Một ngàn năm văn hoá Nhật Bản”, Tạp chí nghiên cứu

Nhật Bản và Đông Bắc Á(số 5), Hà Nội.

60. Annie Shepley Omori and Kochi Doi(1920), Diaries of Court Ladies of

Old Japan. Boston and New York.

61. Edward G. Seidensticker, trans(1976), The Tale of Genji, by Murasaki

Shikibu New York, Knopf.

62. “Genji”, http://etext.lib.virginia.edu/japanese/genji/original.htm

63. Hume, Nancy(1995), Japanese Aesthetics and Culture, New York, Tokyo.

64. Ivan Morris(1972), The World of the Shining Prince: Court Life in Ancient

Japan, New York, Knopf.

65. Leslie Inamasu, “Genji monogatari: a romance in three parts”,

http://www.stanford.edu/group/sjeaa/journal3/japan1.pdf.

66. Kondo Tomie(2000), 105 key words for understanding Japan, Tokyo.

67. “Mono no aware”, http://www.wsu.edu/

68. “MurasakiShikibu”, http://digital.library.upenn.edu/women/omori

69. “Murasaki_Shikibu”, http://en.wikipedia.org/wiki/

70. “Murasaki: her life”, http://www.iz2.or.jp/english/what/life.htm

71. “Murasaki Shikibu”, http//www. womeninworldhistory

72. Masaharu Anesaki(1973), Art, Life and Nature in Japan, Rutland and

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

101

Tokyo.

Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu

73. McCullough, Helen C.trans(1988), The Tale of the Heike, Stanford University.

74. “On Wabi and Sabi, Yugen, Aware”, http://talesofgenji.blogspot.com/

75. Pin Fang Su, http://www.inform.umd.edu

76. Seisuko Kojima and Gene A.Crane(1991), A dictionary of Japanese

culture, Tokyo.

77. “The tale of Genji”, http://www.genji-daigaku.com/content/aisetu_e.asp

78. “The Tale of Genji”, http://www.taleofgenji.org/rozanji.html

79. “The tale of Genji”, http://www.globusz.com/ebooks/Genji/

80. The Agency for Cultural affairs(1981), Japanese religion, Kodanse

International.

81. J.Thomas Rimer(1991), A reader’s guide to Japanese Literature, Kodansha

International.

82. “JapaneseAesthetics”, http://plato.stanford.edu/entries/japanese-aesthetics/

83. John Gillespie, “Mono no aware”, http://ezinearticles.com/?Mono-No-Aware

84. William J. Puett(1983), Guide to the Tale of Genji, Rutland, Vermont &

Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ

102

Tokyo.