BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ NGÔ HOÀNG THÀNH
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NỢ XẤU CÁC NGÂN HÀNG
VIỆT NAM, THÁI LAN VÀ INDONESIA TIẾP CẬN
TỪ GÓC ĐỘ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ NGÔ HOÀNG THÀNH
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NỢ XẤU CÁC NGÂN HÀNG
VIỆT NAM, THÁI LAN VÀ INDONESIA TIẾP CẬN
TỪ GÓC ĐỘ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS-TS LÊ THỊ LANH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
TÓM TẮT
Bài viết này nghiên cứu xem liệu các ngân hàng thương mại (TM) Việt Nam,
Thái Lan và Indonesia trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017 có gặp các vấn đề
rủi ro đạo đức hay không: kiểm tra các vấn đề “too big to fail”, vấn đề rủi ro đạo đức
của bảo hiểm tiền gửi và vấn đề rủi ro đạo đức gây nên bởi có cấu vốn của ngân hàng.
Đặc biệt bài nghiên cứu kiểm tra rủi ro đạo đức xuất phát từ vấn đề hành vi ngưỡng nợ
xấu: khi ở mức nợ xấu cao, ngân hàng cho vay nhiều hơn nhưng chất lượng cho vay
giảm từ đó làm tăng nợ xấu. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng theo năm của 19
ngân hàng TM VN, 19 ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng TM Indonesia giai
đoạn từ năm 2009 đến năm 2017.
Kết quả cho thấy rằng ngành ngân hàng ở cả ba nước đều gặp phải vấn đề hành
vi rủi ro đạo đức khi ở ngưỡng nợ xấu cao.
ABSTRACT
This study tests whether Vietnamese, Thai and Indonesian commercial banks in
the period from 2009 to 2017 face moral hazard problems. We test "too big to fail"
moral hazard problem, the moral hazard is caused by deposit insurance and the moral
hazard problem is caused by the bank's capital structure. Especially, our research
studies another moral hazard, which is the behavior problem when the banks got high
NPLs problem, the banks provide loans higher but the quality of loans decreases and
increase non-performing loan.
The paper uses panel data of 19 Vietnamese commercial banks, 19 Thai
commercial banks and 26 Indonesian commercial banks annually from 2009 to 2017.
The results show that banking sectors at three countries face moral hazard behavior
when high NPL threshold.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của
người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Lê Thị Lanh. Những số liệu phục vụ cho việc
phân tích, phân xét, đánh giá trong bài nghiên cứu do tác giả thu thập được ghi chú
nguồn gốc chính thống và đáng tin cậy.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và được đúc kết
trong quá trình học tập và quá trình nghiên cứu của tôi.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 9 tháng 4 năm 2019
Tác giả
Võ Ngô Hoàng Thành
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỤC LỤC BẢNG
MỤC LỤC: Danh sách các từ khóa viết tắt và tiếng Anh
TÓM TẮT
ABSTRACT
CHƯƠNG 1: Giới thiệu ................................................................................... .……1
1.1. Động cơ ......................................................................................................... 1
1.2. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu ................................................................... 6
1.3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 7
CHƯƠNG 2: Khung lý thuyết và các nghiên cứu trước đây ................................ 7
2.1. Khung lý thuyết ............................................................................................. 8
2.1.1 Nợ xấu (non performing loan): .................................................................. 8
2.1.2 Rủi ro đạo đức ......................................................................................... 13
2.1. Các nghiên cứu trước đây chứng minh sự tồn tại rủi ro đạo đức dựa trên việc
tăng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ............................................................................. 17
2.2.1 Vấn đề rủi ro đạo đức “Too big to fail” ..................................................... 17
2.2.2. Vấn đề rủi ro đạo đức phát sinh từ bảo hiểm tiền gửi .............................. 19
2.2.3. Vấn đề cơ cấu vốn ngân hàng: .................................................................. 20
2.2.4 Vấn đề lý thuyết hành vi ngưỡng nợ xấu: ................................................. 22
CHƯƠNG 3: Phương pháp nghiên cứu ................................................................ 27
3.1. Mô hình .......................................................................................................... 27
3.1.1. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng ................................................. 27
3.1.2. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng ............................................................ 28
3.2. Dữ liệu và phương pháp thực nghiệm ............................................................ 32
3.2.1 Dữ liệu: ...................................................................................................... 32
3.2.2.2. Phương pháp Hồi quy ............................................................................ 33
CHƯƠNG 4: Kết quả thực nghiệm ....................................................................... 35
4.1 Kết quả thực nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam ............... 35
4.1.1. Dữ liệu và Thống kê mô tả ....................................................................... 35
4.1.2. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng ..................................................... 36
4.1.3. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng ................................................................ 36
4.2 Nghiên cứu rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng Thái Lan .......................... 39
4.2.1. Dữ liệu và Thống kê mô tả ....................................................................... 39
4.2.2 Kết quả thực nghiệm .................................................................................. 40
4.2.2.1 Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng ............................................... 40
4.2.2.2. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng ......................................................... 41
4.3 Nghiên cứu rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng Indonesia ......................... 43
4.3.1 Dữ liệu và thống kê mô tả ......................................................................... 43
4.3.2. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 44
4.3.2.1. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng .............................................. 44
4.3.2.2 Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng .......................................................... 45
CHƯƠNG 5: Kết luận ............................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Phụ lục 1: Danh sách các ngân hàng TM Việt Nam được lấy số liệu.
Phụ lục 2: Danh sách các ngân hàng TM Indonesia được lấy số liệu.
Phụ lục 3: Danh sách các ngân hàng TM Thái Lan được lấy số liệu.
Phụ lục 4: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng TM VN.
Phụ lục 5: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng Indonesia.
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng Thái Lan.
MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1: Bảng tóm tắt khung lý thuyết nợ xấu .......................................................... 13 Bảng 2: Tóm tắt các nghiên cứu trước đây ............................................................... 26 Bảng 3: Bảng tổng kết các biến độc lập .................................................................... 31 Bảng 4: Thống kê mô tả dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam ............................... 35 Bảng 5: Thống kê mô tả dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam sau khi loại bỏ giá trị ngoại lai ..................................................................................................................... 35 Bảng 6: Kết quả hồi quy mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các Ngân hàng TM Việt Nam ............................................................................................................ 36 Bảng 7: Kết quả kiểm định mức ngưỡng đối với các Ngân hàng TM Việt Nam ..... 37 Bảng 8: Kết quả hồi quy mô hình ngưỡng các Ngân hàng TM Việt Nam ............... 38 Bảng 9: Thống kê dữ liệu 19 ngân hàng TM Thái Lan ............................................. 39 Bảng 10: Thống kê dữ liệu 19 ngân hàng TM Thái Lan sau khi loại bỏ giá trị ngoại lai ............................................................................................................................... 39 Bảng 11: Kết quả hồi quy Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các ngân hàng TM Thái Lan ............................................................................................................. 40 Bảng 12: Kết quả kiểm định mức ngưỡng đối với ngân hàng TM Thái Lan ........... 41 Bảng 13: Kết quả hồi quy của các ngân hàng TM Thái Lan có sử dụng hồi quy ngưỡng ....................................................................................................................... 42 Bảng 14: Thống kê dữ liệu 26 ngân hàng TM Indonesia.......................................... 43 Bảng 15: Thống kê dữ liệu các ngân hàng TM Indonesia sau khi loại bỏ giá trị ngoại lai ..................................................................................................................... 43 Bảng 16: Kết quả hồi quy mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các ngân hàng TM Indonesia. ........................................................................................................... 44 Bảng 17: Kết quả kiểm định mức ngưỡng ngân hàng TM Indonesia ....................... 45 Bảng 18: Kết quả hồi quy ngân hàng TM Indonesia có sử dụng hồi quy ngưỡng. .. 46 Bảng 19: Tóm tắt kết quả thực nghiệm ..................................................................... 48
MỤC LỤC: Danh sách các từ khóa viết tắt và tiếng Anh
Ký hiệu viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Variable Biến
Std. Dev. Độ lệch chuẩn
Threshold effects Hiệu ứng ngưỡng
Threshold regression Hồi quy ngưỡng
Conf. interval Confidence interval Khoảng tin cậy
Model Mô hình
Threshold level Mức ngưỡng
NPL Non performing loan Nợ xấu
Size Quy mô công ty
Moral hazard Rủi ro đạo đức
Std.Err Sai số chuẩn
Observations Số quan sát Obs
Deposit growth rate DGR
Loan growth rate Tăng trưởng tiền gửi Tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng khoản cho vay LGR
Trung bình
Mean Equity ratio, equity to asset ratio Tỷ lệ vốn cổ phần thường ER
Việt Nam VN
TÓM TẮT
Bài viết này nghiên cứu xem liệu các ngân hàng thương mại (TM) Việt Nam,
Thái Lan và Indonesia trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017 có gặp các vấn đề
rủi ro đạo đức hay không: kiểm tra các vấn đề “too big to fail”, vấn đề rủi ro đạo đức
của bảo hiểm tiền gửi và vấn đề rủi ro đạo đức gây nên bởi có cấu vốn của ngân hàng.
Đặc biệt bài nghiên cứu kiểm tra rủi ro đạo đức xuất phát từ vấn đề hành vi ngưỡng
nợ xấu: khi ở mức nợ xấu cao, ngân hàng cho vay nhiều hơn nhưng chất lượng cho
vay giảm từ đó làm tăng nợ xấu. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng theo năm của
19 ngân hàng TM VN, 19 ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng TM Indonesia
giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017.
Kết quả cho thấy rằng ngành ngân hàng ở cả ba nước đều gặp phải vấn đề hành
vi rủi ro đạo đức khi ở ngưỡng nợ xấu cao.
ABSTRACT
This study tests whether Vietnamese, Thai and Indonesian commercial banks
in the period from 2009 to 2017 face moral hazard problems. We test "too big to fail"
moral hazard problem, the moral hazard is caused by deposit insurance and the moral
hazard problem is caused by the bank's capital structure. Especially, our research
studies another moral hazard, which is the behavior problem when the banks got high
NPLs problem, the banks provide loans higher but the quality of loans decreases and
increase non-performing loan.
The paper uses panel data of 19 Vietnamese commercial banks, 19 Thai
commercial banks and 26 Indonesian commercial banks annually from 2009 to 2017.
The results show that banking sectors at three countries face moral hazard behavior
when high NPL threshold.
1
CHƯƠNG 1: Giới thiệu
1.1. Lý do chọn đề tài
Hai vấn đề chính trong bài viết này là rủi ro đạo đức và nợ xấu. Bài viết muốn nêu
hai vấn đề lớn này trong ngành Ngân hàng Việt Nam.
Vấn đề đầu tiên là nợ xấu. Nợ xấu một vấn đề được quan tâm hàng đầu trong việc
quản lý ngành Ngân hàng Việt Nam.
Các ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, hoạt động chính các ngân hàng
huy động vốn thông qua tiền gửi của khách hàng và cho vay. Ngân hàng TM kinh doanh
bằng cách cho vay những tài nguyên từ người gửi tiền cho những người muốn vay với
lãi suất với kỳ vọng rằng tiền sẽ được trả lại đúng hạn. Các khách hàng khi gởi tiền của
họ vào các ngân hàng, họ có mong muốn nhận lại khoản đầu tư của mình cộng với tiền
lãi vào thời điểm thích hợp theo thỏa thuận với nhân viên ngân hàng.
Nếu người đi vay sau đó không trả lại số tiền họ đã vay, các khoản nợ này trở
thành nợ xấu. Các khoản nợ xấu làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng; gây giảm
lợi nhuận; và thậm chí có thể làm suy yếu sự tồn tại và bền vững của ngân hàng. Do đó,
ngân hàng buộc phải tốn chi phí quản lý nợ xấu có nghĩa ngân hàng là phải chịu chi phí
hoạt động gây ra. Ngân hàng muốn tiếp tục hoạt động phải tái cấp vốn cao hơn quy định
của chính phủ. Một ngân hàng có thể được cơ quan chính phủ quản lý nếu Tỷ lệ vốn
chủ sở hữu dưới mức tối thiểu theo quy định. (KPMG 2018)
Khi có quá nhiều nợ xấu, ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu của tất cả những
người gửi tiền đúng hạn. Rõ ràng nợ xấu sẽ làm suy yếu khả năng của ngân hàng trong
vấn đề đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Điều này có thể gây ra nhiều vấn đề
trong hệ thống ngân hàng đôi khi dẫn đến việc rút tiền ồ ạt trong hoảng loạn. Ngân hàng
rơi vào tình trạng ngân hàng mất khả năng thanh toán. (Sanderson Abel 2014)
Nợ xấu trong ngành Ngân hàng Việt Nam bắt đầu có xu hướng tăng từ năm 2007
trong bối cảnh các ngân hàng tín dụng tăng trưởng cao trong khi chất lượng của các
2
khoản tín dụng và công tác quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng thương mại xấu.
(Lê Thị Thùy Vân (2017) Viện Chiến lược và Chính sách tài chính)
Nợ xấu tại các NHTM Việt Nam không phải mới phát sinh trong những năm gần
đây, mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước. Khi tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi, hoạt
động sản xuất kinh doanh trì trệ, thì cũng là lúc nợ xấu nảy nở như nấm sau mưa. Nợ
xấu có xu hướng gia tăng từ năm 2007 và được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011 đến
nay. (Châu Đình Linh (2015)).
Biều đồ: Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng TM VN giai đoạn 2007 – 2016.(
Đơn vị: %)(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Tốc độ tăng trưởng nợ xấu lên tới mức cao 5,1% trong giai đoạn 2008 -2011, gấp
hai lần tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của cùng giai đoạn.
Nợ xấu gia tăng giá trị lên đến 85.000 tỷ đồng, chiếm 3,3% tổng dư nợ và tiếp
tục tăng lên 4,86% tổng dư nợ vào cuối năm 2012. Sau đó vào 2016 nợ xấu khi giảm về
mức 2,46% và ở mức 2,56% vào cuối tháng 2/2017.
(Lê Thị Thùy Vân (2017) Viện Chiến lược và Chính sách tài chính)
3
Vietnam
4.00%
3.44%
3.50%
3.11%
2.94%
2.79%
3.00%
2.34% 2.28%
2.50%
2.15%
2.09%
1.82%
1.80%
2.00%
1.50%
1.00%
0.50%
0.00%
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Biều đồ Thống kê của World Bank về Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng TM VN
trong giai đoạn 2008– 2017. (Nguồn: World Bank)
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng nợ xấu là dấu hiệu cho những vấn đề bất ổn
tương lai của các ngân hàng và cho rằng mức độ nợ xấu cao các ngân hàng gây nên sụp
đổ của các ngân hàng.
Sự sụp đổ của một ngân hàng thường được coi là có tầm quan trọng hơn sự sụp
đổ của các loại hình doanh nghiệp khác vì sự liên kết và mong manh của các tổ chức
ngân hàng. Khi một ngân hàng mất tính thanh khoản hoặc tệ hơn là sụp đổ. Người gửi
tiền mất niềm tin vào ngân hàng, người gửi tiền cố gắng rút tiền gửi từ các ngân hàng
toàn nền kinh tế này để tránh bị mất tiền, khi làm như vậy gây ra mất tính thanh khoản
trên toàn ngành ngân hàng. Các ngân hàng thường có hợp đồng với nhau một khi một
ngân hàng mất tính thanh khoản các hợp đồng tới hạn không được thanh toán gây ra các
khoản thiệt hại cho các ngân hàng đối tác. Do đó, hiệu ứng lây lan hoảng loạn ngân hàng
hoặc rủi ro hệ thống có tác động cấp số nhân lên tất cả các ngân hàng và tổ chức tài
chính dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Các tổ chức ngân hàng thường phải chịu
sự điều chỉnh nghiêm ngặt và sụp đổ của các ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu chính
sách công ở các quốc gia trên thế giới. (Kaufman 1996)
4
Sự sụp đổ của một ngân hàng không chỉ liên quan đến quốc gia mà ngân hàng đó
có trụ sở, mà còn đối với tất cả các quốc gia khác mà ngân hàng đó tiến hành kinh doanh.
Việc này đã diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, trong đó những sụp đổ
của các ngân hàng đầu tư lớn đang gây ra hậu quả nghiêm trọng cho các nền kinh tế trên
toàn thị trường toàn cầu. Với mức độ cao mà các thị trường được tích hợp trong nền
kinh tế toàn cầu làm cho điều này gần như không thể tránh khỏi. Ví dụ các ngân hàng
lớn như Lehman Brothers và Bear Stearns sụp đổ, lần lượt các chi nhánh từ các quốc
gia khác ngoài Hoa Kỳ phải chịu đựng. (Brewer và công sự (2002))
Vấn đề thứ 2 là rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức tồn tại khi một người hoặc thực
thể có hành vi tham gia vào chấp nhận rủi ro để có các kết quả mong đợi trong đó một
người hoặc thực thể khác phải chịu chi phí trong trường hợp có kết quả không thuận lợi.
Một loạt các hành động của ngân hàng thương mại được coi là rủi ro đạo đức:
Giả định “quá lớn để sụp đổ” (“too big to fail”): Có một số ngân hàng TM rất
quan trọng đối với nền kinh tế, khi các ngân hàng này sụp đổ của các chủ sở hữu và nhà
quản lý chịu rất ít hậu quả nhưng sự sụp đổ của các ngân hàng này gây hậu quả nghiêm
trọng đối với nền kinh tế. Với giả định này, các bên liên quan trọng các tổ chức tài chính
đã phải đối mặt với một loạt các kết quả mà họ sẽ không chịu toàn bộ chi phí cho các
rủi ro mà họ đang gặp phải vào thời điểm đó.
Rủi ro đạo đức này góp phần gây ra cuộc khủng hoảng tài chính 2008 là tài sản
thế chấp. Trong trường hợp bình thường, các ngân hàng cho vay tiền sau được khi phân
tích chu đáo và nghiêm ngặt. Fannie Mae và Freddie Mac là các tập đoàn được chính
phủ bảo trợ cung cấp hỗ trợ ngầm cho những người cho vay bảo lãnh cho vay bất động
sản tạo ra tính thanh khoản.(Investonia 2017). Tuy nhiên, do tính thanh khoản được
cung cấp cho thị trường của hai tập đoàn này, người cho vay có thể nới lỏng các tiêu
chuẩn của họ. Những đảm bảo của cơ quan này với tính thanh khoản đã ảnh hưởng đến
những người cho vay đưa ra quyết định rủi ro vì họ hy vọng các tổ chức chính phủ gần
5
như chịu chi phí cho một kết quả bất lợi trong trường hợp vỡ nợ. Người cho vay đưa ra
quyết định cho vay rủi ro theo giả định rằng họ có thể sẽ tránh được việc giữ khoản nợ
trong suốt thời gian đáo hạn. Các ngân hàng đã được cung cấp cơ hội để giảm một khoản
nợ xấu, kèm theo các khoản vay tốt, trong một thị trường thứ cấp thông qua các khoản
vay thế chấp, do đó chuyển rủi ro vỡ nợ cho người mua. Về cơ bản, các ngân hàng được
bảo lãnh cho các khoản vay với kỳ vọng rằng một bên khác sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm
và rủi ro vỡ nợ, tạo ra một rủi ro đạo đức và cuối cùng góp phần vào cuộc khủng hoảng
thế chấp. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nghiêm trọng hơn các vụ khủng hoảng
trước đó, cả vụ sụp đổ dot-com năm 2001 và vụ sụp đổ thị trường năm 1987 và chỉ sau
cuộc Đại khủng hoảng năm 1929. Mức độ nghiêm trọng này là do đặt cược đầu cơ rủi
ro quá mức được thực hiện bởi các giám đốc điều hành của các tổ chức tài chính.
Một vấn đề khác về rủi ro đạo đức đó là hệ thống lương-thưởng của các giám đốc
điều hành. Những giám đốc điều hành thường nhận được mức lương cố định cơ bản và
tiền thưởng lớn bằng tiền mặt gắn liền với lợi nhuận ngắn hạn. Nhà quản lý nhận được
những phần thưởng lớn trong thời gian thành công và gần như bằng không khi lợi nhuận
kém. Điều này tạo ra một động cơ đối với các rủi ro: chiến thắng khi đặt cược rủi ro dẫn
đến tiền thưởng lớn bằng tiền mặt, trong khi thua không dẫn đến thua lỗ. Giám đốc điều
hành của các tổ chức tài chính thúc đẩy cuộc đặt cược này và do đó các giám đốc điều
hành đưa ra các khoản vay rủi ro lớn hơn để ngân hàng có lợi nhuận tăng lên và nhận
được tiền thưởng đáng kể. (Zhang 2016)
Trong hầu hết các trường hợp, đặt cược thắng một năm là đủ để đảm bảo nghỉ
hưu an toàn cho các nhà quản lý. Trong kịch bản này, nhà quản lý chẳng thèm quan tâm
gì đến hiệu quả kinh tế của tổ chức tài chính trong năm tới và sau đó dẫn đến lượng nợ
xấu lớn và thua lỗ nặng nề các tổ chức tài chính. Chi phí đặt cược rủi ro này các nhà
điều hành ngân hàng không phải gánh chịu, nó được gánh chịu bởi các cổ đông và nền
kinh tế. (Jensen và Meckling (1976))
Ngoài ra nợ xấu tăng lên cao có thể gây ra các vấn đề rủi ro đạo đức. Khi nghiên
cứu các ngân hàng ở Mỹ, Koudstaal và Wijnbergen (2012) thấy rằng danh mục cho vay
6
không tốt, nợ xấu tăng cao, thì gây ra việc rủi ro mà các ngân hàng chấp nhận càng lớn.
Nghiên cứu của Zhang và đồng nghiệp (2016) kiểm tra các quyết định cho vay của các
ngân hàng Trung Quốc tồn tại rủi ro đạo đức, đồng thời Zhang cũng cho rằng việc tăng
nợ xấu gây ra tình trạng rủi ro đạo đức. Thường ngày, các ngân hàng luôn đối mặt với
rủi ro nợ xấu. Ở mức tỷ lệ nợ xấu thấp, các ngân hàng giảm các khoản cho vay rủi ro để
giảm thiểu khoản nợ xấu khi đó tỷ lệ tăng trưởng tín dụng âm. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu
cao, các ngân hàng tăng các khoản cho vay rủi ro khi đó tỷ lệ tăng trưởng tín dụng dương
để bù đắp lại mất mát từ nợ xấu, khi đó ngân hàng đối mặt với rủi ro đạo đức.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu:
Mục tiêu và cũng là câu hỏi của bài nghiên cứu trong bài viết này là liệu có tồn
tại rủi ro đạo đức trong ngành Ngân hàng Việt Nam khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên trong giai
đoạn từ 2009 đến cuối 2017?
Bài nghiên cứu của chúng tôi: kiểm tra các giả thiết rủi ro đạo đức: Đầu tiên là
kiểm tra rủi ro đạo đức “Too big to fail”. Tiếp theo giả thiết rủi ro đạo đức gây ra bởi
bảo hiểm tiền gửi. Tiếp đó là kiểm tra rủi ro đạo đức do tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp các
ngân hàng gây rủi ro trên vốn chủ sở hữu đó. Và cuối cùng bài viết kiểm tra giả thiết rủi
ro đạo đức gây ra bởi hành vi: ở mức tỷ lệ nợ xấu thấp (dưới mức ngưỡng), các ngân
hàng giảm các khoản cho vay rủi ro để giảm thiểu khoản nợ xấu khi đó tỷ lệ tăng trưởng
tín dụng âm. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao (trên mức ngưỡng), các ngân hàng tăng các
khoản cho vay rủi ro (tỷ lệ tăng trưởng tín dụng dương) để bù đắp lại mất mát từ nợ xấu,
khi đó ngân hàng đối mặt với rủi ro đạo đức. Một khi xác định được nguyên nhân gây
ra rủi ro đạo đức và các phương pháp phát hiện rủi ro đạo đức chúng ta có thể ngăn chặn
và làm giảm tác động của rủi ro đạo đức từ đó làm giảm nợ xấu tránh các tác động quá
lớn từ nợ xấu đến toàn hệ thống tài chính và toàn nền kinh tế.
1.3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp kiểm tra hiệu ứng ngưỡng, áp dụng hồi quy
ngưỡng fixed effect (Hansen, 1999) sử dụng dữ liệu bảng 19 ngân hàng TM tại VN
trong giai đoạn từ 2009 đến cuối 2017.
7
Đồng thời bài viết mở rộng nghiên cứu của mình sang các ngân hàng TM nước
khác trong Đông Nam Á nơi có nhiều quốc gia đang phát triển có nhiều điều kiện tương
đồng với Việt Nam. Tác giả bài viết chọn các ngân hàng thương mại hai nước là
Indonesia và Thái Lan vì dữ liệu mà chúng tôi thu thập từ các nước khác trong Đông
Nam Á bị hạn chế không đủ độ tin cậy cần thiết. Nghiên cứu mở rộng với dữ liệu 19
ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng TM Indonesia trong giai đoạn từ 2009 đến
cuối 2017.
Nghiên cứu gồm những phần được trình bày như sau
Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Khung lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Bằng chứng thực nghiệm
Phần 5: Kết luận
8
CHƯƠNG 2: Khung lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Trước tiên chúng tôi trình bày các khái niệm cơ bản là rủi ro đạo đức và nợ xấu
ở phần khung lý thuyết. Cũng ở phần khung lý thuyết chúng tôi nêu ra các nghiên cứu
giả thiết về việc làm tăng nợ xấu của Berger và DeYoung (1997).
Tiếp đó bài viết của chúng tôi sẽ nêu ra những nghiên cứu trước đây chỉ ra bằng
chứng về tồn tại các rủi ro đạo đức. Thực ra không có một biến số nào tên là rủi ro đạo
đức, mà các nghiên cứu trước đây chứng minh việc tồn tại rủi ro đạo đức một cách gián
tiếp từ việc làm tăng nợ xấu.
2.1. Khung lý thuyết
2.1.1 Nợ xấu (non performing loan):
Đầu tiên thuật ngữ “nợ xấu” trong tiếng Anh theo tài liệu ngân hàng nhà nước
Việt Nam là non performing loans. “loans” là các khoản vay. ”non performing” là
không được thực hiện. Theo IMF, “non performing loans” là các khoản vay được xác
định là khoản thanh toán hợp đồng không được thực hiện trong 90 ngày kể từ ngày đáo
hạn. Các khoản thanh toán lãi hoặc nợ gốc quá hạn 90 ngày trở lên (theo Bloem và cộng
sự,2005)
Theo đó “non performing loan” được dịch là nợ xấu trong tài liệu này.
Có một thuật ngữ khác tương tự là “bad debt”, bad là xấu, debt là nợ. Vậy bad
debt và non performing loan có gì khác nhau?
Đến với định nghĩa về bad debt ở một vài từ điển nổi tiếng.
“Bad debt” là một khoản lỗ mà một công ty phải gánh chịu khi tín dụng được mở
rộng cho khách hàng trở nên vô giá trị, vì con nợ bị phá sản, có vấn đề tài chính hoặc vì
không thể thu được. Nó được ghi lại ở phần mở rộng trên báo cáo thu nhập. (ngoại bảng)
(theo investodia.com)
Bad debt là khoản nợ dường như không được trả lại. (theo từ điển Cambridge).
Bad debt là một khoản tiền đã được cho vay nhưng không có khả năng được trả.
(Theo từ điển Collin)
9
Theo đó “bad debt” và “non -performing loans” có điểm chung là khoản một
khoản tiền đã được cho vay đã quá hạn để con nợ chi trả. Điểm khác biệt NPL là khoản
vay quá hạn có thời hạn cụ thể từ 90 ngày trở lên và “bad debt” là khoản vay dường như
không được trả lại (không có thời hạn cụ thể cho khoản vay quá hạn)
Theo đó, thuật ngữ từ đó thuật ngữ tiếng việt “nợ xấu” trong bài viết của chúng
tôi là “non -performing loans”
Theo IMF, “non performing loans” là các khoản vay được xác định là khoản thanh
toán hợp đồng không được thực hiện và xác định thiệt hại cả lãi và vốn gốc của khoản
vay đó. (theo Bloem và cộng sự,2005).
Cũng theo IMF, không có định nghĩa duy nhất về nợ xấu. Các định nghĩa của quốc
gia khác nhau, và người ta nhận ra rằng có thể những gì phù hợp ở một quốc gia có thể
không giống ở một quốc gia khác.
Nợ xấu là khi các khoản thanh toán lãi hoặc nợ gốc quá hạn 90 ngày trở lên, hoặc
các khoản thanh toán lãi từ 90 ngày trở lên đã được vốn hóa, tái cấp vốn, hoặc trì hoãn
bằng thoả thuận, hoặc các khoản thanh toán chậm hơn 90 ngày, nhưng có những lý do
khác chẳng hạn như một người nộp đơn phá sản.
Sau khi khoản vay được phân loại là nợ xấu, khoản vay đó (hoặc bất kỳ khoản vay
thay thế nào) đều được phân loại như vậy cho đến khi bị xoá sổ hoặc thanh toán lãi suất
hoặc tiền gốc được nhận từ khoản vay này hoặc các khoản nợ tiếp theo mà thay thế bản
gốc.
Tiêu chí quá hạn 90 ngày thường được sử dụng nhưng không phổ quát khoản nợ xấu
không thể được phân loại lại là không nợ xấu đơn giản bằng cách thay thế chúng bằng
các khoản vay mới.
Vì tiêu chí 90 ngày không phổ quát nên bất kỳ sự so sánh quốc tế nào liên quan đến
NPL đều cần siêu dữ liệu liên quan đến thực tiễn quốc gia.
10
Định nghĩa nợ xấu của Ngân hàng nhà nước VN: Theo quyết định của Ngân hàng
nhà nước Số: 493/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành quy định về phân loại nợ:
“Nợ xấu” (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau:
Nợ nhóm 1 được gọi là Nợ đủ tiêu chuẩn là Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng
đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Đây là khoản nợ tốt tức là các khoản nợ được trả đúng hạn
Nợ nhóm 2 được gọi là Nợ cần chú ý là Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày. Các khoản
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Đây là các khoản nợ quá hạn nhưng không được định nghĩa nợ xấu
Nợ nhóm 3 được gọi là Nợ dưới tiêu chuẩn là Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu
lại.
Nợ nhóm 4 được gọi là Nợ nghi ngờ là Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày. Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
Nợ nhóm 5 được gọi là Nợ có khả năng mất vốn là Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ
quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Theo đó cả IMF và ngân hàng nhà nước Việt Nam đều có đồng quan điểm về định nghĩa
nợ xấu.
Hu và cộng sự (1999) đưa ra ý kiến về NPL: các khoản nợ xấu (NPL) có thể được
coi là đầu ra không mong muốn hoặc được tính chi phí cho một ngân hàng làm giảm
hiệu suất hoạt động của ngân hàng. Rủi ro từ nợ xấu chủ yếu phát sinh khi môi trường
11
kinh tế bên ngoài xấu đi như trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Kể từ cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á năm 1997, nợ xấu đã tích lũy nhanh chóng ở nhiều nền kinh tế châu Á.
Việc kiểm soát nợ xấu là rất quan trọng cho cả hiệu suất tổng thể của một ngân hàng
riêng lẻ và môi trường tài chính của một nền kinh tế.
Tóm tại, tuy có nhiều định nghĩa về nợ xấu nhưng nợ xấu được định nghĩa cụ thể
là khoản vay được xác định là khoản thanh toán hợp đồng không được thực hiện quá
hạn từ 90 ngày trở lên. Tỷ lệ nợ xấu là giá trị nợ xấu chia cho tổng số nợ cho vay khách
hàng của ngân hàng. Khá nhiều nghiên cứu đồng ý với cách định nghĩa này IMF, Ngân
hàng nhà nước VN, Ngân hàng nhà nước Thái Lan (1998), Zhang và cộng sự (2015), …
Khá nhiều các nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu. Tuy nhiên trong nghiên cứu
của Berger và DeYoung (1997) đưa ra 4 giả thuyết gây ra việc tăng lên tỷ lệ nợ xấu của
các ngân hàng
Giả thuyết xui xẻo: Sau khi các khoản cho vay trở nên quá hạn hoặc không trả
được, ngân hàng bắt đầu chi thêm chi phí quản lý và chi phí xử lý các khoản cho vay có
vấn đề này. (bad luck hypothesis)
Giả thuyết “lướt qua”: ngân hàng quyết định quan trọng đánh đổi giữa chi phí
hoạt động ngắn hạn và các vấn đề về hiệu suất các khoản cho vay trong tương lai. Ngân
hàng giảm đi chi phí trong ngắn hạn làm giảm chất lượng quản lý khoản vay gây ra các
khoản nợ xấu trong dài hạn. Lượng tài nguyên được phân bổ cho việc giám sát các
khoản vay ảnh hưởng đến cả chất lượng cho vay và hiệu quả chi phí được đo lường. Các
ngân hàng giảm các nổ lực làm việc dành cho việc kiểm định hồ sơ khách hàng đi vay,
thẩm định tài sản thế chấp. Và các ngân hàng không giám sát đúng mức dẫn đến tình
trạng các khoản vay khách hàng đầu tư các dự án không đúng mục tiêu ban đầu đề ra.
Các khoản vay đó dần dần trở thành các khoản vay trở thành nợ xấu nếu chất lượng dự
án không tốt. Tóm lại ngân hàng giảm đi chi phí trong ngắn hạn gây ra việc nợ xấu tăng
lên trong dài hạn
12
Giả thuyết "quản lý kém": Những nhà quản lý cấp thấp không giám sát và kiểm
soát đầy đủ chi phí hoạt động của các ngân hàng, điều này được phản ánh trong hiệu
quả chi phí thấp. Các nhà quản lý ở các ngân hàng này cũng không thực hiện đúng quy
trình bảo lãnh, theo dõi, và kiểm soát khoản vay. Theo đó các nhà quản lý gặp phải các
vấn đề: có kỹ năng kém trong việc chấm điểm tín dụng và do đó chọn tỷ lệ cho vay
tương đối cao, không đủ thẩm quyền trong việc thẩm định giá trị của tài sản thế chấp
được cam kết so với các khoản vay gặp khó khăn trong việc theo dõi và kiểm soát người
vay sau khi các khoản vay được ban hành để đảm bảo rằng các điều khoản trong hợp
đồng được tuân theo. Và cuối cùng gây ra các khoản nợ quá hạn tăng cao.
Giả thuyết về “rủi ro đạo đức” là một bên gây ra các rủi ro và một bên khác gánh
chịu hậu quả phần rủi ro và không thể dễ dàng buộc tội hoặc ngăn chặn rủi ro đó. Theo
giả thuyết rủi ro đạo đức thì các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp gặp phải rủi ro
đạo đức bằng cách tăng mức độ rủi ro của khoản cho vay, dẫn các khoản cho vay không
phù hợp với mục đích vay ban đầu cao hơn trong các năm tiếp theo và cuối cùng dẫn
đến nợ xấu cao hơn trong tương lai. Các ngân hàng có nguồn vốn lớn có thể không đối
mặt với các khuyến khích rủi ro đạo đức vì nếu cho vay những khoản vay không phù
hợp có thể ngân hàng bị thiệt hại lớn. Ngược lại các ngân hàng nhỏ dễ gặp các rủi ro
đạo đức. (Berger và cộng sự 1997).
Bốn giả thuyết này không loại trừ lẫn nhau. Trong một trường hợp cực đoan, cả
bốn giả thuyết có thể ảnh hưởng đến cùng một ngân hàng cùng một lúc. Bất kỳ mất vốn
nào do không may mắn, quản lý tồi và lướt qua có thể khiến ngân hàng làm tăng bởi rủi
ro đạo đức và chấp nhận rủi ro gia tăng. (Berger và cộng sự 1997)
13
Nợ xấu
Là khoản vay được xác định là khoản thanh toán hợp đồng không được thực hiện quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tỷ lệ nợ xấu là tổng số nợ xấu chia cho tổng số tiền cho vay khách hàng của ngân hàng
4 giả thuyết gây tăng nợ xấu
Giả thuyết "Không may mắn "
Giả thuyết “lướt qua”
Sau khi các khoản cho vay trở nên quá hạn hoặc không trả được, ngân hàng bắt đầu chi thêm nỗ lực quản lý và chi phí xử lý các khoản cho vay có vấn đề này NH giảm chi phí hoạt động ngắn hạn làm giảm chất lượng quản lý khoản vay gây ra các khoản nợ xấu trong dài hạn
Giả thuyết "quản lý kém"
Các nhà quản lý cấp thấp không giám sát và kiểm soát dẫn đến giám sát kém dẫn đến một số lượng lớn các khoản vay không hiệu quả
Giả thuyết “rủi ro đạo đức”
Các ngân hàng có vốn tương đối thấp đáp ứng các ưu đãi rủi ro đạo đức bằng cách tăng mức độ rủi ro của danh mục cho vay
Một trường hợp cực đoan, cả bốn giả thuyết có thể ảnh hưởng đến cùng một ngân hàng cùng một lúc
Bảng 1: Bảng tóm tắt khung lý thuyết nợ xấu
(nguồn: tác giả tự tổng hợp)
2.1.2 Rủi ro đạo đức
Khái niệm rủi ro đạo đức:
Trong lĩnh vực tài chính cụ thể trong ngành ngân hàng, nhà kinh tế học Paul
Krugman (từng được giải Nobel kinh tế) đưa ra định nghĩa rủi ro đạo đức được hiểu là
“trường hợp khi một bên đưa ra các quyết định liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro,
trong khi bên kia phải chịu tổn thất nếu các quyết định đó thất bại” (Paul, 2009). Ý
14
tưởng là mọi người có thể bỏ qua các hàm ý về mặt đạo đức của các lựa chọn của họ:
thay vì làm những gì là đúng, họ làm những gì lợi ích nhất cho họ.
Rủi ro đạo đức là rủi ro mà một bên tham gia giao dịch không ký kết hợp đồng
một cách thiện chí, đã cung cấp thông tin sai lệch về tài sản, nợ phải trả hoặc năng lực
tín dụng của mình. Các rủi ro đạo đức có thể xuất hiện bất cứ khi nào hai bên thỏa thuận
với nhau. Mỗi bên trong hợp đồng có thể có cơ hội đạt được từ hành động trái với các
nguyên tắc được quy định trong thỏa thuận. (Investopedia)
Theo từ điển Britannica, rủi ro đạo đức, nguy cơ một bên xảy ra khi phụ thuộc
vào hành vi đạo đức của người khác. Rủi ro gia tăng khi không có cách hiệu quả để kiểm
soát hành vi đó. Rủi ro đạo đức phát sinh khi hai hoặc nhiều bên tạo thành một thỏa
thuận hoặc hợp đồng và bản thân thỏa thuận cung cấp động cơ cho hành vi sai phạm
bằng cách bảo đảm một bên không có trách nhiệm.
Khái niệm về rủi ro về đạo đức xuất phát từ ngành bảo hiểm. Theo nghiên cứu
của Dembe và Boden (2000), thuật ngữ này xuất hiện vào thế kỷ 17 và được sử dụng
rộng rãi bởi các công ty bảo hiểm bằng tiếng Anh vào cuối thế kỷ 19. Vì bảo hiểm là
một cách để chuyển rủi ro cho người khác.
Theo Andrew Beattie(2018), các công ty bảo hiểm lo lắng rằng bằng cách cung
cấp các khoản thanh toán để bảo vệ chống lại thiệt hại do tai nạn, họ thực sự có thể
khuyến khích các rủi ro, dẫn đến việc họ phải trả nhiều hơn cho các khoản bồi
thường. Các công ty bảo hiểm lo sợ rằng thái độ "không lo lắng, được bảo hiểm" sẽ dẫn
đến những người mua bảo hiểm va chạm với xe khác hoặc lái xe không cẩn thận hoặc
do những người có bảo hiểm hỏa hoạn khi hút thuốc trên giường. Khi đó bên bảo hiểm
hứng chịu rủi ro, tổn thấy mà bên mua bảo hiểm gây ra.
Trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, một số nghiên cứu đã phân tích các
khoản tích luỹ tùy ý để giải quyết các hành vi làm mịn thu nhập trong ngành ngân hàng,
(the earnings-smoothing hypothesis) để tăng giá trị của công ty. Theo lý thuyết lương
15
thưởng là các nhà quản lý ngân hàng đưa ra quyết định của công ty cố gắng tối ưu hóa
giá trị hiện tại của các khoản thanh toán kế hoạch thưởng của họ. Các giám đốc điều
hành được mong đợi và khuyến khích sử dụng thủ thuật và kỹ năng của họ để đạt được
khoản lương thưởng tốt hơn, nhưng trong thực tế họ cũng có thể sử dụng quyết toán sổ
sách theo ý của họ để thao túng báo cáo tài chính.
Tuy nhiên Balboa và cộng sự (2013), đưa ra các ý kiến khác trong đó nhà quản
lý ngân hàng sử dụng 2 chiến lược big-bath (gột rửa báo cáo tài chính) và cookie-jar (Lọ
kẹo ngọt) để làm thu nhập tăng giảm để tăng số lương thưởng của nhà quản lý.
Sử dụng chiến lược Lọ kẹo ngọt: Sử dụng các chiến lược tăng thu nhập khi thu
nhập khi thu nhập dương và đáng kể. Khi đó nhà quản lý được một lượng lương thưởng
tăng lên.
Sử dụng chiến lược gột rửa báo cáo tài chính: Chiến lược giảm thu nhập này
thường còn được gọi "tiết kiệm cho một ngày mai tốt hơn" trong các kỹ thuật kế toán,.
Là chiến lược của nhóm quản lý nhằm thao túng báo cáo thu nhập của công ty để làm
cho kết quả kém thậm chí trông tệ hơn để làm cho kết quả trong tương lai tốt hơn. Chiến
lược này thường được thực hiện để làm kết quả một năm tồi tệ để một công ty có thể
tăng thu nhập của năm tiếp theo một cách giả tạo. Làm nhà quản lý nhận được tiền
thưởng lớn hơn trong tương lai.
Trong hoạt động ngân hàng thương mại, rủi ro đạo đức được sinh ra từ chính hoạt
động kinh doanh thường ngày của ngân hàng và việc các khách hàng khi sử dụng vốn
vay của các ngân hàng không đúng mục đích trong hợp đồng. Rủi ro đạo đức có thể xảy
ra đối với nhà quản lý ngân hàng: Nhà quản lý có thể có quan hệ lợi ích với khách hàng
ví dụ như quan hệ họ hàng khách hàng hoặc nhà quản lý ngân hàng có người nhà đầu tư
vào các dự án. Mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn, không đủ điều kiện thế chấp,
nhưng vì các lợi ích của cá nhân, các nhà quản lý cho vay vốn không đúng mục đích
dẫn thiệt hại là ngân hàng
16
Theo Vũ Thanh Hà và Trần Thu Hường (2012), rủi ro đạo đức cũng có thể xảy
ra khi ngân hàng chạy theo lợi nhuận trước mắt mà nới lỏng quá mức các các chỉ tiêu
chất lượng tín dụng nhằm đáp ứng và nắm bắt cơ hội thị trường mà ngân hàng bỏ qua
các quy tắc trong việc thẩm định, giám sát và không đưa ra các điều kiện ràng buộc phù
hợp đối với khách hàng cho vay. Các khoản tín dụng có thể tăng lên nếu các dự án thành
công có thể đem đến lợi nhuận cho ngân hàng nhưng khi dự án không thành công, các
công ty không thể trả nợ cho ngân hàng từ đó gây ra nợ xấu.
Rủi ro đạo đức xuất phát từ khách hàng: Người đi vay bao giờ cũng hiểu rõ mục
đích sử dụng những khoản vay trong khi người cho vay thì không nắm rõ. Rủi ro đạo
đức là ở việc khách hàng vay sử dụng những khoản vay không đúng mục đích cam kết
trong hợp đồng vay, sử dụng vốn đầu tư sai trình tự, đầu tư vào những dự án rủi ro.
Người đi vay sử dụng các khoản vay một cách quá mạo hiểm và không có hiệu quả hoặc
đánh bạc trên vốn vay của ngân hàng. Từ việc đầu tư vào các dự án quá rủi ro nếu dự
án thành công khách hàng được lợi và ngân hàng lấy được tiền gốc và lãi nhưng nếu dự
án không thành công khách hàng chỉ phải chịu điểm tín dụng thấp nhưng ngân hàng bị
một khoản nợ xấu lớn. Chính là sự bất cân xứng về thông tin, mà nếu bên cho vay không
giám sát được nguồn thông tin sẽ dẫn tới rủi ro đạo đức khi khách hàng vay vốn từ ngân
hàng.
2.2 Các nghiên cứu trước đây chứng minh sự tồn tại rủi ro đạo đức dựa
trên việc tăng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng TM:
Thực ra không có một biến số nào tên là rủi ro đạo đức mà các nghiên cứu trước
đây chứng minh việc tồn tại rủi ro đạo đức một cách gián tiếp từ việc tăng tỷ lệ nợ xấu
trong các doanh nghiệp ngân hàng. Rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng được phân
loại 4 vấn đề:
- Vấn đề rủi ro đạo đức “Too big to fail”
- Vấn đề rủi ro đạo đức phát sinh từ bảo hiểm tiền gửi
17
- Vấn đề cơ cấu vốn ngân hàng
- Vấn đề lý thuyết hành vi ngưỡng nợ xấu
Lần lượt 4 vấn đề được trình bày:
2.2.1 Vấn đề rủi ro đạo đức “Too big to fail”
Một số ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế, khi các ngân hàng này sụp
đổ thì các chủ sở hữu và nhà quản lý chịu rất ít hậu quả. Nhưng sự sụp đổ của ngân hàng
này lại gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Với giả định này, các bên liên
quan trong các tổ chức tài chính đã phải đối mặt với một loạt các kết quả mà họ sẽ không
chịu toàn bộ chi phí cho các rủi ro mà họ gây ra. Người gánh chịu rủi ro lớn nhất là
người gửi tiền. Tiếp đó, ngân hàng sụp đổ gây ra khủng hoảng trong nền kinh tế. Như
vậy một bên thực hiện là các nhà quản lý ngân hàng nhưng bên gánh chịu hậu quả là
người gửi tiền và toàn bộ nền kinh tế. Một số các nghiên cứu nói đến rủi ro “Too big
too fail”, theo đó nhiều bằng chứng thực nghiệm cho ta thấy quy mô của ngân hàng tác
động đồng biến với khoản nợ xấu của ngân hàng.
Các chương trình giải cứu tài chính của các tổ chức tín dụng của chính phủ,
ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức khác có thể khuyến khích cho vay rủi ro trong
tương lai nếu những người chấp nhận rủi ro tin rằng họ sẽ không phải gánh chịu toàn bộ
tổn thất tiềm năng. Các nghiên cứu của Boyd và cộng sự (1996) và Zhang (2016) đưa
ra các ý kiến về too big too fail đang diễn ra ở Mỹ và TQ hai nước có nền lớn nhất:
Theo Boyd và cộng sự (1996) chính sách "Too big to fail" (TBTF). Cho dù
chính sách được chính thức tuyên bố (như ở Hoa Kỳ) hay không thì chính sách như vậy
vẫn tồn tại. TBTF đưa ra một lợi thế cạnh tranh không công bằng, không mong đợi khi
các ngân hàng lớn, vì nó đảm bảo trách nhiệm pháp lý miễn phí cho ngân hàng lớn.
Theo Zhang (2016), nếu các nhà quản lý kỳ vọng rằng chính phủ sẽ hỗ trợ các
ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn, chính họ sẽ làm tăng nguy cơ chấp nhận sự rủi
ro quá mức khi cân nhắc về các chi phí. Nếu các ngân hàng dự đoán rằng chính phủ có
thể can thiệp, tại một giá trị ngưỡng nguy cấp, để hỗ trợ các ngân hàng có mức nợ xấu
cao, thì lúc này chính họ khiến tỷ lệ nợ xấu tăng lên mức cao hơn.
18
Để chứng minh rủi ro đạo đức “too big to fail”, Hakkon Kim (2015) và Gropp
và cộng sự (2010) và Zhang (2016) tìm thấy mối quan hệ biến quy mô ngân hàng tác
động đồng biến tỷ lệ nợ xấu từ đó chứng minh giả thuyết rủi ro đạo đức.
Nghiên cứu Hakkon Kim (2015) xem xét mối quan hệ giữa cấu trúc quy mô
ngân hàng và tính ổn định của các tổ chức tài chính bằng cách sử dụng dữ liệu ngân
hàng thương mại từ tám nước châu Á lớn Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan, Indonesia,
Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, và Philippines dữ liệu theo năm từ 1994 đến 2012 mẫu
bao gồm 6,924 quan sát năm công ty và họ sử dụng dữ liệu của NH Malaysia, Indonesia,
Hàn Quốc, Thái Lan và Philippines vì những các nước trải qua cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á. Và Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản được chọn vì ngân hàng những
nước này có thị trường ngân hàng lớn ở châu Á. Sự gia tăng thị phần của các ngân hàng
lớn ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng nhỏ ở Châu Á. Bằng chứng
thực nghiệm của cho thấy các ngân hàng lớn hơn ở các thị trường châu Á chủ yếu có xu
hướng có tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn, tỷ lệ thanh khoản thấp hơn và khoảng cách dẫn tới
phá sản xa hơn. Rủi ro về đạo đức của các ngân hàng lớn của các ngân hàng lớn do các
chính sách "too big to fail" có thể ảnh hưởng không tốt đến quản lý sự ổn định tài chính
của ngành ngân hàng. Cần có sự giám sát chặt chẽ hơn đối với sự ổn định tài chính của
các ngân hàng lớn trong khu vực này. Sự hiện diện của các ngân hàng lớn làm gia tăng
sức mạnh thị trường của các ngân hàng lớn và làm tăng rủi ro hệ thống do tập trung các
ngân hàng lớn. Với sức mạnh từ thị phần lớn của các ngân hàng lớn có thể sẽ đẩy mạnh
sự độc quyền trong các các khoản vay. Nghiên cứu đưa ra vấn đề rủi ro hệ thống khi đó
các ngân hàng lớn có thị phần quá lớn và vấn đề too big too fail.
Chính phủ Trung Quốc đã trợ cấp lượng lớn vốn điều lệ vào hệ thống ngân hàng
trong thời gian 2003-2008, cho phép các ngân hàng để thực hiện các khoản cho vay và
hạn chế nợ xấu trong thời gian đó (Zhang 2016). Cũng theo Zhang, quản lí nợ xấu và
rủi ro đạo đức một các quá mức cũng có thể làm cho hệ thống ngân hàng mất đi sự ổn
định và góp phần vào một cuộc khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng của Mỹ năm
2008 là một ví dụ điển hình. Sự quan tâm trái chiều và rủi ro đạo đức trong ngành ngân
19
hàng là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng thương
mại.
2.2.2. Vấn đề rủi ro đạo đức phát sinh từ bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là một hệ thống trong đó thanh toán được thực hiện bởi các
ngân hàng để một tổ chức mà sẽ trả cho khách hàng của ngân hàng của họ tiền lại nếu
đó là ngân hàng bị phá sản (từ điển Cambridge). Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn
trả tiền gửi cho người được gửi tiền trong hạn mức chi trả tiền bảo hiểm khi tổ chức
ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi
cho người gửi tiền. Với mục đích tốt bảo hiểm tiền gửi có thể bị lạm dụng bởi các ngân
hàng. Người ta tin rằng bảo hiểm tiền gửi tự do khuyến khích sự liều lĩnh và rủi ro vô
tâm đối với các nhà quản lý của các tổ chức ngân hàng, làm tăng nợ xấu. Để chứng minh
giả thuyết rủi ro đạo đức từ vấn đề bảo hiển tiền gửi các nghiên cứu Nier (2013) và Kim
(2014), họ cho thấy mối quan hệ: tiền gửi ảnh hưởng xấu hiệu quả hoạt động của ngân
hàng.
Erlend Nier and Ursel Baumann (2013) nghiên cứu sử dụng dữ liệu ngân hàng
nhiều quốc gia lớn trên thế giới bao gồm các quan sát trên 729 ngân hàng tư nhân của
32 quốc gia khác nhau trên thế giới từ năm 1993 đến 2000. Một ngân hàng sụp đổ (mất
tính thanh khoản hoặc phá sản) có thể gây ra chi phí xã hội quá lớn. Điều này có thể
khiến các chính phủ bảo lãnh, thay vì cho các ngân hàng phá sản. Nhưng chính phủ lại
lo lắng loại bảo hiểm ngầm từ chính phủ tạo ra các rủi ro đạo đức. Do đó, chính phủ
thường sẽ cố gắng duy trì hệ thống ngân hàng bằng cách giới hạn gói cứu trợ cho các
ngân hàng quan trọng. Nghiên cứu của họ đưa ra bằng chứng chứng minh về tác động
của các chương trình bảo hiểm tiền gửi rõ ràng bằng cách phân tích tác động của bảo
hiểm tiền gửi của ngân hàng tạo ra rủi ro về đạo đức.
Trong báo cáo Kim (2014), phân tích tác động của bảo hiểm tiền gửi đối với
rủi ro của các ngân hàng đối với các nước ASEAN và Hàn Quốc. Việc sử dụng bộ dữ
liệu bảng bao gồm 406 ngân hàng trên khắp các quốc gia mẫu của nghiên cứu cho thấy
các ngân hàng nghiêm túc trong việc đánh giá rủi ro với sự có mặt của bảo hiểm tiền
20
gửi. Tác động bất lợi của bảo hiểm tiền gửi càng ngày càng trầm trọng hơn và rủi ro đạo
đức của bảo hiểm tiền gửi có thể được hạn chế dựa trên hệ thống chất lượng quản lý
ngân hàng tốt hơn.
2.2.3. Vấn đề cơ cấu vốn ngân hàng:
Theo giả thuyết này, các ngân hàng có vốn tương đối thấp có thể có các hành
vi rủi ro đạo đức bằng biện pháp tăng mức độ rủi ro của khoản cho vay, đánh bạc trên
các khoản cho vay và dẫn đến các khoản vay không phù hợp cao ngày càng cao hơn
trong tương lai từ đó gây ra tỷ lệ nợ xấu cao hơn. (Berger và DeYoung, 1997). Để chứng
minh vấn đề này các nghiên cứu Louizs (2012) và Martin (2012) tìm thấy mối quan hệ:
công ty có tỷ lệ vốn chủ sở hữu lớn ít rủi ro hơn, ít tỷ lệ nợ xấu hơn các công ty có vốn
chủ sở hữu nhỏ. Theo Lee (2008) ngân hàng có quyền sở hữu nội bộ cao hơn theo đuổi
các hoạt động ít rủi ro hơn so với các ngân hàng có quyền sở hữu nội bộ thấp hơn. Theo
Fu và cộng sự (2010) ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn hơn có rủi ro đạo đức lớn
hơn. Chúng ta xem xét từng nghiên cứu:
Louizs và cộng sự (2012) sử dụng cơ cấu vốn ngân hàng với tỷ lệ vốn chủ sở
hữu (Solvency Ratio) như một yếu tố quyết định cho nợ xấu, và nghiên cứu thấy rằng
cùng một điều kiện về quy mô ngân hàng, với tỷ lệ vốn chủ sở hữu lớn, có thể giảm
thiểu các hành vi rủi ro và nợ xấu. Zhang sử dụng tỷ lệ vốn cổ phần thường (1 trừ đi tỷ
lệ đòn bẩy tài chính) là một trong những yếu tố quyết định nợ xấu và những tác động
xấu của nó. Điều này liên quan đến tỉ lệ an toàn vốn vì nếu tỉ lệ an toàn vốn cao hơn
hoặc tỷ lệ vốn cổ đông đều sẽ đưa ra đánh giá về ngân hàng này an toàn hơn và có tỷ lệ
nợ xấu thấp hơn.
Một bài báo khác của Martin Koudstaal và cộng sự (2012). Bài báo này đề cập
đến mối liên quan giữa rủi ro và cấu trúc vốn trong các ngân hàng. Xem xét số liệu hàng
quý của các ngân hàng Mỹ từ năm 1993 đến năm 2010, nghiên cứu này nhận thấy rằng
tỉ trọng vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng đến nợ xấu. Khi ngân hàng lựa chọn danh mục
đầu tư rủi ro hơn khi đòn bẩy cao và việc đánh giá rủi ro nhiều hơn sẽ có tác động tiêu
cực đến việc định giá nợ của các ngân hàng có vốn vay cao.
21
Một khía cạnh khác một nghiên cứu Seok Weon Lee (2008) sử dụng dữ liệu
của các ngân hàng Hàn Quốc trong giai đoạn 1999-2006 kiểm tra mối liên quan giữa
cấu trúc sở hữu, nợ xấu và rủi ro đạo đức. Lee xem xét 2 vấn đề: vấn đề đầu tiên quyền
sở hữu nội bộ tác động thế nào đến hoạt động của ngân hàng và rủi ro đạo đức; vấn đề
thứ hai quy định của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc đã trở nên rất thắt chặt và nghiêm
ngặt sau năm 1998 tác động thế nào đến hoạt động ngân hàng và yếu tố rủi ro đạo đức.
Đối với vấn đề đầu tiên tỷ lệ sở hữu nội bộ cao hơn dường như tạo ra cấu trúc
tài chính, danh mục tài sản ngân hàng an toàn hơn và bảo thủ hơn. Chủ sở hữu nội bộ,
hoặc chủ sở hữu đồng thời là người quản lý, làm theo những quy định rất chặt chẽ và
nghiêm ngặt. Với các quy định nghiêm ngặt, các ngân hàng sở hữu nội bộ cao hơn theo
đuổi các chiến lược thận trọng, không tham gia vào các hoạt động nguy hiểm hoặc không
sinh lợi. Ngân hàng có cơ cấu sở hữu nội bộ hay chủ sở hữu là nhà điều hành ít xảy ra
các vẫn đề rủi ro đạo đức, ít dẫn đến các vấn đề nợ xấu hơn. Họ thấy bằng chứng rất rõ
ràng theo đuổi các hoạt động ít rủi ro hơn các ngân hàng có quyền sở hữu nội bộ thấp
hơn.
Đối với vấn đề thứ 2, quy định mới của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc đã trở
nên rất thắt chặt và nghiêm ngặt sau năm 1998. Chủ sở hữu nội bộ có thể nhận thấy
rằng, theo các quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt, chi phí liên quan đến rủi ro ngày
càng tăng và họ sẽ thiệt hại lớn hơn những lợi ích có thể nhận được có từ việc mạo hiểm.
Hơn nữa, trong các kiểm tra đánh giá trước đây của ngân hàng về rủi ro và khả năng
sinh lời, họ thấy rằng các ngân hàng có quyền sở hữu nội bộ cao hơn đạt được khả năng
sinh lời cao hơn và có ít khoản nợ xấu. Tóm lại trong các kiểm tra đánh giá rủi ro và khả
năng sinh lợi của các ngân hàng, Lee cho thấy rằng các ngân hàng có quyền sở hữu nội
bộ cao hơn sẽ có lợi nhuận cao hơn và có ít khoản nợ xấu hơn. Kết quả nghiên cứu cũng
này chỉ ra rằng, sau khi có các quy định nghiêm ngặt, các ngân hàng chủ sở hữu nội bộ
cao hơn theo đuổi các chiến lược thận trọng, không tham gia vào các rủi ro đạo đức hoặc
không có lợi nhuận.
22
Nghiên cứu Fu và cộng sự (2010) đối với ngành ngân hàng TQ xem xét tác
động của cơ cấu sở hữu và quản trị phản ứng thế nào với áp lực pháp lý. Họ cũng thấy
rằng mức độ sở hữu của chính quyền trung ương và quan hệ chính trị, giám đốc điều
hành của ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong hành vi mạo hiểm của các
ngân hàng. Các ngân hàng có quyền sở hữu nhà nước nhiều hơn gây ra các hành rủi ro
đạo đức cao hơn. Kết quả của họ đưa ra những ý kiến về chính sách ủng hộ việc giảm
quyền sở hữu nhà nước của các ngân hàng ở Trung Quốc để nhằm giảm thiểu rủi ro đạo
đức hiện tại và các vấn đề của đại diện kép phát sinh từ chính phủ là cả người quản lý
và cổ đông lớn.
2.2.4 Vấn đề lý thuyết hành vi ngưỡng nợ xấu:
Từ lý thuyết đại diện của Jensen và Meckling (1976) và lý thuyết triển vọng
Kahneman và Tversky (1979), Zhang (2016) tìm ra phương pháp ngưỡng để chứng minh
rủi ro đạo đức tồn tại.
Theo Jensen và Meckling (1976), ngân hàng có thể gặp hai vấn đề rủi ro đạo
đức tạo ra khoản vay có rủi ro cao hơn. Thứ nhất, các nhà quản lý ngân hàng được trả
lương cố định thường theo đuổi các lợi ích của riêng họ bằng cách đầu tư vào các dự án
con cưng (pet project) như quản lý cho phép các khoản cho vay có rủi ro cao hơn. Thứ
hai do mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đông công ty (cụ thể là các ngân hàng), các ngân
hàng có thể chuyển giao rủi ro cho chủ nợ hay chính những người gửi tiền từ đó gây
thiệt hại cho người gửi tiền. Cả 2 vấn đề về rủi ro đạo đức trên đều dẫn đến vấn đề về
tăng trưởng tín dụng từ đó làm tăng nợ xấu.
Theo lý thuyết triển vọng Kahneman và Tversky (1979) chỉ ra rằng người ta
thường sợ đối mặt với rủi ro khi đạt được lợi ích chắc chắn, nhưng lại sẵn sàng tìm kiếm
rủi ro khi đối mặt với sự thua lỗ.
Nếu áp dụng cho trường hợp ngân hàng nhà quản lý sợ đối mặt với rủi ro khi đạt
được lợi ích chắc chắn, nhưng lại sẵn sàng tìm kiếm rủi ro khi đối mặt với sự thua lỗ.
Do đó, điều đó là cơ sở hợp lý để chỉ ra rằng các nhà quản lý ngân hàng luôn có động
cơ chấp nhận rủi ro trong trường hợp xấu khi nợ xấu ở mức cao. (Zhang, 2016). Theo
23
Jensen và Meckling (1976) các nhà quản lý và theo Zhang (2016) mở rộng ra các nhà
quản lý ngân hàng phải đối mặt với một sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích của việc
đánh giá rủi ro quá mức. Rủi ro quá mức có thể mang lại lợi ích cho các ngân hàng về
lợi nhuận cao hơn và cải thiện danh tiếng hoặc cho các nhà quản lý như cơ hội lương
bổng cao hơn. Các nhà quản lý có thể hưởng lợi từ hoạt động tốt hơn của các ngân hàng
khi họ phụ trách. Các nhà quản lý có động lực rõ ràng để đánh bóng hoạt động của mình
để có được lương bổng cao
Zhang (2016) dựa trên 2 lý thuyết triển vọng và lý thuyết đại diện Jensen và
Meckling (1976) đưa ra một cách để xác định hành vi và rủi ro đạo đức là kiểm tra liệu
có một ngưỡng giá trị đặc biệt của tỷ lệ nợ xấu. Theo Zhang (2016), nếu lý do là quản
lý yếu kém hoặc giả thuyết không may mắn thì chúng ta mong đợi một sự gia tăng tỷ lệ
nợ xấu, kéo theo rủi ro như các nhà quản lý cố gắng để giảm bớt thiệt hại thông qua việc
cho vay cao hơn. Chúng ta không mong đợi mỗi ngân hàng cư xử theo chiều hướng rủi
ro. Trong trường hợp như vậy các ngân hàng sẽ giảm giá trị khoản cho vay nhằm làm
giảm nợ xấu khi nợ xấu đang ở dưới ngưỡng. Đồng thời ở mức nợ xấu cao, nhà quản lý
sợ đối mặt với rủi ro khi đạt được lợi ích chắc chắn, nhưng lại sẵn sàng tìm kiếm rủi ro
khi đối mặt với sự thua lỗ. Do đó, điều đó là cơ sở hợp lý để chỉ ra rằng các nhà quản lý
ngân hàng luôn có động cơ chấp nhận rủi ro trong trường hợp xấu (khi nợ xấu ở mức
cao). Cơ sở để nói rằng việc tăng trưởng tín dụng làm tăng nợ xấu dựa trên Nghiên cứu
của Foo và cộng sự (2010).
Nghiên cứu Foo và cộng sự (2010) cho thấy tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm
tăng nợ xấu, giảm lợi nhuận tăng khả năng rủi ro phá sản. Foo và cộng sự điều tra tăng
trưởng của khoản cho vay trong quá khứ có ảnh hưởng như thế nào đến rủi ro của các
ngân hàng từ 14 quốc gia phương tây (12 nước châu Âu, Canada và Mỹ). Sử dụng dữ
liệu Bankscope từ hơn 10.000 ngân hàng tư nhân trong giai đoạn 1997-2005 để kiểm tra
ba vấn đề. Họ điều tra xem liệu tăng trưởng cho vay trong quá khứ có ảnh hưởng đến
tổn thất trong cho vay hay không. Người đi vay không phá ngay lập tức sau khi họ nhận
được khoản vay ngân hàng, tăng trưởng cho vay sẽ trở thành sự gia tăng của các khoản
24
dự phòng cho vay với thời gian độ trễ là vài năm. Thứ hai, họ xem xét mức tăng trưởng
cho vay ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng. Thứ ba, họ phân tích tác động của
tăng trưởng cho vay đối với khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu ngân hàng tài trợ
tăng trưởng cho vay chủ yếu bằng nợ mới, cơ cấu vốn trở nên rủi ro hơn. Sau khi nghiên
cứu họ kết luận 3 vấn đề: Vấn đề đầu tiên rằng tăng trưởng khoản vay trong quá khứ đã
có tác động đồng biến và có ý nghĩa thống kê đối với khoản lỗ của khoản vay trong năm
tới với mức tối đa trong năm thứ ba. Họ cũng đưa ra vấn đề thứ hai, phát hiện ra rằng
tăng trưởng cho vay cũng dẫn đến sự sụt giảm trong thu nhập của ngân hàng. Ở 12 trên
14 quốc gia, tăng trưởng tín dụng cao hơn dẫn đến tỷ lệ vốn thấp hơn và cho thấy giảm
khả năng thanh toán của ngân hàng.
Theo Clair (1992), một ngân hàng muốn tăng thị phần có thể làm giảm tiêu chuẩn
cho vay để thu hút nhiều khách hàng cho vay. Các tiêu chuẩn có thể bao gồm: tài sản
đảm bảo, các khoản đảm bảo cá nhân về người thuê nhà và hợp đồng cho vay. Nếu ngân
hàng giảm điều khoản phi giá trị để thu hút các khách hàng cho vay mới từ đó làm gia
tăng rủi ro của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tăng các khoản cho vay
làm giảm tỷ lệ nợ xấu trong năm đầu tiên, tuy nhiên lại gây ra tăng tỷ lệ nợ xấu trong
các năm tiếp theo. Theo đó khi tăng các khoản cho vay làm tăng mẫu số trong tỷ lệ nợ
xấu như từ đó làm giảm tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu = Khoản nợ xấu/ tổng các khoản cho vay
Như vậy việc tăng các khoản cho vay làm mẫu số tăng lên, làm tỷ lệ nợ xấu giảm
một cách tạm thời. Tuy nhiên tăng các khoản cho vay bằng việc làm giảm chất lượng
các khoản vay gây ra các khoản nợ xấu trong các năm sau đó.
25
Giả thuyết Tác giả Tóm tắt
Boyd và cộng sự (1996) CP Mỹ đảm bảo trách nhiệm miễn phí cho NH gây ra
Zhang (2016)
Nhà quản lý kỳ vọng rằng chính phủ sẽ hỗ trợ các ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn
Hakkon Kim (2015) Ngân hàng TM lớn hơn ở châu Á có tỷ lệ an toàn vốn thấp tỷ lệ thanh khoản thấp hơn khoảng cách dẫn tới phá sản lớn hơn
Vấn đề too big too fail: Ngân hàng sụp đổ gây khủng hoảng tài chính chương trình giải tài chính cứu Chính phủ khích khuyến cho vay rủi ro trong tương lai.
Gropp và cộng sự (2010) Các bảo lãnh của chính phủ gây ra việc chấp nhận rủi ro của NH
Chương trình bảo hiểm tiền gửi tạo ra rủi ro đạo đức Erlend Nier and Ursel Baumann (2013)
Kim (2014) BH tiền gửi gây ra rủi ro đạo đức
Vấn đề bảo hiểm tiền gửi: Bảo hiểm tiền khuyến gửi khích sự liều lĩnh và rủi ro vô tâm của các quản lý ngân hàng
26
Louizs và cộng sự .(2012) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu càng lớn ít nợ xấu, ít rủi ro đạo đức hơn
Martin Koudstaal và cộng sự (2012). Ủng hộ Basel III hướng tới ít đòn bẩy hơn và an toàn vốn cao hơn.
Seok Weon Lee (2008) NH có quyền sở hữu nội bộ cao hơn theo đuổi các hoạt động ít rủi ro hơn
sự
Fu và cộng (2010) Quyền sở hữu nhà nước nhà nước lớn hơn rủi ro đạo đức cao hơn Vấn đề cơ cấu vốn chủ sở hữu NH: Tỷ lệ vốn chủ sở , hữu càng ít ngân hàng có động cơ đánh bạc trên vốn NH
Martin Koudstaal và cộng sự (2012). Tỉ trọng vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng đến nợ xấu
Hellmann và cộng sự (2014) Yêu cầu về vốn làm giảm việc đặt cược vốn chủ sở hữu
Jensen và
Theo Meckling(1976)) Nhà quản lý theo đuổi các lợi ích của riêng họ bằng cách đầu tư vào các pet project, quản lý cho phép các khoản cho vay có rủi ro cao hơn.
và
Kahneman Tversky(1979) Nhà quản lý sợ đối mặt với rủi ro khi đạt được lợi ích chắc chắn, nhưng lại sẵn sàng tìm kiếm rủi ro khi đối mặt với sự thua lỗ.
Vấn đề hành vi ngưỡng nợ xấu
Zhang và cộng sự (2016) NH giảm khoản cho vay nhằm làm giảm nợ xấu khi nợ xấu đang ở mức thấp tăng giá trị khoản cho vay lúc nợ xấu mức cao, làm tăng nợ xấu.
Foo và cộng sự (2010) Tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm tăng nợ xấu, giảm lợi nhuận Tăng khả năng rủi ro phá sản.
Bảng 2: Tóm tắt các nghiên cứu trước đây (nguồn: tác giả tự tổng hợp)
27
CHƯƠNG 3: Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình
3.1.1. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng
Từ việc xem xét rủi ro đạo đức gây ra nợ xấu trong phần nghiên cứu trước đây,
chúng tôi dựa trên mô hình của Zhang (2016) chúng tôi sử dụng mô hình với biến phụ
thuộc là tỷ lệ nợ xấu. Và các biến giải thích (biến độc lập) được đưa ra dựa trên các vấn
đề rủi ro đạo đức
- Vấn đề “Too big to fail” (tạm dịch quá lớn để sụp đổ): Các nghiên cứu trước đây
cho thấy rằng quy mô ngân hàng tác động đồng biến lên tỷ lệ nợ xấu. Khi đó
chúng tôi kiểm tra biến quy mô ngân hàng là một biến độc lập và nợ xấu là biến
phụ thuộc xem thử các quy mô ngân hàng có tác động thế nào đến nợ xấu
Biến giải thích của nghiên cứu là quy mô của ngân hàng.
Size= Logarit tự nhiên của giá trị sổ sách tổng tài sản
- Vấn đề Bảo hiểm tiền gửi: Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho
người gửi tiền trong hạn mức khi tổ chức ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả
năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Với mục đích tốt bảo hiểm tiền gửi có
thể bị lạm dụng bởi các ngân hàng. Người ta tin rằng bảo hiểm tiền gửi tự do
khuyến khích sự liều lĩnh và rủi ro vô tâm đối với các nhà quản lý của các tổ chức
ngân hàng, làm tăng nợ xấu. Một số nghiên cứu trước đây cho thấy cho thấy tác
động của tăng trưởng tiền gửi đồng biến với nợ xấu ngân hàng. Theo đó chúng
tôi kiểm tra xem biến tăng trưởng tiền gửi như là biến độc lập tác động như thế
nào đến nợ xấu (biến phụ thuộc của ngân hàng).
Tốc độ tăng trưởng tiền gửi (deposit growth rate) hay còn gọi là tăng trưởng tín
dụng
DGR= tổng tiền gửi năm nay/ tổng tiền gửi năm trước -1
28
- Vấn đề cơ cấu vốn ngân hàng: tỉ lệ an toàn vốn vì nếu tỉ lệ an toàn vốn cao hơn
hoặc tỷ lệ vốn cổ đông đều sẽ đưa ra đánh giá về ngân hàng này an toàn hơn và
có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn. Khi đó bài nghiên cứu kiểm tra xem biến tỷ lệ vốn chủ
sở hữu có tác động như thế nào đến nợ xấu
Zhang (2016) sử dụng tỷ lệ vốn cổ phần thường (1 trừ đi tỷ lệ đòn bẩy tài chính)
là một trong những yếu tố quyết định nợ xấu này liên quan đến tỉ lệ an toàn vốn
vì nếu tỉ lệ an toàn vốn cao hơn hoặc tỷ lệ vốn cổ đông đều sẽ đưa ra đánh giá về
ngân hàng này an toàn hơn và khi đó ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn (Berger
và công sự, 1997).Vì thu thập dữ liệu tỷ lệ an toàn vốn ở VN rất khó, nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng tỷ lệ vốn cổ phần thường.
ER= Vốn cổ phần/ tổng tài sản
Mô hình kiểm tra ba vấn đề về rủi ro đạo đức: vấn đề too big to fail, vấn để bảo hiểm
tiền gửi và vấn đề cơ cấu vốn ngân hàng
Tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm tăng nợ xấu, giảm lợi nhuận tăng khả năng rủi ro
phá sản. Các khoản vay trong quá khứ đã có tác động đồng biến và có ý nghĩa thống kê
đối với khoản lỗ của khoản vay trong năm tới với mức tối đa trong năm thứ ba.
(Foo và cộng sự, 2010).
Một biến giải thích nữa là Tốc độ tăng trưởng tín dụng (loan growth rate)
Dựa vào các nghiên cứu trước, chúng tôi đưa ra một giả thuyết về mối quan hệ
giữa sự tăng các khoản cho vay của ngân hàng và tỷ lệ nợ xấu
LGR= tổng cho vay năm hiện tại/tổng cho vay năm trước -1
Đồng thời biến l.LGR là biến có độ trễ của LGR cũng được sử dụng.
NPL i t ,
c i
1
LGR i t ,
2
LGR , 1 i t
3
DGR i t ,
4
ER i t ,
5
Size i t ,
, i t
Khi đó chúng tôi áp dụng mô hình cả Zhang (2016):
3.1.2. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng
29
- Vấn đề hành vi:
Theo lý thuyết đại diện của Jensen và Meckling (1976), các nhà quản lý ngân
hàng được trả lương cố định thường theo đuổi các lợi ích của riêng họ bằng cách đầu tư
vào các dự án con cưng như quản lý cho phép các khoản cho vay có rủi ro cao hơn. Thứ
hai do mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đông công ty (cụ thể là các ngân hàng), các ngân
hàng có thể chuyển giao rủi ro cho chủ nợ (chính những người gửi tiền) từ đó gây thiệt
hại cho người gửi tiền. Cả 2 vấn đề về rủi ro đạo đức trên đều có thể dẫn đến vấn đề về
tăng trưởng tín dụng và gây tăng nợ xấu.
Theo Berger và DeYoung (1997) tỷ lệ nợ xấu tăng lên như là kết quả của sự
kém may mắn, quản lý yếu kém, lướt qua và rủi ro đạo đức.
Việc kinh doanh hằng ngày của các ngân hàng đều có một tỉ lệ nhất định cho
các khoản vay có vấn đề. Chúng ta không mong đợi mỗi ngân hàng cư xử theo chiều
hướng rủi ro. Trong trường hợp như vậy các ngân hàng sẽ giảm giá trị cho vay nhằm
làm giảm nợ xấu khi nợ xấu đang ở dưới ngưỡng. Đồng thời ở mức nợ xấu cao nhà quản
lý sợ đối mặt với rủi ro khi đạt được lợi ích chắc chắn, nhưng lại sẵn sàng tìm kiếm rủi
ro khi đối mặt với sự thua lỗ. Do đó, điều đó là cơ sở hợp lý để chỉ ra rằng các nhà quản
lý ngân hàng luôn có động cơ chấp nhận rủi ro trong trường hợp xấu (khi nợ xấu ở mức
cao). (Kahneman và Tversky (1979) (Zhang, 2016). Do đó khi nợ xấu ở mức cao, các
quản lý công ty gia tăng các khoản vay. Tăng trưởng các khoản cho vay của ngân hàng
làm tăng nợ xấu, giảm lợi nhuận tăng khả năng rủi ro phá sản. (Foo và cộng sự,2010).
Từ việc tăng cho vay bằng các làm giảm chất lượng khoản vay tăng các khoản vay mang
tính rủi ro cao, làm nợ xấu tăng lên.
Khi nợ xấu ở dưới ngưỡng giá trị, quản lý ngân hàng cố gắng làm giảm giá trị nợ
xấu, bằng biện pháp giảm cho vay. Tồn tại rủi ro đạo đức trong các ngân hàng có tỷ lệ
nợ xấu vượt quá ngưỡng giá trị, khi đó ngân hàng cho vay nhiều hơn nhưng chất lượng
cho vay giảm từ đó làm tăng nợ xấu.
Với giả thuyết nghiên cứu trên, trong bài viết này sử dụng một mô hình hồi quy
ngưỡng để xác định rủi ro về đạo đức. Mô hình này được thiết kế để phân chia các quan
30
sát về các ngân hàng thành các cấp dựa vào giá trị của một biến đã xác định trước. Mà
trong nghiên cứu này của chúng tôi là NPL với độ trễ là một năm biến ngưỡng với kí
hiệu là NPLt-1. Với NPLt-1 nhỏ hơn ngưỡng giá trị biến LGR tác động nghịch biến lên
NPL, NPLt-1 và lớn hơn ngưỡng giá trị biến LGR tác động nghịch biến NPL
Bài viết sử dụng cả biến LGR và l.LGR vì theo nghiên cứu của Clair(1992) việc
tăng khoản cho vay làm giảm tỷ lệ nợ xấu trong năm và gây tăng nợ xấu trong các năm
tiếp theo. Chúng tôi kiểm tra xem liệu điều đó có xảy ra không.
Mô hình hồi quy ngưỡng Hansen (1999), được thiết kế để phân chia các quan
sát riêng lẻ thành các lớp dựa trên giá trị của một biến được xác định trước. Mô hình đã
được chứng minh là một công cụ hiệu quả khi nghiên cứu các hiệu ứng bất đối xứng có
thể có. Đồng thời Zhang (2016) đã áp dụng hiệu quả mô hình này để chứng minh mô
)
(
)
1
c i
)
LGR , 1 i t
NPL , 1 i t ) X
NPL , i t 3
LGR NPL ( , 1 , i t i t
LGR NPL ( , 1 i t i t , 4
2 NPL ( , 1 i t
LGR , 1 i t
, i t
i t ,
hình ngưỡng nợ xấu. Bài viết, áp dụng mô hình Zhang (2016) như sau:
với X là các biến giải thích khác. Để khẳng định tính vững của giả thiết chúng tôi sử
dụng các biến giải thích trong mô hình đầu tiên để kiểm tra xem tất cả các vấn đề rủi ro
đạo đức đã nêu có tồn tại trong ngành ngân hàng:
LGR = loan growth rate: tốc độ tăng trưởng tín dụng
NPL = NPLs ratio (non-performing loans divided by total outstanding loans): tỷ lệ nợ
xấu
DGR = deposit growth rate: tốc độ tăng trưởng tiền gửi
ER = equity ratio against total assets: tỷ lệ vốn cổ phần
Size = end-of-year total assets (in log term): độ lớn tổng tài sản
31
NPL i t ,
c i
1
LGR NPL ( , 1 , i t i t
) 2
LGR NPL ( , 1 , i t i t
) 4
DGR i t ,
5
ER i t ,
6
Size i t ,
, i t
Model 2:
(
(
NPL i t ,
c i
1
LGR , 1 i t
NPL , 1 i t
) 2
LGR , 1 i t
NPL , 1 i t
) 4
DGR i t ,
5
ER i t ,
6
Size i t ,
, i t
Model 3
(
)
c i
) 3
LGR , 1 i t
NPL , 1 i t
(
NPL , i t LGR , 1 i t
4
1 NPL , 1 i t
LGR NPL ( , 1 , i t i t ) 5
) 2 6
DGR i t ,
LGR NPL ( , 1 , i t i t Size ER i t , i t ,
7
i t ,
Model 4:
Các biến độc lập trong mô hình Ký hiệu Giá trị hệ số hồi quy dự kiến
Tốc độ tăng trưởng của nợ vay LGR Âm khi dưới ngưỡng
Dương khi trên ngưỡng
Quy mô ngân hàng Size Dương
Tỷ lệ vốn cổ phần thường ER Âm
Tốc độ tăng trưởng tiền gửi DGR Dương
Bảng 3: Bảng tổng kết các biến độc lập
(nguồn: tác giả bài viết)
Mô hình 1, không sử dụng hồi quy ngưỡng, sử dụng hồi quy dạng bảng. Xác định tác
động của DGR, LGR, ER, Size lên NPL.
Mô hình 2, sử dụng hồi quy ngưỡng để xác định tác động tốc độ tăng trưởng khoản vay
năm hiện tại lên nợ xấu ở trên ngưỡng và dưới ngưỡng nợ xấu
Mô hình 3, sử dụng hồi quy ngưỡng để xác định tác động tốc độ tăng trưởng khoản vay
năm trước lên nợ xấu năm hiện tại ở trên ngưỡng và dưới ngưỡng nợ xấu.
32
Mô hình 4 sử dụng hồi quy ngưỡng để xác định tác động tốc độ tăng trưởng khoản vay
năm trước và năm hiện tại lên nợ xấu năm hiện tại ở trên ngưỡng và dưới ngưỡng nợ
xấu.
3.2 Dữ liệu và phương pháp thực nghiệm
3.2.1 Dữ liệu:
Bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thu thập từ 19 Ngân hàng TM Việt Nam từ
năm 2009 đến năm 2017, dữ liệu theo năm. Thu thập dựa trên dữ liệu nguồn cafef.vn,
dữ liệu từ bản báo cáo tài chính (bản scan) sau kiểm toán hằng năm của ngân hàng, báo
cáo thường niên (bản scan) của các ngân hàng được công bố trên website ngân hàng đó.
Dữ liệu nợ xấu là tổng 3 nhóm nợ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ
nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) được thu thập trong bảng thuyết minh
báo cáo tài chính. Nếu ngân hàng không công bố có dữ liệu bảng thuyết minh báo cáo
tài chính thì tỷ lệ nợ xấu được trích dẫn từ báo cáo thường niên ngân hàng. Vì cách tính
nợ xấu được ngân hàng nhà nước quy định nên số liệu thu thập giữa 2 cách là giống
nhau.
Dữ liệu ngân hàng TM Thái Lan là dữ liệu được lấy từ 19 ngân hàng TM Thái
Lan và giai đoan từ 2009 đến 2017, dữ liệu lấy theo năm. Dữ liệu được lấy từ trung tâm
dữ liệu Orbis Bank Focus và bankscope do trung tâm dữ liệu- phân tích kinh tế đại hoc
kinh tế TP HCM cung cấp.
Dữ liệu được lấy từ Reuter gồm dữ liệu 26 ngân hàng TM Indonesia hằng năm
từ năm 2009 đến 2017 dữ liệu được lấy từ trung tâm dữ liệu Reuters do trung tâm dữ
liệu- phân tích kinh tế đại hoc kinh tế TP HCM cung cấp.
3.2.2 Phương pháp thực nghiệm:
3.2.2.1 Phương pháp xử lý dữ liệu:
Hồi quy ngưỡng được thực hiện theo phương pháp Fixed effect được đưa ra bởi
Hansen "Threshold effects in non-dynamic panels: Estimation, testing, and inference"
với phương pháp này chúng tôi sử dụng phần mềm Stata với lệnh “xthreg”. xthreg phù
33
hợp với các mô hình dựa trên phương pháp được đề xuất bởi Hansen (1999). Điểm đặc
biệt của của xtheg chỉ hỗ trợ dữ liệu bảng cân bằng hoàn hảo (balanced panel data) tức
không cho phép có dữ liệu nào bị missing. Việc thu thập dữ liệu bị missing là điều không
thể tránh khỏi. Chúng tôi sử dụng các bước xử lý dữ liệu như sau:
- Bước 1: Thu thập dữ liệu thô: Dữ liệu ban đầu chúng tôi thu thập gồm 40 ngân
hàng TM VN, 40 ngân hàng TM Thái Lan và 28 ngân hàng TM Indonesia.
- Bước 2: Loại bỏ dữ liệu ngân hàng có khiếm khuyết dữ liệu quá nhiều: Việc
xthreg yêu cầu không có dữ liệu missing chúng tôi lọc lại dữ liệu bằng việc loại
bỏ dữ liệu ngân hàng có 4 dữ liệu missing trở lên. Và được dữ liệu được 19 ngân
hàng TM VN, 19 ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng TM Indonesia với dữ
liệu missing dưới 1%.
- Bước 3: Xử lý dữ liệu missing. Đó chúng tôi sử dụng phương pháp của Nicholas
J. Cox (Durham University, UK) để xử lý missing dữ liệu. Với dữ liệu missing
dưới 1% vẫn đảm bảo tính chính xác của dữ liệu.
Kết quả: cuối cùng được dữ liệu được thu thập là dữ liệu không có missing Và được
dữ liệu được 19 ngân hàng TM VN, 19 ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng
TM Indonesia.
- Bước 4: Sau đó một kĩ thuật khác được áp dụng là Winsorizing là việc chuyển đổi
số liệu bằng cách loại bỏ giá trị ngoại lai trong thống kê dữ liệu để giảm ảnh hưởng của
giả mạo của giá trị ngoại lai. Phương pháp này được đặt tên theo kỹ sư sinh học Charles
P. Winsor (1895–1951). Người phát minh kĩ thuật này
3.2.2.2. Phương pháp Hồi quy
- Hồi quy ngưỡng được thực hiện theo phương pháp Fixed effect được đưa ra bởi Hansen
"Threshold effects in non-dynamic panels: Estimation, testing, and inference"
Bước 1: Tìm mức ngưỡng của mô hình 2
34
Ở bước này ta tìm được mức ngưỡng và thực hiện Hansen test để kiểm tra mức ngưỡng
phù hợp. Với p-Value nhỏ hơn hoặc bằng 10% cho mức ngưỡng phù hợp, tiếp tục cho
hồi quy ngưỡng
Bước 2: Hồi quy ngưỡng mô hình 2
Làm lại bước 3 tương tự như trên với mô hình 3,4.
Và phương pháp trên được thực hiện cho dữ liệu Ngân hàng TM VN, Thái Lan và
Indonesia.
35
CHƯƠNG 4: Kết quả thực nghiệm
4.1 Kết quả thực nghiệm đối với các ngân hàng TM VN
4.1.1. Dữ liệu và Thống kê mô tả
Variable Mean Std. Dev. Min Max Obs
0.3764379 0.847304 -0.2379591 10.58862 LGR 171
0.4049294 1.422734 -0.5095661 18.11753 DGR 171
0.0904929 0.0384513 1.22E-07 0.2564247 ER 171
31.98591 2.711128 0.0940541 34.72248 SIZE 171
0.0225047 0.0168094 0 0.114 NPL 171
Bảng 4: Thống kê mô tả dữ liệu Ngân hàng TM Việt Nam
(nguồn: tác giả bài viết)
Đầu tiên là thông kê mô tả dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam và thông kê lại dữ liệu
sau khi loại bỏ giá trị ngoại lai.
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
0.3195104 0.3110794 -0.1579829 1.25823 LGRs 171
0.2928353 0.3373405 -0.248198 1.309503 DGRs 171
0.0904929 0.0384513 1.22E-07 0.2564247 ER 171
31.98591 2.711128 0.0940541 34.72248 SIZE 171
0.02224 0.0154205 0.003358 0.0755065 NPLs 171
Bảng 5: Thống kê mô tả dữ liệu Ngân hàng TM Việt Nam sau khi loại bỏ giá trị
ngoại lai (dữ liệu biến LGR, SIZE, NPL được Winsorizing)
(nguồn: tác giả bài viết)
36
Áp dụng kĩ thuật winsorizing lên các biến LGR, NPL thì các giá trị ngoại lai các biến
này bị loại bỏ. Điều này làm loại bỏ sự giả mạo do các giá trị ngoại lai gây ra.
4.1.2. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng
Ở mô hình 1, mô hình không áp dụng hồi quy ngưỡng, hệ số hồi quy của LGR
và biến độ trễ 1 năm của LGR (l.NPL) đều âm có ý nghĩa thống kê cao. Như vậy tăng
trưởng các khoản cho vay (tăng trưởng tín dụng) tác động làm giảm nợ xấu điều này
ngược lại với lý thuyết Foo (Foo cho rằng: Các khoản vay trong quá khứ đã có tác động
đồng biến và có ý nghĩa thống kê đối với khoản lỗ của khoản vay trong năm tới với mức
tối đa trong năm thứ ba.). Các hệ số hồi quy các biến độc lập khác không có ý nghĩa
thống kê
Model 1 Các biến độc lập
LGR -0.013029** (0.0056182)
l.LGR -0.0109928*** (0.0038446)
ER 0.0993023*** (0.0444012)
DGR -0.000609 (0.0047163)
SIZE 0.0001422 (0.0004216)
N 152
R^2 0.1301
Bảng 6: Kết quả hồi quy mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các Ngân hàng TM Việt Nam
(nguồn: tác giả bài viết)
4.1.3. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng
37
interval
trên
Model
Threshold Level γ
Conf. (95%)
P- value
Số mẫu ngưỡng
Số mẫu dưới ngưỡng
Mô hình 2 0.0713
0.0611
0.0725
0.01
6
165
Mô hình 3 0.0713
0.0469
0.0725
0.09
6
165
Mô hình 4 0.0713
0.0634
0.01
165
6
Mô hình hồi quy ngưỡng Hansen (1999) xác định mức ngưỡng của các mô hình
0.0725 Bảng 7: Kết quả kiểm định mức ngưỡng đối với các Ngân hàng TM Việt Nam
(nguồn: tác giả bài viết)
Mức ngưỡng từ 3 phương trình hồi quy (2) (3) (4) được xác định mức chung
0,0713 tức 7,13%. Kết quả kiểm định mức ngưỡng cho ý nghĩa thống kê cao.
Đồng thời kết quả hồi quy trong cả 3 mô hình khẳng định ở dưới mức ngưỡng tỷ lệ nợ
xấu, hệ số hồi quy của LGR có giá trị âm có ý nghĩa thống kê cao, tốc độ tăng trưởng
tín dụng tác động nghịch đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ngược lại ở trên mức
ngưỡng tỷ lệ nợ xấu, hệ số hồi quy của LGR có giá trị dương có ý nghĩa thông kê cao,
tốc độ tăng trưởng tín dụng tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng.
Tức là ở mức tỷ lệ nợ xấu cao việc tăng trưởng tín dụng gây ra tỷ lệ nợ xấu cao hơn. Có
thể ngân hàng khi ở mức nợ xấu cao họ tiến hành đánh bạc để phục sinh, bằng các cho
vay nhiều các khoản rủi ro hơn. Kết quả thực nghiệm đúng với lý thuyết rủi ro đạo đức.
Ở mô hình 3 và mô hình 4, ở mức dưới mức ngưỡng, hệ số hồi quy của biến độ
trễ l.LGR ý nghĩa thống kê vẫn có tác động tương tự như hệ số hồi quy biến không độ
trễ LGR. Khi tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp dưới ngưỡng, việc tăng trưởng tín dụng tiếp tục
tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu một năm sau đó. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao hơn ngưỡng,
việc tăng trưởng tín dụng tiếp tục tác động làm tăng tỷ lệ nợ xấu một năm sau đó.
Với hệ số hồi quy dương có ý nghĩa thống kê cao trong mô hình 2, 3 và 4 Tỷ lệ
vốn chủ sở hữu ER càng lớn tác động làm tăng tỷ lệ nợ xấu. Đây là kết luận ngược lại
với giả thuyết, kết quả cho thấy ngân hàng vốn chủ sở hữu càng nhỏ càng giảm tỷ lệ nợ
xấu hoặc ngược lại. Sở dĩ như vậy vì trong cơ cấu ngành ngân hàng VN có một số ngân
hàng TM VN có một phần sở hữu nhà nước. Có thể các ngân hàng TM có tỷ lệ vốn chủ
38
sở hữu cao là những ngân hàng TM có một phần sở hữu nhà nước và thuộc quyền kiểm
soát bởi cổ đông nhà nước. Với ngân hàng TM có tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp có thể là
các ngân hàng tư nhân không có vốn nhà nước. Và các ngân hàng tư nhân có quyền
kiểm soát bởi các cổ đông tư nhân sẽ bảo vệ tài sản của mình tốt hơn bằng cách giám
Các biến độc lập Model 2
Model 3
Model 4
LGR(l.NPL< γ)
-0.017664***
-0.0176623***
(0.0054733)
(0.0052136)
LGR(l.NPL> γ)
0.0470264***
0.0348525**
(0.0138253)
(0.0136188)
l.LGR(l.NPL< γ)
-0.0133321***
-0.0120175***
(0.0038266)
(0.0035946)
l.LGR(l.NPL> γ)
0.0350935**
0.0244156*
(0.0136246)
(0.0130127)
ER
0.1138867***
0.1162904***
0.1166944***
(0.0384639)
(0.0392222)
(0.0366215)
DGR
-0.0049377
-0.0046692
-0.0003714
(0.004335)
(0.0040256)
(0.0043147)
SIZE
0.0001059
0.0002028
0.0001129
(0.0004022)
(0.0004105)
(0.0003829)
N
152
152
152
0.29
0.19
0.24
sát hoạt động ngân hàng chặt chẽ hơn.
R^2 Bảng 8: Kết quả hồi quy mô hình ngưỡng các Ngân hàng TM Việt Nam
(nguồn: tác giả bài viết)
Các biến Size, DGR không có ý nghĩa thống kê trong tất cả 4 mô hình. Như vây
ta không tìm thấy bằng chứng cho các giả thiết vấn đề “too big to fail” hay vấn để rủi ro
đạo đức vì bảo hiểm tiền gửi trong các ngân hàng TM Việt Nam
39
4.2 Nghiên cứu rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng Thái Lan
4.2.1. Dữ liệu và Thống kê mô tả
Thống kê mô tả
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
LGR 171 0.121108 0.240005 -0.58688 1.536505
DGR 171 0.1533 0.506649 -0.55311 4.997533
ER 171 0.113083 0.073255 -0.20376 0.34045
SIZE 171 23.07028 1.533497 19.65024 25.26796
NPL 171 0.061763 0.09394 2.04E-05 0.56899
Bảng 9: Thống kê dữ liệu 19 ngân hàng TM Thái Lan
(nguồn: tác giả bài viết)
Giống như Dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam. Việc đầu tiên là thống kê mô
tả dữ liệu các ngân hàng TM Thái Lan và thông kê lại dữ liệu sau khi loại bỏ giá trị
ngoại lai. Việc xử lý dữ liệu sẽ làm giảm ảnh hưởng của giả mạo của giá trị ngoại lai.
Bằng việc winsorizing các giá trị ngoại lai của LGR, NPL và DGR bị loại bỏ.
Dữ liệu sau winsorizing
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
LGR 171 0.095293 0.110996 -0.05769 0.280692
DGR 171 0.085941 0.160788 -0.15787 0.373969
ER 171 0.113083 0.073255 -0.20376 0.34045
SIZE 171 23.07028 1.533497 19.65024 25.26796
NPL 171 0.041883 0.025331 0.016235 0.09929
Bảng 10: Thống kê dữ liệu 19 ngân hàng TM Thái Lan sau khi loại bỏ giá trị
ngoại lai
(dữ liệu biến LGR, DGR, NPL được winsorizing)(nguồn: tác giả bài viết)
40
4.2.2 Kết quả thực nghiệm
4.2.2.1 Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng
Các biến độc lập
LGR
Model 1 0.004714 (0.017711)
l.LGR
-0.0213209* (0.0122348)
ER
-0.071791** (0.0320916)
DGR
-0.0037309 (0.0120736)
SIZE
-0.0047841** (0.0021517)
N 152
R^2 0.2292
Bảng 11: Kết quả hồi quy Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các ngân hàng TM Thái Lan
(nguồn: tác giả bài viết)
Ở mô hình 1, mô hình không áp dụng hồi quy ngưỡng, hệ số hồi quy của LGR
dương không có ý nghĩa thống kê và l.LGR âm có ý nghĩa thống kê. Như vậy tăng
trưởng các khoản cho vay (tăng trưởng tín dụng) tác động làm giảm nợ xấu trong năm
tiếp theo điều ngày ngược lại với lý thuyết Foos (Lý thuyết của Foos: Các khoản vay
trong quá khứ đã có tác động đồng biến và có ý nghĩa thống kê đối với khoản lỗ của
khoản vay trong năm tới với mức tối đa trong năm thứ ba.)
Các hệ số hồi quy của Size âm có ý nghĩa thống kê trong mô hình 1 điều này
cho thấy các ngân hàng càng lớn càng ít nợ xấu. điều này ngược lại với giả thiết vấn đề
“too big to fail”
41
Hệ số hồi quy của ER là âm và có ý nghĩa thông kê như vậy Tỷ lệ vốn chủ sở
hữu ER càng lớn tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Phù hợp với giả thuyết ngân hàng vốn
chủ sở hữu càng nhỏ càng gây ra rủi ro đạo đức khi làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
4.2.2.2. Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng
Kiểm định mức ngưỡng của Hansen số liệu các ngân hàng TM Thái Lan. Kết
quả kiểm định mức ngưỡng của của mô hình 2,3,4 xác định mức ngưỡng với mức
ngưỡng có ý nghĩa thông kê cao. Tuy kết quả mức ngưỡng 3 mô hình có chút khác biệt
với giá trị là 5.62% mô hình 2 và 4; là 5.39% là mô hình 3 nhưng khoảng tin cậy của
mức ngưỡng trùng lắp nhau.
interval
Model Threshold Level γ Conf. (95%) P-value Số mẫu trên ngưỡng Số mẫu dưới ngưỡng
Mô hình 2 0.0562 0.0502 0.0568 0 37 134
Mô hình 3 0.0539 0.0497 0.0543 0 41 130
Mô hình 4 0.0562 0.0509 0.0568 0 37 134
Bảng 12: Kết quả kiểm định mức ngưỡng đối với ngân hàng TM Thái Lan
(nguồn: tác giả bài viết)
Đồng thời kết quả hồi quy trong cả 3 mô hình khẳng định ở dưới mức ngưỡng nợ
xấu, hệ số hồi quy của LGR có giá trị âm có ý nghĩa thông kê cao, tốc độ tăng trưởng
tín dụng tác động nghịch đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ngược lại nợ xấu ở trên
mức ngưỡng hệ số hồi quy của LGR có giá trị dương có ý nghĩa thông kê cao, tốc độ
tăng trưởng tín dụng tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Tức là
ở mức nợ xấu cao việc tăng trưởng tín dụng gây ra nợ xấu cao hơn. Có thể ngân hàng
khi ở mức nợ xấu cao họ tiến hành đánh bạc để phục sinh, bằng các cho vay nhiều các
khoản rủi ro hơn. Kết quả thực nghiệm đúng với lý thuyết rủi ro đạo đức.
Ở mô hình 3 và mô hình 4, ở mức dưới mức ngưỡng, như vậy l.LGR vẫn có tác
động tương tự như hệ số hồi quy biến không độ trễ LGR. Khi tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp
42
dưới ngưỡng, việc tăng trưởng tín dụng tiếp tục tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu một năm
sau đó. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao hơn ngưỡng, việc tăng trưởng tín dụng tiếp tục tác
động làm tăng tỷ lệ nợ xấu một năm sau đó.
Với hệ số hồi quy của ER âm có ý nghĩa thống kê cao trong mô hình 2 và âm
không có ý nghĩa thống kê trong các mô hình 3 và 4, tỷ lệ vốn chủ sở hữu ER càng lớn
tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Phù hợp với giả thuyết ngân hàng vốn chủ sở hữu càng
Model 3
Các biến độc lập LGR(l.NPL< γ)
Model 2 -0.035996** (0.0168038)
Model 4 -0.0286347* (0.0168003)
LGR(l.NPL> γ)
0.0679862*** (0.020761)
l.LGR(l.NPL< γ)
l.LGR(l.NPL> γ)
ER
-0.0192729 (0.0360409)
-0.0459971*** (0.0116755) 0.0653081*** (0.0191877) -0.0086827 (0.0356283)
0.0442465* (0.0227042) -0.0317767*** (0.0117968) 0.0372842* (0.0212288) -0.0182483 (0.034936)
DGR
SIZE
0.0004997 (0.0111733) -0.0078342 (0.0064896)
0.0009586 (0.0075446) -0.0125657** (0.0061534)
0.003749 (0.0110104) -0.0107382* (0.0064265)
N
152
152
152
R^2
0.1735
0.1316
0.1810
nhỏ càng gây ra rủi ro đạo đức khi làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
Bảng 13: Kết quả hồi quy của các ngân hàng TM Thái Lan có sử dụng hồi quy ngưỡng
(nguồn: tác giả bài viết)
Các hệ số hồi quy của Size âm có ý nghĩa thống kê trong mô hình 1,3,4 điều
này cho thấy các ngân hàng càng lớn càng ít nợ xấu. Điều này ngược lại với giả thiết
vấn đề “too big to fail”. DGR không có nghĩa thống kê trong tất cả 4 mô hình. Như vây
43
ta không tìm thấy bằng chứng cho các giả thiết vấn đề “bảo hiểm tiền gửi” tại các ngân
hàng TM Thái Lan.
4.3 Nghiên cứu rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng Indonesia
4.3.1 Dữ liêu và thông kê mô tả
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
0.204327 0.371079 -0.40858 4.800621 LGR 234
0.187295 0.317457 -0.35047 3.593093 DGR 234
0.121309 0.04406 -0.03275 0.385543 ER 234
31.34305 1.728315 27.46421 34.65767 Size 234
0.029425 0.040657 2.11E-05 0.509558 NPL 234
Bảng 14: Thống kê dữ liệu 26 ngân hàng TM Indonesia
(nguồn: tác giả bài viết)
Giống như Dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam. Việc đầu tiên là thông kê mô
tả dữ liệu các ngân hàng TM Indonesia và thông kê lại dữ liệu sau winsorizing.
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
LGR 234 0.184528 0.188738 -0.1797 0.840293
DGR 234 0.16173 0.150017 -0.10646 0.490288
ER 234 0.121309 0.04406 -0.03275 0.385543
Size 234 31.34452 1.714199 27.99895 34.44453
NPL 234 0.026849 0.020494 0.002318 0.099532
Bảng 15: Thống kê dữ liệu các ngân hàng TM Indonesia sau khi loại bỏ giá trị ngoại lai
(nguồn: tác giả bài viết)
44
Giống như dữ liệu các Ngân hàng TM Việt Nam các biến LGR, NPL và DGR sẽ được
được loại bỏ các giá trị ngoại lại bằng kĩ thuật winsorizing, làm cho các kết quả hồi quy
chính xác hơn
4.3.2. Kết quả thực nghiệm
4.3.2.1. Mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng
Ở mô hình 1, mô hình không áp dụng hồi quy ngưỡng, hệ số hồi quy của LGR
âm không có ý nghĩa thống kê và hệ số hồi quy của l.LGR âm và có ý nghĩa thống kê.
Model 1 Các biến độc lập
-0.0149351 LGR
(0.009376)
l.LGR -0.0220138***
(0.0061508)
ER -0.0209851
(0.0324824)
DGR -0.0125142
(0.0125736)
SIZE -0.0012975
(0.0013139) 208 N
0.1226 R^2
Bảng 16: Kết quả hồi quy mô hình không sử dụng hồi quy ngưỡng các ngân hàng
TM Indonesia. (nguồn: tác giả bài viết)
Như vậy tăng trưởng tín dụng tác động làm giảm nợ xấu điều ngày ngược lại với
lý thuyết Foos (Lý thuyết của Foos: Các khoản vay trong quá khứ đã có tác động đồng
biến và có ý nghĩa thống kê đối với khoản lỗ của khoản vay trong năm tới với mức tối
45
đa trong năm thứ ba.). Các hệ số hồi quy các biến độc lập khác không có ý nghĩa thống
kê.
4.3.2.2 Mô hình sử dụng hồi quy ngưỡng
Kết quả hồi quy trong cả 3 mô hình khẳng định ở dưới mức ngưỡng nợ xấu, hệ
số hồi quy của LGR có giá trị âm có ý nghĩa thông kê cao, tốc độ tăng trưởng tín dụng
tác động nghịch đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ngược lại ở trên mức ngưỡng
nợ xấu hệ số hồi quy của LGR có giá trị dương có ý nghĩa thông kê cao, tốc độ tăng
trưởng tín dụng tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Tức là ở
mức tỷ lệ nợ xấu cao việc tăng trưởng tín dụng gây ra nợ xấu cao hơn. Kết quả thực
nghiệm đúng với lý thuyết rủi ro đạo đức.
Threshold Conf. interval Số mẫu trên Số mẫu dưới
Model Level(γ ) (95%) P-value ngưỡng ngưỡng
Mô hình 2 0.0686 0.0624 0.0686 0 10 224
Mô hình 3 0.0686 0.0576 0.0686 0 10 224
Mô hình 4 0.0686 0.0635 0.0686 0 10 224
Bảng 17: Kết quả kiểm định mức ngưỡng ngân hàng TM Indonesia
(nguồn: tác giả bài viết)
Ở mức dưới mức ngưỡng tỷ lệ nợ xấu, hệ số hồi quy của biến độ trễ l.LGR dương
ý nghĩa thống kê ở mô hình 3 và dương không có ý nghĩa thống kê mô hình 4, như vậy
l.LGR vẫn có tác động tương tự như hệ số hồi quy biến không độ trễ LGR. Khi tỷ lệ nợ
xấu ở mức thấp dưới ngưỡng, việc tăng trưởng tín dụng (tăng khoản cho vay) tiếp tục
tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu một năm sau đó. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao hơn ngưỡng,
việc tăng trưởng tín dụng (tăng khoản cho vay) tiếp tục tác động làm tăng tỷ lệ nợ xấu
một năm sau đó.
46
Hệ số hồi quy của biến DGR giá trị âm và có ý nghĩa thống kê trong mô hình 3
và âm không có ý nghĩa thống kê trong các mô hình còn lại như vậy. Tốc độ tăng trưởng
tiền gửi gây tác động nghịch biến đối với nợ xấu như vậy không đúng với giả thiết vấn
đề rủi ro đạo đức đối với bảo hiểm tiền gửi.
Các biến độc lập Model 2 Model 3 Model 4
LGR(l.NPL< γ) -0.0259106*** (0.0089089) -0.02831*** (0.009417)
0.0263761* 0.038623*** LGR(l.NPL> γ) (0.0151355) (0.014928) -0.0286788*** -0.03146*** l.LGR(l.NPL< γ) (0.0060995) (0.006302)
0.0129797 0.029314** l.LGR(l.NPL> γ) (0.0140383)
(0.013513) -0.0007707 0.0013912 0.033226 ER (0.0334557) (0.0321525) (0.03314)
-0.00989 -0.024619*** -0.0067147 DGR (0.012217) (0.0080805) (0.0115567)
0.0010694 -0.0007887 -0.00119 SIZE (0.0025254) (0.0024693) (0.00261)
N 208 208 208
R^2 0.2919 0.1725 0.2919
Bảng 18: Kết quả hồi quy ngân hàng TM Indonesia có sử dụng hồi quy ngưỡng.
(nguồn: tác giả bài viết)
Như vậy kết quả thực nghiệm ở 3 nước đều cho thấy tồn tại hành vi rủi ro đạo
đức: Thường ngày các ngân hàng luôn đối mặt với rủi ro nợ xấu. Ở mức tỷ lệ nợ xấu
thấp dưới mức ngưỡng nợ xấu, các ngân hàng giảm các khoản cho vay rủi ro để giảm
thiểu khoản nợ xấu khi đó tỷ lệ tăng trưởng tín dụng âm. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao
trên ngưỡng nợ xấu, các ngân hàng tăng các khoản cho vay rủi ro (tỷ lệ tăng trưởng tín
47
dụng dương) để bù đắp lại mất mát từ nợ xấu. Việc cho vay rủi ro cao hơn không những
không bù đắp vào khoản nợ xấu trước đó mà gây ra nợ xấu lớn hơn trong năm hiện tại
và một năm sau đó. Khi đó ngành ngân hàng đối mặt với rủi ro đạo đức. Các hệ số hồi
Các Ngân hàng TM Việt Nam
Vấn đề too big too fail
Không tìm thấy bằng chứng
Vấn đề bảo hiểm tiền gửi Không tìm thấy bằng chứng
Ngược lại với giả thuyết- ngân hàng vốn chủ sở hữu
Vấn đề cơ cấu vốn chủ sở
càng nhỏ càng ít gây ra rủi ro đạo đức khi làm giảm nợ
hữu NH
xấu hoặc ngược lại.
Vấn đề lý thuyết hành vi
Các giá trị hệ số hồi quy có ý nghĩ thống kê cao
Dưới mức ngưỡng nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng
tác động nghịch biến đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng. Ở trên mức ngưỡng, tốc độ tăng trưởng tín dụng
tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng việc tăng trưởng tín dụng (tăng khoản cho vay) tiếp
tục tác động làm tăng nợ xấu một năm sau đó.
quy các biến độc lập khác không có ý nghĩa thống kê
48
Các ngân hàng TM Thái Lan
Vấn đề too big too fail Ngược lại giả thuyết cho thấy các ngân hàng càng lớn càng ít nợ xấu
Vấn đề bảo hiểm tiền gửi Không tìm thấy bằng chứng
Phù hợp với giả thuyết ngân hàng vốn chủ sở hữu càng nhỏ càng gây ra rủi ro đạo đức khi làm tăng nợ xấu.
Vấn đề cơ cấu vốn chủ sở hữu NH
Vấn đề lý thuyết hành vi Các giá trị hệ số hồi quy có ý nghĩ thống kê cao
Dưới mức ngưỡng nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng tác động nghịch biến đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ở trên mức ngưỡng, tốc độ tăng trưởng tín dụng tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng việc tăng trưởng tín dụng (tăng khoản cho vay) tiếp tục tác động làm tăng nợ xấu một năm sau đó.
Các ngân hàng TM Indonesia
Vấn đề too big too fail Không tìm thấy bằng chứng
Vấn đề bảo hiểm tiền gửi Ngược lại với giả thuyết, Tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi DGR tác động làm giảm nợ xấu
Vấn đề cơ cấu vốn chủ SH Không tìm thấy bằng chứng
Vấn đề lý thuyết hành vi Các giá trị hệ số hồi quy có ý nghĩ thống kê cao
Dưới mức ngưỡng nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng tác động nghịch biến đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ở trên mức ngưỡng, tốc độ tăng trưởng tín dụng tác động cùng chiều đến giá trị tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng việc tăng trưởng tín dụng (tăng khoản cho vay) tiếp tục tác động làm tăng nợ xấu một năm sau đó.
Bảng 19: Tóm tắt kết quả thực nghiệm(nguồn: tác giả tự tổng hợp)
49
CHƯƠNG 5: Kết luận Nghiên cứu này tiến hành kiểm tra rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng Việt
Nam, Thái Lan và Indonesia với dữ liệu bảng hằng năm của 19 Ngân hàng TM Việt
Nam ,19 ngân hàng TM Thái Lan và 26 ngân hàng TM Indonesia. Nghiên cứu của chúng
tôi 4 giả thuyết về rủi ro đạo đức và kiểm tra xem nó có tồn tại ngân hàng các nước này
Đối với lý thuyết rủi ro đạo đức về hành vi ngưỡng nợ xấu: Ở mức tỷ nợ xấu
thấp dưới mức ngưỡng nợ xấu, các ngân hàng giảm các khoản cho vay rủi ro để giảm
thiểu khoản nợ xấu khi đó tỷ lệ tăng trưởng tín dụng âm. Khi ở mức tỷ lệ nợ xấu cao
trên ngưỡng nợ xấu, các ngân hàng tăng các khoản cho vay rủi ro (tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng dương) để bù đắp lại mất mát từ nợ xấu. Việc cho vay rủi ro cao hơn không những
không bù đắp vào khoản nợ xấu trước đó mà gây ra nợ xấu lớn hơn trong năm hiện tại
và một năm sau đó. Khi đó ngành ngân hàng đối mặt với rủi ro đạo đức. Nghiên cứu
cho thấy cho thấy rủi ro đạo đức có tồn tại trong ngành ngân hàng VN, và Indonesia và
Thái Lan với các hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê cao. Bài nghiên cứu của chúng tôi
đưa ra bằng chứng thực nghiêm rủi ro đạo đức tồn tại trong ngành ngân hàng VN, Thái
lan và Indonesia. Với mức ngưỡng nợ xấu là 7,13% đối với VN, mức ngưỡng 5,62%
đối với Thái Lan và 6,86% đối với Indonesia.
Đối với giả thuyết rủi ro đạo đức “Too big to fail”: Vì quan trọng đối với nền
kinh tế, các ngân hàng lớn sụp đổ các chủ sở hữu và nhà quản lý chịu rất ít hậu quả
nhưng lại gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Bài nghiên cứu của chúng
tôi không tìm thấy bằng chứng tồn tại vấn đề này ở các Ngân hàng TM Việt Nam, Thái
Lan và Indonesia.
Đối với giả thuyết rủi ro đạo đức gây ra bởi bảo hiểm tiền gửi: Với mục đích
tốt bảo hiểm tiền gửi có thể bị lạm dụng bởi các ngân hàng. Người ta tin rằng bảo hiểm
tiền gửi tự do khuyến khích sự liều lĩnh và rủi ro vô tâm đối với các nhà quản lý của các
tổ chức ngân hàng, làm tăng nợ xấu. Bài nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy bằng
chứng tồn tại vấn đề này ở các Ngân hàng TM Việt Nam, Thái Lan và Indonesia.
50
Đối với vấn đề giả thuyết các ngân hàng có vốn tương đối thấp đáp ứng các ưu
đãi rủi ro đạo đức bằng cách tăng mức độ rủi ro của danh mục cho vay, dẫn đến các
khoản vay không phù hợp cao hơn trong tương lai từ đó gây ra tỷ lệ nợ xấu cao hơn.
Ngân hàng tỷ vốn chủ sở hữu càng nhỏ càng gây ra rủi ro đạo đức khi làm tăng nợ xấu
chỉ tìm thấy ở các ngân hàng TM Thái Lan. Bài viết không tìm thấy bằng chứng vần đề
trên ở các Ngân hàng TM Việt Nam và Indonesia.
Đối với riêng các ngân hàng TM VN, tỷ lệ vốn chủ sở hữu càng lớn tác động
làm tăng tỷ lệ nợ xấu. Có thể các ngân hàng TM có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao là những
ngân hàng TM có một phần sở hữu nhà nước và thuộc quyền kiểm soát bởi cổ đông nhà
nước. Với ngân hàng TM có tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp là các ngân hàng tư nhân không
có vốn nhà nước. Và các ngân hàng tư nhân có quyền kiểm soát bởi các cổ đông tư nhân
sẽ bảo vệ tài sản của mình tốt hơn bằng cách giám sát hoạt động ngân hàng chặt chẽ
hơn.
Nghiên cứu góp phần cho các phần giúp các nhà quản lý công ty ngân hàng và
cơ quan quản lý ngành ngân hàng xác định được rủi ro đạo đức, ngưỡng nợ xấu xảy ra
rủi ro đạo đức để giữ các ngân hàng dưới mức nợ xấu đó. Tránh nguy cơ bất ổn định
của các ngân hàng. Tránh gây bất ổn cho toàn ngành ngân hàng.
Hạn chế của nghiên cứu:
Theo Zhang (2016), nếu các nhà quản lý kỳ vọng rằng chính phủ sẽ hỗ trợ các
ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn, chính họ sẽ làm tăng nguy cơ chấp nhận rủi ro
quá mức. Tình hình tồi tệ hơn đối với các ngân hàng có sở hữu nhà nước. Zhang đưa ra
ý kiến về rủi ro đạo đức các ngân hàng Trung Quốc.
Hạn chế của nghiên cứu của chúng tôi là chưa xét đến việc phân loại cơ cấu
nhóm ngân hàng. Ngành ngân hàng Việt Nam gặp rủi ro tương tự như ngành ngân hàng
Trung Quốc khi có nhiều ngân hàng thương mại có một phần sở hữu nhà nước, được
kiểm soát cổ đông nhà nước. Khi đó ngân hàng nhà nước phải trợ giúp các ngân hàng
TM này nếu ngân hàng xảy ra tình trạng khó khăn. Một điều chúng ta thấy rõ ràng ngân
hàng nhà nước và chính phủ VN chưa sẵn sàng để ngân hàng phá sản. Mặc dù gần đây
51
mới có các đề xuất cho các ngân hàng phá sản. Và một rủi ro đạo đức nữa khi các nhà
quản lý ngân hàng ít phải chịu trách nhiệm về việc gây thua lỗ cho ngân hàng thương
mại có một phần vốn nhà nước. Với cơ cấu sở hữu như vậy nghiên cứu cần xem xét các
tác động của rủi ro đạo đức giữa các nhóm ngân hàng thương mại có một phần sở hữu
nhà nước và các ngân hàng thương mại sở hữu tư nhân hoàn toàn. Bằng cách phân loại
hai nhóm ngân hàng thương mại để kiểm tra xem rủi ro đạo đức của các ngân hàng có
một sở hữu nhà nước có cao hơn các ngân hàng sở hữu tư nhân hoàn toàn hay không?
Do mẫu dữ liệu chúng tôi thu thập được không đủ lớn để thực hiện các kiểm tra như
vậy.
Hạn chế thứ hai, mà tác giả bài viết này gặp phải là việc không thể kiểm định
chung một bộ dữ liệu của ngân hàng cả ba nước vì dữ liệu thu thập có đơn vị tiền tệ
khác nhau. Mô hình hồi quy có biến SIZE bằng logaric số tự nhiên của tổng tài sản ngân
hàng gây ra việc bộ dữ liệu với đơn vị tiền khác nhau dẫn đến việc hồi quy biến SIZE
không phù hợp. Tác giả bài viết hy vọng các nghiên cứu sau có thể tìm ra bộ dữ liệu tốt
hơn.
Việc ngân hàng sụp đổ trong tình trạng tác động rất xấu đến tài chính của ngành
ngân hàng và toàn bộ hệ thống kinh tế. Các nhà quản lý ngân hàng và các cơ quan quản
lý của chính phủ rất quan tâm đến vấn đề làm sao để dự đoán sự sụp đổ ngân hàng. Do
đó việc cần thiết làm tìm ra các phương pháp phát hiện sớm các vấn đề rủi ro đạo đức
để hạn chế việc tăng tỷ lệ nợ xấu. Thông qua việc phát hiện sớm tình trạng rối loạn của
một tổ chức tài chính và sự tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý can thiệp sớm. Từ đó
các chi phí cứu trợ được giảm thiểu.
Chúng tôi hi vọng nghiên cứu của chúng tôi góp phần nhỏ trong việc phát hiện
dự báo các hành động gây rủi ro đạo đức của ngân hàng từ đó các nhà quản lý vĩ mô và
quản lý ngân hàng có thể ngăn chặn tình trạng tăng tỷ lệ nợ xấu ngân hàng trong tương
lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Tiếng Việt
1. Châu Đình Linh, 2015. Bức tranh toàn diện về xử lý nợ xấu ngân hàng từ 2010 đến
tháng 8/2015. Cafef.vn
2. Lê Thị Thùy Vân, 2017. Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề đặt
ra. Viện chiến lược và chính sách tài chính
3. Ngân Hàng Nhà Nước, 2005 Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thống đốc ngân hàng nhà nước,
493/2005/QĐ-NHNN
4. Vũ Thanh Hà và Trần Thu Hường, 2012. Lý luận cơ bản về rủi ro đạo đức trong hoạt
động ngân hàng. Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Tiếng Anh
1. Barr, R.S., Seiford, L.M., Siems, T.F., 1994. Forecasting bank failure: a non-
parametric
frontier
estimation
approach. Recherches Economiques de
Louvain/Louvain Economic Review 60 (4), 417–429
2. Beattie, A. What is moral hazard? ,2018, Investopedia
Available
at:
https://www.investopedia.com/ask/answers/09/moral-hazard.asp
[Accessed april 9,2019]
3. Berger, A., DeYoung, R., 1997. Problem loans and cost efficiency in commercial
banks. Journal of Banking and Finance 21 (6), 849–870
4. Bloem A., Freeman R. ,2005. The Treatment of Nonperforming Loans. Eighteenth
Meeting of the IMF Committee on Balance of Payments Statistics Washington D.C.
June 27–July 1, 2005
5. Boyd, J.H., Graham, S.L., 1998. Consolidation in US banking: implications for
efficiency and risk. Bank Mergers and Acquisitions 3, 113–135.
6. Clair, R.T., 1992. Loan growth and loan quality: some preliminary evidence from
Texas Banks. Federal Reserve Bank of Dallas Economic Review 3, 9–21
7. Cottarelli, C., Dell’Ariccia, G., Vladkova-Hollar, I., 2005. Early birds, late risers, and
sleeping beauties: bank credit growth to the private sector in Central and Eastern
Europe and in the Balkans. Journal of Banking & Finance 29, 83–104
8. Dembe, A., Boden, L.,2000.. Moral Hazard A Question of Morality. New solutions
10(3), 257-279,2000
9. Demirguc-Kunt, A., 1989. Deposit-institution failures: a review of empirical
literature. Economic Review 25 (4), 2–18.
10. Elijah B., Hesna G., William C., H., Kaufman G. G., 2012. The Value of Banking
Relationships During a Financial Crisis, Federal Reserve Bank of Chicago 2012
11. Foos, D., Norden, L., Weber, M., 2010. Loan growth and riskiness of banks. Journal
of Banking & Finance 34 (12), 2929–2940.
12. Gropp,R. , Gruendl ,C., Guettler, A.,2010. The impact of public guarantees on bank
risk taking evidence from a natural experiment, Working paper series, European
Central Bank
13. Hansen, B.E., 1999. Threshold effects in non-dynamic panels: estimation, testing and
inference. Journal of Econometrics 93 (2), 345–368.
14. Hellmann T. F., Murdock K. C., and Joseph E. S, Liberalization,.2000. Moral Hazard
in Banking, and Prudential Regulation: Are Capital Requirements Enough?, The
American Economic Review, Vol. 90, No. 1 (Mar., 2000), pp. 147-165
15. Investopedia,.2014. How did moral hazard contribute to the 2008 financial crisis?
Available at: https://www.investopedia.com/ask/answers/050515/how-did-moral-hazard-
contribute-financial-crisis-2008.asp [Accessed april 9,2019]
16. Jensen, M.C., Meckling, W.H., 1976. Theory of the firm: managerial behavior,
agency costs and ownership structure. Journal of Financial Economics 3 (4), 305–
360
17. Kahneman, D.,Tversky.A., 1979. Prospect Theory: An Analysis of Decision
under Risk. Econometrica, Vol. 47, No. 2 (Mar., 1979), pp. 263-291
18. Kaufman.G.G., 1996. Bank Failures, Systemic Risk, and Bank Regulation. Cato
Journal, Cato Journal, Cato Institute, vol. 16(1), pages 17-45, Spring/Su.
19. Kim, I., Kim, I., Han, Y., 2014. Deposit insurance, banks’ moral hazard, and
regulation: evidence from the ASEAN countries and Korea. Emerging Markets
20. Kim, K., Park, K., Song, S., 2015. Banking market size structure and financial
stability: evidence from eight Asian countries. Emerging Markets Finance and Trade
21. KPMG .2018. Non performing loans in europe
Available
at: https://assets.kpmg/content/dam/kpmg/xx/pdf/2017/05/non-performing-
loans-in-europe.pdf [Accessed april 9,2019]
22. Koudstaal, M., Wijnbergen, S.V., 2012. On risk, leverage and banks: do highly
leveraged banks take on excessive risk? SSRN Working paper 2170008
Finance and Trade 50 (6), 56–71.
23. Louzis, D.P., Vouldis, A.T., Metaxas, V.L., 2012. Macroeconomic and bank-specific
determinants of non-performing loans in Greece: a comparative study of mortgage,
business and consumer loan portfolios. Journal of Banking & Finance 36, 1012–1027
24. Nicholas J. C. Replacing missing values, www.stata.com
Available at: https://www.stata.com/support/faqs/data-management/replacing-missing-
values/ [Accessed april 9,2019]
25. Nier, E., Baumann, U., 2006. Market discipline, disclosure and moral hazard in
banking. Journal of Financial Intermediation 15 (3), 332–361.
26. Sanderson A,. 2014. Costs of non-performing loans
Available at: https://www.herald.co.zw/costs-of-non-performing-loans/ [Accessed april
9,2019]
27. Soedarmono, W., Tarazi, A., Agusman, A., 2012. Loan loss provisions and lending
behaviour of banks: Asian evidence during 1992–2009. SSRN
28. Zhang D., Cai J., Dickinson D.G. and Kutan A.M. 2016. Non-Performing Loans, Moral Hazard and Regulation of The Chinese Commercial Banking System, Journal of Banking & Finance, 63, pp. 48-60.
Phụ lục 1: Danh sách các Ngân hàng TM Việt Nam được lấy số liệu.
STT Tên viết tắt Tên đầy đủ
1 ACB
2 BID Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
3 CTG Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam
4 EIB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
5 Hdbank Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM
6 KLB Ngân hàng TMCP Kiên Long
7 Marin Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam
8 MBB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
9 NAM Á Ngân hàng TMCP Nam Á
10 NVB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc Dân
11 PGB Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
12 SCB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
13 SHB Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội
14 STB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín
15 TPB Ngân hàng TMCP Tiên Phong
16 VAB Ngân hàng TMCP Việt Á
17 VCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
18 VIB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
19 VPB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
Mã CK
STT
Reuters
Tên ngân hàng
1
BABP.JK
PT Bank MNC Internasional Tbk
2
BACA.JK
PT Bank Capital Indonesia Tbk
3
BBCA.JK
PT Bank Central Asia Tbk
4
BBKP.JK
PT Bank Bukopin Tbk
5
BBNI.JK
PT Bank Negara Indonesia
6
BBNP.JK
Bank Nusantara Parahyangan Tbk.
7
BBRI.JK
Bank Rakyat Indonesia
8
BBTN.JK
Bank Tabungan Negara
9
BDMN.JK
PT Bank Danamon Indonesia Tbk
10
BEKS.JK
Bank Pembangunan Daerah Banten Tbk PT
11
BINA.JK
Bank Ina Perdana Tbk
12
BJBR.JK
Bank Pmbngn Daerh Jawa Brt dn Btn Tbk PT
13
BKSW.JK
Bank QNB Indonesia Tbk.
14
BMRI.JK
Bank Mandiri (Persero) Tbk
15
BNII.JK
Bank Maybank Indonesia Tbk
16
BNLI.JK
Bank Permata Tbk.
17
BSIM.JK
Bank Sinarmas Tbk.
18
BSWD.JK
Bank Of India Indonesia Tbk PT
19
BTPN.JK
Bank BTPN Tbk.
20
BVIC.JK
Bank Victoria International Tbk
21
INPC.JK
Bank Artha Graha Internasional Tbk PT
22
MAYA.JK
Bank Mayapada Internasional Tbk
23
MEGA.JK
Bank Mega Tbk.
24
NISP.JK
PT Bank OCBC NISP Tbk
25
PNBN.JK
Bank Pan Indonesia Tbk
26
SDRA.JK
PT Bank Woori Saudara Indonesia Tbk
Phụ lục 2: Danh sách các ngân hàng TM Indonesia được lấy số liệu.
Phụ lục 3: Danh sách các ngân hàng TM Thái Lan được lấy số liệu.
STT Tên ngân hàng TM Thái Lanđược lấy số liệu
Bangkok Bank Public Company Lim 1
Bank of Ayudhya Public Company 2
CIMB Thai Bank Public Company 3
Export-Import Bank of Thailand 4
Government Savings Bank 5
Industrial and Commercial Bank 6
Islamic Bank of Thailand 7
Kasikornbank Public Company Lim 8
Kiatnakin Bank Public Comp 9
Krung Thai Bank Public Company 10
Mega International Commercial 11
Siam Commercial Bank Public Com 12
SME Bank-Small and Medium Enter 13
Standard Chartered Bank 14
Thai Credit Retail Bank Public 15
Thanachart Capital Public Compa 16
Tisco Bank Public Company Limit 17
TMB Bank Public Company Limited 18
United Overseas Bank (Thai) PCL 19
Phụ lục 4: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng TM VN
Phụ lục 5: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng TM
Indonesia
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy mô hình trên Stata 14 đối với ngân hàng TM Thái
estimates store fixed
Lan