ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
PHÍ THI NGA
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Minh Đức
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
dướng dẫn của TS. Dương Minh Đức. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn
Phí Thị Nga
LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở
Thái Bình hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là kết quả của
quá trình học tập tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc
gia Hà Nội của tác giả dưới sự hướng dẫn của các thầy cô bộ môn; sự giúp đỡ của
các thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa Triết học. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc
tới các thầy cô!
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến TS. Dƣơng Minh Đức là
giáo viên trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi, người đã luôn tận tình hướng dẫn,
dành nhiều thời gian quý báu để trao đổi và định hướng nghiên cứu cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn
động viên và là chỗ dựa tinh thần để tôi học tập, thực hiện thành công đề tài luận
văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời tri ân tất cả các thầy cô, bạn bè và người thân!
Hà Nội ngày tháng năm 2015
Người thực hiện luận văn
Phí Thị Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC
TRẺ EM ........................................................................................................... 8
1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em. ................... 8
1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình ............................... 8
1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội ....................... 13
1.2. Nội dung của giáo dục gia đình đối với trẻ em ............................... 21
1.2.1. Giáo dục đạo đức............................................................................ 21
1.2.2. Giáo dục trí tuệ ............................................................................... 25
1.2.3. Giáo dục thể chất ........................................................................... 28
1.2.4. Giáo dục thẩm mĩ ........................................................................... 29
1.3. Những yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em trong các gia đình
ở Thái Bình hiện nay. ............................................................................... 31
1.3.1. Vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội và con ngƣời Thái Bình. 31
1.3.2. Tác động giáo dục của các thành viên trong gia đình tới trẻ em ở
Thái Bình .................................................................................................. 37
1.3.3. Tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến vai trò
của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình ................................... 42
1.3.4. Tác động của khoa học công nghệ và cơ chế thị trƣờng tới việc
giáo dục trẻ em ở Thái Bình. ................................................................... 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY ................... 49
2.1.Thực trạng giáo dục trẻ em trong gia đình ở Thái Bình hiện nay. 49
2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình .................................................................................................. 51
2.1.2. Thực trạng giáo dục trí tuệ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình. ........................................................................................................... 53
2.1.3. Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình .................................................................................................. 57
2.1.4. Thực trạng giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình .................................................................................................. 61
2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em trong gia đình
ở Thái Bình hiện nay. ............................................................................... 63
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, mong muốn của gia đình
với thực trạng giáo dục hiện nay ở Thái Bình ....................................... 64
2.2.2. Mâu thuẫn giữa mong muốn của gia đình với điều kiện cơ sở vật
chất hiện có trong gia đình hiện nay ...................................................... 67
2.2.3. Mâu thuẫn giữa mong muốn của trẻ em với thực trạng giáo dục
của gia đình hiện nay ở Thái Bình .......................................................... 68
2.2.4. Những tác động ngƣợc chiều giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội
trong giáo dục trẻ em ............................................................................... 73
Kết luận chƣơng 2 .................................................................................... 79
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY .................................................................................................... 80
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRẺ EM
Ở THÁI BÌNH .............................................................................................. 80
3.1. Những quan điểm cơ bản ................................................................. 80
3.1.1. Trẻ em là vốn quý của gia đình, là lớp công dân đặc biệt của xã
hội, phải dành cho trẻ em theo tinh thần “Trẻ em hôm nay, thế giới
ngày mai”. ................................................................................................. 80
3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và nhu cầu của
trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển hài hòa về nhân cách- là yếu tố
cơ bản bảo vệ hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã
hội .............................................................................................................. 82
3.1.3. Thực hiện công bằng về giáo dục trẻ em trong gia đình và trong
xã hội ......................................................................................................... 83
3.1.4. Sự phát triển toàn diện của trẻ em là một trong những yếu tố cơ
bản của sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững ..................................... 84
3.1.5. Giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà trƣớc hết là
của gia đình ............................................................................................... 86
3.1.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính
quyền các cấp đối với công tác giáo dục trẻ em .................................... 88
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình
trong việc giáo dục trẻ em ở thái Bình hiện nay ................................... 90
3.2.1. Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc” .................... 90
3.2.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội, tạo
môi trƣờng thống nhất cho việc giáo dục trẻ em .................................. 93
3.2.3. Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hƣơng, đất nƣớc
cho trẻ em .................................................................................................. 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 105
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 108
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi cá nhân từ khi sinh ra, trưởng thành cho đến khi từ biệt cõi đời đều gắn
bó với gia đình. Tuy gia đình không phải là thiết chế duy nhất có vai trò trách nhiệm
giáo dục trẻ em nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng: Gia đình là môi trường đầu
tiên, có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ và có ảnh
hưởng lâu dài, toàn diện tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Trong mối quan hệ
với xã hội thì gia đình là tế bào của xã hội. Và khi so với các lực lượng giáo dục
khác thì giáo dục gia đình có nhiều ưu thế vượt trội. Giáo dục gia đình vừa mang
tính cá biệt rõ rệt, vừa thấm đậm tình cảm ruột thịt sâu sắc, với sự đa dạng và phong
phú về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội.. của chủ thể giáo dục. Ở đó, trẻ
được giáo dục theo hình thức thẩm thấu tích lũy về lượng, mỗi ngày một ít và
thường xuyên lặp lại. Mọi chức năng của gia đình đều có ý nghĩa kép- vừa thỏa mãn
nhu cầu cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu xã hội. Gia đình không chỉ gánh vác trách
nhiệm duy trì dòng giống, chủng tộc, chuẩn bị lực lượng lao động tương lai “Trẻ em
hôm nay, thế giới ngày mai” mà còn thay mặt xã hội đền đáp công lao bộ phận lao
động quá khứ, chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho người lao động hiện tại.
Sức mạnh của một dân tộc được nuôi dưỡng trong lòng mỗi gia đình.
Tầm quan trọng đó của gia đình cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì phải chú ý hạt nhân gia
đình cho tốt" [31,tr. 728].
Hơn nữa, trong mỗi gia đình lại có những mầm non giữ vai trò quyết định
tương lai của dân tộc, đang cần được chăm sóc và giáo dục khoa học. Những mầm
non đó chính là trẻ em- những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể lực và
trí tuệ, nhưng lại có vị trí vô cùng quan trọng- là thành viên gắn kết gia đình, là sự
nối dài cuộc đời của cha mẹ và là hạnh phúc, tương lai của gia đình và xã hội. Sự
nghiệp giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Với tầm nhìn xa trông
1
rộng “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cho rằng:
“Ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của
thế giới”. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”
[4,tr. 32-33].
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng, Nhà nước đã có
nhiều chỉ thị, nghị quyết, chinh sách đề cập đến vấn đề này. Và thực tế Việt Nam là
quốc gia đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước
hành động quốc gia về quyền trẻ em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc
gia vì trẻ em được thông qua và khẳng định dành ưu tiên cho trẻ em các quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hóa.
Thực trạng hiện nay, công tác giáo dục gia đình đã được quan tâm nhiều hơn
trước, không chỉ ở nước ta mà còn ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
trước tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong
xu hướng toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta. Sự giao lưu mở cửa hội nhập đã đem đến
cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội: Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh
tế, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh của các nước. Song,
bên cạnh những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nảy sinh nhiều
vấn đề tác động đến đời sống gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt Nam đang
đứng trước những khó khăn thử thách, sóng gió chưa từng có trong cách dạy con. Ở
một góc độ nào đó đã phá vỡ nền nếp gia phong đạo đức của gia đình truyền thống
Việt Nam. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống thử, ngoại tình, quan hệ tình dục trước
hôn nhân và việc nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng, để lại hậu quả nặng nề về
nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Nhiều giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt
đẹp của người Việt Nam đang có biểu hiện xuống cấp, phai nhạt. Nhiều tệ nạn như
ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm, HIV/AIDS đã và đang xâm nhập vào từng gia
đình. Mâu thuẫn xung đột giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống đang đặt ra
những thách thức mới, cùng với nó là tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học
đường cũng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động.
2
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, dân số đông, trong đó chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, không đồng đều và cũng chịu sự thay đổi
cùng với sự thay đổi của xã hội. Do đó công tác giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế,
nhất là ở gia đình nông thôn, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tình trạng phó mặc
việc giáo dục con cho nhà trường, người giúp việc, hay tình trạng trẻ em phải nghe
và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, chửi bậy, ly hôn, ly thân; Tình trạng cha mẹ
trẻ trước khi kết hôn không được trang bị kiến thức làm cha làm mẹ, kiến thức gìn
giữ hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái; Tình trạng cha mẹ không hiểu quyền
của trẻ, không tôn trọng trẻ, chửi mắng, đánh đập, áp đặt và dạy bảo con tùy tiện ...
còn tồn tại ở nhiều nơi. Một số bậc cha mẹ còn có quan niệm sai lầm rằng con cái là
sở hữu của họ không liên quan đến người ngoài, và họ là những người có toàn
quyền quyết định số phận con cái mình trong thời gian chúng lệ thuộc vào cha mẹ.
Do đó kéo theo nhiều sai lầm trong cách dạy con, nhất là khi trẻ không được như
mong muốn của họ. Tình trạng bạo lực học đường ở thanh thiếu niên và tình trạng
áp đặt, gò ép, giáo dục trẻ bằng bạo lực trong một số gia đình vẫn gia tăng. Tất cả
những điều đó đã ảnh hưởng đến quyền học tập, vui chơi giải trí và hạn chế sự phát
triển tự nhiên, lành mạnh của trẻ về thể lực và trí lực; làm cho khoảng cách thế hệ
và xung đột giữa các thành viên ngày càng trầm trọng; đồng thời tạo thêm gánh
nặng cho các môi trường giáo dục khác (nhà trường, xã hội) và gây ảnh hưởng xấu
đến truyền thống văn hóa, con người Việt Nam.
Có thể khẳng định cuộc sống gia đình ở Thái Bình hiện nay có rất nhiều biến
động, hầu như nhà nào cũng có “sóng”, bên cạnh những dấu cộng, dấu nhân quý giá
lại có biết bao nhiêu dấu trừ, dấu chia đầy nuối tiếc! Và người bị tổn thương nhất
không phải là bản thân cha mẹ trẻ, mà là những đứa con của họ. Vậy các bậc cha
mẹ trẻ ở Thái Bình phải làm gì để tiếp tục phát huy tác dụng của gia đình, giúp trẻ
có được cuộc sống tốt đẹp nhất, được phát triển toàn diện trong sự yêu thương và
trân trọng của người thân?
Chính vì nhiều lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Phát huy vai trò của gia
đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay” với hy vọng đề tài này
sẽ góp thêm tiếng nói, tình cảm và hành động vào việc nâng cao nhận thức xã hội,
3
hỗ trợ các gia đình phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ và dành
cho trẻ em những điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Gia đình và giáo dục gia đình luôn là những chủ đề hấp dẫn nhiều cá nhân,
tập thể không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà trong cả các cơ quan, tổ
chức có liên quan. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề này, trong các
công trình ấy phải kể đến một số tác phẩm và công trình khoa học sau:
Tác phẩm “Nói chuyện về giáo dục Gia đình” của A. Ma-ca-ren-cô do Nxb
Kim Đồng, Hà Nội phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng
với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt
quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng điều đó
không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, tất cả các bậc cha mẹ đều có thể làm
được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc, nó không
khó khăn ghê ghớm như nhiều người lầm tưởng. Nếu tuổi trẻ không được gia đình
giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ
của gia đình, mà xã hội phải quan tâm. Những nguyên lý giáo dục đó cũng như kinh
nghiệm thực tiễn của ông cho đến nay vẫn được đông đảo độc giả tìm đọc và trân
trọng.
“Khoa học giáo dục con em trong gia đình” của Ủy ban Thiếu niên nhi
đồng Trung ương, xuất bản năm 1979, do Đức Minh chủ biên. Cuốn sách này đã
giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc
điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu
cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ.
“Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản
năm 1991. Tập thể tác giả ở đây đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết
cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái
nên người trên những mặt cơ bản về Đức, trí, thể , mỹ.
Sách “Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn” của tác giả Ibuka Masaru, do nhà
xuất bản Văn học, phát hành tháng 10 năm 2013. Trong tác phẩm này, tác giả đã chỉ
ra bí quyết nuôi dạy con từ lúc lọt lòng của các bà mẹ Nhật, đồng thời là một trong
4
những tác phẩm về nuôi dạy trẻ được cha mẹ Nhật yêu thích nhất. Cuốn sách xuất
bản lần đầu năm 1971, sau này được biên soạn lại và tái bản vào năm 2008. Những
lý thuyết trong cuốn sách rất hữu ích cho các bậc làm cha, làm mẹ ở nước ta.
Sách “Kỷ luật không nước mắt” của Phan Thương, do Nhà xuất bản Văn
hóa- thông tin phát hành. Cuốn sách hướng dẫn các bậc làm cha những phương thức
kiềm chế cách hành xử theo cảm tính trong quá trình nuôi dạy con cái, đồng thời chỉ
cho cha mẹ cách giao tiếp lắng nghe con cái, nghệ thuật trách phạt để trẻ nhận ra lỗi
lầm và khích lệ được những năng lực tiềm ẩn của con, gạt bỏ đi những quan niệm
giáo dục sai lầm, lạc hậu.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Giáo dục đời sống
gia đình” của Nguyễn Đình Xuân - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 1997; “Gia đình
và phụ nữ trong biến đổi văn hóa xã hội nông thôn” của Nguyễn Linh Khiếu - Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2001; “ Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em” của Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2001;“Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê Thi- Nxb
Khoa hoc xã hội, Hà Nội.2003; “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của TS. Đỗ Thị Thạch - Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội. 2005;“ Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay” của Nuyễn Thị
Thọ, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011; “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt
Nam” của Lê Ngọc Văn- Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2011; “ Gia đình và giáo
dục gia đình” của Nguyễn Thị Phương Thủy và Nguyễn Thị Thủy, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2014; ...vv.
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các
vấn đề về Gia đình, Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng:
“Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội.1996;
Luận án T.s của Đặng Thị Linh, “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay -
Thực trạng và giải pháp” Hà Nội. 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò
của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”
Hà Nội. 2001; Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam vai trò người
phụ nữ hiện nay” Hà Nội. 2003; và rất nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có liên quan
5
của học viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội do nhiều PGS.TS nổi tiếng, có trình
độ chuyên môn sâu rộng hướng dẫn như: Luận văn “Thực hiện và phát huy chức
năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình hiện
nay” Hà nội. 2011; “Gia đình và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay” Hà nội. 2010; Luận văn “Vai trò giáo dục
của gia đình đối với trẻ em hư ở thành phố” Hà nội. 2011; “Vấn đề giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” Hà Nội.2012;
“Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn
thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014; “Những biến đổi của đạo
đức gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014;...vv
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ hơn mặt lý luận cũng
như thực tiễn về vai trò của gia đình trong việc giáo dục con người nói chung,
trẻ em nói riêng. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tiễn ở tỉnh Thái Bình
hiện nay, vai trò giáo dục của gia đình còn nhiều hạn chế. Tôi thấy rằng việc
phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình hiện nay là
một vấn đề bức xúc và cấp thiết, không trùng lặp với các luận văn, luận án sau
đại học hay các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc giáo dục trẻ em của các gia đình ở tỉnh
Thái Bình hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy tốt
hơn vai trò của gia đình trong công tác giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
* Nhiệm vụ:
+ Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về gia đình với tư cách là chủ thể
giáo dục trẻ em.
+ Phân tích những nội dung cơ bản của công tác giáo dục trẻ em trong gia
đình ở tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay.
+ Làm rõ thực trạng giáo dục trẻ em trong các gia đình ở tỉnh Thái Bình giai
đoạn hiện nay.
6
+ Rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị để từ đó phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái
Bình giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo
dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình, trẻ em và vai trò của
gia đình trong việc giáo dục trẻ em.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
việc phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện
nay.
- Luận văn thành công sẽ cung cấp nguồn tư liệu để các cấp ủy chính quyền
các tổ chức xã hội, các gia đình ở Thái Bình tham khảo, từ đó làm tốt hơn công tác
giáo dục trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương, 6 tiết.
7
CHƢƠNG 1
GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC TRẺ EM
1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em.
1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình
*) Khái niệm gia đình:
Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội với nhiều vấn đề
mới nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình cũng có những biến đổi rất phức tạp. Những
chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học không chỉ ở Việt nam mà cả trên thế giới. Vậy gia đình là gì? Để trả lời câu hỏi
này cho đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau, bởi đây là một phạm trù rộng,
không ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội.
Trong thời đại của mình, Các Mác cho rằng gia đình là tổ chức đặc biệt quan
trọng để duy trì nòi giống, các thành viên của gia đình có mối quan hệ tình cảm ruột
thịt với nhau. Điều này được thể hiện rõ qua quan niệm: “Hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở.
Đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [23, tr.41]
Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật
thiết với xã hội, khẳng định: Gia đình là yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế
xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được
giữ gìn và phát huy. Trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa như sau: Gia
đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách
chung với các thành viên trong gia đình, gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền
lợi về mọi mặt được pháp luật thừa nhận.
Tác giả Nguyễn quốc Tuấn dưới góc độ luật học xem xét gia đình là một tập
hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dưỡng, đã gắn bó
những con người có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về
nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất để tương trợ nhau, cùng làm
kinh tế chung và nuôi dạy con cái[59].
8
Trên bình diện tâm lý học, giáo sư Lê Thi- người đã dày công nghiên cứu về
đề tài gia đình cho rằng: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội
hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ quan hệ
hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại).
Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng,
tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách
nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc
có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn
nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng
về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành
viên” [51,tr.42]
Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình, bởi mỗi tác giả
đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, trong văn bản của Liên
hiệp quốc cũng đã lưu ý rằng: Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu nhưng lại có
những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh
khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do đó, không thể đưa ra một định nghĩa chung
có thể áp dụng cho toàn cầu [13,tr 5].
Tuy nhiên, từ những định nghĩa trên chúng ta có thể nhận thấy: có ba mối
quan hệ thường được nhắc tới khi đề cập đến gia đình đó là: quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên.
Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa một nam và một nữ theo quy định của
pháp luật nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan
hệ cơ bản, đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ
khác. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang
tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các
giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý
chí và lợi của giai cấp mình.
9
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng trực hệ dòng máu, là
sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa
trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng được
nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi được
họ hàng ủng hộ và pháp luật thừa nhận, bảo vệ mà cao hơn là tình thương yêu, đùm
bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.
Có lẽ, nghiên cứu về gia đình nói chung, định nghĩa gia đình nói riêng còn
nhiều vấn đề cần tìm hiểu thêm và còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học. Nhìn nhận gia đình từ phương diện chuyên ngành, tôi cho rằng: Gia đình
là một hình thức cộng đồng xã hội đặc thù, được hình thành, duy trì và củng cố chủ
yếu trên cơ sở các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng được
xã hội thừa nhận. Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần
chung, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao
nhất là nuôi dưỡng các thành viên, xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển kinh tế
gia đình.
*) Chức năng giáo dục của gia đình
Gia đình có các chức năng cơ bản như: Chức năng tái sản xuất ra con người,
chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục, chức năng thỏa mãn
các nhu cầu tâm sinh lý tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, chức
năng giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng, liên quan mật thiết tới sự phát
triển bền vững của mọi quốc gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói
riêng.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là một thực thể xã hội mang bản chất
xã hội, đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Mặt tự nhiên và
mặt xã hội trong con người không tách rời, đối lập nhau, mà thống nhất biện chứng
và tác động qua lại lẫn nhau. Thực tế nghiên cứu về “người sói” cũng đã chứng
minh: Con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục. Từ nhỏ, con
người không được giáo dục, lớn lên không khác gì cây hoang, cỏ dại ở ngoài đồng
10
và nếu không được sống trong môi trường gia đình và xã hội thì cũng không khác
mấy các loài động vật, không thể trở thành con người theo đúng nghĩa.
Và từ kinh nghiệm thực tế cuộc sống, ông cha ta đã đúc kết rằng: “Con nhà
tông, không giống lông cũng giống cánh” và phải “Uốn cây từ thủa còn non, dạy
con từ thủa con còn trẻ thơ”. Do đó mà từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành, mỗi
thành viên nhỏ tuổi trong gia đình thường được ông bà, cha mẹ và người thân nuôi
dưỡng, truyền thụ những kinh nghiệm sống, những phẩm chất đạo đức để trở thành
công dân có ích của xã hội và là người con, người cháu hiếu thảo của gia đình. Giáo
dục gia đình không những có tác dụng mạnh mẽ, có ý nghĩa sâu sắc đối với tuổi thơ
mà còn có ảnh hưởng đối với cả cuộc đời của con người lúc trưởng thành cho đến
lúc tuổi già. Những phẩm chất đạo đức, tính cách cũng như những năng lực chuyên
biệt của bố mẹ thường ảnh hưởng rất lớn đối với con cái trong gia đình, nhất là khi
trẻ còn nhỏ. Điều này đã được nhà giáo dục học nổi tiếng A.Ma-ca-ren-cô khẳng
định: Những gì mà cha mẹ đã làm cho con trước 5 tuổi, đó là 90% kết quả của quá
trình giáo dục.
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và
kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức
cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là
phương pháp nêu gương, thuyết phục và chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối
sống, tâm lý, gia phong của truyền thống gia đình .
Giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người: Lúc
còn ẵm ngửa, giai đoạn tuổi thơ, khi trưởng thành, lúc già cả... Ở từng chu trình ấy
có những nội dung và hình thức giáo dục cụ thể như: lời ru của mẹ, tấm gương sống
và làm việc của người thân, những nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà,...
Do đó, dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định,
nhưng có những nội dung và phương pháp lại được giáo dục gia đình mang lại hiệu
quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Vì vậy,
chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm cho
11
giáo dục nhà trường và xã hội. Cho nên, dù giáo dục nhà trường và xã hội có phát
triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo
dục nói chung, phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại
nào khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng giáo dục con người không ngừng được
nâng cao. Môi trường tạo ra chất lượng đó là gia đình, nhà trường và xã hội, nhưng
chủ yếu vẫn là gia đình- cái nôi nuôi dưỡng, phát triển nhân cách đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ...Tuy nhiên, với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự đa dạng và nhiều màu sắc của văn
hóa thì giáo dục gia đình cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những bậc phụ huynh
vẫn quan tâm chăm sóc giáo dục con cái, trong xã hội vẫn còn xuất hiện thêm
những ông bố, bà mẹ chỉ lo làm kinh tế, phó mặc việc dạy bảo con cái mình cho nhà
trường và xã hội, thậm chí là phó mặc cho người giúp việc, buông lỏng giáo dục
đạo đức và cách ứng xử thiếu tình nghĩa đã gây ra cho trẻ nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Có những gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của
con và để quan niệm tư lợi, lối sống thực dụng “đồng tiền lên trên hết” ngự trị trọng
mọi hoạt động của gia đình. Thậm chí có những gia đình cha mẹ sống buông thả, có
hành vi thất đức, buôn gian bán lận... đã làm ảnh hưởng không tốt đến nhân cách và
việc giáo dục trẻ.
Ngày nay, với chức năng giáo dục, gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc
đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người mới, duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa
dân tộc. Do đó, để thực hiện chức năng giáo dục gia đình có hiệu quả, chúng ta phải
chú ý đến mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình- nhà trường và xã hội, tiến
tới mục tiêu giáo dục tư tưởng, tình cảm lành mạnh cho thế hệ trẻ, góp phần nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hơn nữa, trong mỗi
gia đình ông bà, cha mẹ phải là tấm gương sáng cho con cháu noi theo, những
người lớn tuổi trong nhà cũng phải nâng cao hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, về khoa
học công nghệ sao cho chất lượng giáo dục gia đình đạt hiệu quả tốt nhất.
12
1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội
1.1.2.1. Trẻ em
*) Khái niệm trẻ em
Từ xưa đến nay trẻ em luôn được coi là hạnh phúc của gia đình, là tương lai
của dân tộc. Đã có rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên
cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, triết học, y học, xã hội học... Và
đây cũng là đối tượng được nhiều tổ chức trong nước và quốc tế quan tâm.
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong
Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ (năm 1924), Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
(năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước quốc
tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (năm 1966), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm
1989), Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc
(năm 1976), Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (năm 1990).
Theo điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Trẻ em được xác định là
người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
“Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm người trong xã hội thuộc một độ
tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những
người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần
được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời[15, tr.3].
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 ở nước ta quy
định: Trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”[20,tr. 1]. Đây là những người
chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và
kinh nghiệm sống còn nhiều hạn chế, thiếu những điều kiện để tự lập và khả năng
kìm chế chưa cao nên dễ bị kích động lôi kéo vào những hoạt động phưu lưu mạo
hiểm. Mọi suy nghĩ về cuộc sống của các em thiên về tình cảm, dễ xúc động, dễ
hành động cảm tính. Điều này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải hết sức khéo léo, am
13
hiểu tâm lý của trẻ nhỏ, uốn nắn nhẹ nhàng sao cho có hiệu quả vì trẻ ở mỗi độ tuổi
lại có những đặc điểm không giống nhau.
*) Đặc điểm trẻ em:
- Đặc điểm về tâm lý của trẻ em:
Tâm lý (của con người) là toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào
ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí,...biểu hiện trong hoạt động
và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý người bao giờ cũng là “cái riêng” của từng người,
nhưng “cái riêng” ấy từ “cái chung” của loài người, dân tộc, gia đình mà ra. Bằng
giáo dục, vui chơi, lao động và giao tiếp, gia đình và xã hội truyền đạt các tri thức
ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lại có cách thức khác nhau để lĩnh hội
tri thức và biến nó thành vốn sống của riêng mình, đó chính là tâm lý của bản thân
mỗi người. Cuộc sống càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng nào thì tâm lý con
người càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó.
Căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý và cả sự trưởng thành cơ thể
của trẻ em, người ta chia ra một số giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn sơ sinh
Trẻ em từ khi sinh ra đến dưới 18 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ nhỏ còn non
nớt và bỡ ngỡ với môi trường cuộc sống mới ngoài bụng mẹ. Khi còn dưới 18 tháng
tuổi, trẻ thể hiện mọi nhu cầu của mình bằng “tiếng khóc”, nếu muốn ăn, muốn thay
tã lót, muốn được nâng niu, âu yếm, muốn được bảo vệ khi cảm thấy nguy hiểm…
thì tiếng khóc là ngôn ngữ duy nhất của trẻ em. Nếu cha mẹ, người chăm sóc trẻ
quan tâm, đáp ứng lại các nhu cầu đó, trẻ yên tâm, tin tưởng vào người chăm sóc
mình. Khi trưởng thành niềm tin này phát triển thành niềm tin vào các mối quan hệ
xã hội và vì vậy, giao tiếp, quan hệ của trẻ em với những người xung quanh thuận
lợi, là cơ sở của các hành vi và cách ứng xử phù hợp, được xã hội chấp nhận.
Ngược lại, những trẻ em không được đáp ứng nhu cầu một cách phù hợp có thể
hình thành tâm lý không tin tưởng và lâu dài sẽ khó khăn trong niềm tin đối với các
mối quan hệ xã hội.
14
Giai đoạn nhà trẻ
Trẻ em từ 18 tháng tuổi đến dưới 36 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ mới tập đi,
tập nói, ở trẻ bắt đầu hình thành cách hay bắt chước, thích khám phá mọi vật xung
quanh, muốn tỏ ra độc lập, muốn giải quyết vấn đề theo cách của mình. Trẻ ở giai
đoạn này có nhu cầu được bảo vệ và hướng dẫn về cái gì được, cái gì không được
một cách chu đáo. Các nhà tâm lý học gọi đây là giai đoạn của sự lựa chọn giữa độc
lập và tự ti. Nếu trẻ học được cách biết nghe lời chỉ dẫn, biết tuân theo kỷ luật
(trước hết là tập đi vệ sinh đúng chỗ quy định chẳng hạn) thì sau này trẻ sẽ phát
triển tính tự lập. Trong trường hợp người lớn không hướng dẫn, giảng giải cụ thể,
trẻ không hiểu và không biết kỷ luật, khi gặp các trường hợp nguy hiểm (bị bỏng do
nghịch nước sôi, đưa tay vào ổ điện…) thì sau này, trẻ em cảm thấy tự ti, không
mạnh dạn phát triển tính độc lập của mình.
Giai đoạn mẫu giáo
Trẻ em từ 36 tháng tuổi đến dưới 60 tháng tuổi. Trong độ tuổi này, trẻ em bắt
đầu hình thành năng lực tự chủ, có sự định hướng những hành vi công việc của
mình. Nếu cha mẹ cười hoặc giễu cợt, phê phán con trước những nỗ lực chưa thực
hiện được của nó thì trẻ sẽ luôn cảm thấy điều mình làm là có lỗi. Ngược lại, nếu
được cổ vũ, khích lệ thì trẻ rất sung sướng và nỗ lực hơn nữa. Tình cảm hồn nhiên,
dễ yêu, dễ hờn giận, muốn được tự chủ là một trong những nét tâm lý nổi bật của trẻ
giai đoạn này. Tương ứng với giai đoạn này là sự lựa chọn giữa mong muốn được
chủ động, sáng tạo và cảm giác có lỗi, xấu hổ và đang dần hình thành ý thức, tính
cách.
Giai đoạn nhi đồng - thiếu nhi
Trẻ em từ 6 tuổi đến 12 tuổi. Độ tuổi này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học nhiều
điều mới. Tất cả các nước trên thế giới đều qui định đây là độ tuổi cho trẻ đến
trường phổ thông.
Lứa tuổi nhi đồng - thiếu nhi, trẻ em bắt đầu làm quen với những khái niệm
khoa học ở trường tiểu học. Các em học tuân theo những yêu cầu "lao động" học
tập. Cần quan tâm giáo dục tính chăm chỉ, cần cù cho trẻ để sau này trẻ có được
15
phẩm chất chăm chỉ, cần cù. Phẩm chất cần cù là điều kiện thiết yếu nuôi dưỡng
ham muốn học hỏi, lao động của người lớn, những kỹ xảo hành động đặc trưng cho
người lớn và chuẩn bị để nắm bắt vai trò của người lớn. Nhiều thí nghiệm tâm lý
cho thấy, các em tuổi nhi đồng - thiếu nhi được tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng
phong phú ở môi trường xung quanh giúp các em có khả năng nhận thức thế giới
sâu sắc thêm… Nếu trẻ không được khen về những kỹ năng đã đạt được của mình
thì các em sẽ có cảm giác kém cỏi, tự ti. Thái độ của người lớn, của môi trường giáo
dục sẽ đặt trẻ trước sự lựa chọn: cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi hay tự ti.
Giai đoạn thanh thiếu niên
Trẻ em từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ ý thức về bản
thân, bắt đầu hình thành ý thức hệ. Đây là giai đoạn các em bước vào bậc trung học
cơ sở, hoạt động chủ đạo của các em là giao tiếp. Có thể nói đây là lứa tuổi quá độ
trong quá trình phát triển từ trẻ em thành người lớn. Sự phát triển cơ thể và sự chín
muồi giới tính nhanh chóng tạo ra cuộc "cách mạng tâm lý" trong các em. Điều đó
gây ra nỗi sợ hãi và sự căng thẳng, nhân cách lúc này bị giằng co giữa những xu thế
trái ngược nhau, khi hăng hái, lúc chán nản bi quan và có thể dẫn đến trầm lặng.
Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên rất tò mò, ham hiểu biết, rất thích cái mới và
khám phá cái mới của mình. Hoạt động trí tuệ của các em phát triển nhiều hơn
nhiều so với lứa tuổi trước nhờ sự phát triển tư duy trừu tượng, ghi nhớ và chú ý có
chủ định, trí tưởng tượng phong phú. Mặt khác, ở lứa tuổi này, hứng thú học tập và
hứng thú nghề nghiệp trong tương lai của các em được hình thành rõ nét. Trẻ em ở
tuổi thanh thiếu niên đã bộc lộ không chỉ những năng khiếu, mà còn cả những tài
năng.
Sự giao tiếp của thanh thiếu niên đã vượt ra khỏi phạm vi học tập, phạm vi nhà
trường. Trong quá trình mở rộng quan hệ giao tiếp, trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên có
nhiều hoạt động tập thể phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức, nhờ đó
kiến tạo nên những quan hệ mới trong cuộc sống hàng ngày. Thanh thiếu niên có
những nhu cầu cần được người lớn tôn trọng, sự can thiệp thô bạo, áp đặt đối với
các em có thể dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ. Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên bắt
16
đầu có sự ý thức, tự nhìn nhận về bản thân mình, nếu có sự định hướng đúng thì các
em có thể có sự tự giáo dục. Ở độ tuổi này trẻ đã chú ý đánh giá hành vi, thái độ của
người lớn và có thái độ phê phán, xem xét, bình luận về các hành vi, thái độ của
người lớn.
Trong khi cần sự giúp đỡ của cha mẹ hơn bao giờ hết, các em lại muốn tỏ ra
độc lập hoàn toàn. Điều này đôi khi gây lúng túng cho người lớn. Để củng cố lòng
tự trọng cho các em, người lớn cần tôn trọng ước muốn không phụ thuộc của trẻ
đồng thời cần cho các em biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữ an toàn cho
chúng. Sự trung thực và bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết
để giúp cho trẻ độc lập trong suy nghĩ, có quan hệ tốt với người khác, hình thành
trong con người trẻ một con người có cá tính, một người lao động thực thụ, một
người bố hay người mẹ trong tương lai.
Nếu trẻ không được dạy dỗ đúng mực, thiếu tự chủ, trẻ dễ có những hành
động lệch lạc với chính mình hay với người khác và đó thường là nguy cơ đưa trẻ
tới những hành vi sai trái như: trộm cắp, quấy phá, chán học, bỏ học, uống rượu,
đánh bạc, sử dụng ma tuý...
Đây cũng là giai đoạn trẻ đang phải tách ra độc lập khỏi gia đình, những người
thân một cách tự nhiên để chuẩn bị bước vào cuộc sống độc lập của một người
trưởng thành, thiết lập những quan hệ xã hội mới như quan hệ bạn bè khác giới.
Đây là giai đoạn rất khó khăn trong tâm lý của trẻ và để làm được điều này, trẻ
thường hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Những trẻ em có giai đoạn đầu đời thuận
lợi, có niềm tin vào các mối quan hệ xã hội thường giải quyết khó khăn của mình
bằng những cách tích cực như tìm đến thơ ca, văn nghệ, thể thao, thậm chí cả chính
trị và thường tìm thấy những người bạn cùng giới hoặc khác giới có cùng sở thích
để chia sẻ. Ngược lại, các em có khó khăn trong quan hệ xã hội thường khó khăn
trong tìm bạn để thay thế các mối quan hệ gia đình và thường có cách giải quyết
khó khăn của mình theo hướng tiêu cực.
- Đặc điểm về sự phát triển của trẻ em
17
Sự phát triển của trẻ em được hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến
toàn vẹn tổng thể sức mạnh thể chất, tinh thần và xã hội, cũng như các năng lực của
trẻ em có tính đến các lứa tuổi. Sự phát triển về thể chất biểu hiện sự tăng trưởng về
chiều cao, cân nặng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động.
Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử với những
người xung quanh, trong việc tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Do đó, nói đến
sự phát triển của trẻ em cũng là nói đến sự phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách
của trẻ em.
Sự phát triển nhân cách của trẻ em diễn ra theo thời gian, mang tính quy luật,
tính chu kỳ nhất định trong sự luân phiên các hình thái phản ánh các hoạt động chủ
đạo. Nhân cách của trẻ em chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động giao
lưu. Hoạt động cơ bản của trẻ em là vui chơi và học tập, thông qua học tập và vui
chơi trẻ em lĩnh hội được các giá trị văn hóa của loài người để biến thành những
thuộc tính, nhân cách của bản thân và nắm được các tri thức, kỹ năng, hình thành
thái độ và phát triển được những năng lực cần thiết để tham gia các loại lao động xã
hội, đặc biệt là lao động sản xuất.
- Đặc điểm về sự tham gia của trẻ em:
Trước hết, đó là việc trẻ em được tham gia ý kiến, bày tỏ suy nghĩ, nguyện
vọng của mình đối với người lớn trong những việc liên quan đến bản thân. Trẻ
muốn những ý kiến của mình được người lớn coi trọng, xem xét trong khi quyết
định những việc liên quan, nhằm đảm bảo những lợi ích tốt đẹp nhất cho các em.
Mặt khác đó còn là sự tham gia của trẻ em vào nhiều vấn đề của cuộc sống. Mức độ
tham gia tùy theo sự phát triển của trẻ em, như Bác Hồ đã căn dặn “tuổi nhỏ làm
việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Sự tham gia của các em được coi là nhóm quyền
cơ bản trong luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta (điều 8) cũng như
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (điều 12,13,14,15,16).
Để thực hiện tốt quyền tham gia của trẻ em, các thành viên trong gia đình, nhà
trường và xã hội cần tạo điều kiện và khuyến khích trẻ em được biết về những vấn
đề có liên quan đến các em, khuyến khích và giúp đỡ các em có suy nghĩ độc lập,
18
phù hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình
đồng thời lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các em.
1.1.2.2 Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển của xã hội
*) Trẻ em trong gia đình:
Trẻ em là sự nối dài cuộc đời của cha mẹ, là thành phần quan trọng cấu thành
gia đình. Mỗi đứa trẻ được sinh ra là kết quả tình yêu của cha mẹ, là hạnh phúc
tương lai của gia đình, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là hai
trong ba quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Chính vì vậy trẻ em luôn là nguồn vui,
nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là người kế tục sự nghiệp của cha ông, dòng họ,
đồng thời là đối tượng cần được chăm sóc giáo dục đặc biệt của các thành viên, nhất
là từ các bậc cha mẹ. Phần lớn các bậc cha mẹ luôn coi con cái là niềm hy vọng lớn
lao, là tương lai của gia đình nếu chúng khôn lớn, khỏe mạnh, trưởng thành, giúp
ích được cho đời, hiếu thảo với ông bà cha mẹ và biết sống hòa thuận. Ngược lại, họ
thấy bất hạnh lớn nếu như con cái bị tật nguyền, và nhất là chúng hư đốn, bất hiếu,
ích kỷ, hại nước, hại dân. Họ sẵn sàng hy sinh cho con, dành tất cả những gì tốt nhất
có thể để cho con họ có một tương lai tốt đẹp hơn, bất kể cuộc sống hôn nhân của
bản thân có hạnh phúc hay không, với tinh thần “Cha mẹ nhận một đời bão tố để
cho con mãi được bình yên”. Nói như vậy để thấy rằng trong các tài sản của gia
đình, trẻ em luôn được coi là tài sản quý báu nhất, không gì có thể mua đổi được;
trong các tình cảm của mỗi bậc cha mẹ thì đây là tình cảm gần gũi sâu nặng nhất;
trong các trách nhiệm của gia đình thì đây là trách nhiệm trực tiếp nhất; trong các
hy vọng của cha mẹ thì đây là hy vọng lớn lao nhất.
- Trẻ em trong xã hội:
Trẻ em là lớp công dân đặc biệt, là lực lượng lao động và là chủ nhân tương
lai của đất nước. Giáo dục trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà còn là
trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội. Khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay- thế giới
ngày mai” đã và đang trở thành phương châm hành động của nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt nam.
19
Tổ chức Liên hiệp quốc ngay từ những ngày đầu mới thành lập đã quan tâm
đến trẻ em. Một trong những hành động của tổ chức này là thành lập quỹ nhi đồng
liên hiệp quốc( viết tắt là UNICEF) vào ngày 11/12/1946, ngày nay nó trở thành trụ
cột chính trong sự viện trợ quốc tế cho trẻ em. Vấn đề trẻ em chính thức được
khẳng định và thừa nhận trong Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1942.
Tuyên ngôn năm 1959 sửa đổi lần hai khẳng định: Quyền trẻ em- mối quan tâm của
toàn nhân loại và loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em những cái tốt đẹp nhất.
Trong thời gian chuẩn bị cho năm quốc tế trẻ em ,Ủy ban Liên hiệp quốc về
nhân quyền đã soạn thảo một Công ước về quyền trẻ em. Sau 10 năm sửa đổi và tu
chỉnh với sự đóng góp tích cực và hiệu quả của các nước, các tổ chức quốc tế, được
các cơ quan Liên hiệp quốc như Ủy ban về quyền con người và Hội đồng kinh tế-
xã hội chuẩn y, Công ước đã được Đại hội đồng Liện hiệp quốc chính thức thông
qua ngày 20/11/1989. Công ước có hiệu lực và trở thành luật quốc tế từ ngày
02/9/1990. Tính đến nay đã có gần 200 quốc gia thành viên gia nhập hoặc phê
chuẩn công ước, nhiều hơn bất kỳ hiệp ước nào khác về nhân quyền trong lịch sử.
Công ước không chỉ là những hiệp ước mới nhất mà còn được chấp nhận rộng rãi
nhất về nhân quyền, quy định những quyền mà trẻ em trên thế giới được hưởng. Đó
là quyền được sống, được phát triển, quyền được bảo vệ và quyền được tham gia.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn công ước
này (Ngày 20/02/1990) và trở thành quốc gia thành viên của công ước về quyền trẻ
em. Đảng và Nhà nước ta luôn chú ý quan tâm, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt nam từ rất
sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn đề này, trong đó đều
thống nhất khẳng định đây là trách nhiệm to lớn của Đảng, toàn dân, đồng thời thể
hiện tính ưu việt của xã hội ta. Điều này được thể hiện rõ trong quan niệm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Thiếu niên, nhi đồng là chủ tương lai của đất nước...chăm sóc
và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân... vì tương lai con em
chúng ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu
bé cho tốt”. Người nhắc nhở: “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành
là ngoan” và khẳng định: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân
20
tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”[35,tr.32-33].
Trên thực tế, từ khi đổi mới đến nay, công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rằng: Mọi
chủ trương phát triển kinh tế- xã hội trước hết phải hướng vào mục tiêu phát triển
con người nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho mọi người, trước
hết là trẻ em.
1.2. Nội dung của giáo dục gia đình đối với trẻ em
Giáo dục trẻ em trong gia đình là một công việc thường xuyên, mặc dù giáo
dục gia đình không có một chương trình, kế hoạch nhất định được soạn thảo như
giáo dục ở nhà trường nhưng nó lại có nội dung hết sức phong phú và đa dạng, gắn
liền với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Có thể nói cái gì cũng cần dạy cho trẻ, tuy
nhiên, không phải cùng một lúc ta có thể nhồi cho trẻ tất cả những điều trẻ cần biết
hoặc ta muốn chúng được biết. Vì vậy dạy cái gì, chúng ta phải chọn lọc và cần
thực hiện một cách khoa học với những kiến thức, kỹ năng phù hợp. Sau đây là một
số nội dung chủ yếu, cần thiết mà các gia đình cần chú trọng giáo dục trẻ:
1.2.1. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được nghiên cứu từ rất lâu. Nó không xa lạ với cuộc
sống con người nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất. Dưới góc độ
chuyên ngành, tôi cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm
những nguyên tắc chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức
có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã
hội. Nó là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt cá nhân của mỗi con
người, đồng thời nói lên thực trạng của xã hội.
Để đánh giá một người có đạo đức hay không, người ta thường căn cứ vào
hành vi của người đó. Hành vi đạo đức thường biểu hiện trong hành động đối nhân
xử thế, trong nếp sống, trong điệu bộ, cử chỉ, lời ăn, tiếng nói. Đạo đức của mỗi cá
nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong
21
xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình. Do đó, đạo đức có chức năng giáo
dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.
Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp
nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, giúp mỗi cá nhân tự
giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã
hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận
xét cũng tự điều chỉnh mình và trong cuộc sống, quan niệm và hành vi đạo đức của
người này lại có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác. Do đó
nếu ai cũng có ý thức rèn luyện đạo đức tốt sẽ làm cho chuẩn mực đạo đức chung
trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội và đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội nên đạo đức phản ánh nên thực
trạng của xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội sẽ được thể hiện trong
đạo đức xã hội và một xã hội bị tha hóa về đạo đức cũng sẽ nói lên những mâu
thuẫn đang tồn tại trong xã hội chưa được giải quyết.
Nhận thức rõ vai trò của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đạo
đức là gốc của người cách mạng.[38,tr.283]. Người cách mạng không có đạo đức
cũng như cây không có gốc, suối không có nguồn. Cây không có gốc thì cây héo,
suối không có nguồn thì suối cạn. Đòng thời, Người cũng bổ sung : Đạo đức phải
gắn với tài năng, có đạo đức mà không có tài chẳng khác gì ông bụt ngồi trong
chùa, có tài năng mà không có đạo đức sẽ gây hại cho xã hội, cho tập thể.
Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, các gia đình Việt Nam nói chung, Đảng
bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình nói riêng bao giờ cũng coi trọng việc dạy đạo đức
cho con cái ngay từ khi còn nhỏ, coi đó là cần thiết và thường xuyên, bởi họ sợ rằng
“ Bé khôn vin, cả gẫy cành”. Và với truyền thống đạo đức của dân tộc, các bậc cha
mẹ thường giáo dục trẻ biết giữ gìn những giá trị đạo đức bền vững, cốt cách dân
tộc, đó là lòng yêu nước thương người, nhân nghĩa, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình,
cần cù trong lao động, anh dũng trong chiến đấu, tiết kiệm trong chi tiêu. Không
những thế, họ còn dạy cho con em mình truyền thống tốt đẹp của gia đình, những nề
22
nếp gia phong thể hiện lòng kính trọng, sự hiếu thảo chăm sóc ông bà, cha mẹ,
những người lớn tuổi.
Đối với ông bà, cha mẹ khi tuổi già sức yếu, con cháu phải vui vẻ, niềm nở;
thường xuyên giúp đỡ ông bà, cha mẹ mọi mặt trong sinh hoạt; nói năng phải lễ
phép, không cáu gắt hay tỏ thái độ khinh mạn khi ông bà hoặc cha mẹ có nhầm lẫn,
sai sót; phải kính trọng và hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Trong đó, việc kính trọng
cha mẹ phải được đặt lên hàng đầu trong quan niệm về đạo hiếu, vì như Khổng Tử
nói: “Ngày nay, thấy ai có thể nuôi dưỡng được cha mẹ, thì nười ta gọi là có hiếu.
Nhưng đến như giống chó ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nếu
không có lòng hiếu kính cha mẹ trong khi nuôi dưỡng, thì nuôi cha mẹ và nuôi chó
ngựa có gì khác nhau” [58, tr.127]. Nếu biết ông bà, cha mẹ tuổi già trái tính, trái
nết thì con cháu phải biết cách góp ý, không chấp nhặt, coi thường, không dùng
những lời lẽ phỉ báng hay hạ nhục, phải luôn bình tĩnh để giãi bày sai, đúng, có tình,
có lý, không được “giận cá chém thớt”. Đồng thời các thành viên trong gia đình
phải dạy trẻ biết vâng lời và biết hoàn thiện công việc một cách vui vẻ khi cha mẹ
sai bảo; dù kinh tế gia đình giàu hay nghèo cũng phải chi tiêu hợp lý, tiết kiệm,
không vòi vĩnh, đua đòi hay mặc cảm, sống khép kín, oán trách người thân... Tuy
nhiên, để thuyết phục và dạy trẻ hiệu quả thì bản thân ông bà, cha mẹ phải là tấm
gương sống mẫu mực cho trẻ soi và học theo ngay từ khi còn nhỏ. Tùy vào đặc
điểm tâm sinh lý chung của từng độ tuổi và cá tính riêng của từng trẻ cũng như
truyền thống đạo đức của từng gia đình mà cha mẹ có cách thức dạy trẻ khác nhau,
có thể thông qua thực tiễn người thật, việc thật hoặc qua những câu chuyện, bài thơ
có tính giáo dục, những câu chuyện về tấm gương vượt gian khó trong cuộc đời của
chính ông bà, cha mẹ, từ đó tác động đến nhận thức, tình cảm và phát triển nhân
cách cho trẻ.
Đối với người thân cùng huyết thống với cha mẹ thì các thành viên trong gia
đình, đặc biệt là cha mẹ phải dạy trẻ phải biết tôn kính, yêu thương, đồng cảm và
chia sẻ với họ; không được thờ ơ hoặc tỏ tái độ khinh thường, ngạo mạn làm cho
tình cảm huyết thống ngày càng phai nhạt. Đồng thời phải giải thích cho trẻ hiểu
23
rằng họ là những người có thể thay mặt cha mẹ chăm sóc, dạy bảo các con như tục
ngữ có câu: “Mất cha còn chú, mất mẹ bú vú dì”.
Đối với anh chị em ruột của trẻ, cha mẹ phải giáo dục trẻ có ý thức trách
nhiệm đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, những đồng thời phải có ý thức tôn
trọng và bảo vệ quan hệ tôn ti trật tự trong gia đình thông qua cách ứng xử, xưng
hô. Ở vị trí làm anh, làm chị thì phải tỏ ra rộng rãi, nhường nhịn, bao dung theo đạo
lý “Làm chị ở cho lành, làm anh ở cho rộng”. Còn làm em thì phải tỏ lòng quý mến,
tôn trọng anh chị, nghe theo anh chị những điều hay, lẽ phải. Trong bất cứ trường
hợp nào, anh chị em trong nhà cũng không nên nói xấu, dè bỉu lẫn nhau; phải thẳng
thắn đấu tranh, góp ý vì tình cốt nhục “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
Hơn nữa, để tồn tại và phát triển trong xã hội mỗi người phải giao tiếp, ứng xử
với mọi người xung quanh. Quan hệ giao tiếp, ứng xử đó có đạt được ý muốn, có
thuyết phục được mọi người xung quanh hay không, điều đó phụ thuộc phần lớn
vào đức tính chân thực của mỗi cá nhân. Người có tính chân thực cũng chính là
người luôn luôn tôn trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để cho những
người xung quanh coi thường, khinh bỉ, đồng thời là người giữ được chữ tín, lấy
chữ tín làm gốc rễ cho các mối quan hệ, cho nên được mọi người tin tưởng. Cho
nên, đối với làng xóm láng giềng, với mọi người trong xã hội, gia đình phải có trách
nhiệm giáo dục, rèn luyện con cái có lòng nhân ái, tính khiêm tốn, tính chân thực,
nói đi đôi với làm,...vv. Đây là quan hệ xã hội phức tạp, nó phong phú hơn nhiều so
với quan hệ huyết thống. Vì vậy ngay từ tuổi nhỏ dù đang sống trong phạm vi gia
đình là chủ yếu, các bậc cha mẹ cũng cần phải giáo dục, rèn luyện cho trẻ những
hành vi đạo đức truyền thống tốt đẹp mang đậm bản sắc dân tộc. Phải giáo dục lòng
nhân ái cho trẻ, bởi con người ta sinh ra ở trên đời, trừ những người bị mất trí, còn
thì ai cũng biết cảm nhận sự sung sướng, hạnh phúc, vinh dự hay đau khổ, thấp hèn.
Và tất nhiên ai cũng có nguyện vọng được sung sướng, hạnh phúc, không ai muốn
đau khổ, đói rách, tủi nhục và thấp hèn. Nếu như có người phải chấp nhận sự rủi ro,
bất hạnh nào đó cũng chỉ vì “lực bất tòng tâm”. Vì vậy phải giáo dục lòng nhân ái-
giáo dục lòng yêu thương con người, yêu thương đồng loại cho trẻ. Người có lòng
24
nhân ái sẽ là người không có hành vi ích kỉ hại nhân”, sống hòa đồng, được mọi
người tin tưởng, quý trọng. Học thuyết “ nhân ái” của Khổng giáo cũng đã dạy một
cách tổng quát rằng: Bất luận điều gì mà làm cho mình đau thương, mất mát, thiệt
thòi...thì cũng không mong cho người khác gặp phải, còn những gì tốt đẹp mình
muốn đạt được thì cũng mong cho người khác đạt được.
Hình ảnh tuổi thơ đầu đời của trẻ có thể là phiên bản của bậc sinh thành.
Chúng ta gieo cho trẻ tính ích kỷ, hẹp hòi thì nó sẽ ích kỷ với chính chúng ta. Quy
luật “nhân- quả” vốn có từ muôn thuở và hiện hữu trong thực tế cuộc sống của các
gia đình. Chính vì vậy mà ông cha ta cũng đã đúc kết cho con cháu rất nhiều câu ca
dao, tục ngữ, thành ngữ về lòng nhân ái, trong đó có một câu rất ngắn gọn nhưng
bao hàm đầy đủ ý nghĩa nhân sinh của lòng nhân ái là “thương người như thể
thương thân” và cũng được cụ thể hóa bằng nhiều hành vi đạo đức trong đời sống
hành ngày là chia sẻ, giúp đỡ tùy tâm những cảnh đời rủi ro, hoạn nạn; ủng hộ lụt
bão, thiên tai; giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, theo tinh thần “Lá
lành đùm lá rách”.
Ngoài việc giáo dục lòng nhân ái, các gia đình phải giáo dục trẻ luôn luôn tỏ ra
khiêm tốn; biết xin lỗi khi mình lỡ lời hoặc va vấp làm phiền người khác, biết cảm
ơn người đã giúp mình dù là việc nhỏ; không được chủ quan, ngạo mạn tự cho mình
là hay, là biết hơn người khác, với tinh thần “Một lần khiêm tốn bằng bốn lần tự
kiêu” và “Cái gì biết thì nói là biết, cái gì không biết thì nói là không biết, thế mới
gọi là biết”. Đức tính khiêm tốn không những giúp cho con người ta học hỏi được
những điều hay ở nhiều người khác mà còn làm cho người ta có phong cách cư xử
chu đáo, cẩn thận, cung kính, không hấp tấp, vội vàng, không tranh ăn, tranh nói,
khoe khoang, phô trương năng lực của mình. Chính vì vậy mà họ càng được nhiều
người tin tưởng, mến phục.
1.2.2. Giáo dục trí tuệ
Gia đình là thiết chế giáo dục cơ sở, nơi đào tạo đầu tiên giúp trẻ tập đi từng
bước vào cuộc sống, đồng thời chuẩn bị cho trẻ có thể phát triển đầy đủ tiềm lực và
có vai trò hữu ích trong xã hội khi đến tuổi trưởng thành.
25
Giáo dục trẻ em ở gia đình tuy không có chương trình, kế hoạch rõ ràng,
không được soạn thảo như ở nhà trường, nhưng vẫn có nội dung rất phong phú. Và
người thầy đầu tiên của trẻ, không ai khác chính là cha mẹ trẻ. Họ dạy con những
tiếng bập bẹ đầu tiên, cung cấp vốn từ và luyện phát âm cho con qua những lời ru,
câu ca, câu chuyện, bài thơ, vè, ca dao, bài hát...Và họ cũng chính là người cho con
những ý niệm sơ khởi về những mối quan hệ giữa trẻ với các thành viên khác trong
gia đình: ai là cha, ai là mẹ, ai là ông bà nội, ai là ông bà ngoại, hay cô, dì, chú,
bác... và tại sao lại gọi vậy. Tất cả những câu hỏi mà cha mẹ đặt ra cho trẻ và khi trẻ
hỏi cha mẹ, nếu được cha mẹ hiểu, gợi ý và giải đáp kịp thời, đúng lúc, khoa học sẽ
làm động lực mạnh mẽ giúp trẻ ham học hỏi và không ngừng nâng cao tri thức, phát
triển tư duy và khơi dậy khả năng học tập tích cực, sáng tạo.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có không ít các bậc cha mẹ không nắm rõ khả
năng, trình độ và sự thay đổi tâm sinh lý của trẻ nên không có sự chuẩn bị hoặc
thiếu kinh nghiệm trong việc dạy bảo, phát triển tư duy cho trẻ. Họ chỉ lo làm ăn và
phát triển kinh tế mà phó mặc toàn bộ việc giáo dục cho nhà trường, không chịu học
hỏi để đồng hành cùng con vì tự ti, nghĩ mình ít học. Do đó, họ không phát huy
được sự ảnh hưởng to lớn, tích cực của mình trong việc giáo dục và phát triển trí tuệ
cho con
Ở mỗi lứa tuổi, mỗi trẻ cụ thể đòi hỏi cha mẹ phải có cách thức giáo dục khác
nhau. Tuy nhiên, không phải cứ nói đến phát triển tri thức, trí tuệ là phải bắt trẻ ngồi
vào bàn học hay đọc sách khoa học. Để trẻ có nhiều tri thức khoa học và thông
minh hơn, trên cơ sở những tri thức khoa học và kinh nghiệm cuộc sống cha mẹ có
thể truyền đạt kiến thức cho trẻ thông qua các trò chơi, đố vui, khéo léo truyền kiến
thức khi chơi cùng con, làm bạn cùng con và phát triển tư duy cho con. Có như vậy
mới biến việc tiếp nhận tri thức khoa học, kinh nghiệm sống của trẻ diễn ra một
cách thoải mái, nhẹ nhàng, vui vẻ mà vẫn đạt hiệu quả cao dưới dạng “Học mà chơi,
chơi mà học”, trẻ học được rất nhiều điều mà lại thấy thích chơi. Chơi là chương
trình học rất tốt, tất cả các hoạt động vui chơi mà trẻ tham gia sẽ xây dựng cho trẻ
khả năng nhận thức, tình cảm tốt, nhất là đối với trẻ mầm non. Việc tiếp xúc với các
26
khối gỗ, nhựa sẽ giúp trẻ nhận thức được không gian ba chiều, là nền tảng cho
những bài hình học, vật lý, kiến trúc và kỹ thuật. Nhiều trẻ mẫu giáo thích tưởng
tượng những vật hình khối có kích cỡ to, vừa và nhỏ như đó là bố, mẹ và con. Qua
đó, trẻ thể hiện sự hiểu biết về những mối tương quan kích cỡ trong thế giới thật.
Thậm chí việc viết nguệch ngoạc ra sân, ra giấy hoặc vẽ những bức tranh biểu
tượng con người, cảnh vật hoặc những thứ mà trẻ tưởng tượng ra cũng có ý nghĩa
rất lớn đối với trẻ, đó là bước đệm ban đầu để trẻ quan sát thế giới xung quanh, mặc
dù đối với nhiều người lớn những đường nét đó là vô nghĩa, không giống thực tế.
Hay khi chơi với ráp hình, trẻ phát triển khả năng suy luận về không gian, quan sát
những kiểu mẫu và chi tiết, thực tập sự phối hợp bằng tay và mắt...vv. Thậm chí,
ngay cả khi trẻ học cấp II, cha mẹ có thể củng cố kiến thức vật lý, hóa học,...qua
thực tiễn cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày ở gia đình trẻ.
Nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng tất cả các trẻ em đều thích
hoạt động trí tuệ. Nhu cầu nhận thức được nuôi dưỡng và nảy nở trên cơ sở những
xúc cảm và tình cảm tích cực. Vai trò của người lớn và của cha mẹ trong việc hình
thành cho con mình động cơ học tập đúng đắn sẽ trở thành một trong những yếu tố
tích cực nhất giúp trẻ thành công ngay từ khi mới ngồi trên ghế nhà trường. Bên
cạnh đó niềm tin, sự tôn trọng, sự động viên khích lệ và sự hiểu biết của cha mẹ đối
với con cái trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày là những công cụ
hữu ích giúp trẻ hình thành và phát triển trí thông minh.
Việc giáo dục trí tuệ cho trẻ trong gia đình chủ yếu tập trung vào việc trả lời
các câu hỏi của trẻ về các vấn đề trong thế giới tự nhiên, các vấn đề liên quan đến
học tập, đến quan hệ bạn bè, đến ứng xử xã hội... Cha mẹ luôn tìm mọi cách trả lời
các câu hỏi của con một cách nghiêm túc. Nếu không biết hoặc thấy mình tích lũy
chưa đủ lượng kiến thức cơ bản để trả lời câu hỏi của con thì phải tìm kiếm thông
tin, bổ sung kiến thức cho mình. Không được trả lời tùy tiện, trả lời trẻ cho qua
chuyện. Tuy nhiên các bậc phụ huynh cần nhận thức rõ khi giúp con học tập, tuyệt
đối không được làm thay con mà chỉ gợi ý cho trẻ tự làm bài và học bài.
27
Ngày nay, mặc dù có những tác động to lớn của các lớp mẫu giáo, nhà trẻ,
trường học và các đoàn thể nhưng gia đình vẫn giữ vị trí quan trọng trong việc giáo
dục và phát triển trí thông minh ở trẻ. Cha mẹ luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong
việc cung cấp và tạo điều kiện giúp trẻ lĩnh hội những tri thức khoa học cũng như
kinh nghiệm thực tế cuộc sống cả về số lượng và chất lượng. Gia đình là chiếc nôi
ươm trồng và nuôi dưỡng trí tuệ, tình cảm và nhân cách cho trẻ. Kết quả giáo dục
trẻ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ học vấn, vào khả năng kinh tế và quan niệm
chung của cha mẹ trẻ về thang giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống. Trẻ càng nhỏ thì
gia đình càng có ý nghĩa quan trọng trọng việc hình thành và phát triển nhân cách
nói chung và phát triển nhận thức nói riêng.
1.2.3. Giáo dục thể chất
Cuộc đời của mỗi người ai cũng phải tuân theo quy luật sinh- lão- bệnh - tử,
chúng ta chỉ có thể tác động làm cho quá trình đó nhanh lên hay chậm đi mà thôi.
Sự tác động đó theo chiều hướng tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào cha mẹ (Khi trẻ
còn nhỏ) và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ hiểu biết khoa học của người
đó về lối sống, ăn uống, vệ sinh, thể dục thể thao... Vậy khi trẻ còn nhỏ, các gia
đình cần phải tác động thế nào để trẻ có được sức khỏe tốt, có lối sống lành mạnh,
khoa học, giúp trẻ phát triển thể chất tốt nhất có thể?
Như chúng ta đã biết, để có được sức khỏe tốt và trường thọ là kết quả của
một quá trình biết gìn giữ, chăm sóc cơ thể một cách khoa học, hợp lý ngay từ tuổi
ấu thơ cho đến khi về già, chứ không phải một vài năm hay những khi ốm đau được
bồi bổ mà có. Do đó, ngay từ khi trẻ còn nhỏ cha mẹ phải nhắc nhở và quan tâm đến
sự ăn uống của trẻ, giáo dục trẻ biết bảo vệ sức khỏe, rèn cho trẻ thói quen vệ sinh
cá nhân, tắm giặt thường xuyên, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không
nên ăn quá no nhất là vào buổi tối, ăn uống phải lịch sự, không xô bồ, tạp nham,
nhất là khi trẻ còn nhỏ chưa ý thức tốt việc mình làm và khi trẻ ở cái tuổi “ăn không
biết no, chơi không biết chán”. Đồng thời chú ý tạo điều kiện cung cấp đủ dưỡng
chất cần thiết cho bộ não của trẻ hoạt động khỏe mạnh và hiệu quả, bổ sung các loại
thức ăn bổ dưỡng như hoa quả tươi, đạm động vật, thực vật... nhất là khi trẻ đang ôn
28
thi kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp. Muốn vậy, cha mẹ phải nắm được hàm lượng
dưỡng chất trong thực phẩm và nhu cầu dinh dưỡng của trẻ để chọn thức ăn phù
hợp với hệ tiêu hóa của trẻ, đảm bảo tỉ lệ hợp lí giữa đạm, mỡ và đường bột..., cần
thường xuyên đổi món ăn và chế biến món ăn theo nhiều cách để trẻ ăn ngon miệng
và thức ăn được hấp thu tốt hơn.
Tuy nhiên, để trẻ có một thể chất tốt, gia đình không chỉ giáo dục, giải thích và
rèn luyện cho trẻ thói quen vệ sinh, ăn uống khoa học, hợp lý mà còn phải động
viên, khuyến khích trẻ vận động như đi bộ, chạy bộ, đi xe đạp và tham gia các môn
thể thao phù hợp với sở thích và nhu cầu của cá nhân trẻ, tích cực cho trẻ tham gia
vui chơi giải trí, nghỉ ngơi, tham quan du lịch...theo điều kiện, hoàn cảnh của từng
gia đình. Đồng thời lôi cuốn trẻ vui vẻ tham gia lao động từ dễ đến khó hơn, phù
hợp với giới tính và độ tuổi “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình” để trẻ
được vận động nhiều hơn, rèn luyện sức khỏe tốt hơn.
1.2.4. Giáo dục thẩm mĩ
Xã hội càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái đẹp,
thể hiện cái đẹp của con người ngày càng cao và trở thành một nhu cầu quan trọng
trong đời sống hàng ngày. Nguồn gốc của cái đẹp là cuộc sống hiện thực xã hội với
tính đa dạng, phong phú của nó mà con người có thể bắt gặp ở khắp mọi nơi. Con
người càng yêu quý cái đẹp bao nhiêu thì càng từ bỏ và căm ghét cái xấu bấy nhiêu,
nhờ vậy mà con người dần trở nên thanh cao và có văn hóa.
Con người tiếp thu cái đẹp đầu tiên không ở đâu xa mà chính là ở gia đình.
Vai trò của gia đình, của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ. Những ấn tượng đầu tiên về cái đẹp của màu sắc (xanh , đỏ,
vàng...), của âm thanh trong tiếng ru của mẹ, những cảm xúc của sự âu yếm, vuốt ve
đầy tình thương đã được gia đình truyền đạt từ những năm tháng tuổi thơ.
Khoa học đã chứng minh trẻ 3- 6 tuổi đã hình thành tình cảm thẩm mĩ. Trẻ
biết rung cảm, xao xuyến trước cái đẹp như: bông hoa đẹp, tiếng chim hót, bộ quần
áo đẹp,... Do đó, tùy theo sở thích, trình độ hiểu biết và điều kiện, hoàn cảnh gia
đình mà các bậc cha mẹ có nhiều cách khác nhau để phát triển tính thẩm mĩ cho con
29
thông qua những hành động cụ thể như treo các bức tranh đẹp, trồng các khóm hoa
đẹp, chậu cảnh đẹp, trang trí phòng ngủ, phòng ăn, góc học tập, nơi tiếp khách hài
hòa. Các cảnh trí này tác động đến các giác quan của trẻ, tạo ra sự cân bằng các hoạt
động sinh lí thần kinh cho trẻ, đồng thời giúp các bậc cha mẹ thư giãn sau những
giờ làm việc căng thẳng. Không những thế, cái đẹp thường đem lại cho mọi người
những cảm xúc tích cực, ngạc nhiên, xao xuyến, kích thích, hoạt hóa các quá trình
thần kinh, thúc đẩy não làm việc, thần kinh hưng phấn, tạo ra sinh lực làm việc, lạc
quan, yêu đời hơn.
Ngoài những tác động trên, gia đình còn dạy cho trẻ học ăn, học nói, có những
lời nói đẹp, hành vi đẹp, nghe và cảm nhận những bài hát hay, bản nhạc vui tươi,
được tiếp xúc với nhiều tác phẩm nghệ thuật,...dần hình thành tâm hồn nghệ thuật,
trẻ thích hát, thích vẽ, thích sáng tạo nghệ thuật và có nhiều hành động đẹp. Nhất là
khi xu hướng quốc tế hóa đã và đang mở ra khả năng giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia, gia đình phải có những định hướng nhất định cho con mình trong việc
đón nhận giá trị văn hóa mới sao cho phù hợp, đồng thời dạy trẻ biết trân trọng
những giá trị của văn hóa truyền thống tốt đẹp mà các thế hệ cha ông để lại.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ diễn ra thường xuyên, liên tục trong gia đình và nó
sẽ đạt hiệu quả cao nếu các bậc cha mẹ biết làm bạn với con và vận dụng linh hoạt,
khéo léo và thoải mái, vui vẻ, không để trẻ có cảm giác nặng nề như đang bị ép
buộc phải “nhồi nhét” kiến thức. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ trong gia đình còn được
định hướng thông qua việc trang trí trong gia đình cho trẻ. Giao cho trẻ trang trí nhà
cửa trong những ngày lễ, ngày tết hay khi nhà sắp có khách. Mỗi sáng, trước khi
đưa trẻ đến trường mầm non hãy dành thời gian cùng trẻ làm đẹp, chọn màu sắc
quần áo theo thời tiết, chải đầu tóc gọn gàng, chọn giày dép phù hợp,... cho trẻ soi
gương và khen ngợi khi thấy trẻ mặc đẹp. Ngay cả khi xem phim, xem các chương
trình trên ti vi, internet,vv... cha mẹ cũng nên có nhận xét đẹp- xấu về hành vi, lời
nói, trang phục... như là một sự hướng dẫn nhận thức về vẻ đẹp thẩm mĩ cho trẻ.
Bồi dưỡng những xúc cảm thẩm mĩ từ gia đình cho trẻ, để trẻ lớn lên không
chỉ biết bảo vệ, gìn giữ cái đẹp mà còn có nhiều hành động đẹp phù hợp với khả
30
năng như trồng hoa, trồng cây cảnh, biết sắp xếp đồ đạc, sách vở gọn gàng, kê bàn
ghế và trang trí, sắp xếp không gian các phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ,... hài
hòa, cân đối. Từ đó trẻ thấy yêu cái đẹp, sống đẹp và thích tạo ra nhiều sản phẩm
đẹp cho mình và cho xã hội.
1.3. Những yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình hiện nay.
1.3.1. Vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội và con ngƣời Thái Bình. Thái Bình- miền đất hạ lưu sông Hồng, diện tích tự nhiên 1533km2, dân số
hơn 1,9 triệu người [55,tr1], mật độ dân số trung bình là 1209 người/km², phân bố
không đồng đều giữa các đơn vị hành chính, mật độ cao nhất tại thành phố Thái
Bình đạt 3961 người/km² và thấp nhất là huyện Tiền Hải đạt 945 người/km² [4,tr1].
Đây là mảnh đất luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi
và khó khăn. Đó là sự hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang vùng đất
mới vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song đó cũng là miền đất
hoang sơ với muôn vàn nguy hiểm, thử thách như dông bão, lụt lội, nắng hạn, đầm
lầy,...Trải qua quá trình trăn trở, vật lộn, đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc
dã hoành hành,... người dân Thái Bình đã sớm hình thành những phẩm chất tốt đẹp
với nhiều truyền thống đáng tự hào: cần cù, dũng cảm trong lao động sản xuất,
chinh phục, cải tạo thiên nhiên, giàu kinh nghiệm thâm canh; yêu thể thao; ham học
hỏi; có nền văn hóa, nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc mà vẫn có sắc thái riêng,
độc đáo; có ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng, có truyền thống hiếu học
đặc biệt là truyền thống bất khuất, kiên cường, yêu nước, chống ngoại xâm và đấu
tranh với các thế lực phản động.
Lợi thế so sánh của Thái Bình là có cảng biển quốc gia Diêm Điền, tàu 400 –
1000 tấn ra vào được, cùng hệ thống sông ngòi gắn với quốc lộ 10, 39A, 218 và các
trục đường chính trong tỉnh tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ tương đối
thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế, văn hoá trong vùng đồng bằng sông
Hồng, cả nước, các tỉnh phía Nam của Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông
Nam Á. Thái Bình cũng gần các trung tâm kinh tế lớn trong vùng tam giác tăng
31
trưởng kinh tế Hải Phòng - Quảng Ninh – Hà Nội, đó là thị trường lớn về lao động,
sản phẩm, lương thực, thực phẩm và hợp tác phát triển. Đồng thời, Thái Bình còn
có nguồn khí đốt, nước khoáng có trữ lượng lớn, khả năng khai hoang lấn biển mở
rộng diện tích ở hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy là những tiềm năng lớn trong
nuôi trồng và khai thác hải sản. Đây là những điều kiện thuận lợi cho các gia đình ở
Thái Bình phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế, học hỏi kinh nghiệm trong mọi
lĩnh vực với các tỉnh trong nước và quốc tế.
Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng
ven biển, có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, đặc biệt là nguồn tài
nguyên nhân văn. Hiện nay, loại hình du lịch văn hóa đang là thế mạnh của du lịch
tỉnh nhà, với trên 2000 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó gần 100 di tích được xếp
hạng Di tích cấp quốc gia, gần 400 di tích cấp tỉnh, là điều kiện tốt để xây dựng
những sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, du lịch nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng ở đây còn đơn điệu, nghèo
nàn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa mang tính đặc trưng của địa
phương và thiếu sức cạnh tranh trên thị trường so với các tỉnh lân cận, dẫn tới việc
chưa thu hút được khách du lịch trong và ngoài tỉnh đến Thái Bình.
Hiện nay Thái Bình có hơn 1.400 công trình kiến trúc cổ đủ loại lớn nhỏ khác
nhau như đình, đền, chùa, miếu, điện, phủ, từ đường… Do thời gian và chiến tranh
giặc dã, mặc dù trong số đó đã mất mát, thiếu vắng song số còn lại cũng phần nào
minh chứng được những di sản nghệ thuật kiến trúc đồ sộ đáng tự hào, có một
không hai trên cả nước điển hình như di tích chùa Keo (Vũ Thư), đình An Cố (Thái
Thụy), chùa Ký Con (Đông Hưng), đình Duyên Lãng (Hưng Hà)…
Hầu như làng nào ở Thái Bình cũng có hội lễ, hội làng với nhiều nghi thức,
nội dung, phạm vi khác nhau. Lễ hội Thái Bình phong phú nhưng nội dung tập
trung phản ánh cơ bản việc tôn vinh những anh hùng dân tộc, những người có công
với dân, với nước, tái hiện cuộc sống nông nghiệp, tín ngưỡng và cuối cùng là thi
tài, giải trí… Nhiều lễ hội có nội dung vô cùng đặc sắc như hội chùa Keo có trò bơi
chải cạn, thổi cơm thi, bắt vịt; hội làng Quang Lung (Thụy Hải, Thái Thụy) có tổ
32
chức múa “ông Đùng, bà Đà”, hội đền Hét (Thái Thượng, Thái Thụy) có trò thi vật
cầu; hội Sáo Đền (Song An, Vũ Thư) thi thả diều… Đặc biệt, hội làng tại Thái Bình
còn là nơi tồn tại, củng cố và lưu giữ rất nhiều hình thức diễn xướng văn nghệ dân
gian và múa hát dân gian độc đáo, đậm đà sắc thái của cư dân nông nghiệp vùng
ven biển đồng bằng Bắc Bộ như múa giáo cờ, giáo quạt ở hội làng Thượng Liệt
(Đông Tân, Đông Hưng), múa Bát dật và múa Kéo chữ (hội làng An Khê, Quỳnh
Phụ), múa Dội chai ở Phương Trạch (Tiền Hải)… Đáng quan tâm nhất là nghệ thuật
hát chèo với chiếu chèo sân đình được sử dụng ở hầu hết các hội làng xưa ở Thái
Bình. Ngoài những tích trò dân gian, những vở chèo truyền thống, việc biểu diễn
chèo còn phục vụ tích cực cho việc hát thờ, hát cửa đình của nhiều hội làng. Cùng
với hát chèo, múa rối nước, một loại hình sân khấu độc đáo, con đẻ của vùng sông
nước cũng xuất hiện, phát triển ở 7 phường hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh. Bằng
sức cuốn hút của mình, hội làng là môi trường văn hóa trực tiếp, quan trọng để tiềm
năng văn hóa văn nghệ dân gian của các làng xã được lưu giữ, phát triển bất chấp sự
biến đổi không ngừng của thời gian. Ngược lại, nghệ thuật dân gian cùng các trò
chơi, trò diễn đã làm nên những nét riêng, có sức hấp dẫn mãnh liệt, đậm đà bản sắc
truyền thống cho hội làng, hội lễ của Thái Bình. Sản sinh từ miền đất giàu bản lĩnh,
ý chí, trưởng thành đắm mình trong môi trường nhiều chất văn hóa lành mạnh, tiếp
thu có sáng tạo truyền thống của ông cha, con người Thái Bình qua nhiều thế hệ đã
kịp trau dồi hiểu biết, hòa nhập và vươn tới đỉnh cao của tri thức đương thời, đóng
góp cho đất nước không ít nhân tài trên nhiều lĩnh vực hoạt động.
Mặc dù là một vùng đất hẻo lánh, nằm xa các trung tâm văn hóa cổ, bốn bề
sông nước bao bọc, song người dân Thái Bình sớm thể hiện tinh thần hiếu học, ham
hiểu biết. Ngay dưới thời Lý (thế kỷ XI), nhiều vị quốc sư nổi tiếng uyên thâm đã
về mở trường dạy học, xây dựng nên một trung tâm Phật giáo ở đất Thái Bình. Chỉ
riêng thời Nguyễn hơn 100 năm tồn tại các khoa thi Nho giáo, Thái Bình đã có 15
người đỗ đại khoa và gần 200 người đỗ cử nhân. Trải qua 844 năm dưới chế độ
khoa cử của các triều đại phong kiến (1075 - 1919), trong tổng số 2.898 trí thức đại
khoa của Việt Nam thì Thái Bình chiếm tới 111 vị. Tiêu biểu cho đội ngũ nho sĩ, trí
33
thức của Thái Bình là tri thức uyên bác, bản lĩnh văn hóa trác việt của Nhà bác học
Lê Quý Đôn. Đời nối đời, tinh thần hiếu học trên mảnh đất trẻ nơi đầu sóng ngọn
gió vẫn được các thế hệ tiếp bước cho đến ngày nay. Năm học 2013- 2014 vừa qua
Thái Bình đã có 568 em đỗ đại học đợt I đạt từ 24 điểm trở lên, trong đó có 4 em đỗ
thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học năm học 2014 là em Hồ Sỹ Duy, Lê
Thanh Hà, Nguyễn Thị Xuyến, Nguyễn Thị Huyền. Trong kỳ thi olimpic toán quốc
tế tại Cộng hòa Nam Phi, mảnh đất địa linh nhân kiệt Thái Bình vinh dự có 2 em đạt
huy chương vàng là em Trần Hồng Quân và em Nguyễn Thế Hoàn. Niềm tự hào sâu
sắc về lớp lớp nhân tài, về những danh nhân quê hương cùng những thành tố văn
hóa đượm chất truyền thống, kết tụ lâu đời nơi làng xã là mối dây tình cảm tha thiết
gắn chặt con người Thái Bình với quê hương. Nó không ngừng được củng cố, bồi
đắp, trở thành ý chí, sức mạnh quật cường của cộng đồng cư dân đang quần tụ trên
đất Thái Bình trong các cuộc đấu tranh nhằm mở mang, xây dựng cũng như bảo vệ,
giữ gìn trọn vẹn những thành quả mà ông cha từ thuở khai thiên lập ấp đã tạo dựng
lên.
Những bước phát triển về nông nghiệp, ngư nghiệp, sự hình thành và phát
triển các làng nghề thủ công nổi tiếng, sự giao lưu về thương mại đường dài qua
đường biển, đường sông đã khiến người Thái Bình có mặt ở hầu hết các miền trong
nước. Việc tiếp xúc và chung sống với đồng bào ở nhiều tỉnh khác cũng là một
trong những điều kiện tạo cho người Thái Bình có sự tinh nhạy, dễ hấp thụ cái hay,
cái mới ở nhiều lĩnh vực đời sống.
Mặt khác, điều kiện khí hậu Thái Bình nhờ có thiên nhiên ưu đãi nên rất thuận
lợi cho thâm canh, xen canh, phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với cây
lúa. Lúa luôn giữ địa vị ưu thế trong các loại cây lương thực. Diện tích lúa năm
2011 là 165,7 nghìn ha, sản lượng đạt 1.091,3 nghìn tấn [ 4,tr 6]. Lúa được phân bố
hầu hết ở các huyện trong tỉnh. Ngoài lúa, Thái Bình còn trồng các loại cây màu
lương thực. Diện tích trồng màu tăng lên qua các năm. Cây màu chính gồm cây ngô
và khoai lang. Cây công nghiệp có đay, cói, dâu tằm, mía, lạc, thuốc lào.. Tuy
nhiên, nhược điểm khí hậu ở Thái Bình là độ ẩm cao nên việc bảo quản máy móc,
34
thực phẩm gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh dễ lây lan và phát triển ở diện rộng.
Trong mùa mưa thường có bão, mùa khô thì có những ngày lạnh giá, sương muối
làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gia súc và cây trồng.
Về thủy văn, Thái Bình là tỉnh bốn bề có sông nước bao quanh, một mặt là
biển, ba mặt khác là sông. Giữa tỉnh có sông Trà Lý (dài 67km). Những con sông
lớn này được nối liền với một hệ thống sông đào, kênh mương dày đặc, cộng với
ảnh hưởng của thủy triều đã tạo cho Thái Bình có nguồn nước vô cùng phong phú,
cung cấp đầy đủ nước sinh hoạt cho các gia đình và cho các hoạt động sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp. Các sông trên đổ ra biển qua 5 cửa: Thái Bình, Diêm Hộ,
Trà Lý, Lân và Ba Lạt có vai trò bồi đắp phù sa, tạo nên thế mạnh lấn biển của Thái
Bình. Bên cạnh đó, khi các sông đổ ra biển chịu ảnh hưởng của thủy triều. Vào mùa
hè, mực nước tăng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao. Mùa đông lưu
lượng giảm xuống nhiều, nước mặn từ các cửa sông lớn có thể chuyển sâu vào đất
liền thành những vùng nước lợ, rất thuận tiện cho việc đánh bắt nuôi trồng thủy sản.
Song, điều này cũng gây không ít khó khăn cho địa phương hằng năm phải đầu tư
cải tạo hàng trăm ha đất nhiễm măn và xây dựng cải tạo cơ sở hạ tầng, đê, kè, thủy
lợi, mương máng tưới tiêu và phòng chống thiên tai để đáp ứng yêu cầu của sản
xuất và đời sống nhân dân.
Do ảnh hưởng của địa hình và hệ thống sông, biển, ở Thái Bình có nhiều
nhóm đất khác nhau như đất mặn, đất cát ven biển, đất chua phèn, đất phù sa, đất
bạc màu và đất xói mòn. Hệ thống sinh vật của Thái Bình không nhiều, chủ yếu là
rừng ngập mặn ven biển, phân bố ở hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy với các loại
cây chính là sú, vẹt… Các thảm thực vật tự nhiên khác hầu như không có mà thay
vào đó là các hệ sinh thái đồng ruộng với các loại cây lương thực, thực phẩm, cây
ăn quả… Giới động vật trên cạn vì vậy cũng có rất ít
Các mặt hàng nông thủy sản như thịt lợn, tôm đông lạnh., gạo là một trong
những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của tỉnh Thái Bình. Năm 2011, các mặt
hàng này đã mang lại cho Thái Bình 12.855 nghìn USD. Tuy nhiên, do năng lực
quản lý, kinh doanh hạn chế nên các sản phẩm thường bị chèn ép về giá, bị các tư
35
thương chiếm dụng vốn nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Thị trường tiêu thụ bấp
bênh “được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa” nên người lao động ở đây
không yên tâm và chưa mạnh dạn đầu tư lớn cho sản xuất.
Mặc dù vậy, sản xuất thủy sản ở Thái Bình những năm qua, bước đầu đã tạo ra
vùng sản xuất hang hóa,làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến
bộ, góp phần giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận nông dân.
Quá trình thực hiện đã huy động được các nguồn lực,làm thay đổi tập quán sản xuất
nhỏ trong nông nghiệp- nông thôn, tạo điều kiện để nông dân tiếp cận với các
phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
bên cạnh đó còn bộc lộ những khó khăn như quy mô sản xuất của hộ còn nhỏ, công
trình hạ tầng chưa được xây dựng đồng bộ; việc chuyển mục đích sử dụng đất, cấp
giấy chứng nhận quền sử dụng đất, chứng nhận trang trại cho hộ nông dân còn hạn
chế.
Từ thực trạng trên cho thấy: Thái Bình là tỉnh nằm trong vùng sản xuất lương
thực, thực phẩm lớn của vùng đồng bằng sông Hồng. Điều kiện tự nhiên sinh thái
của tỉnh tạo nhiều thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của các gia đình ở Thái Bình. Hơn nữa Thái Bình còn là
một tỉnh có truyền thống văn hóa với nhiều lễ hội đặc sắc. Con người Thái Bình nói
chung sớm có những phẩm chất tốt đẹp với nhiều thành tích, truyền thống đáng tự
hào. Đây cũng là những thuận lợi lớn trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc và
đầu tư giáo dục đức- trí -thể- mỹ cho trẻ trong các gia đình ở Thái Bình hiện nay.
Song, vì là một tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp thuần nông cho nên phần lớn
người dân Thái Bình còn mang đậm đặc điểm, tư tưởng của người nông dân nói
chung. Hơn nữa, thu nhập của người dân nơi đây còn thấp và bấp bênh, nhất là
những xã không có việc làm phụ, thu nhập chính chỉ trông chờ vào việc trồng trọt
và chăn nuôi nên khi công nghiệp hóa nông nhiệp nông thôn, thực hiện đồng bộ cơ
giới hóa, tự động hóa các khâu sản xuất thì nhiều cha mẹ trẻ đang là lực lượng lao
động chính trong gia đình đã phải lên các thành phố tìm việc làm có thu nhập ổn
định. Cho nên, trong các gia đình ở nông thôn hiện nay chủ yếu còn người già và trẻ
36
em. Nhiều ông bà của trẻ có con đi làm ăn xa, nhưng vì còn trong tuổi lao động,
kinh tế gia đình còn thiếu thốn nên vừa nuôi dạy cháu, vừa làm thuê tăng thu nhập
cho gia đình. Một số gia đình chỉ có một người lớn ở nhà với trẻ, còn lại đi làm ăn
xa hoặc lên các thành phố phát triển hơn tìm việc làm: giúp việc, công nhân,… Do
đó, yếu tố kinh tế đã phần nào làm cho việc giáo dục trẻ trong các gia đình ở Thái
Bình hiện nay có phần lỏng lẻo, thiếu sự quan tâm thích đáng của cha mẹ.
1.3.2. Tác động giáo dục của các thành viên trong gia đình tới trẻ em ở
Thái Bình
Giáo dục gia đình là một quá trình liên tục và lâu dài. Nó có đặc trưng riêng
xuất phát từ tình cảm và thông qua tình cảm, thái độ, việc làm, hành vi ứng xử của
người lớn mà trẻ học tập cách sống, cách nghĩ. Giáo dục gia đình có phương pháp
đặc biệt là thuyết phục, giảng giải, cùng trao đổi thân tình và làm gương, trên cơ sở
tình yêu của những người ruột thịt. Những thông tin mà người lớn truyền thụ cho trẻ
trong gia đình được thực hiện một cách tự nhiên, thân tình, giản đơn và thường
được nhắc lại bằng nhiều cách khác nhau. Một thông tin có khi được thể hiện qua
lời nói, có khi được thể hiện qua những hành vi ứng xử, cũng có khi bằng thái độ và
trẻ được học tập, trưởng thành theo hình thức thẩm thấu dần dần. Hơn nữa, giáo dục
gia đình còn có nội dung phong phú và đa dạng, bởi vì môi trường gia đình là một
môi trường không thuần nhất (Các thành viên trong gia đình thường khác nhau về
địa vị xã hội, vai trò, kinh nghiệm sống, tuổi tác, giới tính, học vấn, nghề nghiệp,...)
nhưng về cơ bản giáo dục gia đình sẽ giúp trẻ tiếp nhận những kinh nghiệm, những
chuẩn mực xã hội chủ yếu bằng con đường tình cảm sau khi đã qua “ bộ lọc” của
các thành viên trong gia đình.
Với tiền đề vật chất là cơ thể sinh học phát triển tới mức cao nhất của giới hữu
sinh, thì sự tác động biện chứng giữa môi trường giáo dục gia đình đối với trẻ đóng
vai trò quyết định hàng đầu trong suốt quá trình hình thành và biến đổi nhân cách
trẻ. Thực tế cho thấy mỗi một con người lúc sinh ra như một tờ giấy trắng. Những
nét đầu tiên viết lên trang giấy có thể sẽ quyết định hoặc ảnh hưởng suốt cả cuộc
đời mỗi người. Và môi trường đầu tiên mà mỗi đứa trẻ tiếp xúc chính là gia đình.
37
Gia đình sẽ là những ảnh hưởng đầu tiên, quan trọng nhất đến việc hình thành tính
cách, nhân cách và định hướng sống của mỗi người. Bởi vậy, cách giáo dục và môi
trường sống trong mỗi gia đình đóng vai trò quyết định đến việc đứa trẻ lớn lên như
thế nào và sống ra sao.
Tục ngữ có câu “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy”, đây là một quan điểm biện chứng,
phản ánh ảnh hưởng có tính chất di truyền không chỉ về mặt sinh học mà cả về mặt
xã hội trong mỗi gia đình. Trẻ em trong mỗi gia đình, bao giờ cũng chịu những ảnh
hưởng về tính cách của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người trực
tiếp nuôi dưỡng trẻ từ nhỏ như ông bà, cha mẹ, anh chị ruột của trẻ. Trong đó, trước
hết phải kể đến sự tác động có tính quyết định của cha mẹ trẻ.
1.3.2.1. Tác động giáo dục của cha mẹ đối với các con
Đối với xã hội nào cũng thế, đặc biệt là trong xã hội phát triển, việc nuôi dạy
các con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Đó là quá trình lâu dài,
bền bỉ, đòi hỏi cha mẹ trẻ phải có sự đồng thuận trong giáo dục.
Cha mẹ là những người viết những dòng đầu tiên lên tâm hồn trong sáng của
trẻ. Đó là những dòng chữ nắn nót, trân trọng hay những vết bôi bẩn, nghệch ngoạc,
đầy bất cẩn và lỗi chính tả làm hoen ố tờ giấy trắng là trách nhiệm của cha mẹ. Cha
mẹ là người sinh thành ra trẻ, biết được từng tính cách của con mình, hiểu được
những điểm mạnh cần phát huy và những hạn chế cần uốn nắn kịp thời giữa con trai
và con gái, trẻ nhỏ và trẻ lớn. Cha mẹ có thể lựa chọn nhiều phương pháp giáo dục
khác nhau như khuyên bảo, thuyết phục, nêu gương hoặc khen thưởng; kỷ luật,
trách phạt; rèn luyện thói quen cho trẻ.
Khoa học đã chứng minh rằng ở giai đoạn đầu trẻ tiếp thu ngôn ngữ, văn hóa,
kinh nghiệm xã hội không phải bằng lý trí và tư duy khái niệm mà đơn giản bằng cử
chỉ bắt chước thông qua âm thanh, tình cảm của những người xung quanh, mà đầu
tiên và quan trọng nhất là mẹ cha. Nếu cha mẹ chửi thề, nói tục hay cãi lộn thì trẻ sẽ
học theo và chứng tỏ mình không thua kém gì! Nếu cha mẹ giận dữ bạt tai hay phạt
đòn trẻ vì những hành vi sai trái này thì trẻ cũng học cách biểu hiện sự bất đồng của
mình bằng thái độ giận dữ và bạo lực đối với đồ chơi của trẻ, với đồ vật, với vật
38
nuôi hay với những trẻ khác ở trường. Còn nếu trẻ được quan tâm, được nghe
những lời hiền hòa, lịch sự thì như một tiếng vang, trẻ cũng biểu hiện thái độ quan
tâm, giúp đỡ và dịu dàng, lịch sự với những người khác hay với đồ chơi của trẻ.
Khi còn nhỏ, trẻ em là một sinh thể còn non nớt, phụ thuộc hoàn toàn vào sự
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, trong đó trước hết phải kể đến công lao của
người mẹ. Người mẹ chính là cô giáo đầu tiên của trẻ, bằng những lời ru, cử chỉ âu
yếm, ân cần, đức tính cần cù, kiên nhẫn, chịu thương, chịu khó...đã gây dựng cho
trẻ tình yêu thương con người, cảnh vật, tình yêu quê hương đất nước, yêu lao
động.... Tất cả những điều đó sẽ đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của trẻ
sau này.
Tuy nhiên, để giúp trẻ phát triển hài hòa thì ngoài tình yêu thương, giáo dục
của người mẹ còn cần có sự dẫn dắt, chỉ bảo của người cha. Cùng với người mẹ,
người cha sẽ giúp con mình hình thành nhân cách và những giá trị tinh thần của gia
đình, của dòng họ và thân tộc. Quá trình đó diễn ra từ khi đứa trẻ mới sinh cho đến
khi đã có gia đình. Nếu như trong giai đoạn tuổi thơ, nhân cách của trẻ được hình
thành chủ yếu nhờ sự tác động tình cảm của người mẹ thì ở giai đoạn sau, cùng với
sự tác động của người mẹ, người cha mang lại cho trẻ những thức tỉnh mới của nhân
cách là lý trí, cách tư duy, tính quyết đoán... Tuy nhiên ở giai đoạn này, nhân cách
của trẻ hình thành ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn nên cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa cha và mẹ. Người con ngoan hay không thường diễn ra ở giai đoạn này.
Cha mẹ phải thống nhất với nhau về cách thức dạy con và phải chứng minh cho con
thấy qua thực tiễn cuộc sống của cha mẹ, thông qua sự gương mẫu trong lời ăn,
tiếng nói, cử chỉ, hành động, cách xử sự với mọi người trong gia đình và ngoài xã
hội.
1.3.2.2. Tác động giáo dục của ông bà đối với các cháu
Ở nước ta hiện nay, trong đó có tỉnh Thái Bình nói riêng, bên cạnh những gia
đình hạt nhân đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ thì những gia đình truyền
thống (Gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống) vẫn còn được duy trì. Nhưng dù gia
đình truyền thống hay gia đình hạt nhân thì ông bà cũng có một vị trí đặc biệt về
39
nhiều mặt và có ảnh hưởng rất lớn đối với các cháu. Hình ảnh của ông bà đối với
các cháu rất gần gũi thấm đượm tình cảm, ông bà thường chỉ bảo những điều hay,
dạy dỗ các cháu sống đúng lẽ phải, kính trên nhường dưới, lễ phép với mọi người,
hòa nhã với bạn bè. Thậm chí, ông bà còn can thiệp, giải quyết các mối bất hòa có
thể xảy ra trong gia đình trẻ, hay giữa các cháu, ngăn chặn và phê phán mạnh mẽ
những suy nghĩ, hành vi trái với đạo lí ở trong gia đình và ngoài xã hội làm tổn hại
đến danh dự, truyền thống gia phong, gia giáo của gia tộc, nhắc nhở các cháu nhớ
đến những ngày lễ tết, giỗ chạp đối với tổ tiên... Khi cháu có khuyết điểm, ông bà
ân cần chỉ bảo giúp cháu nhìn ra cái sai mà sửa chữa, khắc phục; đồng thời động
viên, khuyến khích trẻ có nhiều hành động đẹp, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Cùng với cha mẹ, ông bà là người sẵn sàng chuyển giao lại cho các cháu
những kinh nghiệm quý báu đã được trải nghiệm suốt cả cuộc đời về nhiều mặt,
nhất là việc đối nhân, xử thế. Với vai trò là người cao tuổi, giàu kinh nghiệm sống
ông bà còn chia sẻ trách nhiệm cùng với cha mẹ trẻ trong việc chăm lo gây dựng
tiền đồ, sự nghiệp, hạnh phúc riêng tư cho các thế hệ con cháu, bởi truyền thống và
quy tắc sống của người Việt đã thành nếp nghĩ, tuổi trẻ trưởng thành thì lo lao động,
kiến thiết và xây dựng gia đình, sinh đẻ, nuôi dạy con cái nên người; khi về già, sức
lao động giảm sút không còn xốc vác được những công việc nặng nhọc, trí tuệ
không còn năng động, hoạt bát theo yêu cầu của xã hội, kinh tế cũng ổn định, thời
gian rảnh rỗi nhiều, ông bà thường ở nhà vui vầy cùng các cháu và phụ giúp công
việc nhà cho các con. Vì vậy các cháu càng có thêm sự gắn bó tình cảm với ông bà,
tự hào vì có ông bà. Trong ký ức của nhiều trẻ thời thơ ấu luôn được ông bà yêu
chiều, và đặc biệt rất hiểu tâm lý trẻ qua món quà đón tay sau mỗi lần bà đi chợ về,
mỗi lần bà sang chơi, hay những câu truyện bà kể cháu nghe mỗi lần đi ngủ...vv
Ngày nay, do xu thế phát triển của xã hội, sự giao thoa của các nền văn hóa, và
đất nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế nên nền văn hóa
nước ta có sự thay đổi và hòa nhập hơn. Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới các hệ quả,
quy mô gia đình ngày càng nhỏ, sự tách biệt nơi cư trú của con cái sau khi xây dựng
gia đình và sự xuất hiện của các kênh giao tiếp gián tiếp với sự trợ giúp của các
40
phượng tiện truyền thông đại chúng hiện đại làm cho sự liên hệ, gặp gỡ, cảm thông
giữa các thế hệ càng ít đi, người già trở nên cô lẻ và có sự chia ly ông bà ở với các
cháu. Hơn nữa, sách báo, tranh truyện, ti vi, internet nhiều khi lại cuốn hút trẻ hơn
là tìm đến ông bà. Mặt khác, do có dịch vụ nhà trẻ, mẫu giáo, người giúp việc và
những xung đột thế hệ giữa ông bà và các cháu về quan điểm sống, cách ứng xử,
thói quen, sở thích,... cùng với những khoảng cách về thời gian, không gian đã
khiến cho giữa hai thế hệ này khó tìm được tiếng nói chung, làm cho vai trò của ông
bà không còn trực tiếp và ảnh hưởng nhiều như trước nữa. Tuy nhiên, vấn đề này
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng chúng ta thấy rằng ông bà luôn có vai trò
đặc biệt quan trọng trong mỗi gia đình, nhất là với những gia đình vẫn giữ được
truyền thống “Kính trên, nhường dưới”, “Kính lão đắc thọ”, “Kính già, già để tuổi
cho” hay những gia đình có cha mẹ trẻ phải đi làm ăn xa, đi làm cả ngày trong các
cơ quan, doanh nghiệp phải gửi con nhờ ông bà. Ở đó, trẻ phụ thuộc nhiều vào sự
yêu thương, chăm sóc của ông bà, chịu ảnh hưởng về tính cách, suy nghĩ, nếp sống,
thói quen, kinh nghiệm sống của ông bà.
1.3.2.3. Tác động giáo dục của anh, chị, em trong giáo dục trẻ
Sau ông bà cha mẹ thì anh chị em ruột thịt trong gia đình trẻ cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến tính cách của trẻ. Đó là những người cùng thế hệ, có nhiều quan
điểm sống phù hợp, dễ tác động và khuyên bảo trẻ. Tuy nhiên, vai trò đó thể hiện
đến đâu còn phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của gia đình và bản thân sự gương
mẫu của anh chị trẻ. Trong gia đình Việt nam hiện nay, mặc dù vẫn còn một số
quan điểm, tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ để lại như “Trọng nam khinh nữ” và dưới
tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho tình anh em có phần lỏng lẻo.
Song, nhìn chung tình anh em ruột thịt trong các gia đình vẫn luôn được trân trọng
và thương yêu nhau “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”,... Mỗi người anh, người
chị có những suy nghĩ và cách tác động khác nhau, tạo nên sự ảnh hưởng nhất định
trong việc nuôi dạy các em khôn lớn thành người. Họ luôn đoàn kết, yêu thương,
đùm bọc, nhường nhịn nhau, theo tinh thần: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
41
Ngoài vai trò của ông bà, cha mẹ và anh chị em ruột của trẻ còn phải chú ý
đến vai trò ảnh hưởng của các thành viên khác trong gia đình như cô, dì, chú, bác,
cậu, mợ, anh chị em họ, nhất là khi trẻ sống trong gia đình tam, tứ đại đồng đường.
1.3.3. Tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến vai trò của
gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình
Từ xưa đến nay, Người Việt Nam luôn có truyền thống yêu thương gắn bó với
con cháu, con cháu không chỉ là nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi
gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh diện của mỗi gia đình. Vì vậy, sau khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
công tác giáo dục trẻ em, coi giáo dục - đào tạo là “Quốc sách hàng đầu” cùng với
khoa học - công nghệ. Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh
công tác này trong từng thời kỳ hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát
triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức của trẻ em. Đặc biệt là từ khi
bước sang thế kỷ XXI cộng đồng quốc tế đã cam kết cùng nhau phấn đấu thực hiện
các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu vì trẻ em và kêu gọi toàn thể nhân
loại hãy bảo đảm cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn. Thực hiện cam kết này, Việt
Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, trong đó có chính sách về trẻ em, cụ
thể là:
- Chỉ thị số 03/2000/CT-TTg ngày 24/01/2000 của Thủ tướng Chính phủ về
đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí cho trẻ em.
- Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
- Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26/2/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn
2001-2010.
- Chỉ thị số 13/2001/CT-TTg ngày 31/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tổng kết 10 năm thi hành luật tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
42
- Nghị định số 94/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ
em.
- Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010.
- Quyết định số 03/2004/QĐ-DSGDTE ngày 1/6/2004 của Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em về việc ban hành hướng dẫn tiêu chuẩn
xã, phường phù hợp với trẻ em.
- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 được Quốc hội
Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004.
- Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Nghị định 71/2011/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, thông qua ngày 22/8/2011.
- Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010- 2020.
- Quyết định số 1555/ QĐ-TTg của Thủ tướng chỉnh phủ về Phê duyệt
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012- 2020, ngày 17 háng 10
năm 2012.
- Quyết định số 17/2012/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về thực hiện
nếp sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngày 20 tháng 11 năm 2012.
- Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013, kế thừa tinh thần các bản Hiến pháp
trước đó đã tái khẳng định: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền
lợi của người mẹ và trẻ em” (Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm
xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành
vi khác vi phạm quyền trẻ em”(Điều 37).
43
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;...vv
Nhìn chung, các chính sách về trẻ em trong giai đoạn này nhằm mục tiêu bảo
đảm cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn, với 5 nguyên tắc cơ bản là: Không phân
biệt đối xử với trẻ em; Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện; Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã
hội; Dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em; Trẻ em thuộc diện chính sách xã hội, có hoàn
cảnh đặc biệt được trợ giúp để được hoà nhập với gia đình, cộng đồng.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và ban hành
nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thực hiện
liên quan đến trẻ em và gia đình phù hợp với thực tiễn đất nước, nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân nói chung và trẻ
em nói riêng được hưởng thụ và nâng cao đời sống, vui chơi giải trí bổ ích.
Nắm rõ mục tiêu phát triển gia đình Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Phát
huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những
đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là
môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người,
bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Đảng bộ Thái Bình luôn ra sức tuyên truyền
đến mọi người dân ý thức chăm lo, giáo dục con cái, sống gương mẫu, lành mạnh
theo chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều đó đã tạo nên sự thay
đổi rõ rệt về chất trong nhận thức của một bộ phận người dân Thái Bình đối với
công tác giáo dục trẻ em- chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, dưới tác
động của mặt trái kinh tế thị trường và công nghệ thông tin thì nhiều gia đình ở Thái
Bình còn lúng túng trong việc khắc phục nó và chưa phát huy hết ưu điểm của gia
đình trong giáo dục trẻ em.
44
1.3.4. Tác động của khoa học công nghệ và cơ chế thị trƣờng tới việc giáo
dục trẻ em ở Thái Bình.
1.3.4.1. Tác động của khoa học công nghệ:
Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đã và đang
tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục trẻ em cả nước nói chung và tỉnh
Thái Bình nói riêng. Cách mạng công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ thì trí tuệ
con người ngày càng được coi trọng, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất
để phát triển đất nước.
Khoa học công nghệ đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh
thần cho mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình tiếp thu nhanh
chóng những kiến thức khoa học áp dụng vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao,
từ đó từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của mình.
Sự phát triển của khoa học công nghệ và hệ thống thông tin đại chúng đã giúp
các bậc cha mẹ nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt, trong đó có tri thức về gia đình,
về cách thức giáo dục con,...vv. Chính vì thế mà trẻ em cũng được hưởng những
thành quả đó, giúp trẻ có những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển toàn diện và
thông minh hơn. Có thể nói, chưa bao giờ lượng thông tin kiến thức về tự nhiên, xã
hội và bản thân con người lại được cập nhật đầy đủ, nhanh chóng và phong phú như
hiện nay. Điều đó giúp cho các bậc cha mẹ và trẻ em nâng cao sự hiểu biết và năng
lực thực hành phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các bậc cha mẹ có thể nhanh
chóng tích lũy kiến thức, cập nhật thông tin, giải đáp thắc mắc cho con chỉ qua vài
thao tác đơn giản, thậm chí còn cho con được nghe những câu chuyện sinh động, bổ
ích hoặc vận dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ con học tiếng anh, luyện đánh bàn
phím máy tính, giải toán,...trong khi bận việc mà vẫn kiểm soát được con, vẫn tạo
sự vui vẻ, thoải mái cho con theo hình thức “chơi mà học”.
Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng phát triển và nhiều chương
trình bổ ích trên vô tuyến truyền hình, internet như: chương trình giáo dục từ xa,
vườn cổ tích, chúc bé ngủ ngon, những đứa trẻ hay chuyện, ai thông minh hơn học
sinh lớp 5, trẻ em luôn đúng,... thực sự đã hỗ trợ và mang lại nhiều hiệu quả thiết
thực cho các gia đình trong việc giáo dục trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội tiếp thu
45
những tri thức đa dạng nhiều chiều, kích thích tính ham học và khả năng sáng tạo,
trí thông minh của trẻ.
Những thành tựu to lớn đó của khoa học và công nghệ đang đưa lại những
khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt vời cho con người và hứa hẹn đem lại
những tiến bộ vượt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất
và tinh thần. Nhưng bên cạnh những tiến bộ vượt bậc do con người tạo ra đó thì
công nghệ thông tin đồng thời cũng đưa đến hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt,
những hành động dã man, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm lan truyền trên khắp thế
giới. Mặt trái đó đã làm cho nhiều gia đình bị tan nát, chia ly, cùng khổ. Điều này
đòi hỏi các gia đình phải gần gũi, định hướng và để ý đến hoạt động của con trẻ khi
tiếp xúc với các mạng xã hội. Nhất là trong thời kỳ bùng nổ thông tin, mở cửa hội
nhập,... nhiều loại phim ảnh có nội dung không lành mạnh, nhiều thông tin xuyên
tạc không chính xác...đã ảnh hưởng không tốt đến trẻ, thậm chí làm trẻ hiểu nhầm,
hiểu sai vấn đề. Không ít trẻ đã phải gánh chịu hậu quả chỉ vì tính tò mò, ham học
hỏi đặt nhầm chỗ cộng với sự thờ ơ của người lớn và hạn chế về nhận thức lứa tuổi
khi tiếp xúc với các trang mạng không lành mạnh, những bộ phim kích dục. Do đó
các thành viên lớn trong gia đình, đặc biệt là các bậc cha mẹ trẻ cần nâng cao trình
độ và có cách nhìn khách quan, khoa học để quản lý con cái mình cho tốt, xây dựng
nội dung, phương pháp giáo dục con phù hợp với lứa tuổi và hoàn cảnh cụ thể của
từng gia đình, tạo điều kiện giúp trẻ tiếp thu những tri thức khoa học hiệu quả hơn.
1.3.4.1. Tác động của cơ chế thị trƣờng
Bên cạnh những ưu điểm như: Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; kích thích tính năng động sáng tạo
của các chủ thể kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất, phát triển nhiều ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;
tạo ra nhiều hàng hóa có sức cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu
dùng; góp phần ổn định, tăng trưởng kinh tế, từng bước cải thiện đời sống nhân
dân,... thì kinh tế thị trường cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định như: phân hóa
giàu nghèo, bất công xã hội; một số tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, mại
dâm gia tăng; suy giảm đạo lý, tình người.
46
Trong điều kiện kinh tế thị trường, có lẽ chưa bao giờ gia đình lại có những
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và phấn đấu làm giàu, nhưng cũng hiếm khi
gia đình lại đứng trước khó khăn nghiệt ngã như hiện nay. Mặt trái của cơ chế thị
trường đã làm cho đời sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình bị đảo lộn,
việc thực hiện các chức năng của một số gia đình bị mất cân đối và suy giảm. Chức
năng kinh tế đã lôi cuốn khá nhiều công sức, thời gian, tâm huyết của các thành
viên trong gia đình, cả người già và người trẻ lao vào vòng quay của cơn lốc thị
trường. Một bộ phận cha mẹ mải chạy theo các giá trị vật chất bằng mọi giá, coi
trọng đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức, các giá trị văn hóa tinh thần. Một số
truyền thống nhân văn, nhân ái của dân tộc như “Thương người như thể thương
thân”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”... đang dần phai nhạt trong một số gia đình.
Thay vào đó là quan niệm “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông
tôi” hay “Có tiền mua tiên cũng được”, “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua
được bằng nhiều tiền”,... và những hành động tiêu cực trong cách giáo dục trẻ như
xin điểm, chạy điểm, mua bằng cấp, tham nhũng, hối lộ. Nhiều bậc phụ huynh xao
nhãng việc dạy con học ở nhà, họ chỉ tập trung kiếm tiền, phó mặc con cho nhà
trường và các trung tâm gia sư, người giúp việc. Nhiều gia đình lo đáp ứng mọi
khoản tiền con cần, cho con học thêm, học bù mà không hiểu tại sao con họ không
học giỏi, không biết quý trọng sức lao động của họ và ngày càng hư hỏng, đua đòi.
Họ đâu có hiểu con họ thiếu gì và cần gì? Hậu quả là quyền uy của cha mẹ ngày
càng giảm sút, khiến họ trở nên bất lực đối với các con và làm gia tăng lượng trẻ em
hư hỏng cho xã hội. Một số cha mẹ trẻ bị đồng tiền mê hoặc đã bất chấp tất cả, tham
gia buôn bán hàng quốc cấm, cờ bạc, lô đề, mại dâm,... vô tình đã tạo ra môi trường
độc hại cho chính con mình.
Những hiện tượng tiêu cực do mặt trái cơ chế thị trường để lại đã gây bao hậu quả
khó lường, làm cho bao gia đình bị đổ vỡ, làm suy giảm đạo lý, tình nghĩa vợ chồng.
Tất cả mọi đổ vỡ, sai lầm của gia đình đều dẫn đến nhiều hậu quả xã hội khác nhau,
nhưng nạn nhân đầu tiên là những đứa con vô tội trong chính gia đình đó. Các em
không có tổ ấm hạnh phúc, thiếu vắng sự quan tâm và bàn tay chăm sóc, chia sẻ của
cha mẹ sẽ không biết gửi gắm tình cảm vào ai và rất dễ rơi vào cạm bẫy của những kẻ
bất lương và trở thành những nạn nhân của các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật
47
Kết luận chƣơng 1
Gia đình là cộng đồng người được hình thành trên cơ sở ba mối quan hệ cơ
bản là hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Giữa các thành viên trong gia đình có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chi phối và tác động qua lại với nhau. Họ luôn có sự
gắn bó tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi; luôn bên nhau, sống cùng
nhau; hàng ngày hàng giờ tác động đến nhau theo kiểu “Mưa dầm ướt áo”, “Tích
tiểu thành đại”, “Mài sắt thành kim” họ sống cùng nhau dưới một mái nhà, cùng
nhau giải đáp các bài toán kinh tế, tháo gỡ những mâu thuẫn trong gia đình và ngoài
xã hội, để rồi sau đó cho nhau nhiều kinh nghiệm sống hơn, hiểu nhau hơn và
trưởng thành tốt hơn. Gia đình có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
của trẻ. Dù cho hình thức có thay đổi, song gia đình sẽ luôn tồn tại, vận động và
phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giáo dục gia đình
luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần quyết định việc hình thành,
phát triển nhân cách cho trẻ em nói riêng và nhân cách con người Việt nam nói
chung.
Sự vận động và biến đổi của gia đình phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã
hội và trình độ nhận thức của mỗi người. Gia đình là một thiết chế, là tế bào của xã
hội và là tổ ấm của mỗi con người. Với chức năng tự nhiên và vai trò to lớn của
mình, gia đình ngày càng được khẳng định, đề cao và đòi hỏi phải được phát huy
hơn nữa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Giai đoạn hiện nay, vai trò của gia đình, đặc biệt là vai trò của cha mẹ trong
việc giáo dục trẻ là khởi nguồn vô cùng quan trọng cho sự phát triển toàn diện của
trẻ. Vai trò đó chỉ có thể được đề cao và phát huy khi có sự tâm huyết, mẫu mực của
các thành viên trong gia đình, đặc biệt là sự gương mẫu của ông bà, cha mẹ trẻ. Nội
dung và phương pháp giáo dục khoa học, phù hợp của ông bà, cha mẹ,... sẽ góp
phần to lớn vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam được phát triển
toàn diện, đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay của sự nghiệp đổi mới đất nước.
48
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY
2.1.Thực trạng giáo dục trẻ em trong gia đình ở Thái Bình hiện nay.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, ba mặt giáp sông một mặt giáp biển, nằm ở
trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là vùng lúa trọng điểm của phía bắc và cả nước.
Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía Đông
Nam. Thái bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở Phía Bắc, Hà Nam ở
phía Tây, Nam Định ở phía Tây và Tây Nam, Hưng Yên ở phía Tây Bắc, Hải Phòng
ở phía Đông Bắc. Phía Đông là biển Đông.
Tỉnh Thái Bình có 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 09 thị trấn và 267 xã.
Hiện Thái Bình được chia thành 07 huyện và 01 thành phố trực thuộc là Thành phố
Thái Bình, huyện Đông Hưng, huyện Hưng Hà, huyện Kiến Xương, huyện Quỳnh
Phụ, huyện Thái Thụy, huyện Tiền Hải, huyện Vũ Thư.
49
Thái Bình nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng là Hà
Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, có đường biển, cảng biển và hệ thống sông ngòi
thuận lợi để phát triển hàng hóa và giao lưu kinh tế- xã hội với cả nước và quốc tế.
Con người Thái Bình cần cù, thông minh, ham hiểu biết, sáng tạo; yêu thể thao; yêu
lao động; giàu lòng nhân ái; tích cực tham gia vào công cuộc dựng nước và giữ
nước với nhiều tên tuổi được lưu danh cùng sử sách như Hoàng Công chất, Vũ
Đình Dung, Tú Cao, Phan Bá Vành, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Đức Cảnh, Hoàng
Văn Thái, Phạm Tuân, Tạ Quốc Luật, Nguyễn Thị Chiên, Bùi Quang Thận,...
Tuy nhiên, Thái Bình lại là một tỉnh đồng bằng đất chật người đông, mật độ
dân số gấp 5,7 lần mật độ trung bình của cả nước, người dân chủ yếu sống bằng
nghề trồng lúa, công nghiệp thì nhỏ bé lạc hậu, dịch vụ thương mại chậm phát triển,
lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp cho nên Thái Bình vẫn là một tỉnh nghèo và
gặp nhiều bất lợi trong phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và các cấp
chính quyền, sự nỗ lực của toàn dân nên kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Thái
Bình đã có những chuyển biến tích cực: Nền kinh tế tăng trưởng khá; Hệ thống
chính trị được kiện toàn, mọi chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp
luật của Nhà nước được triển khai hiệu quả hơn, các cấp chính quyền không ngừng
được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động; Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ không ngừng được đẩy mạnh tạo động lực để các gia đình ở Thái Bình
yên tâm sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống và đầu tư cho thế hệ trẻ - chủ nhân
tương lai của đất nước được phát triển tốt nhất về mọi mặt thể chất, đạo đức, trí tuệ
và thẩm mĩ; đồng thời tham gia tích cực “Tháng hành động vì trẻ em” mà Đảng và
Nhà nước đang phát động (Tháng 6 năm 2015) với phương châm “Lắng nghe trẻ
em bằng trái tim, bảo vệ trẻ em bằng hành động” và hướng đến Ngày gia đình Việt
Nam 28/6/2015.
Thực tế điều tra 230 phiếu ở tất cả các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Thái
Bình, trong đó có 110 phiếu điều tra dành cho các bậc cha mẹ có con dưới 16 tuổi
và 120 phiếu dành cho trẻ em dưới 16 tuổi. Kết quả cho thấy:
50
2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình
Đa số các gia đình ở Thái Bình đều sống trọng tình nghĩa, yêu thương con
cháu, có lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, luôn dạy con biết kính trên nhường
dưới, anh em thuận hòa, đoàn kết giúp đỡ nhau, khiêm tốn, lễ phép, thật thà, chăm
chỉ và nhân ái.
Mặc dù kinh tế còn khó khăn, phải vất vả lao động để cho con ăn học và phát
triển kinh tế gia đình nhưng đa số các bậc cha mẹ trẻ vẫn sắp xếp thời gian hàng
ngày để chăm sóc con, chơi với con, tâm sự với con, giúp con học,... và hầu hết trẻ
đều cảm thấy gia đình mình sống với nhau “vui vẻ, hạnh phúc và đầm ấm”, các em
thấy yêu gia đình mình và gắn bó với gia đình, ra sức học tập và phấn đấu vì nghĩ
đến công lao, tình cảm “luôn đặt tương lai con cái lên hàng đầu” của cha mẹ, hoặc
“vì không muốn cha mẹ buồn”, “vì cha mẹ đã chịu đựng nhiều vất vả vì chúng
con”, mặc dù “đôi khi bố mẹ cũng dữ” [44,tr.2]. Đây là một thành công rất đáng
trân trọng của Đảng bộ và nhân dân Thái Bình: đa số trẻ em Thái Bình đều cảm
thấy gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực học tập và phấn
đấu.
Tuy nhiên, bên cạnh những trẻ may mắn có một tuổi thơ bên gia đình hạnh
phúc, vẫn còn một số trẻ vẫn phải chứng kiến cảnh cha mẹ cãi chửi nhau. Kết quả
điều tra 120 trẻ cho thấy 88 trẻ (chiếm 73,3%) khẳng định cha mẹ các em không
bao giờ cãi nhau hay đánh nhau trước mặt các em, 32 trẻ còn lại (chiếm 26,7%) thì
khẳng định cha mẹ có cãi nhau trước mặt em vì nhiều lý do “vì mẹ không đưa tiền
cho bố”, “vì không hiểu ý nhau”, “vì bố đi làm về mệt bị mẹ càu nhàu”, “vì có sai
xót trong công việc”,....trong đó có 31 em phản ánh cha mẹ “thỉnh thoảng cãi nhau”
và 01 em (chiếm 0,8%) phản ánh cha mẹ “ rất hay cãi nhau, đánh nhau, cứ rảnh rỗi
là cãi nhau” [44,tr.1].
Bảng 2.1: Tình trạng cha mẹ trẻ cãi chửi nhau
Số trẻ Tỉ lệ (%) Trẻ phải chứng kiến 32 26,7 Trẻ không phải chứng kiến 88 73,3 Tổng 120 100%
51
Đây là điều mà một số gia đình ở Thái Bình cần phải sớm khắc phục,
không nên để con trẻ phải chứng kiến cha mẹ cãi nhau, đánh nhau hay xúc phạm
nhau vì như vậy sẽ gây nhiều ảnh hưởng xấu đến trẻ, làm trẻ thất vọng về cha mẹ,
mất niềm tin ở gia đình, dễ chán nản và dễ có nhiều hành động sai lầm. Cha mẹ nên
tôn trọng trẻ, những chuyện không tốt cho trẻ thì cha mẹ nên “đóng cửa bảo nhau”.
Cha mẹ phải biết kìm chế nóng giận và cùng nhau khắc phục, tháo gỡ xung đột để
trẻ học hỏi và noi theo, làm hành trang cho cuộc sống của trẻ sau này.
Mặt khác các bậc cha mẹ cũng cần chú ý dạy trẻ biết chịu trách nhiệm về hành
vi mình làm ngay từ nhỏ, không nên vì thấy trẻ ngã đau, khóc nhè mà xót con, xót
cháu rồi phạt cái sân hay cái bàn,... Hãy cho trẻ biết nguyên nhân ngã và nhắc trẻ
cẩn thận không được đổ lỗi cho người khác hay vật khác. Những hành động đó
tưởng chừng rất đơn giản nhưng lại vô cùng có ý nghĩa với trẻ, bởi ngôn ngữ nói
của trẻ ít hơn ngôn ngữ hiểu cho nên trong mọi trường hợp cha mẹ hãy kiên trì giải
thích cho trẻ, không được dạy trẻ đổ lỗi.
Nhìn chung các cha mẹ trẻ ở Thái Bình đều yêu thương con, dạy con sống phù
hợp với chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, đặc biệt là về mặt nhận thức của các bậc cha mẹ và mặt trái của cơ chế
thị trường nên bên cạnh những ưu điểm cần duy trì và phát huy thì các gia đình ở
Thái Bình vẫn còn rất nhiều khó khăn cần nhanh chóng khắc phục và vượt qua, nhất
là khi mọi nhà đua nhau làm giàu mà ít quan tâm đến việc giáo dục con cái và thực
trạng xuống cấp nghiêm trọng về mặt đạo đức của giới trẻ hiện nay, sự phát triển
của khoa học công nghệ cùng với nhiều luồng văn hóa phương tây thâm nhập vào
cuộc sống với nhiều kiểu loại, giá trị khác nhau: tích cực, tiêu cực, cái tốt và cái
xấu, cái cũ và cái mới, khi mà những giá trị cũ lạc hậu chưa mất hẳn, cái mới tiến
bộ đang hình thành nhưng còn non nớt. Trong khi xã hội đầy biến động phức tạp
đó, trẻ em rất dễ bị lôi cuốn chạy theo lối sống không lành mạnh nếu thiếu sự quan
tâm, giáo dục của gia đình, bởi các em là những người thiếu kinh nghiệm sống,
nhiều khi không biết cách lựa chọn, phân biệt đâu là những chuẩn mực đạo đức và
đâu không phải là những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cho nên gia đình lúc này lại
52
đóng vai trò là “bộ lọc” có tác dụng kiểm tra, ngăn ngừa loại bỏ những yếu tố văn
hóa độc hại, phản giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
2.1.2. Thực trạng giáo dục trí tuệ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình.
Do chịu ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường, khoa học công nghệ và hạn
chế về mặt nhận thức nên phần lớn các bậc cha mẹ có con dưới 16 tuổi ở Thái Bình
đều thừa nhận “Việc dạy con hiện nay khó hơn so với trước” vì “Trẻ tiếp xúc với
thông tin sớm, môi trường xung quanh phức tạp”, vì “Xã hội phát triển có nhiều tệ
nạn hơn trước”, “Xã hội thời nay bố mẹ ít có thời gian chăm sóc con”, “Yêu cầu của
con bây giờ cao hơn”,“Trẻ con bây giờ bướng hơn ngày xưa”,... Vì thế, họ ra sức
“kiếm tiền cho con học”, “dạy dỗ, động viên con ngoan, học giỏi”, “giáo dục con
nghiêm khắc”, chỉ mong “con ngoan, học giỏi, sau này thành đạt có công việc ổn
định, có ích cho xã hội” [45,tr.2].
Theo kết quả điều tra 110 gia đình có con dưới 16 tuổi thì 37 phụ huynh
(chiếm 33,6%) đại diện cho gia đình không trả lời và không biết làm gì để phát
triển trí tuệ cho con, họ mặc “con có trí tuệ thì con học; 73 phụ huynh (chiếm
66,4%) rất quan tâm đến học tập của con, mỗi phụ huynh có cách dạy con khác
nhau, nhưng chủ yếu vẫn là hỗ trợ con học kiến thức ở trường, một số cha mẹ cho
con học thêm qua internet, mua sách giáo khoa, sách tham khảo, sách nâng cao,....
Trong số đó, một số phụ huynh còn quan tâm đến chế độ ăn uống cho con, dạy con
mọi lúc mọi nơi, dạy qua cuộc sống hàng ngày, dạy qua giao tiếp ngoài xã hội, thậm
chí kiểm tra trình độ của con bằng cách “đặt câu hỏi xem phản ứng con trả lời thế
nào”. Tuy nhiên, do chương trình học của trẻ đã có nhiều cải cách so với trước,
trình độ học vấn và trình độ khoa học thiếu, lại có cách giải đáp khác với cô giáo
của trẻ nên các bậc cha mẹ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp con học, phần
lớn họ chỉ giám sát, rèn tính tự học cho con, còn lại “hầu như nhờ sự giúp đỡ của cô
giáo và nhà trường” [45, tr.2].
53
Bảng 2.2: Tình trạng quan tâm đến học tập của con trong các gia đình
Quan tâm Không trả lời hoặc không biết Tổng
Số gia đình 73 37 110
Tỉ lệ (%) 66,4 33,6 100%
Nhìn chung, các gia đình ở Thái Bình đều nhận thức rất tốt vai trò của mình
đối với con trẻ, đa số các gia đình được hỏi đều cho rằng việc giáo dục trẻ không
phải là nhiệm vụ của riêng nhà trường vì “Đó là con chúng ta, chúng ta phải có
trách nhiệm chính”, “Nhà trường chỉ là một phần”, “Nhà trường không thể quản lý
con ở nhà được”, “ Ngoài thời gian ở trường, con còn ở nhà với bố mẹ, bạn bè, hàng
xóm”, “Đó cũng là trách nhiệm của cả gia đình nữa”, “Phải kết hợp với cả gia đình
và xã hội thì trẻ mới phát triển toàn diện được” [ 45,tr.2]. Đa số các gia đình đều
nhận thức rõ vai trò của gia đình đối với con trẻ là rất quan trọng vì “Mọi hành vi
giáo dục của ta giúp hình thành tính cách, nhân cách trẻ”,“Gia đình là nền tảng giúp
trẻ phát triển”, “Gia đình là cái nôi dạy dỗ, giúp đỡ các cháu nên người”, “là cái nôi
giúp con cái tự tin và yên tâm trong mọi hoàn cảnh”, “là nơi tình cảm với con nhất”,
và “Vì trẻ còn nhỏ”, “Các cháu đang trong quá trình lớn, tâm lý chưa ổn định”, “có
nhiều suy nghĩ chưa được đúng đắn”, “Tuổi này không chỉ bảo tốt trẻ dễ bị sa
ngã”,“ là tuổi dễ bị dụ dỗ, cần sự quan tâm của gia đình”,...[ 45,tr.2].
*) Kết quả điều tra 120 trẻ ở Thái Bình thì 110 trẻ (chiếm 91,6%) được sự
giúp đỡ của các thành viên lớn tuổi trong gia đình mà chủ yếu là cha mẹ hoặc anh
chị ruột hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm tra việc học tập của trẻ. Chỉ có 10 trẻ (chiếm
8,4%) là không cảm nhận được sự giúp đỡ của các thành viên lớn tuổi trong gia
đình.
Bảng 2.3: Sự giúp đỡ trẻ học tập của người lớn trong gia đình
Được giúp đỡ Không được giúp đỡ Tổng
Số trẻ 110 10 120
Tỉ lệ (%) 91,6 8,4 100%
54
Nhiều trẻ cũng được gia đình tạo điều kiện cho sử dụng công nghệ thông tin
hiện đại để nâng cao hiểu biết, mà phổ biến là sử dụng internet dưới sự quản lý của
cha mẹ. Trong số 60 gia đình có máy tính cho trẻ sử dụng internet đều lo quản lý
các em vì sợ “em bị cận thị”, “sợ em sa vào các trò xấu” hoặc “mải chơi game mà
quên học” [44,tr.2],... và thực tế khi trả lời câu hỏi “Nếu được vào internet em
thường xem gì, làm gì?” thì rất nhiều trẻ trả lời là vào internet để xem siêu nhân,
phim hoạt hình, xem phim, nghe nhạc, vào facebook, zalo, đọc truyện, đọc báo và
học tiếng anh, giải toán trên mạng và cả chơi điện tử,...[44,tr. 2]. Điều này cho thấy
trẻ em Thái Bình nắm bắt, cập nhật công nghệ thông tin rất tốt, nhưng đó cũng là
thách thức đối với các bậc phụ huynh trong việc quản lý trẻ hiệu quả, nhất là những
phụ huynh không sử dụng máy tính và không nắm bắt được sự phát triển của công
nghệ thông tin thời hiện đại.
Tuy nhiên, khi hỏi về phản ứng của các bậc phụ huynh khi biết con mình học
kém, đua đòi những thói hư tật xấu thì phần lớn các bậc cha mẹ trẻ đều thấy “buồn
chán”, “bực mình”, “khó chịu”, “phạt”,” khuyên bảo con”, “động viên không được
thì dùng biện pháp mạnh hơn” thậm chí có phụ huynh phản ứng ngay là sẽ “quát
mắng và đánh” [45,tr. 2]. Rất ít phụ huynh bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
hậu quả đó của con, thông cảm, gần gũi, động viên và chỉ bảo con; phần lớn cha mẹ
đều có phản ứng ngay qua thái độ buồn chán, thất vọng và trút giận lên trẻ, xúc
phạm trẻ; khiến đa số trẻ thêm chán nản, sống tiêu cực hơn! Chỉ khi nào các bậc cha
mẹ của trẻ kìm chế được những thái độ và hành động tức thời, tự phát; sáng suốt
tìm ra được nguyên nhân cơ bản, chủ yếu và bằng tình thương, trách nhiệm của bậc
làm cha làm mẹ lựa chọn được cách giải quyết phù hợp, hóa giải được những mâu
thuẫn, khúc mắc trong con, trên cơ sở tôn trọng động viên trẻ, giúp trẻ hiểu được ý
tốt và mong mỏi của cha mẹ thì vấn đề mới được giải quyết triệt để, trẻ không bị tổn
thương mà lấy lại được tâm thế và sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình
hơn. Chẳng hạn, nguyên nhân trẻ học kém và đua đòi vì bố mẹ không quan tâm đến
trẻ, lúc nào cũng nghĩ đến tiền và sống vì tiền, trẻ luôn có cảm giác là người thừa, bị
bỏ rơi; hoặc vì bố mẹ ly hôn; bố mẹ hay đánh chửi nhau; bị người khác lôi kéo, rủ
55
rê,... Nếu nguyên nhân là do cha mẹ mải kiếm tiền mà không quan tâm con thì chính
cha mẹ phải là người thay đổi: phải xem con muốn gì và gần gũi, quan tâm đến con
hơn, đồng thời hạn chế nói chuyện tiền bạc trước mặt con;... Cha mẹ trẻ phải nắm rõ
đây là lứa tuổi chưa phát triển hoàn thiện, dễ có nhiều suy nghĩ phiến diện, chưa
chín chắn, hay có những hành động nhất thời mà không lường trước hết hậu quả,
cho nên chính cha mẹ phải là người chủ động gần gũi, chia sẻ cho con hiểu và giúp
con giải quyết mâu thuẫn, tháo gỡ khó khăn, cho dù hậu quả có như thế nào cha mẹ
cũng phải là chỗ dựa cho con và tiếp sức cho con vượt qua mọi khó khăn, không
nên quát mắng, đánh đập, xúc phạm trẻ vì như vậy sẽ khiến trẻ cảm thấy lẻ loi, vô
dụng và chán trường, dễ sa ngã thêm. Đây cũng là nhược điểm mà một số gia đình
ở Thái Bình cần chú ý và khắc phục.
Bên cạnh truyền thống hiếu học và tình yêu con vô bờ bến “tất cả vì con em
chúng ta” nhiều gia đình đã bao bọc con thái quá, họ đầu tư cho con chỉ việc ăn rồi
học, ít quan tâm đến những vấn đề khác trong gia đình và ngoài xã hội. Điều này sẽ
bất lợi cho trẻ trong việc gắn lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, trẻ ít
được va vấp và sẽ có ít kinh nghiệm sống. Kết quả là trẻ có thể học rất giỏi nhưng
có thể giao tiếp và xử lý các tình huống trong cuộc sống và ngoài xã hội kém, trẻ bị
hạn chế tính tự lập và thiếu tự tin khi trưởng thành. Do đó các bậc cha mẹ trẻ cần
chú ý phát triển trí tuệ cho trẻ không chỉ bằng việc học qua sách vở, trang bị kiến
thức khoa học ở trường mà cần phải mở rộng hiểu biết cho trẻ thông qua thực tiễn
cuộc sống hàng ngày, qua lao động sản xuất, ở gia đình và ngoài xã hội tùy theo
từng độ tuổi; phải tôn trọng và trả lời nghiêm túc, chân thực các câu hỏi của trẻ,
không được trả lời qua loa hay bỏ qua tính tích cực học hỏi, sự tò mò của con trẻ.
Đồng thời rèn luyện trẻ có tính tự giác tham gia làm một số việc trong nhà giúp bố
mẹ và tự phục vụ bản thân, nói cho trẻ biết mối quan hệ trong bài học “ nhân- quả”
qua mọi hành động thay vì bắt trẻ làm thế này không được làm thế kia mà trẻ không
hiểu rõ tại sao. Hãy để trẻ tự chứng minh bằng những hành động ít nguy hiểm, từ đó
tự rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Mặt khác, cũng không nên kỳ vọng ở trẻ
quá nhiều, bởi sự kỳ vọng nhiều khi khiến cha mẹ trẻ nôn nóng và gây sức ép cho
56
trẻ mà thực ra khả năng sáng tạo khó có thể tăng lên khi bị người khác thúc đẩy, ép
buộc, thậm chí còn bị giảm đi. Vì vậy, hãy kiên trì và gợi ý, cung cấp những nguồn
lực trẻ cần để tạo điều kiện kích thích sự xuất hiện ý tưởng mới cho trẻ .
Một sai lầm nữa thường gặp ở một số gia đình ở Thái Bình và nhiều gia đình
Việt Nam là tình trạng trả lời sai hoặc né tránh trả lời câu hỏi của trẻ về những vấn
đề liên quan đến sức khỏe sinh sản, giới tính, tình dục. Điều này chẳng những
không thực hiện được nhiệm vụ giáo dục giới tính cho trẻ trong gia đình mà còn
làm cho trẻ hiểu sai, hiểu nhầm và dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc! Bởi đối với
trẻ thì đây là vấn đề tế nhị, nhất là ở lứa tuổi chuẩn bị dậy thì, trẻ không dám hỏi ai
ngoài những người cùng giới trong gia đình. Vậy mà khi đã mạnh dạn hỏi hoặc khi
muốn trang bị kiến thức cho bản thân thì người lớn lại cho rằng đó là chuyện người
lớn, trẻ con không nên biết và không trả lời đúng, để trẻ phải mò mẫm, học hỏi bằng
chính hành trình sống của mình, có trẻ đã có những hành động sai lầm mà không
biết trước được hậu quả khi tìm hiểu, bắt chước chuyện của người lớn. Do đó,
những gia đình ở Thái Bình hiện nay còn suy nghĩ đó cần nhìn thẳng vào vấn đề và
thực tiễn cuộc sống hiện nay của giới trẻ, từ đó lựa chọn phương pháp, nội dung
giáo dục giới tính cho trẻ phù hợp với lứa tuổi, với cá tính đặc thù của từng trẻ, giúp
trẻ trang bị được những kiến thức cần thiết, khoa học, sống lành mạnh và vững
bước trong cuộc sống.
2.1.3. Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình
Các gia đình Thái Bình vẫn truyền tai nhau “Sức khỏe là vàng”, “Có sức khỏe
là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”. Cho nên hầu như các gia đình Thái
Bình đều quan tâm đến sức khỏe của cộng đồng, sức khỏe của các thành viên trong
gia đình, nhất là sức khỏe của trẻ em từ rất sớm. Điều này được thể hiện ngay từ
trước khi mang thai: Họ chuẩn bị tâm lý, kiến thức, sức khỏe, tiêm phòng, ăn uống
đủ chất để quá trình mang thai mẹ không bị ốm đau và con được phát triển đầy đủ,
khỏe mạnh. Sau chín tháng mười ngày: Họ vỗ về, chăm sóc cho trẻ ăn đủ chất, ngủ
đủ giấc, rồi giúp con tập lẫy, cho con ăn dặm, dạy con biết bò, biết đi, biết chạy và
57
vận động linh hoạt các giác quan. Khi con lớn hơn: Họ dạy con biết làm một số việc
tự phục vụ bản thân như: đánh răng, rửa mặt, rửa tay và phụ giúp người thân một số
việc trong sinh hoạt hàng ngày như quét nhà, quét sân, rửa cốc chén,....đồng thời
khuyến khích trẻ ăn uống khoa học, luyện tập thể dục thể thao, tham gia các hoạt
động ở nơi học tập và sinh sống... phù hợp với lứa tuổi và khả năng của từng trẻ.
Theo kết quả điều tra mức độ quan tâm đến chế độ dinh dưỡng và việc rèn
luyện thân thể cho con thì có tới 108 gia đình (chiếm 98,2%) là quan tâm, chỉ có 01
gia đình (chiếm 0,9%) không quan tâm và 01 gia đình (chiếm 0,9 %) không có ý
kiến gì [45,tr. 2].
Bảng 3.3: Mức độ quan tâm phát triển thể chất cho trẻ trong các gia đình.
Quan tâm Không quan tâm Không ý kiến Tổng
Số gia đình 108 01 01 110
Tỉ lệ (%) 98,2 0,9 0,9 100%
Trả lời câu hỏi “ Vì sao?” thì 15 gia đình (chiếm 13,6%) không giải thích, còn
lại đa số các bậc cha mẹ (chiếm 86,4%) đều thấy rõ “Sức khỏe rất quan trọng đối
với con người” và “Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con”[45,tr. 1], đa số
họ đều chung một mong muốn là con được khỏe mạnh và phát triển tốt.
Vậy họ sẽ làm gì để phát triển tốt về chiều cao, cân nặng và sức khỏe cho con?
Trả lời câu hỏi này, đa số các bậc phụ huynh đều nhận thức rõ rằng phải chú ý đến
chế độ ăn uống, ngủ nghỉ của trẻ, động viên con rèn luyện thân thể, tích cực vận
động và tập thể dục hàng ngày, giúp cho tinh thần các con luôn thoải mái. Trong số
đó có 52 gia đình (chiếm 47,3%) chỉ nghĩ đến việc quan tâm chế độ ăn uống cho trẻ,
58 gia đình còn lại (chiếm 52,7%) có quan điểm toàn diện hơn, họ không chỉ biết
chăm lo đến thể lực của con bằng chế độ ăn uống hợp lý, đủ chất dinh dưỡng mà
còn biết khuyến khích con luyện tập thể dục thể thao thường xuyên, họ cho rằng
“Phải động viên con chịu khó tập thể dục và ăn uống đầy đủ, đúng chế độ”,thậm
chí, có gia đình còn chú ý đến cả mặt tinh thần của con “Giúp cho tinh thần con
58
luôn được thoải mái” [45,tr. 2] bên cạnh việc chú ý đến chế độ ăn, ngủ, thể dục thể
thao của con.
Bảng 3.4: Nhận thức của gia đình trong việc phát triển thể chất cho trẻ
Ăn uống hợp lý Ăn uống hợp lý và luyện tập thể dục Tổng
Số gia đình 52 58 110
Tỉ lệ (%) 47,3 52,7 100%
Bên cạnh những ưu điểm trên, các gia đình Thái Bình còn quan tâm, học hỏi
và dõi theo rất nhiều các chương trình liên quan đến chủ đề gia đình và nuôi dạy
con cái, nhất là các chương trình dành cho trẻ trên các kênh truyền hình để hiểu và
nuôi dạy trẻ tốt hơn như: Đồ rê mí, giọng hát Việt nhí, siêu chíp, ai thông minh hơn
học sinh lớp 5, chúc bé ngủ ngon,...(chiếm 84 gia đình = 76,4%). Chỉ có 16 gia đình
(chiếm 14,6 %) không xem, 10 gia đình (chiếm 9%) không ý kiến gì.
Thực tế điều tra 120 trẻ em dưới 16 tuổi ở tất cả các huyện trên địa bàn tỉnh
Thái Bình, chỉ có 3 trẻ (chiếm 2,5%) không được các thành viên trong gia đình nhắc
nhở vệ sinh thân thể và luyện tập thể dục thể thao thường xuyên và trong gia đình 3
em này cũng không có ai tham gia tập thể dục hoặc chơi thể thao, 3 em cũng không
thích xem chương trình thể dục buổi sáng hay các môn thể thao trên truyền hình và
vì vậy cả tuần 3 em này cũng không dành thời gian cho việc luyện tập thể dục thể
thao. Còn lại 117 em (chiếm 97,5%) thừa nhận được các thành viên trong gia đình
thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các em thường xuyên vệ sinh thân thể và luyện
tập thể dục thể thao. Trong đó 46 gia đình trẻ có thành viên tham gia tập thể dục
hoặc chơi thể thao, 48 gia đình không tham gia và 43 trẻ không trả lời câu hỏi này.
Nhưng trong số 117 trẻ này, chỉ có 1 em không biết mình thích nhất môn thể thao
nào và 2 em không trả lời, còn lại 114 trẻ đều kể ra được môn thể thao mình thích.
Bảng 3.5: Số trẻ kể đƣợc môn thể thao yêu thích
Kể được 114 95 Không kể được 04 3.3 Không trả lời 02 1,7 Tổng 120 100%
Số trẻ Tỉ lệ(%)
59
Điều này cho thấy, mặc dù số lượng các gia đình trẻ có người tham gia thể
dục, thể thao ít nhưng họ rất quan tâm đến sức khỏe của con và đầu tư phát triển thể
lực cho con. Đó cũng là một phần lý do khiến trẻ em Thái Bình có tinh thần thể dục
thể thao rất cao, đa số các em đều có niềm đam mê một hay một số môn thể dục thể
thao cụ thể như cầu lông, bóng rổ, nhảy dây, đá bóng, điền kinh, bóng chuyền,
erobic, yoga,... Các em cũng có ý thức tự giác trong việc dành thời gian thường
xuyên luyện tập thể dục thể thao, nhất là “Khi rảnh rỗi” hoặc “Sau khi ngủ sáng
dậy”, “Ngày nghỉ học”, “Khi đi học về”, “Khi nấu cơm chiều xong” [44,tr. 3],...
Đây là ưu điểm và cũng là thuận lợi để các gia đình ở Thái Bình có thể phát huy vai
trò của mình trong việc giáo dục thể chất cho trẻ, từ đó tạo nên một lớp trẻ khỏe
mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu “chủ nhân tương lai của đất nước” thời hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cần phát huy trong nhận thức, nhiều gia
đình ở Thái Bình vẫn còn một số khuyết điểm cần khắc phục trong quá trình cho trẻ
ăn, nhất là trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo. Đó là tình trạng ép trẻ ăn, làm cho trẻ
sợ ăn hoặc muốn trốn khi đến bữa ăn hoặc nhìn thấy đồ ăn của mình, thậm chí có trẻ
khóc rất nhiều, sặc và nôn trớ khi ăn. Điều này trở thành nỗi ám ảnh của nhiều trẻ
và là áp lực của nhiều gia đình mỗi khi cho trẻ ăn. Vì vậy, cứ nói đến ăn là trẻ sợ và
gia đình ngày càng mất nhiều thời gian để chăm trẻ, cho trẻ ăn. Thậm chí, có một số
gia đình còn đánh mắng hoặc thường xuyên cho trẻ đi ăn rong ngoài trời, sang nhà
hàng xóm chơi, hay làm trò cho trẻ cười thì mới “lừa” cho trẻ ăn được hết suất.
Điều này tốn thời gian của người chăm trẻ và ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng
công việc của cha mẹ trẻ, gia đình trẻ và xã hội. Mặc dù sự ép buộc đó đều xuất
phát từ tình yêu thương vô bờ bến của gia đình đối với thành viên bé nhỏ của mình,
nhưng sự quan tâm thái quá đó khiến trẻ sợ, không muốn ăn, không cảm thấy ngon
khi ăn và tất nhiên cũng sẽ khiến trẻ khó hấp thu tốt các chất dinh dưỡng trong
không khí ăn uống như vậy !
Để khắc phục tình trạng này, thông thường các gia đình cần tạo hứng thú cho
trẻ ăn, thường xuyên đổi món ăn và động viên trẻ tự xúc ăn. Đồng thời cho trẻ cảm
nhận được niềm vui khi được ăn. Nếu trẻ không muốn ăn hãy can đảm để trẻ biết
60
hậu quả tự nhiên của việc không ăn, cha mẹ chỉ theo dõi biểu hiện của trẻ và giúp
đỡ khi cần thiết, không nên sợ trẻ sụt cân mà liên tục giục trẻ ăn hay ép trẻ quá
đáng, không cho trẻ ăn vặt sau đó, vì như vậy trẻ sẽ hư thêm, không thích ăn cơm,
thích ăn vặt, ăn không ra bữa, không hiểu được tầm quan trọng của việc ăn và
không biết quý trọng đồ ăn.
Thậm chí, vẫn còn một số gia đình vì có điều kiện kinh tế, nên thường xuyên
bồi dưỡng khẩu phần ăn nhằm tăng sức khỏe cho con, nhưng lại có xu hướng thái
quá. Vì thương con phải học nhiều vất vả nên cho con ăn uống nhồi nhét quá mức
độ, ăn uống xô bồ, thừa chất nên dẫn đến tình trạng trẻ béo phì ngay khi trẻ còn
trong độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Bên cạnh đó, do sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật xuất hiện
nhiều hình thức vui chơi giải trí, chơi điện tử, nhiều báo chí, sách vở, truyện tranh
lan tràn khắp thị trường đã thu hút không ít trẻ vào những hoạt động ấy mà lười lao
động, vận động thể dục thể thao. Vì vậy, các gia đình cần chú ý giáo dục cho trẻ
thói quen tập thể dục kết hợp với vui chơi, giải trí lành mạnh, biết làm việc nhà và
lao động phù hợp với sức khỏe, lứa tuổi; đồng thời có chế độ nghỉ ngơi hợp lý theo
hoàn cảnh, điều kiện của gia đình.
2.1.4. Thực trạng giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình
So với giáo dục đạo đức, trí tuệ và thể chất thì giáo dục thẩm mĩ ít được quan
tâm hơn cả. Một phần nguyên nhân là do người dân Thái Bình quanh năm vất vả,
người lớn tuổi (phần lớn là ông bà của trẻ) chủ yếu sống trong thời kỳ chiến tranh
và bao cấp, lớp người trẻ hơn (phần lớn cha mẹ của trẻ) được sinh ra và lớn lên
trong hoàn cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, đang trong quá trình đổi mới
và hội nhập kinh tế thế giới nên họ mải làm ăn, chưa có nhiều thời gian giải trí và
đầu tư cho trẻ tham gia vui chơi giải trí. Phần lớn lực lượng lao động chính ở các
vùng nông thôn thì lên thành phố làm thuê, ở quê chủ yếu còn người già và trẻ chưa
thành niên, họ chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” thu nhập thấp, ngoài
làm nông nghiệp họ còn phải chăm sóc con cháu và trồng trọt, chăn nuôi thêm để có
61
“của ăn của để” nên ít có thời gian hiểu cái đẹp, hưởng thụ cái đẹp và quan tâm đến
cái đẹp.
Kết quả điều tra ở phụ huynh có con dưới 16 tuổi ở Thái Bình cho thấy, bên
cạnh một số phụ huynh không trả lời hoặc “không biết” làm gì để phát triển tính
thẩm mĩ cho con và “ không biết” trẻ có thuận lợi gì khi có tính thẩm mĩ tốt thì đa
số phụ huynh Thái Bình “có quan tâm” đến tính thẩm mĩ của con, nhưng họ chỉ
quan tâm đến trang phục, đầu tóc của con sao cho gọn gàng, chỉ có số ít phụ huynh
quan tâm phát triển tính thẩm mĩ cho con bằng cách dạy trẻ vẽ và tô màu, cho học
thêm mĩ thuật, giúp trẻ lựa chọn phối hợp màu sắc trang phục và trang trí phòng,
cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và tranh ảnh. Chính vì vậy mà khi được hỏi thì có
tới 53 trẻ (chiếm 44,2%) trả lời rằng trong cuộc sống hàng ngày cha mẹ “không”
hoặc “rất ít khi” quan tâm, phát triển tính thẩm mĩ cho con, và lý do các em đưa ra
là vì “ Cha mẹ không có mấy thời gian”, “Bố mẹ mải làm”, “Bố mẹ còn nhiều việc
khác”, “Bố mẹ rất mải”, “Bố mẹ không thích”, “Vì nhà nghèo”,...[44,tr. 3].Thậm chí
có một số phụ huynh sai lầm khi “không quan tâm đến thẩm mĩ của con” vì họ cho
rằng “trẻ không có thuận lợi gì khi có tính thẩm mĩ tốt”, “không muốn con thẩm mĩ
nhiều để rồi lơ là việc học” do đó để phát triển tính thẩm mĩ cho con họ chỉ giúp con
“cảm nhận vẻ đẹp xung quanh từ tranh ảnh” [45,tr. 3].
Bảng 3.6: Nhận xét của trẻ về mức độ quan tâm đến giáo dục thẩm mĩ cho
trẻ trong gia đình
Quan tâm Không hoặc ít quan tâm Tổng
Số trẻ 67 53 120
Tỉ lệ (%) 55,8 44,2 100%
Đây là một trong những sai lầm lớn của một số gia đình ở Thái Bình nói
riêng khi không thấy rõ tầm quan trọng của việc giáo dục thẩm mĩ cho con. Nhất là
khi xã hội càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái đẹp, thể
hiện cái đẹp của con người ngày càng cao và trở thành một nhu cầu quan trọng
trong đời sống hàng ngày. Con người càng yêu quý cái đẹp bao nhiêu thì càng từ bỏ
62
và căm ghét cái xấu bấy nhiêu, nhờ vậy mà con người dần trở nên thanh cao và có
văn hóa. Nhất là khi xu hướng quốc tế hóa đã và đang mở ra khả năng giao lưu văn
hóa giữa các quốc gia thì gia đình càng phải sớm có những định hướng nhất định
cho con mình trong việc đón nhận giá trị văn hóa mới sao cho phù hợp, đồng thời
biết trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ đó tích cực
tạo ra nhiều sản phẩm đẹp cho gia đình và cho xã hội.
Các gia đình cần chú ý giáo dục trẻ quan tâm đến cái đẹp thế nào cho đúng, ăn
nói thế nào, xưng hô và cư xử với mọi người sao cho phù hợp với quy tắc chuẩn
mực của xã hội. Cái đẹp thường gắn với cái chân và cái thiện, nếu thiếu hụt giáo
dục thẩm mĩ của gia đình thì con người dù có bản chất tốt nhưng trong khi giao tiếp,
ứng xử với người khác trở thành cẩu thả, thiếu tế nhị, thậm chí thô lỗ sẽ khiến mọi
người khó chịu. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi mà quan niệm về cái đẹp do
tác động của lối sống phương Tây cũng có nhiều biểu hiện lệch lạc, giáo dục gia
đình Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn lao, nhiều luồng văn hóa thế
giới ồ ạt du nhập mà chưa được gạn lọc, kiểm định kịp thời, đã và đang tạo ra biết
bao tệ nạn xã hội lan tràn ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Đặc biệt là
trong cách ăn mặc, nói năng: Tình trạng nói năng thiếu lễ phép, nói trống không,
chửi thề, chửi tục, cướp lời người khác,... đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều trẻ.
Cách ăn mặc của một số trẻ và thanh niên hiện nay cũng hết sức tùy tiện, ăn mặc hở
hang, kệch cỡm, một số trẻ còn đua đòi nay mốt này mai mốt khác, nhuộm tóc xanh
đỏ tím vàng bất chấp có phù hợp không, điều kiện kinh tế gia đình như thế nào và
phản ứng của xã hội ra sao.
2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em trong gia đình ở
Thái Bình hiện nay.
Kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc
(năm 1990) và ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 1991) tới
nay, công tác giáo dục trẻ em ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần tạo ra
những chuyến biến tích cực trong nhận thức và hành động của toàn xã hội đối với
lĩnh vực này. Tuy nhiên sau 25 năm thực hiện các chương trình hành động quốc gia
63
vì trẻ em, bên cạnh rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận thì nước ta nói chung, trong
đó có tỉnh Thái Bình nói riêng cũng còn rất nhiều vấn đề đặt ra trong công tác giáo
dục trẻ:
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, mong muốn của gia đình với
thực trạng giáo dục hiện nay ở Thái Bình
- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đòi hỏi
sự nghiệp giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục gia đình phải cung cấp cho xã
hội những nhà hoạt động chính trị sáng suốt, nhạy cảm, hết lòng vì đất nước, nhân
dân; những nhà doanh nghiệp và quản lý giỏi; những nhà khoa học có tư duy sắc
bén, sáng tạo; những nghệ sĩ văn hóa tài ba; những người lao động có tay nghề
cao... Trong khi thực trạng giáo dục vẫn còn nhiều bất cập: sau 16 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2, bên cạnh những thành tựu góp phần quan trọng vào
thành công của sự nghiệp đổi mới và đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
nghèo thì như nhận định trong Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương khóa XI đến nay nền giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự là
quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế,
yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, có mặt còn nặng nề hơn, mặc dù toàn Đảng,
toàn dân và ngành giáo dục đã bắt tay ra sức thực hành đổi mới căn bản và toàn
diện. Điều này được phản ánh ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tạo nên nhiều bức xúc trong công luận.
Trong xu thế toàn cầu, nhất là từ những thập niên cuối của thế kỷ XX khoa
học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, tạo ra những bước tiến nhảy
vọt, đặc biệt là trong các lĩnh vực điện tử- viễn thông, tin học và công nghệ thông
tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của
đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu với tốc độ chóng mặt,
những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi và đảo lộn nhiều triết lý,
quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết
chính là giáo dục.
64
Trong bối cảnh ấy, kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới
luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Việc tìm kiếm thông tin,
kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở thành phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc
sách, báo giấy trước đây. Sự trợ giúp của các thiết bị công nghệ thông tin với các
phần mềm ứng dụng vô cùng phong phú đã giúp con người nhanh chóng tiếp cận
được một khối lượng tri thức khoa học khổng lồ. Trong khi đó, việc trang bị các
thao tác và lĩnh hội tri thức chủ yếu chỉ diễn ra ở trường và phụ thuộc nhiều vào
năng lực định hướng của người giáo viên, còn các bậc cha mẹ mặc dù có ý thức đầu
tư cho con học, nhưng phần vì mải kiếm tiền, phần vì thiếu tri thức, kỹ năng dạy
con, phần vì không vận dụng được thành tựu của công nghệ thông tin,... nên phần
lớn họ để trẻ tự học ở nhà, trong khi ý thức tự học của phần lớn trẻ em nước ta chưa
cao, kinh nghiệm cuộc sống của các em chưa nhiều cùng với tính tò mò ham hiểu
biết của tuổi mới lớn nên các em rất dễ mắc những sai lầm trong suy nghĩ và hành
động. Tuy nhiên để tránh gây ra hậu quả không mong muốn, một số phụ huynh đã
có suy nghĩ không đúng khi quyết định không cho con tiếp cận với internet. Thay vì
định hướng, giúp con chọn lọc thông tin, họ lại sợ con hư hỏng nếu tiếp xúc với mặt
trái của công nghệ thông tin, để rồi cấm luôn con “không dùng máy tính” và như
vậy họ vô tình lại là người không tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với khoa học công
nghệ và bắt trẻ đi ngược lại xu thế của thời đại.
Trong khi xã hội vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi phải tạo ra một
sức lao động mới năng động, sáng tạo, nhanh nhạy, độc lập và quyết đoán thì công
tác giáo dục, trong đó có giáo dục gia đình vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đó, vẫn
còn mang tính giáo điều, ít được thực hành, chưa lấy thực tế khách quan và yêu cầu
của xã hội làm căn cứ. Gia đình thì “Trăm sự nhờ thầy cô”, thậm chí là phó mặc con
cho nhà trường, không đầu tư tâm huyết dạy bảo trẻ, chi lao vào làm ăn kinh tế. Nhà
trường thì chủ yếu chú trọng việc “dạy chữ”, chưa tiếp cận và phát huy hết thành
tựu khoa học trong giảng dạy. Họ ít dành thời gian dạy trẻ phương pháp, kỹ năng,
cách tự học, dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng
nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia
65
đình, xã hội và Tổ quốc. Kết quả là nhiều trẻ vẫn đạt điểm cao khi áp dụng phương
pháp học vẹt, học tủ, học để thi chứ không phải học để hiểu và vận dụng vào cuộc
sống. Điều này vô tình đã làm trẻ nhầm tưởng đó là phương pháp học đúng, khoa
học và hiệu quả; làm chất lượng giáo dục chậm được cải thiện, không theo kịp tốc
độ phát triển của nhân loại.
Hơn nữa, dưới mái ấm gia đình, phần lớn trẻ được gia đình bao bọc, che chở
nên chỉ thấy mặt tích cực của cuộc sống, không biết đến khó khăn, thất bại, không
phải chịu vất vả khổ cực như thế hệ cha ông; gia đình nào cũng muốn con lớn lên
thành đạt, có thu nhập cao. Do đó, họ đầu tư thời gian và tiền bạc cho con chỉ ăn và
học, cho con học trường chuyên lớp chọn, ít có nhiều thời gian giao lưu tiếp xúc với
thực tiễn xã hội, không đầu tư công sức rèn luyện cho trẻ tính tự lập, khả năng thích
ứng và xử lý tình huống trong cuộc sống. Kết quả là nhiều trẻ như “con mọt sách”,
nói thì giỏi mà không làm được, phát triển thiên lệch, thậm chí luôn thiếu tự tin vào
bản thân khi ra ngoài xã hội, thích dựa dẫm vào người khác, lớn lên dễ chán nản và
thất bại khi đối mặt với khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và mong
muốn của gia đình.
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát triển nguồn lực con
người, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, hỗ trợ các gia đình đẩy mạnh
xã hội hóa giáo dục, không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài. Song phần vì chất lượng giáo dục chưa cao, số lượng sinh viên ra trường
thất nghiệp nhiều nên ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của các bậc phụ huynh trong
việc đầu tư cho con học. Các gia đình cho con ăn học chỉ muốn con thành đạt và có
cuộc sống tốt đẹp, mặc dù biết có học thì cách tư duy của con họ cũng tốt hơn,
nhưng họ rất sợ tốn kém thời gian, công sức, của cải cho con ăn học để rồi ra trường
lại thất nghiệp. Nhất là ở một số gia đình nghèo hoặc gia đình còn tư tưởng lạc hậu
“Trọng nam khinh nữ” thì trẻ gái thường bị nghỉ học sớm phụ giúp cha mẹ làm kinh
tế rồi xây dựng gia đình khi đến tuổi trưởng thành. Do đó, suy nghĩ này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tương lai của đất nước không chỉ ở cộc đời cha mẹ trẻ mà còn
cả cuộc đời con cháu họ về sau.
66
Hơn nữa, nền văn minh công nghiệp nói chung, nền kinh tế theo cơ chế thị
trường nói riêng đã tác động mạnh mẽ làm cho tốc độ phát triển tâm sinh lí của trẻ
em rất nhanh. Trong khi đó trình độ học vấn của cha mẹ còn thấp; quan niệm, nội
dung và phương pháp giáo dục của cha mẹ chưa thay đổi hoặc thay đổi chưa phù
hợp, có khi còn trái ngược với các tình huống giáo dục khoa học hiện đại, thậm chí
gây nên tình trạng bất hòa giữa các thành viên, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc
trong gia đình, khiến trẻ dễ mất phương hướng và niềm tin, dễ bị sa ngã trước vô
vàn cạm bẫy của cuộc sống hiện đại, dễ sống buông thả, thiếu trách nhiệm với bản
thân, gia đình và xã hội, thậm chí còn gây nhức nhối cho gia đình và các cơ quan
chức năng trong xã hội.
2.2.2. Mâu thuẫn giữa mong muốn của gia đình với điều kiện cơ sở vật
chất hiện có trong gia đình hiện nay
Điều này xảy ra chủ yếu ở các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo hoặc
cận nghèo, những gia đình có người lao động chính bị tai nạn hoặc bị bệnh hiểm
nghèo. Ở những gia đình này trẻ hầu như chỉ được lo ăn no mặc ấm và được cắp
sách tới trường học, mặc dù cha mẹ nào cũng muốn đáp ứng tốt nhất, tạo điều kiện
cho con phát triển toàn diện, nhưng vì vật chất quyết định ý thức, họ phải lo gánh
nặng cơm áo gạo tiền, trang trải cuộc sống hàng ngày với hàng trăm khoản phải chi
trong khi kinh tế hạn hẹp. Họ rất muốn ở nhà kèm con học, nhưng ở nhà thì lấy gì
chi phí cho tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước, tiền thăm hỏi họ hàng làng xóm,...
vậy là họ lại ủy thác việc giáo dục con vào các lực lượng giáo dục khác, lao vào
cuộc sống kiếm tiền, với hy vọng “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.
Dù nghèo nhưng phần lớn họ đều muốn con được ăn đủ chất, phát triển khỏe
mạnh; muốn trang bị đầy đủ sách vở, trang thiết bị cho con học; muốn con tiếp cận
và vận dụng tốt công nghệ hiện đại để sớm thoát nghèo, thoát khổ. Nhưng những
mong muốn cao đẹp đó của phần lớn các gia đình này đều bị hạn chế bởi cơ sở vật
chất nghèo khó của gia đình, bởi “ cái khó nó bó cái khôn”, “có thực mới vực được
đạo”, điều kiện vật chất thiếu thốn thì con cái cũng bị thiệt thòi mọi mặt. Thậm chí
có gia đình muốn mua máy tính hay sách tham khảo, sách nâng cao cho con bồi
67
dưỡng kiến thức cũng không được. Nhất là ở những gia đình mới kết hôn có con
nhỏ, người chồng bị tàn tật do tai nạn bất ngờ hoặc phải điều trị bệnh hiểm nghèo,
người vợ phải ở nhà trông chồng, chăm con, không có thu nhập thêm, phải trông
chờ vào sự giúp đỡ của người thân, họ hàng, làng xóm và mấy sào ruộng thì tương
lai của con họ sẽ ra sao, vai trò giáo dục trẻ trong gia đình liệu có được phát huy tối
đa?
Tuy nhiên bên cạnh một số gia đình khó khăn thì cũng có rất nhiều gia đình có
kinh tế khá giả, cơ sở vật chất đầy đủ cho con ăn học và phát triển toàn diện. Họ
cũng mong muốn con học giỏi, lớn lên thành đạt có thu nhập tốt. Nhưng vì quá
chiều con, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu vật chất của con mà cứ nghĩ như vậy là
tốt, là yêu con, thay vì dạy con biết sử dụng đồng tiền đúng lúc, đúng chỗ. Kết quả
là trẻ ở một số gia đình này không được như họ mong muốn: không biết quý trọng
sức lao động của cha mẹ và trân trọng giá trị của đồng tiền, ăn chơi, đua đòi, sa ngã
kéo theo nhiều lối sống tiêu cực khác.
Điều này cho thấy công tác giáo dục trẻ cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi điều
kiện cơ sở vật chất hiện có của mỗi gia đình. Nghèo đã khổ, nhưng giàu mà con hư
thì còn khổ hơn. Cho nên dù giàu hay nghèo, nếu không có trình độ hiểu biết và
phương pháp giáo dục khoa học thì cha mẹ cũng dễ để lại cho trẻ kết quả không
mong muốn.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa mong muốn của trẻ em với thực trạng giáo dục của
gia đình hiện nay ở Thái Bình
Trẻ em là mầm non của đất nước và là đối tượng được nhân loại hết sức quan
tâm. Ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng vẫn còn một số gia đình có quan
niệm lạc hậu, nặng tư tưởng phong kiến: Trọng nam khinh nữ “nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô” hay “con gái là con người ta”; coi con cái là “sở hữu” của cha mẹ,
cha mẹ yêu cầu gì, ép buộc gì thì con cái cũng phải răm rắp theo, ít được bày tỏ ý
kiến; quan niệm dạy con là việc riêng của từng gia đình, không ai bên ngoài có
quyền góp ý hay can thiệp; nhiều gia đình áp dụng phương pháp “yêu cho roi cho
vọt” đối với con... Do đó nhiều trẻ em phải chịu đánh đập về thể xác, bị xúc phạm
68
danh dự; ý kiến của các em không được cha mẹ tôn trọng. Hậu quả là không ít trẻ
cảm thấy bất mãn và có hành động tiêu cực, một số bỏ nhà đi lang thang và bị rơi
vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội; một số thì trở thành người nhu nhược, không có
chứng kiến riêng. Nguyên nhân là do sự hiểu biết của không ít gia đình về quyền trẻ
em còn mờ nhạt, rất nhiều gia đình chăm lo cho trẻ một cuộc sống đầy đủ về vật
chất và tinh thần, nhưng chuyện con cái bị cha mẹ đánh mắng hay trừng phạt bằng
cách này hay cách khác vẫn diễn ra khá phổ biến; có những gia đình còn dùng trẻ
em để giải quyết mâu thuẫn của người lớn như bắt con chịu khổ về vật chất hoặc
tinh thần, tình cảm để trả thù vợ hoặc chồng, lôi con vào những cuộc tranh cãi của
người lớn, sao nhãng trách nhiệm với con sau li hôn, thậm chí là cho con sẽ lãnh đủ
những hận thù mà cha mẹ thay phiên nhau nhồi vào đầu trẻ khi có cơ hội.
J.J. Rút- Xô đã khẳng định: “Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ lại” tức là
trẻ em có một đời sống tâm lý đặc trưng, thể hiện nhu cầu, hứng thú, suy nghĩ, hành
vi của chúng. Và thực tế cho thấy không phải vô cớ mà trẻ em được đông đảo các tổ
chức trên thế giới công nhận, bảo vệ. Mong muốn của trẻ nhiều khi rất chính đáng
mà đôi khi các gia đình không hiểu và không tôn trọng quyền được làm trẻ, để lại
nhiều hậu quả đáng tiếc chỉ vì hạn chế trong nhận thức và hành động của các bậc
cha mẹ. Họ không thấy được rằng: Hạnh phúc của trẻ ít quyết định bởi nhà giàu hay
nhà nghèo mà phụ thuộc vào bầu không khí tâm lý gia đình. Bất hạnh nhất là trẻ
phải sống trong nỗi sợ hãi, cô đơn ngay dưới mái nhà của mình. Vậy mà trong một
số gia đình cha mẹ trẻ chỉ mải chạy theo đồng tiền, bản thân họ cũng bị đồng tiền
làm méo mó, lệch lạc, không còn xứng đáng làm gương cho con, còn đâu uy tín để
giáo dục con cái trong nhà; càng không có thời gian quan tâm, chia sẻ, trò chuyện
với con; không biết con mình cần gì nhất, chỉ biết áp đặt suy nghĩ chủ quan của
mình hoặc “hối lộ”, “an ủi” con bằng cách cho con thật nhiều tiền thích làm gì thì
làm như thể con họ cũng thích tiền như họ vậy. Trong khi trẻ còn nhỏ không cần
nhiều tiền, không biết nhiều tiền để làm gì mà chỉ muốn sống trong mái ấm gia đình
có sự gắn bó yêu thương của cha mẹ, thèm được một bữa tối vui vẻ có đầy đủ các
thành viên, thèm được đi chơi với cả cha và mẹ, được trò chuyện, lắng nghe, chia sẻ
69
với cha mẹ thân thiện, thoải mái như những người bạn. Trong hoàn cảnh như vậy,
một số trẻ có tiền cộng với sự chán nản, sự thiếu hiểu biết đã rủ nhau tìm đến các
quán bi-a, karaoke, thậm chí còn bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội nguy hiểm khác
như cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, cầm đồ. Trong khi cha mẹ vì mải kiếm tiền, để có
nhiều tiền cha mẹ đã quên đi nhiệm vụ giáo dục con cái, đến khi biết con mình hư
hỏng thì đã quá muộn! Khổ đau thay đồng tiền mà họ kiếm được dẫu bằng sự vất vả
hay dễ dàng đều bị con cái họ coi thường và trở nên vô nghĩa. Nhiều em ở lứa tuổi
này đã có tình trạng không muốn về nhà- nơi luôn xảy ra bất đồng và cãi vã nhau,
chẳng còn đâu tình yêu và trách nhiệm, sự ấm áp của một gia đình thực thụ. Do đó
trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và mất niềm tin vào chính gia đình mình.
Trẻ muốn được sống trong một gia đình có cha có mẹ hạnh phúc, được cha mẹ
tôn trọng, yêu thương, vỗ về và hết lòng dạy bảo. Nhưng người lớn nhiều khi vì
lòng tự ái, tự trọng cá nhân sẵn sàng li dị, chẳng quan tâm đến cuộc đời của trẻ sẽ ra
sao nếu thiếu bố hoặc thiếu mẹ. Sự chia tay của cha mẹ đã làm đảo lộn trật tự gia
đình và làm tổn thương nghiêm trọng đến tinh thần non nớt của trẻ, làm trẻ chán
nản và dễ đến với vòng tội lỗi.
Trẻ muốn được tôn trọng, được tự do sáng tạo, trải nghiệm và khám phá môi
trường xung quanh, muốn khẳng định mình thì ngược lại phần lớn các bậc cha mẹ
trẻ lại thích áp đặt, can thiệp vào mọi suy nghĩ, hành động của con. Ngay cả khi trẻ
tô màu hoặc chơi trò chơi với nhau, thay vì để trẻ tự khám phá và trải nghiệm thì
cha mẹ lại biến trẻ thành con rối để giật dây, nhắc trẻ phải thế này, không được thế
kia, thậm chí là xúc phạm, mỉa mai trẻ nếu trẻ không nghe theo cha mẹ. Trong
nhiều khu vui chơi dành cho trẻ em ở Thái Bình, số lượng phụ huynh nhiều khi còn
chiếm chỗ nhiều hơn cả trẻ ngay cả khi con họ đã biết chơi và biết thiết lập quan hệ
với bạn chơi. Hành động này nhiều khi xuất phát từ suy nghĩ giản đơn của một số
phụ huynh vì muốn tốt cho con, muốn bảo vệ con được an toàn, nhưng tình yêu
thương của họ đôi khi không đúng cách, sự hy sinh không đúng nơi, đúng lúc nhiều
khi lại là hại con, trẻ không phát huy được tính tự lập,cũng như khả năng làm chủ
và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, không tìm cách để tự tìm cách vượt qua
70
khó khăn, bởi trẻ biết rằng cha mẹ luôn dõi theo, giúp đỡ trẻ và trong mắt cha mẹ trẻ
luôn là đứa con bé bỏng cần che chở. Điều đó kìm hãm tư duy năng động, tích cực,
chủ động, sáng tạo của trẻ; biến trẻ thành người lười biếng, ỷ lại, luôn tìm cách đổ
lỗi khi thất bại và gục ngã khi gặp khó khăn trong cuộc sống.
Trẻ muốn cha mẹ đối xử với các con bình đẳng như nhau; muốn được sống
trong một gia đình hạnh phúc; các thành viên trong gia đình yêu thương, gắn bó,
chia sẻ và tôn trọng nhau. Trẻ rất hoang mang và mất niềm tin khi người lớn trong
gia đình không thống nhất quan điểm trong việc giáo dục trẻ, người nọ nói xấu chê
bai người kia, lời nói không đi đôi với việc làm, cha mẹ không gương mẫu hay nói
tục chửi bậy nhưng bắt trẻ phải tuân theo các chuẩn mực xã hội: ngoan ngoãn,thật
thà, khiêm tốn, lễ phép và hiếu thảo...vv
Cha mẹ luôn muốn trẻ sau này lớn lên xa gia đình phải biết sống tự lập và làm
chủ bản thân; biết kiềm chế, làm gì cũng phải suy nghĩ và có lý do chính đáng; phải
tôn trọng người khác và có quan điểm, lập trường rõ ràng,... Nhưng bản thân cha mẹ
trong cuộc sống hàng ngày lại dễ nôn nóng, bực tức và đánh mắng trẻ, nhất là khi
trẻ mắc lỗi hoặc không làm được như mong muốn của cha mẹ; Nhiều cha mẹ không
giảng giải cho trẻ hiểu về những lý do phải làm thế này, không được làm thế kia,
hoặc cho trẻ biết vì sao sai và làm thế nào mới đúng mà còn mỉa mai, xúc phạm trẻ;
thậm chí còn uy hiếp trẻ bằng cách lấy bác sĩ hoặc những người có bề ngoài hung
dữ để dọa nạt trẻ. Làm như vậy sẽ gieo vào đầu trẻ sự ngộ nhận tai hại, trẻ dễ nhầm
tưởng đó là người xấu, dẫn đến sợ và ghét họ; Một số phụ huynh còn xem trẻ như
một thứ đồ chơi thụ động theo tâm trạng vui- buồn của cha mẹ, lúc vui thì hôn nựng
và dành hết sự yêu thương, khi buồn thì dễ đánh mắng, trút giận lên trẻ, để rồi sau
khi bình tĩnh lại đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan thay vì nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi.
Trẻ muốn có không gian riêng, muốn được chọn bạn chơi, muốn được tự
quyết định những vấn đề đơn giản trong cuộc sống phù hợp với khả năng. Nhưng
không ít gia đình lại áp dụng phương pháp quản lý con một cách khắt khe quá đáng,
cấm đoán con đủ điều, không cho con giao lưu và vui chơi với bạn bè, hạn chế con
tiếp xúc với xã hội, với internet,... thậm chí bao bọc, làm hộ con mọi việc, xử lý
71
giúp con mọi khó khăn trong cuộc sống thường ngày ở gia đình và ngoài xã hội,
“nhất cử nhất động” của con họ đều kiểm tra, kiểm soát rất nghiêm ngặt. Sự quản lý
phản khoa học, trái với tâm lý lứa tuổi này đã kìm hãm mong muốn vươn lên làm
người lớn và tự khẳng định mình của trẻ, khiến trẻ luôn cảm thấy mất tự do, biến trẻ
thành người nhu nhược, thụ động, thiếu ý chí. Và khi bị dồn nén đến mức không
chịu đựng được, trẻ sẽ có biểu hiện đấu tranh và tìm cách thoát khỏi sự quản lý khắt
khe của cha mẹ và sống theo suy nghĩ non trẻ của mình.
Tuy nhiên bên cạnh những mong muốn chính đáng, trẻ và người lớn cũng có
một số quan điểm sai lầm gây khó khăn cho công tác giáo dục trong gia đình: Do
chênh lệch thế hệ và nhận thức nên trẻ thường cho rằng người lớn lạc hậu, trong khi
đó ông bà cha mẹ thì nhận thấy rằng trẻ em hôm nay thiếu tinh thần kỷ luật và quá
tự do, chúng chỉ thích làm điều chúng muốn mà không cần sự chấp thuận của người
lớn. Điều đó tạo nên khoảng cách và sự khác biệt trong quan niệm sống, đồng thời
nảy sinh sự thiếu tôn trọng, cảm thông giữa người lớn và con trẻ. Cha mẹ khó có thể
giúp trẻ chạm trán với những vấn đề riêng tư mà chúng gặp phải trong cuộc sống,
trong khi trẻ lại giữ im lặng và cho rằng mình có quyền tự quyết định và đó là việc
riêng tư của cá nhân, người lớn không cần xen vào. Thậm chí còn xem sự thăm hỏi
của cha mẹ như một sự xúc phạm, nên đôi khi nổi giận một cách vô cớ. Có nhiều
bậc cha mẹ muốn là chỗ dựa tích cực và hiệu quả cho trẻ bước vào cuộc sống, nhất
là khi gặp khó khăn, họ sợ trẻ chịu ảnh hưởng xấu của bạn bè và những trào lưu
sống buông thả ngoài xã hội nên họ đã hạn chế tối đa không cho con ra ngoài một
cách tự do. Ngược lại trẻ lại cảm thấy đó là một sự quản lý nghiêm ngặt và cứng
nhắc, nên muốn khẳng định mình và không cần sự trợ giúp của người lớn, dễ dẫn
đến nhiều hậu quả khó lường và đáng tiếc.
Những tác động tiêu cực của xã hội đã kéo dài khoảng cách giữa cha mẹ và
con cái, những hạn chế trong nếp sống gia đình cùng với những thay đổi khó hiểu
của trẻ em ngày nay càng làm cho các bậc làm cha, làm mẹ càng trở nên lúng túng
trong việc giáo dục con em mình. Trong khi những biện pháp giáo dục cũ theo kiểu
giáo điều, áp đặt, đánh mắng không còn hiệu lực; phần lớn các bậc cha mẹ trẻ trước
72
khi kết hôn không được bồi dưỡng qua trường lớp hay khóa đào tạo nào về cuộc
sống gia đình và cách dạy con mà chủ yếu vận dụng, kế thừa và rút kinh nghiệm từ
tuổi thơ của mình, từ cha mẹ và những người xung quanh nên họ chưa tìm cho mình
được phương pháp giáo dục mới phù hợp với trẻ. Cho nên, nếu các bậc cha mẹ vẫn
tiếp tục áp dụng những phương pháp cũ theo kiểu giáo huấn, áp đặt từ trên xuống dễ
bị trẻ bỏ ngoài tai và sống theo kiểu của riêng mình, khiến nhiều bậc cha mẹ phải lo
lắng, đau đầu. Một số bậc làm cha làm mẹ do không đủ kiến thức, không đủ biện
pháp dạy dỗ con, chỉ biết “chắp tay nhờ trời” dẫn đến khi không còn ảnh hưởng với
trẻ thì bỏ mặc trẻ cho “số phận”.
2.2.4. Những tác động ngƣợc chiều giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội
trong giáo dục trẻ em
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là “tam giác” giáo dục quan
trọng đối với mỗi trẻ. Tầm quan trọng của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ
giữa ba lực lượng này trong việc giáo dục trẻ thì hầu như ai cũng hiểu, nó được ví
như chiếc “kiềng ba chân” đơn giản, vững chắc và không thể thiếu bất kỳ chân nào.
Trong quá trình được giáo dục, trẻ liên tục chịu tác động từ nhiều phía : gia
đình- nhà trường- xã hội. Trong gia đình có những tác động của cha mẹ, của anh chị
em, của nếp sống gia đình,... Trong nhà trường có những tác động của giáo viên,
của tập thể lớp, của nội quy, của nội dung, phương pháp tổ chức giáo dục,... Trong
xã hội có tác động của các cơ quan thông tin đại chúng, của phim ảnh, sách báo, của
các đoàn thể và tổ chức xã hội,...Những tác động đó có thể tạo ra những ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đối với trẻ. Và mỗi lực lượng này lại có chức năng giáo dục,
xã hội hóa cá nhân không hoàn toàn giống nhau, do vậy chúng sẽ bổ sung cho
nhau: Những mặt mạnh của giáo dục gia đình sẽ bổ sung cho giáo dục nhà trường
và xã hội; đồng thời giáo dục gia đình cũng cần được bổ sung những mặt mạnh của
giáo dục nhà trường và xã hội. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu giữa ba lực lượng giáo dục
này có những tác động ngược chiều nhau khi dạy trẻ?
Thực tế giáo dục trẻ cho thấy giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa có sự
phối hợp chặt chẽ với nhau và khi kết quả giáo dục trẻ không như mong muốn thì
73
lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau: Một số bậc phụ huynh xem nhà trường là môi
trường giáo dục duy nhất cho trẻ nên khi trẻ hư thì đổ lỗi hoàn toàn cho nhà trường
là “ thầy cô dạy thế” hoặc đổ lỗi cho xã hội “xã hội quá nhiều tiêu cực, cạm bẫy làm
cho trẻ hư”,... Một bộ phận giáo viên ở một số trường thì chỉ tập trung cho chất
lượng học tập, xem nhẹ giáo dục đạo đức nên khi trẻ hư thì chỉ biết đổ lỗi cho gia
đình và xã hội, chưa thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục, chưa
kết hợp “dạy chữ” với “dạy người”. Các lực lượng xã hội lại kêu ca rằng nhà
trường, gia đình chưa có giải pháp cho giáo dục, đưa ra xã hội nhiều “phế phẩm”,
“sản phẩm của giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu xã hội”,... Việc đổ lỗi cho nhau giữa
ba lực lượng này xuất phát từ sự phối hợp lỏng lẻo giữa gia đình- nhà trường- xã
hội, là hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” kéo theo nhiều hệ lụy đáng
tiếc, thậm chí giữa ba lực lượng này còn xuất hiện những biểu hiện ngược chiều
nhau, tạo ra nhiều “lực nhiễu” gây khó khăn trong quá trình giáo dục trẻ. Chẳng
hạn:
*) Tác động ngược chiều giữa nhà trường, xã hội với gia đình
- Trong lĩnh vực tham gia giao thông, khi nhà trường và xã hội đã có sự kết
hợp khá tốt trong việc trang bị kiến thức và thực hiện an toàn giao thông cho trẻ,
nhưng rất nhiều gia đình trẻ lại thiếu ý thức hợp tác, thậm chí còn thực hiện trái
chiều. Cụ thể: Ở nhà trường, trẻ em đã được học một số quy tắc khi tham gia giao
thông ngay từ bậc mẫu giáo thông qua chủ đề giao thông, qua các bài hát, câu hát dễ
hiểu: “đường em đi là đường bên phải,....đường bên trái thì em không đi, đường bên
phải là đường em đi” hay “Trên sân trường chúng em chơi giao thông.... Đèn bật
lên, đèn đỏ thì em dừng lại,... đèn xanh em nhanh qua đường”, lên các cấp học trên
trẻ vẫn tiếp tục được củng cố và nâng cao kiến thức về an toàn giao thông. Xã hội
thì bảo vệ các em bằng một số điều khoản trong luật giao thông đường bộ như trẻ
em dưới 16 tuổi không được đi xe phân khối lớn và từ 6 tuổi trở lên phải đội mũ bảo
hiểm khi tham gia giao thông. Việc thi hành pháp luật cũng được tiến hành gắt gao
với sự kết hợp của nhà trường và xã hội. Tuy nhiên không ít phụ huynh lại thực
hiện ngược lại: chở trẻ đi ngược đường một chiều hoặc vượt đèn đỏ, lạng lách đánh
74
võng, phóng nhanh vượt ẩu, không đội mũ bảo hiểm,... thậm chí bỏ ngoài tai sự
nhắc nhở của con trẻ. Có những gia đình có con học Trung học cơ sở vẫn cho con
đến trường bằng xe phân khối lớn, bất chấp và lách luật bằng cách gửi xe ở những
bãi xe xung quanh trường.
- Trong khi nhà trường và xã hội lên án những hành vi mê tín dị đoan thì ông
bà, cha mẹ trẻ lại không tập trung làm ăn và xây dựng gia đình hạnh phúc, lại tin
vào xem bói, cầu cúng hết chỗ này đến chỗ khác. Thậm chí còn có phụ huynh đi
đền, chùa xin cho con được điểm cao mỗi khi thi học kỳ hoặc thi hết cấp, xin cho
giám thị không nhìn thấy những hành vi gian lận của con.
- Nhà trường dạy trẻ phải nỗ lực phấn đấu mới có được kết quả cao và thành
đạt. Xã hội cũng có nhiều chính sách khuyến khích nhân tài, chính quyền địa
phương và các đoàn thể xã hội thường xuyên tuyên dương và có nhiều phần thưởng
ý nghĩa để động viên học sinh có thành tích học tập xuất sắc. Nhưng một số phụ
huynh lại thở dài, giáo dục trẻ tiêu cực rằng: “có tiền mua tiên cũng được”, “học tài
thi phận” hay “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, rằng ai cũng
có số, tất cả phụ thuộc vào may rủi. Thậm chí còn chế giễu làm trẻ chán nản, triệt
tiêu động lực phấn đấu của trẻ.
- Nhà trường và xã hội khuyến khích trẻ rèn luyện cả tài và đức như lời Bác
Hồ dạy , phải thật thà, đoàn kết, nhân ái, không được ích kỷ,...Nhưng một số cha mẹ
lại dạy trẻ cách lừa thầy dối bạn để được điểm cao; mua gian bán lận; bạn đánh vào
lưng thì phải đánh lại vào mắt, vào bụng; bạn đánh một cái trẻ phải đánh lại ba, bốn
cái.
- Nhà trường dạy trẻ tiếp cận với công nghệ thông tin để củng cố kiến thức và
nâng cao hiểu biết. Về nhà, cha mẹ lại cấm không cho trẻ tiếp xúc với máy tính có
kết nối mạng. Cách suy nghĩ tiêu cực này của cha mẹ vô tình đã bắt trẻ đi ngược lại
xu thế của thời đại, kìm hãm sự phát triển của trẻ về nhiều mặt.
- Giáo viên giao bài tập để củng cố, mở rộng kiến thức cho trẻ về nhà làm.
Nhưng ở một số gia đình nông thôn, cha mẹ lại không đầu tư thời gian và giúp đỡ
con học. Họ cho rằng: “Học ở trường, về nhà phải tham gia lao động giúp đỡ cha
75
mẹ” với những công việc cụ thể như trông em, quét dọn nhà cửa, rửa bát nấu cơm,
làm việc đồng áng, chăn trâu cắt cỏ, thu hoạch ngô khoai,... trẻ mà có thái độ chống
đối thì bị quát mắng “ không làm thì lấy cái gì mà ăn với chả học”.
- Ngay cả khi họp phụ huynh cho con, mỗi năm chỉ có 2- 3 lần. Vậy mà vẫn có
phụ huynh vắng mặt hoặc nhờ người khác điểm danh hộ, không cần biết kết quả học
tập và rèn luyện của con ở lớp ra sao, có những phụ huynh cả năm cũng không có
cuộc trò chuyện nào với giáo viên chủ nhiệm. Thậm chí, khi trẻ có những hành vi
sai lệch, giáo viên yêu cầu gặp mặt phụ huynh trao đổi và thống nhất cách giáo dục
thì một số phụ huynh còn lấy lý do ốm đau, bận mải không đi được. Thái độ bất hợp
tác đó của phụ huynh đối với nhà trường đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác
giáo dục trẻ ở nhà trường và xã hội.
*) Tác động ngược chiều giữa gia đình, xã hội với nhà trường:
- Đôi khi các bậc cha mẹ rất muốn cho con mình được bồi dưỡng thêm khả
năng giao tiếp cuộc sống để khi trẻ bước vào đời được vững vàng, không bị ngỡ
ngàng, thiệt thòi. Xã hội cũng tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động giao
lưu, văn nghệ ở các tổ chức đoàn hội, tham gia các hoạt động thể dục thể thao của
tỉnh và địa phương, được nghỉ học để tham gia hoạt động trung thu,... Nhưng giáo
viên của trẻ lại giao cho các em rất nhiều bài tập về nhà, càng nghỉ nhiều càng nhiều
bài tập. Điều này gây khó khăn cho các gia đình trong việc rèn luyện kỹ năng sống
và bồi dưỡng, củng cố tình cảm gia đình, dòng họ cho trẻ.
- Phần lớn các bậc cha mẹ và các lực lượng xã hội khuyến khích, động viên trẻ
cố gắng phấn đấu rèn luyện bản thân, học tập chăm chỉ để có kết quả cao, lớn lên
trở thành người có ích cho gia đình và xã hôị. Nhưng thực tế ở một số trường vẫn
còn hiện tượng tiêu cực, không đánh giá đúng thực lực của trẻ, tình trạng nâng đỡ
kết quả học tập và rèn luyện cho con cháu các thầy cô và lãnh đạo vẫn còn tồn tại,
tình trạng phụ huynh trẻ hối lộ thầy cô để “mua điểm”, “mua bằng” cho con vẫn
còn.
- Trong khi xã hội mong muốn ngành giáo dục đổi mới phương pháp kiểm tra,
đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
76
Nhiều gia đình cũng sẵn sàng đầu tư tiền của, trang thiết bị hỗ trợ học tập để con
thành tài thì trong các nhà trường vẫn chưa đáp ứng được mong mỏi đó của gia đình
và xã hội. Thậm chí nhiều giáo viên vẫn còn chậm nắm bắt và chưa vận dụng thành
công những thành tựu của khoa học- công nghệ hiện đại vào quá trình giảng dạy,
kiểm tra và đánh giá học sinh.
- Trong quá trình giáo dục, một số thầy cô ở nhiều bậc học đã có cách giáo dục
học sinh “không giống ai, không ai dạy và không ai đồng tình” như: úp mặt vào
tường, phạt học sinh chép lại bài 20 lần, đuổi học sinh ra khỏi lớp, phạt học sinh
đứng một chân trong vòng tròn, bêu xấu, đánh mắng, xúc phạm các em...nhưng vì
khi thực hiện thấy có hiệu quả trước mắt nên họ đã áp dụng như một kinh nghiệm
mà không lường trước rằng sai lầm đó sẽ in hằn dấu ấn không tốt trong suốt cuộc
đời trẻ, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục và ý thức “ tôn sư trọng đạo”
trong xã hội.
- Có trường hợp học sinh không đủ điều kiện lên lớp, gia đình cũng muốn cho
con học lại cho vững kiến thức và xã hội ủng hộ việc làm đó. Nhưng vì thành tích
thi đua của trường và sợ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của các phòng ban
khác, nhà trường đó lại phải đẩy học sinh đó lên lớp.
*) Tác động ngược chiều giữa gia đình, nhà trường với xã hội:
- Trong khi gia đình và nhà trường cố gắng hướng trẻ em đến một tâm hồn
trong sáng, cao đẹp, sống hết mình vì mọi người thì mặt tiêu cực của xã hội lại nhấn
mạnh đến bằng cấp, địa vị, quyền lực, sự giàu có. Điều này ảnh hưởng lớn đến quan
điểm sống của trẻ mà đôi khi cả gia đình và nhà trường cũng không uốn nắn lại
được.
- Gia đình, nhà trường và xã hội dạy trẻ phải biết lên án những hành vi, lối
sống không lành mạnh. Nhưng chính trong gia đình trẻ lại có thành viên sống buông
thả: ngoại tình, say xỉn, lô đề, cờ bạc,... mà trẻ không dám lên án. Bởi nếu trẻ nói sẽ
bị đánh mắng và xúc phạm. Khi đó ai sẽ là người bảo vệ trẻ, trong khi pháp luật và
các cơ quan chức năng chưa thực sự vào cuộc và nhận thức của nhiều gia đình về
quyền trẻ em cũng như về pháp luật chưa cao. Họ coi việc dạy con, đánh mắng con
77
là chuyện trong nhà, không liên quan gì đến xã hội. Điều này làm mất động lực,
niềm tin của trẻ vào gia đình và những điều tốt đẹp, tích cực của cuộc sống.
Nhì chung, những tác động ngược chiều này giữa các lực lượng giáo dục đã
gây khó khăn rất lớn đến quá trình giáo dục trẻ, làm cho trẻ hoang mang và mất
niềm tin vào cuộc sống, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc, để rồi hậu quả đó lại tác
động trở lại tạo sức ép cho gia đình, nhà trường và xã hội. Do đó các cấp, các
ngành, các đoàn thể xã hội và các gia đình phải quan tâm hơn nữa đến từng cá nhân
trẻ. Đồng thời thống nhất với nhau về mục tiêu, nội dung và phương thức giáo dục,
tạo cho trẻ môi trường sống lành mạnh ngay từ nhỏ để trẻ có điều kiện phát triển
toàn diện, góp phần xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp.
78
Kết luận chƣơng 2
Thực trạng trên ở Thái bình ta thấy phần lớn các gia đình đều quan tâm đầu tư
chăm lo cho trẻ, nhất là các vấn đề liên quan đến giáo dục đạo đức, trí tuệ và thể
chất và phần lớn trẻ em Thái Bình đều yêu quý gia đình và có ý thức tốt. Song do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên giáo dục gia đình ở Thái Bình vẫn
đang đứng trước những khó khăn, hạn chế hiệu quả của giáo dục như: Ý thức trách
nhiệm của cha mẹ trẻ chưa đầy đủ, trình độ hiểu biết và năng lực giáo dục con của
một bộ phận cha mẹ còn thấp, phương pháp giáo dục chưa phù hợp với thời đại, cha
mẹ chưa đầu tư thời gian và sự quan tâm thích đáng đối với trẻ, còn tư tưởng bao
bọc, áp đặt và sở hữu trẻ; sự xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận thế hệ trẻ,
sự phát triển của khoa học công nghệ, mặt trái của cơ chế thị trường, mâu thuẫn
giữa các thế hệ trong gia đình và những tác động ngược chiều giữa gia đình- nhà
trường- xã hội,.... Do đó, trên cơ sở tìm ra những hạn chế, thách thức, những vấn đề
đang đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em ở Thái bình, các gia đình cần có cách
nhìn toàn diện để tháo gỡ những mâu thuẫn, khắc phục hạn chế, đồng thời phát huy
những tác dụng tích cực của gia đình, góp phần tạo nên tế bào lành mạnh cho xã
hội; không nên áp đặt rập khuôn, máy móc kinh nghiệm, phương pháp giáo dục mà
mình được hưởng cho trẻ, bởi mỗi thời đại đều có những phương pháp giáo dục
đặc thù. Cha mẹ phải xuất phát từ thực tiễn khách quan của gia đình và xã hội, cũng
như cá tính riêng của từng trẻ mà lựa chọn cách thức tác động phù hợp, đồng thời
cần tôn trọng quyền được làm trẻ em và những nhu cầu vật chất, tinh thần chính
đáng, hợp lý của trẻ. Cha mẹ phải nhận thức rõ rằng trở thành cha mẹ thì dễ nhưng
xứng đáng là cha mẹ thì rất khó, mặc dù cha mẹ nào cũng thương con, mong muốn
con cái nên người thành đạt, nhưng chỉ có lòng mong muốn tốt đẹp thôi thì chưa đủ
mà cần phải có kiến thức hiểu con và phương pháp dạy con khoa học mới đảm bảo
xây dựng được thế hệ trẻ mà xã hội đang chờ đón.
79
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRẺ EM Ở
THÁI BÌNH
3.1. Những quan điểm cơ bản
3.1.1. Trẻ em là vốn quý của gia đình, là lớp công dân đặc biệt của xã hội,
phải dành cho trẻ em theo tinh thần “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.
Quan điểm này thể hiện cách nhìn nhận về trẻ em, về vị trí vai trò của các em
với gia đình, xã hội, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đồng thời thể
hiện chính sách ưu tiên giành những gì tốt đẹp nhất mà mỗi gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội đang có cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển trẻ em. Đây cũng là yêu cầu
có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước ta và của mỗi gia đình hiện nay.
Đồng chí Lê Khả Phiêu- nguyên tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã nói: “Ưu tiên cho trẻ em có nghĩa là phải coi trẻ em là đối tượng được quan tâm
trước tiên trong mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, trong chính sách của Nhà nước và
trong công tác xây dựng Đảng; là tìm mọi cách để đáp ứng những yêu cầu cần thiết
nhất cho sự phát triển lành mạnh của trẻ trong điều kiện có thể”. Bước vào thế kỷ
XXI, khâu đột phá chiến lược trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hình thành những thế hệ người lao động Việt Nam có
phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng làm chủ khoa học
và công nghệ hiện đại, có thể lực tốt, có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao, phát
huy được truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng tâm hiệp lực đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó trước
hết phụ thuộc vào việc chăm lo, bảo vệ, giáo dục, phát triển toàn diện thế hệ trẻ hôm
nay. Các thế hệ nối tiếp giỏi hơn chúng ta về mọi mặt thì đó sẽ là điều hạnh phúc
của đất nước.
Ưu tiên cho trẻ em chính là thể hiện quan điểm coi con người là trung tâm của
sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi chủ trương kinh tế xã hội phải hướng vào mục tiêu
80
phát triển con người nâng cao chất lượng cuộc sống và đem lại hạnh phúc cho con
người, mà trước hết là trẻ em. Đó là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta:
Con người là vốn quý nhất, mà thiếu niên, nhi đồng lại là cái vốn quý nhất trong các
vốn quý nhất đó. Giành ưu tiên cho trẻ em là phù hợp với nguyên tắc quan trọng của
Đảng ta về sự phát triển nguồn nhân lực bền vững. Quan điểm đó phải được thể
hiện trong từng gia đình, từng cộng đồng, trong kế hoạch phát triển của các ngành,
các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực thuộc chính sách xã hội và phúc lợi xã hội.
Trong lúc thuận lợi cũng như khó khăn, chiến lược bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em phải được tôn trọng, xem xét và giải quyết trước trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
Ưu tiên cho trẻ em cũng chính là đặt niềm tin vào trẻ em, coi trẻ em là người
có sứ mệnh quyết định vận mệnh của quốc gia trong tương lai. Những gì tốt đẹp mà
các thế hệ cha anh chưa làm được thì cần bồi dưỡng, tạo cơ hội cho các thế hệ trẻ
sau này làm được. Cần hiểu trẻ, tôn trọng trẻ và tạo điều kiện để các em phát triển
một cách đầy đủ nhất về mọi phương diện.
Quan điểm này cũng phù hợp với xu thế thời đại: Không có gì thiêng liêng
hơn niềm tin và thế giới đặt vào trẻ em, bởi vì “Trẻ em hôm nay- thế giới ngày
mai”, thể hiện nguyên tắc của một thế giới phù hợp với trẻ em, rằng: Trong mọi
công việc của chúng ta, quyền lợi tốt nhất của trẻ em phải luôn được đặt lên hàng
đầu, không được đặt vấn đề trẻ em đằng sau mọi việc.
Hưởng ứng ngày quốc tế thiếu nhi và tháng hành động vì trẻ em năm 2015 các
tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể ở Thái Bình đã có nhiều hành động thiết
thực thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Hầu như ở các cơ quan nhà nước,
các xí nghiệp thì trẻ em trong các gia đình có cha hoặc mẹ làm việc đều được nhận
quà hoặc khen thưởng. Ở các làng quê, xã phường trên địa bàn Thái Bình năm nào
cũng tổ chức cho trẻ vui tết trung thu và thâm gia các hoạt động cộng đồng. Gần
đây Thư viện tinhhr Thái Bình phối hợp với Sở Giáo dục và đào tạo đã tổ chức hoạt
động cấp thể miễn phí cho các em tiểu học và trung học cơ sở từ ngày 01 đến
81
15/6/2015, nâng tổng số bạn đọc thiếu nhi của thư viện lên gần 900 thẻ. Thư viện
luôn tăng cường, bổ sung nguồn sách báo mới và bàn ghế cho các em ngồi đọc.
3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và nhu cầu của trẻ
em, bảo đảm cho trẻ em phát triển hài hòa về nhân cách- là yếu tố cơ bản bảo
vệ hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã hội
Đường lối chủ trương của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và các đạo luật của Nhà nước đã đề cập đến các quyền của trẻ em mà Nhà
nước đã phê chuẩn.
Các quyền cơ bản của trẻ em bao gồm các quyền dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Đó là quyền khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc nuôi dạy phát
triển về mặt thể chất, trí tuệ, đạo đức, quyền được sống với cha mẹ, được Nhà nước
và xã hội tôn trọng, bảo về tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; quyền được
bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, quyền được học tập
và có bổn phận học hết chương trình giáo dục phổ cập; quyền được vui chơi, giải trí
lành mạnh, quyền có tài sản thừa kế, quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm theo
quy định của pháp luật. Nội dung các quyền trên bắt buộc mọi người dân, mội tổ
chức xã hội phải thực hiện.
Tuy nhiên quyền luôn đi liền với nghĩa vụ, nhằm đáp ứng yêu cầu tồn tại, phát
triển của gia đình và nhu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy cần giúp trẻ em hiểu rõ
việc thực hiện quyền phải gắn liền với việc thực hiện bổn phận của các em. Trong
khi học để biết quyền của mình thì cũng biết quyền của người khác để trẻ em biết
tôn trọng, biết bổn phận của mình đối với việc thực hiện quyền của những người
xung quanh, trước hết là các thành viên trong gia đình. Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ, trẻ biết tôn trọng giá trị
của bản thân, kính trọng ông bà, cha mẹ, sống trên kính dưới nhường, biết tôn trọng
bản sắc dân tộc, biết quan tâm đến lợi ích chung, biết bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
và môi trường sống. Từ đó hình thành tình cảm, đạo đức xã hội của thế hệ trẻ đối
với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước, chuẩn bị cho trẻ một cuộc sống có
trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
82
Đề cao việc tôn trọng và thực hiện các quyền của trẻ em chính là làm cho xã
hội tôn trọng quyền và tin vào trẻ em, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội- xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; khắc phục những quan niệm lạc hậu, hay coi thường, phân biệt
trẻ em đang tồn tại trong suy nghĩ và hành động của người lớn.
Đảm bảo sự phát triển hài hòa về nhân cách của trẻ em không chỉ là đảm bảo
thực hiện nhóm quyền cao cả nhất của trẻ em, mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển của gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đối với
vận mệnh đất nước trong tương lai. Nhất là khi nhân loại đang sống trong thế kỷ
XXI- thế kỷ tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đồng thời
cũng là thế kỷ có những thử thách, biến động, đòi hỏi thế hệ tương lai phải có đủ
sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể lực, tình cảm, tâm lý, nhận thức xã hội. Các em
phải được tạo điều kiện phát triển một cách hài hòa, toàn diện. Được trưởng thành
trong môi trường hòa thuận, bản thân các em có điều kiện trở thành người tốt, trong
một gia đình tiến bộ sẽ giúp các em phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, đề cao năng
lực tự hoàn thiện mình, lớn lên sẽ trở thành người có ích cho xã hội.
Trong quá trình giáo dục trẻ em cần quan tâm xây dựng bản lĩnh chính trị
vững vàng, có khả năng thích ứng và làm chủ cuộc sống sôi động với nhiều diễn
biến phức tạp. Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục về tư tưởng chính trị, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, ý thức dân tộc, đạo đức lối sống trong sáng cùng với việc chăm lo sức khỏe,
phát triển năng lực trí tuệ và ý thức tự bảo vệ bản thân đang trở thành một trong
những mối quan tâm hàng đầu của công tác giáo dục trẻ.
3.1.3. Thực hiện công bằng về giáo dục trẻ em trong gia đình và trong xã
hội
Thực hiện công bằng xã hội trong từng bước tăng trưởng là một nội dung quan
trọng của chiến lược phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Để thực hiện quan điểm này, chúng ta đã và đang thực hiện một loạt các chính
sách như xóa đói giảm nghèo, quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện phát triển sản xuất
nâng cao đời sống của người nghèo, vùng nghèo, thực hiện chính sách hỗ trợ xã hội
đối với các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
83
Công bằng xã hội thể hiện trong gia đình là ở chỗ: trẻ em không phải là đối
tượng đồng nhất, ngay trong gia đình các em cũng chịu tác động rất mạnh mẽ như
sự khác biệt con trai con gái, con trưởng con thứ, bên nội bên ngoại,... Đó là nguyên
nhân sâu xa làm tăng thêm sự bất công trong giáo dục trẻ em.Vì vậy, thực hiện công
bằng về giáo dục trẻ em trong các gia đình Thái Bình phải được thể hiện ở một số
việc làm cụ thể sau:
- Có biện pháp để giải quyết nguyên nhân sâu xa của sự mất công bằng và ảnh
hưởng của tệ phân biệt đối xử, trước hết là phân biệt nam nữ, phân biệt giàu nghèo,
phân biệt trẻ em bình thường với trẻ em khuyết tật,... đảm bảo cho tất cả trẻ đều
được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là trường lớp tiểu học, cơ sở
khám chữa bệnh, cơ sở vui chơi cộng đồng.
- Có chính sách đặc biệt chăm lo cho trẻ em ở nông thôn, trẻ em mồ côi không
nơi nương tựa
- Giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến phụ nữ, tăng cường địa vị của người
phụ nữ, làm cho họ được bình đẳng trong giáo dục cũng như trong các công việc xã
hội.
3.1.4. Sự phát triển toàn diện của trẻ em là một trong những yếu tố cơ bản
của sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững
Nước ta đang bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát
triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu
cực, cơ hội và thách thức luôn đan xen phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai
trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra
ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã
trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh
tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát
triển mạnh, do đó con người và tri thức ngày càng nhân tố quyết định sự phát triển
của mỗi quốc gia.
84
Đại hội XI của Đảng ta đã xác định 5 quan điểm phát triển trong chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2020 là: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền
vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; Phải phát triển
bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế ; Đổi
mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu
và là mục tiêu của sự phát triển; Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ
khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phát huy
nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và
sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ. Với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Cùng với việc đầu tư cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước, Đảng ta cũng xác
định: Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo. Coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Đổi mới cơ chế tài
chính, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình
và xã hội. Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao.
Nhà nước tăng cường đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn
xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các
trung tâm học tập cộng đồng. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các
chính sách xã hội trong giáo dục. Đặc biệt chăm lo, đầu tư cho sự phát triển của trẻ
85
em, coi đó là một trong những yếu tố bảo đảm phát triển kinh tế- xã hội nhanh, hiệu
quả và bền vững.
Tuy nhiên, muốn có được nguồn đầu tư cho việc thực hiện các mục tiêu của
chương trình, kế hoạch hành động vì trẻ em trong từng giai đoạn đòi hỏi phải có sự
huy động, phân bổ nguồn nhân lực, vật lực và tài chính của Nhà nước, của nhân dân
cùng với sự giúp đỡ của quốc tế. Tích cực huy động thêm các nguồn lực mới bổ
sung cho phát triển xã hội, giảm tình trạng đói nghèo, đồng thời đảm bảo sử dụng
có hiệu quả nguồn lực hiện có. Bảo đảm tới mức tối đa việc thực hiện các nguồn lực
xã hội mang lại lợi ích cho trẻ em, trước hết là đáp ứng yêu cầu cơ bản của trẻ,
khuyến khích phát triển các tài năng và giảm thiểu sự cách biệt đối với trẻ em trong
các gia đình khó khăn. Tiến hành các cách thức vận động mới hướng vào nguồn lực
tiết kiệm của Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vào quỹ
bảo trợ trẻ em. Kêu gọi các nhà nghiên cứu thực hành ứng dụng khoa học công
nghệ y học, giáo dục để nâng cao chất lượng sức khỏe, trình độ hiểu biết cho trẻ và
gia đình trẻ, giúp trẻ có điều kiện phát triển toàn diện, trưởng thành những công dân
hữu ích cho đất nước.
3.1.5. Giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà trƣớc hết là của
gia đình
Quan điểm này chỉ rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đồng thời nói lên
tính xã hội rộng lớn của việc giáo dục trẻ, mà trước tiên là gia đình. Gia đình là môi
trường giáo dục đầu tiên cho trẻ ngay từ khi mới chào đời, cho đến khi trưởng thành
gia đình đó vẫn ngự trị trong tim mỗi người và đều có ảnh hưởng, tác động nhất
định trong cuộc sống sau này của mỗi thành viên. Vì vậy trẻ em cần được lớn lên
trong môi trường gia đình hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, các thành viên trong gia
đình biết chia sẻ trách nhiệm, tình thương với nhau. Do đó, mọi thiết chế và tổ chức
trong xã hội cần tôn trọng và ủng hộ những cố gắng của các bậc phụ huynh và của
gia đình để trẻ được sống trong gia đình, đồng thời ra sức ngăn ngừa việc tách trẻ
rời khỏi sự giáo dục của gia đình, nhất là việc tách rời cha mẹ trẻ. Khi trẻ buộc phải
tách khỏi hoặc rời xa gia đình vì lý do bất khả kháng hoặc vì lợi ích tốt hơn cho bản
86
thân trẻ thì gia đình và xã hội cần phải quan tâm, sắp xếp để trẻ có được sự giáo dục
thay thế thích hợp để trẻ vẫn có cảm giác được sống trong tổ ấm gia đình và coi đó
là gia đình của mình. Không để trẻ lang thang, sống buông thả, thiếu mái ấm và tình
thương, vì như vậy trẻ rất dễ hư hỏng và sa ngã, tạo gánh nặng và áp lực cho cả xã
hội.
Giữa gia đình và xã hội luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và
ảnh hưởng đến nhau vì nhiều gia đình cộng lại tạo thành xã hội, gia đình là hạt nhân
của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Nếu nền
tảng gia đình bị lung lay thì xã hội cũng khó có thể phát triển nhanh và bền vững
được, càng khó có thể tạo nên thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước giàu mạnh
được, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức xây dựng đất nước phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp
thì phải chú ý hạt nhân gia đình cho tốt" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Là tổ chức chính trị lãnh đạo toàn xã hội- Đảng ta có trách nhiệm đề ra và
lãnh đạo việc thực hiện các đường lối và chính sách lớn về phát triển đất nước trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có sự nghiệp giáo dục trẻ em. Đảng thực
hiện sự lãnh đạo của mình thông qua Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội của
Đảng thông qua việc đề ra, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện đường lối, quan
điểm và những chính sách lớn ở các cấp, các ngành, đặc biệt là lãnh đạo thông qua
hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và sự gương mẫu của từng đảng viên. Hầu hết
các Văn kiện đại hội Đảng cũng như các kỳ họp của Ban chấp hành trung ương về
những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đều đề cập đến công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em. Bộ chính trị và Ban bí thư trung ương đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng để định hướng và lãnh đạo công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, nêu cao
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị đối với trẻ
em.
Vai trò quản lý của Nhà nước là quản lý thông qua hệ thống pháp luật, chính
sách kinh tế xã hội, đặc biệt là các chính sách về dịch vụ xã hội và phúc lợi xã hội,
các chương trình mục tiêu quốc gia và của ngành, của địa phương. Nhà nước có
87
trách nhiệm chỉ đạo và tham gia vào việc vận động xã hội, lồng ghép và phối hợp
liên ngành, huy động các nguồn lực, các phong trào của nhân dân hướng vào việc
thực hiện chiến lược về chăm sóc giáo dục trẻ em, đồng thời thực hiện những cam
kết với quốc tế mà Chính phủ đã ký kết.
Các ngành, đoàn thể có trách nhiệm tham gia thực hiện và giám sát việc
thực hiện luật pháp, chính sách nhằm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục trẻ, trong đó
nhấn mạnh trách nhiệm của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
phụ nữ các cấp. Mỗi ngành, đoàn thể có trách nhiệm đối với công tác bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em theo chức năng và tôn chỉ mục đích hoạt động cuả mình, đồng
thời theo chương trình, kế hoạch hành động, theo các dự án vì trẻ em của Ủy ban
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Mà các cơ quan là thành viên đã có cam kết phối
hợp xây dựng và thực hiện.
Sự tham gia của cộng đồng là là yếu tố quan trọng đối với kết quả công tác
chăm sóc giáo dục trẻ vì đó là địa bàn mà trẻ em sinh ra và lớn lên, nơi gần gũi và
hiểu trẻ em nhất, đồng thời là môi trường quan trọng nuôi dưỡng và hình thành
nhân cách của trẻ. Việc xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ hiện nay đang
trở thành yêu cầu quan trọng, nhằm xây dựng hạnh phúc cho trẻ em, cho từng gia
đình cũng như từng cộng đồng và toàn xã hội. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước và hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức xã hội trước hết
cần phải đổi mới phương pháp và tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân tham
gia chủ động và tự giác vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ em,thực hiện phối
hợp liên ngành, lồng ghép công tác chăm sóc giáo dục trẻ em trong các chương
trình kinh tế, văn hóa, xã hội, bồi dưỡng kiến thức và năng lực giáo dục trẻ em cho
các gia đình và cộng đồng, đồng thời mở rộng các hoạt động nhân đạo vì trẻ em,
phát huy nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế.
3.1.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính quyền
các cấp đối với công tác giáo dục trẻ em
Đảng và Nhà nước không ngừng thực hiện các chính sách xã hội nói chung
và các chủ trương, chính sách về trẻ em nói riêng. Rà soát để hoàn chỉnh và xây
88
dựng mới các chính sách liên quan đến trẻ em, chú trọng các chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế gia đình, các chính sách thực hiện công bằng trong công tác tiếp cận
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giáo dục.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở, nơi trực
tiếp tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác giáo dục trẻ em. Xây dựng và
thực hiện chương trình kế hoạch hành động vì trẻ em ở các cấp, đồng thời đưa ra
các biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu quan trọng giúp trẻ phát triển toàn
diện và khắc phục những tồn tại làm ảnh hưởng đến công tác giáo dục trẻ em.
Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của ban bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em ở cơ sở, lãnh đạo sự phối hợp của các ban ngành, của các thành viên
trong Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, đơn vị kinh tế ở địa phương
trong công tác giáo dục trẻ em. Nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, cần phải giải quyết tận gốc những nguyên nhân sâu xa tác động đến trẻ như:
Tình trạng kinh tế gia đình khó khăn, gia đình ly hôn, bố mẹ đối xử thô bạo với con
cái, gia đình có người mắc vào các tệ nạn xã hội hay sự buông lỏng trong quản lý
của chính quyền địa phương, sự thiếu quan tâm của nhà trường, sự đua đòi của một
số trẻ em hư. Đặc biệt là các chính sách hạn chế sự phân hóa giàu- nghèo giữa thành
thị và nông thôn, chủ động mở các chiến dịch truyền thông lồng ghép với các dịch
vụ kế hoạch hóa gia đình đến các xã, thôn xóm; Phối hợp hoạt động của Ủy ban dân
số, gia đình và trẻ em với ban tuyên giáo tỉnh ủy và ban tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác
dân số, gia đình và trẻ em trên địa bàn toàn tỉnh.
Công tác giáo dục trẻ phải thể hiện được tính đa ngành, liên ngành dựa trên
các mục tiêu chung vì sự phát triển của trẻ em, những vấn đề của trẻ em phải được
đặt ở tầm vĩ mô, vừa có sự phối hợp liên ngành, vừa có sự phân công, chuyên môn
hóa, vừa có sự quản lý thống nhất, tập trung, vừa có sự phân cấp trách nhiệm và sự
quản lý theo ngành. Mặt khác phải chú ý tạo dựng cơ sở vật chất cơ bản, cần thiết
cho trẻ như chỗ ở, bệnh viện, trường học, nơi vui chơi, thư viện, phòng đọc, sách
89
vở, báo chí, phim ảnh. Đồng thời tổ chức, hướng dẫn nhân dân tham gia các phong
trào cụ thể như: Tháng hành động vì trẻ em, ngày tiêm chủng mở rộng cho trẻ, nuôi
con theo khoa học, ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, tìm hiểu Luật giáo dục, Luật
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ.
Ngoài ra còn phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền của trẻ em, kiểm
tra quá trình chỉ đạo của cấp trên, kiểm tra liên ngành, kiểm tra toàn diện công tác
chăm sóc, giáo dục trẻ ở các gia đình và từng địa phương như việc sử dụng lao động
trẻ em, việc thu học phí và các khoản đóng góp của trẻ, quyền học tập, quyền tham
gia của trẻ,.... Đồng thời chú ý xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát
triển của trẻ, tổ chức các hoạt động cho trẻ có ý thức chủ động, tự giác và hình
thành nhu cầu rèn luyện, trau dồi về thể chất, tri thức, đạo đức, thẩm mĩ.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình trong
việc giáo dục trẻ em ở thái Bình hiện nay
3.2.1. Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc”
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định: “Gia đình là tế
bào của xã hội”. Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình không chỉ là “tế bào”
tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con
người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Nhất
là trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam cũng đang có nguy cơ bị mất đi; tình
trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng
thụ,... có xu hướng tăng lên. Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có
nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.
Tại Đại hội XI, Đảng đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp
giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, “góp phần chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có
tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế
chân chính”. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp
90
nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình- mỗi
tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia
đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã
hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm
vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.
Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi
nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn
của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy, gia đình luôn là một mối
quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”.
Từ những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam được đề xuất tại
Đại hội VIII của Đảng và được cụ thể hóa thành Chiến lược xây dựng gia đình văn
hóa Việt Nam, đến Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới về gia
đình: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình
phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc”
thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Thứ nhất, xây dựng gia đình no ấm.
Gia đình no ấm là gia đình đủ ăn, bảo đảm dinh dưỡng hợp lý; đủ mặc, phù
hợp với điều kiện sinh hoạt và làm việc; có nhà ở ổn định, vững chắc; có các tiện
nghi, điều kiện thiết yếu phục vụ sinh hoạt gia đình.
Gia đình no ấm là cơ sở để xây dựng gia đình tiến bộ và hạnh phúc, bởi “có
thực mới vực được đạo” và tất nhiên, sự no ấm của gia đình trước hết là do lao động
cần cù, năng động, sáng tạo của mỗi thành viên trong gia đình đó xây dựng nên.
Xã hội không ngừng vận động, biến đổi, phát triển và chất lượng cuộc sống
của mọi công dân được cải thiện tốt hơn trước rất nhiều, nhưng ở một số nơi số hộ
nghèo ở Thái Bình vẫn còn tồn tại và vẫn có nguy cơ tái nghèo. Điều đó đe dọa rất
lớn đến quyền và lợi ích của trẻ. Nguyên nhân là do Thái Bình là một tỉnh thuần
nông qua nhiều thế kỷ, gần đây công nghiệp đã bắt đầu phát triển nhưng cuộc sống
của người dân phần lớn vẫn phụ thuộc vào việc trồng trọt và chăn nuôi, năng lực
91
sản xuất khác nhau và chưa đạt hiệu quả cao, một số gia đình làm không có kế
hoạch, không khoa học dẫn đến không có của cải dư thừa để có nhà ở ổn định và
sắm sửa các tiện nghi thiết yếu phục vụ sinh hoạt gia đình, cũng như để đảm bảo
chế độ dinh dưỡng, vui chơi giải trí cho các thành viên, nhất là trẻ em. Thu nhập của
một số gia đình chỉ trông chờ vào kết quả của việc trồng lúa, không có nghề phụ,
thậm chí không thể tự tăng gia sản xuất ở nhà, vì không có điều kiện vật chất đầy
đủ, vì không mạnh dạn làm ăn, không chịu học hỏi hoặc vì sức khỏe không đảm
bảo, điều này xảy ra nhiều ở những gia đình trẻ hoặc gia đình có ông bà nuôi các
cháu cho bố mẹ trẻ đi làm ăn xa. Do đó công tác giáo dục trẻ trong các gia đình này
ở Thái Bình còn gặp nhiều khó khăn, trẻ không có điều kiện kinh tế để vui chơi và
khám phá những điều mới lạ qua thế giới đồ chơi và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn,
không có điều kiện phát triển toàn diện.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều gia đình khá giả, có thu nhập ổn định, chất
lượng cuộc sống cao. Tiêu chí “no ấm” với gia đình họ không chỉ là ăn no, mặc ấm
mà là ăn ngon mặc đẹp, làm đẹp, sắm những đồ dùng sinh hoạt sang trọng, vui chơi
văn minh hiện đại để thể hiện đẳng cấp của gia đình có điều kiện. Vì vậy sự chênh
lệch giàu- nghèo ở Thái Bình cũng đang có những chuyển biến đáng kể. Điều đó
đòi hỏi Thái Bình trong quá trình xây dựng gia đình no ấm phải tập trung xóa đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
giúp đỡ các gia đình nghèo, tạo việc làm, khuyến khích kinh tế trang trại, kinh tế hộ
gia đình. Qua đó làm giảm bớt sự phân hóa giàu- nghèo giữa các gia đình trong tỉnh,
đồng thời tiếp tục tuyên truyền, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của các gia đình, trong đó có chất lượng giáo dục trẻ em.
Tuy nhiên, để mỗi gia đình thực sự trở thành tổ ấm, đòi hỏi mỗi thành viên
trong gia đình phải luôn tôn trọng, gắn bó, thương yêu nhau, đồng thời có ý thức gìn
giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Các bậc làm cha, mẹ
nêu cao vai trò gương mẫu, thương yêu, tôn trọng con cái; kế thừa và phát huy các
giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình. Có như vậy hạnh phúc gia đình mới thực
sự bền vững và gia đình mới thực sự là tổ ấm của mỗi con người.
92
Thứ hai, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc
Gia đình tiến bộ là gia đình lao động giỏi, biết áp dụng khoa học kỹ thuật và
công nghệ mới vào sản xuất; mọi thành viên trong gia đình có lối sống lành mạnh,
thực hiện nếp sống văn minh, biết tôn trọng và giữ gìn thuần phong mỹ tục của văn
hóa gia đình Việt Nam. Có ý thức rèn luyện thể lực, nâng cao sức khỏe, không sa
vào tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật; các thành viên trong gia đình tích cực
học tập. Trẻ em trong độ tuổi đi học không bỏ học sớm; các thành viên trong gia
đình trong độ tuổi sinh đẻ đều thực hiện kế hoạch hóa gia đình; thực hiện vệ sinh an
toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; mọi thành viên trong gia đình thực hiện tốt
đường lối chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt
quy ước cộng đồng dân cư (làng, xã, khu tập thể...)
Gia đình hạnh phúc: là mọi thành viên trong gia đình hoàn toàn hài lòng, toại
nguyện với tổ ấm của mình. Gia đình hạnh phúc bền vững thể hiện sự bình đẳng,
tôn trọng yêu thương, chia sẻ trách nhiệm cho nhau giữa vợ và chồng, cùng nhau
phấn đấu vươn lên trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, có sự nhất trí
cao về mục đích, nội dung, phương pháp nuôi dạy con, không can thiệp thô bạo và
ép buộc các con. Trong gia đình hạnh phúc, các thành viên được đáp ứng nhu cầu
cần thiết về vật chất và tinh thần. Họ thực sự đồng cảm, yêu thương tôn trọng, bình
đẳng và tự giác thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước gia đình và xã hội.
Để có gia đình tiến bộ và hạnh phúc, trước hết phải chú trọng kinh tế hộ gia
đình, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. Các gia đình phải
hiểu, có ý thức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước như: sinh đẻ có kế hoạch, phát triển kinh tế, phòng chống các tệ
nạn xã hội như rượu bia, cờ bạc, mại dâm, ma túy và bạo lực gia đình.
3.2.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội, tạo
môi trƣờng thống nhất cho việc giáo dục trẻ em
Theo C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội” [5, tr.11]. Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một
thực thể xã hội. Cuộc sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên
93
và xã hội mà con người sống trong đó. Gia đình là một trong ba môi trường xã hội
hóa trẻ em, quyết định trực tiếp tới mặt tự nhiên và xã hội trong mỗicon người.
Thông qua gia đình mỗi cá nhân ngày càng hoàn thiện cả về mặt tự nhiên và xã hội.
Gia đình không chỉ sinh ra con người, thực hiện các chức năng chăm sóc, hoàn
thiện thể lực cho trẻ em mà còn là một trường học đầu đời cho mỗi đứa trẻ phát
triển, hoàn thiện yếu tố xã hội trong con người: dạy trẻ em cách ăn mặc, giao tiếp,
tiếp thu văn hóa công cộng. Gia đình là nơi giúp các cá nhân có cơ sở để tiếp nhận
những giá trị, những chuẩn mực xã hội, vững tin bước sang một môi trường xã hội
hóa cao hơn. Do đó, để nâng cao chất lượng nguồn lực về đức- trí- thể- mĩ cho trẻ
phải chú ý nâng cao vị trí, vai trò, chức năng, phương pháp giáo dục gia đình trong
việc xã hội hóa trẻ em; đồng thời phải kết hợp hài hòa các môi trường giáo dục: gia
đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục trẻ em, bởi đây là ba môi trường có vai
trò quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
trẻ.
Khi so sánh giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường và các tổ chức xã hội
thì điều đáng chú ý là tính đa dạng và nhiều chiều của nó. Gia đình vừa có ảnh
hưởng của cá nhân đối với cá nhân (Ông hoặc bà, cha, mẹ với con, cháu), vừa có
ảnh hưởng của cả tập thể gia đình liên kết gắn bó với nhau, tác động đến từng cá
nhân thông qua lối sống, nếp sống, văn hóa gia đình. Giáo dục gia đình khác hẳn
giáo dục nhà trường ở sự đa dạng của thầy dạy về giới tính, lứa tuổi, cá tính, công
việc, tính đa dạng trong kiến thức cung cấp cho trẻ như: kinh nghiệm làm ăn, cách
cư xử, sự hiểu biết về xã hội, cách tổ chức đời sống gia đình,... tính đa dạng về
phương pháp giáo dục: Không chỉ bằng truyền đạt một chiều mà thông qua thảo
luận, trao đổi ý kiến, không chỉ bằng lời nói mà bằng thái độ, tình cảm, nêu gương,
ít lý thuyết mà chủ yếu bằng việc làm cụ thể.
Tuy nhiên, giáo dục trẻ nói riêng và giáo dục con người nói chung là sự
nghiệp của toàn xã hội. Mỗi lực lượng giáo dục có những đặc điểm và những sức
mạnh riêng, những nội dung và phương pháp giáo dục riêng, có khả năng tác động
bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong việc giáo dục trẻ nhằm đạt mục tiêu chung. Do đó,
94
để bảo đảm công tác giáo dục trẻ đạt hiệu quả, trước hết các gia đình phải thực hiện
tốt những việc sau đây:
Thứ nhất, cha mẹ và các thành viên trong gia đình phải nhận thức được vai
trò quan trọng của gia đình trong việc giáo dục trẻ. Từ đó phát huy thế mạnh của
gia đình để giúp trẻ được phát triển hài hòa, toàn diện hơn.
Trước hết các bậc cha mẹ và các thành viên trong gia đình như ông bà, anh chị
của trẻ phải nắm được tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ và cá tính riêng của mỗi trẻ trong
gia đình. Trong những năm đầu tiên trẻ rất nhạy cảm, dễ tiếp thu những gì chúng
nghe thấy, dễ đón nhận những lời chỉ bảo mà chúng chưa đủ lý trí phán đoán có lợi
hay có hại cho tương lai. Tất cả những điều đó dần ăn sâu vào tiềm thức, góp phần
tạo nên cá tính tốt hay xấu tùy theo tính chất những điều người lớn dạy bảo. Nếu
cha mẹ trẻ không chú ý đến vấn đề này thì đứa trẻ sẽ bị hư, gây ảnh hưởng không
tốt cho gia đình và xã hội.
Thực tiễn cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm chưa thành niên cho thấy: Đa
số người chưa thành niên phạm tội thường rơi vào hoàn cảnh cha mẹ không quan
tâm đến việc giáo dục con, phó mặc cho nhà trường và xã hội theo kiểu “trời sinh
voi trời sinh cỏ”; giữa cha mẹ hoặc giữa các thành viên trong gia đình còn có mâu
thuẫn về việc đối xử với con em, đánh đập, chửi mắng con; đối xử thiên lệch giữa
các con, có trình độ hiểu biết kém; cha mẹ không thông cảm với những nhu cầu
chính đáng của con về vui chơi, giải trí; cha mẹ hoặc thành viên khác trong gia đình
có lối sống không lành mạnh, vi phạm pháp luật, đạo đức hoặc quan hệ vợ chồng
không tốt đẹp, đáng chê trách.
Để trẻ em trở thành người con ngoan, sống có ích cho xã hội, không tham gia
vào các hoạt động bất hợp pháp, các gia đình phải phấn đấu theo các tiêu chí sau:
+ Gia đình phải có đầy đủ cả cha và mẹ, trong đó các thành viên luôn yêu
thương, kính trọng nhau.
+ Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải là tấm gương sáng, mẫu
mực cho con cháu noi theo về đạo đức, ý chí, nghị lực trong cuộc sống, học tập và
lao động.
95
+ Các thành viên trong gia đình trẻ phải hiểu và nắm được những đặc điểm
tâm lý lứa tuổi trẻ em, từ đó có phương pháp giáo dục cho phù hợp.
+ Có bầu không khí tâm lý, đạo đức, phong cách sinh hoạt, lối sống lành
mạnh.
Thứ hai, cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải có ý thức phối hợp
với nhà trường trong việc giáo dục trẻ em
Nhiệm vụ của gia đình là nuôi dưỡng và giúp trẻ phát triển tốt hơn về đạo
đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, để trở thành những công dân tốt, sống có ích cho xã
hội. Tuy nhiên, trẻ không chỉ được gia đình nuôi dưỡng và dạy bảo mà còn phải đến
trường học tập kiến thức khoa học. Do đó, trong hệ thống giáo dục ở nước ta, nhất
là bậc tiểu học và trung học cơ sở có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình
và xã hội trong quá trình giáo dục trẻ, để trẻ được phát triển toàn diện một cách
khoa học, có mục đích và tiến trình rõ ràng. Mặt khác, trẻ không thể trưởng thành
một công dân tốt nếu không được sự đầu tư của gia đình. Gia đình cần tạo điều kiện
học tập (phòng học hoặc góc học tập, chỗ ngồi, chỗ để sách vở, thời gian học bài,
sách tham khảo, sách bồi dưỡng, sách nâng cao,...) quan tâm thường xuyên đến việc
học tập của các em, giúp các em rèn luyện học tập, sinh hoạt, ứng xử. Khuyến khích
các em tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Cha mẹ phải thường
xuyên liên lạc, duy trì mối quan hệ với các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy cô chủ
nhiệm lớp của trẻ để nắm rõ tâm tư nguyện vọng của trẻ và kịp thời giúp đỡ trẻ vượt
qua khó khăn và vươn lên trong học tập, sinh hoạt tập thể.
Những thông tin trao đổi hai chiều thường xuyên giữa gia đình với nhà trường
và nhà trường với gia đình sẽ giúp cho cả hai có những thông tin cần thiết về trẻ, từ
đó có các biện pháp tác động phù hợp, kịp thời. Các bậc cha mẹ cần có sự phối hợp
chặt chẽ với nhà trường để cùng nhau giúp trẻ tiến bộ, nhất là khi các em có những
biểu hiện bất thường hoặc là học sinh cá biệt.
Thứ ba, cha mẹ và các thành viên trong gia đình phải có ý thức phối hợp với
xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ
96
Sự phát triển của trẻ em không thể tách khỏi môi trường xã hội mà các em
đang sống. Ngoài thời gian học ở trường lớp, phần lớn trẻ em sinh hoạt ở gia đình,
địa bàn dân cư. Do đó môi trường xã hội lành mạnh là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho
trẻ được phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, có cuộc sống
hạnh phúc, đảm bảo tính bền vững của công tác giáo dục trẻ. Vì vậy cha mẹ và các
thành viên trong gia đình còn phải có ý thức phối hợp với xã hội trong việc giáo dục
trẻ em.
Giáo dục trẻ em tại địa bàn dân cư là một quá trình tổ chức, khai thác mọi tiềm
năng cho xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất để trẻ em có điều kiện phát triển tiềm
năng về trí lực, thể lực, tâm lực và nhân cách. Sự chưa ổn định và thiếu bền vững về
nhân cách của trẻ là đặc điểm quan trọng để Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và các cấp ngành, các tổ chức xã hội
giúp đỡ các em phát triển các tố chất, phẩm chất cần thiết để hoàn thiện nhân cách
của mình. Do đó, gia đình phải có phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, các tổ chức
xã hội... ở địa bàn dân cư, đồng thời tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao lành
mạnh. Trường hợp các em vi phạm pháp luật, gia đình phải có trách nhiệm phối hợp
với các cơ quan chức năng trong việc quản lý, giáo dục các em sửa chữa khuyết
điểm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em phấn đấu trở thành người có ích cho xã
hội. Đồng thời, phải nhận thức rõ rằng khi trẻ được học tập vui chơi, hoạt động xã
hội phù hợp với lứa tuổi sẽ phát huy được tính thông minh, sáng tạo, khả năng giao
tiếp, kỹ năng sống và khả năng tự điều chỉnh hành vi, ngăn ngừa ảnh hưởng của các
văn hóa phẩm đồi trụy, các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, nạn xâm hại tình
dục, bóc lột sức lao động của trẻ em.
Xây dựng và củng cố gia đình mới tiến bộ, hạnh phúc là nhiệm vụ của mỗi
công dân, mỗi lực lượng và tổ chức xã hội. Cho nên ở những góc độ khác nhau Nhà
nước và các tổ chức xã hội cần phối hợp và tham gia xây dựng gia đình mới, trong
đó Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên, Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình, Ủy ban
bảo vệ chăm sóc trẻ em, ngành văn hóa và giáo dục là những đơn vị, tổ chức có
trách nhiệm chăm lo một cách khoa học và thường xuyên. Tuy nhiên, nói như vậy
97
không có nghĩa là cha mẹ phó mặc con cái cho nhà trường, khoán trắng cho đoàn
hội, mà với vai trò quan trọng của mình, gia đình không chỉ là cơ sở giáo dục con
người biệt lập mà còn là một bộ phận giáo dục thuộc hệ thống giáo dục chung của
xã hội, là một trong ba môi trường quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người toàn diện. Gia đình phải phối hợp chặt chẽ các môi trường đó, thiết lập mối
quan hệ trong giáo dục con với tinh thần chủ động sát sao, nhằm mục đích thống
nhất yêu cầu của giáo dục và nhanh chóng xây dựng ở trẻ em những thói quen và
phẩm chất tốt.
Mỗi môi trường phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để có phương
pháp và hình thức giáo dục thích hợp. Nhà trường, đoàn đội hay các tổ chức xã hội
khác không thể thay thế gia đình được, nhưng cũng cần phải quan tâm, phối hợp
chặt chẽ với gia đình trong công tác giáo dục trẻ. Gia đình, nhà trường và các tổ
chức chính trị xã hội liên kết hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nhân tố
này có quan hệ trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của trẻ em và là lực lượng
thực hiện, phổ biến tốt các quyền của trẻ em.
3.2.3. Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hƣơng, đất nƣớc cho
trẻ em
*) Giáo dục truyền thống quê hương, đất nước
Có thể nói: Lịch sử không phải cái gì khác, là sự thay thế liên tục của các thế
hệ. Thực vậy, thế hệ những người đang đứng ở các vị trí quan trọng của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay, nhiều lắm cũng chỉ có thể xây nền,
đắp móng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng , văn minh” phụ thuộc rất
nhiều vào thế hệ trẻ tuổi hôm nay đang ngồi trên ghế nhà trường gánh vác và đảm
nhận. Do đó, để lớp trẻ hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang ấy, chúng ta phải
quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục cho trẻ những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc như: Truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan
dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan, yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo.... Đây là
một vấn đề có tính cấp thiết trong thời đại hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài phải
98
được thực hiện thường xuyên, liên tục trong mọi bước tiến của cách mạng. Nó
không những có tác dụng phát triển những phẩm chất tốt đẹp cho trẻ mà còn tạo ra
một sức mạnh to lớn, một lợi ích trọng đại đối với sự nghiệp cách mạng của dân
tộc.
Giáo dục truyền thống dân tộc cho trẻ em hiện nay nhằm xây dựng ở trẻ lòng
yêu nước nồng nàn, gắn bó với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí và quyết tâm xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đó là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong đó gia đình luôn đóng vai
trò trực tiếp và quan trọng. Vì vậy, công tác giáo dục truyền thống dân tộc là một
phần không thể thiếu để phát triển thế hệ trẻ yêu nước, sống có trách nhiệm với quê
hương, đất nước, có tinh thần dân tộc, có lập trường vững vàng, có niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, không bị các thế lực thù địch lôi kéo và lợi dụng.
Nhất là trong bối cảnh đất nước đang tham gia hội nhập sâu rộng về mọi mặt
với các nước trên thế giới thì việc giáo dục truyền thống dân tộc nói chung cho thế
hệ trẻ càng có vai trò hết sức quan trọng. Song, trong các nhà trường vẫn đang tồn
tại một tình trạng đáng buồn là có một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ của chúng ta
nhận thức hết sức nông cạn và hời hợt đối với truyền thống lịch sử của dân tộc ta.
Trước hết phải khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam có một truyền thống lịch sử rất
đáng tự hào với nhiều chiến công hiển hách. Những mốc son, dấu ấn đáng nhớ ấy là
kết tinh của lòng yêu nước, ý thức tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần chiến đấu hy sinh
anh dũng của bao thế hệ cha anh đi trước. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, biết bao anh hùng liệt sĩ đã
ngã xuống vì quê hương, đất nước. Trong số đó có rất nhiều tấm gương trẻ tuổi:
Kim Đồng, Lê Văn Tám, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Viết Xuân, Võ Thị
Sáu… Thời gian qua, dư luận đã rất xúc động khi đọc các cuốn sách: “Mãi mãi tuổi
hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” của bác sĩ –
liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Họ thực sự là những tấm gương sinh động của tinh thần
kiên cường bất khuất và lý tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam. Để có được cuộc
sống hòa bình hôm nay, lớp lớp cha anh đi trước đã phải đổ biết bao mồ hôi, xương
99
máu và nước mắt. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta rất đáng tự hào, đáng tiếc
là có một bộ phận giới trẻ còn tỏ ra thờ ơ, hờ hững với quá khứ hào hùng đó. Đáng
buồn hơn khi kết quả thi môn lịch sử trong các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ
thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng trong những năm qua bộc lộ nhiều mảng tối
trong chất lượng dạy và học môn lịch sử nói riêng và công tác giáo dục truyền thống
quê hương, đất nước nói chung, khiến dư luận xã hội hết sức quan ngại! Trong khi
đó, các em lại thuộc lòng tên hàng loạt những diễn viên Hàn Quốc, các cầu thủ bóng
đá của nước ngoài, tên các trò chơi điện tử đang thịnh hành hay những ngày lễ kỷ
niệm được du nhập từ phương Tây.
Mặc dù vậy, không ít gia đình nhận thức chưa đúng về vai trò của mình trong
giáo dục truyền thống yêu nước cho trẻ trong gia đình, xem đó là trách nhiệm của
nhà trường, xã hội, của các tổ chức đoàn thể, họ tỏ ra thờ ơ hoặc không quan tâm
đến vấn đề này. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giáo dục chung của toàn
xã hội, đến việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống cao đẹp của
dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay. Trong khi, chính gia đình lại có vai trò rất lớn trong
giáo dục trẻ, nhất là trong giáo dục các sự kiện lịch sử của quê hương, đất nước,
gương các anh hùng, liệt sỹ, anh hùng dân tộc, giải đáp thắc mắc của trẻ khi trẻ có
nhu cầu tìm hiểu về các lễ hội của địa phương, các ngày kỷ niệm truyền thống của
dân tộc, vv…Từ đó trang bị cho trẻ lòng tự hào dân tộc, gắn bó với quê hương và
thấy tự hào về những thắng lợi lẫy lừng của dân tộc ta, nhất là từ khi có Đảng lãnh
đạo.
Với tính cách là những sự vật, hiện tượng đã xảy ra và tồn tại khách quan
trong quá khứ, gia đình có ưu thế trong giáo dục trẻ bằng nhiều phương pháp, hình
thức đa dạng như miêu tả, kể chuyện, trực quan, đóng vai… đặc biệt là có nhiều
người lớn cùng tham gia trò chuyện, giáo dục trẻ với cách sử dụng lời nói sinh động
giàu hình ảnh, vừa mang tính giáo dục, vừa mang yếu tố tình cảm đặc thù- tình cảm
ruột thịt cùng huyết thống , nhất là khi trẻ được giáo dục trong không gian gia đình
gần gũi, mọi lúc, mọi nơi sẽ giúp trẻ tiếp nhận kiến thức thoải mái hơn, dễ dàng hơn
và hiệu quả hơn.
100
Chính từ thực trạng đó, hơn lúc nào hết mỗi người lớn chúng ta phải nhận thấy
việc giáo dục truyền thống quê hương, đất nước là công việc của toàn Đảng, toàn
dân. Công việc này cần được tiến hành đồng bộ ở gia đình, nhà trường và xã hội, ở
tất cả các tổ chức đoàn thể. Đồng thời, cần được quán triệt sâu sắc ở mọi nơi, mọi
lúc, ở tất cả các cấp các ngành.
Giáo dục truyền thống là công việc phức tạp, cần được triển khai bằng những
hoạt động cụ thể với nhiều hình thức phong phú, đa dạng theo phương châm từng
bước xã hội hóa thông qua việc tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống của dân tộc
như: Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam 03/2, ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
26/3,…; các lễ hội của địa phương, các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước: “ Đền ơn đáp nghĩa”, “ Uống nước nhớ nguồn”, “ Thắp nến tri ân các liệt sĩ”,
thăm viếng và tặng quà các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt
sỹ trên địa bàn trẻ sinh sống,vv.… Giáo dục truyền thống quê hương, đất nước cần
bắt đầu ngay từ chính việc tìm hiểu lịch sử làng,xã, trường học, nơi trẻ được sinh
sống và học tập. Cần tạo điều kiện cho trẻ nhận ra giá trị đích thực và sức sống
vững chắc của văn hóa truyền thống. Trong rất nhiều các hoạt động tình nguyện
mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến sự chăm
lo cho các đối tượng người có công với cách mạng, điển hình là chương trình góp
công góp sức để xây dựng nhà ở cho các gia đình chính sách. Đồng thời tiếp tục
thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong công tác giáo dục truyền thống.
Giáo dục truyền thống là một phần không thể thiếu để hình thành và phát triển
đạo đức, nhân cách thế hệ trẻ. Nhất là trong bối cảnh quê hương, đất nước đang hội
nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, những mặt trái của nền kinh tế thị
trường, của khoa học công nghệ, của lối sống buông thả, các luồng văn hóa phẩm
độc hại cùng với sự hoạt động kém hiệu quả của các lực lượng giáo dục đã làm cho
một bộ phận giới trẻ có những suy nghĩ nông cạn và thờ ơ với các giá trị truyền
101
thống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh con người Việt Nam trong mắt bạn
bè thế giới, gây nguy hại cho xã hội và tương lai của dân tộc.
Thực chất công tác giáo dục truyền thống quê hương là sự bồi đắp, hun đúc
những tư tưởng, lối sống, phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành trong các
mối quan hệ lịch sử- xã hội. Giáo dục truyền thống quý báu cho trẻ chính là đem
đến cho các em những di sản văn hóa của dân tộc, của quê hương đã được đúc kết
từ bao thế hệ ông cha, những sản phẩm tinh thần vô giá đã được gạn lọc, chắt chiu
qua nhiều thế hệ, nhiều thời đại. Đó cũng là tiền đề quan trọng để giúp thế hệ trẻ có
thể nhanh chóng tiếp thu những cái mới mẻ, cái hiện đại, làm cơ sở khoa học cho
quá trình rèn luyện, phấn đấu trở thành con người hữu ích cho xã hội.
*) Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt; được hình thành, duy trì
và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Giáo dục
truyền thống gia đình, dòng họ cho trẻ đó là sự truyền thụ và lĩnh hội những giá trị
truyền thống tốt đẹp của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau trong mỗi gia đình; là sự
giáo dục không có lớp học cụ thể, không thành chương trình, kế hoạch rõ ràng
nhưng nội dung và hình thức dạy luôn luôn phong phú, gắn liền với thực tiễn cuộc
sống hàng ngày của trẻ và được trẻ lĩnh hội một cách tự nhiên, tình cảm, thoải mái,
phù hợp với cá tính của từng trẻ.
Thực tế cho thấy, con người ai cũng bắt đầu từ gia đình và cha mẹ là người
đầu tiên biến trẻ từ một thực thể sinh vật thành thực thể xã hội. Với chức năng giáo
dục, gia đình đã trở thành môi trường gần gũi nhất, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng
mỗi người, là nơi con người sinh ra và hình thành nền tảng nhân cách. Gia đình giáo
dục cho mỗi người ngay từ khi còn nhỏ những tình cảm hết sức cụ thể về truyền
thống gia đình, dòng họ như truyền thống yêu nước, thương người, kính trên
nhường dưới, cần cù, sáng tạo, vượt khó,vv… thông qua những hành động cụ thể,
những tấm gương cụ thể trong gia đình, dòng họ. Đó là nền tảng gia đình giúp trẻ
phát triển, hoàn thiện mọi mặt khi bước vào thực tiễn xã hội, là hành trang tinh thần
102
giúp các em vững bước ở tương lai và ra sức phấn đấu làm rạng danh gia tộc, dòng
họ.
Gia đình không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và
hình thành nhân cách của một đứa trẻ mà còn góp phần lớn tạo ra những thành công
khi trẻ trưởng thành. Những truyền thống tốt đẹp của gia đình luôn có nhiều ý nghĩa
và mạng lại niềm tự hào lớn đối với mỗi người. Và để công tác giáo dục truyền
thống gia đình, dòng họ cho trẻ đạt hiệu quả cao thì trước hết các bậc cha mẹ phải là
tấm gương sáng mẫu mực cho trẻ học hỏi, phải nhận thức rõ: Việc nuôi dạy con
không phải là gánh nặng mà chính là một phần thưởng đối với những người làm cha
làm mẹ. Những gì chúng ta nuôi dạy con mình không bao giờ là lãng phí cả. Gia
đình chính là cánh cửa đầu tiên mở ra cuộc sống đa dạng và rộng lớn hơn đối với
trẻ. Những buồn vui, thăng trầm, thành công hay thất bại của gia đình sẽ luôn in sâu
vào ký ức của mỗi người con. Chính những ký ức mà cha mẹ tạo ra cho con trẻ
trong ngày hôm nay sẽ theo trẻ suốt thời gian dài và ảnh hưởng vô cùng lớn đến
cuộc sống mai sau của trẻ. Từ đó cha mẹ có trách nhiệm trọng việc giúp trẻ thấy
được tầm quan trọng của gia đình, yêu gia đình, khuyến khích trẻ luôn có lòng tự
trọng, giữ gìn nề nếp tốt đẹp của gia đình (uống nước nhớ nguồn; đói cho sạch, rách
cho thơm; kính trên nhường dưới; tương thân tương ái; đoàn kết …), kể cho trẻ
nghe về những thành tích, những điểm nổi bật trong truyền thống gia đình mình
như: ông bà đã vất vả như thế nào để nuôi dưỡng bố, mẹ nên người; cha mẹ đã trải
qua khó khăn như thế nào để có cuộc sống ngày hôm nay; niềm tự hào, hãnh diện
của dòng họ về sự học hành giỏi giang, sự thành đạt của cô hoặc chú, bác; hành
trình của gia đình khi di cư từ quê lên thành phố hoặc lý do bố mẹ không muốn rời
bỏ mảnh đất tổ tiên để lại,vv … Từ đó sẽ giúp trẻ nhận thức được lịch sử gia đình,
mối quan hệ giữa các thành viên trong dòng họ, biết quý trọng thành quả mà tổ tiên
đã gây dựng, thấy gắn bó nhiều hơn với gia đình và tạo động lực để trẻ luôn cố gắng
vươn lên trong cuộc sống. Đồng thời trẻ sẽ ý thức được mình là một thành viên và
cũng như những thành viên khác trong dòng họ, mình cần phải góp sức làm cho tình
cảm gia đình tốt đẹp hơn, dòng họ được vẻ vang hơn.
103
Tuy nhiên trong quá trình giáo dục trẻ, các bậc cha mẹ nên kết hợp giá trị của
gia đình với những chuẩn mực chung của xã hội và lồng ghép vào đó những bài học
thực sự có ý nghĩa đối với con trẻ. Hãy dành thời gian chia sẻ, giải thích cho trẻ về
những giá trị chuẩn mực của gia đình và xã hội, giúp trẻ có những nhận thức bước
đầu về một con người hữu ích đối với gia đình và xã hội mình đang sống. Đồng thời
cho trẻ em thấy rằng: Gia đình không chỉ mạng lại tình yêu thương, niềm tin, hy
vọng mà còn là trường học hữu ích để chuẩn bị hành trang cho trẻ bước vào cuộc
sống rộng lớn hơn.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em cho thấy vai
trò quan trọng của gia đình. Trong đó, giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê
hương, đất nước là một nội dung không thể thiếu. Dẫu biết rằng, hiệu quả của quá
trình giáo dục truyền thống đó đạt được ở mức độ nào luôn phải đặt trong mối quan
hệ với các lực lượng, các tổ chức xã hội. Việc giáo dục những truyền thống tốt đẹp
của gia đình, dòng họ còn giúp gia đình phát hiện kịp thời các hiện tượng tiêu cực,
các tệ nạn xã hội mà con em mình bị ảnh hưởng hay mắc phải. Từ đó, các bậc cha
mẹ có sự quan tâm, giáo dục, định hướng phát triển cho con em mình theo các
chuẩn mực giá trị của xã hội, góp phần xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa,
xã hội văn minh.
104
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở
tỉnh Thái Bình” có thể rút ra một số kết luận sau:
- Gia đình là cái nôi sinh thành, dưỡng dục, là trường học gây dựng nhân cách,
đạo đức và nhận thức cho mỗi cá nhân. Gia đình không chỉ là là chỗ nương tựa khi
khó khăn, là nguồn khích lệ khi thành công mà còn là nơi lưu truyền bản sắc văn
hóa dân tộc. Gia đình bồi đắp tình cảm máu thịt và lòng nhân ái trong cộng đồng,
cao hơn là tình yêu Tổ quốc, yêu lý tưởng cao đẹp.
- Trong những năm qua, cùng với sự chỉ đạo, quan tâm sát sao của Đảng, Nhà
nước và chính quyền địa phương trong công tác giáo dục trẻ em và sự nỗ lực của
toàn dân nên công tác giáo dục trẻ em ở các gia đình Thái Bình đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, do chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan nên công tác giáo dục trẻ em ở Thái Bình vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi
mỗi gia đình phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân trong giáo
dục trẻ, nhận thức rõ vai trò quan trọng của gia đình đối với trẻ, từ đó kết hợp học
hỏi kinh nghiệm quốc tế để phát huy tốt hơn những ưu điểm của giáo dục gia đình
đối với trẻ, giúp trẻ lĩnh hội đầy đủ nhất thành tựu của nhân loại, thực hiện tốt sứ
mệnh là người chủ của xã hội văn minh, hiện đại.
- Trên cơ sở làm rõ thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục
trẻ trong các gia đình, luận văn đã đưa ra một số giải pháp mang tính cấp thiết nhằm
phát huy tốt hơn nữa vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình trong
thời gian tới: Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc”; Tăng cường sự
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội, tạo môi trường thống nhất cho việc
giáo dục trẻ em; Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước cho
trẻ em. Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và các
ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là trách nhiệm lớn lao của các gia
đình, để xây dựng lớp trẻ trở thành những công dân khoẻ mạnh về thể chất và tinh
thần, trong sáng về đạo đức, thành đạt trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động, làm
chủ trong tương lai.
105
KIẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu trên, tôi có một số kiến nghị như sau:
1. Đối với các gia đình có con dƣới 16 tuổi:
Các bậc phụ huynh cần tạo bầu không khí gia đình hạnh phúc cho trẻ, cần phối
hợp chặt chẽ hơn nữa với nhà trường và xã hội- nơi trẻ sinh sống và học tập; phải
nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ; đồng thời chủ
động tìm hiểu về những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi cũng như nhu cầu về sự phát
triển của con trong từng giai đoạn. Trên cơ sở đó cố gắng tạo quan hệ tình cảm tốt
với con, dành thời gian hàng ngày đối thoại với con, làm cho con cái thực sự tin
tưởng và coi cha mẹ là chỗ dựa vững chắc về mọi mặt; không nên kỳ vọng quá
mức, thậm chí phải biết chấp nhận con và nhìn theo quan điểm của con; không được
áp đặt, xúc phạm, đánh mắng trẻ; hãy để con phát triển tính độc lập và trao cho trẻ
trách nhiệm; Hãy tôn trọng trẻ và tôn trọng quyền được làm trẻ của con; Hãy là tấm
gương thực tế mẫu mực cho trẻ noi theo. Bởi “Trẻ em không phải là người lớn thu
nhỏ lại” nên cha mẹ phải cho trẻ nói lên ý kiến của mình, biết kiên trì lắng nghe ý
kiến của con để “luyện sắt thành kim” và có nghệ thuật trách phạt tiến bộ, khoa học;
đồng thời phải gạt bỏ đi những quan niệm giáo dục sai lầm, lạc hậu; không ngừng
học hỏi kinh nghiệm dạy con khoa học, tiến bộ của các gia đình xung quanh, trong
nước và trên thế giới.
2. Đối với nhà trƣờng
Cần phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh của từng gia đình để họ nắm bắt tốt
tình hình học tập và rèn luyện của con trẻ; đồng thời thường xuyên trao đổi, tư vấn,
hỗ trợ và thống nhất biện pháp tác động phù hợp, kịp thời, nhất là khi các em có
những biểu hiện, hành vi sai lệch. Đồng thời phát huy tối đa thế mạnh của giáo dục
nhà trường trong việc kết hợp “dạy chữ” và “dạy người”; giúp các em hiểu được nỗi
khổ của người làm cha làm mẹ và sống có trách nhiệm hơn cho bản thân, gia đình
và xã hội.
106
3. Đối với xã hội
- Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, trước hết các tổ chức, cơ quan,
đoàn thể phải thực sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện được những chức năng cơ
bản của mình góp phần bảo vệ, xây dựng chính thể Nhà nước xã hội chủ nghĩa dân
chủ,công bằng, văn minh; không còn những tệ nạn xã hội, những tác động tự phát
và tiêu cực đến quá trình hoàn thiện nhân cách của trẻ. Có như vậy mới tạo niềm tin
và cơ sở để trẻ làm theo cái tiến bộ, tích cực đấu tranh những thói hư tật xấu và
tránh xa các tệ nạn xã hội.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông giáo dục, vận động và nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên trong gia đình về vị
trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giúp
các gia đình nắm được những ưu- nhược điểm trong thực tế giáo dục gia đình hiện
nay và tham khảo một số kinh nghiệm dạy con của các gia đình trong và ngoài
nước; giúp các bậc phụ huynh ở Thái Bình có kiến thức phát huy hiệu quả vai trò
của gia đình trong giáo dục trẻ.
- Chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ở địa phương cần tạo điều kiện, tổ
chức các phong trào, hội thi, mở các lớp học để các gia đình có nhiều dịp trao đổi,
tọa đàm, học hỏi kinh nghiệm nuôi dạy trẻ; đồng thời tích cực cho trẻ tham gia các
hoạt động tập thể mang tính giáo dục, được bày tỏ ý kiến của mình về cuộc sống
xung quanh; đẩy mạnh phong trào “Gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học”, tích cực
triển khai công tác khuyến học, khuyến tài; khen thưởng kịp thời những cá nhân và
tập thể có những nghĩa cử đẹp, hành động đẹp hoặc đạt thành tích cao trong học tập,
trong công tác giáo dục gia đình.
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Bình (2009), Quan điểm của C. Mác và Ănghen về gia đình
trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, Tạp chí Triết học
(6), tr 55 - 59.
2. Phạm Thị Bình (2011), Tác động của kinh tế thị trường đến chức
năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính
trị (9), tr 63 – 68.
Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em. 3.
Cục thống kê Thái Bình (2012), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 4.
2011. Nxb Thống kê.
5. Nguyễn trọng Chuẩn- Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống
trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (1969). 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị số 49/CT/TW ngày 25/3 của 7.
Ban bí thư về Xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam ( 1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Đại (2012), Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học,
Đại học quốc gia Hà Nội.
108
13. Giáo trình Giáo dục gia đình
14. Lê Thanh Hà (1999), Kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học triết học, Đại học quốc gia Hà Nội.
15. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ
(2011), Đặc san tuyên truyền pháp luật, (02), tr.3.
16. Nguyễn Thị Lan Hương (2004), “Quan niệm của Ph. Ăngghen, Chủ
tịch Hồ Chí Minh về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc nghiên cứu
gia đình trong xã hội thông tin”, Triết học, (11), tr.22-26.
17. Đặng Cảnh Khanh (2003), “Một số suy nghĩ về phát huy vai trò của gia
đình và cộng đồng trong gióa dục các giá trị truyền thống cho trẻ em”,
Khoa học dân số, gia đình và trẻ em (2),tr45-49
18. Nguyễn Thế Long (1999), Gia đình và dân tộc, Nxb. Lao động.
19. Nguyễn Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ
trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội.
20. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 2004).
21. Ibuka Masaru (2013), Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn, Nxb. Văn học
22. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
23. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội
24. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
25. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
26. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.21, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
27. C. Mác - Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, t.39, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
109
28. C. Mác - Ph.Ăngghen (1977), Toàn tập, t.41, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
29. C. Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.42, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
30. Nguyễn Đức Mạnh (2004), “Gia đình và chăm sóc giáo dục trẻ em tuổi
mầm non trong gia đình hiện nay”, Khoa học về phụ nữ, (3),tr.21-26.
31. Hồ Chí Minh (1945), Thư gửi học sinh cả nước
32. Hồ Chí Minh (1960), Bài nói chuyện tại Hội nghị dự thảo luật hôn nhân
và gia đình, Tuyển tập, Nxb sự thật Hà Nội
33. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, t.1, Nxb. Sự thật, Hà Nội
34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Lê Minh (chủ biên, 1994), Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển
xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội.
41. Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây
dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Hà Thế Ngữ- Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học, T.1, Nxb. Giáo dục 42.
Nguyễn Thị Oanh (1998), Gia đình Việt Nam thời mở cửa, Nxb. Trẻ 43.
Phiếu khảo sát thực tế trẻ em dưới 16 tuổi ở Thái Bình 44.
Phiếu khảo sát thực tế các gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi ở Thái Bình 45.
46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2013), “Luật Hôn
nhân và gia đình”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị tố Quyên (2005), “Vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em
trong gia đình”, Xã hội học ( 1), tr. 85-87.
110
48. Lê Thị Thắm (2012), Sự tác động của khoa học – công nghệ đến gia
đình Việt Nam hiện đại. Tạp chí Triết học (5), tr 69 -74.
49. Mai Thị Việt Thắng (2004), Sự phát triển và xung đột giữa cha mẹ và
con cái, Khoa học về Phụ Nữ, (4), tr.60-62.
50. Lê Thảo (2009), Gia đình Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường, Tạp chí Cộng sản, tr 82 – 85.
51. Lê Thi ( 1997), vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
52. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Lê thị Thu (2004), “Vị trí và chức năng của gia đình trong sự phát triển
của xã hội”, Lao động và Công đoàn (309),tr.36.
54. Trịnh Thị Thúy (2009), Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tạp chí Giáo dục lý luận,
tr 52 – 56
55. Tỉnh ủy- Hội đồng nhân dân- UBND tỉnh Thái Bình. Địa chí Thái Bình,
Nxb Văn hóa Thông tin.
56. Trần Quang Tiệp (2005), “Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội trong đấu tranh phòng chống người chưa thành niên phạm tội”, Nhà
nước và pháp luật (1), tr. 62-66.
57. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1995), Gia đình
Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới của đất
nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tứ thư ngũ kinh (năm 2003), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 58.
Lê Qốc Tuấn ( 1995), “ Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về hôn nhân 59.
và gia đình”, NNxb Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Lê Ngọc Văn (2006), “Vai trò của người vợ, người chồng trong gia
đình Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lao động và xã hội, (290), tr.35-42.
111
61. Nguyễn Linh Văn (2006), Gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí gia
đình và trẻ em, (5)
62. Lê Ngọc Văn (chủ biên 2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
63. Trần Thị Kim Xuyến (2002), Gia đình và những vấn đề của gia đình
hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội.
64.
http://giadinh.net.vn/gia-dinh.htm
65.
https://banthancuame.dutchlady.com.vn
http://kyna.vn/nhom-khoa-hoc/5-khoa-hoc-nuoi-day-con-danh-cho- 66.
cha-me-tre
http://www.mevacon.com.vn/ 67.
http://tuoitre.vn/tin/giao-duc 68.
http://eva.vn/tu-van-suc-khoe-tre-em 69.
http://doisong.vnexpress.net/tin-tuc/gia-dinh/nuoi-day-con/day-con- 70.
nen-nguoi-bang-cach-dung-ngon-ngu-tich-cuc
71. http://truonganhsang.edu.vn/ban-can-biet/day-con-nen-nguoi-tu-nhung-
quy-tac-nho.danang