ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

PHÍ THI NGA

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Minh Đức

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

dướng dẫn của TS. Dương Minh Đức. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận

văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo

có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

Tác giả luận văn

Phí Thị Nga

LỜI CẢM ƠN

Luận văn “Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở

Thái Bình hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là kết quả của

quá trình học tập tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc

gia Hà Nội của tác giả dưới sự hướng dẫn của các thầy cô bộ môn; sự giúp đỡ của

các thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa Triết học. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc

tới các thầy cô!

Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến TS. Dƣơng Minh Đức là

giáo viên trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi, người đã luôn tận tình hướng dẫn,

dành nhiều thời gian quý báu để trao đổi và định hướng nghiên cứu cho tôi trong

suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn

động viên và là chỗ dựa tinh thần để tôi học tập, thực hiện thành công đề tài luận

văn này.

Tôi xin trân trọng gửi lời tri ân tất cả các thầy cô, bạn bè và người thân!

Hà Nội ngày tháng năm 2015

Người thực hiện luận văn

Phí Thị Nga

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1. GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC

TRẺ EM ........................................................................................................... 8

1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em. ................... 8

1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình ............................... 8

1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội ....................... 13

1.2. Nội dung của giáo dục gia đình đối với trẻ em ............................... 21

1.2.1. Giáo dục đạo đức............................................................................ 21

1.2.2. Giáo dục trí tuệ ............................................................................... 25

1.2.3. Giáo dục thể chất ........................................................................... 28

1.2.4. Giáo dục thẩm mĩ ........................................................................... 29

1.3. Những yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em trong các gia đình

ở Thái Bình hiện nay. ............................................................................... 31

1.3.1. Vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội và con ngƣời Thái Bình. 31

1.3.2. Tác động giáo dục của các thành viên trong gia đình tới trẻ em ở

Thái Bình .................................................................................................. 37

1.3.3. Tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến vai trò

của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình ................................... 42

1.3.4. Tác động của khoa học công nghệ và cơ chế thị trƣờng tới việc

giáo dục trẻ em ở Thái Bình. ................................................................... 45

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY ................... 49

2.1.Thực trạng giáo dục trẻ em trong gia đình ở Thái Bình hiện nay. 49

2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình ở

Thái Bình .................................................................................................. 51

2.1.2. Thực trạng giáo dục trí tuệ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái

Bình. ........................................................................................................... 53

2.1.3. Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ em trong các gia đình ở

Thái Bình .................................................................................................. 57

2.1.4. Thực trạng giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em trong các gia đình ở

Thái Bình .................................................................................................. 61

2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em trong gia đình

ở Thái Bình hiện nay. ............................................................................... 63

2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, mong muốn của gia đình

với thực trạng giáo dục hiện nay ở Thái Bình ....................................... 64

2.2.2. Mâu thuẫn giữa mong muốn của gia đình với điều kiện cơ sở vật

chất hiện có trong gia đình hiện nay ...................................................... 67

2.2.3. Mâu thuẫn giữa mong muốn của trẻ em với thực trạng giáo dục

của gia đình hiện nay ở Thái Bình .......................................................... 68

2.2.4. Những tác động ngƣợc chiều giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội

trong giáo dục trẻ em ............................................................................... 73

Kết luận chƣơng 2 .................................................................................... 79

CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM

PHÁT HUY .................................................................................................... 80

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRẺ EM

Ở THÁI BÌNH .............................................................................................. 80

3.1. Những quan điểm cơ bản ................................................................. 80

3.1.1. Trẻ em là vốn quý của gia đình, là lớp công dân đặc biệt của xã

hội, phải dành cho trẻ em theo tinh thần “Trẻ em hôm nay, thế giới

ngày mai”. ................................................................................................. 80

3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và nhu cầu của

trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển hài hòa về nhân cách- là yếu tố

cơ bản bảo vệ hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã

hội .............................................................................................................. 82

3.1.3. Thực hiện công bằng về giáo dục trẻ em trong gia đình và trong

xã hội ......................................................................................................... 83

3.1.4. Sự phát triển toàn diện của trẻ em là một trong những yếu tố cơ

bản của sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững ..................................... 84

3.1.5. Giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà trƣớc hết là

của gia đình ............................................................................................... 86

3.1.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính

quyền các cấp đối với công tác giáo dục trẻ em .................................... 88

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình

trong việc giáo dục trẻ em ở thái Bình hiện nay ................................... 90

3.2.1. Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc” .................... 90

3.2.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội, tạo

môi trƣờng thống nhất cho việc giáo dục trẻ em .................................. 93

3.2.3. Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hƣơng, đất nƣớc

cho trẻ em .................................................................................................. 98

KẾT LUẬN .................................................................................................. 105

KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 108

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mỗi cá nhân từ khi sinh ra, trưởng thành cho đến khi từ biệt cõi đời đều gắn

bó với gia đình. Tuy gia đình không phải là thiết chế duy nhất có vai trò trách nhiệm

giáo dục trẻ em nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng: Gia đình là môi trường đầu

tiên, có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ và có ảnh

hưởng lâu dài, toàn diện tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Trong mối quan hệ

với xã hội thì gia đình là tế bào của xã hội. Và khi so với các lực lượng giáo dục

khác thì giáo dục gia đình có nhiều ưu thế vượt trội. Giáo dục gia đình vừa mang

tính cá biệt rõ rệt, vừa thấm đậm tình cảm ruột thịt sâu sắc, với sự đa dạng và phong

phú về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội.. của chủ thể giáo dục. Ở đó, trẻ

được giáo dục theo hình thức thẩm thấu tích lũy về lượng, mỗi ngày một ít và

thường xuyên lặp lại. Mọi chức năng của gia đình đều có ý nghĩa kép- vừa thỏa mãn

nhu cầu cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu xã hội. Gia đình không chỉ gánh vác trách

nhiệm duy trì dòng giống, chủng tộc, chuẩn bị lực lượng lao động tương lai “Trẻ em

hôm nay, thế giới ngày mai” mà còn thay mặt xã hội đền đáp công lao bộ phận lao

động quá khứ, chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho người lao động hiện tại.

Sức mạnh của một dân tộc được nuôi dưỡng trong lòng mỗi gia đình.

Tầm quan trọng đó của gia đình cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng

định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã

hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã

hội là gia đình. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì phải chú ý hạt nhân gia

đình cho tốt" [31,tr. 728].

Hơn nữa, trong mỗi gia đình lại có những mầm non giữ vai trò quyết định

tương lai của dân tộc, đang cần được chăm sóc và giáo dục khoa học. Những mầm

non đó chính là trẻ em- những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể lực và

trí tuệ, nhưng lại có vị trí vô cùng quan trọng- là thành viên gắn kết gia đình, là sự

nối dài cuộc đời của cha mẹ và là hạnh phúc, tương lai của gia đình và xã hội. Sự

nghiệp giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Với tầm nhìn xa trông

1

rộng “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cho rằng:

“Ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của

thế giới”. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp

hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường

quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”

[4,tr. 32-33].

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng, Nhà nước đã có

nhiều chỉ thị, nghị quyết, chinh sách đề cập đến vấn đề này. Và thực tế Việt Nam là

quốc gia đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước

hành động quốc gia về quyền trẻ em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc

gia vì trẻ em được thông qua và khẳng định dành ưu tiên cho trẻ em các quyền được

bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hóa.

Thực trạng hiện nay, công tác giáo dục gia đình đã được quan tâm nhiều hơn

trước, không chỉ ở nước ta mà còn ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,

trước tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong

xu hướng toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta. Sự giao lưu mở cửa hội nhập đã đem đến

cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội: Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh

tế, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh của các nước. Song,

bên cạnh những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nảy sinh nhiều

vấn đề tác động đến đời sống gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt Nam đang

đứng trước những khó khăn thử thách, sóng gió chưa từng có trong cách dạy con. Ở

một góc độ nào đó đã phá vỡ nền nếp gia phong đạo đức của gia đình truyền thống

Việt Nam. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống thử, ngoại tình, quan hệ tình dục trước

hôn nhân và việc nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng, để lại hậu quả nặng nề về

nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Nhiều giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt

đẹp của người Việt Nam đang có biểu hiện xuống cấp, phai nhạt. Nhiều tệ nạn như

ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm, HIV/AIDS đã và đang xâm nhập vào từng gia

đình. Mâu thuẫn xung đột giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống đang đặt ra

những thách thức mới, cùng với nó là tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học

đường cũng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động.

2

Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, dân số đông, trong đó chủ yếu là sản xuất

nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, không đồng đều và cũng chịu sự thay đổi

cùng với sự thay đổi của xã hội. Do đó công tác giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế,

nhất là ở gia đình nông thôn, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tình trạng phó mặc

việc giáo dục con cho nhà trường, người giúp việc, hay tình trạng trẻ em phải nghe

và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, chửi bậy, ly hôn, ly thân; Tình trạng cha mẹ

trẻ trước khi kết hôn không được trang bị kiến thức làm cha làm mẹ, kiến thức gìn

giữ hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái; Tình trạng cha mẹ không hiểu quyền

của trẻ, không tôn trọng trẻ, chửi mắng, đánh đập, áp đặt và dạy bảo con tùy tiện ...

còn tồn tại ở nhiều nơi. Một số bậc cha mẹ còn có quan niệm sai lầm rằng con cái là

sở hữu của họ không liên quan đến người ngoài, và họ là những người có toàn

quyền quyết định số phận con cái mình trong thời gian chúng lệ thuộc vào cha mẹ.

Do đó kéo theo nhiều sai lầm trong cách dạy con, nhất là khi trẻ không được như

mong muốn của họ. Tình trạng bạo lực học đường ở thanh thiếu niên và tình trạng

áp đặt, gò ép, giáo dục trẻ bằng bạo lực trong một số gia đình vẫn gia tăng. Tất cả

những điều đó đã ảnh hưởng đến quyền học tập, vui chơi giải trí và hạn chế sự phát

triển tự nhiên, lành mạnh của trẻ về thể lực và trí lực; làm cho khoảng cách thế hệ

và xung đột giữa các thành viên ngày càng trầm trọng; đồng thời tạo thêm gánh

nặng cho các môi trường giáo dục khác (nhà trường, xã hội) và gây ảnh hưởng xấu

đến truyền thống văn hóa, con người Việt Nam.

Có thể khẳng định cuộc sống gia đình ở Thái Bình hiện nay có rất nhiều biến

động, hầu như nhà nào cũng có “sóng”, bên cạnh những dấu cộng, dấu nhân quý giá

lại có biết bao nhiêu dấu trừ, dấu chia đầy nuối tiếc! Và người bị tổn thương nhất

không phải là bản thân cha mẹ trẻ, mà là những đứa con của họ. Vậy các bậc cha

mẹ trẻ ở Thái Bình phải làm gì để tiếp tục phát huy tác dụng của gia đình, giúp trẻ

có được cuộc sống tốt đẹp nhất, được phát triển toàn diện trong sự yêu thương và

trân trọng của người thân?

Chính vì nhiều lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Phát huy vai trò của gia

đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay” với hy vọng đề tài này

sẽ góp thêm tiếng nói, tình cảm và hành động vào việc nâng cao nhận thức xã hội,

3

hỗ trợ các gia đình phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ và dành

cho trẻ em những điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Gia đình và giáo dục gia đình luôn là những chủ đề hấp dẫn nhiều cá nhân,

tập thể không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà trong cả các cơ quan, tổ

chức có liên quan. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề này, trong các

công trình ấy phải kể đến một số tác phẩm và công trình khoa học sau:

Tác phẩm “Nói chuyện về giáo dục Gia đình” của A. Ma-ca-ren-cô do Nxb

Kim Đồng, Hà Nội phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng

với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt

quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng điều đó

không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, tất cả các bậc cha mẹ đều có thể làm

được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc, nó không

khó khăn ghê ghớm như nhiều người lầm tưởng. Nếu tuổi trẻ không được gia đình

giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ

của gia đình, mà xã hội phải quan tâm. Những nguyên lý giáo dục đó cũng như kinh

nghiệm thực tiễn của ông cho đến nay vẫn được đông đảo độc giả tìm đọc và trân

trọng.

“Khoa học giáo dục con em trong gia đình” của Ủy ban Thiếu niên nhi

đồng Trung ương, xuất bản năm 1979, do Đức Minh chủ biên. Cuốn sách này đã

giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc

điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu

cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ.

“Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản

năm 1991. Tập thể tác giả ở đây đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết

cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái

nên người trên những mặt cơ bản về Đức, trí, thể , mỹ.

Sách “Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn” của tác giả Ibuka Masaru, do nhà

xuất bản Văn học, phát hành tháng 10 năm 2013. Trong tác phẩm này, tác giả đã chỉ

ra bí quyết nuôi dạy con từ lúc lọt lòng của các bà mẹ Nhật, đồng thời là một trong

4

những tác phẩm về nuôi dạy trẻ được cha mẹ Nhật yêu thích nhất. Cuốn sách xuất

bản lần đầu năm 1971, sau này được biên soạn lại và tái bản vào năm 2008. Những

lý thuyết trong cuốn sách rất hữu ích cho các bậc làm cha, làm mẹ ở nước ta.

Sách “Kỷ luật không nước mắt” của Phan Thương, do Nhà xuất bản Văn

hóa- thông tin phát hành. Cuốn sách hướng dẫn các bậc làm cha những phương thức

kiềm chế cách hành xử theo cảm tính trong quá trình nuôi dạy con cái, đồng thời chỉ

cho cha mẹ cách giao tiếp lắng nghe con cái, nghệ thuật trách phạt để trẻ nhận ra lỗi

lầm và khích lệ được những năng lực tiềm ẩn của con, gạt bỏ đi những quan niệm

giáo dục sai lầm, lạc hậu.

Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Giáo dục đời sống

gia đình” của Nguyễn Đình Xuân - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 1997; “Gia đình

và phụ nữ trong biến đổi văn hóa xã hội nông thôn” của Nguyễn Linh Khiếu - Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2001; “ Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát

triển nhân cách trẻ em” của Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,

2001;“Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê Thi- Nxb

Khoa hoc xã hội, Hà Nội.2003; “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của TS. Đỗ Thị Thạch - Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội. 2005;“ Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay” của Nuyễn Thị

Thọ, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011; “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt

Nam” của Lê Ngọc Văn- Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2011; “ Gia đình và giáo

dục gia đình” của Nguyễn Thị Phương Thủy và Nguyễn Thị Thủy, Nxb Chính trị

Quốc Gia, Hà Nội, 2014; ...vv.

Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các

vấn đề về Gia đình, Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng:

“Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội.1996;

Luận án T.s của Đặng Thị Linh, “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay -

Thực trạng và giải pháp” Hà Nội. 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò

của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”

Hà Nội. 2001; Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam vai trò người

phụ nữ hiện nay” Hà Nội. 2003; và rất nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có liên quan

5

của học viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội do nhiều PGS.TS nổi tiếng, có trình

độ chuyên môn sâu rộng hướng dẫn như: Luận văn “Thực hiện và phát huy chức

năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình hiện

nay” Hà nội. 2011; “Gia đình và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay” Hà nội. 2010; Luận văn “Vai trò giáo dục

của gia đình đối với trẻ em hư ở thành phố” Hà nội. 2011; “Vấn đề giáo dục đạo

đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” Hà Nội.2012;

“Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn

thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014; “Những biến đổi của đạo

đức gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014;...vv

Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ hơn mặt lý luận cũng

như thực tiễn về vai trò của gia đình trong việc giáo dục con người nói chung,

trẻ em nói riêng. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tiễn ở tỉnh Thái Bình

hiện nay, vai trò giáo dục của gia đình còn nhiều hạn chế. Tôi thấy rằng việc

phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình hiện nay là

một vấn đề bức xúc và cấp thiết, không trùng lặp với các luận văn, luận án sau

đại học hay các công trình nghiên cứu đã được công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích:

Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc giáo dục trẻ em của các gia đình ở tỉnh

Thái Bình hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy tốt

hơn vai trò của gia đình trong công tác giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay.

* Nhiệm vụ:

+ Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về gia đình với tư cách là chủ thể

giáo dục trẻ em.

+ Phân tích những nội dung cơ bản của công tác giáo dục trẻ em trong gia

đình ở tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay.

+ Làm rõ thực trạng giáo dục trẻ em trong các gia đình ở tỉnh Thái Bình giai

đoạn hiện nay.

6

+ Rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp,

kiến nghị để từ đó phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái

Bình giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu của luận văn

Luận văn tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo

dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình, trẻ em và vai trò của

gia đình trong việc giáo dục trẻ em.

Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng

hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.

6. Đóng góp mới của luận văn

- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về

việc phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện

nay.

- Luận văn thành công sẽ cung cấp nguồn tư liệu để các cấp ủy chính quyền

các tổ chức xã hội, các gia đình ở Thái Bình tham khảo, từ đó làm tốt hơn công tác

giáo dục trẻ em.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3

chương, 6 tiết.

7

CHƢƠNG 1

GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC TRẺ EM

1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em.

1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình

*) Khái niệm gia đình:

Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội với nhiều vấn đề

mới nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình cũng có những biến đổi rất phức tạp. Những

chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa

học không chỉ ở Việt nam mà cả trên thế giới. Vậy gia đình là gì? Để trả lời câu hỏi

này cho đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau, bởi đây là một phạm trù rộng,

không ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội.

Trong thời đại của mình, Các Mác cho rằng gia đình là tổ chức đặc biệt quan

trọng để duy trì nòi giống, các thành viên của gia đình có mối quan hệ tình cảm ruột

thịt với nhau. Điều này được thể hiện rõ qua quan niệm: “Hàng ngày tái tạo ra đời

sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở.

Đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [23, tr.41]

Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật

thiết với xã hội, khẳng định: Gia đình là yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế

xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được

giữ gìn và phát huy. Trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa như sau: Gia

đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách

chung với các thành viên trong gia đình, gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền

lợi về mọi mặt được pháp luật thừa nhận.

Tác giả Nguyễn quốc Tuấn dưới góc độ luật học xem xét gia đình là một tập

hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dưỡng, đã gắn bó

những con người có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về

nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất để tương trợ nhau, cùng làm

kinh tế chung và nuôi dạy con cái[59].

8

Trên bình diện tâm lý học, giáo sư Lê Thi- người đã dày công nghiên cứu về

đề tài gia đình cho rằng: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội

hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ quan hệ

hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại).

Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng,

tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách

nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc

có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn

nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng

về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành

viên” [51,tr.42]

Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình, bởi mỗi tác giả

đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, trong văn bản của Liên

hiệp quốc cũng đã lưu ý rằng: Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu nhưng lại có

những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh

khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do đó, không thể đưa ra một định nghĩa chung

có thể áp dụng cho toàn cầu [13,tr 5].

Tuy nhiên, từ những định nghĩa trên chúng ta có thể nhận thấy: có ba mối

quan hệ thường được nhắc tới khi đề cập đến gia đình đó là: quan hệ hôn nhân,

quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên.

Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa một nam và một nữ theo quy định của

pháp luật nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan

hệ cơ bản, đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ

khác. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang

tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các

giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý

chí và lợi của giai cấp mình.

9

Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng trực hệ dòng máu, là

sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa

trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng được

nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi được

họ hàng ủng hộ và pháp luật thừa nhận, bảo vệ mà cao hơn là tình thương yêu, đùm

bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.

Có lẽ, nghiên cứu về gia đình nói chung, định nghĩa gia đình nói riêng còn

nhiều vấn đề cần tìm hiểu thêm và còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành

khoa học. Nhìn nhận gia đình từ phương diện chuyên ngành, tôi cho rằng: Gia đình

là một hình thức cộng đồng xã hội đặc thù, được hình thành, duy trì và củng cố chủ

yếu trên cơ sở các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng được

xã hội thừa nhận. Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần

chung, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao

nhất là nuôi dưỡng các thành viên, xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển kinh tế

gia đình.

*) Chức năng giáo dục của gia đình

Gia đình có các chức năng cơ bản như: Chức năng tái sản xuất ra con người,

chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục, chức năng thỏa mãn

các nhu cầu tâm sinh lý tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, chức

năng giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng, liên quan mật thiết tới sự phát

triển bền vững của mọi quốc gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói

riêng.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là một thực thể xã hội mang bản chất

xã hội, đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Mặt tự nhiên và

mặt xã hội trong con người không tách rời, đối lập nhau, mà thống nhất biện chứng

và tác động qua lại lẫn nhau. Thực tế nghiên cứu về “người sói” cũng đã chứng

minh: Con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục. Từ nhỏ, con

người không được giáo dục, lớn lên không khác gì cây hoang, cỏ dại ở ngoài đồng

10

và nếu không được sống trong môi trường gia đình và xã hội thì cũng không khác

mấy các loài động vật, không thể trở thành con người theo đúng nghĩa.

Và từ kinh nghiệm thực tế cuộc sống, ông cha ta đã đúc kết rằng: “Con nhà

tông, không giống lông cũng giống cánh” và phải “Uốn cây từ thủa còn non, dạy

con từ thủa con còn trẻ thơ”. Do đó mà từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành, mỗi

thành viên nhỏ tuổi trong gia đình thường được ông bà, cha mẹ và người thân nuôi

dưỡng, truyền thụ những kinh nghiệm sống, những phẩm chất đạo đức để trở thành

công dân có ích của xã hội và là người con, người cháu hiếu thảo của gia đình. Giáo

dục gia đình không những có tác dụng mạnh mẽ, có ý nghĩa sâu sắc đối với tuổi thơ

mà còn có ảnh hưởng đối với cả cuộc đời của con người lúc trưởng thành cho đến

lúc tuổi già. Những phẩm chất đạo đức, tính cách cũng như những năng lực chuyên

biệt của bố mẹ thường ảnh hưởng rất lớn đối với con cái trong gia đình, nhất là khi

trẻ còn nhỏ. Điều này đã được nhà giáo dục học nổi tiếng A.Ma-ca-ren-cô khẳng

định: Những gì mà cha mẹ đã làm cho con trước 5 tuổi, đó là 90% kết quả của quá

trình giáo dục.

Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và

kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức

cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là

phương pháp nêu gương, thuyết phục và chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối

sống, tâm lý, gia phong của truyền thống gia đình .

Giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người: Lúc

còn ẵm ngửa, giai đoạn tuổi thơ, khi trưởng thành, lúc già cả... Ở từng chu trình ấy

có những nội dung và hình thức giáo dục cụ thể như: lời ru của mẹ, tấm gương sống

và làm việc của người thân, những nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà,...

Do đó, dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định,

nhưng có những nội dung và phương pháp lại được giáo dục gia đình mang lại hiệu

quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Vì vậy,

chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.

Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm cho

11

giáo dục nhà trường và xã hội. Cho nên, dù giáo dục nhà trường và xã hội có phát

triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo

dục nói chung, phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại

nào khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.

Trong điều kiện hiện nay, chất lượng giáo dục con người không ngừng được

nâng cao. Môi trường tạo ra chất lượng đó là gia đình, nhà trường và xã hội, nhưng

chủ yếu vẫn là gia đình- cái nôi nuôi dưỡng, phát triển nhân cách đạo đức, tình cảm

thẩm mĩ...Tuy nhiên, với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát

triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự đa dạng và nhiều màu sắc của văn

hóa thì giáo dục gia đình cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những bậc phụ huynh

vẫn quan tâm chăm sóc giáo dục con cái, trong xã hội vẫn còn xuất hiện thêm

những ông bố, bà mẹ chỉ lo làm kinh tế, phó mặc việc dạy bảo con cái mình cho nhà

trường và xã hội, thậm chí là phó mặc cho người giúp việc, buông lỏng giáo dục

đạo đức và cách ứng xử thiếu tình nghĩa đã gây ra cho trẻ nhiều hậu quả nghiêm

trọng. Có những gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của

con và để quan niệm tư lợi, lối sống thực dụng “đồng tiền lên trên hết” ngự trị trọng

mọi hoạt động của gia đình. Thậm chí có những gia đình cha mẹ sống buông thả, có

hành vi thất đức, buôn gian bán lận... đã làm ảnh hưởng không tốt đến nhân cách và

việc giáo dục trẻ.

Ngày nay, với chức năng giáo dục, gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc

đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người mới, duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa

dân tộc. Do đó, để thực hiện chức năng giáo dục gia đình có hiệu quả, chúng ta phải

chú ý đến mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình- nhà trường và xã hội, tiến

tới mục tiêu giáo dục tư tưởng, tình cảm lành mạnh cho thế hệ trẻ, góp phần nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hơn nữa, trong mỗi

gia đình ông bà, cha mẹ phải là tấm gương sáng cho con cháu noi theo, những

người lớn tuổi trong nhà cũng phải nâng cao hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, về khoa

học công nghệ sao cho chất lượng giáo dục gia đình đạt hiệu quả tốt nhất.

12

1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội

1.1.2.1. Trẻ em

*) Khái niệm trẻ em

Từ xưa đến nay trẻ em luôn được coi là hạnh phúc của gia đình, là tương lai

của dân tộc. Đã có rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên

cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, triết học, y học, xã hội học... Và

đây cũng là đối tượng được nhiều tổ chức trong nước và quốc tế quan tâm.

Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong

Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ (năm 1924), Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em

(năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước quốc

tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966), Công ước quốc tế về các quyền

dân sự và chính trị (năm 1966), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm

1989), Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc

(năm 1976), Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (năm 1990).

Theo điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Trẻ em được xác định là

người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”.

“Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm người trong xã hội thuộc một độ

tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những

người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần

được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp

lý trước cũng như sau khi ra đời[15, tr.3].

Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 ở nước ta quy

định: Trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”[20,tr. 1]. Đây là những người

chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và

kinh nghiệm sống còn nhiều hạn chế, thiếu những điều kiện để tự lập và khả năng

kìm chế chưa cao nên dễ bị kích động lôi kéo vào những hoạt động phưu lưu mạo

hiểm. Mọi suy nghĩ về cuộc sống của các em thiên về tình cảm, dễ xúc động, dễ

hành động cảm tính. Điều này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải hết sức khéo léo, am

13

hiểu tâm lý của trẻ nhỏ, uốn nắn nhẹ nhàng sao cho có hiệu quả vì trẻ ở mỗi độ tuổi

lại có những đặc điểm không giống nhau.

*) Đặc điểm trẻ em:

- Đặc điểm về tâm lý của trẻ em:

Tâm lý (của con người) là toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào

ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí,...biểu hiện trong hoạt động

và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý người bao giờ cũng là “cái riêng” của từng người,

nhưng “cái riêng” ấy từ “cái chung” của loài người, dân tộc, gia đình mà ra. Bằng

giáo dục, vui chơi, lao động và giao tiếp, gia đình và xã hội truyền đạt các tri thức

ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lại có cách thức khác nhau để lĩnh hội

tri thức và biến nó thành vốn sống của riêng mình, đó chính là tâm lý của bản thân

mỗi người. Cuộc sống càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng nào thì tâm lý con

người càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó.

Căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý và cả sự trưởng thành cơ thể

của trẻ em, người ta chia ra một số giai đoạn chủ yếu sau:

Giai đoạn sơ sinh

Trẻ em từ khi sinh ra đến dưới 18 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ nhỏ còn non

nớt và bỡ ngỡ với môi trường cuộc sống mới ngoài bụng mẹ. Khi còn dưới 18 tháng

tuổi, trẻ thể hiện mọi nhu cầu của mình bằng “tiếng khóc”, nếu muốn ăn, muốn thay

tã lót, muốn được nâng niu, âu yếm, muốn được bảo vệ khi cảm thấy nguy hiểm…

thì tiếng khóc là ngôn ngữ duy nhất của trẻ em. Nếu cha mẹ, người chăm sóc trẻ

quan tâm, đáp ứng lại các nhu cầu đó, trẻ yên tâm, tin tưởng vào người chăm sóc

mình. Khi trưởng thành niềm tin này phát triển thành niềm tin vào các mối quan hệ

xã hội và vì vậy, giao tiếp, quan hệ của trẻ em với những người xung quanh thuận

lợi, là cơ sở của các hành vi và cách ứng xử phù hợp, được xã hội chấp nhận.

Ngược lại, những trẻ em không được đáp ứng nhu cầu một cách phù hợp có thể

hình thành tâm lý không tin tưởng và lâu dài sẽ khó khăn trong niềm tin đối với các

mối quan hệ xã hội.

14

Giai đoạn nhà trẻ

Trẻ em từ 18 tháng tuổi đến dưới 36 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ mới tập đi,

tập nói, ở trẻ bắt đầu hình thành cách hay bắt chước, thích khám phá mọi vật xung

quanh, muốn tỏ ra độc lập, muốn giải quyết vấn đề theo cách của mình. Trẻ ở giai

đoạn này có nhu cầu được bảo vệ và hướng dẫn về cái gì được, cái gì không được

một cách chu đáo. Các nhà tâm lý học gọi đây là giai đoạn của sự lựa chọn giữa độc

lập và tự ti. Nếu trẻ học được cách biết nghe lời chỉ dẫn, biết tuân theo kỷ luật

(trước hết là tập đi vệ sinh đúng chỗ quy định chẳng hạn) thì sau này trẻ sẽ phát

triển tính tự lập. Trong trường hợp người lớn không hướng dẫn, giảng giải cụ thể,

trẻ không hiểu và không biết kỷ luật, khi gặp các trường hợp nguy hiểm (bị bỏng do

nghịch nước sôi, đưa tay vào ổ điện…) thì sau này, trẻ em cảm thấy tự ti, không

mạnh dạn phát triển tính độc lập của mình.

Giai đoạn mẫu giáo

Trẻ em từ 36 tháng tuổi đến dưới 60 tháng tuổi. Trong độ tuổi này, trẻ em bắt

đầu hình thành năng lực tự chủ, có sự định hướng những hành vi công việc của

mình. Nếu cha mẹ cười hoặc giễu cợt, phê phán con trước những nỗ lực chưa thực

hiện được của nó thì trẻ sẽ luôn cảm thấy điều mình làm là có lỗi. Ngược lại, nếu

được cổ vũ, khích lệ thì trẻ rất sung sướng và nỗ lực hơn nữa. Tình cảm hồn nhiên,

dễ yêu, dễ hờn giận, muốn được tự chủ là một trong những nét tâm lý nổi bật của trẻ

giai đoạn này. Tương ứng với giai đoạn này là sự lựa chọn giữa mong muốn được

chủ động, sáng tạo và cảm giác có lỗi, xấu hổ và đang dần hình thành ý thức, tính

cách.

Giai đoạn nhi đồng - thiếu nhi

Trẻ em từ 6 tuổi đến 12 tuổi. Độ tuổi này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học nhiều

điều mới. Tất cả các nước trên thế giới đều qui định đây là độ tuổi cho trẻ đến

trường phổ thông.

Lứa tuổi nhi đồng - thiếu nhi, trẻ em bắt đầu làm quen với những khái niệm

khoa học ở trường tiểu học. Các em học tuân theo những yêu cầu "lao động" học

tập. Cần quan tâm giáo dục tính chăm chỉ, cần cù cho trẻ để sau này trẻ có được

15

phẩm chất chăm chỉ, cần cù. Phẩm chất cần cù là điều kiện thiết yếu nuôi dưỡng

ham muốn học hỏi, lao động của người lớn, những kỹ xảo hành động đặc trưng cho

người lớn và chuẩn bị để nắm bắt vai trò của người lớn. Nhiều thí nghiệm tâm lý

cho thấy, các em tuổi nhi đồng - thiếu nhi được tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng

phong phú ở môi trường xung quanh giúp các em có khả năng nhận thức thế giới

sâu sắc thêm… Nếu trẻ không được khen về những kỹ năng đã đạt được của mình

thì các em sẽ có cảm giác kém cỏi, tự ti. Thái độ của người lớn, của môi trường giáo

dục sẽ đặt trẻ trước sự lựa chọn: cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi hay tự ti.

Giai đoạn thanh thiếu niên

Trẻ em từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ ý thức về bản

thân, bắt đầu hình thành ý thức hệ. Đây là giai đoạn các em bước vào bậc trung học

cơ sở, hoạt động chủ đạo của các em là giao tiếp. Có thể nói đây là lứa tuổi quá độ

trong quá trình phát triển từ trẻ em thành người lớn. Sự phát triển cơ thể và sự chín

muồi giới tính nhanh chóng tạo ra cuộc "cách mạng tâm lý" trong các em. Điều đó

gây ra nỗi sợ hãi và sự căng thẳng, nhân cách lúc này bị giằng co giữa những xu thế

trái ngược nhau, khi hăng hái, lúc chán nản bi quan và có thể dẫn đến trầm lặng.

Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên rất tò mò, ham hiểu biết, rất thích cái mới và

khám phá cái mới của mình. Hoạt động trí tuệ của các em phát triển nhiều hơn

nhiều so với lứa tuổi trước nhờ sự phát triển tư duy trừu tượng, ghi nhớ và chú ý có

chủ định, trí tưởng tượng phong phú. Mặt khác, ở lứa tuổi này, hứng thú học tập và

hứng thú nghề nghiệp trong tương lai của các em được hình thành rõ nét. Trẻ em ở

tuổi thanh thiếu niên đã bộc lộ không chỉ những năng khiếu, mà còn cả những tài

năng.

Sự giao tiếp của thanh thiếu niên đã vượt ra khỏi phạm vi học tập, phạm vi nhà

trường. Trong quá trình mở rộng quan hệ giao tiếp, trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên có

nhiều hoạt động tập thể phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức, nhờ đó

kiến tạo nên những quan hệ mới trong cuộc sống hàng ngày. Thanh thiếu niên có

những nhu cầu cần được người lớn tôn trọng, sự can thiệp thô bạo, áp đặt đối với

các em có thể dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ. Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên bắt

16

đầu có sự ý thức, tự nhìn nhận về bản thân mình, nếu có sự định hướng đúng thì các

em có thể có sự tự giáo dục. Ở độ tuổi này trẻ đã chú ý đánh giá hành vi, thái độ của

người lớn và có thái độ phê phán, xem xét, bình luận về các hành vi, thái độ của

người lớn.

Trong khi cần sự giúp đỡ của cha mẹ hơn bao giờ hết, các em lại muốn tỏ ra

độc lập hoàn toàn. Điều này đôi khi gây lúng túng cho người lớn. Để củng cố lòng

tự trọng cho các em, người lớn cần tôn trọng ước muốn không phụ thuộc của trẻ

đồng thời cần cho các em biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữ an toàn cho

chúng. Sự trung thực và bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết

để giúp cho trẻ độc lập trong suy nghĩ, có quan hệ tốt với người khác, hình thành

trong con người trẻ một con người có cá tính, một người lao động thực thụ, một

người bố hay người mẹ trong tương lai.

Nếu trẻ không được dạy dỗ đúng mực, thiếu tự chủ, trẻ dễ có những hành

động lệch lạc với chính mình hay với người khác và đó thường là nguy cơ đưa trẻ

tới những hành vi sai trái như: trộm cắp, quấy phá, chán học, bỏ học, uống rượu,

đánh bạc, sử dụng ma tuý...

Đây cũng là giai đoạn trẻ đang phải tách ra độc lập khỏi gia đình, những người

thân một cách tự nhiên để chuẩn bị bước vào cuộc sống độc lập của một người

trưởng thành, thiết lập những quan hệ xã hội mới như quan hệ bạn bè khác giới.

Đây là giai đoạn rất khó khăn trong tâm lý của trẻ và để làm được điều này, trẻ

thường hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Những trẻ em có giai đoạn đầu đời thuận

lợi, có niềm tin vào các mối quan hệ xã hội thường giải quyết khó khăn của mình

bằng những cách tích cực như tìm đến thơ ca, văn nghệ, thể thao, thậm chí cả chính

trị và thường tìm thấy những người bạn cùng giới hoặc khác giới có cùng sở thích

để chia sẻ. Ngược lại, các em có khó khăn trong quan hệ xã hội thường khó khăn

trong tìm bạn để thay thế các mối quan hệ gia đình và thường có cách giải quyết

khó khăn của mình theo hướng tiêu cực.

- Đặc điểm về sự phát triển của trẻ em

17

Sự phát triển của trẻ em được hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến

toàn vẹn tổng thể sức mạnh thể chất, tinh thần và xã hội, cũng như các năng lực của

trẻ em có tính đến các lứa tuổi. Sự phát triển về thể chất biểu hiện sự tăng trưởng về

chiều cao, cân nặng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động.

Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử với những

người xung quanh, trong việc tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Do đó, nói đến

sự phát triển của trẻ em cũng là nói đến sự phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách

của trẻ em.

Sự phát triển nhân cách của trẻ em diễn ra theo thời gian, mang tính quy luật,

tính chu kỳ nhất định trong sự luân phiên các hình thái phản ánh các hoạt động chủ

đạo. Nhân cách của trẻ em chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động giao

lưu. Hoạt động cơ bản của trẻ em là vui chơi và học tập, thông qua học tập và vui

chơi trẻ em lĩnh hội được các giá trị văn hóa của loài người để biến thành những

thuộc tính, nhân cách của bản thân và nắm được các tri thức, kỹ năng, hình thành

thái độ và phát triển được những năng lực cần thiết để tham gia các loại lao động xã

hội, đặc biệt là lao động sản xuất.

- Đặc điểm về sự tham gia của trẻ em:

Trước hết, đó là việc trẻ em được tham gia ý kiến, bày tỏ suy nghĩ, nguyện

vọng của mình đối với người lớn trong những việc liên quan đến bản thân. Trẻ

muốn những ý kiến của mình được người lớn coi trọng, xem xét trong khi quyết

định những việc liên quan, nhằm đảm bảo những lợi ích tốt đẹp nhất cho các em.

Mặt khác đó còn là sự tham gia của trẻ em vào nhiều vấn đề của cuộc sống. Mức độ

tham gia tùy theo sự phát triển của trẻ em, như Bác Hồ đã căn dặn “tuổi nhỏ làm

việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Sự tham gia của các em được coi là nhóm quyền

cơ bản trong luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta (điều 8) cũng như

Công ước quốc tế về quyền trẻ em (điều 12,13,14,15,16).

Để thực hiện tốt quyền tham gia của trẻ em, các thành viên trong gia đình, nhà

trường và xã hội cần tạo điều kiện và khuyến khích trẻ em được biết về những vấn

đề có liên quan đến các em, khuyến khích và giúp đỡ các em có suy nghĩ độc lập,

18

phù hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình

đồng thời lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các em.

1.1.2.2 Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển của xã hội

*) Trẻ em trong gia đình:

Trẻ em là sự nối dài cuộc đời của cha mẹ, là thành phần quan trọng cấu thành

gia đình. Mỗi đứa trẻ được sinh ra là kết quả tình yêu của cha mẹ, là hạnh phúc

tương lai của gia đình, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là hai

trong ba quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Chính vì vậy trẻ em luôn là nguồn vui,

nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là người kế tục sự nghiệp của cha ông, dòng họ,

đồng thời là đối tượng cần được chăm sóc giáo dục đặc biệt của các thành viên, nhất

là từ các bậc cha mẹ. Phần lớn các bậc cha mẹ luôn coi con cái là niềm hy vọng lớn

lao, là tương lai của gia đình nếu chúng khôn lớn, khỏe mạnh, trưởng thành, giúp

ích được cho đời, hiếu thảo với ông bà cha mẹ và biết sống hòa thuận. Ngược lại, họ

thấy bất hạnh lớn nếu như con cái bị tật nguyền, và nhất là chúng hư đốn, bất hiếu,

ích kỷ, hại nước, hại dân. Họ sẵn sàng hy sinh cho con, dành tất cả những gì tốt nhất

có thể để cho con họ có một tương lai tốt đẹp hơn, bất kể cuộc sống hôn nhân của

bản thân có hạnh phúc hay không, với tinh thần “Cha mẹ nhận một đời bão tố để

cho con mãi được bình yên”. Nói như vậy để thấy rằng trong các tài sản của gia

đình, trẻ em luôn được coi là tài sản quý báu nhất, không gì có thể mua đổi được;

trong các tình cảm của mỗi bậc cha mẹ thì đây là tình cảm gần gũi sâu nặng nhất;

trong các trách nhiệm của gia đình thì đây là trách nhiệm trực tiếp nhất; trong các

hy vọng của cha mẹ thì đây là hy vọng lớn lao nhất.

- Trẻ em trong xã hội:

Trẻ em là lớp công dân đặc biệt, là lực lượng lao động và là chủ nhân tương

lai của đất nước. Giáo dục trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà còn là

trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội. Khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay- thế giới

ngày mai” đã và đang trở thành phương châm hành động của nhiều quốc gia trên

thế giới, trong đó có Việt nam.

19

Tổ chức Liên hiệp quốc ngay từ những ngày đầu mới thành lập đã quan tâm

đến trẻ em. Một trong những hành động của tổ chức này là thành lập quỹ nhi đồng

liên hiệp quốc( viết tắt là UNICEF) vào ngày 11/12/1946, ngày nay nó trở thành trụ

cột chính trong sự viện trợ quốc tế cho trẻ em. Vấn đề trẻ em chính thức được

khẳng định và thừa nhận trong Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1942.

Tuyên ngôn năm 1959 sửa đổi lần hai khẳng định: Quyền trẻ em- mối quan tâm của

toàn nhân loại và loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em những cái tốt đẹp nhất.

Trong thời gian chuẩn bị cho năm quốc tế trẻ em ,Ủy ban Liên hiệp quốc về

nhân quyền đã soạn thảo một Công ước về quyền trẻ em. Sau 10 năm sửa đổi và tu

chỉnh với sự đóng góp tích cực và hiệu quả của các nước, các tổ chức quốc tế, được

các cơ quan Liên hiệp quốc như Ủy ban về quyền con người và Hội đồng kinh tế-

xã hội chuẩn y, Công ước đã được Đại hội đồng Liện hiệp quốc chính thức thông

qua ngày 20/11/1989. Công ước có hiệu lực và trở thành luật quốc tế từ ngày

02/9/1990. Tính đến nay đã có gần 200 quốc gia thành viên gia nhập hoặc phê

chuẩn công ước, nhiều hơn bất kỳ hiệp ước nào khác về nhân quyền trong lịch sử.

Công ước không chỉ là những hiệp ước mới nhất mà còn được chấp nhận rộng rãi

nhất về nhân quyền, quy định những quyền mà trẻ em trên thế giới được hưởng. Đó

là quyền được sống, được phát triển, quyền được bảo vệ và quyền được tham gia.

Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn công ước

này (Ngày 20/02/1990) và trở thành quốc gia thành viên của công ước về quyền trẻ

em. Đảng và Nhà nước ta luôn chú ý quan tâm, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt nam từ rất

sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn đề này, trong đó đều

thống nhất khẳng định đây là trách nhiệm to lớn của Đảng, toàn dân, đồng thời thể

hiện tính ưu việt của xã hội ta. Điều này được thể hiện rõ trong quan niệm của Chủ

tịch Hồ Chí Minh: “Thiếu niên, nhi đồng là chủ tương lai của đất nước...chăm sóc

và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân... vì tương lai con em

chúng ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu

bé cho tốt”. Người nhắc nhở: “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành

là ngoan” và khẳng định: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân

20

tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là

nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”[35,tr.32-33].

Trên thực tế, từ khi đổi mới đến nay, công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em đã

đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rằng: Mọi

chủ trương phát triển kinh tế- xã hội trước hết phải hướng vào mục tiêu phát triển

con người nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho mọi người, trước

hết là trẻ em.

1.2. Nội dung của giáo dục gia đình đối với trẻ em

Giáo dục trẻ em trong gia đình là một công việc thường xuyên, mặc dù giáo

dục gia đình không có một chương trình, kế hoạch nhất định được soạn thảo như

giáo dục ở nhà trường nhưng nó lại có nội dung hết sức phong phú và đa dạng, gắn

liền với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Có thể nói cái gì cũng cần dạy cho trẻ, tuy

nhiên, không phải cùng một lúc ta có thể nhồi cho trẻ tất cả những điều trẻ cần biết

hoặc ta muốn chúng được biết. Vì vậy dạy cái gì, chúng ta phải chọn lọc và cần

thực hiện một cách khoa học với những kiến thức, kỹ năng phù hợp. Sau đây là một

số nội dung chủ yếu, cần thiết mà các gia đình cần chú trọng giáo dục trẻ:

1.2.1. Giáo dục đạo đức

Đạo đức là một phạm trù được nghiên cứu từ rất lâu. Nó không xa lạ với cuộc

sống con người nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất. Dưới góc độ

chuyên ngành, tôi cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm

những nguyên tắc chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức

có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã

hội. Nó là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt cá nhân của mỗi con

người, đồng thời nói lên thực trạng của xã hội.

Để đánh giá một người có đạo đức hay không, người ta thường căn cứ vào

hành vi của người đó. Hành vi đạo đức thường biểu hiện trong hành động đối nhân

xử thế, trong nếp sống, trong điệu bộ, cử chỉ, lời ăn, tiếng nói. Đạo đức của mỗi cá

nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong

21

xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình. Do đó, đạo đức có chức năng giáo

dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.

Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp

nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, giúp mỗi cá nhân tự

giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã

hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận

xét cũng tự điều chỉnh mình và trong cuộc sống, quan niệm và hành vi đạo đức của

người này lại có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác. Do đó

nếu ai cũng có ý thức rèn luyện đạo đức tốt sẽ làm cho chuẩn mực đạo đức chung

trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do tồn tại xã hội quyết định ý thức

xã hội và đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội nên đạo đức phản ánh nên thực

trạng của xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội sẽ được thể hiện trong

đạo đức xã hội và một xã hội bị tha hóa về đạo đức cũng sẽ nói lên những mâu

thuẫn đang tồn tại trong xã hội chưa được giải quyết.

Nhận thức rõ vai trò của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đạo

đức là gốc của người cách mạng.[38,tr.283]. Người cách mạng không có đạo đức

cũng như cây không có gốc, suối không có nguồn. Cây không có gốc thì cây héo,

suối không có nguồn thì suối cạn. Đòng thời, Người cũng bổ sung : Đạo đức phải

gắn với tài năng, có đạo đức mà không có tài chẳng khác gì ông bụt ngồi trong

chùa, có tài năng mà không có đạo đức sẽ gây hại cho xã hội, cho tập thể.

Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, các gia đình Việt Nam nói chung, Đảng

bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình nói riêng bao giờ cũng coi trọng việc dạy đạo đức

cho con cái ngay từ khi còn nhỏ, coi đó là cần thiết và thường xuyên, bởi họ sợ rằng

“ Bé khôn vin, cả gẫy cành”. Và với truyền thống đạo đức của dân tộc, các bậc cha

mẹ thường giáo dục trẻ biết giữ gìn những giá trị đạo đức bền vững, cốt cách dân

tộc, đó là lòng yêu nước thương người, nhân nghĩa, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình,

cần cù trong lao động, anh dũng trong chiến đấu, tiết kiệm trong chi tiêu. Không

những thế, họ còn dạy cho con em mình truyền thống tốt đẹp của gia đình, những nề

22

nếp gia phong thể hiện lòng kính trọng, sự hiếu thảo chăm sóc ông bà, cha mẹ,

những người lớn tuổi.

Đối với ông bà, cha mẹ khi tuổi già sức yếu, con cháu phải vui vẻ, niềm nở;

thường xuyên giúp đỡ ông bà, cha mẹ mọi mặt trong sinh hoạt; nói năng phải lễ

phép, không cáu gắt hay tỏ thái độ khinh mạn khi ông bà hoặc cha mẹ có nhầm lẫn,

sai sót; phải kính trọng và hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Trong đó, việc kính trọng

cha mẹ phải được đặt lên hàng đầu trong quan niệm về đạo hiếu, vì như Khổng Tử

nói: “Ngày nay, thấy ai có thể nuôi dưỡng được cha mẹ, thì nười ta gọi là có hiếu.

Nhưng đến như giống chó ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nếu

không có lòng hiếu kính cha mẹ trong khi nuôi dưỡng, thì nuôi cha mẹ và nuôi chó

ngựa có gì khác nhau” [58, tr.127]. Nếu biết ông bà, cha mẹ tuổi già trái tính, trái

nết thì con cháu phải biết cách góp ý, không chấp nhặt, coi thường, không dùng

những lời lẽ phỉ báng hay hạ nhục, phải luôn bình tĩnh để giãi bày sai, đúng, có tình,

có lý, không được “giận cá chém thớt”. Đồng thời các thành viên trong gia đình

phải dạy trẻ biết vâng lời và biết hoàn thiện công việc một cách vui vẻ khi cha mẹ

sai bảo; dù kinh tế gia đình giàu hay nghèo cũng phải chi tiêu hợp lý, tiết kiệm,

không vòi vĩnh, đua đòi hay mặc cảm, sống khép kín, oán trách người thân... Tuy

nhiên, để thuyết phục và dạy trẻ hiệu quả thì bản thân ông bà, cha mẹ phải là tấm

gương sống mẫu mực cho trẻ soi và học theo ngay từ khi còn nhỏ. Tùy vào đặc

điểm tâm sinh lý chung của từng độ tuổi và cá tính riêng của từng trẻ cũng như

truyền thống đạo đức của từng gia đình mà cha mẹ có cách thức dạy trẻ khác nhau,

có thể thông qua thực tiễn người thật, việc thật hoặc qua những câu chuyện, bài thơ

có tính giáo dục, những câu chuyện về tấm gương vượt gian khó trong cuộc đời của

chính ông bà, cha mẹ, từ đó tác động đến nhận thức, tình cảm và phát triển nhân

cách cho trẻ.

Đối với người thân cùng huyết thống với cha mẹ thì các thành viên trong gia

đình, đặc biệt là cha mẹ phải dạy trẻ phải biết tôn kính, yêu thương, đồng cảm và

chia sẻ với họ; không được thờ ơ hoặc tỏ tái độ khinh thường, ngạo mạn làm cho

tình cảm huyết thống ngày càng phai nhạt. Đồng thời phải giải thích cho trẻ hiểu

23

rằng họ là những người có thể thay mặt cha mẹ chăm sóc, dạy bảo các con như tục

ngữ có câu: “Mất cha còn chú, mất mẹ bú vú dì”.

Đối với anh chị em ruột của trẻ, cha mẹ phải giáo dục trẻ có ý thức trách

nhiệm đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, những đồng thời phải có ý thức tôn

trọng và bảo vệ quan hệ tôn ti trật tự trong gia đình thông qua cách ứng xử, xưng

hô. Ở vị trí làm anh, làm chị thì phải tỏ ra rộng rãi, nhường nhịn, bao dung theo đạo

lý “Làm chị ở cho lành, làm anh ở cho rộng”. Còn làm em thì phải tỏ lòng quý mến,

tôn trọng anh chị, nghe theo anh chị những điều hay, lẽ phải. Trong bất cứ trường

hợp nào, anh chị em trong nhà cũng không nên nói xấu, dè bỉu lẫn nhau; phải thẳng

thắn đấu tranh, góp ý vì tình cốt nhục “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

Hơn nữa, để tồn tại và phát triển trong xã hội mỗi người phải giao tiếp, ứng xử

với mọi người xung quanh. Quan hệ giao tiếp, ứng xử đó có đạt được ý muốn, có

thuyết phục được mọi người xung quanh hay không, điều đó phụ thuộc phần lớn

vào đức tính chân thực của mỗi cá nhân. Người có tính chân thực cũng chính là

người luôn luôn tôn trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để cho những

người xung quanh coi thường, khinh bỉ, đồng thời là người giữ được chữ tín, lấy

chữ tín làm gốc rễ cho các mối quan hệ, cho nên được mọi người tin tưởng. Cho

nên, đối với làng xóm láng giềng, với mọi người trong xã hội, gia đình phải có trách

nhiệm giáo dục, rèn luyện con cái có lòng nhân ái, tính khiêm tốn, tính chân thực,

nói đi đôi với làm,...vv. Đây là quan hệ xã hội phức tạp, nó phong phú hơn nhiều so

với quan hệ huyết thống. Vì vậy ngay từ tuổi nhỏ dù đang sống trong phạm vi gia

đình là chủ yếu, các bậc cha mẹ cũng cần phải giáo dục, rèn luyện cho trẻ những

hành vi đạo đức truyền thống tốt đẹp mang đậm bản sắc dân tộc. Phải giáo dục lòng

nhân ái cho trẻ, bởi con người ta sinh ra ở trên đời, trừ những người bị mất trí, còn

thì ai cũng biết cảm nhận sự sung sướng, hạnh phúc, vinh dự hay đau khổ, thấp hèn.

Và tất nhiên ai cũng có nguyện vọng được sung sướng, hạnh phúc, không ai muốn

đau khổ, đói rách, tủi nhục và thấp hèn. Nếu như có người phải chấp nhận sự rủi ro,

bất hạnh nào đó cũng chỉ vì “lực bất tòng tâm”. Vì vậy phải giáo dục lòng nhân ái-

giáo dục lòng yêu thương con người, yêu thương đồng loại cho trẻ. Người có lòng

24

nhân ái sẽ là người không có hành vi ích kỉ hại nhân”, sống hòa đồng, được mọi

người tin tưởng, quý trọng. Học thuyết “ nhân ái” của Khổng giáo cũng đã dạy một

cách tổng quát rằng: Bất luận điều gì mà làm cho mình đau thương, mất mát, thiệt

thòi...thì cũng không mong cho người khác gặp phải, còn những gì tốt đẹp mình

muốn đạt được thì cũng mong cho người khác đạt được.

Hình ảnh tuổi thơ đầu đời của trẻ có thể là phiên bản của bậc sinh thành.

Chúng ta gieo cho trẻ tính ích kỷ, hẹp hòi thì nó sẽ ích kỷ với chính chúng ta. Quy

luật “nhân- quả” vốn có từ muôn thuở và hiện hữu trong thực tế cuộc sống của các

gia đình. Chính vì vậy mà ông cha ta cũng đã đúc kết cho con cháu rất nhiều câu ca

dao, tục ngữ, thành ngữ về lòng nhân ái, trong đó có một câu rất ngắn gọn nhưng

bao hàm đầy đủ ý nghĩa nhân sinh của lòng nhân ái là “thương người như thể

thương thân” và cũng được cụ thể hóa bằng nhiều hành vi đạo đức trong đời sống

hành ngày là chia sẻ, giúp đỡ tùy tâm những cảnh đời rủi ro, hoạn nạn; ủng hộ lụt

bão, thiên tai; giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, theo tinh thần “Lá

lành đùm lá rách”.

Ngoài việc giáo dục lòng nhân ái, các gia đình phải giáo dục trẻ luôn luôn tỏ ra

khiêm tốn; biết xin lỗi khi mình lỡ lời hoặc va vấp làm phiền người khác, biết cảm

ơn người đã giúp mình dù là việc nhỏ; không được chủ quan, ngạo mạn tự cho mình

là hay, là biết hơn người khác, với tinh thần “Một lần khiêm tốn bằng bốn lần tự

kiêu” và “Cái gì biết thì nói là biết, cái gì không biết thì nói là không biết, thế mới

gọi là biết”. Đức tính khiêm tốn không những giúp cho con người ta học hỏi được

những điều hay ở nhiều người khác mà còn làm cho người ta có phong cách cư xử

chu đáo, cẩn thận, cung kính, không hấp tấp, vội vàng, không tranh ăn, tranh nói,

khoe khoang, phô trương năng lực của mình. Chính vì vậy mà họ càng được nhiều

người tin tưởng, mến phục.

1.2.2. Giáo dục trí tuệ

Gia đình là thiết chế giáo dục cơ sở, nơi đào tạo đầu tiên giúp trẻ tập đi từng

bước vào cuộc sống, đồng thời chuẩn bị cho trẻ có thể phát triển đầy đủ tiềm lực và

có vai trò hữu ích trong xã hội khi đến tuổi trưởng thành.

25

Giáo dục trẻ em ở gia đình tuy không có chương trình, kế hoạch rõ ràng,

không được soạn thảo như ở nhà trường, nhưng vẫn có nội dung rất phong phú. Và

người thầy đầu tiên của trẻ, không ai khác chính là cha mẹ trẻ. Họ dạy con những

tiếng bập bẹ đầu tiên, cung cấp vốn từ và luyện phát âm cho con qua những lời ru,

câu ca, câu chuyện, bài thơ, vè, ca dao, bài hát...Và họ cũng chính là người cho con

những ý niệm sơ khởi về những mối quan hệ giữa trẻ với các thành viên khác trong

gia đình: ai là cha, ai là mẹ, ai là ông bà nội, ai là ông bà ngoại, hay cô, dì, chú,

bác... và tại sao lại gọi vậy. Tất cả những câu hỏi mà cha mẹ đặt ra cho trẻ và khi trẻ

hỏi cha mẹ, nếu được cha mẹ hiểu, gợi ý và giải đáp kịp thời, đúng lúc, khoa học sẽ

làm động lực mạnh mẽ giúp trẻ ham học hỏi và không ngừng nâng cao tri thức, phát

triển tư duy và khơi dậy khả năng học tập tích cực, sáng tạo.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có không ít các bậc cha mẹ không nắm rõ khả

năng, trình độ và sự thay đổi tâm sinh lý của trẻ nên không có sự chuẩn bị hoặc

thiếu kinh nghiệm trong việc dạy bảo, phát triển tư duy cho trẻ. Họ chỉ lo làm ăn và

phát triển kinh tế mà phó mặc toàn bộ việc giáo dục cho nhà trường, không chịu học

hỏi để đồng hành cùng con vì tự ti, nghĩ mình ít học. Do đó, họ không phát huy

được sự ảnh hưởng to lớn, tích cực của mình trong việc giáo dục và phát triển trí tuệ

cho con

Ở mỗi lứa tuổi, mỗi trẻ cụ thể đòi hỏi cha mẹ phải có cách thức giáo dục khác

nhau. Tuy nhiên, không phải cứ nói đến phát triển tri thức, trí tuệ là phải bắt trẻ ngồi

vào bàn học hay đọc sách khoa học. Để trẻ có nhiều tri thức khoa học và thông

minh hơn, trên cơ sở những tri thức khoa học và kinh nghiệm cuộc sống cha mẹ có

thể truyền đạt kiến thức cho trẻ thông qua các trò chơi, đố vui, khéo léo truyền kiến

thức khi chơi cùng con, làm bạn cùng con và phát triển tư duy cho con. Có như vậy

mới biến việc tiếp nhận tri thức khoa học, kinh nghiệm sống của trẻ diễn ra một

cách thoải mái, nhẹ nhàng, vui vẻ mà vẫn đạt hiệu quả cao dưới dạng “Học mà chơi,

chơi mà học”, trẻ học được rất nhiều điều mà lại thấy thích chơi. Chơi là chương

trình học rất tốt, tất cả các hoạt động vui chơi mà trẻ tham gia sẽ xây dựng cho trẻ

khả năng nhận thức, tình cảm tốt, nhất là đối với trẻ mầm non. Việc tiếp xúc với các

26

khối gỗ, nhựa sẽ giúp trẻ nhận thức được không gian ba chiều, là nền tảng cho

những bài hình học, vật lý, kiến trúc và kỹ thuật. Nhiều trẻ mẫu giáo thích tưởng

tượng những vật hình khối có kích cỡ to, vừa và nhỏ như đó là bố, mẹ và con. Qua

đó, trẻ thể hiện sự hiểu biết về những mối tương quan kích cỡ trong thế giới thật.

Thậm chí việc viết nguệch ngoạc ra sân, ra giấy hoặc vẽ những bức tranh biểu

tượng con người, cảnh vật hoặc những thứ mà trẻ tưởng tượng ra cũng có ý nghĩa

rất lớn đối với trẻ, đó là bước đệm ban đầu để trẻ quan sát thế giới xung quanh, mặc

dù đối với nhiều người lớn những đường nét đó là vô nghĩa, không giống thực tế.

Hay khi chơi với ráp hình, trẻ phát triển khả năng suy luận về không gian, quan sát

những kiểu mẫu và chi tiết, thực tập sự phối hợp bằng tay và mắt...vv. Thậm chí,

ngay cả khi trẻ học cấp II, cha mẹ có thể củng cố kiến thức vật lý, hóa học,...qua

thực tiễn cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày ở gia đình trẻ.

Nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng tất cả các trẻ em đều thích

hoạt động trí tuệ. Nhu cầu nhận thức được nuôi dưỡng và nảy nở trên cơ sở những

xúc cảm và tình cảm tích cực. Vai trò của người lớn và của cha mẹ trong việc hình

thành cho con mình động cơ học tập đúng đắn sẽ trở thành một trong những yếu tố

tích cực nhất giúp trẻ thành công ngay từ khi mới ngồi trên ghế nhà trường. Bên

cạnh đó niềm tin, sự tôn trọng, sự động viên khích lệ và sự hiểu biết của cha mẹ đối

với con cái trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày là những công cụ

hữu ích giúp trẻ hình thành và phát triển trí thông minh.

Việc giáo dục trí tuệ cho trẻ trong gia đình chủ yếu tập trung vào việc trả lời

các câu hỏi của trẻ về các vấn đề trong thế giới tự nhiên, các vấn đề liên quan đến

học tập, đến quan hệ bạn bè, đến ứng xử xã hội... Cha mẹ luôn tìm mọi cách trả lời

các câu hỏi của con một cách nghiêm túc. Nếu không biết hoặc thấy mình tích lũy

chưa đủ lượng kiến thức cơ bản để trả lời câu hỏi của con thì phải tìm kiếm thông

tin, bổ sung kiến thức cho mình. Không được trả lời tùy tiện, trả lời trẻ cho qua

chuyện. Tuy nhiên các bậc phụ huynh cần nhận thức rõ khi giúp con học tập, tuyệt

đối không được làm thay con mà chỉ gợi ý cho trẻ tự làm bài và học bài.

27

Ngày nay, mặc dù có những tác động to lớn của các lớp mẫu giáo, nhà trẻ,

trường học và các đoàn thể nhưng gia đình vẫn giữ vị trí quan trọng trong việc giáo

dục và phát triển trí thông minh ở trẻ. Cha mẹ luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong

việc cung cấp và tạo điều kiện giúp trẻ lĩnh hội những tri thức khoa học cũng như

kinh nghiệm thực tế cuộc sống cả về số lượng và chất lượng. Gia đình là chiếc nôi

ươm trồng và nuôi dưỡng trí tuệ, tình cảm và nhân cách cho trẻ. Kết quả giáo dục

trẻ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ học vấn, vào khả năng kinh tế và quan niệm

chung của cha mẹ trẻ về thang giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống. Trẻ càng nhỏ thì

gia đình càng có ý nghĩa quan trọng trọng việc hình thành và phát triển nhân cách

nói chung và phát triển nhận thức nói riêng.

1.2.3. Giáo dục thể chất

Cuộc đời của mỗi người ai cũng phải tuân theo quy luật sinh- lão- bệnh - tử,

chúng ta chỉ có thể tác động làm cho quá trình đó nhanh lên hay chậm đi mà thôi.

Sự tác động đó theo chiều hướng tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào cha mẹ (Khi trẻ

còn nhỏ) và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ hiểu biết khoa học của người

đó về lối sống, ăn uống, vệ sinh, thể dục thể thao... Vậy khi trẻ còn nhỏ, các gia

đình cần phải tác động thế nào để trẻ có được sức khỏe tốt, có lối sống lành mạnh,

khoa học, giúp trẻ phát triển thể chất tốt nhất có thể?

Như chúng ta đã biết, để có được sức khỏe tốt và trường thọ là kết quả của

một quá trình biết gìn giữ, chăm sóc cơ thể một cách khoa học, hợp lý ngay từ tuổi

ấu thơ cho đến khi về già, chứ không phải một vài năm hay những khi ốm đau được

bồi bổ mà có. Do đó, ngay từ khi trẻ còn nhỏ cha mẹ phải nhắc nhở và quan tâm đến

sự ăn uống của trẻ, giáo dục trẻ biết bảo vệ sức khỏe, rèn cho trẻ thói quen vệ sinh

cá nhân, tắm giặt thường xuyên, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không

nên ăn quá no nhất là vào buổi tối, ăn uống phải lịch sự, không xô bồ, tạp nham,

nhất là khi trẻ còn nhỏ chưa ý thức tốt việc mình làm và khi trẻ ở cái tuổi “ăn không

biết no, chơi không biết chán”. Đồng thời chú ý tạo điều kiện cung cấp đủ dưỡng

chất cần thiết cho bộ não của trẻ hoạt động khỏe mạnh và hiệu quả, bổ sung các loại

thức ăn bổ dưỡng như hoa quả tươi, đạm động vật, thực vật... nhất là khi trẻ đang ôn

28

thi kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp. Muốn vậy, cha mẹ phải nắm được hàm lượng

dưỡng chất trong thực phẩm và nhu cầu dinh dưỡng của trẻ để chọn thức ăn phù

hợp với hệ tiêu hóa của trẻ, đảm bảo tỉ lệ hợp lí giữa đạm, mỡ và đường bột..., cần

thường xuyên đổi món ăn và chế biến món ăn theo nhiều cách để trẻ ăn ngon miệng

và thức ăn được hấp thu tốt hơn.

Tuy nhiên, để trẻ có một thể chất tốt, gia đình không chỉ giáo dục, giải thích và

rèn luyện cho trẻ thói quen vệ sinh, ăn uống khoa học, hợp lý mà còn phải động

viên, khuyến khích trẻ vận động như đi bộ, chạy bộ, đi xe đạp và tham gia các môn

thể thao phù hợp với sở thích và nhu cầu của cá nhân trẻ, tích cực cho trẻ tham gia

vui chơi giải trí, nghỉ ngơi, tham quan du lịch...theo điều kiện, hoàn cảnh của từng

gia đình. Đồng thời lôi cuốn trẻ vui vẻ tham gia lao động từ dễ đến khó hơn, phù

hợp với giới tính và độ tuổi “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình” để trẻ

được vận động nhiều hơn, rèn luyện sức khỏe tốt hơn.

1.2.4. Giáo dục thẩm mĩ

Xã hội càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái đẹp,

thể hiện cái đẹp của con người ngày càng cao và trở thành một nhu cầu quan trọng

trong đời sống hàng ngày. Nguồn gốc của cái đẹp là cuộc sống hiện thực xã hội với

tính đa dạng, phong phú của nó mà con người có thể bắt gặp ở khắp mọi nơi. Con

người càng yêu quý cái đẹp bao nhiêu thì càng từ bỏ và căm ghét cái xấu bấy nhiêu,

nhờ vậy mà con người dần trở nên thanh cao và có văn hóa.

Con người tiếp thu cái đẹp đầu tiên không ở đâu xa mà chính là ở gia đình.

Vai trò của gia đình, của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục

thẩm mĩ cho trẻ. Những ấn tượng đầu tiên về cái đẹp của màu sắc (xanh , đỏ,

vàng...), của âm thanh trong tiếng ru của mẹ, những cảm xúc của sự âu yếm, vuốt ve

đầy tình thương đã được gia đình truyền đạt từ những năm tháng tuổi thơ.

Khoa học đã chứng minh trẻ 3- 6 tuổi đã hình thành tình cảm thẩm mĩ. Trẻ

biết rung cảm, xao xuyến trước cái đẹp như: bông hoa đẹp, tiếng chim hót, bộ quần

áo đẹp,... Do đó, tùy theo sở thích, trình độ hiểu biết và điều kiện, hoàn cảnh gia

đình mà các bậc cha mẹ có nhiều cách khác nhau để phát triển tính thẩm mĩ cho con

29

thông qua những hành động cụ thể như treo các bức tranh đẹp, trồng các khóm hoa

đẹp, chậu cảnh đẹp, trang trí phòng ngủ, phòng ăn, góc học tập, nơi tiếp khách hài

hòa. Các cảnh trí này tác động đến các giác quan của trẻ, tạo ra sự cân bằng các hoạt

động sinh lí thần kinh cho trẻ, đồng thời giúp các bậc cha mẹ thư giãn sau những

giờ làm việc căng thẳng. Không những thế, cái đẹp thường đem lại cho mọi người

những cảm xúc tích cực, ngạc nhiên, xao xuyến, kích thích, hoạt hóa các quá trình

thần kinh, thúc đẩy não làm việc, thần kinh hưng phấn, tạo ra sinh lực làm việc, lạc

quan, yêu đời hơn.

Ngoài những tác động trên, gia đình còn dạy cho trẻ học ăn, học nói, có những

lời nói đẹp, hành vi đẹp, nghe và cảm nhận những bài hát hay, bản nhạc vui tươi,

được tiếp xúc với nhiều tác phẩm nghệ thuật,...dần hình thành tâm hồn nghệ thuật,

trẻ thích hát, thích vẽ, thích sáng tạo nghệ thuật và có nhiều hành động đẹp. Nhất là

khi xu hướng quốc tế hóa đã và đang mở ra khả năng giao lưu văn hóa giữa các

quốc gia, gia đình phải có những định hướng nhất định cho con mình trong việc

đón nhận giá trị văn hóa mới sao cho phù hợp, đồng thời dạy trẻ biết trân trọng

những giá trị của văn hóa truyền thống tốt đẹp mà các thế hệ cha ông để lại.

Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ diễn ra thường xuyên, liên tục trong gia đình và nó

sẽ đạt hiệu quả cao nếu các bậc cha mẹ biết làm bạn với con và vận dụng linh hoạt,

khéo léo và thoải mái, vui vẻ, không để trẻ có cảm giác nặng nề như đang bị ép

buộc phải “nhồi nhét” kiến thức. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ trong gia đình còn được

định hướng thông qua việc trang trí trong gia đình cho trẻ. Giao cho trẻ trang trí nhà

cửa trong những ngày lễ, ngày tết hay khi nhà sắp có khách. Mỗi sáng, trước khi

đưa trẻ đến trường mầm non hãy dành thời gian cùng trẻ làm đẹp, chọn màu sắc

quần áo theo thời tiết, chải đầu tóc gọn gàng, chọn giày dép phù hợp,... cho trẻ soi

gương và khen ngợi khi thấy trẻ mặc đẹp. Ngay cả khi xem phim, xem các chương

trình trên ti vi, internet,vv... cha mẹ cũng nên có nhận xét đẹp- xấu về hành vi, lời

nói, trang phục... như là một sự hướng dẫn nhận thức về vẻ đẹp thẩm mĩ cho trẻ.

Bồi dưỡng những xúc cảm thẩm mĩ từ gia đình cho trẻ, để trẻ lớn lên không

chỉ biết bảo vệ, gìn giữ cái đẹp mà còn có nhiều hành động đẹp phù hợp với khả

30

năng như trồng hoa, trồng cây cảnh, biết sắp xếp đồ đạc, sách vở gọn gàng, kê bàn

ghế và trang trí, sắp xếp không gian các phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ,... hài

hòa, cân đối. Từ đó trẻ thấy yêu cái đẹp, sống đẹp và thích tạo ra nhiều sản phẩm

đẹp cho mình và cho xã hội.

1.3. Những yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em trong các gia đình ở

Thái Bình hiện nay.

1.3.1. Vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội và con ngƣời Thái Bình. Thái Bình- miền đất hạ lưu sông Hồng, diện tích tự nhiên 1533km2, dân số

hơn 1,9 triệu người [55,tr1], mật độ dân số trung bình là 1209 người/km², phân bố

không đồng đều giữa các đơn vị hành chính, mật độ cao nhất tại thành phố Thái

Bình đạt 3961 người/km² và thấp nhất là huyện Tiền Hải đạt 945 người/km² [4,tr1].

Đây là mảnh đất luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi

và khó khăn. Đó là sự hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang vùng đất

mới vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song đó cũng là miền đất

hoang sơ với muôn vàn nguy hiểm, thử thách như dông bão, lụt lội, nắng hạn, đầm

lầy,...Trải qua quá trình trăn trở, vật lộn, đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc

dã hoành hành,... người dân Thái Bình đã sớm hình thành những phẩm chất tốt đẹp

với nhiều truyền thống đáng tự hào: cần cù, dũng cảm trong lao động sản xuất,

chinh phục, cải tạo thiên nhiên, giàu kinh nghiệm thâm canh; yêu thể thao; ham học

hỏi; có nền văn hóa, nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc mà vẫn có sắc thái riêng,

độc đáo; có ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng, có truyền thống hiếu học

đặc biệt là truyền thống bất khuất, kiên cường, yêu nước, chống ngoại xâm và đấu

tranh với các thế lực phản động.

Lợi thế so sánh của Thái Bình là có cảng biển quốc gia Diêm Điền, tàu 400 –

1000 tấn ra vào được, cùng hệ thống sông ngòi gắn với quốc lộ 10, 39A, 218 và các

trục đường chính trong tỉnh tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ tương đối

thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế, văn hoá trong vùng đồng bằng sông

Hồng, cả nước, các tỉnh phía Nam của Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông

Nam Á. Thái Bình cũng gần các trung tâm kinh tế lớn trong vùng tam giác tăng

31

trưởng kinh tế Hải Phòng - Quảng Ninh – Hà Nội, đó là thị trường lớn về lao động,

sản phẩm, lương thực, thực phẩm và hợp tác phát triển. Đồng thời, Thái Bình còn

có nguồn khí đốt, nước khoáng có trữ lượng lớn, khả năng khai hoang lấn biển mở

rộng diện tích ở hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy là những tiềm năng lớn trong

nuôi trồng và khai thác hải sản. Đây là những điều kiện thuận lợi cho các gia đình ở

Thái Bình phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế, học hỏi kinh nghiệm trong mọi

lĩnh vực với các tỉnh trong nước và quốc tế.

Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng

ven biển, có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, đặc biệt là nguồn tài

nguyên nhân văn. Hiện nay, loại hình du lịch văn hóa đang là thế mạnh của du lịch

tỉnh nhà, với trên 2000 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó gần 100 di tích được xếp

hạng Di tích cấp quốc gia, gần 400 di tích cấp tỉnh, là điều kiện tốt để xây dựng

những sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, thực tế cho

thấy, du lịch nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng ở đây còn đơn điệu, nghèo

nàn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa mang tính đặc trưng của địa

phương và thiếu sức cạnh tranh trên thị trường so với các tỉnh lân cận, dẫn tới việc

chưa thu hút được khách du lịch trong và ngoài tỉnh đến Thái Bình.

Hiện nay Thái Bình có hơn 1.400 công trình kiến trúc cổ đủ loại lớn nhỏ khác

nhau như đình, đền, chùa, miếu, điện, phủ, từ đường… Do thời gian và chiến tranh

giặc dã, mặc dù trong số đó đã mất mát, thiếu vắng song số còn lại cũng phần nào

minh chứng được những di sản nghệ thuật kiến trúc đồ sộ đáng tự hào, có một

không hai trên cả nước điển hình như di tích chùa Keo (Vũ Thư), đình An Cố (Thái

Thụy), chùa Ký Con (Đông Hưng), đình Duyên Lãng (Hưng Hà)…

Hầu như làng nào ở Thái Bình cũng có hội lễ, hội làng với nhiều nghi thức,

nội dung, phạm vi khác nhau. Lễ hội Thái Bình phong phú nhưng nội dung tập

trung phản ánh cơ bản việc tôn vinh những anh hùng dân tộc, những người có công

với dân, với nước, tái hiện cuộc sống nông nghiệp, tín ngưỡng và cuối cùng là thi

tài, giải trí… Nhiều lễ hội có nội dung vô cùng đặc sắc như hội chùa Keo có trò bơi

chải cạn, thổi cơm thi, bắt vịt; hội làng Quang Lung (Thụy Hải, Thái Thụy) có tổ

32

chức múa “ông Đùng, bà Đà”, hội đền Hét (Thái Thượng, Thái Thụy) có trò thi vật

cầu; hội Sáo Đền (Song An, Vũ Thư) thi thả diều… Đặc biệt, hội làng tại Thái Bình

còn là nơi tồn tại, củng cố và lưu giữ rất nhiều hình thức diễn xướng văn nghệ dân

gian và múa hát dân gian độc đáo, đậm đà sắc thái của cư dân nông nghiệp vùng

ven biển đồng bằng Bắc Bộ như múa giáo cờ, giáo quạt ở hội làng Thượng Liệt

(Đông Tân, Đông Hưng), múa Bát dật và múa Kéo chữ (hội làng An Khê, Quỳnh

Phụ), múa Dội chai ở Phương Trạch (Tiền Hải)… Đáng quan tâm nhất là nghệ thuật

hát chèo với chiếu chèo sân đình được sử dụng ở hầu hết các hội làng xưa ở Thái

Bình. Ngoài những tích trò dân gian, những vở chèo truyền thống, việc biểu diễn

chèo còn phục vụ tích cực cho việc hát thờ, hát cửa đình của nhiều hội làng. Cùng

với hát chèo, múa rối nước, một loại hình sân khấu độc đáo, con đẻ của vùng sông

nước cũng xuất hiện, phát triển ở 7 phường hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh. Bằng

sức cuốn hút của mình, hội làng là môi trường văn hóa trực tiếp, quan trọng để tiềm

năng văn hóa văn nghệ dân gian của các làng xã được lưu giữ, phát triển bất chấp sự

biến đổi không ngừng của thời gian. Ngược lại, nghệ thuật dân gian cùng các trò

chơi, trò diễn đã làm nên những nét riêng, có sức hấp dẫn mãnh liệt, đậm đà bản sắc

truyền thống cho hội làng, hội lễ của Thái Bình. Sản sinh từ miền đất giàu bản lĩnh,

ý chí, trưởng thành đắm mình trong môi trường nhiều chất văn hóa lành mạnh, tiếp

thu có sáng tạo truyền thống của ông cha, con người Thái Bình qua nhiều thế hệ đã

kịp trau dồi hiểu biết, hòa nhập và vươn tới đỉnh cao của tri thức đương thời, đóng

góp cho đất nước không ít nhân tài trên nhiều lĩnh vực hoạt động.

Mặc dù là một vùng đất hẻo lánh, nằm xa các trung tâm văn hóa cổ, bốn bề

sông nước bao bọc, song người dân Thái Bình sớm thể hiện tinh thần hiếu học, ham

hiểu biết. Ngay dưới thời Lý (thế kỷ XI), nhiều vị quốc sư nổi tiếng uyên thâm đã

về mở trường dạy học, xây dựng nên một trung tâm Phật giáo ở đất Thái Bình. Chỉ

riêng thời Nguyễn hơn 100 năm tồn tại các khoa thi Nho giáo, Thái Bình đã có 15

người đỗ đại khoa và gần 200 người đỗ cử nhân. Trải qua 844 năm dưới chế độ

khoa cử của các triều đại phong kiến (1075 - 1919), trong tổng số 2.898 trí thức đại

khoa của Việt Nam thì Thái Bình chiếm tới 111 vị. Tiêu biểu cho đội ngũ nho sĩ, trí

33

thức của Thái Bình là tri thức uyên bác, bản lĩnh văn hóa trác việt của Nhà bác học

Lê Quý Đôn. Đời nối đời, tinh thần hiếu học trên mảnh đất trẻ nơi đầu sóng ngọn

gió vẫn được các thế hệ tiếp bước cho đến ngày nay. Năm học 2013- 2014 vừa qua

Thái Bình đã có 568 em đỗ đại học đợt I đạt từ 24 điểm trở lên, trong đó có 4 em đỗ

thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học năm học 2014 là em Hồ Sỹ Duy, Lê

Thanh Hà, Nguyễn Thị Xuyến, Nguyễn Thị Huyền. Trong kỳ thi olimpic toán quốc

tế tại Cộng hòa Nam Phi, mảnh đất địa linh nhân kiệt Thái Bình vinh dự có 2 em đạt

huy chương vàng là em Trần Hồng Quân và em Nguyễn Thế Hoàn. Niềm tự hào sâu

sắc về lớp lớp nhân tài, về những danh nhân quê hương cùng những thành tố văn

hóa đượm chất truyền thống, kết tụ lâu đời nơi làng xã là mối dây tình cảm tha thiết

gắn chặt con người Thái Bình với quê hương. Nó không ngừng được củng cố, bồi

đắp, trở thành ý chí, sức mạnh quật cường của cộng đồng cư dân đang quần tụ trên

đất Thái Bình trong các cuộc đấu tranh nhằm mở mang, xây dựng cũng như bảo vệ,

giữ gìn trọn vẹn những thành quả mà ông cha từ thuở khai thiên lập ấp đã tạo dựng

lên.

Những bước phát triển về nông nghiệp, ngư nghiệp, sự hình thành và phát

triển các làng nghề thủ công nổi tiếng, sự giao lưu về thương mại đường dài qua

đường biển, đường sông đã khiến người Thái Bình có mặt ở hầu hết các miền trong

nước. Việc tiếp xúc và chung sống với đồng bào ở nhiều tỉnh khác cũng là một

trong những điều kiện tạo cho người Thái Bình có sự tinh nhạy, dễ hấp thụ cái hay,

cái mới ở nhiều lĩnh vực đời sống.

Mặt khác, điều kiện khí hậu Thái Bình nhờ có thiên nhiên ưu đãi nên rất thuận

lợi cho thâm canh, xen canh, phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với cây

lúa. Lúa luôn giữ địa vị ưu thế trong các loại cây lương thực. Diện tích lúa năm

2011 là 165,7 nghìn ha, sản lượng đạt 1.091,3 nghìn tấn [ 4,tr 6]. Lúa được phân bố

hầu hết ở các huyện trong tỉnh. Ngoài lúa, Thái Bình còn trồng các loại cây màu

lương thực. Diện tích trồng màu tăng lên qua các năm. Cây màu chính gồm cây ngô

và khoai lang. Cây công nghiệp có đay, cói, dâu tằm, mía, lạc, thuốc lào.. Tuy

nhiên, nhược điểm khí hậu ở Thái Bình là độ ẩm cao nên việc bảo quản máy móc,

34

thực phẩm gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh dễ lây lan và phát triển ở diện rộng.

Trong mùa mưa thường có bão, mùa khô thì có những ngày lạnh giá, sương muối

làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gia súc và cây trồng.

Về thủy văn, Thái Bình là tỉnh bốn bề có sông nước bao quanh, một mặt là

biển, ba mặt khác là sông. Giữa tỉnh có sông Trà Lý (dài 67km). Những con sông

lớn này được nối liền với một hệ thống sông đào, kênh mương dày đặc, cộng với

ảnh hưởng của thủy triều đã tạo cho Thái Bình có nguồn nước vô cùng phong phú,

cung cấp đầy đủ nước sinh hoạt cho các gia đình và cho các hoạt động sản xuất

nông nghiệp, công nghiệp. Các sông trên đổ ra biển qua 5 cửa: Thái Bình, Diêm Hộ,

Trà Lý, Lân và Ba Lạt có vai trò bồi đắp phù sa, tạo nên thế mạnh lấn biển của Thái

Bình. Bên cạnh đó, khi các sông đổ ra biển chịu ảnh hưởng của thủy triều. Vào mùa

hè, mực nước tăng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao. Mùa đông lưu

lượng giảm xuống nhiều, nước mặn từ các cửa sông lớn có thể chuyển sâu vào đất

liền thành những vùng nước lợ, rất thuận tiện cho việc đánh bắt nuôi trồng thủy sản.

Song, điều này cũng gây không ít khó khăn cho địa phương hằng năm phải đầu tư

cải tạo hàng trăm ha đất nhiễm măn và xây dựng cải tạo cơ sở hạ tầng, đê, kè, thủy

lợi, mương máng tưới tiêu và phòng chống thiên tai để đáp ứng yêu cầu của sản

xuất và đời sống nhân dân.

Do ảnh hưởng của địa hình và hệ thống sông, biển, ở Thái Bình có nhiều

nhóm đất khác nhau như đất mặn, đất cát ven biển, đất chua phèn, đất phù sa, đất

bạc màu và đất xói mòn. Hệ thống sinh vật của Thái Bình không nhiều, chủ yếu là

rừng ngập mặn ven biển, phân bố ở hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy với các loại

cây chính là sú, vẹt… Các thảm thực vật tự nhiên khác hầu như không có mà thay

vào đó là các hệ sinh thái đồng ruộng với các loại cây lương thực, thực phẩm, cây

ăn quả… Giới động vật trên cạn vì vậy cũng có rất ít

Các mặt hàng nông thủy sản như thịt lợn, tôm đông lạnh., gạo là một trong

những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của tỉnh Thái Bình. Năm 2011, các mặt

hàng này đã mang lại cho Thái Bình 12.855 nghìn USD. Tuy nhiên, do năng lực

quản lý, kinh doanh hạn chế nên các sản phẩm thường bị chèn ép về giá, bị các tư

35

thương chiếm dụng vốn nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Thị trường tiêu thụ bấp

bênh “được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa” nên người lao động ở đây

không yên tâm và chưa mạnh dạn đầu tư lớn cho sản xuất.

Mặc dù vậy, sản xuất thủy sản ở Thái Bình những năm qua, bước đầu đã tạo ra

vùng sản xuất hang hóa,làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến

bộ, góp phần giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận nông dân.

Quá trình thực hiện đã huy động được các nguồn lực,làm thay đổi tập quán sản xuất

nhỏ trong nông nghiệp- nông thôn, tạo điều kiện để nông dân tiếp cận với các

phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,

bên cạnh đó còn bộc lộ những khó khăn như quy mô sản xuất của hộ còn nhỏ, công

trình hạ tầng chưa được xây dựng đồng bộ; việc chuyển mục đích sử dụng đất, cấp

giấy chứng nhận quền sử dụng đất, chứng nhận trang trại cho hộ nông dân còn hạn

chế.

Từ thực trạng trên cho thấy: Thái Bình là tỉnh nằm trong vùng sản xuất lương

thực, thực phẩm lớn của vùng đồng bằng sông Hồng. Điều kiện tự nhiên sinh thái

của tỉnh tạo nhiều thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần nâng

cao chất lượng cuộc sống của các gia đình ở Thái Bình. Hơn nữa Thái Bình còn là

một tỉnh có truyền thống văn hóa với nhiều lễ hội đặc sắc. Con người Thái Bình nói

chung sớm có những phẩm chất tốt đẹp với nhiều thành tích, truyền thống đáng tự

hào. Đây cũng là những thuận lợi lớn trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc và

đầu tư giáo dục đức- trí -thể- mỹ cho trẻ trong các gia đình ở Thái Bình hiện nay.

Song, vì là một tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp thuần nông cho nên phần lớn

người dân Thái Bình còn mang đậm đặc điểm, tư tưởng của người nông dân nói

chung. Hơn nữa, thu nhập của người dân nơi đây còn thấp và bấp bênh, nhất là

những xã không có việc làm phụ, thu nhập chính chỉ trông chờ vào việc trồng trọt

và chăn nuôi nên khi công nghiệp hóa nông nhiệp nông thôn, thực hiện đồng bộ cơ

giới hóa, tự động hóa các khâu sản xuất thì nhiều cha mẹ trẻ đang là lực lượng lao

động chính trong gia đình đã phải lên các thành phố tìm việc làm có thu nhập ổn

định. Cho nên, trong các gia đình ở nông thôn hiện nay chủ yếu còn người già và trẻ

36

em. Nhiều ông bà của trẻ có con đi làm ăn xa, nhưng vì còn trong tuổi lao động,

kinh tế gia đình còn thiếu thốn nên vừa nuôi dạy cháu, vừa làm thuê tăng thu nhập

cho gia đình. Một số gia đình chỉ có một người lớn ở nhà với trẻ, còn lại đi làm ăn

xa hoặc lên các thành phố phát triển hơn tìm việc làm: giúp việc, công nhân,… Do

đó, yếu tố kinh tế đã phần nào làm cho việc giáo dục trẻ trong các gia đình ở Thái

Bình hiện nay có phần lỏng lẻo, thiếu sự quan tâm thích đáng của cha mẹ.

1.3.2. Tác động giáo dục của các thành viên trong gia đình tới trẻ em ở

Thái Bình

Giáo dục gia đình là một quá trình liên tục và lâu dài. Nó có đặc trưng riêng

xuất phát từ tình cảm và thông qua tình cảm, thái độ, việc làm, hành vi ứng xử của

người lớn mà trẻ học tập cách sống, cách nghĩ. Giáo dục gia đình có phương pháp

đặc biệt là thuyết phục, giảng giải, cùng trao đổi thân tình và làm gương, trên cơ sở

tình yêu của những người ruột thịt. Những thông tin mà người lớn truyền thụ cho trẻ

trong gia đình được thực hiện một cách tự nhiên, thân tình, giản đơn và thường

được nhắc lại bằng nhiều cách khác nhau. Một thông tin có khi được thể hiện qua

lời nói, có khi được thể hiện qua những hành vi ứng xử, cũng có khi bằng thái độ và

trẻ được học tập, trưởng thành theo hình thức thẩm thấu dần dần. Hơn nữa, giáo dục

gia đình còn có nội dung phong phú và đa dạng, bởi vì môi trường gia đình là một

môi trường không thuần nhất (Các thành viên trong gia đình thường khác nhau về

địa vị xã hội, vai trò, kinh nghiệm sống, tuổi tác, giới tính, học vấn, nghề nghiệp,...)

nhưng về cơ bản giáo dục gia đình sẽ giúp trẻ tiếp nhận những kinh nghiệm, những

chuẩn mực xã hội chủ yếu bằng con đường tình cảm sau khi đã qua “ bộ lọc” của

các thành viên trong gia đình.

Với tiền đề vật chất là cơ thể sinh học phát triển tới mức cao nhất của giới hữu

sinh, thì sự tác động biện chứng giữa môi trường giáo dục gia đình đối với trẻ đóng

vai trò quyết định hàng đầu trong suốt quá trình hình thành và biến đổi nhân cách

trẻ. Thực tế cho thấy mỗi một con người lúc sinh ra như một tờ giấy trắng. Những

nét đầu tiên viết lên trang giấy có thể sẽ quyết định hoặc ảnh hưởng suốt cả cuộc

đời mỗi người. Và môi trường đầu tiên mà mỗi đứa trẻ tiếp xúc chính là gia đình.

37

Gia đình sẽ là những ảnh hưởng đầu tiên, quan trọng nhất đến việc hình thành tính

cách, nhân cách và định hướng sống của mỗi người. Bởi vậy, cách giáo dục và môi

trường sống trong mỗi gia đình đóng vai trò quyết định đến việc đứa trẻ lớn lên như

thế nào và sống ra sao.

Tục ngữ có câu “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy”, đây là một quan điểm biện chứng,

phản ánh ảnh hưởng có tính chất di truyền không chỉ về mặt sinh học mà cả về mặt

xã hội trong mỗi gia đình. Trẻ em trong mỗi gia đình, bao giờ cũng chịu những ảnh

hưởng về tính cách của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người trực

tiếp nuôi dưỡng trẻ từ nhỏ như ông bà, cha mẹ, anh chị ruột của trẻ. Trong đó, trước

hết phải kể đến sự tác động có tính quyết định của cha mẹ trẻ.

1.3.2.1. Tác động giáo dục của cha mẹ đối với các con

Đối với xã hội nào cũng thế, đặc biệt là trong xã hội phát triển, việc nuôi dạy

các con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Đó là quá trình lâu dài,

bền bỉ, đòi hỏi cha mẹ trẻ phải có sự đồng thuận trong giáo dục.

Cha mẹ là những người viết những dòng đầu tiên lên tâm hồn trong sáng của

trẻ. Đó là những dòng chữ nắn nót, trân trọng hay những vết bôi bẩn, nghệch ngoạc,

đầy bất cẩn và lỗi chính tả làm hoen ố tờ giấy trắng là trách nhiệm của cha mẹ. Cha

mẹ là người sinh thành ra trẻ, biết được từng tính cách của con mình, hiểu được

những điểm mạnh cần phát huy và những hạn chế cần uốn nắn kịp thời giữa con trai

và con gái, trẻ nhỏ và trẻ lớn. Cha mẹ có thể lựa chọn nhiều phương pháp giáo dục

khác nhau như khuyên bảo, thuyết phục, nêu gương hoặc khen thưởng; kỷ luật,

trách phạt; rèn luyện thói quen cho trẻ.

Khoa học đã chứng minh rằng ở giai đoạn đầu trẻ tiếp thu ngôn ngữ, văn hóa,

kinh nghiệm xã hội không phải bằng lý trí và tư duy khái niệm mà đơn giản bằng cử

chỉ bắt chước thông qua âm thanh, tình cảm của những người xung quanh, mà đầu

tiên và quan trọng nhất là mẹ cha. Nếu cha mẹ chửi thề, nói tục hay cãi lộn thì trẻ sẽ

học theo và chứng tỏ mình không thua kém gì! Nếu cha mẹ giận dữ bạt tai hay phạt

đòn trẻ vì những hành vi sai trái này thì trẻ cũng học cách biểu hiện sự bất đồng của

mình bằng thái độ giận dữ và bạo lực đối với đồ chơi của trẻ, với đồ vật, với vật

38

nuôi hay với những trẻ khác ở trường. Còn nếu trẻ được quan tâm, được nghe

những lời hiền hòa, lịch sự thì như một tiếng vang, trẻ cũng biểu hiện thái độ quan

tâm, giúp đỡ và dịu dàng, lịch sự với những người khác hay với đồ chơi của trẻ.

Khi còn nhỏ, trẻ em là một sinh thể còn non nớt, phụ thuộc hoàn toàn vào sự

bảo vệ, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, trong đó trước hết phải kể đến công lao của

người mẹ. Người mẹ chính là cô giáo đầu tiên của trẻ, bằng những lời ru, cử chỉ âu

yếm, ân cần, đức tính cần cù, kiên nhẫn, chịu thương, chịu khó...đã gây dựng cho

trẻ tình yêu thương con người, cảnh vật, tình yêu quê hương đất nước, yêu lao

động.... Tất cả những điều đó sẽ đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của trẻ

sau này.

Tuy nhiên, để giúp trẻ phát triển hài hòa thì ngoài tình yêu thương, giáo dục

của người mẹ còn cần có sự dẫn dắt, chỉ bảo của người cha. Cùng với người mẹ,

người cha sẽ giúp con mình hình thành nhân cách và những giá trị tinh thần của gia

đình, của dòng họ và thân tộc. Quá trình đó diễn ra từ khi đứa trẻ mới sinh cho đến

khi đã có gia đình. Nếu như trong giai đoạn tuổi thơ, nhân cách của trẻ được hình

thành chủ yếu nhờ sự tác động tình cảm của người mẹ thì ở giai đoạn sau, cùng với

sự tác động của người mẹ, người cha mang lại cho trẻ những thức tỉnh mới của nhân

cách là lý trí, cách tư duy, tính quyết đoán... Tuy nhiên ở giai đoạn này, nhân cách

của trẻ hình thành ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn nên cần có sự phối hợp chặt

chẽ giữa cha và mẹ. Người con ngoan hay không thường diễn ra ở giai đoạn này.

Cha mẹ phải thống nhất với nhau về cách thức dạy con và phải chứng minh cho con

thấy qua thực tiễn cuộc sống của cha mẹ, thông qua sự gương mẫu trong lời ăn,

tiếng nói, cử chỉ, hành động, cách xử sự với mọi người trong gia đình và ngoài xã

hội.

1.3.2.2. Tác động giáo dục của ông bà đối với các cháu

Ở nước ta hiện nay, trong đó có tỉnh Thái Bình nói riêng, bên cạnh những gia

đình hạt nhân đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ thì những gia đình truyền

thống (Gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống) vẫn còn được duy trì. Nhưng dù gia

đình truyền thống hay gia đình hạt nhân thì ông bà cũng có một vị trí đặc biệt về

39

nhiều mặt và có ảnh hưởng rất lớn đối với các cháu. Hình ảnh của ông bà đối với

các cháu rất gần gũi thấm đượm tình cảm, ông bà thường chỉ bảo những điều hay,

dạy dỗ các cháu sống đúng lẽ phải, kính trên nhường dưới, lễ phép với mọi người,

hòa nhã với bạn bè. Thậm chí, ông bà còn can thiệp, giải quyết các mối bất hòa có

thể xảy ra trong gia đình trẻ, hay giữa các cháu, ngăn chặn và phê phán mạnh mẽ

những suy nghĩ, hành vi trái với đạo lí ở trong gia đình và ngoài xã hội làm tổn hại

đến danh dự, truyền thống gia phong, gia giáo của gia tộc, nhắc nhở các cháu nhớ

đến những ngày lễ tết, giỗ chạp đối với tổ tiên... Khi cháu có khuyết điểm, ông bà

ân cần chỉ bảo giúp cháu nhìn ra cái sai mà sửa chữa, khắc phục; đồng thời động

viên, khuyến khích trẻ có nhiều hành động đẹp, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Cùng với cha mẹ, ông bà là người sẵn sàng chuyển giao lại cho các cháu

những kinh nghiệm quý báu đã được trải nghiệm suốt cả cuộc đời về nhiều mặt,

nhất là việc đối nhân, xử thế. Với vai trò là người cao tuổi, giàu kinh nghiệm sống

ông bà còn chia sẻ trách nhiệm cùng với cha mẹ trẻ trong việc chăm lo gây dựng

tiền đồ, sự nghiệp, hạnh phúc riêng tư cho các thế hệ con cháu, bởi truyền thống và

quy tắc sống của người Việt đã thành nếp nghĩ, tuổi trẻ trưởng thành thì lo lao động,

kiến thiết và xây dựng gia đình, sinh đẻ, nuôi dạy con cái nên người; khi về già, sức

lao động giảm sút không còn xốc vác được những công việc nặng nhọc, trí tuệ

không còn năng động, hoạt bát theo yêu cầu của xã hội, kinh tế cũng ổn định, thời

gian rảnh rỗi nhiều, ông bà thường ở nhà vui vầy cùng các cháu và phụ giúp công

việc nhà cho các con. Vì vậy các cháu càng có thêm sự gắn bó tình cảm với ông bà,

tự hào vì có ông bà. Trong ký ức của nhiều trẻ thời thơ ấu luôn được ông bà yêu

chiều, và đặc biệt rất hiểu tâm lý trẻ qua món quà đón tay sau mỗi lần bà đi chợ về,

mỗi lần bà sang chơi, hay những câu truyện bà kể cháu nghe mỗi lần đi ngủ...vv

Ngày nay, do xu thế phát triển của xã hội, sự giao thoa của các nền văn hóa, và

đất nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế nên nền văn hóa

nước ta có sự thay đổi và hòa nhập hơn. Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới các hệ quả,

quy mô gia đình ngày càng nhỏ, sự tách biệt nơi cư trú của con cái sau khi xây dựng

gia đình và sự xuất hiện của các kênh giao tiếp gián tiếp với sự trợ giúp của các

40

phượng tiện truyền thông đại chúng hiện đại làm cho sự liên hệ, gặp gỡ, cảm thông

giữa các thế hệ càng ít đi, người già trở nên cô lẻ và có sự chia ly ông bà ở với các

cháu. Hơn nữa, sách báo, tranh truyện, ti vi, internet nhiều khi lại cuốn hút trẻ hơn

là tìm đến ông bà. Mặt khác, do có dịch vụ nhà trẻ, mẫu giáo, người giúp việc và

những xung đột thế hệ giữa ông bà và các cháu về quan điểm sống, cách ứng xử,

thói quen, sở thích,... cùng với những khoảng cách về thời gian, không gian đã

khiến cho giữa hai thế hệ này khó tìm được tiếng nói chung, làm cho vai trò của ông

bà không còn trực tiếp và ảnh hưởng nhiều như trước nữa. Tuy nhiên, vấn đề này

còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng chúng ta thấy rằng ông bà luôn có vai trò

đặc biệt quan trọng trong mỗi gia đình, nhất là với những gia đình vẫn giữ được

truyền thống “Kính trên, nhường dưới”, “Kính lão đắc thọ”, “Kính già, già để tuổi

cho” hay những gia đình có cha mẹ trẻ phải đi làm ăn xa, đi làm cả ngày trong các

cơ quan, doanh nghiệp phải gửi con nhờ ông bà. Ở đó, trẻ phụ thuộc nhiều vào sự

yêu thương, chăm sóc của ông bà, chịu ảnh hưởng về tính cách, suy nghĩ, nếp sống,

thói quen, kinh nghiệm sống của ông bà.

1.3.2.3. Tác động giáo dục của anh, chị, em trong giáo dục trẻ

Sau ông bà cha mẹ thì anh chị em ruột thịt trong gia đình trẻ cũng có ảnh

hưởng rất lớn đến tính cách của trẻ. Đó là những người cùng thế hệ, có nhiều quan

điểm sống phù hợp, dễ tác động và khuyên bảo trẻ. Tuy nhiên, vai trò đó thể hiện

đến đâu còn phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của gia đình và bản thân sự gương

mẫu của anh chị trẻ. Trong gia đình Việt nam hiện nay, mặc dù vẫn còn một số

quan điểm, tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ để lại như “Trọng nam khinh nữ” và dưới

tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho tình anh em có phần lỏng lẻo.

Song, nhìn chung tình anh em ruột thịt trong các gia đình vẫn luôn được trân trọng

và thương yêu nhau “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”,... Mỗi người anh, người

chị có những suy nghĩ và cách tác động khác nhau, tạo nên sự ảnh hưởng nhất định

trong việc nuôi dạy các em khôn lớn thành người. Họ luôn đoàn kết, yêu thương,

đùm bọc, nhường nhịn nhau, theo tinh thần: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

41

Ngoài vai trò của ông bà, cha mẹ và anh chị em ruột của trẻ còn phải chú ý

đến vai trò ảnh hưởng của các thành viên khác trong gia đình như cô, dì, chú, bác,

cậu, mợ, anh chị em họ, nhất là khi trẻ sống trong gia đình tam, tứ đại đồng đường.

1.3.3. Tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến vai trò của

gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình

Từ xưa đến nay, Người Việt Nam luôn có truyền thống yêu thương gắn bó với

con cháu, con cháu không chỉ là nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi

gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh diện của mỗi gia đình. Vì vậy, sau khi

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến

công tác giáo dục trẻ em, coi giáo dục - đào tạo là “Quốc sách hàng đầu” cùng với

khoa học - công nghệ. Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh

công tác này trong từng thời kỳ hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát

triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức của trẻ em. Đặc biệt là từ khi

bước sang thế kỷ XXI cộng đồng quốc tế đã cam kết cùng nhau phấn đấu thực hiện

các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu vì trẻ em và kêu gọi toàn thể nhân

loại hãy bảo đảm cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn. Thực hiện cam kết này, Việt

Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, trong đó có chính sách về trẻ em, cụ

thể là:

- Chỉ thị số 03/2000/CT-TTg ngày 24/01/2000 của Thủ tướng Chính phủ về

đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí cho trẻ em.

- Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự

lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục

trẻ em.

- Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26/2/2001 của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn

2001-2010.

- Chỉ thị số 13/2001/CT-TTg ngày 31/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ về

việc tổng kết 10 năm thi hành luật tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.

42

- Nghị định số 94/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ

em.

- Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang

thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều

kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010.

- Quyết định số 03/2004/QĐ-DSGDTE ngày 1/6/2004 của Bộ trưởng, Chủ

nhiệm Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em về việc ban hành hướng dẫn tiêu chuẩn

xã, phường phù hợp với trẻ em.

- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 được Quốc hội

Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004.

- Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.

- Nghị định 71/2011/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, thông qua ngày 22/8/2011.

- Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010- 2020.

- Quyết định số 1555/ QĐ-TTg của Thủ tướng chỉnh phủ về Phê duyệt

Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012- 2020, ngày 17 háng 10

năm 2012.

- Quyết định số 17/2012/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về thực hiện

nếp sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngày 20 tháng 11 năm 2012.

- Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013, kế thừa tinh thần các bản Hiến pháp

trước đó đã tái khẳng định: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền

lợi của người mẹ và trẻ em” (Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội

bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm

xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành

vi khác vi phạm quyền trẻ em”(Điều 37).

43

- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;...vv

Nhìn chung, các chính sách về trẻ em trong giai đoạn này nhằm mục tiêu bảo

đảm cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn, với 5 nguyên tắc cơ bản là: Không phân

biệt đối xử với trẻ em; Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện; Bảo

vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã

hội; Dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em; Trẻ em thuộc diện chính sách xã hội, có hoàn

cảnh đặc biệt được trợ giúp để được hoà nhập với gia đình, cộng đồng.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và ban hành

nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thực hiện

liên quan đến trẻ em và gia đình phù hợp với thực tiễn đất nước, nhằm nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân nói chung và trẻ

em nói riêng được hưởng thụ và nâng cao đời sống, vui chơi giải trí bổ ích.

Nắm rõ mục tiêu phát triển gia đình Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Phát

huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những

đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, tiến

bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là

môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người,

bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Đảng bộ Thái Bình luôn ra sức tuyên truyền

đến mọi người dân ý thức chăm lo, giáo dục con cái, sống gương mẫu, lành mạnh

theo chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều đó đã tạo nên sự thay

đổi rõ rệt về chất trong nhận thức của một bộ phận người dân Thái Bình đối với

công tác giáo dục trẻ em- chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, dưới tác

động của mặt trái kinh tế thị trường và công nghệ thông tin thì nhiều gia đình ở Thái

Bình còn lúng túng trong việc khắc phục nó và chưa phát huy hết ưu điểm của gia

đình trong giáo dục trẻ em.

44

1.3.4. Tác động của khoa học công nghệ và cơ chế thị trƣờng tới việc giáo

dục trẻ em ở Thái Bình.

1.3.4.1. Tác động của khoa học công nghệ:

Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đã và đang

tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục trẻ em cả nước nói chung và tỉnh

Thái Bình nói riêng. Cách mạng công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ thì trí tuệ

con người ngày càng được coi trọng, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất

để phát triển đất nước.

Khoa học công nghệ đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh

thần cho mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho gia đình tiếp thu nhanh

chóng những kiến thức khoa học áp dụng vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao,

từ đó từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của mình.

Sự phát triển của khoa học công nghệ và hệ thống thông tin đại chúng đã giúp

các bậc cha mẹ nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt, trong đó có tri thức về gia đình,

về cách thức giáo dục con,...vv. Chính vì thế mà trẻ em cũng được hưởng những

thành quả đó, giúp trẻ có những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển toàn diện và

thông minh hơn. Có thể nói, chưa bao giờ lượng thông tin kiến thức về tự nhiên, xã

hội và bản thân con người lại được cập nhật đầy đủ, nhanh chóng và phong phú như

hiện nay. Điều đó giúp cho các bậc cha mẹ và trẻ em nâng cao sự hiểu biết và năng

lực thực hành phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các bậc cha mẹ có thể nhanh

chóng tích lũy kiến thức, cập nhật thông tin, giải đáp thắc mắc cho con chỉ qua vài

thao tác đơn giản, thậm chí còn cho con được nghe những câu chuyện sinh động, bổ

ích hoặc vận dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ con học tiếng anh, luyện đánh bàn

phím máy tính, giải toán,...trong khi bận việc mà vẫn kiểm soát được con, vẫn tạo

sự vui vẻ, thoải mái cho con theo hình thức “chơi mà học”.

Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng phát triển và nhiều chương

trình bổ ích trên vô tuyến truyền hình, internet như: chương trình giáo dục từ xa,

vườn cổ tích, chúc bé ngủ ngon, những đứa trẻ hay chuyện, ai thông minh hơn học

sinh lớp 5, trẻ em luôn đúng,... thực sự đã hỗ trợ và mang lại nhiều hiệu quả thiết

thực cho các gia đình trong việc giáo dục trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội tiếp thu

45

những tri thức đa dạng nhiều chiều, kích thích tính ham học và khả năng sáng tạo,

trí thông minh của trẻ.

Những thành tựu to lớn đó của khoa học và công nghệ đang đưa lại những

khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt vời cho con người và hứa hẹn đem lại

những tiến bộ vượt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất

và tinh thần. Nhưng bên cạnh những tiến bộ vượt bậc do con người tạo ra đó thì

công nghệ thông tin đồng thời cũng đưa đến hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt,

những hành động dã man, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm lan truyền trên khắp thế

giới. Mặt trái đó đã làm cho nhiều gia đình bị tan nát, chia ly, cùng khổ. Điều này

đòi hỏi các gia đình phải gần gũi, định hướng và để ý đến hoạt động của con trẻ khi

tiếp xúc với các mạng xã hội. Nhất là trong thời kỳ bùng nổ thông tin, mở cửa hội

nhập,... nhiều loại phim ảnh có nội dung không lành mạnh, nhiều thông tin xuyên

tạc không chính xác...đã ảnh hưởng không tốt đến trẻ, thậm chí làm trẻ hiểu nhầm,

hiểu sai vấn đề. Không ít trẻ đã phải gánh chịu hậu quả chỉ vì tính tò mò, ham học

hỏi đặt nhầm chỗ cộng với sự thờ ơ của người lớn và hạn chế về nhận thức lứa tuổi

khi tiếp xúc với các trang mạng không lành mạnh, những bộ phim kích dục. Do đó

các thành viên lớn trong gia đình, đặc biệt là các bậc cha mẹ trẻ cần nâng cao trình

độ và có cách nhìn khách quan, khoa học để quản lý con cái mình cho tốt, xây dựng

nội dung, phương pháp giáo dục con phù hợp với lứa tuổi và hoàn cảnh cụ thể của

từng gia đình, tạo điều kiện giúp trẻ tiếp thu những tri thức khoa học hiệu quả hơn.

1.3.4.1. Tác động của cơ chế thị trƣờng

Bên cạnh những ưu điểm như: Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,

khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; kích thích tính năng động sáng tạo

của các chủ thể kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản

xuất, phát triển nhiều ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;

tạo ra nhiều hàng hóa có sức cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu

dùng; góp phần ổn định, tăng trưởng kinh tế, từng bước cải thiện đời sống nhân

dân,... thì kinh tế thị trường cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định như: phân hóa

giàu nghèo, bất công xã hội; một số tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, mại

dâm gia tăng; suy giảm đạo lý, tình người.

46

Trong điều kiện kinh tế thị trường, có lẽ chưa bao giờ gia đình lại có những

điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và phấn đấu làm giàu, nhưng cũng hiếm khi

gia đình lại đứng trước khó khăn nghiệt ngã như hiện nay. Mặt trái của cơ chế thị

trường đã làm cho đời sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình bị đảo lộn,

việc thực hiện các chức năng của một số gia đình bị mất cân đối và suy giảm. Chức

năng kinh tế đã lôi cuốn khá nhiều công sức, thời gian, tâm huyết của các thành

viên trong gia đình, cả người già và người trẻ lao vào vòng quay của cơn lốc thị

trường. Một bộ phận cha mẹ mải chạy theo các giá trị vật chất bằng mọi giá, coi

trọng đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức, các giá trị văn hóa tinh thần. Một số

truyền thống nhân văn, nhân ái của dân tộc như “Thương người như thể thương

thân”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”... đang dần phai nhạt trong một số gia đình.

Thay vào đó là quan niệm “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông

tôi” hay “Có tiền mua tiên cũng được”, “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua

được bằng nhiều tiền”,... và những hành động tiêu cực trong cách giáo dục trẻ như

xin điểm, chạy điểm, mua bằng cấp, tham nhũng, hối lộ. Nhiều bậc phụ huynh xao

nhãng việc dạy con học ở nhà, họ chỉ tập trung kiếm tiền, phó mặc con cho nhà

trường và các trung tâm gia sư, người giúp việc. Nhiều gia đình lo đáp ứng mọi

khoản tiền con cần, cho con học thêm, học bù mà không hiểu tại sao con họ không

học giỏi, không biết quý trọng sức lao động của họ và ngày càng hư hỏng, đua đòi.

Họ đâu có hiểu con họ thiếu gì và cần gì? Hậu quả là quyền uy của cha mẹ ngày

càng giảm sút, khiến họ trở nên bất lực đối với các con và làm gia tăng lượng trẻ em

hư hỏng cho xã hội. Một số cha mẹ trẻ bị đồng tiền mê hoặc đã bất chấp tất cả, tham

gia buôn bán hàng quốc cấm, cờ bạc, lô đề, mại dâm,... vô tình đã tạo ra môi trường

độc hại cho chính con mình.

Những hiện tượng tiêu cực do mặt trái cơ chế thị trường để lại đã gây bao hậu quả

khó lường, làm cho bao gia đình bị đổ vỡ, làm suy giảm đạo lý, tình nghĩa vợ chồng.

Tất cả mọi đổ vỡ, sai lầm của gia đình đều dẫn đến nhiều hậu quả xã hội khác nhau,

nhưng nạn nhân đầu tiên là những đứa con vô tội trong chính gia đình đó. Các em

không có tổ ấm hạnh phúc, thiếu vắng sự quan tâm và bàn tay chăm sóc, chia sẻ của

cha mẹ sẽ không biết gửi gắm tình cảm vào ai và rất dễ rơi vào cạm bẫy của những kẻ

bất lương và trở thành những nạn nhân của các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật

47

Kết luận chƣơng 1

Gia đình là cộng đồng người được hình thành trên cơ sở ba mối quan hệ cơ

bản là hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Giữa các thành viên trong gia đình có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chi phối và tác động qua lại với nhau. Họ luôn có sự

gắn bó tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi; luôn bên nhau, sống cùng

nhau; hàng ngày hàng giờ tác động đến nhau theo kiểu “Mưa dầm ướt áo”, “Tích

tiểu thành đại”, “Mài sắt thành kim” họ sống cùng nhau dưới một mái nhà, cùng

nhau giải đáp các bài toán kinh tế, tháo gỡ những mâu thuẫn trong gia đình và ngoài

xã hội, để rồi sau đó cho nhau nhiều kinh nghiệm sống hơn, hiểu nhau hơn và

trưởng thành tốt hơn. Gia đình có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển

của trẻ. Dù cho hình thức có thay đổi, song gia đình sẽ luôn tồn tại, vận động và

phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giáo dục gia đình

luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần quyết định việc hình thành,

phát triển nhân cách cho trẻ em nói riêng và nhân cách con người Việt nam nói

chung.

Sự vận động và biến đổi của gia đình phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã

hội và trình độ nhận thức của mỗi người. Gia đình là một thiết chế, là tế bào của xã

hội và là tổ ấm của mỗi con người. Với chức năng tự nhiên và vai trò to lớn của

mình, gia đình ngày càng được khẳng định, đề cao và đòi hỏi phải được phát huy

hơn nữa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Giai đoạn hiện nay, vai trò của gia đình, đặc biệt là vai trò của cha mẹ trong

việc giáo dục trẻ là khởi nguồn vô cùng quan trọng cho sự phát triển toàn diện của

trẻ. Vai trò đó chỉ có thể được đề cao và phát huy khi có sự tâm huyết, mẫu mực của

các thành viên trong gia đình, đặc biệt là sự gương mẫu của ông bà, cha mẹ trẻ. Nội

dung và phương pháp giáo dục khoa học, phù hợp của ông bà, cha mẹ,... sẽ góp

phần to lớn vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam được phát triển

toàn diện, đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay của sự nghiệp đổi mới đất nước.

48

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG VẤN

ĐỀ ĐẶT RA Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY

2.1.Thực trạng giáo dục trẻ em trong gia đình ở Thái Bình hiện nay.

Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, ba mặt giáp sông một mặt giáp biển, nằm ở

trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là vùng lúa trọng điểm của phía bắc và cả nước.

Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía Đông

Nam. Thái bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở Phía Bắc, Hà Nam ở

phía Tây, Nam Định ở phía Tây và Tây Nam, Hưng Yên ở phía Tây Bắc, Hải Phòng

ở phía Đông Bắc. Phía Đông là biển Đông.

Tỉnh Thái Bình có 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 09 thị trấn và 267 xã.

Hiện Thái Bình được chia thành 07 huyện và 01 thành phố trực thuộc là Thành phố

Thái Bình, huyện Đông Hưng, huyện Hưng Hà, huyện Kiến Xương, huyện Quỳnh

Phụ, huyện Thái Thụy, huyện Tiền Hải, huyện Vũ Thư.

49

Thái Bình nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng là Hà

Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, có đường biển, cảng biển và hệ thống sông ngòi

thuận lợi để phát triển hàng hóa và giao lưu kinh tế- xã hội với cả nước và quốc tế.

Con người Thái Bình cần cù, thông minh, ham hiểu biết, sáng tạo; yêu thể thao; yêu

lao động; giàu lòng nhân ái; tích cực tham gia vào công cuộc dựng nước và giữ

nước với nhiều tên tuổi được lưu danh cùng sử sách như Hoàng Công chất, Vũ

Đình Dung, Tú Cao, Phan Bá Vành, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Đức Cảnh, Hoàng

Văn Thái, Phạm Tuân, Tạ Quốc Luật, Nguyễn Thị Chiên, Bùi Quang Thận,...

Tuy nhiên, Thái Bình lại là một tỉnh đồng bằng đất chật người đông, mật độ

dân số gấp 5,7 lần mật độ trung bình của cả nước, người dân chủ yếu sống bằng

nghề trồng lúa, công nghiệp thì nhỏ bé lạc hậu, dịch vụ thương mại chậm phát triển,

lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp cho nên Thái Bình vẫn là một tỉnh nghèo và

gặp nhiều bất lợi trong phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và các cấp

chính quyền, sự nỗ lực của toàn dân nên kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Thái

Bình đã có những chuyển biến tích cực: Nền kinh tế tăng trưởng khá; Hệ thống

chính trị được kiện toàn, mọi chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp

luật của Nhà nước được triển khai hiệu quả hơn, các cấp chính quyền không ngừng

được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động; Giáo dục và đào tạo, khoa học và

công nghệ không ngừng được đẩy mạnh tạo động lực để các gia đình ở Thái Bình

yên tâm sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống và đầu tư cho thế hệ trẻ - chủ nhân

tương lai của đất nước được phát triển tốt nhất về mọi mặt thể chất, đạo đức, trí tuệ

và thẩm mĩ; đồng thời tham gia tích cực “Tháng hành động vì trẻ em” mà Đảng và

Nhà nước đang phát động (Tháng 6 năm 2015) với phương châm “Lắng nghe trẻ

em bằng trái tim, bảo vệ trẻ em bằng hành động” và hướng đến Ngày gia đình Việt

Nam 28/6/2015.

Thực tế điều tra 230 phiếu ở tất cả các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Thái

Bình, trong đó có 110 phiếu điều tra dành cho các bậc cha mẹ có con dưới 16 tuổi

và 120 phiếu dành cho trẻ em dưới 16 tuổi. Kết quả cho thấy:

50

2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình ở Thái

Bình

Đa số các gia đình ở Thái Bình đều sống trọng tình nghĩa, yêu thương con

cháu, có lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, luôn dạy con biết kính trên nhường

dưới, anh em thuận hòa, đoàn kết giúp đỡ nhau, khiêm tốn, lễ phép, thật thà, chăm

chỉ và nhân ái.

Mặc dù kinh tế còn khó khăn, phải vất vả lao động để cho con ăn học và phát

triển kinh tế gia đình nhưng đa số các bậc cha mẹ trẻ vẫn sắp xếp thời gian hàng

ngày để chăm sóc con, chơi với con, tâm sự với con, giúp con học,... và hầu hết trẻ

đều cảm thấy gia đình mình sống với nhau “vui vẻ, hạnh phúc và đầm ấm”, các em

thấy yêu gia đình mình và gắn bó với gia đình, ra sức học tập và phấn đấu vì nghĩ

đến công lao, tình cảm “luôn đặt tương lai con cái lên hàng đầu” của cha mẹ, hoặc

“vì không muốn cha mẹ buồn”, “vì cha mẹ đã chịu đựng nhiều vất vả vì chúng

con”, mặc dù “đôi khi bố mẹ cũng dữ” [44,tr.2]. Đây là một thành công rất đáng

trân trọng của Đảng bộ và nhân dân Thái Bình: đa số trẻ em Thái Bình đều cảm

thấy gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực học tập và phấn

đấu.

Tuy nhiên, bên cạnh những trẻ may mắn có một tuổi thơ bên gia đình hạnh

phúc, vẫn còn một số trẻ vẫn phải chứng kiến cảnh cha mẹ cãi chửi nhau. Kết quả

điều tra 120 trẻ cho thấy 88 trẻ (chiếm 73,3%) khẳng định cha mẹ các em không

bao giờ cãi nhau hay đánh nhau trước mặt các em, 32 trẻ còn lại (chiếm 26,7%) thì

khẳng định cha mẹ có cãi nhau trước mặt em vì nhiều lý do “vì mẹ không đưa tiền

cho bố”, “vì không hiểu ý nhau”, “vì bố đi làm về mệt bị mẹ càu nhàu”, “vì có sai

xót trong công việc”,....trong đó có 31 em phản ánh cha mẹ “thỉnh thoảng cãi nhau”

và 01 em (chiếm 0,8%) phản ánh cha mẹ “ rất hay cãi nhau, đánh nhau, cứ rảnh rỗi

là cãi nhau” [44,tr.1].

Bảng 2.1: Tình trạng cha mẹ trẻ cãi chửi nhau

Số trẻ Tỉ lệ (%) Trẻ phải chứng kiến 32 26,7 Trẻ không phải chứng kiến 88 73,3 Tổng 120 100%

51

Đây là điều mà một số gia đình ở Thái Bình cần phải sớm khắc phục,

không nên để con trẻ phải chứng kiến cha mẹ cãi nhau, đánh nhau hay xúc phạm

nhau vì như vậy sẽ gây nhiều ảnh hưởng xấu đến trẻ, làm trẻ thất vọng về cha mẹ,

mất niềm tin ở gia đình, dễ chán nản và dễ có nhiều hành động sai lầm. Cha mẹ nên

tôn trọng trẻ, những chuyện không tốt cho trẻ thì cha mẹ nên “đóng cửa bảo nhau”.

Cha mẹ phải biết kìm chế nóng giận và cùng nhau khắc phục, tháo gỡ xung đột để

trẻ học hỏi và noi theo, làm hành trang cho cuộc sống của trẻ sau này.

Mặt khác các bậc cha mẹ cũng cần chú ý dạy trẻ biết chịu trách nhiệm về hành

vi mình làm ngay từ nhỏ, không nên vì thấy trẻ ngã đau, khóc nhè mà xót con, xót

cháu rồi phạt cái sân hay cái bàn,... Hãy cho trẻ biết nguyên nhân ngã và nhắc trẻ

cẩn thận không được đổ lỗi cho người khác hay vật khác. Những hành động đó

tưởng chừng rất đơn giản nhưng lại vô cùng có ý nghĩa với trẻ, bởi ngôn ngữ nói

của trẻ ít hơn ngôn ngữ hiểu cho nên trong mọi trường hợp cha mẹ hãy kiên trì giải

thích cho trẻ, không được dạy trẻ đổ lỗi.

Nhìn chung các cha mẹ trẻ ở Thái Bình đều yêu thương con, dạy con sống phù

hợp với chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và

khách quan, đặc biệt là về mặt nhận thức của các bậc cha mẹ và mặt trái của cơ chế

thị trường nên bên cạnh những ưu điểm cần duy trì và phát huy thì các gia đình ở

Thái Bình vẫn còn rất nhiều khó khăn cần nhanh chóng khắc phục và vượt qua, nhất

là khi mọi nhà đua nhau làm giàu mà ít quan tâm đến việc giáo dục con cái và thực

trạng xuống cấp nghiêm trọng về mặt đạo đức của giới trẻ hiện nay, sự phát triển

của khoa học công nghệ cùng với nhiều luồng văn hóa phương tây thâm nhập vào

cuộc sống với nhiều kiểu loại, giá trị khác nhau: tích cực, tiêu cực, cái tốt và cái

xấu, cái cũ và cái mới, khi mà những giá trị cũ lạc hậu chưa mất hẳn, cái mới tiến

bộ đang hình thành nhưng còn non nớt. Trong khi xã hội đầy biến động phức tạp

đó, trẻ em rất dễ bị lôi cuốn chạy theo lối sống không lành mạnh nếu thiếu sự quan

tâm, giáo dục của gia đình, bởi các em là những người thiếu kinh nghiệm sống,

nhiều khi không biết cách lựa chọn, phân biệt đâu là những chuẩn mực đạo đức và

đâu không phải là những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cho nên gia đình lúc này lại

52

đóng vai trò là “bộ lọc” có tác dụng kiểm tra, ngăn ngừa loại bỏ những yếu tố văn

hóa độc hại, phản giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

2.1.2. Thực trạng giáo dục trí tuệ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái

Bình.

Do chịu ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường, khoa học công nghệ và hạn

chế về mặt nhận thức nên phần lớn các bậc cha mẹ có con dưới 16 tuổi ở Thái Bình

đều thừa nhận “Việc dạy con hiện nay khó hơn so với trước” vì “Trẻ tiếp xúc với

thông tin sớm, môi trường xung quanh phức tạp”, vì “Xã hội phát triển có nhiều tệ

nạn hơn trước”, “Xã hội thời nay bố mẹ ít có thời gian chăm sóc con”, “Yêu cầu của

con bây giờ cao hơn”,“Trẻ con bây giờ bướng hơn ngày xưa”,... Vì thế, họ ra sức

“kiếm tiền cho con học”, “dạy dỗ, động viên con ngoan, học giỏi”, “giáo dục con

nghiêm khắc”, chỉ mong “con ngoan, học giỏi, sau này thành đạt có công việc ổn

định, có ích cho xã hội” [45,tr.2].

Theo kết quả điều tra 110 gia đình có con dưới 16 tuổi thì 37 phụ huynh

(chiếm 33,6%) đại diện cho gia đình không trả lời và không biết làm gì để phát

triển trí tuệ cho con, họ mặc “con có trí tuệ thì con học; 73 phụ huynh (chiếm

66,4%) rất quan tâm đến học tập của con, mỗi phụ huynh có cách dạy con khác

nhau, nhưng chủ yếu vẫn là hỗ trợ con học kiến thức ở trường, một số cha mẹ cho

con học thêm qua internet, mua sách giáo khoa, sách tham khảo, sách nâng cao,....

Trong số đó, một số phụ huynh còn quan tâm đến chế độ ăn uống cho con, dạy con

mọi lúc mọi nơi, dạy qua cuộc sống hàng ngày, dạy qua giao tiếp ngoài xã hội, thậm

chí kiểm tra trình độ của con bằng cách “đặt câu hỏi xem phản ứng con trả lời thế

nào”. Tuy nhiên, do chương trình học của trẻ đã có nhiều cải cách so với trước,

trình độ học vấn và trình độ khoa học thiếu, lại có cách giải đáp khác với cô giáo

của trẻ nên các bậc cha mẹ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp con học, phần

lớn họ chỉ giám sát, rèn tính tự học cho con, còn lại “hầu như nhờ sự giúp đỡ của cô

giáo và nhà trường” [45, tr.2].

53

Bảng 2.2: Tình trạng quan tâm đến học tập của con trong các gia đình

Quan tâm Không trả lời hoặc không biết Tổng

Số gia đình 73 37 110

Tỉ lệ (%) 66,4 33,6 100%

Nhìn chung, các gia đình ở Thái Bình đều nhận thức rất tốt vai trò của mình

đối với con trẻ, đa số các gia đình được hỏi đều cho rằng việc giáo dục trẻ không

phải là nhiệm vụ của riêng nhà trường vì “Đó là con chúng ta, chúng ta phải có

trách nhiệm chính”, “Nhà trường chỉ là một phần”, “Nhà trường không thể quản lý

con ở nhà được”, “ Ngoài thời gian ở trường, con còn ở nhà với bố mẹ, bạn bè, hàng

xóm”, “Đó cũng là trách nhiệm của cả gia đình nữa”, “Phải kết hợp với cả gia đình

và xã hội thì trẻ mới phát triển toàn diện được” [ 45,tr.2]. Đa số các gia đình đều

nhận thức rõ vai trò của gia đình đối với con trẻ là rất quan trọng vì “Mọi hành vi

giáo dục của ta giúp hình thành tính cách, nhân cách trẻ”,“Gia đình là nền tảng giúp

trẻ phát triển”, “Gia đình là cái nôi dạy dỗ, giúp đỡ các cháu nên người”, “là cái nôi

giúp con cái tự tin và yên tâm trong mọi hoàn cảnh”, “là nơi tình cảm với con nhất”,

và “Vì trẻ còn nhỏ”, “Các cháu đang trong quá trình lớn, tâm lý chưa ổn định”, “có

nhiều suy nghĩ chưa được đúng đắn”, “Tuổi này không chỉ bảo tốt trẻ dễ bị sa

ngã”,“ là tuổi dễ bị dụ dỗ, cần sự quan tâm của gia đình”,...[ 45,tr.2].

*) Kết quả điều tra 120 trẻ ở Thái Bình thì 110 trẻ (chiếm 91,6%) được sự

giúp đỡ của các thành viên lớn tuổi trong gia đình mà chủ yếu là cha mẹ hoặc anh

chị ruột hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm tra việc học tập của trẻ. Chỉ có 10 trẻ (chiếm

8,4%) là không cảm nhận được sự giúp đỡ của các thành viên lớn tuổi trong gia

đình.

Bảng 2.3: Sự giúp đỡ trẻ học tập của người lớn trong gia đình

Được giúp đỡ Không được giúp đỡ Tổng

Số trẻ 110 10 120

Tỉ lệ (%) 91,6 8,4 100%

54

Nhiều trẻ cũng được gia đình tạo điều kiện cho sử dụng công nghệ thông tin

hiện đại để nâng cao hiểu biết, mà phổ biến là sử dụng internet dưới sự quản lý của

cha mẹ. Trong số 60 gia đình có máy tính cho trẻ sử dụng internet đều lo quản lý

các em vì sợ “em bị cận thị”, “sợ em sa vào các trò xấu” hoặc “mải chơi game mà

quên học” [44,tr.2],... và thực tế khi trả lời câu hỏi “Nếu được vào internet em

thường xem gì, làm gì?” thì rất nhiều trẻ trả lời là vào internet để xem siêu nhân,

phim hoạt hình, xem phim, nghe nhạc, vào facebook, zalo, đọc truyện, đọc báo và

học tiếng anh, giải toán trên mạng và cả chơi điện tử,...[44,tr. 2]. Điều này cho thấy

trẻ em Thái Bình nắm bắt, cập nhật công nghệ thông tin rất tốt, nhưng đó cũng là

thách thức đối với các bậc phụ huynh trong việc quản lý trẻ hiệu quả, nhất là những

phụ huynh không sử dụng máy tính và không nắm bắt được sự phát triển của công

nghệ thông tin thời hiện đại.

Tuy nhiên, khi hỏi về phản ứng của các bậc phụ huynh khi biết con mình học

kém, đua đòi những thói hư tật xấu thì phần lớn các bậc cha mẹ trẻ đều thấy “buồn

chán”, “bực mình”, “khó chịu”, “phạt”,” khuyên bảo con”, “động viên không được

thì dùng biện pháp mạnh hơn” thậm chí có phụ huynh phản ứng ngay là sẽ “quát

mắng và đánh” [45,tr. 2]. Rất ít phụ huynh bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến

hậu quả đó của con, thông cảm, gần gũi, động viên và chỉ bảo con; phần lớn cha mẹ

đều có phản ứng ngay qua thái độ buồn chán, thất vọng và trút giận lên trẻ, xúc

phạm trẻ; khiến đa số trẻ thêm chán nản, sống tiêu cực hơn! Chỉ khi nào các bậc cha

mẹ của trẻ kìm chế được những thái độ và hành động tức thời, tự phát; sáng suốt

tìm ra được nguyên nhân cơ bản, chủ yếu và bằng tình thương, trách nhiệm của bậc

làm cha làm mẹ lựa chọn được cách giải quyết phù hợp, hóa giải được những mâu

thuẫn, khúc mắc trong con, trên cơ sở tôn trọng động viên trẻ, giúp trẻ hiểu được ý

tốt và mong mỏi của cha mẹ thì vấn đề mới được giải quyết triệt để, trẻ không bị tổn

thương mà lấy lại được tâm thế và sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình

hơn. Chẳng hạn, nguyên nhân trẻ học kém và đua đòi vì bố mẹ không quan tâm đến

trẻ, lúc nào cũng nghĩ đến tiền và sống vì tiền, trẻ luôn có cảm giác là người thừa, bị

bỏ rơi; hoặc vì bố mẹ ly hôn; bố mẹ hay đánh chửi nhau; bị người khác lôi kéo, rủ

55

rê,... Nếu nguyên nhân là do cha mẹ mải kiếm tiền mà không quan tâm con thì chính

cha mẹ phải là người thay đổi: phải xem con muốn gì và gần gũi, quan tâm đến con

hơn, đồng thời hạn chế nói chuyện tiền bạc trước mặt con;... Cha mẹ trẻ phải nắm rõ

đây là lứa tuổi chưa phát triển hoàn thiện, dễ có nhiều suy nghĩ phiến diện, chưa

chín chắn, hay có những hành động nhất thời mà không lường trước hết hậu quả,

cho nên chính cha mẹ phải là người chủ động gần gũi, chia sẻ cho con hiểu và giúp

con giải quyết mâu thuẫn, tháo gỡ khó khăn, cho dù hậu quả có như thế nào cha mẹ

cũng phải là chỗ dựa cho con và tiếp sức cho con vượt qua mọi khó khăn, không

nên quát mắng, đánh đập, xúc phạm trẻ vì như vậy sẽ khiến trẻ cảm thấy lẻ loi, vô

dụng và chán trường, dễ sa ngã thêm. Đây cũng là nhược điểm mà một số gia đình

ở Thái Bình cần chú ý và khắc phục.

Bên cạnh truyền thống hiếu học và tình yêu con vô bờ bến “tất cả vì con em

chúng ta” nhiều gia đình đã bao bọc con thái quá, họ đầu tư cho con chỉ việc ăn rồi

học, ít quan tâm đến những vấn đề khác trong gia đình và ngoài xã hội. Điều này sẽ

bất lợi cho trẻ trong việc gắn lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, trẻ ít

được va vấp và sẽ có ít kinh nghiệm sống. Kết quả là trẻ có thể học rất giỏi nhưng

có thể giao tiếp và xử lý các tình huống trong cuộc sống và ngoài xã hội kém, trẻ bị

hạn chế tính tự lập và thiếu tự tin khi trưởng thành. Do đó các bậc cha mẹ trẻ cần

chú ý phát triển trí tuệ cho trẻ không chỉ bằng việc học qua sách vở, trang bị kiến

thức khoa học ở trường mà cần phải mở rộng hiểu biết cho trẻ thông qua thực tiễn

cuộc sống hàng ngày, qua lao động sản xuất, ở gia đình và ngoài xã hội tùy theo

từng độ tuổi; phải tôn trọng và trả lời nghiêm túc, chân thực các câu hỏi của trẻ,

không được trả lời qua loa hay bỏ qua tính tích cực học hỏi, sự tò mò của con trẻ.

Đồng thời rèn luyện trẻ có tính tự giác tham gia làm một số việc trong nhà giúp bố

mẹ và tự phục vụ bản thân, nói cho trẻ biết mối quan hệ trong bài học “ nhân- quả”

qua mọi hành động thay vì bắt trẻ làm thế này không được làm thế kia mà trẻ không

hiểu rõ tại sao. Hãy để trẻ tự chứng minh bằng những hành động ít nguy hiểm, từ đó

tự rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Mặt khác, cũng không nên kỳ vọng ở trẻ

quá nhiều, bởi sự kỳ vọng nhiều khi khiến cha mẹ trẻ nôn nóng và gây sức ép cho

56

trẻ mà thực ra khả năng sáng tạo khó có thể tăng lên khi bị người khác thúc đẩy, ép

buộc, thậm chí còn bị giảm đi. Vì vậy, hãy kiên trì và gợi ý, cung cấp những nguồn

lực trẻ cần để tạo điều kiện kích thích sự xuất hiện ý tưởng mới cho trẻ .

Một sai lầm nữa thường gặp ở một số gia đình ở Thái Bình và nhiều gia đình

Việt Nam là tình trạng trả lời sai hoặc né tránh trả lời câu hỏi của trẻ về những vấn

đề liên quan đến sức khỏe sinh sản, giới tính, tình dục. Điều này chẳng những

không thực hiện được nhiệm vụ giáo dục giới tính cho trẻ trong gia đình mà còn

làm cho trẻ hiểu sai, hiểu nhầm và dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc! Bởi đối với

trẻ thì đây là vấn đề tế nhị, nhất là ở lứa tuổi chuẩn bị dậy thì, trẻ không dám hỏi ai

ngoài những người cùng giới trong gia đình. Vậy mà khi đã mạnh dạn hỏi hoặc khi

muốn trang bị kiến thức cho bản thân thì người lớn lại cho rằng đó là chuyện người

lớn, trẻ con không nên biết và không trả lời đúng, để trẻ phải mò mẫm, học hỏi bằng

chính hành trình sống của mình, có trẻ đã có những hành động sai lầm mà không

biết trước được hậu quả khi tìm hiểu, bắt chước chuyện của người lớn. Do đó,

những gia đình ở Thái Bình hiện nay còn suy nghĩ đó cần nhìn thẳng vào vấn đề và

thực tiễn cuộc sống hiện nay của giới trẻ, từ đó lựa chọn phương pháp, nội dung

giáo dục giới tính cho trẻ phù hợp với lứa tuổi, với cá tính đặc thù của từng trẻ, giúp

trẻ trang bị được những kiến thức cần thiết, khoa học, sống lành mạnh và vững

bước trong cuộc sống.

2.1.3. Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ em trong các gia đình ở Thái

Bình

Các gia đình Thái Bình vẫn truyền tai nhau “Sức khỏe là vàng”, “Có sức khỏe

là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”. Cho nên hầu như các gia đình Thái

Bình đều quan tâm đến sức khỏe của cộng đồng, sức khỏe của các thành viên trong

gia đình, nhất là sức khỏe của trẻ em từ rất sớm. Điều này được thể hiện ngay từ

trước khi mang thai: Họ chuẩn bị tâm lý, kiến thức, sức khỏe, tiêm phòng, ăn uống

đủ chất để quá trình mang thai mẹ không bị ốm đau và con được phát triển đầy đủ,

khỏe mạnh. Sau chín tháng mười ngày: Họ vỗ về, chăm sóc cho trẻ ăn đủ chất, ngủ

đủ giấc, rồi giúp con tập lẫy, cho con ăn dặm, dạy con biết bò, biết đi, biết chạy và

57

vận động linh hoạt các giác quan. Khi con lớn hơn: Họ dạy con biết làm một số việc

tự phục vụ bản thân như: đánh răng, rửa mặt, rửa tay và phụ giúp người thân một số

việc trong sinh hoạt hàng ngày như quét nhà, quét sân, rửa cốc chén,....đồng thời

khuyến khích trẻ ăn uống khoa học, luyện tập thể dục thể thao, tham gia các hoạt

động ở nơi học tập và sinh sống... phù hợp với lứa tuổi và khả năng của từng trẻ.

Theo kết quả điều tra mức độ quan tâm đến chế độ dinh dưỡng và việc rèn

luyện thân thể cho con thì có tới 108 gia đình (chiếm 98,2%) là quan tâm, chỉ có 01

gia đình (chiếm 0,9%) không quan tâm và 01 gia đình (chiếm 0,9 %) không có ý

kiến gì [45,tr. 2].

Bảng 3.3: Mức độ quan tâm phát triển thể chất cho trẻ trong các gia đình.

Quan tâm Không quan tâm Không ý kiến Tổng

Số gia đình 108 01 01 110

Tỉ lệ (%) 98,2 0,9 0,9 100%

Trả lời câu hỏi “ Vì sao?” thì 15 gia đình (chiếm 13,6%) không giải thích, còn

lại đa số các bậc cha mẹ (chiếm 86,4%) đều thấy rõ “Sức khỏe rất quan trọng đối

với con người” và “Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con”[45,tr. 1], đa số

họ đều chung một mong muốn là con được khỏe mạnh và phát triển tốt.

Vậy họ sẽ làm gì để phát triển tốt về chiều cao, cân nặng và sức khỏe cho con?

Trả lời câu hỏi này, đa số các bậc phụ huynh đều nhận thức rõ rằng phải chú ý đến

chế độ ăn uống, ngủ nghỉ của trẻ, động viên con rèn luyện thân thể, tích cực vận

động và tập thể dục hàng ngày, giúp cho tinh thần các con luôn thoải mái. Trong số

đó có 52 gia đình (chiếm 47,3%) chỉ nghĩ đến việc quan tâm chế độ ăn uống cho trẻ,

58 gia đình còn lại (chiếm 52,7%) có quan điểm toàn diện hơn, họ không chỉ biết

chăm lo đến thể lực của con bằng chế độ ăn uống hợp lý, đủ chất dinh dưỡng mà

còn biết khuyến khích con luyện tập thể dục thể thao thường xuyên, họ cho rằng

“Phải động viên con chịu khó tập thể dục và ăn uống đầy đủ, đúng chế độ”,thậm

chí, có gia đình còn chú ý đến cả mặt tinh thần của con “Giúp cho tinh thần con

58

luôn được thoải mái” [45,tr. 2] bên cạnh việc chú ý đến chế độ ăn, ngủ, thể dục thể

thao của con.

Bảng 3.4: Nhận thức của gia đình trong việc phát triển thể chất cho trẻ

Ăn uống hợp lý Ăn uống hợp lý và luyện tập thể dục Tổng

Số gia đình 52 58 110

Tỉ lệ (%) 47,3 52,7 100%

Bên cạnh những ưu điểm trên, các gia đình Thái Bình còn quan tâm, học hỏi

và dõi theo rất nhiều các chương trình liên quan đến chủ đề gia đình và nuôi dạy

con cái, nhất là các chương trình dành cho trẻ trên các kênh truyền hình để hiểu và

nuôi dạy trẻ tốt hơn như: Đồ rê mí, giọng hát Việt nhí, siêu chíp, ai thông minh hơn

học sinh lớp 5, chúc bé ngủ ngon,...(chiếm 84 gia đình = 76,4%). Chỉ có 16 gia đình

(chiếm 14,6 %) không xem, 10 gia đình (chiếm 9%) không ý kiến gì.

Thực tế điều tra 120 trẻ em dưới 16 tuổi ở tất cả các huyện trên địa bàn tỉnh

Thái Bình, chỉ có 3 trẻ (chiếm 2,5%) không được các thành viên trong gia đình nhắc

nhở vệ sinh thân thể và luyện tập thể dục thể thao thường xuyên và trong gia đình 3

em này cũng không có ai tham gia tập thể dục hoặc chơi thể thao, 3 em cũng không

thích xem chương trình thể dục buổi sáng hay các môn thể thao trên truyền hình và

vì vậy cả tuần 3 em này cũng không dành thời gian cho việc luyện tập thể dục thể

thao. Còn lại 117 em (chiếm 97,5%) thừa nhận được các thành viên trong gia đình

thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các em thường xuyên vệ sinh thân thể và luyện

tập thể dục thể thao. Trong đó 46 gia đình trẻ có thành viên tham gia tập thể dục

hoặc chơi thể thao, 48 gia đình không tham gia và 43 trẻ không trả lời câu hỏi này.

Nhưng trong số 117 trẻ này, chỉ có 1 em không biết mình thích nhất môn thể thao

nào và 2 em không trả lời, còn lại 114 trẻ đều kể ra được môn thể thao mình thích.

Bảng 3.5: Số trẻ kể đƣợc môn thể thao yêu thích

Kể được 114 95 Không kể được 04 3.3 Không trả lời 02 1,7 Tổng 120 100%

Số trẻ Tỉ lệ(%)

59

Điều này cho thấy, mặc dù số lượng các gia đình trẻ có người tham gia thể

dục, thể thao ít nhưng họ rất quan tâm đến sức khỏe của con và đầu tư phát triển thể

lực cho con. Đó cũng là một phần lý do khiến trẻ em Thái Bình có tinh thần thể dục

thể thao rất cao, đa số các em đều có niềm đam mê một hay một số môn thể dục thể

thao cụ thể như cầu lông, bóng rổ, nhảy dây, đá bóng, điền kinh, bóng chuyền,

erobic, yoga,... Các em cũng có ý thức tự giác trong việc dành thời gian thường

xuyên luyện tập thể dục thể thao, nhất là “Khi rảnh rỗi” hoặc “Sau khi ngủ sáng

dậy”, “Ngày nghỉ học”, “Khi đi học về”, “Khi nấu cơm chiều xong” [44,tr. 3],...

Đây là ưu điểm và cũng là thuận lợi để các gia đình ở Thái Bình có thể phát huy vai

trò của mình trong việc giáo dục thể chất cho trẻ, từ đó tạo nên một lớp trẻ khỏe

mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu “chủ nhân tương lai của đất nước” thời hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cần phát huy trong nhận thức, nhiều gia

đình ở Thái Bình vẫn còn một số khuyết điểm cần khắc phục trong quá trình cho trẻ

ăn, nhất là trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo. Đó là tình trạng ép trẻ ăn, làm cho trẻ

sợ ăn hoặc muốn trốn khi đến bữa ăn hoặc nhìn thấy đồ ăn của mình, thậm chí có trẻ

khóc rất nhiều, sặc và nôn trớ khi ăn. Điều này trở thành nỗi ám ảnh của nhiều trẻ

và là áp lực của nhiều gia đình mỗi khi cho trẻ ăn. Vì vậy, cứ nói đến ăn là trẻ sợ và

gia đình ngày càng mất nhiều thời gian để chăm trẻ, cho trẻ ăn. Thậm chí, có một số

gia đình còn đánh mắng hoặc thường xuyên cho trẻ đi ăn rong ngoài trời, sang nhà

hàng xóm chơi, hay làm trò cho trẻ cười thì mới “lừa” cho trẻ ăn được hết suất.

Điều này tốn thời gian của người chăm trẻ và ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng

công việc của cha mẹ trẻ, gia đình trẻ và xã hội. Mặc dù sự ép buộc đó đều xuất

phát từ tình yêu thương vô bờ bến của gia đình đối với thành viên bé nhỏ của mình,

nhưng sự quan tâm thái quá đó khiến trẻ sợ, không muốn ăn, không cảm thấy ngon

khi ăn và tất nhiên cũng sẽ khiến trẻ khó hấp thu tốt các chất dinh dưỡng trong

không khí ăn uống như vậy !

Để khắc phục tình trạng này, thông thường các gia đình cần tạo hứng thú cho

trẻ ăn, thường xuyên đổi món ăn và động viên trẻ tự xúc ăn. Đồng thời cho trẻ cảm

nhận được niềm vui khi được ăn. Nếu trẻ không muốn ăn hãy can đảm để trẻ biết

60

hậu quả tự nhiên của việc không ăn, cha mẹ chỉ theo dõi biểu hiện của trẻ và giúp

đỡ khi cần thiết, không nên sợ trẻ sụt cân mà liên tục giục trẻ ăn hay ép trẻ quá

đáng, không cho trẻ ăn vặt sau đó, vì như vậy trẻ sẽ hư thêm, không thích ăn cơm,

thích ăn vặt, ăn không ra bữa, không hiểu được tầm quan trọng của việc ăn và

không biết quý trọng đồ ăn.

Thậm chí, vẫn còn một số gia đình vì có điều kiện kinh tế, nên thường xuyên

bồi dưỡng khẩu phần ăn nhằm tăng sức khỏe cho con, nhưng lại có xu hướng thái

quá. Vì thương con phải học nhiều vất vả nên cho con ăn uống nhồi nhét quá mức

độ, ăn uống xô bồ, thừa chất nên dẫn đến tình trạng trẻ béo phì ngay khi trẻ còn

trong độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.

Bên cạnh đó, do sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật xuất hiện

nhiều hình thức vui chơi giải trí, chơi điện tử, nhiều báo chí, sách vở, truyện tranh

lan tràn khắp thị trường đã thu hút không ít trẻ vào những hoạt động ấy mà lười lao

động, vận động thể dục thể thao. Vì vậy, các gia đình cần chú ý giáo dục cho trẻ

thói quen tập thể dục kết hợp với vui chơi, giải trí lành mạnh, biết làm việc nhà và

lao động phù hợp với sức khỏe, lứa tuổi; đồng thời có chế độ nghỉ ngơi hợp lý theo

hoàn cảnh, điều kiện của gia đình.

2.1.4. Thực trạng giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái

Bình

So với giáo dục đạo đức, trí tuệ và thể chất thì giáo dục thẩm mĩ ít được quan

tâm hơn cả. Một phần nguyên nhân là do người dân Thái Bình quanh năm vất vả,

người lớn tuổi (phần lớn là ông bà của trẻ) chủ yếu sống trong thời kỳ chiến tranh

và bao cấp, lớp người trẻ hơn (phần lớn cha mẹ của trẻ) được sinh ra và lớn lên

trong hoàn cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, đang trong quá trình đổi mới

và hội nhập kinh tế thế giới nên họ mải làm ăn, chưa có nhiều thời gian giải trí và

đầu tư cho trẻ tham gia vui chơi giải trí. Phần lớn lực lượng lao động chính ở các

vùng nông thôn thì lên thành phố làm thuê, ở quê chủ yếu còn người già và trẻ chưa

thành niên, họ chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” thu nhập thấp, ngoài

làm nông nghiệp họ còn phải chăm sóc con cháu và trồng trọt, chăn nuôi thêm để có

61

“của ăn của để” nên ít có thời gian hiểu cái đẹp, hưởng thụ cái đẹp và quan tâm đến

cái đẹp.

Kết quả điều tra ở phụ huynh có con dưới 16 tuổi ở Thái Bình cho thấy, bên

cạnh một số phụ huynh không trả lời hoặc “không biết” làm gì để phát triển tính

thẩm mĩ cho con và “ không biết” trẻ có thuận lợi gì khi có tính thẩm mĩ tốt thì đa

số phụ huynh Thái Bình “có quan tâm” đến tính thẩm mĩ của con, nhưng họ chỉ

quan tâm đến trang phục, đầu tóc của con sao cho gọn gàng, chỉ có số ít phụ huynh

quan tâm phát triển tính thẩm mĩ cho con bằng cách dạy trẻ vẽ và tô màu, cho học

thêm mĩ thuật, giúp trẻ lựa chọn phối hợp màu sắc trang phục và trang trí phòng,

cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và tranh ảnh. Chính vì vậy mà khi được hỏi thì có

tới 53 trẻ (chiếm 44,2%) trả lời rằng trong cuộc sống hàng ngày cha mẹ “không”

hoặc “rất ít khi” quan tâm, phát triển tính thẩm mĩ cho con, và lý do các em đưa ra

là vì “ Cha mẹ không có mấy thời gian”, “Bố mẹ mải làm”, “Bố mẹ còn nhiều việc

khác”, “Bố mẹ rất mải”, “Bố mẹ không thích”, “Vì nhà nghèo”,...[44,tr. 3].Thậm chí

có một số phụ huynh sai lầm khi “không quan tâm đến thẩm mĩ của con” vì họ cho

rằng “trẻ không có thuận lợi gì khi có tính thẩm mĩ tốt”, “không muốn con thẩm mĩ

nhiều để rồi lơ là việc học” do đó để phát triển tính thẩm mĩ cho con họ chỉ giúp con

“cảm nhận vẻ đẹp xung quanh từ tranh ảnh” [45,tr. 3].

Bảng 3.6: Nhận xét của trẻ về mức độ quan tâm đến giáo dục thẩm mĩ cho

trẻ trong gia đình

Quan tâm Không hoặc ít quan tâm Tổng

Số trẻ 67 53 120

Tỉ lệ (%) 55,8 44,2 100%

Đây là một trong những sai lầm lớn của một số gia đình ở Thái Bình nói

riêng khi không thấy rõ tầm quan trọng của việc giáo dục thẩm mĩ cho con. Nhất là

khi xã hội càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái đẹp, thể

hiện cái đẹp của con người ngày càng cao và trở thành một nhu cầu quan trọng

trong đời sống hàng ngày. Con người càng yêu quý cái đẹp bao nhiêu thì càng từ bỏ

62

và căm ghét cái xấu bấy nhiêu, nhờ vậy mà con người dần trở nên thanh cao và có

văn hóa. Nhất là khi xu hướng quốc tế hóa đã và đang mở ra khả năng giao lưu văn

hóa giữa các quốc gia thì gia đình càng phải sớm có những định hướng nhất định

cho con mình trong việc đón nhận giá trị văn hóa mới sao cho phù hợp, đồng thời

biết trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ đó tích cực

tạo ra nhiều sản phẩm đẹp cho gia đình và cho xã hội.

Các gia đình cần chú ý giáo dục trẻ quan tâm đến cái đẹp thế nào cho đúng, ăn

nói thế nào, xưng hô và cư xử với mọi người sao cho phù hợp với quy tắc chuẩn

mực của xã hội. Cái đẹp thường gắn với cái chân và cái thiện, nếu thiếu hụt giáo

dục thẩm mĩ của gia đình thì con người dù có bản chất tốt nhưng trong khi giao tiếp,

ứng xử với người khác trở thành cẩu thả, thiếu tế nhị, thậm chí thô lỗ sẽ khiến mọi

người khó chịu. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi mà quan niệm về cái đẹp do

tác động của lối sống phương Tây cũng có nhiều biểu hiện lệch lạc, giáo dục gia

đình Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn lao, nhiều luồng văn hóa thế

giới ồ ạt du nhập mà chưa được gạn lọc, kiểm định kịp thời, đã và đang tạo ra biết

bao tệ nạn xã hội lan tràn ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Đặc biệt là

trong cách ăn mặc, nói năng: Tình trạng nói năng thiếu lễ phép, nói trống không,

chửi thề, chửi tục, cướp lời người khác,... đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều trẻ.

Cách ăn mặc của một số trẻ và thanh niên hiện nay cũng hết sức tùy tiện, ăn mặc hở

hang, kệch cỡm, một số trẻ còn đua đòi nay mốt này mai mốt khác, nhuộm tóc xanh

đỏ tím vàng bất chấp có phù hợp không, điều kiện kinh tế gia đình như thế nào và

phản ứng của xã hội ra sao.

2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em trong gia đình ở

Thái Bình hiện nay.

Kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc

(năm 1990) và ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 1991) tới

nay, công tác giáo dục trẻ em ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần tạo ra

những chuyến biến tích cực trong nhận thức và hành động của toàn xã hội đối với

lĩnh vực này. Tuy nhiên sau 25 năm thực hiện các chương trình hành động quốc gia

63

vì trẻ em, bên cạnh rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận thì nước ta nói chung, trong

đó có tỉnh Thái Bình nói riêng cũng còn rất nhiều vấn đề đặt ra trong công tác giáo

dục trẻ:

2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, mong muốn của gia đình với

thực trạng giáo dục hiện nay ở Thái Bình

- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đòi hỏi

sự nghiệp giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục gia đình phải cung cấp cho xã

hội những nhà hoạt động chính trị sáng suốt, nhạy cảm, hết lòng vì đất nước, nhân

dân; những nhà doanh nghiệp và quản lý giỏi; những nhà khoa học có tư duy sắc

bén, sáng tạo; những nghệ sĩ văn hóa tài ba; những người lao động có tay nghề

cao... Trong khi thực trạng giáo dục vẫn còn nhiều bất cập: sau 16 năm thực hiện

Nghị quyết Trung ương 2, bên cạnh những thành tựu góp phần quan trọng vào

thành công của sự nghiệp đổi mới và đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước

nghèo thì như nhận định trong Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành

Trung ương khóa XI đến nay nền giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự là

quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế,

yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa

VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, có mặt còn nặng nề hơn, mặc dù toàn Đảng,

toàn dân và ngành giáo dục đã bắt tay ra sức thực hành đổi mới căn bản và toàn

diện. Điều này được phản ánh ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại

chúng, tạo nên nhiều bức xúc trong công luận.

Trong xu thế toàn cầu, nhất là từ những thập niên cuối của thế kỷ XX khoa

học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, tạo ra những bước tiến nhảy

vọt, đặc biệt là trong các lĩnh vực điện tử- viễn thông, tin học và công nghệ thông

tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của

đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu với tốc độ chóng mặt,

những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi và đảo lộn nhiều triết lý,

quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết

chính là giáo dục.

64

Trong bối cảnh ấy, kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới

luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Việc tìm kiếm thông tin,

kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở thành phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc

sách, báo giấy trước đây. Sự trợ giúp của các thiết bị công nghệ thông tin với các

phần mềm ứng dụng vô cùng phong phú đã giúp con người nhanh chóng tiếp cận

được một khối lượng tri thức khoa học khổng lồ. Trong khi đó, việc trang bị các

thao tác và lĩnh hội tri thức chủ yếu chỉ diễn ra ở trường và phụ thuộc nhiều vào

năng lực định hướng của người giáo viên, còn các bậc cha mẹ mặc dù có ý thức đầu

tư cho con học, nhưng phần vì mải kiếm tiền, phần vì thiếu tri thức, kỹ năng dạy

con, phần vì không vận dụng được thành tựu của công nghệ thông tin,... nên phần

lớn họ để trẻ tự học ở nhà, trong khi ý thức tự học của phần lớn trẻ em nước ta chưa

cao, kinh nghiệm cuộc sống của các em chưa nhiều cùng với tính tò mò ham hiểu

biết của tuổi mới lớn nên các em rất dễ mắc những sai lầm trong suy nghĩ và hành

động. Tuy nhiên để tránh gây ra hậu quả không mong muốn, một số phụ huynh đã

có suy nghĩ không đúng khi quyết định không cho con tiếp cận với internet. Thay vì

định hướng, giúp con chọn lọc thông tin, họ lại sợ con hư hỏng nếu tiếp xúc với mặt

trái của công nghệ thông tin, để rồi cấm luôn con “không dùng máy tính” và như

vậy họ vô tình lại là người không tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với khoa học công

nghệ và bắt trẻ đi ngược lại xu thế của thời đại.

Trong khi xã hội vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi phải tạo ra một

sức lao động mới năng động, sáng tạo, nhanh nhạy, độc lập và quyết đoán thì công

tác giáo dục, trong đó có giáo dục gia đình vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đó, vẫn

còn mang tính giáo điều, ít được thực hành, chưa lấy thực tế khách quan và yêu cầu

của xã hội làm căn cứ. Gia đình thì “Trăm sự nhờ thầy cô”, thậm chí là phó mặc con

cho nhà trường, không đầu tư tâm huyết dạy bảo trẻ, chi lao vào làm ăn kinh tế. Nhà

trường thì chủ yếu chú trọng việc “dạy chữ”, chưa tiếp cận và phát huy hết thành

tựu khoa học trong giảng dạy. Họ ít dành thời gian dạy trẻ phương pháp, kỹ năng,

cách tự học, dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng

nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia

65

đình, xã hội và Tổ quốc. Kết quả là nhiều trẻ vẫn đạt điểm cao khi áp dụng phương

pháp học vẹt, học tủ, học để thi chứ không phải học để hiểu và vận dụng vào cuộc

sống. Điều này vô tình đã làm trẻ nhầm tưởng đó là phương pháp học đúng, khoa

học và hiệu quả; làm chất lượng giáo dục chậm được cải thiện, không theo kịp tốc

độ phát triển của nhân loại.

Hơn nữa, dưới mái ấm gia đình, phần lớn trẻ được gia đình bao bọc, che chở

nên chỉ thấy mặt tích cực của cuộc sống, không biết đến khó khăn, thất bại, không

phải chịu vất vả khổ cực như thế hệ cha ông; gia đình nào cũng muốn con lớn lên

thành đạt, có thu nhập cao. Do đó, họ đầu tư thời gian và tiền bạc cho con chỉ ăn và

học, cho con học trường chuyên lớp chọn, ít có nhiều thời gian giao lưu tiếp xúc với

thực tiễn xã hội, không đầu tư công sức rèn luyện cho trẻ tính tự lập, khả năng thích

ứng và xử lý tình huống trong cuộc sống. Kết quả là nhiều trẻ như “con mọt sách”,

nói thì giỏi mà không làm được, phát triển thiên lệch, thậm chí luôn thiếu tự tin vào

bản thân khi ra ngoài xã hội, thích dựa dẫm vào người khác, lớn lên dễ chán nản và

thất bại khi đối mặt với khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và mong

muốn của gia đình.

Mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát triển nguồn lực con

người, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, hỗ trợ các gia đình đẩy mạnh

xã hội hóa giáo dục, không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng

nhân tài. Song phần vì chất lượng giáo dục chưa cao, số lượng sinh viên ra trường

thất nghiệp nhiều nên ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của các bậc phụ huynh trong

việc đầu tư cho con học. Các gia đình cho con ăn học chỉ muốn con thành đạt và có

cuộc sống tốt đẹp, mặc dù biết có học thì cách tư duy của con họ cũng tốt hơn,

nhưng họ rất sợ tốn kém thời gian, công sức, của cải cho con ăn học để rồi ra trường

lại thất nghiệp. Nhất là ở một số gia đình nghèo hoặc gia đình còn tư tưởng lạc hậu

“Trọng nam khinh nữ” thì trẻ gái thường bị nghỉ học sớm phụ giúp cha mẹ làm kinh

tế rồi xây dựng gia đình khi đến tuổi trưởng thành. Do đó, suy nghĩ này đã ảnh

hưởng không nhỏ đến tương lai của đất nước không chỉ ở cộc đời cha mẹ trẻ mà còn

cả cuộc đời con cháu họ về sau.

66

Hơn nữa, nền văn minh công nghiệp nói chung, nền kinh tế theo cơ chế thị

trường nói riêng đã tác động mạnh mẽ làm cho tốc độ phát triển tâm sinh lí của trẻ

em rất nhanh. Trong khi đó trình độ học vấn của cha mẹ còn thấp; quan niệm, nội

dung và phương pháp giáo dục của cha mẹ chưa thay đổi hoặc thay đổi chưa phù

hợp, có khi còn trái ngược với các tình huống giáo dục khoa học hiện đại, thậm chí

gây nên tình trạng bất hòa giữa các thành viên, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc

trong gia đình, khiến trẻ dễ mất phương hướng và niềm tin, dễ bị sa ngã trước vô

vàn cạm bẫy của cuộc sống hiện đại, dễ sống buông thả, thiếu trách nhiệm với bản

thân, gia đình và xã hội, thậm chí còn gây nhức nhối cho gia đình và các cơ quan

chức năng trong xã hội.

2.2.2. Mâu thuẫn giữa mong muốn của gia đình với điều kiện cơ sở vật

chất hiện có trong gia đình hiện nay

Điều này xảy ra chủ yếu ở các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo hoặc

cận nghèo, những gia đình có người lao động chính bị tai nạn hoặc bị bệnh hiểm

nghèo. Ở những gia đình này trẻ hầu như chỉ được lo ăn no mặc ấm và được cắp

sách tới trường học, mặc dù cha mẹ nào cũng muốn đáp ứng tốt nhất, tạo điều kiện

cho con phát triển toàn diện, nhưng vì vật chất quyết định ý thức, họ phải lo gánh

nặng cơm áo gạo tiền, trang trải cuộc sống hàng ngày với hàng trăm khoản phải chi

trong khi kinh tế hạn hẹp. Họ rất muốn ở nhà kèm con học, nhưng ở nhà thì lấy gì

chi phí cho tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước, tiền thăm hỏi họ hàng làng xóm,...

vậy là họ lại ủy thác việc giáo dục con vào các lực lượng giáo dục khác, lao vào

cuộc sống kiếm tiền, với hy vọng “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.

Dù nghèo nhưng phần lớn họ đều muốn con được ăn đủ chất, phát triển khỏe

mạnh; muốn trang bị đầy đủ sách vở, trang thiết bị cho con học; muốn con tiếp cận

và vận dụng tốt công nghệ hiện đại để sớm thoát nghèo, thoát khổ. Nhưng những

mong muốn cao đẹp đó của phần lớn các gia đình này đều bị hạn chế bởi cơ sở vật

chất nghèo khó của gia đình, bởi “ cái khó nó bó cái khôn”, “có thực mới vực được

đạo”, điều kiện vật chất thiếu thốn thì con cái cũng bị thiệt thòi mọi mặt. Thậm chí

có gia đình muốn mua máy tính hay sách tham khảo, sách nâng cao cho con bồi

67

dưỡng kiến thức cũng không được. Nhất là ở những gia đình mới kết hôn có con

nhỏ, người chồng bị tàn tật do tai nạn bất ngờ hoặc phải điều trị bệnh hiểm nghèo,

người vợ phải ở nhà trông chồng, chăm con, không có thu nhập thêm, phải trông

chờ vào sự giúp đỡ của người thân, họ hàng, làng xóm và mấy sào ruộng thì tương

lai của con họ sẽ ra sao, vai trò giáo dục trẻ trong gia đình liệu có được phát huy tối

đa?

Tuy nhiên bên cạnh một số gia đình khó khăn thì cũng có rất nhiều gia đình có

kinh tế khá giả, cơ sở vật chất đầy đủ cho con ăn học và phát triển toàn diện. Họ

cũng mong muốn con học giỏi, lớn lên thành đạt có thu nhập tốt. Nhưng vì quá

chiều con, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu vật chất của con mà cứ nghĩ như vậy là

tốt, là yêu con, thay vì dạy con biết sử dụng đồng tiền đúng lúc, đúng chỗ. Kết quả

là trẻ ở một số gia đình này không được như họ mong muốn: không biết quý trọng

sức lao động của cha mẹ và trân trọng giá trị của đồng tiền, ăn chơi, đua đòi, sa ngã

kéo theo nhiều lối sống tiêu cực khác.

Điều này cho thấy công tác giáo dục trẻ cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi điều

kiện cơ sở vật chất hiện có của mỗi gia đình. Nghèo đã khổ, nhưng giàu mà con hư

thì còn khổ hơn. Cho nên dù giàu hay nghèo, nếu không có trình độ hiểu biết và

phương pháp giáo dục khoa học thì cha mẹ cũng dễ để lại cho trẻ kết quả không

mong muốn.

2.2.3. Mâu thuẫn giữa mong muốn của trẻ em với thực trạng giáo dục của

gia đình hiện nay ở Thái Bình

Trẻ em là mầm non của đất nước và là đối tượng được nhân loại hết sức quan

tâm. Ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng vẫn còn một số gia đình có quan

niệm lạc hậu, nặng tư tưởng phong kiến: Trọng nam khinh nữ “nhất nam viết hữu,

thập nữ viết vô” hay “con gái là con người ta”; coi con cái là “sở hữu” của cha mẹ,

cha mẹ yêu cầu gì, ép buộc gì thì con cái cũng phải răm rắp theo, ít được bày tỏ ý

kiến; quan niệm dạy con là việc riêng của từng gia đình, không ai bên ngoài có

quyền góp ý hay can thiệp; nhiều gia đình áp dụng phương pháp “yêu cho roi cho

vọt” đối với con... Do đó nhiều trẻ em phải chịu đánh đập về thể xác, bị xúc phạm

68

danh dự; ý kiến của các em không được cha mẹ tôn trọng. Hậu quả là không ít trẻ

cảm thấy bất mãn và có hành động tiêu cực, một số bỏ nhà đi lang thang và bị rơi

vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội; một số thì trở thành người nhu nhược, không có

chứng kiến riêng. Nguyên nhân là do sự hiểu biết của không ít gia đình về quyền trẻ

em còn mờ nhạt, rất nhiều gia đình chăm lo cho trẻ một cuộc sống đầy đủ về vật

chất và tinh thần, nhưng chuyện con cái bị cha mẹ đánh mắng hay trừng phạt bằng

cách này hay cách khác vẫn diễn ra khá phổ biến; có những gia đình còn dùng trẻ

em để giải quyết mâu thuẫn của người lớn như bắt con chịu khổ về vật chất hoặc

tinh thần, tình cảm để trả thù vợ hoặc chồng, lôi con vào những cuộc tranh cãi của

người lớn, sao nhãng trách nhiệm với con sau li hôn, thậm chí là cho con sẽ lãnh đủ

những hận thù mà cha mẹ thay phiên nhau nhồi vào đầu trẻ khi có cơ hội.

J.J. Rút- Xô đã khẳng định: “Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ lại” tức là

trẻ em có một đời sống tâm lý đặc trưng, thể hiện nhu cầu, hứng thú, suy nghĩ, hành

vi của chúng. Và thực tế cho thấy không phải vô cớ mà trẻ em được đông đảo các tổ

chức trên thế giới công nhận, bảo vệ. Mong muốn của trẻ nhiều khi rất chính đáng

mà đôi khi các gia đình không hiểu và không tôn trọng quyền được làm trẻ, để lại

nhiều hậu quả đáng tiếc chỉ vì hạn chế trong nhận thức và hành động của các bậc

cha mẹ. Họ không thấy được rằng: Hạnh phúc của trẻ ít quyết định bởi nhà giàu hay

nhà nghèo mà phụ thuộc vào bầu không khí tâm lý gia đình. Bất hạnh nhất là trẻ

phải sống trong nỗi sợ hãi, cô đơn ngay dưới mái nhà của mình. Vậy mà trong một

số gia đình cha mẹ trẻ chỉ mải chạy theo đồng tiền, bản thân họ cũng bị đồng tiền

làm méo mó, lệch lạc, không còn xứng đáng làm gương cho con, còn đâu uy tín để

giáo dục con cái trong nhà; càng không có thời gian quan tâm, chia sẻ, trò chuyện

với con; không biết con mình cần gì nhất, chỉ biết áp đặt suy nghĩ chủ quan của

mình hoặc “hối lộ”, “an ủi” con bằng cách cho con thật nhiều tiền thích làm gì thì

làm như thể con họ cũng thích tiền như họ vậy. Trong khi trẻ còn nhỏ không cần

nhiều tiền, không biết nhiều tiền để làm gì mà chỉ muốn sống trong mái ấm gia đình

có sự gắn bó yêu thương của cha mẹ, thèm được một bữa tối vui vẻ có đầy đủ các

thành viên, thèm được đi chơi với cả cha và mẹ, được trò chuyện, lắng nghe, chia sẻ

69

với cha mẹ thân thiện, thoải mái như những người bạn. Trong hoàn cảnh như vậy,

một số trẻ có tiền cộng với sự chán nản, sự thiếu hiểu biết đã rủ nhau tìm đến các

quán bi-a, karaoke, thậm chí còn bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội nguy hiểm khác

như cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, cầm đồ. Trong khi cha mẹ vì mải kiếm tiền, để có

nhiều tiền cha mẹ đã quên đi nhiệm vụ giáo dục con cái, đến khi biết con mình hư

hỏng thì đã quá muộn! Khổ đau thay đồng tiền mà họ kiếm được dẫu bằng sự vất vả

hay dễ dàng đều bị con cái họ coi thường và trở nên vô nghĩa. Nhiều em ở lứa tuổi

này đã có tình trạng không muốn về nhà- nơi luôn xảy ra bất đồng và cãi vã nhau,

chẳng còn đâu tình yêu và trách nhiệm, sự ấm áp của một gia đình thực thụ. Do đó

trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và mất niềm tin vào chính gia đình mình.

Trẻ muốn được sống trong một gia đình có cha có mẹ hạnh phúc, được cha mẹ

tôn trọng, yêu thương, vỗ về và hết lòng dạy bảo. Nhưng người lớn nhiều khi vì

lòng tự ái, tự trọng cá nhân sẵn sàng li dị, chẳng quan tâm đến cuộc đời của trẻ sẽ ra

sao nếu thiếu bố hoặc thiếu mẹ. Sự chia tay của cha mẹ đã làm đảo lộn trật tự gia

đình và làm tổn thương nghiêm trọng đến tinh thần non nớt của trẻ, làm trẻ chán

nản và dễ đến với vòng tội lỗi.

Trẻ muốn được tôn trọng, được tự do sáng tạo, trải nghiệm và khám phá môi

trường xung quanh, muốn khẳng định mình thì ngược lại phần lớn các bậc cha mẹ

trẻ lại thích áp đặt, can thiệp vào mọi suy nghĩ, hành động của con. Ngay cả khi trẻ

tô màu hoặc chơi trò chơi với nhau, thay vì để trẻ tự khám phá và trải nghiệm thì

cha mẹ lại biến trẻ thành con rối để giật dây, nhắc trẻ phải thế này, không được thế

kia, thậm chí là xúc phạm, mỉa mai trẻ nếu trẻ không nghe theo cha mẹ. Trong

nhiều khu vui chơi dành cho trẻ em ở Thái Bình, số lượng phụ huynh nhiều khi còn

chiếm chỗ nhiều hơn cả trẻ ngay cả khi con họ đã biết chơi và biết thiết lập quan hệ

với bạn chơi. Hành động này nhiều khi xuất phát từ suy nghĩ giản đơn của một số

phụ huynh vì muốn tốt cho con, muốn bảo vệ con được an toàn, nhưng tình yêu

thương của họ đôi khi không đúng cách, sự hy sinh không đúng nơi, đúng lúc nhiều

khi lại là hại con, trẻ không phát huy được tính tự lập,cũng như khả năng làm chủ

và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, không tìm cách để tự tìm cách vượt qua

70

khó khăn, bởi trẻ biết rằng cha mẹ luôn dõi theo, giúp đỡ trẻ và trong mắt cha mẹ trẻ

luôn là đứa con bé bỏng cần che chở. Điều đó kìm hãm tư duy năng động, tích cực,

chủ động, sáng tạo của trẻ; biến trẻ thành người lười biếng, ỷ lại, luôn tìm cách đổ

lỗi khi thất bại và gục ngã khi gặp khó khăn trong cuộc sống.

Trẻ muốn cha mẹ đối xử với các con bình đẳng như nhau; muốn được sống

trong một gia đình hạnh phúc; các thành viên trong gia đình yêu thương, gắn bó,

chia sẻ và tôn trọng nhau. Trẻ rất hoang mang và mất niềm tin khi người lớn trong

gia đình không thống nhất quan điểm trong việc giáo dục trẻ, người nọ nói xấu chê

bai người kia, lời nói không đi đôi với việc làm, cha mẹ không gương mẫu hay nói

tục chửi bậy nhưng bắt trẻ phải tuân theo các chuẩn mực xã hội: ngoan ngoãn,thật

thà, khiêm tốn, lễ phép và hiếu thảo...vv

Cha mẹ luôn muốn trẻ sau này lớn lên xa gia đình phải biết sống tự lập và làm

chủ bản thân; biết kiềm chế, làm gì cũng phải suy nghĩ và có lý do chính đáng; phải

tôn trọng người khác và có quan điểm, lập trường rõ ràng,... Nhưng bản thân cha mẹ

trong cuộc sống hàng ngày lại dễ nôn nóng, bực tức và đánh mắng trẻ, nhất là khi

trẻ mắc lỗi hoặc không làm được như mong muốn của cha mẹ; Nhiều cha mẹ không

giảng giải cho trẻ hiểu về những lý do phải làm thế này, không được làm thế kia,

hoặc cho trẻ biết vì sao sai và làm thế nào mới đúng mà còn mỉa mai, xúc phạm trẻ;

thậm chí còn uy hiếp trẻ bằng cách lấy bác sĩ hoặc những người có bề ngoài hung

dữ để dọa nạt trẻ. Làm như vậy sẽ gieo vào đầu trẻ sự ngộ nhận tai hại, trẻ dễ nhầm

tưởng đó là người xấu, dẫn đến sợ và ghét họ; Một số phụ huynh còn xem trẻ như

một thứ đồ chơi thụ động theo tâm trạng vui- buồn của cha mẹ, lúc vui thì hôn nựng

và dành hết sự yêu thương, khi buồn thì dễ đánh mắng, trút giận lên trẻ, để rồi sau

khi bình tĩnh lại đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan thay vì nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi.

Trẻ muốn có không gian riêng, muốn được chọn bạn chơi, muốn được tự

quyết định những vấn đề đơn giản trong cuộc sống phù hợp với khả năng. Nhưng

không ít gia đình lại áp dụng phương pháp quản lý con một cách khắt khe quá đáng,

cấm đoán con đủ điều, không cho con giao lưu và vui chơi với bạn bè, hạn chế con

tiếp xúc với xã hội, với internet,... thậm chí bao bọc, làm hộ con mọi việc, xử lý

71

giúp con mọi khó khăn trong cuộc sống thường ngày ở gia đình và ngoài xã hội,

“nhất cử nhất động” của con họ đều kiểm tra, kiểm soát rất nghiêm ngặt. Sự quản lý

phản khoa học, trái với tâm lý lứa tuổi này đã kìm hãm mong muốn vươn lên làm

người lớn và tự khẳng định mình của trẻ, khiến trẻ luôn cảm thấy mất tự do, biến trẻ

thành người nhu nhược, thụ động, thiếu ý chí. Và khi bị dồn nén đến mức không

chịu đựng được, trẻ sẽ có biểu hiện đấu tranh và tìm cách thoát khỏi sự quản lý khắt

khe của cha mẹ và sống theo suy nghĩ non trẻ của mình.

Tuy nhiên bên cạnh những mong muốn chính đáng, trẻ và người lớn cũng có

một số quan điểm sai lầm gây khó khăn cho công tác giáo dục trong gia đình: Do

chênh lệch thế hệ và nhận thức nên trẻ thường cho rằng người lớn lạc hậu, trong khi

đó ông bà cha mẹ thì nhận thấy rằng trẻ em hôm nay thiếu tinh thần kỷ luật và quá

tự do, chúng chỉ thích làm điều chúng muốn mà không cần sự chấp thuận của người

lớn. Điều đó tạo nên khoảng cách và sự khác biệt trong quan niệm sống, đồng thời

nảy sinh sự thiếu tôn trọng, cảm thông giữa người lớn và con trẻ. Cha mẹ khó có thể

giúp trẻ chạm trán với những vấn đề riêng tư mà chúng gặp phải trong cuộc sống,

trong khi trẻ lại giữ im lặng và cho rằng mình có quyền tự quyết định và đó là việc

riêng tư của cá nhân, người lớn không cần xen vào. Thậm chí còn xem sự thăm hỏi

của cha mẹ như một sự xúc phạm, nên đôi khi nổi giận một cách vô cớ. Có nhiều

bậc cha mẹ muốn là chỗ dựa tích cực và hiệu quả cho trẻ bước vào cuộc sống, nhất

là khi gặp khó khăn, họ sợ trẻ chịu ảnh hưởng xấu của bạn bè và những trào lưu

sống buông thả ngoài xã hội nên họ đã hạn chế tối đa không cho con ra ngoài một

cách tự do. Ngược lại trẻ lại cảm thấy đó là một sự quản lý nghiêm ngặt và cứng

nhắc, nên muốn khẳng định mình và không cần sự trợ giúp của người lớn, dễ dẫn

đến nhiều hậu quả khó lường và đáng tiếc.

Những tác động tiêu cực của xã hội đã kéo dài khoảng cách giữa cha mẹ và

con cái, những hạn chế trong nếp sống gia đình cùng với những thay đổi khó hiểu

của trẻ em ngày nay càng làm cho các bậc làm cha, làm mẹ càng trở nên lúng túng

trong việc giáo dục con em mình. Trong khi những biện pháp giáo dục cũ theo kiểu

giáo điều, áp đặt, đánh mắng không còn hiệu lực; phần lớn các bậc cha mẹ trẻ trước

72

khi kết hôn không được bồi dưỡng qua trường lớp hay khóa đào tạo nào về cuộc

sống gia đình và cách dạy con mà chủ yếu vận dụng, kế thừa và rút kinh nghiệm từ

tuổi thơ của mình, từ cha mẹ và những người xung quanh nên họ chưa tìm cho mình

được phương pháp giáo dục mới phù hợp với trẻ. Cho nên, nếu các bậc cha mẹ vẫn

tiếp tục áp dụng những phương pháp cũ theo kiểu giáo huấn, áp đặt từ trên xuống dễ

bị trẻ bỏ ngoài tai và sống theo kiểu của riêng mình, khiến nhiều bậc cha mẹ phải lo

lắng, đau đầu. Một số bậc làm cha làm mẹ do không đủ kiến thức, không đủ biện

pháp dạy dỗ con, chỉ biết “chắp tay nhờ trời” dẫn đến khi không còn ảnh hưởng với

trẻ thì bỏ mặc trẻ cho “số phận”.

2.2.4. Những tác động ngƣợc chiều giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội

trong giáo dục trẻ em

Gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là “tam giác” giáo dục quan

trọng đối với mỗi trẻ. Tầm quan trọng của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ

giữa ba lực lượng này trong việc giáo dục trẻ thì hầu như ai cũng hiểu, nó được ví

như chiếc “kiềng ba chân” đơn giản, vững chắc và không thể thiếu bất kỳ chân nào.

Trong quá trình được giáo dục, trẻ liên tục chịu tác động từ nhiều phía : gia

đình- nhà trường- xã hội. Trong gia đình có những tác động của cha mẹ, của anh chị

em, của nếp sống gia đình,... Trong nhà trường có những tác động của giáo viên,

của tập thể lớp, của nội quy, của nội dung, phương pháp tổ chức giáo dục,... Trong

xã hội có tác động của các cơ quan thông tin đại chúng, của phim ảnh, sách báo, của

các đoàn thể và tổ chức xã hội,...Những tác động đó có thể tạo ra những ảnh hưởng

tích cực hoặc tiêu cực đối với trẻ. Và mỗi lực lượng này lại có chức năng giáo dục,

xã hội hóa cá nhân không hoàn toàn giống nhau, do vậy chúng sẽ bổ sung cho

nhau: Những mặt mạnh của giáo dục gia đình sẽ bổ sung cho giáo dục nhà trường

và xã hội; đồng thời giáo dục gia đình cũng cần được bổ sung những mặt mạnh của

giáo dục nhà trường và xã hội. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu giữa ba lực lượng giáo dục

này có những tác động ngược chiều nhau khi dạy trẻ?

Thực tế giáo dục trẻ cho thấy giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa có sự

phối hợp chặt chẽ với nhau và khi kết quả giáo dục trẻ không như mong muốn thì

73

lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau: Một số bậc phụ huynh xem nhà trường là môi

trường giáo dục duy nhất cho trẻ nên khi trẻ hư thì đổ lỗi hoàn toàn cho nhà trường

là “ thầy cô dạy thế” hoặc đổ lỗi cho xã hội “xã hội quá nhiều tiêu cực, cạm bẫy làm

cho trẻ hư”,... Một bộ phận giáo viên ở một số trường thì chỉ tập trung cho chất

lượng học tập, xem nhẹ giáo dục đạo đức nên khi trẻ hư thì chỉ biết đổ lỗi cho gia

đình và xã hội, chưa thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục, chưa

kết hợp “dạy chữ” với “dạy người”. Các lực lượng xã hội lại kêu ca rằng nhà

trường, gia đình chưa có giải pháp cho giáo dục, đưa ra xã hội nhiều “phế phẩm”,

“sản phẩm của giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu xã hội”,... Việc đổ lỗi cho nhau giữa

ba lực lượng này xuất phát từ sự phối hợp lỏng lẻo giữa gia đình- nhà trường- xã

hội, là hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” kéo theo nhiều hệ lụy đáng

tiếc, thậm chí giữa ba lực lượng này còn xuất hiện những biểu hiện ngược chiều

nhau, tạo ra nhiều “lực nhiễu” gây khó khăn trong quá trình giáo dục trẻ. Chẳng

hạn:

*) Tác động ngược chiều giữa nhà trường, xã hội với gia đình

- Trong lĩnh vực tham gia giao thông, khi nhà trường và xã hội đã có sự kết

hợp khá tốt trong việc trang bị kiến thức và thực hiện an toàn giao thông cho trẻ,

nhưng rất nhiều gia đình trẻ lại thiếu ý thức hợp tác, thậm chí còn thực hiện trái

chiều. Cụ thể: Ở nhà trường, trẻ em đã được học một số quy tắc khi tham gia giao

thông ngay từ bậc mẫu giáo thông qua chủ đề giao thông, qua các bài hát, câu hát dễ

hiểu: “đường em đi là đường bên phải,....đường bên trái thì em không đi, đường bên

phải là đường em đi” hay “Trên sân trường chúng em chơi giao thông.... Đèn bật

lên, đèn đỏ thì em dừng lại,... đèn xanh em nhanh qua đường”, lên các cấp học trên

trẻ vẫn tiếp tục được củng cố và nâng cao kiến thức về an toàn giao thông. Xã hội

thì bảo vệ các em bằng một số điều khoản trong luật giao thông đường bộ như trẻ

em dưới 16 tuổi không được đi xe phân khối lớn và từ 6 tuổi trở lên phải đội mũ bảo

hiểm khi tham gia giao thông. Việc thi hành pháp luật cũng được tiến hành gắt gao

với sự kết hợp của nhà trường và xã hội. Tuy nhiên không ít phụ huynh lại thực

hiện ngược lại: chở trẻ đi ngược đường một chiều hoặc vượt đèn đỏ, lạng lách đánh

74

võng, phóng nhanh vượt ẩu, không đội mũ bảo hiểm,... thậm chí bỏ ngoài tai sự

nhắc nhở của con trẻ. Có những gia đình có con học Trung học cơ sở vẫn cho con

đến trường bằng xe phân khối lớn, bất chấp và lách luật bằng cách gửi xe ở những

bãi xe xung quanh trường.

- Trong khi nhà trường và xã hội lên án những hành vi mê tín dị đoan thì ông

bà, cha mẹ trẻ lại không tập trung làm ăn và xây dựng gia đình hạnh phúc, lại tin

vào xem bói, cầu cúng hết chỗ này đến chỗ khác. Thậm chí còn có phụ huynh đi

đền, chùa xin cho con được điểm cao mỗi khi thi học kỳ hoặc thi hết cấp, xin cho

giám thị không nhìn thấy những hành vi gian lận của con.

- Nhà trường dạy trẻ phải nỗ lực phấn đấu mới có được kết quả cao và thành

đạt. Xã hội cũng có nhiều chính sách khuyến khích nhân tài, chính quyền địa

phương và các đoàn thể xã hội thường xuyên tuyên dương và có nhiều phần thưởng

ý nghĩa để động viên học sinh có thành tích học tập xuất sắc. Nhưng một số phụ

huynh lại thở dài, giáo dục trẻ tiêu cực rằng: “có tiền mua tiên cũng được”, “học tài

thi phận” hay “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, rằng ai cũng

có số, tất cả phụ thuộc vào may rủi. Thậm chí còn chế giễu làm trẻ chán nản, triệt

tiêu động lực phấn đấu của trẻ.

- Nhà trường và xã hội khuyến khích trẻ rèn luyện cả tài và đức như lời Bác

Hồ dạy , phải thật thà, đoàn kết, nhân ái, không được ích kỷ,...Nhưng một số cha mẹ

lại dạy trẻ cách lừa thầy dối bạn để được điểm cao; mua gian bán lận; bạn đánh vào

lưng thì phải đánh lại vào mắt, vào bụng; bạn đánh một cái trẻ phải đánh lại ba, bốn

cái.

- Nhà trường dạy trẻ tiếp cận với công nghệ thông tin để củng cố kiến thức và

nâng cao hiểu biết. Về nhà, cha mẹ lại cấm không cho trẻ tiếp xúc với máy tính có

kết nối mạng. Cách suy nghĩ tiêu cực này của cha mẹ vô tình đã bắt trẻ đi ngược lại

xu thế của thời đại, kìm hãm sự phát triển của trẻ về nhiều mặt.

- Giáo viên giao bài tập để củng cố, mở rộng kiến thức cho trẻ về nhà làm.

Nhưng ở một số gia đình nông thôn, cha mẹ lại không đầu tư thời gian và giúp đỡ

con học. Họ cho rằng: “Học ở trường, về nhà phải tham gia lao động giúp đỡ cha

75

mẹ” với những công việc cụ thể như trông em, quét dọn nhà cửa, rửa bát nấu cơm,

làm việc đồng áng, chăn trâu cắt cỏ, thu hoạch ngô khoai,... trẻ mà có thái độ chống

đối thì bị quát mắng “ không làm thì lấy cái gì mà ăn với chả học”.

- Ngay cả khi họp phụ huynh cho con, mỗi năm chỉ có 2- 3 lần. Vậy mà vẫn có

phụ huynh vắng mặt hoặc nhờ người khác điểm danh hộ, không cần biết kết quả học

tập và rèn luyện của con ở lớp ra sao, có những phụ huynh cả năm cũng không có

cuộc trò chuyện nào với giáo viên chủ nhiệm. Thậm chí, khi trẻ có những hành vi

sai lệch, giáo viên yêu cầu gặp mặt phụ huynh trao đổi và thống nhất cách giáo dục

thì một số phụ huynh còn lấy lý do ốm đau, bận mải không đi được. Thái độ bất hợp

tác đó của phụ huynh đối với nhà trường đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác

giáo dục trẻ ở nhà trường và xã hội.

*) Tác động ngược chiều giữa gia đình, xã hội với nhà trường:

- Đôi khi các bậc cha mẹ rất muốn cho con mình được bồi dưỡng thêm khả

năng giao tiếp cuộc sống để khi trẻ bước vào đời được vững vàng, không bị ngỡ

ngàng, thiệt thòi. Xã hội cũng tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động giao

lưu, văn nghệ ở các tổ chức đoàn hội, tham gia các hoạt động thể dục thể thao của

tỉnh và địa phương, được nghỉ học để tham gia hoạt động trung thu,... Nhưng giáo

viên của trẻ lại giao cho các em rất nhiều bài tập về nhà, càng nghỉ nhiều càng nhiều

bài tập. Điều này gây khó khăn cho các gia đình trong việc rèn luyện kỹ năng sống

và bồi dưỡng, củng cố tình cảm gia đình, dòng họ cho trẻ.

- Phần lớn các bậc cha mẹ và các lực lượng xã hội khuyến khích, động viên trẻ

cố gắng phấn đấu rèn luyện bản thân, học tập chăm chỉ để có kết quả cao, lớn lên

trở thành người có ích cho gia đình và xã hôị. Nhưng thực tế ở một số trường vẫn

còn hiện tượng tiêu cực, không đánh giá đúng thực lực của trẻ, tình trạng nâng đỡ

kết quả học tập và rèn luyện cho con cháu các thầy cô và lãnh đạo vẫn còn tồn tại,

tình trạng phụ huynh trẻ hối lộ thầy cô để “mua điểm”, “mua bằng” cho con vẫn

còn.

- Trong khi xã hội mong muốn ngành giáo dục đổi mới phương pháp kiểm tra,

đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.

76

Nhiều gia đình cũng sẵn sàng đầu tư tiền của, trang thiết bị hỗ trợ học tập để con

thành tài thì trong các nhà trường vẫn chưa đáp ứng được mong mỏi đó của gia đình

và xã hội. Thậm chí nhiều giáo viên vẫn còn chậm nắm bắt và chưa vận dụng thành

công những thành tựu của khoa học- công nghệ hiện đại vào quá trình giảng dạy,

kiểm tra và đánh giá học sinh.

- Trong quá trình giáo dục, một số thầy cô ở nhiều bậc học đã có cách giáo dục

học sinh “không giống ai, không ai dạy và không ai đồng tình” như: úp mặt vào

tường, phạt học sinh chép lại bài 20 lần, đuổi học sinh ra khỏi lớp, phạt học sinh

đứng một chân trong vòng tròn, bêu xấu, đánh mắng, xúc phạm các em...nhưng vì

khi thực hiện thấy có hiệu quả trước mắt nên họ đã áp dụng như một kinh nghiệm

mà không lường trước rằng sai lầm đó sẽ in hằn dấu ấn không tốt trong suốt cuộc

đời trẻ, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục và ý thức “ tôn sư trọng đạo”

trong xã hội.

- Có trường hợp học sinh không đủ điều kiện lên lớp, gia đình cũng muốn cho

con học lại cho vững kiến thức và xã hội ủng hộ việc làm đó. Nhưng vì thành tích

thi đua của trường và sợ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của các phòng ban

khác, nhà trường đó lại phải đẩy học sinh đó lên lớp.

*) Tác động ngược chiều giữa gia đình, nhà trường với xã hội:

- Trong khi gia đình và nhà trường cố gắng hướng trẻ em đến một tâm hồn

trong sáng, cao đẹp, sống hết mình vì mọi người thì mặt tiêu cực của xã hội lại nhấn

mạnh đến bằng cấp, địa vị, quyền lực, sự giàu có. Điều này ảnh hưởng lớn đến quan

điểm sống của trẻ mà đôi khi cả gia đình và nhà trường cũng không uốn nắn lại

được.

- Gia đình, nhà trường và xã hội dạy trẻ phải biết lên án những hành vi, lối

sống không lành mạnh. Nhưng chính trong gia đình trẻ lại có thành viên sống buông

thả: ngoại tình, say xỉn, lô đề, cờ bạc,... mà trẻ không dám lên án. Bởi nếu trẻ nói sẽ

bị đánh mắng và xúc phạm. Khi đó ai sẽ là người bảo vệ trẻ, trong khi pháp luật và

các cơ quan chức năng chưa thực sự vào cuộc và nhận thức của nhiều gia đình về

quyền trẻ em cũng như về pháp luật chưa cao. Họ coi việc dạy con, đánh mắng con

77

là chuyện trong nhà, không liên quan gì đến xã hội. Điều này làm mất động lực,

niềm tin của trẻ vào gia đình và những điều tốt đẹp, tích cực của cuộc sống.

Nhì chung, những tác động ngược chiều này giữa các lực lượng giáo dục đã

gây khó khăn rất lớn đến quá trình giáo dục trẻ, làm cho trẻ hoang mang và mất

niềm tin vào cuộc sống, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc, để rồi hậu quả đó lại tác

động trở lại tạo sức ép cho gia đình, nhà trường và xã hội. Do đó các cấp, các

ngành, các đoàn thể xã hội và các gia đình phải quan tâm hơn nữa đến từng cá nhân

trẻ. Đồng thời thống nhất với nhau về mục tiêu, nội dung và phương thức giáo dục,

tạo cho trẻ môi trường sống lành mạnh ngay từ nhỏ để trẻ có điều kiện phát triển

toàn diện, góp phần xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp.

78

Kết luận chƣơng 2

Thực trạng trên ở Thái bình ta thấy phần lớn các gia đình đều quan tâm đầu tư

chăm lo cho trẻ, nhất là các vấn đề liên quan đến giáo dục đạo đức, trí tuệ và thể

chất và phần lớn trẻ em Thái Bình đều yêu quý gia đình và có ý thức tốt. Song do

nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên giáo dục gia đình ở Thái Bình vẫn

đang đứng trước những khó khăn, hạn chế hiệu quả của giáo dục như: Ý thức trách

nhiệm của cha mẹ trẻ chưa đầy đủ, trình độ hiểu biết và năng lực giáo dục con của

một bộ phận cha mẹ còn thấp, phương pháp giáo dục chưa phù hợp với thời đại, cha

mẹ chưa đầu tư thời gian và sự quan tâm thích đáng đối với trẻ, còn tư tưởng bao

bọc, áp đặt và sở hữu trẻ; sự xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận thế hệ trẻ,

sự phát triển của khoa học công nghệ, mặt trái của cơ chế thị trường, mâu thuẫn

giữa các thế hệ trong gia đình và những tác động ngược chiều giữa gia đình- nhà

trường- xã hội,.... Do đó, trên cơ sở tìm ra những hạn chế, thách thức, những vấn đề

đang đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em ở Thái bình, các gia đình cần có cách

nhìn toàn diện để tháo gỡ những mâu thuẫn, khắc phục hạn chế, đồng thời phát huy

những tác dụng tích cực của gia đình, góp phần tạo nên tế bào lành mạnh cho xã

hội; không nên áp đặt rập khuôn, máy móc kinh nghiệm, phương pháp giáo dục mà

mình được hưởng cho trẻ, bởi mỗi thời đại đều có những phương pháp giáo dục

đặc thù. Cha mẹ phải xuất phát từ thực tiễn khách quan của gia đình và xã hội, cũng

như cá tính riêng của từng trẻ mà lựa chọn cách thức tác động phù hợp, đồng thời

cần tôn trọng quyền được làm trẻ em và những nhu cầu vật chất, tinh thần chính

đáng, hợp lý của trẻ. Cha mẹ phải nhận thức rõ rằng trở thành cha mẹ thì dễ nhưng

xứng đáng là cha mẹ thì rất khó, mặc dù cha mẹ nào cũng thương con, mong muốn

con cái nên người thành đạt, nhưng chỉ có lòng mong muốn tốt đẹp thôi thì chưa đủ

mà cần phải có kiến thức hiểu con và phương pháp dạy con khoa học mới đảm bảo

xây dựng được thế hệ trẻ mà xã hội đang chờ đón.

79

CHƢƠNG 3

QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRẺ EM Ở

THÁI BÌNH

3.1. Những quan điểm cơ bản

3.1.1. Trẻ em là vốn quý của gia đình, là lớp công dân đặc biệt của xã hội,

phải dành cho trẻ em theo tinh thần “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.

Quan điểm này thể hiện cách nhìn nhận về trẻ em, về vị trí vai trò của các em

với gia đình, xã hội, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đồng thời thể

hiện chính sách ưu tiên giành những gì tốt đẹp nhất mà mỗi gia đình, cộng đồng và

toàn xã hội đang có cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển trẻ em. Đây cũng là yêu cầu

có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước ta và của mỗi gia đình hiện nay.

Đồng chí Lê Khả Phiêu- nguyên tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng

đã nói: “Ưu tiên cho trẻ em có nghĩa là phải coi trẻ em là đối tượng được quan tâm

trước tiên trong mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, trong chính sách của Nhà nước và

trong công tác xây dựng Đảng; là tìm mọi cách để đáp ứng những yêu cầu cần thiết

nhất cho sự phát triển lành mạnh của trẻ trong điều kiện có thể”. Bước vào thế kỷ

XXI, khâu đột phá chiến lược trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hình thành những thế hệ người lao động Việt Nam có

phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng làm chủ khoa học

và công nghệ hiện đại, có thể lực tốt, có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao, phát

huy được truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng tâm hiệp lực đưa đất nước

thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó trước

hết phụ thuộc vào việc chăm lo, bảo vệ, giáo dục, phát triển toàn diện thế hệ trẻ hôm

nay. Các thế hệ nối tiếp giỏi hơn chúng ta về mọi mặt thì đó sẽ là điều hạnh phúc

của đất nước.

Ưu tiên cho trẻ em chính là thể hiện quan điểm coi con người là trung tâm của

sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi chủ trương kinh tế xã hội phải hướng vào mục tiêu

80

phát triển con người nâng cao chất lượng cuộc sống và đem lại hạnh phúc cho con

người, mà trước hết là trẻ em. Đó là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta:

Con người là vốn quý nhất, mà thiếu niên, nhi đồng lại là cái vốn quý nhất trong các

vốn quý nhất đó. Giành ưu tiên cho trẻ em là phù hợp với nguyên tắc quan trọng của

Đảng ta về sự phát triển nguồn nhân lực bền vững. Quan điểm đó phải được thể

hiện trong từng gia đình, từng cộng đồng, trong kế hoạch phát triển của các ngành,

các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực thuộc chính sách xã hội và phúc lợi xã hội.

Trong lúc thuận lợi cũng như khó khăn, chiến lược bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ

em phải được tôn trọng, xem xét và giải quyết trước trong chiến lược phát triển kinh

tế xã hội của đất nước.

Ưu tiên cho trẻ em cũng chính là đặt niềm tin vào trẻ em, coi trẻ em là người

có sứ mệnh quyết định vận mệnh của quốc gia trong tương lai. Những gì tốt đẹp mà

các thế hệ cha anh chưa làm được thì cần bồi dưỡng, tạo cơ hội cho các thế hệ trẻ

sau này làm được. Cần hiểu trẻ, tôn trọng trẻ và tạo điều kiện để các em phát triển

một cách đầy đủ nhất về mọi phương diện.

Quan điểm này cũng phù hợp với xu thế thời đại: Không có gì thiêng liêng

hơn niềm tin và thế giới đặt vào trẻ em, bởi vì “Trẻ em hôm nay- thế giới ngày

mai”, thể hiện nguyên tắc của một thế giới phù hợp với trẻ em, rằng: Trong mọi

công việc của chúng ta, quyền lợi tốt nhất của trẻ em phải luôn được đặt lên hàng

đầu, không được đặt vấn đề trẻ em đằng sau mọi việc.

Hưởng ứng ngày quốc tế thiếu nhi và tháng hành động vì trẻ em năm 2015 các

tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể ở Thái Bình đã có nhiều hành động thiết

thực thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Hầu như ở các cơ quan nhà nước,

các xí nghiệp thì trẻ em trong các gia đình có cha hoặc mẹ làm việc đều được nhận

quà hoặc khen thưởng. Ở các làng quê, xã phường trên địa bàn Thái Bình năm nào

cũng tổ chức cho trẻ vui tết trung thu và thâm gia các hoạt động cộng đồng. Gần

đây Thư viện tinhhr Thái Bình phối hợp với Sở Giáo dục và đào tạo đã tổ chức hoạt

động cấp thể miễn phí cho các em tiểu học và trung học cơ sở từ ngày 01 đến

81

15/6/2015, nâng tổng số bạn đọc thiếu nhi của thư viện lên gần 900 thẻ. Thư viện

luôn tăng cường, bổ sung nguồn sách báo mới và bàn ghế cho các em ngồi đọc.

3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và nhu cầu của trẻ

em, bảo đảm cho trẻ em phát triển hài hòa về nhân cách- là yếu tố cơ bản bảo

vệ hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã hội

Đường lối chủ trương của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam và các đạo luật của Nhà nước đã đề cập đến các quyền của trẻ em mà Nhà

nước đã phê chuẩn.

Các quyền cơ bản của trẻ em bao gồm các quyền dân sự, kinh tế, văn hóa, xã

hội. Đó là quyền khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc nuôi dạy phát

triển về mặt thể chất, trí tuệ, đạo đức, quyền được sống với cha mẹ, được Nhà nước

và xã hội tôn trọng, bảo về tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; quyền được

bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, quyền được học tập

và có bổn phận học hết chương trình giáo dục phổ cập; quyền được vui chơi, giải trí

lành mạnh, quyền có tài sản thừa kế, quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm theo

quy định của pháp luật. Nội dung các quyền trên bắt buộc mọi người dân, mội tổ

chức xã hội phải thực hiện.

Tuy nhiên quyền luôn đi liền với nghĩa vụ, nhằm đáp ứng yêu cầu tồn tại, phát

triển của gia đình và nhu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy cần giúp trẻ em hiểu rõ

việc thực hiện quyền phải gắn liền với việc thực hiện bổn phận của các em. Trong

khi học để biết quyền của mình thì cũng biết quyền của người khác để trẻ em biết

tôn trọng, biết bổn phận của mình đối với việc thực hiện quyền của những người

xung quanh, trước hết là các thành viên trong gia đình. Điều này có ý nghĩa rất quan

trọng đối với việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ, trẻ biết tôn trọng giá trị

của bản thân, kính trọng ông bà, cha mẹ, sống trên kính dưới nhường, biết tôn trọng

bản sắc dân tộc, biết quan tâm đến lợi ích chung, biết bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

và môi trường sống. Từ đó hình thành tình cảm, đạo đức xã hội của thế hệ trẻ đối

với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước, chuẩn bị cho trẻ một cuộc sống có

trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

82

Đề cao việc tôn trọng và thực hiện các quyền của trẻ em chính là làm cho xã

hội tôn trọng quyền và tin vào trẻ em, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội- xã hội

chủ nghĩa Việt Nam; khắc phục những quan niệm lạc hậu, hay coi thường, phân biệt

trẻ em đang tồn tại trong suy nghĩ và hành động của người lớn.

Đảm bảo sự phát triển hài hòa về nhân cách của trẻ em không chỉ là đảm bảo

thực hiện nhóm quyền cao cả nhất của trẻ em, mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết

định đến sự phát triển của gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đối với

vận mệnh đất nước trong tương lai. Nhất là khi nhân loại đang sống trong thế kỷ

XXI- thế kỷ tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đồng thời

cũng là thế kỷ có những thử thách, biến động, đòi hỏi thế hệ tương lai phải có đủ

sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể lực, tình cảm, tâm lý, nhận thức xã hội. Các em

phải được tạo điều kiện phát triển một cách hài hòa, toàn diện. Được trưởng thành

trong môi trường hòa thuận, bản thân các em có điều kiện trở thành người tốt, trong

một gia đình tiến bộ sẽ giúp các em phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, đề cao năng

lực tự hoàn thiện mình, lớn lên sẽ trở thành người có ích cho xã hội.

Trong quá trình giáo dục trẻ em cần quan tâm xây dựng bản lĩnh chính trị

vững vàng, có khả năng thích ứng và làm chủ cuộc sống sôi động với nhiều diễn

biến phức tạp. Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục về tư tưởng chính trị, lý tưởng xã hội chủ

nghĩa, ý thức dân tộc, đạo đức lối sống trong sáng cùng với việc chăm lo sức khỏe,

phát triển năng lực trí tuệ và ý thức tự bảo vệ bản thân đang trở thành một trong

những mối quan tâm hàng đầu của công tác giáo dục trẻ.

3.1.3. Thực hiện công bằng về giáo dục trẻ em trong gia đình và trong xã

hội

Thực hiện công bằng xã hội trong từng bước tăng trưởng là một nội dung quan

trọng của chiến lược phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

ta. Để thực hiện quan điểm này, chúng ta đã và đang thực hiện một loạt các chính

sách như xóa đói giảm nghèo, quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện phát triển sản xuất

nâng cao đời sống của người nghèo, vùng nghèo, thực hiện chính sách hỗ trợ xã hội

đối với các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

83

Công bằng xã hội thể hiện trong gia đình là ở chỗ: trẻ em không phải là đối

tượng đồng nhất, ngay trong gia đình các em cũng chịu tác động rất mạnh mẽ như

sự khác biệt con trai con gái, con trưởng con thứ, bên nội bên ngoại,... Đó là nguyên

nhân sâu xa làm tăng thêm sự bất công trong giáo dục trẻ em.Vì vậy, thực hiện công

bằng về giáo dục trẻ em trong các gia đình Thái Bình phải được thể hiện ở một số

việc làm cụ thể sau:

- Có biện pháp để giải quyết nguyên nhân sâu xa của sự mất công bằng và ảnh

hưởng của tệ phân biệt đối xử, trước hết là phân biệt nam nữ, phân biệt giàu nghèo,

phân biệt trẻ em bình thường với trẻ em khuyết tật,... đảm bảo cho tất cả trẻ đều

được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là trường lớp tiểu học, cơ sở

khám chữa bệnh, cơ sở vui chơi cộng đồng.

- Có chính sách đặc biệt chăm lo cho trẻ em ở nông thôn, trẻ em mồ côi không

nơi nương tựa

- Giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến phụ nữ, tăng cường địa vị của người

phụ nữ, làm cho họ được bình đẳng trong giáo dục cũng như trong các công việc xã

hội.

3.1.4. Sự phát triển toàn diện của trẻ em là một trong những yếu tố cơ bản

của sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững

Nước ta đang bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang

thay đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát

triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu

cực, cơ hội và thách thức luôn đan xen phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai

trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra

ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã

trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh

tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát

triển mạnh, do đó con người và tri thức ngày càng nhân tố quyết định sự phát triển

của mỗi quốc gia.

84

Đại hội XI của Đảng ta đã xác định 5 quan điểm phát triển trong chiến lược

phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2020 là: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền

vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; Phải phát triển

bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế ; Đổi

mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam

xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Mở rộng dân

chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu

và là mục tiêu của sự phát triển; Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ

khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền kinh tế độc lập

tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phát huy

nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và

sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ. Với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản

trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại

Cùng với việc đầu tư cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước, Đảng ta cũng xác

định: Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung nâng cao

chất lượng giáo dục, đào tạo. Coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng thực

hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Đổi mới cơ chế tài

chính, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây

dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình

và xã hội. Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực

hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao.

Nhà nước tăng cường đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn

xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài,

xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các

trung tâm học tập cộng đồng. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các

chính sách xã hội trong giáo dục. Đặc biệt chăm lo, đầu tư cho sự phát triển của trẻ

85

em, coi đó là một trong những yếu tố bảo đảm phát triển kinh tế- xã hội nhanh, hiệu

quả và bền vững.

Tuy nhiên, muốn có được nguồn đầu tư cho việc thực hiện các mục tiêu của

chương trình, kế hoạch hành động vì trẻ em trong từng giai đoạn đòi hỏi phải có sự

huy động, phân bổ nguồn nhân lực, vật lực và tài chính của Nhà nước, của nhân dân

cùng với sự giúp đỡ của quốc tế. Tích cực huy động thêm các nguồn lực mới bổ

sung cho phát triển xã hội, giảm tình trạng đói nghèo, đồng thời đảm bảo sử dụng

có hiệu quả nguồn lực hiện có. Bảo đảm tới mức tối đa việc thực hiện các nguồn lực

xã hội mang lại lợi ích cho trẻ em, trước hết là đáp ứng yêu cầu cơ bản của trẻ,

khuyến khích phát triển các tài năng và giảm thiểu sự cách biệt đối với trẻ em trong

các gia đình khó khăn. Tiến hành các cách thức vận động mới hướng vào nguồn lực

tiết kiệm của Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vào quỹ

bảo trợ trẻ em. Kêu gọi các nhà nghiên cứu thực hành ứng dụng khoa học công

nghệ y học, giáo dục để nâng cao chất lượng sức khỏe, trình độ hiểu biết cho trẻ và

gia đình trẻ, giúp trẻ có điều kiện phát triển toàn diện, trưởng thành những công dân

hữu ích cho đất nước.

3.1.5. Giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà trƣớc hết là của

gia đình

Quan điểm này chỉ rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đồng thời nói lên

tính xã hội rộng lớn của việc giáo dục trẻ, mà trước tiên là gia đình. Gia đình là môi

trường giáo dục đầu tiên cho trẻ ngay từ khi mới chào đời, cho đến khi trưởng thành

gia đình đó vẫn ngự trị trong tim mỗi người và đều có ảnh hưởng, tác động nhất

định trong cuộc sống sau này của mỗi thành viên. Vì vậy trẻ em cần được lớn lên

trong môi trường gia đình hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, các thành viên trong gia

đình biết chia sẻ trách nhiệm, tình thương với nhau. Do đó, mọi thiết chế và tổ chức

trong xã hội cần tôn trọng và ủng hộ những cố gắng của các bậc phụ huynh và của

gia đình để trẻ được sống trong gia đình, đồng thời ra sức ngăn ngừa việc tách trẻ

rời khỏi sự giáo dục của gia đình, nhất là việc tách rời cha mẹ trẻ. Khi trẻ buộc phải

tách khỏi hoặc rời xa gia đình vì lý do bất khả kháng hoặc vì lợi ích tốt hơn cho bản

86

thân trẻ thì gia đình và xã hội cần phải quan tâm, sắp xếp để trẻ có được sự giáo dục

thay thế thích hợp để trẻ vẫn có cảm giác được sống trong tổ ấm gia đình và coi đó

là gia đình của mình. Không để trẻ lang thang, sống buông thả, thiếu mái ấm và tình

thương, vì như vậy trẻ rất dễ hư hỏng và sa ngã, tạo gánh nặng và áp lực cho cả xã

hội.

Giữa gia đình và xã hội luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và

ảnh hưởng đến nhau vì nhiều gia đình cộng lại tạo thành xã hội, gia đình là hạt nhân

của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Nếu nền

tảng gia đình bị lung lay thì xã hội cũng khó có thể phát triển nhanh và bền vững

được, càng khó có thể tạo nên thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước giàu mạnh

được, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức xây dựng đất nước phát triển

theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp

thì phải chú ý hạt nhân gia đình cho tốt" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Là tổ chức chính trị lãnh đạo toàn xã hội- Đảng ta có trách nhiệm đề ra và

lãnh đạo việc thực hiện các đường lối và chính sách lớn về phát triển đất nước trên

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có sự nghiệp giáo dục trẻ em. Đảng thực

hiện sự lãnh đạo của mình thông qua Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội của

Đảng thông qua việc đề ra, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện đường lối, quan

điểm và những chính sách lớn ở các cấp, các ngành, đặc biệt là lãnh đạo thông qua

hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và sự gương mẫu của từng đảng viên. Hầu hết

các Văn kiện đại hội Đảng cũng như các kỳ họp của Ban chấp hành trung ương về

những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đều đề cập đến công tác bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em. Bộ chính trị và Ban bí thư trung ương đã ban hành nhiều văn bản

quan trọng để định hướng và lãnh đạo công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, nêu cao

trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị đối với trẻ

em.

Vai trò quản lý của Nhà nước là quản lý thông qua hệ thống pháp luật, chính

sách kinh tế xã hội, đặc biệt là các chính sách về dịch vụ xã hội và phúc lợi xã hội,

các chương trình mục tiêu quốc gia và của ngành, của địa phương. Nhà nước có

87

trách nhiệm chỉ đạo và tham gia vào việc vận động xã hội, lồng ghép và phối hợp

liên ngành, huy động các nguồn lực, các phong trào của nhân dân hướng vào việc

thực hiện chiến lược về chăm sóc giáo dục trẻ em, đồng thời thực hiện những cam

kết với quốc tế mà Chính phủ đã ký kết.

Các ngành, đoàn thể có trách nhiệm tham gia thực hiện và giám sát việc

thực hiện luật pháp, chính sách nhằm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục trẻ, trong đó

nhấn mạnh trách nhiệm của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp

phụ nữ các cấp. Mỗi ngành, đoàn thể có trách nhiệm đối với công tác bảo vệ, chăm

sóc, giáo dục trẻ em theo chức năng và tôn chỉ mục đích hoạt động cuả mình, đồng

thời theo chương trình, kế hoạch hành động, theo các dự án vì trẻ em của Ủy ban

bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Mà các cơ quan là thành viên đã có cam kết phối

hợp xây dựng và thực hiện.

Sự tham gia của cộng đồng là là yếu tố quan trọng đối với kết quả công tác

chăm sóc giáo dục trẻ vì đó là địa bàn mà trẻ em sinh ra và lớn lên, nơi gần gũi và

hiểu trẻ em nhất, đồng thời là môi trường quan trọng nuôi dưỡng và hình thành

nhân cách của trẻ. Việc xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ hiện nay đang

trở thành yêu cầu quan trọng, nhằm xây dựng hạnh phúc cho trẻ em, cho từng gia

đình cũng như từng cộng đồng và toàn xã hội. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý của Nhà nước và hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức xã hội trước hết

cần phải đổi mới phương pháp và tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân tham

gia chủ động và tự giác vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ em,thực hiện phối

hợp liên ngành, lồng ghép công tác chăm sóc giáo dục trẻ em trong các chương

trình kinh tế, văn hóa, xã hội, bồi dưỡng kiến thức và năng lực giáo dục trẻ em cho

các gia đình và cộng đồng, đồng thời mở rộng các hoạt động nhân đạo vì trẻ em,

phát huy nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế.

3.1.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính quyền

các cấp đối với công tác giáo dục trẻ em

Đảng và Nhà nước không ngừng thực hiện các chính sách xã hội nói chung

và các chủ trương, chính sách về trẻ em nói riêng. Rà soát để hoàn chỉnh và xây

88

dựng mới các chính sách liên quan đến trẻ em, chú trọng các chính sách hỗ trợ phát

triển kinh tế gia đình, các chính sách thực hiện công bằng trong công tác tiếp cận

các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giáo dục.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở, nơi trực

tiếp tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác giáo dục trẻ em. Xây dựng và

thực hiện chương trình kế hoạch hành động vì trẻ em ở các cấp, đồng thời đưa ra

các biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu quan trọng giúp trẻ phát triển toàn

diện và khắc phục những tồn tại làm ảnh hưởng đến công tác giáo dục trẻ em.

Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của ban bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục trẻ em ở cơ sở, lãnh đạo sự phối hợp của các ban ngành, của các thành viên

trong Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, đơn vị kinh tế ở địa phương

trong công tác giáo dục trẻ em. Nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn, cần phải giải quyết tận gốc những nguyên nhân sâu xa tác động đến trẻ như:

Tình trạng kinh tế gia đình khó khăn, gia đình ly hôn, bố mẹ đối xử thô bạo với con

cái, gia đình có người mắc vào các tệ nạn xã hội hay sự buông lỏng trong quản lý

của chính quyền địa phương, sự thiếu quan tâm của nhà trường, sự đua đòi của một

số trẻ em hư. Đặc biệt là các chính sách hạn chế sự phân hóa giàu- nghèo giữa thành

thị và nông thôn, chủ động mở các chiến dịch truyền thông lồng ghép với các dịch

vụ kế hoạch hóa gia đình đến các xã, thôn xóm; Phối hợp hoạt động của Ủy ban dân

số, gia đình và trẻ em với ban tuyên giáo tỉnh ủy và ban tuyên truyền phổ biến giáo

dục pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác

dân số, gia đình và trẻ em trên địa bàn toàn tỉnh.

Công tác giáo dục trẻ phải thể hiện được tính đa ngành, liên ngành dựa trên

các mục tiêu chung vì sự phát triển của trẻ em, những vấn đề của trẻ em phải được

đặt ở tầm vĩ mô, vừa có sự phối hợp liên ngành, vừa có sự phân công, chuyên môn

hóa, vừa có sự quản lý thống nhất, tập trung, vừa có sự phân cấp trách nhiệm và sự

quản lý theo ngành. Mặt khác phải chú ý tạo dựng cơ sở vật chất cơ bản, cần thiết

cho trẻ như chỗ ở, bệnh viện, trường học, nơi vui chơi, thư viện, phòng đọc, sách

89

vở, báo chí, phim ảnh. Đồng thời tổ chức, hướng dẫn nhân dân tham gia các phong

trào cụ thể như: Tháng hành động vì trẻ em, ngày tiêm chủng mở rộng cho trẻ, nuôi

con theo khoa học, ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, tìm hiểu Luật giáo dục, Luật

bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ.

Ngoài ra còn phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền của trẻ em, kiểm

tra quá trình chỉ đạo của cấp trên, kiểm tra liên ngành, kiểm tra toàn diện công tác

chăm sóc, giáo dục trẻ ở các gia đình và từng địa phương như việc sử dụng lao động

trẻ em, việc thu học phí và các khoản đóng góp của trẻ, quyền học tập, quyền tham

gia của trẻ,.... Đồng thời chú ý xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát

triển của trẻ, tổ chức các hoạt động cho trẻ có ý thức chủ động, tự giác và hình

thành nhu cầu rèn luyện, trau dồi về thể chất, tri thức, đạo đức, thẩm mĩ.

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình trong

việc giáo dục trẻ em ở thái Bình hiện nay

3.2.1. Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc”

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định: “Gia đình là tế

bào của xã hội”. Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển

nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình không chỉ là “tế bào”

tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con

người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Nhất

là trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị

truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam cũng đang có nguy cơ bị mất đi; tình

trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng

thụ,... có xu hướng tăng lên. Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có

nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.

Tại Đại hội XI, Đảng đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp

giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, “góp phần chăm lo xây dựng con

người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có

tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế

chân chính”. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp

90

nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình- mỗi

tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia

đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã

hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm

vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.

Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi

nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn

của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy, gia đình luôn là một mối

quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng gia

đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”.

Từ những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam được đề xuất tại

Đại hội VIII của Đảng và được cụ thể hóa thành Chiến lược xây dựng gia đình văn

hóa Việt Nam, đến Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới về gia

đình: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình

phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc”

thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Thứ nhất, xây dựng gia đình no ấm.

Gia đình no ấm là gia đình đủ ăn, bảo đảm dinh dưỡng hợp lý; đủ mặc, phù

hợp với điều kiện sinh hoạt và làm việc; có nhà ở ổn định, vững chắc; có các tiện

nghi, điều kiện thiết yếu phục vụ sinh hoạt gia đình.

Gia đình no ấm là cơ sở để xây dựng gia đình tiến bộ và hạnh phúc, bởi “có

thực mới vực được đạo” và tất nhiên, sự no ấm của gia đình trước hết là do lao động

cần cù, năng động, sáng tạo của mỗi thành viên trong gia đình đó xây dựng nên.

Xã hội không ngừng vận động, biến đổi, phát triển và chất lượng cuộc sống

của mọi công dân được cải thiện tốt hơn trước rất nhiều, nhưng ở một số nơi số hộ

nghèo ở Thái Bình vẫn còn tồn tại và vẫn có nguy cơ tái nghèo. Điều đó đe dọa rất

lớn đến quyền và lợi ích của trẻ. Nguyên nhân là do Thái Bình là một tỉnh thuần

nông qua nhiều thế kỷ, gần đây công nghiệp đã bắt đầu phát triển nhưng cuộc sống

của người dân phần lớn vẫn phụ thuộc vào việc trồng trọt và chăn nuôi, năng lực

91

sản xuất khác nhau và chưa đạt hiệu quả cao, một số gia đình làm không có kế

hoạch, không khoa học dẫn đến không có của cải dư thừa để có nhà ở ổn định và

sắm sửa các tiện nghi thiết yếu phục vụ sinh hoạt gia đình, cũng như để đảm bảo

chế độ dinh dưỡng, vui chơi giải trí cho các thành viên, nhất là trẻ em. Thu nhập của

một số gia đình chỉ trông chờ vào kết quả của việc trồng lúa, không có nghề phụ,

thậm chí không thể tự tăng gia sản xuất ở nhà, vì không có điều kiện vật chất đầy

đủ, vì không mạnh dạn làm ăn, không chịu học hỏi hoặc vì sức khỏe không đảm

bảo, điều này xảy ra nhiều ở những gia đình trẻ hoặc gia đình có ông bà nuôi các

cháu cho bố mẹ trẻ đi làm ăn xa. Do đó công tác giáo dục trẻ trong các gia đình này

ở Thái Bình còn gặp nhiều khó khăn, trẻ không có điều kiện kinh tế để vui chơi và

khám phá những điều mới lạ qua thế giới đồ chơi và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn,

không có điều kiện phát triển toàn diện.

Bên cạnh đó cũng có rất nhiều gia đình khá giả, có thu nhập ổn định, chất

lượng cuộc sống cao. Tiêu chí “no ấm” với gia đình họ không chỉ là ăn no, mặc ấm

mà là ăn ngon mặc đẹp, làm đẹp, sắm những đồ dùng sinh hoạt sang trọng, vui chơi

văn minh hiện đại để thể hiện đẳng cấp của gia đình có điều kiện. Vì vậy sự chênh

lệch giàu- nghèo ở Thái Bình cũng đang có những chuyển biến đáng kể. Điều đó

đòi hỏi Thái Bình trong quá trình xây dựng gia đình no ấm phải tập trung xóa đói

giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,

giúp đỡ các gia đình nghèo, tạo việc làm, khuyến khích kinh tế trang trại, kinh tế hộ

gia đình. Qua đó làm giảm bớt sự phân hóa giàu- nghèo giữa các gia đình trong tỉnh,

đồng thời tiếp tục tuyên truyền, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình góp phần nâng

cao chất lượng cuộc sống của các gia đình, trong đó có chất lượng giáo dục trẻ em.

Tuy nhiên, để mỗi gia đình thực sự trở thành tổ ấm, đòi hỏi mỗi thành viên

trong gia đình phải luôn tôn trọng, gắn bó, thương yêu nhau, đồng thời có ý thức gìn

giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Các bậc làm cha, mẹ

nêu cao vai trò gương mẫu, thương yêu, tôn trọng con cái; kế thừa và phát huy các

giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình. Có như vậy hạnh phúc gia đình mới thực

sự bền vững và gia đình mới thực sự là tổ ấm của mỗi con người.

92

Thứ hai, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc

Gia đình tiến bộ là gia đình lao động giỏi, biết áp dụng khoa học kỹ thuật và

công nghệ mới vào sản xuất; mọi thành viên trong gia đình có lối sống lành mạnh,

thực hiện nếp sống văn minh, biết tôn trọng và giữ gìn thuần phong mỹ tục của văn

hóa gia đình Việt Nam. Có ý thức rèn luyện thể lực, nâng cao sức khỏe, không sa

vào tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật; các thành viên trong gia đình tích cực

học tập. Trẻ em trong độ tuổi đi học không bỏ học sớm; các thành viên trong gia

đình trong độ tuổi sinh đẻ đều thực hiện kế hoạch hóa gia đình; thực hiện vệ sinh an

toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; mọi thành viên trong gia đình thực hiện tốt

đường lối chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt

quy ước cộng đồng dân cư (làng, xã, khu tập thể...)

Gia đình hạnh phúc: là mọi thành viên trong gia đình hoàn toàn hài lòng, toại

nguyện với tổ ấm của mình. Gia đình hạnh phúc bền vững thể hiện sự bình đẳng,

tôn trọng yêu thương, chia sẻ trách nhiệm cho nhau giữa vợ và chồng, cùng nhau

phấn đấu vươn lên trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, có sự nhất trí

cao về mục đích, nội dung, phương pháp nuôi dạy con, không can thiệp thô bạo và

ép buộc các con. Trong gia đình hạnh phúc, các thành viên được đáp ứng nhu cầu

cần thiết về vật chất và tinh thần. Họ thực sự đồng cảm, yêu thương tôn trọng, bình

đẳng và tự giác thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước gia đình và xã hội.

Để có gia đình tiến bộ và hạnh phúc, trước hết phải chú trọng kinh tế hộ gia

đình, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. Các gia đình phải

hiểu, có ý thức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp

luật của Nhà nước như: sinh đẻ có kế hoạch, phát triển kinh tế, phòng chống các tệ

nạn xã hội như rượu bia, cờ bạc, mại dâm, ma túy và bạo lực gia đình.

3.2.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội, tạo

môi trƣờng thống nhất cho việc giáo dục trẻ em

Theo C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa

những quan hệ xã hội” [5, tr.11]. Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một

thực thể xã hội. Cuộc sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên

93

và xã hội mà con người sống trong đó. Gia đình là một trong ba môi trường xã hội

hóa trẻ em, quyết định trực tiếp tới mặt tự nhiên và xã hội trong mỗicon người.

Thông qua gia đình mỗi cá nhân ngày càng hoàn thiện cả về mặt tự nhiên và xã hội.

Gia đình không chỉ sinh ra con người, thực hiện các chức năng chăm sóc, hoàn

thiện thể lực cho trẻ em mà còn là một trường học đầu đời cho mỗi đứa trẻ phát

triển, hoàn thiện yếu tố xã hội trong con người: dạy trẻ em cách ăn mặc, giao tiếp,

tiếp thu văn hóa công cộng. Gia đình là nơi giúp các cá nhân có cơ sở để tiếp nhận

những giá trị, những chuẩn mực xã hội, vững tin bước sang một môi trường xã hội

hóa cao hơn. Do đó, để nâng cao chất lượng nguồn lực về đức- trí- thể- mĩ cho trẻ

phải chú ý nâng cao vị trí, vai trò, chức năng, phương pháp giáo dục gia đình trong

việc xã hội hóa trẻ em; đồng thời phải kết hợp hài hòa các môi trường giáo dục: gia

đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục trẻ em, bởi đây là ba môi trường có vai

trò quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân

trẻ.

Khi so sánh giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường và các tổ chức xã hội

thì điều đáng chú ý là tính đa dạng và nhiều chiều của nó. Gia đình vừa có ảnh

hưởng của cá nhân đối với cá nhân (Ông hoặc bà, cha, mẹ với con, cháu), vừa có

ảnh hưởng của cả tập thể gia đình liên kết gắn bó với nhau, tác động đến từng cá

nhân thông qua lối sống, nếp sống, văn hóa gia đình. Giáo dục gia đình khác hẳn

giáo dục nhà trường ở sự đa dạng của thầy dạy về giới tính, lứa tuổi, cá tính, công

việc, tính đa dạng trong kiến thức cung cấp cho trẻ như: kinh nghiệm làm ăn, cách

cư xử, sự hiểu biết về xã hội, cách tổ chức đời sống gia đình,... tính đa dạng về

phương pháp giáo dục: Không chỉ bằng truyền đạt một chiều mà thông qua thảo

luận, trao đổi ý kiến, không chỉ bằng lời nói mà bằng thái độ, tình cảm, nêu gương,

ít lý thuyết mà chủ yếu bằng việc làm cụ thể.

Tuy nhiên, giáo dục trẻ nói riêng và giáo dục con người nói chung là sự

nghiệp của toàn xã hội. Mỗi lực lượng giáo dục có những đặc điểm và những sức

mạnh riêng, những nội dung và phương pháp giáo dục riêng, có khả năng tác động

bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong việc giáo dục trẻ nhằm đạt mục tiêu chung. Do đó,

94

để bảo đảm công tác giáo dục trẻ đạt hiệu quả, trước hết các gia đình phải thực hiện

tốt những việc sau đây:

Thứ nhất, cha mẹ và các thành viên trong gia đình phải nhận thức được vai

trò quan trọng của gia đình trong việc giáo dục trẻ. Từ đó phát huy thế mạnh của

gia đình để giúp trẻ được phát triển hài hòa, toàn diện hơn.

Trước hết các bậc cha mẹ và các thành viên trong gia đình như ông bà, anh chị

của trẻ phải nắm được tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ và cá tính riêng của mỗi trẻ trong

gia đình. Trong những năm đầu tiên trẻ rất nhạy cảm, dễ tiếp thu những gì chúng

nghe thấy, dễ đón nhận những lời chỉ bảo mà chúng chưa đủ lý trí phán đoán có lợi

hay có hại cho tương lai. Tất cả những điều đó dần ăn sâu vào tiềm thức, góp phần

tạo nên cá tính tốt hay xấu tùy theo tính chất những điều người lớn dạy bảo. Nếu

cha mẹ trẻ không chú ý đến vấn đề này thì đứa trẻ sẽ bị hư, gây ảnh hưởng không

tốt cho gia đình và xã hội.

Thực tiễn cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm chưa thành niên cho thấy: Đa

số người chưa thành niên phạm tội thường rơi vào hoàn cảnh cha mẹ không quan

tâm đến việc giáo dục con, phó mặc cho nhà trường và xã hội theo kiểu “trời sinh

voi trời sinh cỏ”; giữa cha mẹ hoặc giữa các thành viên trong gia đình còn có mâu

thuẫn về việc đối xử với con em, đánh đập, chửi mắng con; đối xử thiên lệch giữa

các con, có trình độ hiểu biết kém; cha mẹ không thông cảm với những nhu cầu

chính đáng của con về vui chơi, giải trí; cha mẹ hoặc thành viên khác trong gia đình

có lối sống không lành mạnh, vi phạm pháp luật, đạo đức hoặc quan hệ vợ chồng

không tốt đẹp, đáng chê trách.

Để trẻ em trở thành người con ngoan, sống có ích cho xã hội, không tham gia

vào các hoạt động bất hợp pháp, các gia đình phải phấn đấu theo các tiêu chí sau:

+ Gia đình phải có đầy đủ cả cha và mẹ, trong đó các thành viên luôn yêu

thương, kính trọng nhau.

+ Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải là tấm gương sáng, mẫu

mực cho con cháu noi theo về đạo đức, ý chí, nghị lực trong cuộc sống, học tập và

lao động.

95

+ Các thành viên trong gia đình trẻ phải hiểu và nắm được những đặc điểm

tâm lý lứa tuổi trẻ em, từ đó có phương pháp giáo dục cho phù hợp.

+ Có bầu không khí tâm lý, đạo đức, phong cách sinh hoạt, lối sống lành

mạnh.

Thứ hai, cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải có ý thức phối hợp

với nhà trường trong việc giáo dục trẻ em

Nhiệm vụ của gia đình là nuôi dưỡng và giúp trẻ phát triển tốt hơn về đạo

đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, để trở thành những công dân tốt, sống có ích cho xã

hội. Tuy nhiên, trẻ không chỉ được gia đình nuôi dưỡng và dạy bảo mà còn phải đến

trường học tập kiến thức khoa học. Do đó, trong hệ thống giáo dục ở nước ta, nhất

là bậc tiểu học và trung học cơ sở có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình

và xã hội trong quá trình giáo dục trẻ, để trẻ được phát triển toàn diện một cách

khoa học, có mục đích và tiến trình rõ ràng. Mặt khác, trẻ không thể trưởng thành

một công dân tốt nếu không được sự đầu tư của gia đình. Gia đình cần tạo điều kiện

học tập (phòng học hoặc góc học tập, chỗ ngồi, chỗ để sách vở, thời gian học bài,

sách tham khảo, sách bồi dưỡng, sách nâng cao,...) quan tâm thường xuyên đến việc

học tập của các em, giúp các em rèn luyện học tập, sinh hoạt, ứng xử. Khuyến khích

các em tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Cha mẹ phải thường

xuyên liên lạc, duy trì mối quan hệ với các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy cô chủ

nhiệm lớp của trẻ để nắm rõ tâm tư nguyện vọng của trẻ và kịp thời giúp đỡ trẻ vượt

qua khó khăn và vươn lên trong học tập, sinh hoạt tập thể.

Những thông tin trao đổi hai chiều thường xuyên giữa gia đình với nhà trường

và nhà trường với gia đình sẽ giúp cho cả hai có những thông tin cần thiết về trẻ, từ

đó có các biện pháp tác động phù hợp, kịp thời. Các bậc cha mẹ cần có sự phối hợp

chặt chẽ với nhà trường để cùng nhau giúp trẻ tiến bộ, nhất là khi các em có những

biểu hiện bất thường hoặc là học sinh cá biệt.

Thứ ba, cha mẹ và các thành viên trong gia đình phải có ý thức phối hợp với

xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ

96

Sự phát triển của trẻ em không thể tách khỏi môi trường xã hội mà các em

đang sống. Ngoài thời gian học ở trường lớp, phần lớn trẻ em sinh hoạt ở gia đình,

địa bàn dân cư. Do đó môi trường xã hội lành mạnh là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho

trẻ được phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, có cuộc sống

hạnh phúc, đảm bảo tính bền vững của công tác giáo dục trẻ. Vì vậy cha mẹ và các

thành viên trong gia đình còn phải có ý thức phối hợp với xã hội trong việc giáo dục

trẻ em.

Giáo dục trẻ em tại địa bàn dân cư là một quá trình tổ chức, khai thác mọi tiềm

năng cho xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất để trẻ em có điều kiện phát triển tiềm

năng về trí lực, thể lực, tâm lực và nhân cách. Sự chưa ổn định và thiếu bền vững về

nhân cách của trẻ là đặc điểm quan trọng để Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh, đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và các cấp ngành, các tổ chức xã hội

giúp đỡ các em phát triển các tố chất, phẩm chất cần thiết để hoàn thiện nhân cách

của mình. Do đó, gia đình phải có phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, các tổ chức

xã hội... ở địa bàn dân cư, đồng thời tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao lành

mạnh. Trường hợp các em vi phạm pháp luật, gia đình phải có trách nhiệm phối hợp

với các cơ quan chức năng trong việc quản lý, giáo dục các em sửa chữa khuyết

điểm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em phấn đấu trở thành người có ích cho xã

hội. Đồng thời, phải nhận thức rõ rằng khi trẻ được học tập vui chơi, hoạt động xã

hội phù hợp với lứa tuổi sẽ phát huy được tính thông minh, sáng tạo, khả năng giao

tiếp, kỹ năng sống và khả năng tự điều chỉnh hành vi, ngăn ngừa ảnh hưởng của các

văn hóa phẩm đồi trụy, các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, nạn xâm hại tình

dục, bóc lột sức lao động của trẻ em.

Xây dựng và củng cố gia đình mới tiến bộ, hạnh phúc là nhiệm vụ của mỗi

công dân, mỗi lực lượng và tổ chức xã hội. Cho nên ở những góc độ khác nhau Nhà

nước và các tổ chức xã hội cần phối hợp và tham gia xây dựng gia đình mới, trong

đó Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên, Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình, Ủy ban

bảo vệ chăm sóc trẻ em, ngành văn hóa và giáo dục là những đơn vị, tổ chức có

trách nhiệm chăm lo một cách khoa học và thường xuyên. Tuy nhiên, nói như vậy

97

không có nghĩa là cha mẹ phó mặc con cái cho nhà trường, khoán trắng cho đoàn

hội, mà với vai trò quan trọng của mình, gia đình không chỉ là cơ sở giáo dục con

người biệt lập mà còn là một bộ phận giáo dục thuộc hệ thống giáo dục chung của

xã hội, là một trong ba môi trường quan trọng trong việc hình thành nhân cách con

người toàn diện. Gia đình phải phối hợp chặt chẽ các môi trường đó, thiết lập mối

quan hệ trong giáo dục con với tinh thần chủ động sát sao, nhằm mục đích thống

nhất yêu cầu của giáo dục và nhanh chóng xây dựng ở trẻ em những thói quen và

phẩm chất tốt.

Mỗi môi trường phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để có phương

pháp và hình thức giáo dục thích hợp. Nhà trường, đoàn đội hay các tổ chức xã hội

khác không thể thay thế gia đình được, nhưng cũng cần phải quan tâm, phối hợp

chặt chẽ với gia đình trong công tác giáo dục trẻ. Gia đình, nhà trường và các tổ

chức chính trị xã hội liên kết hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nhân tố

này có quan hệ trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của trẻ em và là lực lượng

thực hiện, phổ biến tốt các quyền của trẻ em.

3.2.3. Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hƣơng, đất nƣớc cho

trẻ em

*) Giáo dục truyền thống quê hương, đất nước

Có thể nói: Lịch sử không phải cái gì khác, là sự thay thế liên tục của các thế

hệ. Thực vậy, thế hệ những người đang đứng ở các vị trí quan trọng của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay, nhiều lắm cũng chỉ có thể xây nền,

đắp móng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn nhiệm vụ xây dựng chủ

nghĩa xã hội “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng , văn minh” phụ thuộc rất

nhiều vào thế hệ trẻ tuổi hôm nay đang ngồi trên ghế nhà trường gánh vác và đảm

nhận. Do đó, để lớp trẻ hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang ấy, chúng ta phải

quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục cho trẻ những truyền thống tốt đẹp của dân

tộc như: Truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan

dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan, yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo.... Đây là

một vấn đề có tính cấp thiết trong thời đại hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài phải

98

được thực hiện thường xuyên, liên tục trong mọi bước tiến của cách mạng. Nó

không những có tác dụng phát triển những phẩm chất tốt đẹp cho trẻ mà còn tạo ra

một sức mạnh to lớn, một lợi ích trọng đại đối với sự nghiệp cách mạng của dân

tộc.

Giáo dục truyền thống dân tộc cho trẻ em hiện nay nhằm xây dựng ở trẻ lòng

yêu nước nồng nàn, gắn bó với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức

trong sáng, có ý chí và quyết tâm xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đó là

trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong đó gia đình luôn đóng vai

trò trực tiếp và quan trọng. Vì vậy, công tác giáo dục truyền thống dân tộc là một

phần không thể thiếu để phát triển thế hệ trẻ yêu nước, sống có trách nhiệm với quê

hương, đất nước, có tinh thần dân tộc, có lập trường vững vàng, có niềm tin vào sự

lãnh đạo của Đảng, không bị các thế lực thù địch lôi kéo và lợi dụng.

Nhất là trong bối cảnh đất nước đang tham gia hội nhập sâu rộng về mọi mặt

với các nước trên thế giới thì việc giáo dục truyền thống dân tộc nói chung cho thế

hệ trẻ càng có vai trò hết sức quan trọng. Song, trong các nhà trường vẫn đang tồn

tại một tình trạng đáng buồn là có một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ của chúng ta

nhận thức hết sức nông cạn và hời hợt đối với truyền thống lịch sử của dân tộc ta.

Trước hết phải khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam có một truyền thống lịch sử rất

đáng tự hào với nhiều chiến công hiển hách. Những mốc son, dấu ấn đáng nhớ ấy là

kết tinh của lòng yêu nước, ý thức tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần chiến đấu hy sinh

anh dũng của bao thế hệ cha anh đi trước. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần

thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, biết bao anh hùng liệt sĩ đã

ngã xuống vì quê hương, đất nước. Trong số đó có rất nhiều tấm gương trẻ tuổi:

Kim Đồng, Lê Văn Tám, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Viết Xuân, Võ Thị

Sáu… Thời gian qua, dư luận đã rất xúc động khi đọc các cuốn sách: “Mãi mãi tuổi

hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” của bác sĩ –

liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Họ thực sự là những tấm gương sinh động của tinh thần

kiên cường bất khuất và lý tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam. Để có được cuộc

sống hòa bình hôm nay, lớp lớp cha anh đi trước đã phải đổ biết bao mồ hôi, xương

99

máu và nước mắt. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta rất đáng tự hào, đáng tiếc

là có một bộ phận giới trẻ còn tỏ ra thờ ơ, hờ hững với quá khứ hào hùng đó. Đáng

buồn hơn khi kết quả thi môn lịch sử trong các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ

thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng trong những năm qua bộc lộ nhiều mảng tối

trong chất lượng dạy và học môn lịch sử nói riêng và công tác giáo dục truyền thống

quê hương, đất nước nói chung, khiến dư luận xã hội hết sức quan ngại! Trong khi

đó, các em lại thuộc lòng tên hàng loạt những diễn viên Hàn Quốc, các cầu thủ bóng

đá của nước ngoài, tên các trò chơi điện tử đang thịnh hành hay những ngày lễ kỷ

niệm được du nhập từ phương Tây.

Mặc dù vậy, không ít gia đình nhận thức chưa đúng về vai trò của mình trong

giáo dục truyền thống yêu nước cho trẻ trong gia đình, xem đó là trách nhiệm của

nhà trường, xã hội, của các tổ chức đoàn thể, họ tỏ ra thờ ơ hoặc không quan tâm

đến vấn đề này. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giáo dục chung của toàn

xã hội, đến việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống cao đẹp của

dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay. Trong khi, chính gia đình lại có vai trò rất lớn trong

giáo dục trẻ, nhất là trong giáo dục các sự kiện lịch sử của quê hương, đất nước,

gương các anh hùng, liệt sỹ, anh hùng dân tộc, giải đáp thắc mắc của trẻ khi trẻ có

nhu cầu tìm hiểu về các lễ hội của địa phương, các ngày kỷ niệm truyền thống của

dân tộc, vv…Từ đó trang bị cho trẻ lòng tự hào dân tộc, gắn bó với quê hương và

thấy tự hào về những thắng lợi lẫy lừng của dân tộc ta, nhất là từ khi có Đảng lãnh

đạo.

Với tính cách là những sự vật, hiện tượng đã xảy ra và tồn tại khách quan

trong quá khứ, gia đình có ưu thế trong giáo dục trẻ bằng nhiều phương pháp, hình

thức đa dạng như miêu tả, kể chuyện, trực quan, đóng vai… đặc biệt là có nhiều

người lớn cùng tham gia trò chuyện, giáo dục trẻ với cách sử dụng lời nói sinh động

giàu hình ảnh, vừa mang tính giáo dục, vừa mang yếu tố tình cảm đặc thù- tình cảm

ruột thịt cùng huyết thống , nhất là khi trẻ được giáo dục trong không gian gia đình

gần gũi, mọi lúc, mọi nơi sẽ giúp trẻ tiếp nhận kiến thức thoải mái hơn, dễ dàng hơn

và hiệu quả hơn.

100

Chính từ thực trạng đó, hơn lúc nào hết mỗi người lớn chúng ta phải nhận thấy

việc giáo dục truyền thống quê hương, đất nước là công việc của toàn Đảng, toàn

dân. Công việc này cần được tiến hành đồng bộ ở gia đình, nhà trường và xã hội, ở

tất cả các tổ chức đoàn thể. Đồng thời, cần được quán triệt sâu sắc ở mọi nơi, mọi

lúc, ở tất cả các cấp các ngành.

Giáo dục truyền thống là công việc phức tạp, cần được triển khai bằng những

hoạt động cụ thể với nhiều hình thức phong phú, đa dạng theo phương châm từng

bước xã hội hóa thông qua việc tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống của dân tộc

như: Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, ngày thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam 03/2, ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

26/3,…; các lễ hội của địa phương, các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu

nước: “ Đền ơn đáp nghĩa”, “ Uống nước nhớ nguồn”, “ Thắp nến tri ân các liệt sĩ”,

thăm viếng và tặng quà các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt

sỹ trên địa bàn trẻ sinh sống,vv.… Giáo dục truyền thống quê hương, đất nước cần

bắt đầu ngay từ chính việc tìm hiểu lịch sử làng,xã, trường học, nơi trẻ được sinh

sống và học tập. Cần tạo điều kiện cho trẻ nhận ra giá trị đích thực và sức sống

vững chắc của văn hóa truyền thống. Trong rất nhiều các hoạt động tình nguyện

mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến sự chăm

lo cho các đối tượng người có công với cách mạng, điển hình là chương trình góp

công góp sức để xây dựng nhà ở cho các gia đình chính sách. Đồng thời tiếp tục

thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh trong công tác giáo dục truyền thống.

Giáo dục truyền thống là một phần không thể thiếu để hình thành và phát triển

đạo đức, nhân cách thế hệ trẻ. Nhất là trong bối cảnh quê hương, đất nước đang hội

nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, những mặt trái của nền kinh tế thị

trường, của khoa học công nghệ, của lối sống buông thả, các luồng văn hóa phẩm

độc hại cùng với sự hoạt động kém hiệu quả của các lực lượng giáo dục đã làm cho

một bộ phận giới trẻ có những suy nghĩ nông cạn và thờ ơ với các giá trị truyền

101

thống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh con người Việt Nam trong mắt bạn

bè thế giới, gây nguy hại cho xã hội và tương lai của dân tộc.

Thực chất công tác giáo dục truyền thống quê hương là sự bồi đắp, hun đúc

những tư tưởng, lối sống, phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành trong các

mối quan hệ lịch sử- xã hội. Giáo dục truyền thống quý báu cho trẻ chính là đem

đến cho các em những di sản văn hóa của dân tộc, của quê hương đã được đúc kết

từ bao thế hệ ông cha, những sản phẩm tinh thần vô giá đã được gạn lọc, chắt chiu

qua nhiều thế hệ, nhiều thời đại. Đó cũng là tiền đề quan trọng để giúp thế hệ trẻ có

thể nhanh chóng tiếp thu những cái mới mẻ, cái hiện đại, làm cơ sở khoa học cho

quá trình rèn luyện, phấn đấu trở thành con người hữu ích cho xã hội.

*) Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt; được hình thành, duy trì

và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Giáo dục

truyền thống gia đình, dòng họ cho trẻ đó là sự truyền thụ và lĩnh hội những giá trị

truyền thống tốt đẹp của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau trong mỗi gia đình; là sự

giáo dục không có lớp học cụ thể, không thành chương trình, kế hoạch rõ ràng

nhưng nội dung và hình thức dạy luôn luôn phong phú, gắn liền với thực tiễn cuộc

sống hàng ngày của trẻ và được trẻ lĩnh hội một cách tự nhiên, tình cảm, thoải mái,

phù hợp với cá tính của từng trẻ.

Thực tế cho thấy, con người ai cũng bắt đầu từ gia đình và cha mẹ là người

đầu tiên biến trẻ từ một thực thể sinh vật thành thực thể xã hội. Với chức năng giáo

dục, gia đình đã trở thành môi trường gần gũi nhất, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng

mỗi người, là nơi con người sinh ra và hình thành nền tảng nhân cách. Gia đình giáo

dục cho mỗi người ngay từ khi còn nhỏ những tình cảm hết sức cụ thể về truyền

thống gia đình, dòng họ như truyền thống yêu nước, thương người, kính trên

nhường dưới, cần cù, sáng tạo, vượt khó,vv… thông qua những hành động cụ thể,

những tấm gương cụ thể trong gia đình, dòng họ. Đó là nền tảng gia đình giúp trẻ

phát triển, hoàn thiện mọi mặt khi bước vào thực tiễn xã hội, là hành trang tinh thần

102

giúp các em vững bước ở tương lai và ra sức phấn đấu làm rạng danh gia tộc, dòng

họ.

Gia đình không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và

hình thành nhân cách của một đứa trẻ mà còn góp phần lớn tạo ra những thành công

khi trẻ trưởng thành. Những truyền thống tốt đẹp của gia đình luôn có nhiều ý nghĩa

và mạng lại niềm tự hào lớn đối với mỗi người. Và để công tác giáo dục truyền

thống gia đình, dòng họ cho trẻ đạt hiệu quả cao thì trước hết các bậc cha mẹ phải là

tấm gương sáng mẫu mực cho trẻ học hỏi, phải nhận thức rõ: Việc nuôi dạy con

không phải là gánh nặng mà chính là một phần thưởng đối với những người làm cha

làm mẹ. Những gì chúng ta nuôi dạy con mình không bao giờ là lãng phí cả. Gia

đình chính là cánh cửa đầu tiên mở ra cuộc sống đa dạng và rộng lớn hơn đối với

trẻ. Những buồn vui, thăng trầm, thành công hay thất bại của gia đình sẽ luôn in sâu

vào ký ức của mỗi người con. Chính những ký ức mà cha mẹ tạo ra cho con trẻ

trong ngày hôm nay sẽ theo trẻ suốt thời gian dài và ảnh hưởng vô cùng lớn đến

cuộc sống mai sau của trẻ. Từ đó cha mẹ có trách nhiệm trọng việc giúp trẻ thấy

được tầm quan trọng của gia đình, yêu gia đình, khuyến khích trẻ luôn có lòng tự

trọng, giữ gìn nề nếp tốt đẹp của gia đình (uống nước nhớ nguồn; đói cho sạch, rách

cho thơm; kính trên nhường dưới; tương thân tương ái; đoàn kết …), kể cho trẻ

nghe về những thành tích, những điểm nổi bật trong truyền thống gia đình mình

như: ông bà đã vất vả như thế nào để nuôi dưỡng bố, mẹ nên người; cha mẹ đã trải

qua khó khăn như thế nào để có cuộc sống ngày hôm nay; niềm tự hào, hãnh diện

của dòng họ về sự học hành giỏi giang, sự thành đạt của cô hoặc chú, bác; hành

trình của gia đình khi di cư từ quê lên thành phố hoặc lý do bố mẹ không muốn rời

bỏ mảnh đất tổ tiên để lại,vv … Từ đó sẽ giúp trẻ nhận thức được lịch sử gia đình,

mối quan hệ giữa các thành viên trong dòng họ, biết quý trọng thành quả mà tổ tiên

đã gây dựng, thấy gắn bó nhiều hơn với gia đình và tạo động lực để trẻ luôn cố gắng

vươn lên trong cuộc sống. Đồng thời trẻ sẽ ý thức được mình là một thành viên và

cũng như những thành viên khác trong dòng họ, mình cần phải góp sức làm cho tình

cảm gia đình tốt đẹp hơn, dòng họ được vẻ vang hơn.

103

Tuy nhiên trong quá trình giáo dục trẻ, các bậc cha mẹ nên kết hợp giá trị của

gia đình với những chuẩn mực chung của xã hội và lồng ghép vào đó những bài học

thực sự có ý nghĩa đối với con trẻ. Hãy dành thời gian chia sẻ, giải thích cho trẻ về

những giá trị chuẩn mực của gia đình và xã hội, giúp trẻ có những nhận thức bước

đầu về một con người hữu ích đối với gia đình và xã hội mình đang sống. Đồng thời

cho trẻ em thấy rằng: Gia đình không chỉ mạng lại tình yêu thương, niềm tin, hy

vọng mà còn là trường học hữu ích để chuẩn bị hành trang cho trẻ bước vào cuộc

sống rộng lớn hơn.

Như vậy, quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em cho thấy vai

trò quan trọng của gia đình. Trong đó, giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê

hương, đất nước là một nội dung không thể thiếu. Dẫu biết rằng, hiệu quả của quá

trình giáo dục truyền thống đó đạt được ở mức độ nào luôn phải đặt trong mối quan

hệ với các lực lượng, các tổ chức xã hội. Việc giáo dục những truyền thống tốt đẹp

của gia đình, dòng họ còn giúp gia đình phát hiện kịp thời các hiện tượng tiêu cực,

các tệ nạn xã hội mà con em mình bị ảnh hưởng hay mắc phải. Từ đó, các bậc cha

mẹ có sự quan tâm, giáo dục, định hướng phát triển cho con em mình theo các

chuẩn mực giá trị của xã hội, góp phần xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa,

xã hội văn minh.

104

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở

tỉnh Thái Bình” có thể rút ra một số kết luận sau:

- Gia đình là cái nôi sinh thành, dưỡng dục, là trường học gây dựng nhân cách,

đạo đức và nhận thức cho mỗi cá nhân. Gia đình không chỉ là là chỗ nương tựa khi

khó khăn, là nguồn khích lệ khi thành công mà còn là nơi lưu truyền bản sắc văn

hóa dân tộc. Gia đình bồi đắp tình cảm máu thịt và lòng nhân ái trong cộng đồng,

cao hơn là tình yêu Tổ quốc, yêu lý tưởng cao đẹp.

- Trong những năm qua, cùng với sự chỉ đạo, quan tâm sát sao của Đảng, Nhà

nước và chính quyền địa phương trong công tác giáo dục trẻ em và sự nỗ lực của

toàn dân nên công tác giáo dục trẻ em ở các gia đình Thái Bình đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, do chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và

chủ quan nên công tác giáo dục trẻ em ở Thái Bình vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi

mỗi gia đình phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân trong giáo

dục trẻ, nhận thức rõ vai trò quan trọng của gia đình đối với trẻ, từ đó kết hợp học

hỏi kinh nghiệm quốc tế để phát huy tốt hơn những ưu điểm của giáo dục gia đình

đối với trẻ, giúp trẻ lĩnh hội đầy đủ nhất thành tựu của nhân loại, thực hiện tốt sứ

mệnh là người chủ của xã hội văn minh, hiện đại.

- Trên cơ sở làm rõ thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục

trẻ trong các gia đình, luận văn đã đưa ra một số giải pháp mang tính cấp thiết nhằm

phát huy tốt hơn nữa vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình trong

thời gian tới: Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc”; Tăng cường sự

phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội, tạo môi trường thống nhất cho việc

giáo dục trẻ em; Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước cho

trẻ em. Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và các

ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là trách nhiệm lớn lao của các gia

đình, để xây dựng lớp trẻ trở thành những công dân khoẻ mạnh về thể chất và tinh

thần, trong sáng về đạo đức, thành đạt trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động, làm

chủ trong tương lai.

105

KIẾN NGHỊ

Từ kết quả nghiên cứu trên, tôi có một số kiến nghị như sau:

1. Đối với các gia đình có con dƣới 16 tuổi:

Các bậc phụ huynh cần tạo bầu không khí gia đình hạnh phúc cho trẻ, cần phối

hợp chặt chẽ hơn nữa với nhà trường và xã hội- nơi trẻ sinh sống và học tập; phải

nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ; đồng thời chủ

động tìm hiểu về những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi cũng như nhu cầu về sự phát

triển của con trong từng giai đoạn. Trên cơ sở đó cố gắng tạo quan hệ tình cảm tốt

với con, dành thời gian hàng ngày đối thoại với con, làm cho con cái thực sự tin

tưởng và coi cha mẹ là chỗ dựa vững chắc về mọi mặt; không nên kỳ vọng quá

mức, thậm chí phải biết chấp nhận con và nhìn theo quan điểm của con; không được

áp đặt, xúc phạm, đánh mắng trẻ; hãy để con phát triển tính độc lập và trao cho trẻ

trách nhiệm; Hãy tôn trọng trẻ và tôn trọng quyền được làm trẻ của con; Hãy là tấm

gương thực tế mẫu mực cho trẻ noi theo. Bởi “Trẻ em không phải là người lớn thu

nhỏ lại” nên cha mẹ phải cho trẻ nói lên ý kiến của mình, biết kiên trì lắng nghe ý

kiến của con để “luyện sắt thành kim” và có nghệ thuật trách phạt tiến bộ, khoa học;

đồng thời phải gạt bỏ đi những quan niệm giáo dục sai lầm, lạc hậu; không ngừng

học hỏi kinh nghiệm dạy con khoa học, tiến bộ của các gia đình xung quanh, trong

nước và trên thế giới.

2. Đối với nhà trƣờng

Cần phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh của từng gia đình để họ nắm bắt tốt

tình hình học tập và rèn luyện của con trẻ; đồng thời thường xuyên trao đổi, tư vấn,

hỗ trợ và thống nhất biện pháp tác động phù hợp, kịp thời, nhất là khi các em có

những biểu hiện, hành vi sai lệch. Đồng thời phát huy tối đa thế mạnh của giáo dục

nhà trường trong việc kết hợp “dạy chữ” và “dạy người”; giúp các em hiểu được nỗi

khổ của người làm cha làm mẹ và sống có trách nhiệm hơn cho bản thân, gia đình

và xã hội.

106

3. Đối với xã hội

- Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, trước hết các tổ chức, cơ quan,

đoàn thể phải thực sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện được những chức năng cơ

bản của mình góp phần bảo vệ, xây dựng chính thể Nhà nước xã hội chủ nghĩa dân

chủ,công bằng, văn minh; không còn những tệ nạn xã hội, những tác động tự phát

và tiêu cực đến quá trình hoàn thiện nhân cách của trẻ. Có như vậy mới tạo niềm tin

và cơ sở để trẻ làm theo cái tiến bộ, tích cực đấu tranh những thói hư tật xấu và

tránh xa các tệ nạn xã hội.

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông giáo dục, vận động và nâng cao

nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên trong gia đình về vị

trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giúp

các gia đình nắm được những ưu- nhược điểm trong thực tế giáo dục gia đình hiện

nay và tham khảo một số kinh nghiệm dạy con của các gia đình trong và ngoài

nước; giúp các bậc phụ huynh ở Thái Bình có kiến thức phát huy hiệu quả vai trò

của gia đình trong giáo dục trẻ.

- Chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ở địa phương cần tạo điều kiện, tổ

chức các phong trào, hội thi, mở các lớp học để các gia đình có nhiều dịp trao đổi,

tọa đàm, học hỏi kinh nghiệm nuôi dạy trẻ; đồng thời tích cực cho trẻ tham gia các

hoạt động tập thể mang tính giáo dục, được bày tỏ ý kiến của mình về cuộc sống

xung quanh; đẩy mạnh phong trào “Gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học”, tích cực

triển khai công tác khuyến học, khuyến tài; khen thưởng kịp thời những cá nhân và

tập thể có những nghĩa cử đẹp, hành động đẹp hoặc đạt thành tích cao trong học tập,

trong công tác giáo dục gia đình.

107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Bình (2009), Quan điểm của C. Mác và Ănghen về gia đình

trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, Tạp chí Triết học

(6), tr 55 - 59.

2. Phạm Thị Bình (2011), Tác động của kinh tế thị trường đến chức

năng giáo dục của gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính

trị (9), tr 63 – 68.

Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em. 3.

Cục thống kê Thái Bình (2012), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 4.

2011. Nxb Thống kê.

5. Nguyễn trọng Chuẩn- Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống

trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (1969). 6.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị số 49/CT/TW ngày 25/3 của 7.

Ban bí thư về Xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam ( 1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Đại (2012), Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung

học phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học,

Đại học quốc gia Hà Nội.

108

13. Giáo trình Giáo dục gia đình

14. Lê Thanh Hà (1999), Kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của

gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta

hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học triết học, Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ

(2011), Đặc san tuyên truyền pháp luật, (02), tr.3.

16. Nguyễn Thị Lan Hương (2004), “Quan niệm của Ph. Ăngghen, Chủ

tịch Hồ Chí Minh về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc nghiên cứu

gia đình trong xã hội thông tin”, Triết học, (11), tr.22-26.

17. Đặng Cảnh Khanh (2003), “Một số suy nghĩ về phát huy vai trò của gia

đình và cộng đồng trong gióa dục các giá trị truyền thống cho trẻ em”,

Khoa học dân số, gia đình và trẻ em (2),tr45-49

18. Nguyễn Thế Long (1999), Gia đình và dân tộc, Nxb. Lao động.

19. Nguyễn Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ

trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội.

20. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 2004).

21. Ibuka Masaru (2013), Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn, Nxb. Văn học

22. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

23. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội

24. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

25. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

26. C. Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.21, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

27. C. Mác - Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, t.39, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

109

28. C. Mác - Ph.Ăngghen (1977), Toàn tập, t.41, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

29. C. Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.42, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội

30. Nguyễn Đức Mạnh (2004), “Gia đình và chăm sóc giáo dục trẻ em tuổi

mầm non trong gia đình hiện nay”, Khoa học về phụ nữ, (3),tr.21-26.

31. Hồ Chí Minh (1945), Thư gửi học sinh cả nước

32. Hồ Chí Minh (1960), Bài nói chuyện tại Hội nghị dự thảo luật hôn nhân

và gia đình, Tuyển tập, Nxb sự thật Hà Nội

33. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, t.1, Nxb. Sự thật, Hà Nội

34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

40. Lê Minh (chủ biên, 1994), Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển

xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội.

41. Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây

dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ

Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Hà Thế Ngữ- Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học, T.1, Nxb. Giáo dục 42.

Nguyễn Thị Oanh (1998), Gia đình Việt Nam thời mở cửa, Nxb. Trẻ 43.

Phiếu khảo sát thực tế trẻ em dưới 16 tuổi ở Thái Bình 44.

Phiếu khảo sát thực tế các gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi ở Thái Bình 45.

46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2013), “Luật Hôn

nhân và gia đình”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị tố Quyên (2005), “Vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em

trong gia đình”, Xã hội học ( 1), tr. 85-87.

110

48. Lê Thị Thắm (2012), Sự tác động của khoa học – công nghệ đến gia

đình Việt Nam hiện đại. Tạp chí Triết học (5), tr 69 -74.

49. Mai Thị Việt Thắng (2004), Sự phát triển và xung đột giữa cha mẹ và

con cái, Khoa học về Phụ Nữ, (4), tr.60-62.

50. Lê Thảo (2009), Gia đình Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế

thị trường, Tạp chí Cộng sản, tr 82 – 85.

51. Lê Thi ( 1997), vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

52. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

53. Lê thị Thu (2004), “Vị trí và chức năng của gia đình trong sự phát triển

của xã hội”, Lao động và Công đoàn (309),tr.36.

54. Trịnh Thị Thúy (2009), Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tạp chí Giáo dục lý luận,

tr 52 – 56

55. Tỉnh ủy- Hội đồng nhân dân- UBND tỉnh Thái Bình. Địa chí Thái Bình,

Nxb Văn hóa Thông tin.

56. Trần Quang Tiệp (2005), “Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã

hội trong đấu tranh phòng chống người chưa thành niên phạm tội”, Nhà

nước và pháp luật (1), tr. 62-66.

57. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1995), Gia đình

Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới của đất

nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

Tứ thư ngũ kinh (năm 2003), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 58.

Lê Qốc Tuấn ( 1995), “ Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về hôn nhân 59.

và gia đình”, NNxb Thành phố Hồ Chí Minh.

60. Lê Ngọc Văn (2006), “Vai trò của người vợ, người chồng trong gia

đình Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lao động và xã hội, (290), tr.35-42.

111

61. Nguyễn Linh Văn (2006), Gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí gia

đình và trẻ em, (5)

62. Lê Ngọc Văn (chủ biên 2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

63. Trần Thị Kim Xuyến (2002), Gia đình và những vấn đề của gia đình

hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội.

64.

http://giadinh.net.vn/gia-dinh.htm

65.

https://banthancuame.dutchlady.com.vn

http://kyna.vn/nhom-khoa-hoc/5-khoa-hoc-nuoi-day-con-danh-cho- 66.

cha-me-tre

http://www.mevacon.com.vn/ 67.

http://tuoitre.vn/tin/giao-duc 68.

http://eva.vn/tu-van-suc-khoe-tre-em 69.

http://doisong.vnexpress.net/tin-tuc/gia-dinh/nuoi-day-con/day-con- 70.

nen-nguoi-bang-cach-dung-ngon-ngu-tich-cuc

71. http://truonganhsang.edu.vn/ban-can-biet/day-con-nen-nguoi-tu-nhung-

quy-tac-nho.danang

112