BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thu Vân
BIỂU HIỆN XÚC CẢM – TÌNH CẢM CỦA TRẺ
MỒ CÔI 7 -11 TUỔI QUA TRANH VẼ TẠI LÀNG
TRẺ EM SOS GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thu Vân
BIỂU HIỆN XÚC CẢM – TÌNH CẢM CỦA TRẺ
MỒ CÔI 7 -11 TUỔI QUA TRANH VẼ TẠI LÀNG
TRẺ EM SOS GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số
: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Tâm lý giáo dục và phòng Sau đại học trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương
trình học cũng như luận văn này.
Chân thành cảm ơn TS Lê Thị Minh Hà là người giảng dạy và hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình làm luận văn này.
Xin cảm ơn ban lãnh đạo, các giáo dục viên, các mẹ và tất cả các trẻ của Làng
trẻ em SOS Tp HCM đã tham gia nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên cứu của tôi.
Cảm ơn BS Nguyễn Minh Tiến và chi hội tâm lý Trăng Non (Thuộc hội Tâm lý
– Giáo dục Tp HCM) đã định hướng, giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình hoàn
thành luận văn này.
Cảm ơn cha mẹ, gia đình, những người thân và bạn bè đã luôn sát cánh, giúp đỡ
cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi có thể đi đến giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các phân tích, nhận
định trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào.
Tác giả
Trần Thị Thu Vân
4
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................... 3
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... 4
MỤC LỤC ............................................................................................................................... 5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................... 8
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 8
2. Mục đích nghiên cứu: ............................................................................................. 10
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu: ...................................................................... 10
4. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................. 10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 10
6. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 10
7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 11
7.1. Cách tiếp cận .............................................................................................................. 11
7.2. Các phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................................. 13
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 13
1.1.1. Ở nước ngoài ........................................................................................................ 13
1.1.2. Ở Việt Nam ........................................................................................................... 14
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu .................................................................. 15
1.2.1. Khái niệm trẻ mồ côi ............................................................................................ 15
1.2.2. Khái niệm về các loại xúc cảm – tình cảm:......................................................... 16
1.2.3. Đặc điểm xúc cảm – tình cảm của trẻ trong độ tuổi 7 – 11 tuổi (độ tuổi tiểu
học) 18
1.2.4. Tranh vẽ của trẻ em .............................................................................................. 21
Phóng chiếu (Projection) .................................................................................................. 24
5
1.2.5. Sự bộc lộ xúc cảm - tình cảm của trẻ qua tranh vẽ ............................................ 27
1.3. Kỹ thuật phân tích tranh vẽ của trẻ ..................................................................... 29
1.3.1. Quan sát khi trẻ vẽ tranh ..................................................................................... 29
1.3.2. Thu thập thông tin khi trẻ hoàn thành ................................................................ 30
1.3.3. Kỹ thuật phân tích tranh vẽ ................................................................................. 30
1.3.4. Một số chỉ dẫn cụ thể về kỹ thuật xem tranh ...................................................... 31
1.3.4.1. Những biểu hiện về nội dung hình vẽ .......................................................... 31
1.3.4.2. Những biểu hiện về mặt hình thức của bức tranh ....................................... 35
1.3.4.3. Sử dụng màu sắc ......................................................................................... 37
1.3.4.4. Vị trí hình vẽ - biểu tượng không gian của hình vẽ ..................................... 40
1.3.5. Cách “đọc” tranh vẽ của trẻ: ............................................................................... 42
1.3.5.1. Đọc trực cảm (ấn tượng tổng thể ban đầu) ................................................. 42
1.3.5.2. Đọc bình thường .......................................................................................... 42
1.3.5.3. Đọc phân tích diễn giải ............................................................................... 42
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................... 46
2.1. Tổng quan về Làng trẻ em SOS ........................................................................... 46
2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ................................................................................ 48
2.3. Kết quả nghiên cứu sự biểu hiện xúc cảm – tình cảm của trẻ qua tranh vẽ ..... 49
2.3.1. Các trường hợp nghiên cứu ................................................................................. 49
2.3.2. Đặc điểm chung của các trường hợp ................................................................ 107
2.3.3. Một số ý kiến của các giáo dục viên và các mẹ ở Làng SOS ............................ 108
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................................... 115
1. Kết luận .................................................................................................................. 115
2. Kiến nghị ................................................................................................................ 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 122
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 125
6
PHỤ LỤC 1:Câu hỏi phỏng vấn .................................................................................... 125
PHỤ LỤC 2: .................................................................................................................... 125
PHỤ LỤC 3: TÓM TẮT CÁC TRƯỜNG HỢP ............................................................. 126
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TH1-H1-Vẽ nhà – Nam 11t: trường hợp 1, hình 1, vẽ nhà, đối tượng: nam 11 tuổi.
TH2-H2-Vẽ người – Nam 11t: trường hợp 2, hình 2, vẽ người, đối tượng: nam 11 tuổi.
Làng: làng trẻ em SOS – Gò Vấp – Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà mẹ SOS: người mẹ ở làng trẻ em SOS - Gò Vấp – Thành phố Hồ Chí Minh.
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao, cùng theo
đó các nhu cầu của con người về đời sống vật chất cũng như tinh thần đang tiến dần lên
những nấc thang mới. Ngoài nhu cầu vật chất đã trở thành tiền đề cơ bản, loài người ngày
càng quan tâm hơn đến đời sống tinh thần với rất nhiều nhu cầu khác nhau như giải trí, giải
tỏa căng thẳng, chăm sóc tinh thần, cảm nhận nghệ thuật và đặc biệt là nhu cầu bộc lộ xúc
cảm, tình cảm của bản thân. Trong quá trình sống, con người tác động vào thế giới khách
quan, cải tạo thế giới, cải tạo xã hội nhằm phục vụ cho đời sống, đồng thời cũng cải tạo
chính bản thân mình. Không những thế, con người còn tỏ thái độ của mình với thế giới. Khi
nghe một bản nhạc, một bài thơ hay, chứng kiến một hoàn cảnh thương tâm con người đều
có những rung động của bản thân mình. Khi thoả mãn hay không được thoả mãn những nhu
cầu của bản thân, con người cũng có những cảm xúc tương ứng. Những hiện tượng tâm lý
biểu lộ những rung động, những thái độ của con người đối với sự vật hiện tượng đó gọi là
cảm xúc và tình cảm. Cảm xúc và tình cảm của con người rất phong phú và đa dạng, thể
hiện qua nhiều cung bậc, cấp độ khác nhau. Cảm xúc cũng đã xuất hiện ở con người từ rất
sớm, khi mới sinh, nhưng cách bộc lộ cảm xúc ở trẻ nhỏ lại là một quá trình dài theo năm
tháng, hình thành từ việc trẻ giao tiếp với người thân (cha, mẹ, ông bà…) và học hỏi bằng
cách nhìn người lớn giao tiếp hàng ngày.Cách bộc lộ cảm xúc của trẻ ảnh hưởng rất nhiều
bởi cách chăm sóc của cha mẹ và quá trình dạy dỗ mà trẻ nhận được.
Một trong những phương tiện để con người bộc lộ xúc cảm tình cảm của mình ngôn
ngữ - một hệ thống tín hiệu (chữ viết và lời nói) dùng để thông tin liên lạc. Nói rộng hơn,
ngôn ngữ là các công cụ (có lời và không lời) dùng để truyền thông giao tiếp. Một trong
những ngôn ngữ không lời đó là tranh vẽ - tranh vẽ được dùng để phản ánh con người, qua
đó con người bộc lộ tâm tư, cảm xúc, tình cảm. Ở bất cứ thời đại nào, lứa tuổi nào con
người đều có thể bộc lộ tâm tư qua hình vẽ. Ngay cả khi có sự khác biệt về ngôn ngữ hay
mất khả năng nói, con người vẫn có thể hiểu nhau qua tranh vẽ. Do đó truyền đạt bằng hình
vẽ có tính nguyên sơ, cơ bản và phổ biến. Nó có thể dùng cho nhiều người, nhiều đối tượng
khác nhau, dù biết chữ hay không biết chữ, dù biết nói hay không biết nói... đặc biệt là cho
trẻ em. Những nét vẽ nguệch ngoạc, đơn điệu tưởng chừng vô nghĩa, nhưng trong nghiên
cứu, tìm hiểu tâm lý của trẻ, những “tác phẩm” đó vô cùng có giá trị. Qua nét vẽ trẻ bộc lộ
8
cảm xúc, sự nhận thức, thái độ...đồng thời nó cũng trở thành phương tiện giao tiếp của trẻ
với thế giới bên ngoài.
Ngoài ra, tranh vẽ có ý nghĩa lớn trong khoa học nghiên cứu tâm lý trẻ em. Đây là một
vấn đề không hề đơn giản trong tâm lý lâm sàng trẻ em. Ở Việt Nam, tuy chưa có nhiều
công trình nghiên cứu về hình vẽ của trẻ nhưng một số tác giả cũng đã sử dụng tranh vẽ
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về trẻ em, gợi mở nhiều vấn đề lý thú cần đào sâu. Do đó
bản thân người viết muốn tiếp cận, tìm hiểu tình cảm của trẻ em qua tranh vẽ để có thể hiểu
thêm về cảm xúc, tình cảm của trẻ trước cuộc sống, mong muốn và tương lai.
Gia đình là tổ ấm an toàn nhất của đa phần mọi người, là nơi nuôi dưỡng, ấp ủ để mỗi
người trưởng thành, là cội nguồn phát sinh tình thương. Đã là con người ai chẳng mong
muốn được mẹ cha thương yêu, chăm sóc. Tuy nhiên, không phải ai cũng may mắn có được
điều đó. Nhiều trẻ nhỏ không biết đến hơi ấm của mẹ ngay từ khi lọt lòng, hình ảnh người
cha, người mẹ trở nên xa lạ, cao vời. Sự thèm khát một mái ấm, sự chăm sóc, bảo bọc của
mẹ cha nhưng không được. Đối với các em tất cả chỉ là mơ, những giấc mơ rất đỗi bình
thường, dung dị, được sống trong vòng tay của mẹ cha như bao nhiêu đứa trẻ khác nhưng lại
vô cùng xa vời. Các em luôn thường trực sự thèm khát có mẹ, có cha, các em mất đi chỗ
dựa an toàn nhất của cuộc đời, mất đi sự yêu thương vô điều kiện. Liệu sự chở che, yêu
thương của những người khác thay thế bố mẹ có thể bù đắp được những gì các em đã mất.
Trong quá trình làm việc với nhiều đối tượng trẻ em, người viết cảm nhận được sự thiếu
vắng, lạnh lẽo trong tâm hồn các em. Vì vậy mong muốn thực hiện đề tài này để phần nào
có thêm công cụ giúp các em bộc lộ mình, cũng như những người đang chăm sóc, làm việc
với trẻ hiểu các em hơn.
Xúc cảm, tình cảm là những hiện tượng tâm lý phản ánh sự vật hiện tượng xung quanh
dưới dạng những rung động, trải nghiệm trong bản thân mỗi chủ thể. Con người luôn có nhu
cầu được yêu thương, chăm sóc, bao bọc và bộc lộ xúc cảm, tình cảm của mình. Đối với trẻ
nhỏ nhu cầu này càng được thể hiện rõ nét. Với trẻ mồ côi, cùng với sự thiếu hụt tình cảm
của mình, những xúc cảm, tình cảm âm tính sẽ nảy sinh. Làm thế nào để chúng dễ dàng bộc
lộ buồn, vui, giận hờn, yêu ghét mà không cảm thấy khó khăn trước những rào cản. Từ đó
có thêm cơ hội biểu lộ những xúc cảm, tình cảm dương tính khác mà chúng có được. Nhờ
có xúc cảm, tình cảm con người nhận biết được về bản thân mình rõ nét hơn. Sự bộc lộ bản
thân là điều không thể thiếu trong quá trình giao tiếp hay công việc. Đây cũng là một trong
những khó khăn đối với trẻ mồ côi mà tác giả nhận thấy trong quá trình tiếp xúc.
9
Như vậy, nhu cầu bộc lộ xúc cảm, tình cảm là một trong những nhu cầu rất quan trọng
ở mỗi con người. Ngay từ thuở nhỏ, mỗi người đã có những cách thức khác nhau bộc lộ tình
cảm khác nhau và rất phong phú. Trẻ mồ côi là đối tượng gặp nhiều tổn thương, mất mát,
đau buồn trong cuộc sống và việc bộc lộ xúc cảm, tình cảm cũng trở nên khó khăn hơn. Nếu
có một phương thức nào đó vừa giúp trẻ thể hiện xúc cảm, tình cảm của mình lại vừa tránh
nói trực tiếp đến những tổn thương sẽ giúp trẻ rất nhiều trong việc bộc lộ mình, đồng thời
giúp người lớn hiểu và có những phương pháp giáo dục phù hợp hơn. Do đó nười viết đã
lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Biểu hiện xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi 7 – 11 tuổi qua
tranh vẽ tại làng trẻ em SOS Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi qua tranh vẽ và các yếu tố ảnh hưởng đến
cảm xúc. Từ đó giúp giáo dục viên, tình nguyện viên và những người chăm sóc khác hiểu
thêm về các em để có những phương pháp giáo dục phù hợp.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: xúc cảm – tình cảm của những trẻ mồ côi 7 -11 tuổi thông qua
tranh vẽ.
Khách thể nghiên cứu: trẻ mồ côi từ 7 – 11 tuổi tại làng SOS Gò Vấp – Thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trẻ mồ côi bộc lộ xúc cảm – tình cảm tích cực và tiêu cực qua tranh vẽ.
Trẻ mồ côi bộc lộ sự khao khát về một mái ấm, một gia đình hạnh phúc (có đầy đủ mẹ
cha) qua tranh vẽ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: xúc cảm – tình cảm của trẻ
mồ côi nói chung và trẻ mồ côi trong độ tuổi 7 -11 tuổi nói riêng.
Tìm hiểu sự bộc lộ xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi 7 – 11 tuổi qua tranh vẽ.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu sau:
Nghiên cứu trên nhóm 12 trẻ mồ côi từ 7 – 11 tuổi tại làng trẻ em SOS Gò Vấp.
Nghiên cứu sự bộc lộ xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi 7 – 11 tuổi tại làng trẻ em
SOS Gò Vấp qua tranh vẽ.
10
7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
Tiếp cận cá nhân trẻ: mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt, có cuộc sống, thế giới nội tâm,
hoàn cảnh sống độc nhất. Cần tiếp cận từng trẻ để có cơ hội thấu hiểu các em.
Tiếp cận tâm lý trị liệu dựa trên quan điểm hệ thống. Tìm hiểu các đặc điểm, hoàn
cảnh sống của trẻ, các mối quan hệ có ý nghĩa của trẻ đối với gia đình gốc cũng như những
người quan trọng đối với trẻ trong làng SOS.
Tiếp cận giáo dục: Hiểu được cảm xúc và cách bộc lộ của trẻ, từ đó có những phương
thức giáo dục thích hợp. Có sự lưu tâm đối với những em gặp khó khăn trong việc bộc lộ
xúc cảm – tình cảm.
Tiếp cận phát triển: Quan sát biểu hiện xúc cảm tích cực cũng như tiêu cực của trẻ theo
độ tuổi.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu
7.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Mục đích: Nhằm xây dựng đề cương nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài; lựa chọn
phương pháp làm cơ sở cho việc tìm hiểu, đánh giá những biểu hiển xúc cảm – tình cảm của
trẻ mồ côi 7 -11 tuổi tại làng trẻ em SOS Gò Vấp – Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến xúc cảm sự biểu hiện
xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi qua tranh vẽ.
- Cách thức thực hiện: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa lý thuyết để
làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
7.2.2 Phương pháp quan sát:
- Mục đích: Quan sát những biểu hiện xúc cảm – tình cảm của trẻ khi vẽ tranh.
- Nội dung: Quan sát nét mặt, thao tác vẽ trong quá trình trẻ thực hiện vẽ tranh.
- Cách thức thực hiện: Quan sát không can thiệp khi trẻ vẽ tranh và ghi chép những
điều xảy ra trong quá trình đó.
7.2.3 Phương pháp phỏng vấn:
- Mục đích: Thu thập thông tin của những người liên quan đến trẻ.
- Nội dung: sử dụng một số câu hỏi soạn sẵn về thông tin, lý lịch, tính cách của trẻ
trong cuộc phỏng vấn.
11
- Cách thức thực hiện: tiến hành phỏng vấn trực tiếp người nuôi dạy, giáo dục viên của
trẻ (phỏng vấn cá nhân) và bản thân trẻ.
7.2.4 Phương pháp nghiên cứu trường hợp:
- Mục đích: Phân tích sâu cảm xúc của một số trẻ qua tranh vẽ. Thu thập thông tin về
lịch sử phát triển, hoàn cảnh gia đình để có thêm cơ sở hiểu về cảm xúc của trẻ.
- Nội dung: Tìm hiểu sự bộc lộ cảm xúc của trẻ qua tranh vẽ, lịch sử cá nhân, mối quan
hệ của trẻ với người khác.
- Cách thức thực hiện: phân tích tranh vẽ, thu thập thông tin qua quan sát, phỏng vấn,
trò chuyện. Trên cơ sở đó hiểu rõ cảm xúc của trẻ qua tranh vẽ.
7.2.5 Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động:
- Mục đích: Đánh giá, phân tích tranh vẽ của trẻ.
- Nội dung: phân tích, tổng hợp các tranh vẽ của trẻ để hiểu cảm xúc, tình cảm của trẻ
qua tranh vẽ.
- Cách thức thực hiện: mô tả hoàn cảnh khách quan và chủ quan của trẻ trong quá trình
tạo ra sản phẩm. Từ đó có những phân tích, kết luận.
12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Các hình vẽ trẻ em qua nhiều thế kỷ bị xem thường, mãi đến những năm cuối thế kỷ 19
mới được chú ý một cách nghiêm túc.
Lần đầu tiên, các hình vẽ của trẻ nhỏ được in ra vào năm 1887. Tác giả là ông Corado
Ricci là một nhà phê bình hội họa nổi tiếng đã có một phát hiện đáng kể về các ý nghĩa bao
hàm trong hình vẽ người. Cuốn sách này in ra đã mở đầu cho nhiều tư liệu nghiên cứu khác
lần lượt ra đời trong và ngoài nước. Trong đó chủ yếu là các tác giả Sully (1895), Partridge
(1902), Kerschensteiner (1905), Levinstein (1905), Katzaroff (1909-1910) và Luquet (1913)
Năm 1926, có một bước tiến quan trọng: F.Goodenough cho ra đời một hệ thống đánh
giá trí năng qua hình vẽ người. Hệ thống này đã được Harris (1963; Harris và Roberts,
1972) mở rộng và chuẩn hóa đầy đủ. Hình vẽ người đã thành một đề mục trong nhiều test
IQ, chủ yếu trong test Stanford – Binet nhưng tiến trình Goodenough – Harris cũng được
coi là một test riêng biệt.
Các nhà lâm sàng đã tin rằng các hình vẽ, nét vẽ của một người còn thể hiện những gì
khác, ngoài tư duy đã có công nghiên cứu lâu dài một cách sinh động các hình vẽ người
nhằm tìm ra những chứng cứ khẳng định hoặc gợi ý xây dựng một cách tiếp cận chẩn đoán
về những vấn đề thuộc cảm xúc. Các nhà lâm sàng đã kiên trì đi theo con đường đó. [tr59,6]
Cách tiếp cận bằng phóng chiếu của Rorschach và nhiều phương pháp phóng chiếu khác
(test Szondi, test vẽ cây của Koch, test nhà – cây – người của Buck) cũng như cách nhìn
nhận hình vẽ người là bằng chứng thể hiện nét cảm xúc, đã làm cho các phương pháp phóng
chiếu lại được chú ý nhiều. Phương pháp khảo sát nhân cách của Machover (1949) được các
nhà tâm lý học rất hoan nghênh, cũng như hệ thống chấm điểm các hình vẽ người nhằm xây
dựng chỉ số IQ cho trẻ từ 5 – 11 tuổi của Koppitz (1968) và gần đây hơn là các hình vẽ về
động thái gia đình (kinetic family drawings) của Burns và Kaufman (1970, 1972).
Năm 1981 Dunleary, Hason và Ssasz đã cho thấy hệ thống chấm điểm của Koppitz ứng
dụng rất tốt để nghiên cứu các trẻ nhỏ ở vườn trẻ đến tuổi đi học.
Các kiểu test hình vẽ người, nhà, cây đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu trong nhiều
năm như: Buck (1948, 1964), Hammer (1953, 1980), Jolles (1971). Các tác giả này cho rằng
13
vẽ nhà, cây sẽ có thể đi sâu hơn vào nhân cách của trẻ (nhưng vẽ cây bộc lộ nhiều hơn cả),
nên cho vẽ nhiều hình màu và hỏi chuyện trẻ thêm sau khi trẻ vẽ.
Như vậy, tuy nghiên cứu tâm lý trẻ em qua tranh vẽ có lịch sử nghiên cứu và ứng dụng
không dày nhưng đã và đang được sử dụng như một trong những công cụ đắc lực nhất trong
các nghiên cứu đặc điểm tâm lý cá thể. Những nghiên cứu trên tập trung chủ yếu thực hiện
nhằm đánh giá phát triển trí tuệ, nhân cách và cảm xúc ở trẻ nhỏ.
1.1.2. Ở Việt Nam
Vào những năm 1973, Nguyễn Văn Thành đã có những nghiên cứu về hình vẽ người để
so sánh sự phát triển của trẻ bình thường với trẻ chậm khôn. Đến thập niên 80, thì việc sử
dụng các test đánh giá chỉ số trí khôn (IQ) được tiến hành với tính chất thử nghiệm tại các
cơ sở dạy trẻ chậm khôn, trung tâm sức khỏe tâm thần TP.HCM (nay là bệnh viện tâm thần
TP.HCM). Trần Thị Cẩm đã biên dịch bộ tài liệu “Sổ tay chẩn đoán tâm lý trẻ em” vào năm
1987, cũng đã đề cập đến một số khía cạnh về các test vẽ hình người, hình nhà và cây cối.
Ngoài ra, trong một số sách về tâm lý giáo dục như cuốn “Thử trắc nghiệm con bạn” do
Văn Hòa (biên dịch) – NXB Văn Hóa Thông Tin 1998, có giới thiệu một trắc nghiệm vẽ
hình đơn giản. Trong tập sách “Tâm lý và sức khỏe” do BS Đặng Phương Kiệt (chủ biên) –
NXB Văn Hóa Thông Tin 2000, cũng có giới thiệu trong một chương về Test vẽ hình người
do Lê Khanh biên soạn.
Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em (trung tâm N-T) BS Nguyễn Khắc Viện sáng lập
1989, đã có những công trình biên dịch khá công phu về lĩnh vực này. Nhưng khuynh
hướng hiện nay đối với các test vẽ hình người, thường chú trọng đến việc phát hiện những
vấn đề của nội tâm đứa trẻ hơn là tìm cách đánh giá khả năng trí tuệ. Viện Nhi Hà Nội cũng
tiến hành nghiên cứu việc trẻ vẽ hình người theo Goodenough tại một trường phổ thông cơ
sở ở Hà Nội (1992). Các tác giả nhận xét có sự tương ứng giữa điểm vẽ hình người với điểm
học tập & hình vẽ phản ánh trí khôn theo tuổi (rõ rệt nhất từ 7 đến 10 tuổi). Trẻ gái và trẻ
trai có những đặc điểm khác nhau.
Năm 2002 có một sinh viên Pháp qua Việt Nam nghiên cứu về hình vẽ người ở trẻ em
(sử dụng thang chấm điểm Goodenough). Báo cáo trong bài giảng của hai chuyên gia Pháp
tại bệnh viện Nhi Đồng 1 – Tp Hồ Chí Minh.
Tuy chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ nhưng một số tác giả cũng
đã sử dụng tranh vẽ trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về trẻ em, gợi mở nhiều vấn đề lý thú
cần đào sâu. Như Trần Thu Hương với bài viết tranh vẽ gia đình của trẻ - nhìn từ góc độ của
14
khoa học tâm lý (tạp chí tâm lý học số 4 – 2010) và đánh giá rỗi nhiễu tâm lý ở trẻ bằng
tranh vẽ: nghiên cứu trường hợp trẻ trai 12 tuổi (Hội thảo khoa học quốc tế tâm lí học đường
lần thứ ba tại ĐHSP TPHCM 2012). Sách tìm hiểu tâm lý trẻ em qua tranh vẽ của Trần Thị
Minh Đức đã phân tích tranh của học sinh một số trường giáo dưỡng. Gần đây, trong hội
thảo khoa học của hội Khoa học tâm lý – Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh (25/05/2013),
Nguyễn Minh Anh (Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP HCM), có bài tham luận “ứng dụng
tranh vẽ trong chẩn đoán và tư vấn tâm lý”. Bài viết đã trình bày khái quát về giá trị của
tranh vẽ, một trong những phương pháp phóng chiếu quan trọng và hữu dụng nhất đối với
việc chẩn đoán và trị liệu tâm lý. Tác giả đã sử dụng test “tranh vẽ gia đình thú” như một
công cụ phát hiện xung đột gia đình, từ đó làm rõ tính ứng dụng cao của phương pháp này
trong điều kiện Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ em ở Việt Nam được thực hiện trên nhiều
đối tượng trẻ khác nhau như thiếu niên ở trường giáo dưỡng, các trẻ có các vấn đề rỗi
nhiễu... Các nghiên cứu còn riêng lẻ, chưa mang tính hệ thống, chưa có sự nhất quán về
phương pháp và quy trình chẩn đoán tâm lý trẻ qua tranh vẽ.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm trẻ mồ côi
Đối với luật pháp Quốc tế và Việt Nam, trẻ mồ côi là một thành phần của đối tượng trẻ
có hoàn cảnh đặc biệt.
Pháp luật Quốc tế
Cơ sở pháp lý: Điều 20 và 21 Công ước quốc tế về quyền trẻ em .
Nội dung:Việc xếp trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi vào một nhóm là vì
đặc điểm của nhóm trẻ em này là không có bố mẹ hoặc vì lý do nào đó không được sống
cùng bố mẹ: “Trẻ em tạm thời hoặc hoàn toàn không được sống trong môi trường gia đình
hoặc vì lý do ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân không được quyền tiếp tục sống trong
môi trường gia đình sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ đặc biệt của Nhà nước”
(Điều 20 Công ước về quyền trẻ em)
Nguyên nhân khiến trẻ em mồ côi, không nơi nương, bị bỏ rơi tựa là do cha mẹ chết
trong tai nạn, bệnh tật, chết trong thiên tai, chiến tranh hay mất tích trong các vụ thiên tai, lũ
lụt, hay cha mẹ vì lý do nào đó không nuôi dưỡng chúng, vứt bỏ chúng, hoặc bị thất lạc….
Theo điều 20 qui định,“Các nhà nước thành viên tùy theo luật pháp của quốc gia mình
đảm bảo việc chăm sóc bảo vệ cho những trẻ em như vậy.”
15
Tại khoản 3 của điều 20 cũng đưa ra các phương thức giúp đỡ đối với nhóm trẻ em này:
“Việc chăm sóc trẻ em bao gồm các hình thức trong đó có hình thức nuôi dưỡng khác theo
luật pháp của đạo Hồi, nhận làm con nuôi hoặc nếu cần thiết đưa vào các trung tâm chăm
sóc trẻ em thích hợp. Trong quá trình xem xét lựa chọn phương án, cần phải tính đến
nguyện vọng được giáo dục, dạy dỗ liên tục và cơ sở nền tảng về ngôn ngữ, văn hóa, tôn
giáo và dân tộc của trẻ em”.
Một trong những phương thức giúp đỡ hữu hiệu đối với nhóm trẻ em này là việc cho
nhận con nuôi và điều đó đã được Điều 21 của Công ước đã điều chỉnh bằng cách quy định
thẩm quyền cho phép nhận con nuôi, điều kiện mà người nhận con nuôi phải tuân thủ…
Pháp luật Việt Nam
Cơ sở pháp lý: Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được quy định tại điều 51 Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, điều 65 Hiến pháp 1992.
Nội Dung:Tại điều 51 Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em nói về việc giáo dục, chăm
sóc nhóm trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa với nội dung như sau:
Thứ nhất, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được Uỷ ban nhân dân địa
phương giúp đỡ để có gia đình thay thế hoặc tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ
giúp trẻ em công lập, ngoài công lập.
Thứ hai, nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức,
cá nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ
em bị bỏ rơi.
Thứ ba, nhà nước có chính sách trợ giúp gia đình, cá nhân hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em
ngoài công lập nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi.
Trẻ mồ côi hiểu theo nghĩa rộng đó là: Những trẻ không có cha mẹ hoặc có cha mẹ
nhưng không được cha mẹ chăm sóc quan tâm (trẻ không bao giờ biết, gặp cha mẹ mình),
thậm chí không có cả cha lẫn mẹ vì bất cứ lý do nào.
1.2.2. Khái niệm về các loại xúc cảm – tình cảm:
Mỗi xúc cảm sinh ra một loạt phản ứng sinh lý, do tác động lên thần kinh giao cảm và
phó giao cảm (cũng gọi là á giao cảm), với hậu quả là: tim đập nhanh hơn, huyết áp, nhịp
thở, kích thước con ngươi, kích thước các mạch máu, trương lực cơ, nhiệt độ đều biến động.
Tất cả những phản ứng sinh lý này đều có thể ghi ký một cách chính xác, thể hiện thành
những đường biểu đồ.
16
Một xúc cảm thường lặp đi lặp lại, trong những tình huống và với những con người,
những sự vật nhất định, quyện với những tri thức và tập quán nhất định trở thành tình cảm.
[18]
Xúc cảm là những rung động của con người đối với từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ có
liên quan đến nhu cầu, động cơ của người đó trong những tình huống nhất định.
Tình cảm là những rung động biểu thị thái độ của con người đối với một loạt sự vật, hiện
tượng có liên quan đến nhu cầu, động cơ của chủ thể. [18]
Theo nghĩa sát nhất của từ xúc cảm, từ điển tiếng Anh của Oxford định nghĩa xúc cảm
như “một kích động hay rối loạn tinh thần, tình cảm, đam mê, mọi tình cảm, đam mê, mọi
trạng thái mãnh liệt hay kích thích”. Có hàng trăm xúc cảm với những kết hợp, biến thể và
biến đổi của chúng. Những sắc thái của chúng trên thực tế nhiều đến mức chúng ta không
đủ từ để chỉ.
Các nhà nghiên cứu chưa đồng ý với nhau là có những xúc cảm căn bản không – theo
kiểu như màu xanh, màu đỏ, màu vàng của tình cảm từ đó hình thành ra tất cả sự pha trộn.
Một số nhà lý thuyết xếp loại các xúc cảm thành các họ cơ sở, nhưng không đồng ý về ý
nghĩa của chúng. Sau đây là xúc cảm rất thường được nhắc tới, với một số thành phần của
chúng.
Giận: cuồng nộ, phẫn nộ, oán giận, nổi giận, bực tức, gay gắt, hung hăng, bất mãn, cáu
kỉnh, thù địch và có thể đạt tới độ tột cùng, thù hằn và bạo lực bệnh lý.
Buồn: buồn phiền, sầu não, rầu rĩ, u sầu, thương thân, cô đơn, ủ rũ, thất vọng và trầm
cảm sâu.
Sợ: khi trở thành bệnh lý lo hãi, e sợ, bị kích thích, lo âu, rụng rời, sợ sệt, rón rén, bải
hoải, khiếp hãi, khủng khiếp, ghê sợ, và khi trở thành bệnh lý là chứng sợ và hoảng hốt.
Khoái: sung sướng, vui vẻ, nhẹ nhõm, bằng lòng, rất hạnh phúc, khoái trá, hoan hỉ, tự
hào, khoái cảm, nhục dục, rung lên (vì vui), mê ly, hài lòng, sảng khoái, ngông, ngây ngất
và mức tột cùng.
Yêu: ưng ý, tình bạn, tin cậy, dễ ưa, cảm tình, tận tụy, sùng kính, hâm mộ.
Ngạc nhiên: choáng váng, ngơ ngác, kinh ngạc.
Ghê tởm: khinh miệt, coi thường, kinh tởm, chán ghét, phát ngấy.
Xấu hổ: ý thức phạm tội, bối rối, phật ý, ăn năn, nhục nhã, hối tiếc.
17
Một vài loại cảm xúc cơ bản trên đây chắc không đáp ứng hết sự bộc lộ đa dạng trong
cuộc sống. Người ta chưa thể trả lời rõ ràng tất cả các loại cảm xúc và cuộc tranh luận vẫn
còn để ngỏ.
1.2.3. Đặc điểm xúc cảm – tình cảm của trẻ trong độ tuổi 7 – 11 tuổi (độ tuổi tiểu
học)
Xúc cảm là những rung động của con người đối với từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ có
liên quan đến nhu cầu, động cơ của người đó trong những tình huống nhất định.
Khác với xúc cảm, tình cảm cũng là những rung động nhưng nó biểu thị thái độ của con
người đối với một loạt sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu, động cơ của chủ thể chứ
không phải là những rung động đối với từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
Trước 7 tuổi, trẻ em thường nhận xét và mô tả người khác bằng các từ cụ thể, gắn với các
đặc điểm hoặc hành động của họ ngay trước đó. Kiểu như “chú tôi cao, chú ấy ăn ớt giỏi...”.
Trẻ ít chú ý đến việc mô tả tính cách. Các em kết bạn chủ yếu vì bạn có đồ chơi, cùng thích
chơi một trò chơi hoặc có những đặc điểm bề ngoài được đánh giá cao như xinh đẹp...
Trong độ tuổi tiểu học trẻ càng ngày càng ít dựa vào các đặc điểm cụ thể để mô tả bạn bè và
người khác mà đã biết dựa vào các cấu trúc tâm lý tương đối ổn định hay những nét tính
cách của họ. [tr62, 10]
Một biểu hiện khá rõ sự phát triển nhận thức xã hội của trẻ em ở độ tuổi này là kỹ năng
nhập vai người khác để phân tích nhận thức, thái độ và cách ứng xử của người khác.
Trẻ mẫu giáo thường có xu hướng đồng nhất nhận thức, thái độ và hành vi của người
khác với của mình (trẻ cho rằng người khác cũng nghĩ như mình). Bước sang tuổi đầu tiểu
học, trẻ đã nhận ra người khác có thể có suy nghĩ, thái độ và hành động khác với mình, do
nhận được các thông tin khác nhau. Khi lên 8 – 10 tuổi, trẻ nhận ra người khác có thể có
nhận thức, thái độ và ứng xử khác với mình, mặc dù cùng từ một thông tin. Do đó đã có thể
dự đoán được hành vi ứng xử của người khác trong hoàn cảnh cụ thể. Trẻ 10 – 12 tuổi có
thể đồng thời nhận biết suy nghĩ và ứng xử của mình và của người khác. [tr37,9]
Khi trẻ có kỹ năng nhập vai thì sự hiểu biết về ý nghĩa và tính chất quan hệ giữa người
với người đã thay đổi. tác nhân quan trọng dẫn đến sự phát triển nhận thức người khác của
lứa tuổi nhi đồng là sự phát triển các thao tác nhận thức và sự trải nghiệm của trẻ thông qua
tương tác với người khác. Sở dĩ trẻ có thể dựa vào cấu trúc tâm lý tương đối ổn định để
đánh giá người khác là nhờ đã phát triển các thao tác trí tuệ cụ thể, đặc biệt là do trẻ đã có
khả năng bảo toàn (phát hiện ra cái tương đối ổn định, ít biến đổi qua cái dễ biến đổi). Mặt
18
khác, thông qua tương tác xã hội như qua các trò chơi, các hoạt động cùng nhau trong học
tập và sinh hoạt cộng đồng giữa các bạn cùng lứa, trẻ dần dần tăng hiểu biết của mình về sự
khác biệt quan điểm, tính cách giữa bản thân và người khác.
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật
hiện tượng sinh động, rực rỡ. Đối tượng gây xúc cảm cho học sinh tiểu học chủ yếu là
những sự vật, hiện tượng, hình ảnh cụ thể (tính cụ thể, trực tiếp). Sự thích thú, buồn bực, sợ
hãi… của các em thường xảy ra trong khi đang trực tiếp tri giác các sự vật, hiện tượng cụ
thể. Trẻ em tiểu học dễ xúc cảm hay xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình. Tính dễ
xúc cảm của trẻ trước hết thể hiện ở chỗ xúc cảm thâm nhập vào mọi quá trình tâm lý của
các em. Các em dễ xúc cảm, đồng thời hay xúc động (xúc cảm mạnh). Lúc này khả
năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện
cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...Vì thế có thể nói tình cảm
của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi, tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu
học đã "người lớn" hơn rất nhiều. [tr92,10]
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm
theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ
thuật, khoa học,... khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo
kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.
Đặc điểm xúc cảm – tình cảm của trẻ mồ côi
Cho đến nay vẫn chưa có một kết quả nghiên cứu hay tài liệu cụ thể nào nói rõvề tâm lý
hay xúc cảm, tình cảm của trẻ em mồ côi, thông thường người ta dựa trên tâm lý trẻ em và
những nét biểu hiện thực tế của trẻ em mồ côi để phác họa một số nét tâm lý cơ bản của trẻ
em mồ côi.
Mặc dù những nhu cầu vật chất căn bản có lẽ được cung cấp, nhưng những đứa trẻ trong
trại mồ côi hầu như hoàn toàn đã bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài và có thể không tiếp
xúc với các gia đình bình thường và các tương quan xã hội. Điều này có lẽ gây hại cho nhân
cách của chúng vào giai đoạn trưởng thành và những kĩ năng xã hội. Những kết quả này chỉ
ra mối liên hệ rõ rệt giữa sựkém tự tin và trầm cảm đã là hậu quả nào đó của hoàn cảnh mồ
côi và đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm chất lượng cuộc sống của trẻ. Lòng tự
tin và trầm cảm có lẽ được xem xét như những biến số trung gian trong mối liên hệ nguyên
nhân giữa trại mồ côi, chất lượng cuộc sống và sự hiện diện của một đứa trẻ mồ côi và trầm
cảm đã là những nguyên nhân tiêu cực.
19
Mặc cho những năng lực, những đứa trẻ bị bỏ rơi tiếp tục trải nghiệm những vấn đề cảm
xúc và ít đứa được hỗ trợ về lĩnh vực này. Có một vài nguyên nhân. Đầu tiên là thiếu thông
tin đầy đủ về bản chất và tầm quan trọng của vấn đề. Thứ hai, có một quan niệm rằng những
đứa trẻ không có những vấn đề cảm xúc, vì vậy có người lớn thường thiếu sự chú ý quan
tâm. Thứ ba, vì những vấn đề tâm lý không phải lúc nào cũng rõ rệt, nhiều người lớn chịu
trách nhiệm với những đứa trẻ mồ côi không có khả năng nhận diện chúng. Tuy nhiên, dù
vấn đề được nhận diện, cũng không dễ có sự hiểu biết để kiểm soát nó cho phù hợp. Trong
nhiều trường hợp trẻ bị trừng phạt vì tỏ ra những cảm xúc tiêu cực, bằng cách đó chỉ thêm
cho chúng sự đau đớn. Ở trường thiếu hẳn sự huấn luyện phù hợp cho những giáo viên trong
việc nhận diện những vấn đề thuộc tâm lý và xã hội, vì thế cá nhân hay nhóm cần chú ý đến
điều này.
Điều dễ nhận thấy trong tâm lý trẻ mồ côi là cảm giác cô đơn, trống trải. Trẻ tự ti, dễ tủi
thân, sống thầm lặng, mặc cảm với số phận….Trẻ lo lắng sợ hãi, xa lánh không
muốn quan hệ với bạn bè… Một số trẻ trở nên liều lĩnh, gan lỳ, mánh khóe cốt sao có tiền
kiếm bữa cơm để tồn tại qua ngày. Một số trẻ lại có khả năng tự lập từ rất sớm. Các em hoài
nghi mọi người, hoài nghi cuộc sống, thù ghét mà không rõ lý do những đứa trẻ hơn nó về
gia thế hay có đầy đủ cha mẹ. Trẻ mồ côi sẽ hằn thù sâu đậm đàn ông hay đàn bà nếu trẻ
sống với cha dượng, mẹ kế hay người chăm sóc đối xử tệ bạc và ngược đãi trẻ hoặc nhẫn
tâm bỏ rơi trẻ.
Tuy nhiên, các em biết chia sẻ, đồng cảm và giúp đỡ các bạn có cùng cảnh ngộ như
mình. Trẻ luôn khao khát tình thương, luôn mơ ước có một gia đình có cha mẹ. Trẻ thèm
được cha mẹ chở đi học, đi chơi và được yêu thương như bao trẻ em có cha mẹ. Đối với các
em ước mơ về một gia đình tuy nhỏ bé nhưng lại rất xa vời. Những trẻ em khi sinh ra và lớn
lên không có được sự quan tâm, săn sóc của cha mẹ có nghĩa là chúng sẽ phải đương đầu
với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Những khó khăn này gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển cả về thể chất và tinh thần
của trẻ, trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu thốn về đời sống vật chất và thiếu thốn tình yêu
thương chăm sóc của cha mẹ.
Những khó khăn đời sống vật chất như thiếu thực phẩm, không có nước sạch để sử dụng,
không có nhà ở hoặc có thì là nhà tạm không an toàn hoặc nhà kiên cố nhưng quá chật chội
không đủ phương tiện sinh hoạt hằng ngày, không được hưởng điều kiện chăm sóc vệ
sinh… Khó khăn về đời sống vật chất không chỉ kìm hãm sự phát triển thể chất của các em
20
còn làm cho các em mất đi nhiều quyền cơ bản như học tập,vui chơi giải trí hay tham gia
hoạt động xã hội. Thay vào đó, các em phải tham gia lao động phụ giúp gia đình hay để tự
nuôi sống bản thân. Chính những khó khăn này đã làm cho các em có cảm giác thua thiệt, từ
đó có thái độ tiêu cực, tự ti, mặc cảm dẫn đến mất đi các động cơ kích thích học tập, rèn
luyện và phấn đấu. Tuy nhiên có những em nhận thức được hoàn cảnh của mình, nên khi có
được sự hỗ trợ thích hợp bên ngoài các em rất trân trọng sự giúp đỡ đó và tỏ ra rất có ý chí
vượt khó để phấn đấu lao động và học tập.
Thiếu vắng đi tình thương yêu của cha mẹ, gia đình, đặc biệt là ở những năm đầu trong
quá trình sống củatrẻ có nghĩa là trẻ sẽ mất đi một môi trường xã hội hóa cơ bản nhất, đầu
tiên nhất của con người. Quá trình xã hội hóa là một quá trình liên tục, nó bắt đầu ngay từ
khi còn là hài nhi trong bụng mẹ. Những năm đầu, cha mẹ là người xây những viên gạch
nền tảng của quá trình này. Ví dụ như trẻ học cách thể hiện tình cảm của mình đúng lúc,
học cách giao tiếp trong xã hội, học các lễ nghi phong tục, tập quán. Nếu không cócha mẹ,
nghĩa là trẻ mất đi cơ hội học hỏi những vấn đề này và nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới việc
tạo lập các mối quan hệ xã hội sau này của trẻ. Chính vì vậy đòi hỏi những người thân như
họ hàng, cộng đồng và xã hội hãy quan tâm, dìu dắt các em ngay khi mà các em bị chia lìa
khỏi cha mẹ.
Trẻ em cũng như tất cả mọi người chúng ta luôn cần tới sự nâng đỡ, an ủi mỗi khi gặp
khó khăn và đối với trẻ mồ côi thì điều đó càng quan trọng. Do thiếu vắng cha mẹ nên đời
sống tình cảm của các em thường bị xáo trộn: những mất mát mà các em phải chịu, những
khó khăn đời thường mà các em phải trải nghiệm nếu không có một ai nâng đỡ, điều này dễ
dẫn đến sự nghi hoặc, sự bất cần của các em vào cuộc sống. Điều này cũng giải thích cho
hiện tượng phạm pháp ở trẻ không có cha mẹ. Nếu người chăm sóc cho trẻ thấy được sự
quan tâm, tin yêu của mình đối với trẻ, trẻ sẽ có một tình cảm rất sâu nặng, biết ơn với
người đó, lấy đó làm niềm tin, nghị lực cho cuộc sống và mỗi khi
gặp khó khăn các em sẵn sàng tìm đến chia sẻ và xin lời khuyên nhủ.
1.2.4. Tranh vẽ của trẻ em
Vẽ là một hoạt động biểu hiện nhiều đặc trưng tâm lý của một con người.[16]
Trong các thời kỳ phát triển ban đầu của trẻ nhỏ, hình vẽ nói lên được nhiều hơn lời nói.
Do đó, hình vẽ là kỹ thuật lý tưởng để phát hiện các thông tin nội tâm của bản thân trẻ nhỏ.
Hơn nữa, đa số trẻ em đều thích vẽ vì kỹ thuật này dễ cho các em thực hiện. Vẽ không chỉ là
phương pháp giao tiếp ngoài ngôn ngữ mà còn là phương tiện phát triển tính tự lập. Trong
21
khi vẽ, trẻ dường như cách biệt với xung quanh, một mình độc lập với những ý nghĩ của
mình và hiểu kỹ càng hơn những nỗi phiền muộn của bản thân. Quan sát hành vi của trẻ khi
vẽ cũng có những tác dụng nhất định.
Vẽ là một cách biểu lộ tình cảm giống như vui đùa và nói. Trẻ em thể hiện niềm vui,
hạnh phúc, ước mơ, và đôi khi cả nỗi sợ...qua tranh vẽ. Vì thế, các bức vẽ của trẻ cũng
chính là một cách thức giao tiếp với mọi người để trẻ giãi bày về thế giới xung quanh và
những mối quan hệ mà trẻ cảm nhận được, đồng thời cung cấp cho người lớn khá nhiều
thông tin về tính cách của các em.
Vẽ tranh có ý nghĩa lớn lao đối với trẻ và cả với người chăm sóc trẻ. Khi vẽ, trẻ giải tỏa
được những cảm xúc không thể nói thành lời, gửi gắm những thông điệp mạnh mẽ và tự do
bộc lộ bản thân thông qua cách trẻ mô phỏng lại toàn bộ những cảm nhận đối với thế giới
xung quanh. Do đó mà tranh vẽ còn là một cách thức “giao tiếp” hết sức đặc biệt của trẻ. Từ
việc tìm hiểu các bức vẽ, người lớn sẽ gần gũi với trẻ hơn, thấu hiểu tâm tư, tình cảm của trẻ
để kịp thời nâng đỡ, bảo vệ và giáo dục trẻ phát triển tự nhiên, lành mạnh hơn.
Tranh vẽ của trẻ em tiến triển qua các giai đoạn:
Giai đoạn vẽ nguệch ngoạc và thực tại ngẫu nhiên (1 – 3 tuổi)
Trong giai đoạn này trẻ vẽ bất cứ những thứ gì trẻ thích, dấu vết mà trẻ để lại đa phần là
chưa định hình. Khi vẽ chúng không ý định là vẽ cái gì, vẽ hình gì. Lúc đầu trẻ vẽ nguệch
ngoạc sau tới vẽ hình tròn và vẽ thẳng. Khi nào trẻ vẽ được vòng tròn khép kín (không còn
kẽ hở) tức là trẻ đã kiểm soát được cảm xúc của mình, còn khi trẻ vẽ không bị vượt ra ngoài
không gian của khổ giấy khi đó trẻ biết được giới hạn của tờ giấy và giới hạn của bản thân,
cái tôi của trẻ được hình thành (mức phát triển này ứng với trẻ 3 tuổi).
Như vậy khi trẻ lên 3, trên hình vẽ của trẻ vòng tròn đã được khép kín (hai đầu được nối
lại với nhau). Hình vẽ người của trẻ trong giai đoạn này còn rất đơn giản, chỉ có một vòng
tròn và hai con mắt, chân tay nằm giữa hai bên vòng tròn, hoặc ở dưới vòng tròn không có
thân hình. Các nhà tâm lý học gọi đó là giai đoạn hình “người nòng nọc” (vì giống con nòng
nọc)
Giai đoạn thực tại và ý định tượng hình (3 – 5 tuổi).
Ở giai đoạn này trẻ không còn vẽ nguệch ngoạc, trẻ thường vẽ vì nhu cầu của lứa tuổi
chứ chưa có ý định, vẽ xong trẻ mới xác định hình của trẻ vẽ là hình gì. Trong hình vẽ của
22
trẻ các yếu tố không có sự nối kết với nhau (điều này là bình thường đối với trẻ trong giai
đoạn này).
Khoảng 4 tuổi trẻ mới bắt đầu vẽ có chủ ý trước khi vẽ, trẻ có thể bắt chước một hình
mẫu đơn giản. Lúc này trẻ bỏ hẳn cách vẽ nguệch ngoạc để vẽ những gì cụ thể.
Trước 4 tuổi, khi ta trình bày một mẫu để trẻ sao chép, trẻ không chú ý mà thường vẽ
theo ý riêng của trẻ. Sau bốn tuổi trẻ bắt đầu chú ý tới hình mẫu và có sự so sánh với hình
mẫu. Trong giai đoạn này, trẻ thích vẽ những gì trẻ chú ý, thường là người, nhà, thú vật. Trẻ
thích vẽ bằng màu nếu được chu cấp. Hứng thú vẽ bắt đầu hình thành ở tuổi này và tiếp tục
kéo dài đến 9, 10 tuổi.
Trẻ 5 tuổi thường vẽ các đồ vật hình người bằng những nét khái quát. Các nhà tâm lý học
gọi cách vẽ đó là “vẽ bằng nét sơ đồ”. Đó là những nét tưởng tượng của đồ vật, còn thô sơ.
Giai đoạn này tiếp tục cho đến 9 tuổi, nhưng chỉ là giai đoạn tạm thời trong tiến trình phát
triển chung nên sẽ chấm dứt. Hình vẽ người của trẻ bắt đầu hoàn thiện hơn, trẻ phân biệt
được giới tính nam nữ. Mặc dù hình vẽ trong giai đoạn này còn mang tính sơ đồ nhưng nó
cũng thể hiện tình cảm của trẻ. Khi vẽ một người mà trẻ yêu mến thì trẻ trang trí thêm nhiều
chi tiết đẹp. Nếu vẽ một người trẻ không yêu thích thì những chi tiết trở thành xấu xí, cặp
mắt dữ tợn, miệng méo mó. Trẻ vẽ theo điều trẻ “biết” về người đó, chứ không phải vẽ theo
thị giác đã nhận xét.
Giai đoạn thực tại trí tuệ (6 - 12 tuổi)
Giống như thông qua ngôn ngữ, trẻ kiểm kê những gì trẻ biết về thế giới bên ngoài,
thông qua hình vẽ trẻ liệt kê những gì trẻ biết về thế giới đồ vật (chẳng hạn khi vẽ nhà trẻ sẽ
biết có cái gì bên trong). Trẻ muốn vẽ nhiều chi tiết để chứng minh thực tế như thế nào, ra
sao? Hình vẽ của trẻ là một sự diễn tả cái gì trẻ đã biết được, thông qua tình cảm chủ quan
của trẻ chứ chưa phải là một sự sao chép thực tế theo thị giác. Cho nên ta thấy trẻ luôn luôn
vẽ thú vật nhìn từ một phía, như vậy mới thấy được trọn vẹn con thú. Khi trẻ vẽ hình người
thì được nhìn từ trước mặt, nhìn về một phía, như vậy mới thấy được trọn vẹn hình người.
hình vẽ của trẻ trong giai đoạn này là trong suốt. Các nhà tâm lý học cho rằng hình vẽ của
trẻ có chức năng ngôn ngữ vì trẻ dùng hình vẽ để bộc lộ ý nghĩ của mình. Những đồ vật mà
trẻ vẽ đều có đặc tính người như ông mặt trời có mặt cười, cửa sổ có mắt, cửa chính có
miệng. Trẻ 6 tuổi ý thức được trẻ muốn vẽ cái gì
Khi 7 tuổi trẻ phân biệt được hình mẫu phải sao chép. ở lứa tuổi trước trẻ vẽ theo những
gì chúng nghĩ nhiều hơn là vẽ theo hình mẫu, bởi vì trẻ tự bày ra trong trí óc dễ hơn là sao
23
chép. Hình vẽ trong tuổi này cân đối hơn, tỷ lệ kích thước các bộ phận đúng với thực tế hơn.
Hình đàn ông, đàn bà được trẻ thể hiện rất khác nhau qua những trang phục như quần áo...
Khi 9 tuổi, trẻ lo lắng thích ứng với thực tại, trẻ biết cái gì ở phía trước, cái gì ở phía sau.
Hình vẽ cố định trên mặt đất (mặt trời xuất hiện). Tóm lại hình vẽ của trẻ trong giai đoạn
này thực tế hơn, hình người bắt đầu có nhiều cử chỉ kèm theo.
Giai đoạn thị giác (12 tuổi trở đi).
Bắt đầu từ tuổi này hình vẽ ít có ý nghĩa với trẻ em (vì trẻ em bắt đầu kiểm soát được
hình vẽ mà trẻ vẽ)
Theo phân tâm học, có ba lý do khó phân tích được hình vẽ của trẻ sau độ tuổi này
Trẻ vẽ theo hình ảnh mà trẻ biết (bắt chước)
Trẻ không còn quan tâm tới cái mà trẻ thể hiện (trẻ coi đó như trò của con nít).
Hình vẽ không bộc lộ được những gì trẻ thấy, hình vẽ thụt lùi (vì khi này trẻ đã dùng
nhiều phương pháp khác để giao tiếp)
Phóng chiếu (Projection)
Vẽ tranh là một trong những kỹ thuật phóng chiếu đặc thù cho trẻ em. Phóng chiếu là sự
phóng lên, gán cho người khác những cảm xúc ham muốn mà không thể chấp nhận là chính
của bản thân; đây là một cơ chế tự vệ nhằm giữ thăng bằng cho bản thân. Khác với tự đồng
nhất (identification) trong đó bản thân nhằm hòa mình, làm hệt như đối tượng. Phóng chiếu
và đồng nhất là hai hiện tượng trái ngược nhau, và cũng là hai cơ chế bình thường trong quá
trình hình thành nhân cách của trẻ em, có nhiều yếu tố phóng chiếu, cũng như trong hình
tượng của trẻ em trong tâm tư của bố mẹ; ở hai bên đều diễn ra hiện tượng phóng chiếu vào
đối tượng những tình cảm chính là của bản thân. Trẻ sẽ phóng chiếu khi được đặt vào một
tình huống mà có những đáp ứng theo cảm xúc của mình, và ý nghĩa của tình huống ấy đối
với bản thân.
Tranh vẽ để phát hiện các đặc điểm nhân cách được đặt cơ sở trên nguyên tắc phóng
chiếu, có nghĩa là sự chuyển ra bên ngoài những trải nghiệm, hình dung, ước muốn của bản
thân… Khi vẽ một vật thể nào đó, con người thường một cách vô thức, có khi là một cách
có ý thức, thể hiện quan hệ, thái độ của mình đối với vật thể đó. Con người khó có thể quên
vẽ những gì quan trọng nhất đối với họ. Những gì thứ yếu sẽ được quan tâm ít hơn. Nếu một
vấn đề nào đó làm họ bận tâm hơn thì hình vẽ của họ sẽ thể hiện những dấu hiệu của sự lo
âu. Tranh vẽ – đó luôn là thông điệp được mã hóa bằng hình ảnh.
24
Kỹ thuật phóng chiếu bao gồm nhiều biện pháp như các test nối câu bỏ lửng, giải đoán
các tranh vẽ, test liên tưởng các từ, giải đoán các trò chơi, kỹ thuật vẽ hình. Các cách tiếp
cận này đều dựa trên các giả định về bản chất các tư liệu có thể theo nhiều cách và trẻ dễ trả
lời. nếu không như vậy trẻ sẽ khó trả lời và trẻ sẽ tùy theo các mong muốn, nhận thức, thái
độ và các khía cạnh khác trong nhân cách của mình mà sắp xếp cách trả lời của mình.
Một số nhà tâm lý học đặt vấn đề hoài nghi điều giả định cơ bản là các đáp ứng của trẻ,
dù là tự phát và không bị “bóp méo” liệu có phản ánh đúng nhân cách, cách nhìn nhận, đánh
giá và các thái độ của trẻ hay không? Tuy nhiên, nếu xem xét về các công cụ phóng chiếu
của hình vẽ, có thể khẳng định giá trị của kỹ thuật này. Các kỹ năng nói và viết có thể được
chủ thể biến đổi theo một hướng nào đó còn vẽ hình thì không làm như vậy được. Hơn nữa,
khi trẻ em chưa có đủ kỹ năng nói hoặc viết, thì vẽ là phương án quan trọng để tự bộc lộ.
Tuy chưa phải hoàn toàn nhưng kỹ thuật này có thể tìm được những thông tin về trẻ, giúp
trẻ bộc lộ cảm xúc mà những kỹ thuật khác chưa tìm ra được.
Có nhiều tác giả đã sử dụng lối vẽ tự do. Ở Pháp, Hueyer và S.Morgenstern đã xử lý và
chữa khỏi một chứng không nói của trẻ chỉ nhờ vào hình thức vẽ. Bà Minkowska sử dụng
vẽ nhiều nhất trong phân tích nhân cách toàn bộ của trẻ em.
Nhưng những bức vẽ theo chủ để mới cho những kết quả tốt nhất. Cũng như đối với các
chuyện kể, một số trẻ thực ra chẳng biết vẽ gì một cách tự nhiên hay chỉ thể hiện xe hơi và
tàu bè một cách rập khuôn và không hứng thú gì. Một kỹ thuật phóng chiếu tốt nhất phải
cho phép chủ thể phóng chiếu nhân cách toàn bộ của trẻ, cả ý thức lẫn vô thức trên một chất
liệu ít được cấu trúc để khỏi làm biến dạng và hạn chế sự phóng chiếu, nhưng đồng thời kỹ
thuật này sau đó lại cho phép thông qua chất liệu đó mà phân tích được nhân cách. Trẻ em
hầu như luôn luôn sẵn sàng chơi trò này (vẽ tranh) cho đến tuổi khá lớn, khoảng 15 tuổi. Trẻ
vẽ say mê tới mức nó mất hết vẻ hoài nghi và mọi sự kiểm soát, nhiều khi có thể nói chuyện
trực tiếp với trẻ khi nó bị thu hút mạnh vào hoạt động đó; những câu trả lời đó rất tự nhiên
và người ta đạt được những thông tin rõ ràng mà thái độ ngập ngừng trước đó không cho
người ta biết được. Yêu cầu trẻ chỉ rõ, những người trẻ vẽ là ai, nếu trẻ không làm việc đó
một cách tự nhiên bằng cách ghi tên từng người vào dưới hình vẽ. Cần phải xem trẻ trong
khi chúng vẽ, không phải chỉ để ghi rõ thứ tự những nhân vật trẻ đã vẽ mà cũng để hiểu một
vài lỗi lầm rất có ý nghĩa. Một vài lời bình, vài sự do dự đôi khi cũng giúp ta thêm hiểu biết.
Như vậy, người ta có thể nhanh chóng đạt tới tâm tư sâu xa của trẻ và phân biệt được
những nét lớn về tình cảm, cảm xúc của trẻ. Tuy nhiên cần lưu ý những trở ngại cần tránh,
25
những lời giải thích dễ dãi và vội vàng: chừng nào chưa hiểu rõ về đứa trẻ, cần phải biết
rằng đằng sau một bức tranh vẽ nhìn bề ngoài đơn giản, hãy quan sát chăm chú những chi
tiết và tìm ra tính chất tượng trưng mà đôi khi bức tranh chứa đựng. Một trong những mối
nguy hiểm thường gặp là người phân tích tranh vẽ lại tìm trong các bức vẽ sự chứng thực
cho một ý niệm đã có sẵn từ trước, một giả thuyết sai lầm. Cần thật khiêm tốn và chấp nhận
việc rà soát lại nhiều lần ý kiến của mình về những điểm tưởng như đã đạt được rồi.
Trong các thời kỳ phát triển ban đầu của trẻ nhỏ, hình vẽ nói lên được nhiều hơn lời nói.
Do đó, hình vẽ là kỹ thuật lý tưởng để phát hiện các thông tin nội tâm của bản thân trẻ nhỏ.
Hơn nữa, đa số trẻ em đều thích vẽ vì kỹ thuật này dễ cho các em thực hiện. Vẽ không chỉ là
phương pháp giao tiếp ngoài ngôn ngữ mà còn là phương tiện phát triển tính tự lập. Trong
khi vẽ, trẻ dường như cách biệt với xung quanh, một mình độc lập với những ý nghĩ của
mình và hiểu kỹ càng hơn những nỗi phiền muộn của bản thân. Quan sát hành vi của trẻ khi
vẽ cũng có những tác dụng nhất định.
Trong tâm lý lâm sàng trẻ em, việc sử dụng hình vẽ trong trị liệu nằm trong phạm vi của
một chuyên ngành gọi là nghệ thuật trị liệu.
Nghệ thuật trị liệu là gì?
Đã có nhiều định nghĩa (đôi khi mâu thuẫn nhau) về nghệ thuật trị liệu kể từ khi loại trị
liệu này xuất hiện từ thập niên 1940 (Waller và Gilroy, 1978).
Tại Anh, nghệ sĩ Adrian Hill là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “nghệ thuật trị liệu” để
mô tả việc áp dụng sự tạo hình ảnh vào mục đích trị liệu.
Đối với Hill, người đã tìm ra những lợi ích có tính trị liệu của việc vẽ tranh, giá trị của
nghệ thuật trị liệu nằm ở chỗ “nó hoàn toàn choáng hết sự chú ý của tâm trí (cũng như của
những ngón tay... và giải phóng những năng lực sáng tạo từ những người bệnh có trạng thái
bị ức chế” (Hill, 1948). Điều này, theo Hill nó sẽ giúp người bệnh xây dựng được một khả
năng tự vệ mạnh mẽ chống lại những điều bất hạnh của họ.
Cũng vào khoảng thời gian này, Margaret Maumberg, một nhà tâm lý Mỹ, cũng bắt đầu
sử dụng thuật ngữ nghệ thuật trị liệu của Maumberg được dựa vào chính các phương pháp
của nó.
“Giải thoát vô thức bằng cách thể hiện nghệ thuật trên bình diện ý thức; điều đó có
những cội rễ từ mối quan hệ chuyển di giữa người bệnh nhân và nhà trị liệu, sự khuyến
khích liên tưởng tự do. Cơ sở đó gắn kết chặt chẽ với lý thuyết phân tâm... Việc trị liệu tùy
thuộc vào sự phát triển mối quan hệ chuyển di ấy và một cố gắng liên tục nhằm giúp người
26
bệnh tự diễn giải ý nghĩa các hình ảnh được tạo nên là một hình thức truyền thông giữa
người bệnh và nhà trị liệu; chúng tạo nên một thứ lời nói biểu tượng” (Naumberg in ulman,
2001)
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về nghệ thuật trị liệu
Hiệp hội các nhà nghệ thuật trị liệu Anh Quốc định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là việc sử
dụng chất liệu nghệ thuật cho việc tự bộc lộ và phản ánh dưới sự hiện diện của một nhà
nghệ thuật trị liệu đã được huấn luyện. Thân chủ tham gia tiến trình nghệ thuật trị liệu
không cần có kỹ năng hoặc trải nghiệm về nghệ thuật trước đó. Khởi đầu, nhà nghệ thuật trị
liệu không chú tâm đến việc đánh giá khiếu thẩm mỹ hay chẩn đoán bệnh nhân trên sản
phẩm nghệ thuật của họ. Mục tiêu chung của các nhà thực hành là phải thúc đẩy thân chủ
thay đổi và trưởng thành lên mức độ mới thông qua sử dụng chất liệu nghệ thuật trong điều
kiện an toàn và dễ dàng.
Hiệp hội nghệ thuật trị liệu Canada và Hiệp hội nghệ thuật trị liệu quốc gia Úc định
nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là một hình thức tâm lý trị liệu, cho phép bộc lộ và chữa lành cảm
xúc thông qua những phương tiện không lời. Trẻ em thường không thể dễ dàng bộc lộ bản
thân qua lời nói. Còn người lớn thường dùng lời để biến hóa và tạo khoảng cách với cảm
xúc của mình. Nghệ thuật trị liệu có thể khiến cho thân chủ phá vỡ những hàng rào ngăn trở
này để tự bộc lộ qua việc sử dụng chất liệu nghệ thuật.
Bản chất của nghệ thuật trị liệu nằm ở chổ mối quan hệ có thể thiết lập giữa nghệ thuật
và trị liệu. Mối quan hệ này tiềm ẩn sự xung đột giữa hai khuôn khổ. Đây không phải là
“đôi bạn đồng hành dễ chịu”. Trong nghệ thuật trị liệu mối quan hệ này đặc biệt tập trung
vào những thể loại nghệ thuật thị giác (sơn, vẽ, nặn tượng) và không thường bao hàm việc
sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như nhạc, kịch hoặc nhảy múa. Vì có quá nhiều sự
chồng chéo giữa những khuôn khổ làm việc, tại Anh, ứng dụng trị liệu cho thể loại nghệ
thuật phải được thực hiện bởi nhà trị liệu được huấn luyện đặc biệt.
1.2.5. Sự bộc lộ xúc cảm - tình cảm của trẻ qua tranh vẽ
Đối với tranh vẽ trẻ em, đây là một trong những công cụ được sử dụng rộng rãi trong lĩnh
vực giáo dục và bởi các chuyên gia trong lĩnh vực trợ giúp. Đồng thời, tranh vẽ cũng là một
phương tiện giúp thiết lập mối quan hệ với trẻ trong quá trình đánh giá, can thiệp và trị liệu
lâm sàng. Theo các nhà tâm lý, tranh vẽ cho thấy phương thức biểu đạt tượng trưng và là
khâu trung gian giữa trò chơi và lời nói ở trẻ.
27
Những cử chỉ, hành vi, hành động tạo ra bức tranh thuộc về chính bản thân trẻ và vào
thời điểm vẽ, những dấu vết được tạo ra trong tranh chính là cái biểu đạt sự tồn tại, tư duy,
nội tâm, cách hành động của trẻ cũng như những cơ chế phòng vệ có thể có. Nói cách khác,
thông qua tranh vẽ, chúng ta có thể biết được xu hướng nhân cách của trẻ.
Vẽ tranh là một hoạt động phức hợp, có sự tham gia của các cơ chế sinh học, cảm giác,
trí não và vận động. Việc vẽ tranh đồng thời là “sự tóm lược và phát triển những điều mà
người vẽ muốn đề cập tới”. Có thể nói tranh vẽ của trẻ chính là thông điệp, là chân dung tự
vẽ mà qua đó chúng ta có thể hiểu được căn nguyên của những rối nhiễu tâm lý ở trẻ, những
lo lắng hiện tại, những câu chuyện đã qua và tương lai sắp tới của chúng. Giống như các trò
chơi khác, tranh vẽ cho phép trẻ tạo lập thế giới riêng của mình, sắp xếp thế giới ấy theo ý
mình và đưa vào đó một lượng lớn các cảm xúc. Trẻ tự tạo ra bản thân và điều này góp phần
vào việc hình thành nên nhân cách mỗi đứa trẻ.
Tranh vẽ là phương pháp thu thập thông tin của con người không bị giới hạn bởi rào cản
ngôn ngữ như hỏi chuyện bằng bảng hỏi hoặc phỏng vấn (Pianta, Longmaid, & Ferguson,
1999) và là nơi con người thể hiện thế giới nội tâm của mình, phản ánh trải nghiệm về gia
đình của chính mình (Knoff & Prout, 1985; Naglieri, 1988). Những cảm xúc mạnh có thể
được chất chứa trong hình ảnh nhiều hơn là lời nói (Kramer, 1973; Naumburg, 1973). Hầu
hết các chuyên gia tư vấn và trị liệu tâm lý đều cho rằng tranh vẽ của con người là dấu chỉ
của cảm xúc, sự tự đánh giá bản thân, hiểu biết về thế giới xung quanh và bộc lộ mọi khía
cạnh của nhân cách (Machover, 1949; Di Leo, 1973; Malchiodi, 1998) và tranh vẽ chính là
nơi con người, nhất là trẻ em, thể hiện những vấn đề mà họ đang trăn trở (Thomas & Silk,
1990).
Một hình vẽ đã ghi lại bằng nét biểu trưng một số ý nghĩ và cảm xúc của trẻ. Hình vẽ thể
hiện một phần nội tâm của trẻ. Chính các nét vẽ ấn nhẹ, rụt rè hay ấn mạnh hoặc có vẻ hung
bạo nữa cho chúng ta một số thông tin. Nội dung hình vẽ còn bộc lộ nhiều hơn về cách nhận
thức của trẻ về bản thân hoặc về những nhân vật quan trọng trong đời sống của trẻ, một cách
có ý thức hoặc không. Vì các hình vẽ cũng phản ánh con người nên hình vẽ là công cụ đo
lường nhân cách, đo lường mối quan hệ giữa bản thân người vẽ với những người khác, đo
lường giá trị các nhóm người và đo lường các thái độ. Hơn nữa, ngôn ngữ hóa những tình
cảm và ý nghĩ không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được khi trẻ có mối quan hệ mâu
thuẫn vơi những người xung quanh. Việc sử dụng hình vẽ càng ứng nghiệm hơn nếu ta xét
thấy các trẻ nhỏ đưa các ý nghĩ và cảm xúc của chúng vào hình vẽ mà không thể diễn đạt
28
bằng lời nói hoặc chữ viết. Trẻ nhỏ chưa có đủ những từ cần thiết để diễn đạt và cũng giống
như các vị tổ tiên xa xưa của chúng ta, đã biết vẽ trước rồi sau mới biết viết, từ lâu lắm, con
người đã khắc họa các hình vẽ lên các vách hang động để ghi lại các cảm xúc, các nhu cầu
của mình.
Hoạt động sáng tạo không những là phương tiện liên hệ giữa tư duy đang phát triển với
cảm xúc mà còn là sự kích thích tự nhiên cho trí tưởng tượng. Giá trị thực tiễn của môn họa
là ở chỗ tạo cho trẻ có thêm khả năng thể hiện ngoài ngôn ngữ những ý nghĩ của mình. Với
tư cách là một thứ ngôn ngữ đặc biệt của quá trình nhận thức, môn họa trở thành một dạng
giao tiếp riêng của trẻ với hiện thực xã hội xung quanh. Vẽ là một hoạt động sáng tạo cho
phép trẻ phản ứng lại những tưởng tượng và rung động tốt hơn, tiếp xúc một cách phù hợp
với thế giới thần tiên của những câu chuyện cổ tích và thần thoại, phát triển tiềm năng sáng
tạo của mình.
1.3. Kỹ thuật phân tích tranh vẽ của trẻ
1.3.1. Quan sát khi trẻ vẽ tranh
Quan sát khi trẻ vẽ tranh là một dạng thu thập thông tin bổ sung cho việc xem xét tranh
vẽ. Các thông tin thu được mang tính chủ quan. Vì vậy việc quan sát phải theo những tiêu
chí nhất định để tranh những suy diễn từ người quan sát.
Tốc độ vẽ: vẽ nhanh hay chậm thể hiện đặc điểm nhân cách của người hướng nội hay
hướng ngoại. trẻ thể hiện tính chủ động, thích nghi hay thụ động, kém thích nghi.
Trình tự vẽ, thứ tự vẽ các bộ phận: vẽ người thường theo trật tự: đầu, thân, tứ chi. Nếu trẻ
quên vẽ bộ phận cơ thể nào thì có thể vấn đề của trẻ có liên quan đến bộ phận cơ thể đó. Vẽ
ai, cái gì trước hoặc sau đều nói lên mối quan hệ, mức độ quan tâm nhiều hay ít tới khía
cạnh đó.
Mức độ sẵn sàng vẽ: cho thấy sự thích nghi ngoại cảnh, trạng thái tâm lý sẵn sàng cho
hoạt động hay sự phân tâm của trẻ.
Sự tẩy xóa, thay đổi chủ thể, nội dung: trẻ khi vẽ đã tẩy xóa hay bỏ phần nào đều nói lên
trẻ đang có vướng mắc, khó khăn tâm lý ở chủ đề/ nội dung đó.
Biểu hiện xúc cảm: khi trẻ vẽ những biểu hiện xúc cảm vui, buồn, giận dữ, hòa nhập hay
lặng lẽ... đều nói lên một tâm trạng nào đó của trẻ.
Độ tập trung: thể hiện mức độ chú ý hay phân tán sự chú ý của trẻ trong khi vẽ. Ngoài ra
nó còn thể hiện mức độ độc lập, tự chủ của trẻ trong hoạt động.
29
1.3.2. Thu thập thông tin khi trẻ hoàn thành
Những thông tin thu được thông qua trò chuyện sau khi trẻ vẽ xong là quan trọng, nó cho
phép làm rõ tâm tư của trẻ được phóng chiếu vào bức vẽ và gợi ý, giải thích thêm những
thông tin mà trẻ muốn bày tỏ. Vì vậy các hoạt động dưới đây cần được thực hiện trong tiến
trình phân tích tâm lý của trẻ qua tranh vẽ.
Trò chuyện là một kỹ thuật quan trọng được sử dụng sau khi trẻ vẽ xong. Câu chuyện với
các nhân vật, sự kiện trong tranh giúp tăng cường hiểu biết về trẻ và cuộc sống nội tâm của
trẻ. Trong tham vấn, vẽ tranh đôi khi được nhìn như một công cụ gián tiếp giúp trẻ chia sẻ
nhiều hơn thế giới nội tâm của chúng. Trong trường hợp này, trò chuyện trên bức tranh mới
là công cụ chính.
Ngoài ra, kỹ thuật hỏi là một phần quan trọng trong kỹ thuật khai thác thông tin qua
tranh vẽ. Điều này đòi hỏi tác giả phải cẩn trọng khi đặt câu hỏi về các nhân vật, sự kiện
trong tranh của các em.
1.3.3. Kỹ thuật phân tích tranh vẽ
Theo Elaine Fernandez, nhà tâm lý lâm sàng thực hành, giảng viên thỉnh giảng tại Đại
học Tổng hợp Toulouse II Pháp, khi phân tích một bức tranh cần lưu ý tới khía cạnh nội
dung và hình thức hiển thị trên tranh. Những chỉ dẫn cụ thể đó là:
Khía cạnh nội dung hiển thị trên bức tranh
Chủ đề bức tranh (lưu ý ấn tượng tổng thể trước khi kiểm tra các chi tiết)
Kích thước hình vẽ và mối quan hệ giữa các yếu tố, sự vật
Đặcđiểm của từng yếu tố
Nhân vật – con người
Chất lượng của sơ đồ cơ thể
Khả năng biểu đạt bản thân trên hình vẽ
Khía cạnh hình thức hiển thị trên bức tranh
Nét vẽ, lực ấn
Màu sắc
Vị trí không gian của hình trên tờ giấy
Diễn giải, trình bày
Trên cơ sở một bức tranh thực tế, cần diễn giải, trình bày những giả thiết về bức tranh
theo xu hướng sau:
30
Miêu tả thực tế chung nhất, khái quát nhất bức tranh nhằm trả lời câu hỏi: nó như thế
nào?
Miêu tả những điều tri giác được trên tranh thể hiện sự khách quan, khả năng quan sát
của người trợ giúp. Điều này khác với việc chúng ta miêu tả kinh nghiệm của mình về vấn
đề của trẻ. Miêu tả thực tế giúp tránh được sự phát biểu định kiến, hay áp đặt quan điểm cá
nhân lên hình vẽ của trẻ.
Lý giải nội dung của bức tranh theo công cụ phân tích tranh đã được các nhà tâm lý học
xây dựng và đã được biểu tượng hóa. Cần lưu ý bức tranh của trẻ vẽ luôn dựa trên nguyên
tắc quy gán văn hóa- xã hội mà trẻ thuộc về. Mỗi nền văn hóa đều có các quy tắc ứng xử
công khai hoặc ngấm ngầm riêng của mình.
Sau khi đã phân tích toàn bộ bức tranh của trẻ, người phân tích tranh cần tóm lược xem
bức tranh đó toát lên thông điệp gì là chủ đạo. Đó chính là kết luận. Điều này liên quan đến
một sự hiểu biết tốt về kinh nghiệm sống của trẻ được hiển thị trên hình vẽ để định hướng
cho hoạt động tham vấn, trị liệu tiếp theo của người trợ giúp.
1.3.4. Một số chỉ dẫn cụ thể về kỹ thuật xem tranh
Khi phân tích tranh vẽ của trẻ em, cần lưu ý đến nội dung và hình thức (bố cục) của bức
tranh, cũng như đặc điểm của từng yếu tố.
1.3.4.1. Những biểu hiện về nội dung hình vẽ
Hình vẽ người
Theo Machover (1949), Dennis (1966), Wagner (1980), Klepsh (1982). [7]
Hình vẽ quá lớn, Xu hướng mạnh mẽ, bạo dạn, bột phát, kém kiềm chế nội tâm,
chiếm gần hết tờ giấy hiếu động, hung tính.
Hoặc đôi khi ngược lại – tính nhút nhát, tự ti, mong muốn quyền
lực, muốn được để ý nên hình thành phản ứng ngược theo cơ chế
phòng vệ cái tôi.
Hình vẽ bé tí hoặc vẽ Người có xu hướng nhút nhát, e ngại, tự co lại, bất an.
người/ vật nhỏ xíu Có thể nhận thức không tốt về bản thân, lo lắng nội tâm.
Hình càng bé càng tự ti và càng cảm giác mình ít giá trị.
Vẽ một mình Cảm giác cô đơn, đơn độc.
Nhấn mạnh, vẽ to quá Lo lắng hoặc vị kỷ trung tâm (nếu hình vẽ một mình lớn ở giữa
một vài bộ phận trang giấy.
Vẽ hình người (cây, Cảm giác mất thăng bằng, cảm giác không an toàn, bất an, mất
31
vật) nghiêng ngả chổ dựa.
Chi tiết người
Không có mắt hoặc Không muốn tiếp xúc thị giác
che mắt Thái độ cô lập
Có thể có dấu hiệu bệnh tâm thể
Mắt quá to (không Có xu hướng biểu hiện lo hãi
phải là vẽ theo một Vẻ ngây thơ, dễ bộc trực
trường phái nào đó)
Tai quá to Quan tâm đến những lời của người khác nói về mình.
Không có tai Có thể bị điếc hoặc nặng tai.
Miệng cười Có thái độ hợp tác, vui vẻ.
Không có miệng Có vấn đề trong quan hệ mẹ con sớm.
Trẻ lớn tuổi vẽ miệng Thể hiện sự ngây thơ, trẻ con
tròn vo
Nhe răng lớn Xu hướng tấn công, hung tính, phản ứng chống đối
Vai vuông to Xu hướng phòng vệ cá nhân, muốn mạnh mẽ.
Cằm tròn Vẽ ngây thơ, hiền lành, nhu mì.
Cằm nhọn, rõ nét Cương nghị, mạnh mẽ, trực tính, xu hướng hành động.
Tay nhỏ, gầy Biểu hiện yếu kém về năng lực xã hội
Thiếu tay Mặc cảm tội lỗi (liên quan đến trộm cắp, giết người, hoặc bàn tay
làm điều xấu)
Thân người gầy Không thích bộc lộ, tránh rắc rối, hoặc người to béo có mong
muốn được nhỏ bớt, nhỏ nhắn.
Bộ phận bị tẩy sửa, Xu hướng lo âu. Tẩy xóa như không muốn thừa nhận sự tồn tại
hoặc tẩy xóa toàn bộ chổ nào đó (có lo hãi)
hình vẽ
Hình người có giới Trẻ khó khăn trong việc đồng nhất hóa giới tính của bản thân (do
tính không rõ ràng thiếu vắng mô hình giới tính để đồng nhất bản thân với cha hoặc
hoặc nói về bản thân mẹ).
nhưng hình người lại Trẻ là người lệ thuộc, cảm thấy mình bị áp chế.
khác giới tính Cảm giác thấp kém về bản thân.
Vẽ người hùng, siêu Mong muốn về sức mạnh, nam tính, cứng rắn.
32
nhân
Vẽ hề, quái vật, phù Tính tự ti, mặc cảm về bản thân.
thủy Người thiếu bản sắc, thiếu cá tính.
Thiếu hiểu biết về bản thân, nhận thức về bản thân yếu kém.
Nhà du hành vũ trụ, Mong muốn đi xa, muốn được giải thoát
lái tàu biển, nhà thám Cảm giác cô đơn, cảm giác bị kìm kẹp.
hiểm
Công an Xu hướng muốn quyền lực, sự mạnh mẽ.
Vẽ thầy cô mặc đẹp, Kính trọng, yêu quý thầy cô.
tay cầm sách. Ghét thầy cô.
Vẽ thầy cô xấu xí,
lem nhem
Vẽ gia đình
Theo Hulse (1951), Koppitz (1968), Di Leo (1973), Klepsh (1982) [7]
Các thành viên trong gia đình
Vẽ các thành viên cách xa Càng cách xa, càng thể hiện sự lạnh nhạt, không có tình
nhau. cảm với nhau.
Người ở vị trí trung tâm Đề cao và yêu quý người đó.
Người được vẽ trước Người được yêu quý nhất, người có giá trị nhất
Nhân vật không có thực Thể hiện sự mong ước.
Thành viên bị vẽ nhỏ, vẽ xấu Không yêu quí người đó.
xí, hoặc vẽ ở góc dưới bên Không muốn nhắc đến người đó.
phải tờ giấy
Không vẽ bản thân Người có tính tự ti, mặc cảm hoặc không chấp nhận bản
thân.
Bôi đen mặt người, không Không muốn nghĩ đến, không thừa nhận, muốn chối bỏ
nhận được ra, hoặc bôi đen người đó. Cảm giác bi quan, cô đơn và cách biệt với mọi
toàn thân người xung quanh.
Vẽ bản thân bám sát với cha Mong muốn được yêu thương, mong muốn được bảo vệ.
mẹ.
Vẽ bản thân giống với người Muốn đồng nhất với người đó.
nào đó. Cảm giác thấp kém về bản thân.
33
Cha mẹ đứng cạnh nhau, Gia đình hòa thuận.
nắm tay nhau. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ có cãi cọ, xích mích.
Đứa trẻ đứng chen giữa cha
mẹ.
Vẽ nhà, đồ vật và thú vật.
Theo Roseline David (1971), Philippe Wallon (2001), Marvir Klepsh (1882)[7]
Nhiều cửa, các cửa sổ mở, cân đối với Tính cởi mở, cảm thấy hài lòng với cuộc sống
chi tiết xung quanh. thực tế.
Nhà bé, cửa sổ bé. Có rối loạn tình cảm, khó khăn trong giao tiếp,
Nhà không cửa, không đường vào. người rụt rè, khép kín.
Nhà có nhiều đường ra vào xung Người có lỗi lầm, thất bại.
Mong muốn được thoát khỏi ngôi nhà đó. quanh.
Nhà có rào bao bọc, vẽ dồn vào phía Mơ về quá khứ, muốn gắn bó với mẹ.
trái tờ giấy Nhu cầu sở hữu kỉ niệm gia đình.
Nhà xấu xí Không có niềm vui trong cuộc sống gia đình,
không muốn sống trong ngôi nhà đó.
Nhà vẽ đẹp, tỉ mẩn, có nhiều màu sắc, Yêu quí gia đình, mong ước cuộc sống đầm ấm,
hoa lá bao quanh. sự thanh bình.
Nhà có nhiều chi tiết, đồ vật Có nhiều kỷ niệm với ngôi nhà, có mối quan hệ
tốt với cuộc sống thực tại.
Đồ vật không có biểu hiện của sự Xu hướng cô đơn, nghèo cảm xúc.
sống. Trống vắng, cô lập, đơn độc. Thiếu cảm giác về
Đồ vật trong nhà rời rạc, thiếu thốn cuộc sống gia đình. Có thể nghèo nàn trí tuệ, cảm
hoặc không có. xúc.
Đồ vật không có thực Mong muốn về nó.
34
Vẽ con vật sống trong nhà, không có Mơ ước, cuộc sống hiền hòa, thiếu vắng tình
người thân sống cùng cảm, sự cô đơn trống vắng.
Vẽ con vật dằn dữ, nhe răng Xu hướng hung tính, dễ gây hấn hoặc tự ti, ước
mơ có sức mạnh.
Con vật không có trong cuộc sống Không chấp nhận thực tế, cuộc sống thiếu sự gần
hàng ngày gũi, thân mật với các thành viên khác.
Đám mây đen, trời tối Xu hướng lo âu, cảm giác tương lai mờ mịt.
Đường nét rắm rối, đường vẽ nhì Lo âu rõ rệt.
nhằng, đan xen lẫn lộn và tràn lấp
toàn bộ khoảng không gian của bức
tranh.
1.3.4.2. Những biểu hiện về mặt hình thức của bức tranh
Đường nét vẽ, lực ấn và tốc độ vẽ
Theo Machover (1949), Hegar (1962), Roseline David (1971)[7]
Vẽ đường vẽ thẳng, dài Người hướng ngoại, có khả năng đương đầu.
Xu hướng sống theo nguyên tắc
Đường chéo Người có tính năng động
Cảm giác bất ổn do lo âu không xác định được hoặc mất
thăng bằng.
Đường cong, tròn Người có tính nhạy cảm, mềm mại.
Có xu hướng vận động lặng lẽ, nhẹ nhàng.
Người giàu hình ảnh, biểu tượng.
Lực ấn nhẹ, nét vẽ mảnh Người nhẹ nhàng, nhút nhát, tính thiếu cương quyết.
mai, nét quá nhỏ Bị cảm xúc chi phối, hoặc bị ức chế do lo hãi.
Nét vẽ tì, lực ấn mạnh Người hướng ngoại, tính chủ động.
Có xu hướng chống lại thực tế.
Nét vẽ không đều đậm nhạt Cảm giác bất an, lo lắng.
Nét vẽ nhẹ nhàng, đều đặn Tâm trạng ổn định, cảm giác thư thái.
Xu hướng biểu hiện nhanh nhẹn.
35
Nét vẽ mờ, không rõ ràng Giàu tình cảm, dễ xúc động
Xu hướng lo hãi Đánh bóng
Người có xu hướng độc lập, tính cách bền vững, lý trí. Nét vẽ rõ ràng
Người thiếu tự tin, rụt rè, mất tự chủ Nét đứt quãng
Nét vẽ là những chấm, Tính tỉ mỉ, hành động theo trật tự của tư duy.
gạch nhỏ, lốm đốm
Nét đậm, đường dài phóng Xu hướng phô trương sức mạnh
khoáng Dễ gây hấn.
Tốc độ vẽ nhanh, đường Người hướng ngoại, chủ động, tự nhiên, không cảm thấy có
trở ngại từ bên ngoài. thẳng
Ưa hoạt động, phong phú về năng lượng vận động.
Tốc độ vẽ chậm, đường Người hướng nội, thụ động, hay suy nghĩ, do dự.
Có xu hướng xung đột nội tâm, ức chế, thận trọng. cong
Tẩy xóa toàn bộ, bôi đen Không thừa nhận, không muốn nghĩ đến, chối bỏ thực tế.
không nhận ra
Nhận xét về nét vẽ, L.Rernandez (2005) cho rằng: Nếu trên bức tranh có nhiều nét vẽ ấn
tì, nhiều lực mãnh liệt, dữ dội, nhiều dục năng dồn vào, nghĩa là chủ thể có xu hướng bày tỏ
sự chống đối lại hiện thực xung quanh, xu hướng tăng cường sức mạnh của niềm tin, tăng
cường những cảm xúc mạnh, làm dồi dào sức sống. Trong khi nét vẽ nhẹ, mờ phản chiếu
tính dễ bị tổn thương, hoặc sự mong manh dễ vỡ. Còn sự ứ đọng của nét vẽ dẫn đến sự co
dúm thể hiện sự chế ngự những cảm xúc xấu.
36
1.3.4.3. Sử dụng màu sắc
Màu sắc chung
Theo Brick (1944), Buck (1964), Marzolf và Kirchner (1973), Hammer (1980), Mora
(1993), Luscher (1997) và Faber (2000)[7]
Nhóm màu lạnh - Người có cảm giác lạnh lẽo.
gần màu xanh da - Trầm lắng, hiền hòa, thụ động.
trời, xanh lá cây, - Xu hướng khép kín, nội tâm.
tím xanh
Màu nóng gần màu - Người có cảm giác ấm áp
đỏ, cam, vàng, - Hiếu động, có sức sống.
huyết dụ. - Xu hướng thích nghi với ngoại cảnh.
Màu sáng và màu - Người hướng ngoại, cởi mở
nóng - Tính năng động.
Nhiều màu sắc Thích nghi tốt, vui tươi, lạc quan.
Một, hai màu Xu hướng thu mình, kém ổn định cảm xúc, khó thích nghi.
Không sử dụng - Xu hướng thu mình không thích nghi.
màu - Nghèo nàn cảm xúc.
Ít màu, thiên màu - Hướng nội
tối - Khó tiếp xúc, bị ức chế, gò bó.
- Hờ hững, đơn điệu, buồn phiền, tang tóc.
- Ít sử dụng lý lẽ, kém ổn định về cảm xúc.
Màu đỏ đậm - Người có xu hướng ưa hoạt động, năng nổ, xung động, có khả
năng đương đầu, chống trả sự giận dữ, bạo lực, hủy diệt.
- Cảm giác sức mạnh, quyền lực, tính vị kỷ.
- Dũng cảm, mạnh mẽ, nồng nhiệt, khát khao đam mê.
- Xu hướng dâm dục.
Nhiều màu đỏ - Tính tích cực, kích thích những liên tưởng trong não.
- Thích hoạt động, thích nghi tốt.
- Cá tính mạnh, xu hướng hung tính, tự kiềm chế kém.
Đỏ hoe và nâu - Xu hướng hủy hoại cuộc sống, hoặc thể hiện sự phản bội.
37
- Màu của tang tóc.
Đỏ và cam - Ít quyết đoán, do dự.
Xanh da trời - Thích nghi tốt, có tính kỷ luật.
- Trung thực, trong sáng, khôn khéo.
- Không định hình, trống rỗng, điềm tĩnh, hòa bình.
- Sự thờ ơ, từ bỏ giá trị, điềm tĩnh, công bằng, nhân văn.
Xanh lá cây - Nhiều ước mơ, không thích tò mò.
- Tự chủ, tĩnh lặng, trạng thái thư giãn, nghỉ ngơi.
- Biểu hiện của tình yêu và sự khôn khéo.
- Hòa hợp, cân bằng, điềm tĩnh.
Màu xám - Mâu thuẫn trong quan hệ xã hội
- Bướng bỉnh.
Da cam - Thoải mái, quan hệ tốt với người xung quanh.
- Lòng nhiệt tình, phấn khởi, sự vui vẻ.
- Có xu hướng ngoại tình, đạo đức giả.
Màu tím - Căng thẳng, xung đột nội tâm, u sầu.
- Tính khiêm tốn, chân thực, chịu đựng, vâng lời.
Màu nâu - Cảm giác bất an, lo lắng.
Màu vàng - Lệ thuộc, thổ lộ tâm tình.
- Thông minh, nồng ấm, dễ chịu, vui vẻ.
- Sẵn sàng hành động tận tâm.
- Có xu hướng ham tiền, ghen tị hay phản bội.
Vàng và xanh - Cân bằng, quân bình.
- Sự hài hòa
Màu hồng - Khôn khéo, thận trọng, khiêm tốn, ý tứ, tinh tế, nhẹ nhàng.
- Tượng trưng về người phụ nữ lý tưởng và tuyệt vời, cái đẹp lý
tưởng, tình yêu.
Trắng - Gây cảm giác yếu đuối.
- Trong sáng, nguyên vẹn, tinh khiết, sạch sẽ.
- Xu hướng trung thực.
Đen - Cảm giác buồn rầu, nặng nề, tang tóc, cái chết.
- Sự hư vô, hỗn độn, tăm tối, mờ mịt.
38
- Tinh thần sa sút, chán nản, lo hãi, cô độc, phủ định cuộc sống.
- Có xu hướng kiềm chế các phản ứng.
Màu sắc của nét vẽ
Theo Mora (1993), Luscher (1997) và Faber (2000)[ [7]
Nét vẽ màu đen - Xu hướng mặc cảm tội lỗi, tính bi quan
Nét vẽ màu ghi nhạt - Thiếu sự tỏa sáng, làm việc lặp đi lặp lại, tư
duy đổi mới gắn với nguyên tắc.
Nét vẽ màu không rõ ràng (giữa màu - Tinh thần lộn xộn, sự lẫn lộn của tư duy
đen và màu ghi)
Nét vẽ màu xanh - Tình cảm êm dịu, nồng ấm.
Nét vẽ màu xanh lạnh - Coi trọng tư duy ý nghĩ.
Nét vẽ màu xanh da trời - Trực giác, trong sáng, niềm tin, trẻ thơ.
Nét vẽ màu xanh đen - Tình cảm nồng ấm hoặc ngược lại, sự khô
khan, nghiêm khắc.
- Mặc cảm tội lỗi.
Nét vẽ màu xanh lá cây - Sự sống tràn trề, tuổi trẻ, ở những người hơn
50 tuổi nó biểu hiện sự nuối tiếc trẻ thơ, lẩn
tránh tuổi già.
Nét vẽ màu đỏ - Dễ kích động, đam mê
Nét vẽ màu tím - Tính kiêu hãnh, khắc khổ, huyền bí
39
Màu sắc và nhân cách bệnh
Theo Anastasi, Foley (1943), Brick (1944), Napoli (1946), Bieber và Herkimer (1948),
Buck (1948), Precker (1950), Koch (1958), Hammer (1997). [7]
Sử dụng nhiều màu sắc và đậm màu - Thường gặp ở bệnh nhân tâm thần phân
liệt và hưng – trầm cảm.
Sử dụng quá nhiều màu rực rỡ kèm với - Thường gặp ở người bệnh hysteria (bị rối
cây cỏ, hoa lá, chim, bướm, công chúa... loạn phân ly)
Sử dụng nhiều màu đỏ và màu cam quá - Thường biểu hiện ở nhân cách không
mức quyết đoán, do dự.
Sử dụng nhiều màu nâu và màu đen quá - Thường gặp ở người trầm cảm, lo âu.
mức, hoặc sự nghèo nàn về màu sắc - Đặc trưng ở những trạng thái ức chế, kìm
nén, thoái lùi.
Sử dụng nhiều màu vàng quá mức - Nhân cách thù địch, gây hấn
Sử dụng nhiều màu tím quá mức - Ởnhững người hoang tưởng và có ảo giác.
1.3.4.4. Vị trí hình vẽ - biểu tượng không gian của hình vẽ
Theo quan điểm của Stora (1975), Arthus, Grunwald và Koch (1985) về biểu tượng chữ
thập và lý thuyết miền.
Không gian giấy vẽ cho chúng ta biết thời điểm: hiện tại, quá khứ, tương lai. Không gian
phía bên trái và bên dưới gắn với quá khứ và sự bị động (ý nghĩ không dẫn đến hình dung
công việc, kế hoạch không kết thúc bằng việc thực hiện). Không gian này gắn liền với sự
trầm cảm. Không gian phía bên phải và bên trên tượng trưng cho tương lai và tính chủ động.
Không gian này gắn liền với sự năng động, cụ thể.
Hình vẽ tập Miền chủ động
trung vào - Hướng ngoại, chủ động
bên phải tờ - Đương đầu với cuộc sống, có tính mục đích, nhiều dự định, có tham
40
giấy vọng hướng vào tương lai, có tính linh hoạt.
- Năng động, quan tâm đến người khác, xã hội hóa.
- Gắn bó với bố.
Hình vẽ tập Miền thụ động
trung vào - Hướng nội, thụ động
phía bên trái - Xu hướng thoái lùi, hướng vào kỷ niệm xưa.
tờ giấy - Suy nghĩ về quá khứ, cội nguồn.
- Thích sự ấm cúng, đơn lẻ, thanh bình.
- Xa cách với bên ngoài, người khác.
- Thể hiện sự ham muốn và luyến tiếc.
- Gắn bó với mẹ.
Hình vẽ tập Xu hướng tinh thần, lý tưởng hóa
trung ở phía - Hướng ra bên ngoài, phát triển trí tuệ, lý trí.
trên cao tờ - Tự đánh giá cao bản thân, tự tin, kiểm soát bản thân.
giấy - Có mong muốn huyễn hoặc, đôi khi xa rời thực tế, khó đặt được mục
đích.
- Quan tâm đến đời sống tâm linh.
Hình vẽ tập Xu hướng vật chất, thực tế
trung ở phía - Nhu cầu bản năng, vô thức, coi trọng tình cảm.
dưới thấp tờ - Kiên định, chắc chắn, óc bảo thủ.
giấy - Tâm trạng bất an, cảm giác không thoải mái hoặc xung đột nội tâm thể
hiện ở sự thất vọng, trốn tránh thực tế, chống lại quá khứ, thoái lui, từ chối.
- Nếu vẽ quá phía dưới: có xu hướng đánh giá thấp bản thân.
Hình vẽ tập Cái tôi cá nhân
trung ở - Ý thức và tự ý thức bản thân
chính giữa - Tự chủ biết giới hạn.
tờ giấy - Tính nhạy cảm, nội tâm.
- Vị kỷ trung tâm.
Hình vẽ Có xu hướng biểu hiện lo âu.
chiếm một
không gian
quá nhỏ
41
Hình vẽ dồn Thiếu tự tin, lệ thuộc, cảm giác không an toàn.
vào một góc
nhỏ tờ giấy
Đối với tranh vẽ tự do, trẻ có thể vẽ bất kỳ điều gì mà chúng nghĩ đến, vẫn phân tích
tranh vẽ ấy dựa trên màu sắc, bố cục... cùng với nội dung mà trẻ thể hiện.
1.3.5. Cách “đọc” tranh vẽ của trẻ:
1.3.5.1. Đọc trực cảm (ấn tượng tổng thể ban đầu)
Khi xem một hình vẽ, ấn tượng ban đầu là rất quan trọng, cần ghi lại những gì ta cảm
nhận được một cách tự phát khi nhìn hình vẽ, ghi nhận những cảm xúc của mình. Có thể
dùng thêm các câu hỏi để khẳng định thêm ấn tượng tổng thể khi nhìn hình vẽ. Chẳng hạn,
khi trẻ vẽ người, “người này có vui vẻ/ khổ sở không?”, Điều gì làm cho cô/cậu ấy
vui/buồn...”
1.3.5.2. Đọc bình thường
Mức độ trưởng thành: xem hình vẽ của trẻ có tương ứng với tuổi phát triển của trẻ hay
không (dựa vào tiến trình phát triển hình vẽ 1.2.4)
Mức độ phù hợp với chuẩn giới tính: qua hình vẽ của trẻ ta có thể biết hình vẽ đó đặc thù
cho nam hay nữ thông qua màu sắc chủ đề. Qua đây ta biết được đặc điểm giới tính của trẻ.
Sự quân bình tâm trí, dấu hiệu bệnh lý: trên hình vẽ của trẻ, ta xem xét các hành vi của
trẻ đối với hình vẽ, quan sát xem trẻ có thể giao tiếp với hình vẽ hay không, trên hình vẽ có
gợi cảnh bạo lực, tính dục, chia cắt đồ vật hay nhân vật hay không, có lỗ hổng, có sự máy
móc hóa nhân vật hay không. Nếu trẻ không thực hiện về màu sắc, có sự kỳ thị, trên hình vẽ
không có sự thích ứng, thậm chí mất cân đối. tất cả những dấu hiệu như vậy đều có thể gợi ý
nghi bệnh.
1.3.5.3. Đọc phân tích diễn giải
Cách thức bố trí hình vẽ trên trang giấy (chiếm dụng trang giấy): dựa vào phần vị trí hình
vẽ - biểu tượng không gian của hình vẽ ở phần xem tranh (1.3.4). Trong khi trẻ vẽ, ý nghĩa
của việc sử dụng trang giấy và giá trị mỹ thuật của việc sử dụng trang giấy là rất quan trọng,
vì qua đó thể hiện nhân cách và cảm xúc của trẻ.
Về nét vẽ, nếu nét vẽ rõ ràng, không rườm rà, có thể gợi ý cho biết là trẻ đang thích nghi
tốt. Nét vẽ đậm, đôi khi nhấn mạnh, có khi rách cả giấy. Điều này gợi ý có thể trẻ đang hung
hăng. Nét vẽ mảnh, không rõ, vẽ đi, vẽ lại. điều này gợi ý trẻ có tính rụt rè, thiếu dứt khoát.
42
Nếu trẻ dùng đường thẳng và góc cạnh, có thể gợi ý là trẻ có tính năng động. Nếu trẻ dùng
đường cong nhiều gợi ý trẻ có tính hiền lành. Nếu trẻ vẽ nhiều đường ngang, gợi ý trẻ đang
có nhiều xung đột. Nếu trẻ vẽ nhiều dấu chấm gợi ý trẻ có tính tỉ mỉ.
Về độ lớn, các hình vẽ quá lớn hoặc quá nhỏ đều có ý nghĩa. Nếu hình vẽ quá lớn, mức
độ chiếm dụng hết cả trang giấy thường là trẻ em hung tính, không kiềm chế được nội tâm.
Những trẻ này có thể ưa những gì “vĩ đại”. những trẻ hiếu động quá mức, không bị ức chế,
kém tự kiềm chế, thường vẽ hình vượt ra ngoài khuôn khổ của trang giấy và không vẽ hết
được các bộ phận của mình. Đôi khi những trẻ nhút nhát, hay e thẹn, nhận thức về bản thân
yếu kém cũng vẽ những hình người to lớn để thể hiện ước muốn trở nên có uy quyền và
được để ý hơn. Nếu hình vẽ của trẻ quá nhỏ, có thể gợi ý là trẻ hay e thẹn, nhút nhát, tự co
mình lại. Hình vẽ nhỏ cũng có thể gợi ý là trẻ không an tâm, những trẻ này thường thấy
mình nhỏ bé, không xứng đáng. Đôi khi những trẻ em hung tính quá mức và nhận thức
không tốt về hình ảnh bản thân, cũng vẽ những hình người nhỏ xíu. Bề ngoài có thể thấy là
trẻ này hung tính nhưng bên trong lại không an tâm và lo hãi.
Về chủ đề, giá trị chuyện của hình vẽ. Đây là thế giới tưởng tượng đặt ra trước.
Nhân vật: xem hình vẽ của trẻ thể hiện một người hay một nhóm người. qua đây ta có thể
phần nào hiểu được mối tương quan của trẻ với mọi người.
Con vật: chúng là biểu tượng bản năng của cuộc sống xung năng. Chúng có thể là cách
để trẻ chuyển xung năng và khuynh hướng khi những xung năng và khuynh hướng đó quá
khó để bộc lộ trực tiếp. Mỗi con vật có một giá trị biểu tượng cần được diễn giải.
Những nhân vật thần thoại: mỗi nhân vật thần thoại (công chúa, bà tiên, thiên thần, quái
vật, ma quỷ, khủng long...) đều có giá trị biểu tượng để diễn giải thế giới huyễn tưởng của
trẻ).
Máy móc: mỗi máy móc (tàu thuyền, buồm, sân bay, xe hơi, mô tô, đồng hồ, súng, khí
giới...) có một giá trị biểu trưng để giải thích tính cách của trẻ.
Nhà: thể hiện cái tôi được ngụy trang, cách vẽ cái nhà và mỗi yếu tố cấu tạo nó như mái
nhà, ống khói, khói, tường, cửa sổ, cửa chính, con đường, lâu đài, tháp, nhà tù, chòi... tất cả
đều có giá trị để giải thích cái tôi của trẻ.
Bầu trời: nhìn xem bầu trời có biểu hiện lo sợ hay không (mây, mưa, tuyết, màu xanh
biển hay màu xám, bão, cầu vồng, mặt trăng, mặt trời, ngôi sao, đêm đen...)
Mặt trời: khi tranh của trẻ nhỏ có vẽ mặt trời, thường là thể hiện tình yêu thương, chăm
sóc của cha mẹ. mặt trời là nguồn sưởi ấm cũng như cha mẹ nuôi dưỡng con. Đôi khi có thể
43
vẽ những đám mây che chắn mặt trời. nếu có trường hợp như vậy, có thể là đứa trẻ thiếu
tình thương của cha mẹ hay không được cha mẹ yêu thương chăm sóc.
Mặt đất: mặt đất có an toàn hay không, có dốc, chướng ngại vật, hố, hàng rào, đường
nhỏ, ngõ cụt, có cây hoa, yếu tố nước lửa hay không.
Về cử động: cường độ của xung năng. Xem hình vẽ của trẻ là động hay tĩnh. Nếu có cử
động thì ở cường độ như thế nào, nhẹ nhàng hay mạnh mẽ. Qua cách thể hiện này cũng có
thể hiểu được những cảm xúc, cá tính của trẻ.
Màu sắc: màu sắc có giá trị biểu lộ rất lớn, hình vẽ càng được tô màu, cái tôi càng bị xâm
chiếm bởi cảm xúc. Hammer chủ trương rằng, hình vẽ màu phát hiện đặc điểm nhân cách
được nhiều hơn là hình vẽ bằng bút chì. Cách thức chọn màu cũng rất quan trọng, mỗi màu
phản ánh một biểu tượng mà cách diễn giải cần căn cứ vào môi trường văn hóa.
Sự từ chối sử dụng màu có thể do sự chống đối nhưng cũng có dấu hiệu lo âu, trầm cảm,
mặc cảm tội lỗi.
Nhìn chung, những trẻ cởi mở năng động, có tính hướng ngoại thường dùng nhiều màu
khác nhau để vẽ (đặc biệt là hay chọn màu sáng như đỏ, cam, vàng). Còn những trẻ hướng
nội, gò bó, kém ổn định về cảm xúc thường dùng ít màu hơn và thường thiên về màu đen.
Tính ổn định và những điều bỏ quên: có thể do ngẫu nhiên, khi xem một quyển sách, một
em vẽ theo một chủ đề nhưng nếu chủ đề ấy được lặp đi lặp lại là biểu hiện một đặc điểm
tính nết, biểu hiện những mối tâm tư sâu sắc.
Bỏ quên một vài chi tiết cũng có ý nghĩa. (ví dụ: vẽ hình người quên cánh tay, có thể trẻ
cảm thấy mình không đủ sức, không làm gì được...). Trong khi vẽ, trẻ chần chừ không muốn
thể hiện một chủ đề nào đó cũng biểu lộ những tâm tư nhất định, như một em bé không chịu
vẽ hình ảnh một người đàn bà vì mẹ em làm nghề mại dâm chẳng hạn.
Như vậy, để phân tích một bức tranh của trẻ, cần kết hợp với quan sát quá trình trẻ vẽ và
những câu chuyện kể được sáng tạo từ chính bức tranh đó. Phát hiện ra những điều trẻ kể về
đối tượng – tranh vẽ mà không dựa vào hệ thống chuẩn mực và cưỡng bức do người lớn đặt
ra, chính là phát hiện ra sự nhận thức của trẻ về hiện thực, và sau đó là phát hiện ra ngôn
ngữ riêng của các dấu hiệu trong việc thực hiện mỗi một bức tranh. Nói cách khác, tranh vẽ
có thể làm cho cái vô hình trở nên thấy được, giúp trẻ nói lên được điều mà chúng chưa biết
nói ra, giúp chúng ta ý thức được cái vô thức.
Tranh vẽ, cũng giống như trò chơi, được xem như một cách thức bộc lộ bản thân hết sức
riêng của trẻ. Nói một cách cụ thể hơn, với đặc tính tự phát, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc
44
và với những ham muốn gắn kết trong đó, tranh vẽ có tác dụng giúp trẻ bộc lộ bản thân,
kiềm chế bản thân và miêu tả hiện thực. Do vậy, tranh vẽ đôi khi được hình dung như một
lĩnh vực của hoạt động chơi.
Như vậy ở tranh vẽ đã và đang được sử dụng như một công cụ đầy hiệu quả đối với trẻ
em trong tâm lý trị liệu, đặc biệt với những đối tượng mà vì nhiều lý do các em gặp nhiều
khó khăn trong diễn đạt bằng lời như trẻ mồ côi.
Do xuất thân, hoàn cảnh sống và chứng kiến rất nhiều tình huống đau buồn, trẻ mồ côi có
diễn biến tâm lý rất phức tạp đặc biệt về vấn đề bộc lộ cảm xúc. Các em luôn có cảm giác
thua thiệt, từ đó có thái độ tiêu cực, tự ti, mặc cảm, không còn tin tưởng bất cứ ai, dẫn đến
mất đi các động cơ kích thích học tập, rèn luyện và phấn đấu.
Qua những giai đoạn phát triển tranh vẽ ở trẻ nhỏ, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng có
những nét tương đồng phù hợp với từng độ tuổi của trẻ. Vẽ tranh cũng được xem như là một
trong những kỹ thuật phóng chiếu giúp trẻ tự bộc lộ bản thân.
Để sử dụng tranh vẽ như một cách tiếp cận, giao tiếp với trẻ, cần có những tìm hiểu về
đời sống của các em, đủ thời gian để tạo mối quan hệ và giúp các em thật sự có cảm giác an
toàn khi tham gia vẽ tranh. Ngoài những quy ước được xem như những kỹ thuật cơ bản,
người làm việc với trẻ cần có thái độ “trẻ thơ” để gần gũi trẻ hơn và có những ấn tượng,
cảm nhận về bản thân trẻ, bức tranh của trẻ, lời kể của trẻ một cách chân thật nhất.
45
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về Làng trẻ em SOS
Làng trẻ em SOS (tiếng Đức: SOS-Kinderdorf) là một tổ chức phi chính phủ giúp đỡ và
bảo vệ trẻ mồ côi, lang thang, cơ nhỡ. Tổ chức được thành lập năm 1949 bởi Hermann
Gmeiner ở Imst, Áo. Tổ chức điều hành của hệ thống làng trẻ em SOS được thành lập năm
1960 sau khi các làng trẻ em SOS tiếp theo được thành lập ở Pháp, Đức, Italy. Hiện nay
làng trẻ em SOS có mặt ở 132 quốc gia và vùng lãnh thổ. 438 làng trẻ em SOS và 346 nhà
thiếu nhi SOS mang đến ngôi nhà mới cho hơn 60000 trẻ em. Hơn 131000 trẻ em tham gia
các trường mẫu giáo SOS, các trường Hermann Gmeiner và các trung tâm đào tạo nghề
SOS. Khoảng 397000 người được hưởng lợi từ các chương trình của trung tâm y tế SOS và
115000 người được hỗ trợ bởi các trung tâm xã hội SOS.
Mục đích của Làng trẻ em SOS nhằm mang lại "sự quan tâm chăm sóc như trong một gia
đình" cho trẻ nghèo đói, lang thang và trẻ mồ côi. Hàng triệu trẻ em đang sống mà không có
một mái ấm gia đình với muôn vàn lý do như: Bố mẹ ly hôn, bạo lực gia đình,sự thiếu quan
tâm của bố mẹ, không còn bố mẹ do chiến tranh hoặc thiên tai, bệnh tật - bao gồm cả sự
tăng lên của AIDS. Những đứa trẻ được giúp đỡ để trở lại cuộc sống sau những tổn thương
tâm lý và ngăn chặn những mối nguy hiểm như bị bỏ rơi, đối xử bất công, ngược đãi.
Các làng SOS hoạt động theo 4 nguyên tắc chung trên toàn thế giới, gồm: “Bà mẹ, các
anh chị em, ngôi nhà gia đình và cộng đồng làng”. Trong đó, nhân tố chính là các “bà mẹ” -
là những phụ nữ từ 25 đến 40 tuổi, không có ý định lấy chồng, không có con riêng, cũng
không nặng gánh gia đình, tình nguyện tuyên thệ đảm nhận thiên chức làm mẹ, nuôi dưỡng
những trẻ mồ côi (có hoàn cảnh đặc biệt) như những đứa con riêng của mình theo đúng
nghĩa xã hội học. Mỗi “bà mẹ” làm chủ một “ngôi nhà gia đình”, có toàn quyền định đoạt
trong việc nuôi dưỡng từ 8 đến 10 “đứa con”(từ sơ sinh đến 18 tuổi) như những người mẹ
khác trong xã hội. Khoảng 10 đến 40 ngôi nhà hợp thành một "làng" SOS.
Làng trẻ em SOS Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở Hiệp định ký ngày
22 tháng 12 năm 1987 giữa Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Làng trẻ em SOS Quốc
tế. Làng trẻ em SOS Việt Nam được thiết lập trên bốn nguyên tắc của tổ chức Làng trẻ em
SOS Quốc tế là bà mẹ, anh chị em, mái ấm gia đình và cộng đồng làng, là nơi nuôi dưỡng,
chăm sóc và giúp đỡ trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tìm lại
46
tình yêu thương, được tạo điều kiện hưởng đầy đủ quyền về trẻ em, được phát triển toàn
diện để trở thành công dân có ích. Mỗi Làng trẻ em SOS có từ 12 đến 20 gia đình. Mỗi gia
đình có một người mẹ SOS chăm sóc và nuôi dạy từ 8 đến 10 trẻ.
Làng trẻ em SOS Gò Vấp TP Hồ Chí Minh cùng với Làng trẻ em SOS tại Mai Dịch, Hà
nội là 2 Làng trẻ em SOS đầu tiên tại Việt Nam được thiết lập ngay sau khi Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội thay mặt Hội đồng Bộ trưởng ký Hiệp định với tổ chức Làng trẻ em
SOS Quốc tế. Làng trẻ em SOS Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay được xây dựng
trên nền đất cũ của Làng trẻ em SOS Gò Vấp (Gia Định) trước đây do Ngài Helmut Kutin
từng làm Giám đốc từ năm 1967 đến 1976, hiện là chủ tịch đương đại của làng trẻ em SOS
quốc tế. Làng trẻ em SOS Gò Vấp nằm trên đường Quang Trung, cách trung tâm thành phố
Hồ Chí Minh 12km về phía Tây Bắc. Ngày 28 tháng 1 năm 1990, Làng trẻ em SOS Gò Vấp
vinh dự đón ông Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Mặt trận tổ quốc Việt Nam và ngài Helmut
Kutin- Chủ tịch Làng trẻ em SOS Quốc tế đến dự lễ và cắt băng khánh thành. Đây là ngôi
làng có quy mô lớn nhất trong các Làng trẻ em SOS tại Việt Nam với 20 nhà gia đình có
khả năng nuôi dưỡng 180-200 trẻ.
Tính đến năm 2011 Làng trẻ em SOS Gò Vấp đã nuôi dưỡng 437 trẻ. Trong số đó có 180
cháu đã trưởng thành, hòa nhập cuộc sống. Trong số này đã có 91 cháu đã lập gia đình riêng
và có cuộc sống ổn định. Hiện tại Làng đang chăm sóc và quản lý 257 cháu (162 trai và 95
gái), trong số này có 169 cháu đang học phổ thông, 19 cháu đang học mẫu giáo,10 cháu còn
đang trong độ tuổi nhà trẻ, sơ sinh; 30 cháu đang học đại học, cao đẳng và nghề, số còn lại
là 29 cháu đã tốt nghiệp các trường nghề, hiện đã đi làm, hưởng chế độ bán tự lập.
Lưu xá thanh niên SOS Gò Vấp:Lưu xá thanh niên SOS Gò Vấp cách Làng trẻ em
SOS Gò Vấp khoảng 1.000m. Lưu xá thanh niên được xây dựng với diện tích 600m2 và khả
năng nuôi dưỡng 50 thanh niên. Lưu xá thanh niên là nơi tiếp nhận thanh niên nam 14 tuổi
trở từ Làng trẻ em SOS Gò Vấp chuyển tới. Tại đây, các thanh niên này tiếp tục học tập, rèn
luyện để sau này trở thành trụ cột trong gia đình.
Trường phổ thông Hermann Gmeiner Gò Vấp:Trường phổ thông Hermann Gmeiner
Gò Vấp được xây dựng từ năm 1992 đến năm 1993 được đưa và hoạt động. Trường được
xây dựng cạnh Làng trẻ em SOS Gò Vấp. Trường phổ thông Hermann Gmeiner Gò Vấp
gồm 3 cấp học từ lớp 1 đến lớp 12 với 27 phòng học có khả năng tiếp nhận 900-1000 học
sinh.
47
Năm học 2010-2011, Trường phổ thông Hermann Gmeiner Gò Vấp đã tiếp nhận và đạy
học cho 1.194 học sinh, trong đó có 147 học sinh đến từ Làng trẻ em SOS (12.3%) và 140
học sinh là con em của các gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, được tổ chức Làng trẻ
em SOS cấp học bổng Hermann Gmeiner (bằng 11.8%).
Trường phổ thông Hermann Gmeiner Gò Vấp có đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên
chuẩn. Nhiều giáo viên được Thành phố công nhận là giáo viên dạy giỏi trong nhiều năm.
Cơ sở vật chất của trường đầy đủ và hiện đại. Hàng năm có nhiều học sinh giỏi ở các cấp
khác nhau.
Trường Mẫu giáo SOS Gò Vấp:Trường Mẫu giáo SOS Gò Vấp hoạt động từ năm 1993
với 6 lớp học có khả năng nuôi dạy và chăn sóc cho 180-200 cháu từ 3 đến 5 tuổi. Tính đến
năm học 2010 – 2011 số học sinh mà trường đã từng tiếp nhận là gần 3.500 lượt học sinh.
Trường được trang bị đầy đủ, hiện đại. Giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn. Hoạt động của
trường đã tạo uy tín cao đối với ngành giáo dục của Quận Gò Vấp cũng như đối với phụ
huynh.
2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng
Tác giả tiến hành nghiên cứu theo các bước sau:
Bước 1:
Từ danh sách trẻ em ở làng SOS, lọc lại một danh sách các em trong độ tuổi từ 7 – 11,
chúng tôi lấy ngẫu nhiên 12 em ở các số thứ tự 5, 10, 15, 20,25, 30, ... cho đến khi đủ 12
em. Vì lý do bất kỳ mà em đó không tham gia hoặc người nghiên cứu không thể thực hiện
được trường hợp sẽ thay thế các em ở vị trí liền sau cho đến khi thực hiện được.
Bước 2:
Khi thống nhất được danh sách các em sẽ thực hiện vẽ tranh (phục vụ cho nghiên cứu),
tác giảgặp mẹ và giáo dục viên phụ trách em đó để trò chuyện tìm hiểu về hoàn cảnh cũng
như các thông tin liên quan đến các em.
Bước 3: Chuẩn bị
Tìm không gian riêng, yên tĩnh, thoải mái, đủ ánh sáng, bàn ghế phù hợp với trẻ để làm
việc. Lưu ý không phải là nơi có ấn tượng xấu với trẻ (phòng xử phạt, kiểm điểm...)
Giờ giấc phù hợp với lịch học và các sinh hoạt khác của trẻ.
Chuẩn bị dụng cụ gồm giấy A4, A3, bút chì, gôm, cọ vẽ,các loại màu (màu chì, sáp,
nước, bút lông)...
48
Giới thiệu rõ ràng, thân mật, tạo sự thoải mái, nhẹ nhàng, gần gũi(nhấn mạnh hoạt động
này không dùng để đánh giá hay thi đua gì cả).
Cần lưu ý không trả lời lan man những câu hỏi của trẻ, không thúc giục trẻ kết thúc
nhanh.
Bước 4:
Sau đó, người nghiên cứu gặp riêng từng em. Mỗi em gặp 4 lần (mỗi lần 45 – 60 phút),
cách nhau 1 tuần. Gặp vào thứ 7 hoặc chủ nhật, để tránh các ngày trẻ đi học. Những trường
hợp có sự cố hoặc vấn đề gì đột xuất mà các em không thể có mặt, hẹn lại các em vào buổi
khác.
Buổi 1: Giới thiệu cho trẻ hiểu về hoạt động vẽ tranh (không nhắc đến vấn đề làm nghiên
cứu), chỉ đơn giản là để làm quen và để hiểu trẻ hơn. Nhấn mạnh, những bức tranh trẻ vẽ,
những điều trẻ nói sẽ được giữ bí mật hoàn toàn, và không dùng để chấm điểm hay đánh giá
bất cứ điều gì. Báo cho trẻ biết tiến trình và thời gian thực hiện. Đề nghị trong buổi đầu tiên
là vẽ nhà.
Buổi 2: Sau khi chào hỏi, tạo sự thân mật, gần gũi, đề nghị trẻ vẽ người. Để trẻ thoải mái
thể hiện, nếu trẻ hỏi vẽ ai, người nào, con trai hay con gái thì trả lời con có thể vẽ bất kỳ ai
mà con muốn/ nghĩ đến. Nếu cần thiết, nhắc lại những vấn đề trong buổi đầu tiên.
Buổi 3: Tiếp tục gợi chuyện, thăm hỏi, tạo điều kiện để trẻ thoải mái, cởi mở. Trong buổi
này đề nghị trẻ vẽ gia đình. Nhắc lại với trẻ về tiến trình thực hiện và báo thời gian của buổi
gặp tiếp theo và đó cũng là buổi cuối.
Buổi 4: Chào hỏi, nhắc lại quá trình thực hiện và báo cho trẻ biết hôm nay là buổi cuối.
Đề nghị vẽ những gì mà em đang nghĩ đến lúc này/ vẽ tự do.
Sau mỗi buổi cảm ơn các em vì đã hợp tác tham gia vẽ tranh.
Lưu ý ghi chép những bình luận của trẻ trong khi vẽ tranh.Trong khi trẻ vẽ, người nghiên
cứu sẽ quan sát, ghi chép tỉ mỉ hành vi của trẻ và những nhận xét của mình. Chỉ trả lời mọi
câu hỏi của trẻ mà không chuyện trò khi trẻ đã hoàn thành công việc của mình, đặt câu hỏi
để hướng trẻ tới việc đưa ra những giải thích, nhận xét về những gì trẻ đã thể hiện.
2.3. Kết quả nghiên cứu sự biểu hiện xúc cảm – tình cảm của trẻ qua tranh vẽ
2.3.1. Các trường hợp nghiên cứu
Trường hợp 1: D C T Giới tính: Nam Sinh ngày: 3/2/2002
Ngày vào làng: 1/7/2006
49
Hoàn cảnh: không có cha, mẹ không bình thường (theo lời bà mẹ SOS là “khùng khùng”)
ở Kiên Giang. Nhờ dì Út nuôi, dì bận học và quen người bạn ở làng SOS, liên hệ và xin gởi
vào làng.
Càng lớn bà mẹ ở SOS càng cảm thấy trẻ không tập trung, hay ngồi thừ, điểm tương đối
khá, hay được điểm cao dù hỏi bài hoài không thuộc. Không biết nhường nhịn em nhỏ trong
nhà (phần ăn hay phần quà dù ăn không hết cũng không muốn cho ai), không thích chia sẻ
bất kỳ điều gì với ai. Hai năm gần đây, khi thấy trong nhà có người về quê vào dịp lễ tết
cũng thể hiện ao ước, mong muốn. Tết gần đây dì Út lên thăm, có đón về chơi tết, chơi với
mẹ bình thường, khi trở lại có vẻ không muốn ở đây nữa. Trẻ có một con gấu bông giữ rất
kỹ từ lúc mới vào làng. Trầm ngâm, ít nói chuyện, ít tiếp xúc với mọi người trong nhà.
Buổi đầu: vẽ nhà 23/3/2013
Bố cục toàn bộ bức tranh dồn về bên trái, trẻ có xu hướng sống tình cảm, thiên về quá
khứ.
Ngôi nhà, cảnh vật khá nhỏ so với không gian tờ giấy, cửa sổ, cửa lớn đóng và nhỏ, có
thể hiện sự rụt rè, khép kín, khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh.
Bầu trời quanh đãng, có mây, ông mặt trời khá sinh động, miệng cười, trẻ bộc lộ xu
hướng thích nghi tốt với ngoại cảnh.
Nét vẽ chậm, ngần ngừ, dùng gôm để cải thiện nét vẽ. Dùng màu nước tô rất cẩn thận, từ
tốn. Hầu như không hỏi gì, không ngước mặt lên chỉ ngồi chăm chú vẽ và tô màu. Vẽ toàn
bộ chi tiết bằng bút chì rồi tô màu. Trẻ giải thích mẹ, mấy anh chị và con đang ở trong nhà
50
chuẩn bị đi ngủ, Mẹ là người chăm sóc cây và hoa, con và mấy anh chị cùng phụ mẹ. Trẻ
nói: “Con thích ngôi nhà này”. Trẻ tỏ ra trầm buồn, hầu như không ngước mắt nhìn. Tô màu
và cất đặt rất cẩn thận. Trẻ có xu hướng sống tình cảm, tái hiện cuộc sống của mình ngay ở
Làng, lời kể gắn liền với những người xung quanh là mẹ và các anh chị sống cùng. Tuy
nhiên vẻ mặt rất buồn như có điều gì chưa bộc lộ hết.
Buổi thứ 2: Vẽ người 30/3/2013
Hình người xuất hiện trong tranh tuy có một mình nhưng gương mặt đầy vui vẻ, phấn
chấn. Không gian xung quanh khá sinh động (có cây cối, hoa và bướm), bầu trời trong sáng,
nhiều mây, trẻ bộc lộ cảm xúc vui tươi, hào hứng với khung cảnh mà mình đang tái hiện.
Bố cục bức tranh dồn về phần dưới của tờ giấy, gợi ý trẻ là người coi trọng tình cảm, có
chút bất an, cảm giác không thoải mái hoặc xung đột nội tâm, hướng về quá khứ, có chút
thất vọng về thực tại.
Đặt bút vẽ nhanh và cẩn thận. Sau đó xóa toàn bộ hình vừa vẽ. Cố ý che tay khi vẽ, đặc
biệt là khi tẩy xóa. Một lúc sau vẽ rất nhanh và tự tin, không còn che tay nữa. Nhìn trẻ trầm
buồn, ít nói, nói rất nhỏ khi cô hỏi, ít ngước mắt lên. Trẻ nói vẽ xong, cô hỏi thì trả lời, cúi
gầm mặt xuống có vẻ rất buồn. Trẻ bộc lộ cảm xúc rất vui về những kỷ niệm, nhưng đó
51
dường như là kỷ niệm đã qua, nên xuất hiện những nét thoáng buồn, và thiếu tự tin trong khi
vẽ.
Trẻ giải thích đây là vườn nhà ngoại có rau (trẻ nói rõ là rau xà lách), mấy cây táo (trẻ
nói thêm là loại táo xanh) rất nhiều quả và vài cây hoa. Ngoại ở một mình, con tự hái táo
ăn.Những ký ức đẹp được trẻ tái hiện cụ thể, rõ ràng như còn rất mới, rất tinh khôi trong
tâm trí em. Trẻ cảm thấy hài lòng và thấy bức tranh của mình đẹp.
Buổi thứ 3: Vẽ gia đình 6/4/2013
Gia đình đối với trẻ là bà mẹ SOS và các anh em trong làng, trẻ vẽ bản thân mình đầu
tiên, có xu hướng coi trọng bản thân.
Các anh em gần nhau và nắm tay nhau, và không gần mẹ lắm, bộc lộ tình cảm gần gũi
giữa các anh em, có sự xuất hiện của mẹ nhưng không thân thiết với mẹ nhiều. Riêng bản
thân trẻ (trong tranh) cũng không nắm tay em, bộc lộ khoảng cách với các thành viên trong
gia đình, có xu hướng chưa thật sự gần gũi với mọi người, còn nhiều tâm tư che dấu.
Bố cục bức tranh vẫn dồn về phía dưới tờ giấy, trẻ có khuynh hướng gắn bó nhiều với
quá khứ.
Trẻ giải thích bức tranh: đây là con, hai em gái, anh và mẹ (chỉ tay từ trái qua phải). mọi
người đang chơi ở vòng tròn lớn trong làng (khi cô tỏ ý không hiểu, trẻ chỉ rõ đó là khoảng
sân lớn giữa làng, vẽ sơ đồ ra nháp cho cô thấy rất nhiệt tình). Con và anh chơi đá cầu, anh
chơi giỏi hơn con, mẹ dẫn hai em đi lòng vòng, cửa nhà đang mở. Chơi chỗ đó gần nhà và
có thể nhìn thấy nhà con. Khi nói về cái cây, trẻ nói không biết ai trồng cây này, nó có từ
trước khi con vào. Con thích chơi ở đây, có lúc chơi đá cầu, có lúc đá banh. Trong lúc nói
chuyện, bé cố gắng tẩy xóa những phần bị bẩn của bức tranh.
Trẻ tái hiện lại cảnh chơi tại Làng, có mẹ và các anh em, gợi ý về những tình cảm của trẻ
52
với mọi người xung quanh nơi trẻ đang sống, đó là sự gắn bó, vui đùa cùng nhau, có mẹ bên
cạnh. Đồng thời, trẻ chưa thật sự thoải mái, hòa đồng với mọi người, vẫn có chút xa cách.
Buổi thứ 4: Vẽ tự do 13/4/2013
Đến xin cô nghỉ hôm nay để đi sinh nhật bạn. Cô chưa kịp trả lời, trẻ đổi ý, con sẽ vẽ
nhanh rồi sau đó đi. Khi cô đề nghị vẽ những gì con đang nghĩ (vẽ tự do). Tỏ ra hơi ngần
ngừ, suy nghĩ một chút rồi vẽ rất nhanh chóng, tự tin (con mèo, ngôi nhà, cây, cỏ, mây, ông
mặt trời, hoa). Sau đó trẻ vội vàng muốn đi vì bạn đợi ở ngoài. Để trẻ đi và hẹn hôm sau
hoàn thành.
Buổi thứ 5: Vẽ tự do 20/4/2013
Vì hôm trước chưa hoàn thành, nên hẹn gặp trẻ thêm một buổi nữa. Khi cô hỏi xem trẻ
muốn hoàn thành bức tranh hôm trước không hay vẽ một bức mới. Trẻ đang ngồi suy nghĩ
cô lấy bức tranh hôm trước ra, trẻ chọn tô màu bức tranh hôm trước, chọn màu sáp và tô rất
nhanh nhẹn.
Bố cục không còn dồn về phía dưới tờ giấy, trẻ trở nên linh hoạt, tự tin hơn.
Ngôi nhà nhỏ bé, không có cửa ra vào, gợi ý khó khăn trong giao tiếp, không cảm thấy
an toàn với môi trường bên ngoài, có phần lo hãi bỏ rơi.
Trẻ vẽ một con mèo, là loài vật nuôi trong nhà, nhưng không xuất hiện con người, trẻ có
xu hướng mơ ước cuộc sống bình dị, hiền hòa, đồng thời thể hiện sự thiếu vắng tình cảm, sự
cô đơn.
53
Bầu trời xuất hiện những đám mây tối tăm, một lần nữa gợi cảm giác lo lắng, không cảm
thấy an toàn về cuộc sống hiện tại.
Trẻ giải thích về bức tranh, con mèo này đang đi chơi, ông chủ đang ở trong nhà, đóng
cửa, nó đi chơi chút xíu rồi về, không biết nó đi chơi đâu, nhà chỉ có một con mèo này. Câu
chuyện kể về bức tranh gợi lên khao khát được gắn bó và yêu thương, có sự chờ đợi, chăm
sóc của ông chủ đối với chú mèo.
Qua năm buổi tiếp xúc và làm việc với DCT, trẻ khá hợp tác, thái độ cố gắng hoàn thành
yêu cầu, rất tập trung với việc vẽ. Tất cả những lần làm việc, trẻ đều tỏ ra trầm buồn, ít nói,
khó chia sẻ, hiếm khi nhìn trực tiếp để nói chuyện, hay cúi mặt, phong thái lặng lẽ. Khi mô
tả những bức tranh trẻ rất ít nói như có điều gì đó rất khó diễn đạt bằng lời với trẻ. Nhắc đến
những kỷ niệm về ngoại, trẻ thể hiện rõ tình cảm yêu thương, gắn bó. Những ký ức về ngoại
như hiện lên rõ ràng, trong sáng và trẻ muốn giữ mãi hình ảnh ấy, khao khát về nơi có mảnh
vườn được trẻ mô tả chi tiết từng loại cây, có hình ảnh ngoại chăm sóc cho vườn cây ấy tươi
tốt. Bức tranh vẽ tự do cuối cùng được trẻ vẽ rất nhanh chóng (ngoài lý do có bạn đang đợi,
đó là những ý nghĩ xuất hiện rất nhanh ngay khi cô đề nghị vẽ những gì mà trẻ đang nghĩ
đến), là hình ảnh con mèo đi chơi một mình với sự chờ đợi của ông chủ ở nhà như là một
khao khát mà trẻ thật sự muốn nói về sự tự do, sự yêu thương, che chở không điều kiện.
Trường hợp 2: T Đ L Giới tính: Nam Sinh ngày: 6/6/2003
Ngày vào làng: 12/6/2003
Hoàn cảnh: cha mẹ bỏ lại sau khi sinh xong ở bệnh viện. Hội phụ nữ huyện Củ Chi đưa
vào làng. Lúc nhỏ rất khó nuôi, đặc biệt là vấn đề ăn uống, hay quấy khóc. Luôn nghĩ bà mẹ
SOS là người đẻ ra mình. Lâu lâu hay hỏi mẹ: “mẹ nói thiệt đi, có phải mẹ đẻ ra con
không?”. Năm ngoái từng hỏi bà mẹ SOS “mẹ sinh con ở bệnh viện nào? Có đau không? Ba
con tên gì? ở đâu? Trong những trường hợp đó mẹ thường lơ đi. Trẻ không có ai thăm nuôi.
Sống khá tình cảm, ngoan, hòa đồng với anh chị em trong nhà, hay kể với mẹ chuyện ở
trường. Thích hát, nhảy múa, vẽ. Khó làm quen với người lạ. Ở lớp học khá, cô giáo khen
ngoan. Giáo dục viên nhận thấy trẻ ít hòa đồng so với tuổi, khá nữ tính. Biết nghe lời, có
năng khiếu vẽ, tham gia văn nghệ. Có bạn thân, gẫn gũi trong nhóm nhỏ, ít hòa đồng trong
nhóm lớn. Có xu hướng ham chơi.
Buổi đầu: vẽ nhà 23/3/2013
54
Đi vào nhìn cô bẽn lẽn, cười cười. Sau khi cô chào hỏi, giới thiệu và đề nghị vẽ nhà. Em
hơi ngần ngại hỏi cô “vẽ ngôi nhà bự hết trang giấy luôn hả cô”. Sau đó bắt tay vào vẽ, rất
nhanh chóng, tự tin. Vẽ từng đường thẳng, ngói cong vảy cá. Nét vẽ rất tự tin. Vẽ rất nhanh,
hay cười rồi nói với cô là vẽ xong rồi. Cô hỏi “con có muốn tô màu không?”. Trẻ chỉ cười,
ngần ngừ một lúc rồi lấy màu tô. Chỉ tay vào tường nhà, nhìn cô và hỏi “tô màu gì?” và
cười. Sau đó tự nói “màu vàng được không ta?”, rồi tự trả lời “không được vì hai màu này
chỏi nhau” (trước đó trẻ tô mái nhà màu cam). Trẻ tô rất tỉ mỉ, cẩn thận, chăm chút từng tí,
nhiều khi xoay giấy, xoay người. Dùng khăn giấy lau những vụn màu rất cẩn thận. Sau khi
tô, nhiều nét vẽ bị mờ,bé dùng sáp màu đen vẽ lại, tỉ mỉ ở những đường viền. Khi cô hỏi
trong nhà có ai không con. Trẻ trả lời nhanh “coi tivi hết rồi. Đóng cửa để khỏi kẻ trộm vào,
kẻ trộm vào nhà sẽ lấy tiền”. Xung quanh nhà có gì không con. “Có hoa”. “Nhưng sao cô
không thấy”. Bé cười và vẽ thêm bông hoa, tô vẽ rất cẩn thận. Bé chỉ vào bông hoa và nói
đó là bụi rậm cạnh hàng gạch gần nhà. Có ai chăm sóc bông hoa này không? Trẻ trả lời “dạ
có em” đồng thời tay chỉ vào ngôi nhà. Có phải có một em sống trong ngôi nhà này chăm
sóc cho cây? “Dạ em tưới cây”. Có ai cùng em này chăm sóc cây không? Trẻ lắc đầu nhưng
lại nói là có anh. Có phải có một em và anh cùng chăm sóc cây? Trẻ chỉ cười cười và không
nói gì thêm. Xung quanh nhà có gì nữa không con? Trẻ nói không và lắc đầu, hơi cười, suy
nghĩ rồi lại nói có cây. Sau đó bé bắt tay vẽ cây. Khi nói về cái cây, trẻ nói cây này con
trồng, cây này không có quả, chỉ cho bóng mát, con ở dưới chơi với mấy anh em (chơi oẳn
55
tù tì). Thỉnh thoảng trẻ hay lơ đãng nhìn xung quanh, hay cười trong lúc vẽ. Trẻ thường vẽ
những đường thẳng trước, nét bao quát trước, chi tiết sau.
Ngôi nhà lệch hẳn về góc trên bên phải, trẻ có xu hướng chủ động, hướng ra bên ngoài,
năng động, tự tin nhưng đôi lúc rời xa thực tế.
Ngôi nhà khóa cửa, trẻ giải thích mọi người ở trong nhà coi ti vi, nhưng khóa cửa sợ kẻ
trộm vào. Gợi ý về sự mất mát mà trẻ đang để tâm.
Vòm lá của cây cũng hơi nghiêng về bên phải,lá mở rộng, phát triển ở phía trên cũng gợi
ý sự hướng ngoại. Cây không có quả cho thấy xu hướng mơ hồ về thành quả của những
người xung quanh và cả bản thân trẻ. (trẻ đã từng thắc mắc với bà mẹ SOS, “mẹ đẻ con có
đau không? Ba con tên gì? ở đâu…”)
Khi vẽ trẻ rất cẩn thận, tỉ mỉ, nét vẽ rõ ràng, tự tin, bộc lộ cảm xúc vui vẻ, hài lòng về
bức tranh, hài lòng về cuộc sống hiện tại.
Buổi thứ 2: Vẽ người 30/3/2013
Đến gặp cô và cười. Trước đó có lên từ sớm, nhưng
không phải giờ của em. Cô hỏi “nãy giờ con ở đâu
vậy?”. Trẻ trả lời: “không nói” và cười. Cô đề nghị con
hãy vẽ người. Trẻ suy nghĩ, cười và nói “con không
biết”. “Cô nghĩ là con biết”. Trẻ xoay giấy vẽ và tự nói
vẽ chân dung. Vẽ nhanh và cẩn thận. Khi vẽ xong bé la
lên: “xong, cô thấy con vẽ nhanh chưa, nhanh hơn bạn
kia” (ý chỉ bạn trước đó). Trẻ hỏi “cô ơi vẽ người tô
màu gì?”. Con nghĩ nó là màu gì? Trẻ la lên vui vẻ
“Ahhhh! Màu da cam, Con biết pha màu”. Rồi hào hứng
pha màu. Vừa làm bé vừa nói như đọc công thức “đầu
tiên cho một ít màu cam, sau đó thêm một ít màu trắng
và trộn đều” (bé nói chậm, trùng với hành động làm). Sau đó “không thành rồi cô ơi, cần
thêm một ít màu trắng. Trẻ đổ thêm một ít vẫn cảm thấy chưa được. Trẻ cầm cọ chỉ vào da
tay mình, rồi chỉ vào phần màu đang pha như so sánh. Rồi nói cần thêm màu trắng, tự nói
“tốn màu của cô quá!”. Pha xong, khi bắt đầu tô, trẻ reo lên “Ah! Được rồi nè”. Hào hứng,
chăm chú ngồi tô. Tô khuôn mặt, mắt. Cách vẽ, cách tô cẩn thận, nhanh nhẹn, tự tin. Tô
xong mặt, cổ, chỉ tay vào áo trên tranh. Suy nghĩ một chút, chỉ tay vào áo mình, cười rồi tô
màu đỏ. Khi tô tóc, bé chỉ vào khay rửa cọ, rồi đùa với cô “nước sâm đó cô”.
56
Trẻ cười và nói tiếp “bây giờ là đến giai đoạn viền”, rồi dùng cọ nhỏ, màu đen tô viền.
Trẻ vẽ lại chỉnh sửa các chi tiết nhỏ môi, mắt. Bé nói không hài lòng về bức tranh của mình,
thấy xấu và ghê (chỉ vào phần đường viền). Trẻ tự nói “có nên tô nền không ta”, rồi tự trả
lời “tô nền sẽ làm mấy đường viền lem”. Một lúc sau, “ah! Con có cách rồi! Dùng màu
chấm xung quanh, con đang ở một bầu trời rực sao”. Trẻ còn nói không hài lòng chổ này
(tay chỉ vào phần màu không đều trên áo trong tranh). “Để con sửa lại”, sau đó cầm nhầm
cọ nên tô lên áo một vệt đen. Bé cười ngặt nghẽo, cười rất lớn. Suy nghĩ rồi lại nói “con có
cách rồi”, trẻ dùng luôn cọ đó tô một ô trên áo. Tự đứng dậy vào reo đã xong. “con ở giữa
bầu trời đầy sao, chỉ có con”
Hình người to gần hết trang giấy, có xu hướng hung tính nhưng gương mặt khá hiền
lành, vui vẻ. Trẻ bộc lộ mong muốn được mạnh mẽ hơn, đồng thời trẻ cũng khá vui vẻ, chấp
nhận thực tại thể hiện qua gương mặt bức tranh và thái độ nhanh chóng, tự tin, hào hứng,
vui vẻ của trẻ trong lúc vẽ.
Hình người không vẽ tay, thể hiện sự yếu ớt, cảm giác thiếu sức mạnh. Cũng không có
chân, trẻ đang hoài nghi về quá khứ về nền tảng, về sự nâng đỡ mà trẻ đang có. Trên thực tế,
mặc dù rất vui vẻ và luôn nghĩ bà mẹ SOS là người sinh ra mình, nhưng trẻ cũng đã bắt đầu
có những câu hỏi thắc mắc về nguồn cội.
Trẻ làm việc rất tập trung và sáng tạo khi xử lý những điều không như ý. Cách nói “một
mình con ở giữa rừng sao” vừa thể hiện sự tự hào, hãnh diện cùng theo đó là sự cô đơn, lẻ
loi giữa cuộc đời, giữa rừng sao.
57
Buổi thứ 3: vẽ gia đình 6/4/2013
Trẻ đi vào, cười nói vui vẻ, hỏi bạn vừa ra (em H) nên hôm nay em đã biết trước cô sẽ đề
nghị vẽ gia đình. “con biết hôm nay vẽ gì rồi”. Ngồi suy nghĩ vài phút. Chọn cọ, ngồi nhúng
nước nghịch khá lâu, rồi tự nói “dùng bút chì vẽ trước”. Một tay cầm cọ, một tay dùng bút
chì vẽ chăm chú. Trẻ vẽ một hình người cầm chùm bóng, rồi nói “xong rồi”. Cô hỏi lại “đây
là gia đình?”. Trẻ trả lời: “Dạ không! H nói không biết vẽ gia đình thì vẽ tự do”. Đó là H
nói, không phải cô nói. Cô nghĩ là con biết. Trẻ cười rồi vẽ thêm hai hình người bên trái và
bên phải. Tô màu nước rất cẩn thận, pha màu, dùng cọ nhỏ để tô chi tiết. Rất khéo léo, cẩn
thận, lâu lâu nhìn cô và cười. Tô hết tay chân của ba nhân vật bằng màu đã tô, bé nhìn cô
cười và nói “tô xong rồi đó cô”. Rồi cười cười, lấy màu sáp ra tô tiếp. Vừa tô vừa hỏi cô
“không cần tô nền được không cô?”“Con nghĩ là có cần tô màu không?” Dùng xong màu
sáp để tô mặt và trang phục bé quay lưng ra sau rồi đột ngột quay lại và cười với cô như
muốn đùa giỡn. Lấy bút lông tiếp tục tô bong bóng, tô đường viền. Bé giải thích các nhân
vật trong hình anh Hậu (người lớn nhất đứng giữa), chị Ly (người nữ bên trái) và em con
(người nhỏ nhất bên phải), sau đó lại sửa lại là con. Mọi người đang đi chơi ở công viên.
Chỉ ba người đi vì ba người ngoan nên mẹ thưởng. Anh Hậu cầm nhiều bong bóng nhất vì là
anh lớn, anh cả trong nhà. Trước khi đi mẹ đưa tiền cho anh Hậu để anh mua bong bóng cho
tụi con. Đi chơi rất vui, ở công viên có cây xanh, ghế đá, nhiều trò chơi...con muốn mẹ đi
cùng, con nói mẹ nhưng mẹ nói mẹ bận ở nhà nấu cơm và may đồ cho tụi con. Đi công viên
tết vừa rồi, ba người nói chuyện học tập, chuyện năm sau, cố gắng để được mẹ thưởng
tiếp.Chắc chắn năm sau mẹ cho con đi nữa. Mấy bộ đồ này cũng do mẹ may cho tụi con,
58
con thích đồ mẹ may. Vừa nói chuyện với cô, vừa nghịch màu nước, ít nhìn cô lúc nói,
người uốn éo. Lúc bé vẽ xong cô nói “bây giờ cùng ngắm lại bức vẽ của con”, trẻ nói ngay
“rất đẹp”.
Đối với trẻ, gia đình là những người thân thuộc của em trong chính Làng SOS.
Trẻ bộc lộ tình cảm với những người sống cùng trong Làng SOS, đó là sự thân thiết cùng
nhau vui chơi, những gương mặt vui vẻ, hạnh phúc được thể hiện cả trong tranh lẫn qua lời
kể.
Bản thân trẻ trở nên xa hơn mọi người như có khoảng cách nào đó. (khoảng cách giữa trẻ
và mọi người trên tranh cùng với sự nói nhầm, lúc đầu nói là em con, sau sửa lại là con).
Người mẹ không được thể hiện trong bức tranh nhưng lại được trẻ nhắc đến nhiều trong
câu chuyện kể. Trẻ đã thể hiện tình cảm yêu thương, quý mến của mình đối với bà mẹ
SOS.Tuy nhiên việc không thể hiện hình ảnh người mẹ cũng cho thấy trẻ có những lo lắng
về việc xa cách.
Dù rất tự tin, vui vẻ khi vẽ tranh nhưng thái độ lưỡng lự lúc ban đầu cũng cho thấy xu
hướng lo lắng, không chắc chắn về hình ảnh gia đình trong em.
Buổi thứ 4 13/4/2013 vẽ tự do
Khi đến chạy theo xe đạp và xin cô dắt vào trong vì sợ mất, cô khen xe đẹp, trẻ khoe đó
là quà sinh nhật mẹ tặng. Hay cười, cô nói về những buổi vẽ trước, trẻ nói: “hôm nay vẽ gì
dễ dễ nha cô”. Cô hỏi: “theo con vẽ gì dễ”. Trẻ chỉ cười và không trả lời được. Khi cô đề
nghị vẽ những gì mà con đang nghĩ, trẻ tỏ ra vui vẻ và vẽ ngay, nhanh chóng, thành thạo.
Hôm nay trẻ tẩy xóa nhiều. Trẻ dùng màu sáp và nói dùng màu này cho nhanh. Tô màu rất
59
cẩn thận và tỉ mỉ. Khi được hỏi về bức tranh trẻ trả lời: “con vẽ gia đình con. Gia đình con
có nhiều người nhưng con chỉ vẽ mấy người này rồi chỉ vào từng người, đây là mẹ - con –
chị Ly – anh Hậu. Mấy người kia khó vẽ. Đây là bức hình chụp lúc tết. Con rất thích, nó có
trong album gia đình. Mẹ ôm con vì con nhỏ nhất, mấy người kia lớn hết rồi mẹ ôm không
nổi”
Như để bù đắp cho sự lưỡng lự, ngần ngại của buổi trước, trẻ đã quyết định vẽ gia đình
ngay khi có lời đề nghị vẽ tự do. Có thể thấy gia đình, những người thân thiết trong Làng là
điều rất quan trọng, quý giá đối với em.
Qua tranh vẽ, lời kể và thái độ, trẻ đã bộc lộ tình cảm gắn bó, thân thiết của mình với
những người có thật trong Làng SOS. Trong đó có sự gần gũi với mẹ (hình ảnh người mẹ
ôm con). Đây là những điều quý giá đối với trẻ mà khi nhắc đến trẻ luôn bộc lộ sự trân
trọng, giữ gìn và xem đó như niềm hạnh phúc.
Nét vẽ nhanh nhẹn, tự tin, bố cục bức tranh cân đối, màu sắc hài hòa, trẻ thể hiện sự thích
nghi, thái độ, cảm xúc vui vẻ với môi trường và cuộc sống hiện tại.
Quá trình làm việc trẻ luôn thể hiện sự vui vẻ, tự tin và rất hài lòng với cuộc sống hiện
tại. Những lời kể về mẹ, về những anh chị mà trẻ thân thiết trong nhà được thể hiện đầy yêu
thương, hạnh phúc. Nét vẽ nhanh nhẹn, vui tươi, tự tin không chỉ vì trẻ là người thích vẽ, có
năng khiếu vẽ mà còn bộc lộ rõ tâm trạng thoải mái, vui tươi, gắn bó chan hòa với môi
trường hiện tại nơi mà trẻ đã đến lúc vài ngày tuổi. Tuy nhiên, những băn khoăn về nguồn
gốc bắt đầu bộc lộ tuy chưa rõ nét. Sự rạng rỡ khi thể hiện về gia đình ở bức vẽ tự do vừa
nói lên niềm vui vừa có chút lo sợ mất đi những gì mình đang có, nên cứ muốn mẹ ôm
mình, nên có lúc trẻ như ở xa hơn so với mọi người (tranh vẽ thứ 3 – Vẽ gia đình), nên phần
nền tảng, phần quá khứ hầu như không được thể hiện (ngôi nhà nằm hoàn toàn ở góc phải,
vẽ người không thể hiện chân)
Trường hợp 3:H T H Giới tính: Nam Sinh ngày: 3/3/2005
Ngày vào làng: 16/11/2011
Hoàn cảnh: trẻ vào làng cùng với anh trai hơn một tuổi, cha mẹ không sống chung, còn
mẹ vào thăm nuôi. (Khi trẻ vào Làng một người dì nhận vào, hiện tại dì không ở Làng. Cả
giáo dục viên và bà mẹ SOS không nhớ chính xác trẻ vào Làng như thế nào)
Tính cách: cả hai anh em khá nghịch ngợm, khi mới vào làng thường lấy đồ dùng, thức
ăn mà không xin phép người lớn, sau đó được mẹ nhắc nhở không còn nữa. Rất thích đọc
60
truyện tranh, quan hệ với mọi người xung quanh bình thường, chia sẻ chuyện ở trường, tố
tội của nhau ở lớp với mẹ (bà mẹ SOS), kể chuyện ở gia đình mình khi được mẹ ruột đưa về
thăm. Đôi lúc dùng dằng, la khóc khi mẹ SOS nhắc học bài rồi sau đó bình thường trở lại.
Có lúc chơi một mình rất lâu ngoài vườn, mò mẫm, tìm kiếm côn trùng, quất mấy cây trong
vườn. Cách đây vài tháng từng lấy quần lót nữ để ở giường, có lần mặc (khoảng 3 lần), giờ
không còn nữa. Ý kiến của giáo dục viên khá bị động, dễ bị lôi kéo, có thái độ lấn lướt khi
được chiều chuộng, sợ khi bị la.
Buổi đầu 23/3/2013 vẽ nhà
Khi cô giới thiệu tỏ ra rất thích thú, chọn màu nước và rất hồ hởi thực hiện, chăm chú,
nét vẽ nghịch ngợm, tự tin.
Ngôi nhà đơn điệu, nhỏ bé gợi cảm giác thiếu thốn, trống trải. Cảnh vật xung quanh khá
sinh động (bầu trời, cỏ, cây) cùng với lời kể “nhà này của con, đang đóng cửa, không có ai
trong nhà. Đây là cây táo, mấy dì trồng, mẹ chăm sóc, có nhiều quả nhưng ở trên cao con
không hái được. Có mấy anh chị chơi dưới cây táo nhưng không có con, con với mấy anh
chơi đá banh trên cỏ. Mấy anh chị thường hái táo cho con nữa. Nhà này có mẹ, mấy anh chị,
có con và em bé. Cả nhà đi công viên rồi, có con nữa, con thích đi công viên”. Trẻ đã thể
hiện sự vui vẻ trong mối tương quan với mẹ, dì, các anh chị và có cả em bé. Đó là cuộc sống
rất bình thường, có vui chơi, cùng nhau làm việc, sự giúp đỡ, chia sẻ.
Phần thân cây và tán lá không cân đối, thân thẳng, to, vững chãi, thể hiện sự tươi vui, tự
nhiên, thẳng thắn. Tán cây nhỏ, tụm lại, trẻ có xu hướng thích tự chứng tỏ, tự hài lòng, cảm
xúc co cụm.
61
Buổi thứ 2 30/3/2013 vẽ người
Khi vào rất hào hứng, nhanh nhẹn, vui vẻ chọn giấy lớn, chăm chú vẽ sau khi cô đề nghị
vẽ người. Hỏi cô “bữa trước anh Bi vẽ gì vậy cô?” (là em L cũng tham gia vẽ tranh), “tí nữa
anh Bi cũng vẽ người hả cô?”. Trẻ tỏ ra rất thân mật, gần gũi và tự nhiên.
Hình người hơi nghiêng trong khi cái cây lại rất vững chãi và ở vị trí trung tâm, gợi cảm
giác mất thăng bằng, nghiêng ngả, bất an, mất chỗ dựa và không an toàn, gợi ý về cảm xúc
bất an, thiếu an toàn của trẻ với môi trường sống xung quanh.
Trẻ chỉ vẽ một hình người cùng với lời giải thích là đi hái táo một mình, gợi cảm giác về
sự cô đơn, lẻ loi.
Thân hình vuông, vai ngang, trẻ bộc lộ mong muốn có thêm sức mạnh, được trở nên
mạnh mẽ hơn nữa.
Phần miệng bị tô lem, trẻ có xu hướng khó khăn trong mối quan hệ mẹ con, trong giao
tiếp.
62
Buổi thứ 3 6/4/2013 vẽ gia đình
Khi vào vui vẻ chào cô và cười, phụ giúp cô dọn bàn ghế. Khi cô đề nghị vẽ gia đình, em
vẽ rất nhanh nhẹn, chăm chú, tập trung, hào hứng dù bên ngoài hơi ồn.
Bố cục bức tranh khá cân đối, màu sắc hài hòa, tô cẩn thận, trẻ bộc lộ sự thích nghi tốt,
sự vui vẻ, thoải mái khi đề cập đến chủ đề gia đình.
Trẻ thực hiện bức vẽ rất nhanh nhẹn, hào hứng, rồi giải thích từng nhân vật trong tranh
(đây là con – mẹ - ba – em gái, trẻ chỉ và nói theo thứ tự từ trái qua phải). Trẻ vẽ bản thân
trước tiên, thể hiện trẻ đánh giá cao bản thân. Trẻ đứng cạnh người mẹ, cũng là khoảng cách
gần nhất giữa các nhân vật trong tranh, thể hiện tình cảm gắn bó, yêu thương đối với mẹ.
Cha và em gái được vẽ nhỏ hơn, có cảm giác bị lùi ra sau như bị chia cắt, xa vời. Hai
nhân vật này không có cổ, dường như trẻ nhận thức về hai nhân vật này không rõ, mờ nhạt.
Người cha có phần chân khác lạ nhất, và bị vẽ xấu xí, trẻ không có tình cảm với người
cha hoặc không biết, không lưu tâm đến cha.
Trên thực tế, trẻ có anh trai sống cùng nhưng không thể hiện trong tranh, thay vào đó lại
có em gái. Có thể đây là khao khát có anh em mang tính nữ, hiền lành, nhu mì, trái ngược
hoàn toàn với anh trai hơn trẻ có một tuổi, học cùng lớp. Ngoài ra yếu tố này còn gợi ý về
xu hướng trẻ muốn phủ nhận người anh này.
Trẻ giải thích “cả nhà đang ở ngoài vườn, con và mẹ đang hái quả, ba sẽ rửa, còn em lấy
rổ cho ba rồi cả nhà cùng ăn. Cây này mẹ trồng, ba thường xuyên chăm sóc, ba hay tưới cây
vào buổi sáng sớm. Đây là vườn nhà con, cây này nhiều trái và ngon. Sau đó bé lại nói cây
cao, mẹ hái không được nên nói ba leo lên hái”. Vài lời kể có vẽ mâu thuẫn nhưng phần nào
63
bộc lộ khao khát một gia đình hòa thuận, êm ấm, mọi người cùng nhau sum vầy, cùng nhau
làm việc, cùng nhau thưởng thức thành quả lao động (ăn trái cây). Khao khát có một người
cha mạnh mẽ, vững chãi, cùng chung sức xây dựng gia đình như lời kể của trẻ.
Buổi thứ 4 13/4/2013 vẽ tự do
Khi được đề nghị vẽ những gì con đang nghĩ (vẽ tự do), trẻ vẽ ngay, rất nhanh chóng, trẻ
giải thích con đang chơi trốn tìm với mấy chị, con đang tìm mọi người nhưng không thấy.
Trẻ đã tái hiện một phần đời sống mà em đang trải qua ở Làng SOS, dù là cảnh vui chơi với
mọi người nhưng trên tranh cũng chỉ có một mình em, gần giống bức tranh vẽ người ở buổi
thứ 2, gợi cảm giác cô đơn, trống trải, lẻ loi.
Trẻ vẽ chính bản thân, nhưng hình người không rõ, khá lem nhem, không thấy phần cổ,
gương mặt bị tô, dường như nhận thức của trẻ đôi lúc còn khá mờ nhạt về bản thân, cảm xúc
không rõ ràng.
Thân cây vững chãi, tán lá mở rộng, trẻ bộc lộ sự thích nghi tốt với cuộc sống, hướng
ngoại. Tuy nhiên thân cây hình trụ thẳng cho thấy sự cứng nhắc, thiếu sinh động.
Phần quả của cây thể hiện thành quả, nhưng bị tô đen, dù trẻ có nói đây là cây cam. Trẻ
bộc lộ phần nào cảm xúc không coi trọng hoặc lo sợ về thành quả do mình tạo ra (trong học
tập hay đời sống, quan hệ với mọi người...)
Ngôi nhà nhỏ bé, có vẻ ọp ẹp, cửa nhỏ và không rõ, trẻ đang có khó khăn trong giao tiếp,
hay có một số vấn đề khó bộc lộ.
Trẻ đã thể hiện sự vui vẻ, hòa đồng, gần gũi qua bốn lần gặp và làm việc. Ở trẻ dễ nhận
thấy sự ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên. Cách nói chuyện với cô rất tự nhiên thoải mái, ánh
64
mắt sáng và nhanh nhẹn. Cách thực hiện những bức vẽ cũng rất tự nhiên, không gò bó,
không quá tỉ mỉ, trẻ bình thản và làm rất thoải mái, thích thú thử nghiệm nhiều loại màu.
Trên hết tất cả những điều ấy, trẻ dường như co cụm vào thế giới riêng, chỉ có mình trẻ với
cây cối và côn trùng trong đời sống hàng ngày và sự cô lẻ ngay ở trên tranh. Đó có thể là sự
đam mê, khám phá nhưng cũng là một trong những biểu hiện của sự cô đơn, làm gì cũng chỉ
có một mình, muốn thoát khỏi thực tại. Bức tranh về gia đình rất sinh động không chỉ tái
hiện hình ảnh những nhân vật trong gia đình tưởng tượng mà còn là cảnh sinh hoạt đầm ấm,
gần gũi đầy yêu thương, chia sẻ. Bộc lộ rõ khao khát có tình cảm yêu thương của gia đình,
sự thân mật gắn bó, giúp đỡ nhau của các thành viên.
Trường hợp 4: T N H T Giới tính: Nữ Ngày sinh: 27/4/2003
Ngày vào làng: 13/7/2011
Hoàn cảnh: trên giấy tờ cha vô danh, mẹ mất do ung thư (lúc em học xong lớp 1), có
người cha đỡ đầu đứng tên, thường xuyên đến thăm, đón về Bình Dương (theo lời mẹ SOS
thực chất đây là cha ruột, đã có một đời vợ và 2 con trai, quan hệ bất chính với mẹ T và sinh
ra em. Người vợ và các con ông không đồng ý, không thừa nhận em). Lúc mới vào làng học
yếu, hay chạy nhảy, đùa giỡn, nghịch ngợm, la hét thô bạo giống con trai. Vui vẻ và hòa
nhập với mẹ ở SOS và mọi người trong nhà. Ít kể chuyện trường lớp với mẹ, khi nào hỏi
mới nói. Lực học trung bình, cô giáo hay than phiền về việc nói chuyện riêng, học chậm,
chữ viết cẩu thả, học môn tiếng Việt khó khăn. Nhiều lúc nhớ nhà hay khóc. Thời gian
đầu,mẹ phạt và đánh đòn có mách lại với cha. Sau đó ông gọi điện cho mẹ SOS và than
phiền. Cha thường xuyên đến thăm ở cổng trường chứ không vào nhà.
Buổi đầu: 20/4/2013 vẽ nhà
65
Nhanh nhẹn, cẩn thận, bắt tay vẽ ngay, tẩy xóa nhiều, tự nói bức tranh của mình xấu quá
rồi cười.
Ngôi nhà lệch hẳn về phía trên cao của tờ giấy, trẻ có xu hướng tự tin, hướng ngoại, phát
triển lý trí. Đôi khi huyễn hoặc hay xa rời thực tế.
Các cửa quá nhỏ bé so với ngôi nhà, màu tối, tạo cảm giác về sự trói buộc, thiếu tự do, bị
kiểm soát và trẻ khao khát được thoát ra.
Cảm quan chung về ngôi nhà có vẻ xiêu vẹo, thiếu vững chãi, gợi lên sự mờ nhạt, cảm
xúc lạnh lẽo của trẻ về ngôi nhà.
Bầu trời quang đãng, nhiều mây, gợi ý đến những hy vọng, mặt trời tượng trưng cho sự
sưởi ấm, tình cảm nhận được từ cha mẹ nhưng lại không được tô, thể hiện xu hướng thiếu
thốn tình cảm từ gia đình, gợi lên sự lạnh nhạt.
Trẻ giải thích nhà này có một người mẹ đang canh em bé, hai bác đang làm việc (đi chợ
và làm việc nhà). Họ thường nói chuyện với nhau về tiền chợ. Có khi em bé ngủ mẹ lén em
bé để đi chợ, sợ em khóc. Chị là người trồng hoa và chăm sóc, khi hoa nở chị hay khoe với
bạn. Cuộc sống qua lời kể của em về những nhân vật trong ngôi nhà vừa bình dị, cùng với
những lo toan, trách nhiệm của cuộc sống.
66
Buổi thứ 2: 4/5/2013 vẽ người
Bố cục bức tranh tập trung vào phần dưới, trẻ thể hiện là người coi trọng tình cảm, đồng
thời có cảm giác không thoải mái, trốn tránh thực tế.
Tất cả hình người đều có những cánh tay rất mảnh mai, yếu ớt và không có bàn tay. Trẻ
cảm thấy không đủ sức, thiếu sức mạnh, thể hiện sự yếu kém trong thích nghi. Không có
bàn tay, gợi ý trẻ có những khó khăn trong việc xử lý những mối quan hệ với môi trường
xung quanh.
Những hình người thiếu bàn chân, hoặc bàn chân không rõ, trẻ có xu hướng thiếu sự an
toàn(cảm xúc lo lắng), và cảm thấy bất lực.
Trẻ giải thích về bức tranh là các chị và em trai đang tưới cây trong vườn vào chiều thứ
7, những ngày còn lại phải đi học nên mẹ làm. Đây là một cảnh sinh hoạt sinh động ở làng
SOS mà trẻ đã quen thuộc, cho thấy sự gắn bó của trẻ với nơi đây. Trẻ nói thêm về đàn chim
bay đi kiếm ăn và trở về tổ ở cây cam, nơi em trai đang tưới, mọi người biết nhưng vẫn để
tổ chim ở đó, vài lời kể ngắn nhưng trẻ cũng đã bộc lộ được khát khao sự bảo bọc, che chở,
đùm bọc nhau (hình ảnh cùng nhau làm việc, đàn chim kiếm ăn, về tổ và được che chở).
67
Buổi thứ 3: 21/5/2013 vẽ gia đình
Khi được đề nghị vẽ gia đình trẻ tỏ ra rất ngần ngại, nói không biết vẽ và muốn từ chối.
Sau đó suy nghĩ rất lâu rồi mới vẽ. Gia đình trong tâm trí trẻ có vẻ mờ nhạt, khó khăn để tái
hiện dù là trong tưởng tượng.
Các nhân vật trong gia đình tạo cảm giác rời rạc, xa cách nhau. Tình cảm của trẻ đối với
gia đình dường như xa xôi, mơ hồ.
Trẻ giải thích các nhân vật từ trái qua phải là ba, em gái, anh trai và mẹ. Kích thước, hình
dáng các nhân vật không hợp lý, gương mặt cũng không có sự khác biệt giữa cha mẹ, con
cái cho thấy đối với trẻ các nhân vật trong gia đình được đánh đồng như nhau, không có tình
cảm, cảm xúc gì đặc biệt.
Người cha được vẽ nhỏ, dường như đó là cảm xúc không muốn nhắc đến hoặc sự giận
hờn nào đó.
Trẻ mô tả bức tranh, con gái đang tặng hoa cho ba, anh trai tặng điểm 10 cho mẹ, sau đó
cả nhà đi ăn kem rất vui. Qua lời kể trẻ bộc lộ khao khát, mong muốn có một gia đình đầm
ấm, yên vui, mọi người yêu thương nhau, quan tâm nhau, hiếu nghĩa với cha mẹ.
68
Buổi thứ 4: 24/5/2013 vẽ tự do
Trẻ vẽ cảnh biểu diễn văn nghệ ở trường, với sự vui tươi, hoạt bát, sinh động và bố cục
bức tranh phù hợp.
Các hình người không có gì thay đổi so với các bức tranh trước, nhưng cảm xúc đầy vui
tươi, hồ hởi về buổi biểu diễn văn nghệ mà có lẽ em đã từng tham gia. Trẻ đang vui sống
với những điều giản dị như thế. Buổi biểu diễn văn nghệ hào hứng, sự cổ vũ của bạn bè, sự
quan tâm của cô giáo (trẻ nói cô giáo làm băng rôn), cùng với đó là sự luyện tập của các bạn
trong đội văn nghệ tuy mệt nhưng vui (trẻ nói).
Lần gặp thứ tư, cũng là lần cuối, trẻ bộc lộ sự vui vẻ, hoạt bát, nhanh nhẹn. Xúc cảm tràn
đầy niềm vui xen lẫn tự hào khi nói về buổi biểu diễn văn nghệ. Công sức luyện tập đã được
đền đáp, vui vì sự cổ vũ của các bạn, sự quan tâm của cô giáo. Niềm vui tưởng chừng rất
giản dị nhưng thể hiện khao khát muốn hòa vào cuộc sống, muốn thể hiện mình, cho dù
những thiếu thốn về tình cảm gia đình, hình ảnh về người cha, người mẹ còn mơ hồ.
Trẻ luôn thể hiện mình là người hoạt bát, vui vẻ qua các buổi làm việc. Tự tin, nhanh
nhẹn, tập trung và hợp tác. Hay cười và nhìn cô như dò hỏi khi trẻ nói về bức tranh của
mình như muốn biết con nói như vậy có đúng không. Sự e ngại khi trả lời, khi nói dường
như là một thói quen được hình thành dưới sự giáo dục áp đặt. Khi được khuyến khích và
giải thích rõ, những gì trẻ thể hiện qua tranh không có tính đúng sai, không dùng để đánh
giá bất kỳ điều gì, trẻ trở nên tự nhiên và thoải mái hơn. Điểm nổi bật, xuyên suốt ở cả bốn
69
bức tranh là những cánh tay mềm mại, yếu đuối, không rõ. Gợi ý về sự bất lực trước hoàn
cảnh và khao khát muốn thoát khỏi thực tại được dấu kín dưới vỏ bọc vui tươi, lanh lợi kia.
Trường hợp 5: H T K N Giới tính: Nữ Sinh ngày: 25/1/2002
Ngày vào làng: 1/10/2008
Hoàn cảnh: là con ngoài giá thú, mẹ đã mất, bà ngoại đưa cả ba chị em vào làng. Chị lớn
đã ra ngoài được một năm, còn lại N và em gái học lớp 1. Tính tình khá tốt, hòa đồng với
mọi người, khá tự lập, học giỏi, hoàn thành nhiệm vụ ở trường cũng như ở nhà, có trách
nhiệm, có ý thức chăm sóc em, hầu như không kêu ca, phàn nàn về điều gì, có lúc chỉ
thoáng qua bực bội với em. Ngoan, học tốt, tham gia các hoạt động rất tốt, tính cách ổn
định. Có người bà con của bà ngoại ở Bình Dương thỉnh thoảng đến thăm.
Buổi đầu 31/3/2013 vẽ nhà
Thân thiện, dễ gần, nét vẽ nhanh, tự tin. Sau khi giới thiệu và đề nghị vẽ nhà, trẻ hỏi “vẽ
nhà rồi có vẽ gì nữa không cô”. Chọn giấy nhỏ và đề nghị dùng màu của mình, đôi chút tẩy
xóa. Nét vẽ, tô màu cẩn thận, chăm chú. Hay cười và hỏi “vẽ xong tô màu luôn hả cô”, “có
cần tô nền không cô, dạo này em làm biếng vẽ”.
Ngôi nhà khá nhỏ, nằm trơ trọi, lọt thỏm, lặng lẽ tạo cảm giác về sự cô lẻ, đơn điệu, thiếu
thốn tình cảm.
Bố cục bức tranh khá cân đối, thể hiện xu hướng thích nghi tốt với môi trường xung
quanh, nhạy cảm, nội tâm, tự ý thức về bản thân.
70
Khi vẽ tranh trẻ tỏ ra rất hợp tác, vui vẻ, nét vẽ nhanh nhẹn, hoạt bát nhưng cảm xúc qua
tranh (một cây, một ngôi nhàrất nhỏ ở giữa khoảng không gian rộng) có xu hướng khép kín,
che dấu cảm xúc.
Khi vẽ xong ngắm nghía lại khá kỹ và nhắc đi, nhắc lại vài ba lần “vẽ đơn giản thôi, em
làm biếng quá”. Khi cô hỏi nếu không làm biếng và có thể vẽ thêm em sẽ vẽ thêm gì. Trẻ trả
lời, em sẽ vẽ thêm con đường, bướm bay. Nhưng bây giờ trẻ không muốn vẽ. Khi nói trẻ
thường cười, ít nhìn trực tiếp cô. Khi nói về cái cây trẻ nói không biết đây là cây gì, có quả.
Mẹ là người trồng và chăm sóc. Tụi con (con và mấy anh chị) hái quả. Trong ý nghĩ trẻ có
nhiều ý tưởng nhưng lại không muốn thực hiện nó, bộc lộ xu hướng che dấu, khép kín. Trẻ
đã tái hiện một phần cuộc sống ngay tại Làng có mẹ SOS và các anh chị khác, thể hiện sự
quan tâm, gắn bó với môi trường và cuộc sống hiện tại.
Buổi thứ 2 7/4/2013 vẽ người
Vui vẻ, nhanh nhẹn, rất hợp tác. Khi cô đề nghị vẽ người, trẻ hỏi lại, “vẽ người thôi hả
cô, vẽ mấy người, vẽ giờ chơi được không cô?” Hay cười, tẩy xóa nhiều. Nét vẽ nhanh
nhẹn, tự tin, cẩn thận.
Bố cục bức tranh khá cân đối, hơi dồn về phía trên tờ giấy, trẻ bộc lộ là người sống lý trí,
đánh giá cao bản thân, tự tin và kiểm soát bản thân tốt.
Bàn chân không rõ, gợi ý trẻ thiếu sự nâng đỡ, có điều gì đó không an tâm, bất lực.
Những hình người với gương mặt vui vẻ, hài hòa, phần nào bộc lộ cảm xúc tươi vui và
thích nghi với môi trường sống hiện tại. Trẻ giải thích, hai bạn đang đang chơi ngoài sân.
Họ là bạn, quen biết nhau. Họ chơi vui vẻ, nói chuyện với nhau. đang chơi ở khoảng sân
71
rộng vào ngày nghỉ.Trẻ đang tái hiện một phần cuộc sống hiện tại với sự vui vẻ, nhanh
nhẹn, nét vẽ tự tin.
Buổi thứ 3 14/4/2013 vẽ gia đình
Trẻ đến đúng giờ, cười khi cô đề nghị vẽ gia đình. Trẻ tự nói “không biết vẽ gì luôn”,
nhưng sau đó nhanh nhẹn bắt tay vẽ.
Trẻ đã vẽ bức tranh về gia đình mình là những thành viên trong nhà tại làng SOS trong
một dịp đi chơi ở công viên với sự háo hức, vui tươi, nét vẽ nhanh nhẹn, tự tin và cảm xúc
đầy hạnh phúc, gương mặt của mọi người trong tranh cũng rất sinh động, hài hòa, tươi vui.
Trẻ đã vẽ theo thứ tự: đầu tiên vẽ em gái (đứng thứ 2 từ trái sang), sau đó là em trai (áo
đỏ) – chính em (áo hồng) – mẹ (áo xanh) – em trai út (áo cam). Mọi người đang ở ngoài
trời, chuẩn bị chụp hình, rất vui. Trẻ vẽ các em trước, rồi mới đến mình, mẹ và em trai, cho
thấy tình cảm của trẻ gần gũi với các em hơn với mẹ.
72
Buổi thứ 4 21/4/2013 vẽ tự do
Khi được đề nghị vẽ những gì em đang nghĩ (vẽ tự do), trẻ tỏ ra khó khăn, ngần ngại và
luôn nói không biết vẽ gì. Một lúc sau, đặt bút vẽ nhanh nhẹn, phong thái tự tin.
Trẻ đã tái hiện một cảnh chơi giữa hai chị em ngay tại làng.Trẻ giải thích, hai chị em
chơi đánh cầu, ngoài sân vào buổi sáng, chơi chút xíu rồi vào. Hai chị em thân nhau, hay
chơi với nhau (đánh cầu, đá cầu...) họ nói chuyện với nhau nhưng không biết nói chuyện gì.
Đó là những mối quan hệ thân thiết, tin tưởng mà trẻ có được ngay tại làng SOS, cảm thấy
yên tâm, an toàn và vui vì điều đó.
K N thể hiện sự chín chắn, trưởng thành và rất có trách nhiệm qua các lần làm việc. Trẻ
luôn cố gắng hoàn thành bức vẽ một cách tập trung, nhanh nhẹn nhất có thể, luôn chăm chú,
tỉ mỉ cho đến khi hoàn thành. Trò chuyện vui vẻ, thoải mái nhưng nhiều lúc em có thái độ
che dấu, khó khăn khi phải bộc bạch những điều thầm kín trong em. Luôn cười hiền hòa,
tình cảm có vẻ ổn định, chấp nhận thực tại và thể hiện sự cố gắng, phấn đấu vươn lên.
Những bức tranh em vẽ khá sinh động về cuộc sống ở Làng SOS, ở đó có mẹ, có anh chị và
các em. Tất cả được em thể hiện đều toát lên sự gắn kết giữa mọi người với nhau qua những
hoạt động chơi, những dịp kỷ niệm. Dường như em đã bộc lộ được tình cảm thật sự của em
gắn bó với nơi đây, sự yêu thương, gần gũi nhau giữ những người đồng cảnh ngộ (cùng
chơi, nói chuyện, chia sẻ, chụp ảnh lưu niệm với mẹ và các anh chị em...)
Trường hợp 6: P V N T Giới tính: Nữ Sinh ngày: 27/5/2002
Ngày vào làng: 13/06/2005
73
Hoàn cảnh: cha mẹ làm ăn bất chính (chứa chấp gái mại dâm), mẹ đi tù (án 7 năm, thi
hành án từ năm 2001), cha bỏ đi. Công an bắt mẹ khi có bầu T, được hoãn thi hành án 3
năm. Mẹ đứng tên đưa T vào làng để tiếp tục thi hành án.
Sau khi vào làng được vài tháng có chị và anh trai vào thăm, sau đó 1 năm có cha vào
thăm mua sữa, quà bánh. Sau này khi mẹ ra tù có vào thăm T nhưng hoàn cảnh khó khăn
(không công ăn việc làm, không nhà cửa...), không thể đón T ra để nuôi dưỡng.
Tính cách: khá nhạy cảm, nhõng nhẽo, khóc dai (âm thầm), khép kín, dễ khóc, cảm giác
như có điều gì chất chứa, chịu đựng, khúc mắc. Thâm trầm, ít bộc lộ, không sôi nổi. Nhiều
khi có điều gì hỏi em chỉ khóc. Quan hệ với mọi người xung quanh ổn, không thân thiện hẳn
với một ai.
Việc học tập ở trường nhanh nhẹn, nắm bắt nhanh, thông minh. Gần đây hơi lười, thầy cô
than phiền về việc nói chuyện trong lớp.
Buổi đầu 7/4/2013 vẽ nhà
Khi vào thấy thái độ rất khó chịu, nhăn nhó. Khi cô hỏi ai đã thông báo với con lên đây,
để làm gì? Trẻ trả lời “mẹ chỉ nói 3h lên văn phòng”. Khi cô giải thích, trò chuyện về cuộc
gặp hôm nay, tỏ ra dễ chịu, thoải mái hơn. Khi cô đề nghị sẽ vẽ nhà trong buổi đầu tiên. Trẻ
trả lời “con vẽ không đẹp lắm”. Sau đó tỏ ra nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, trầm tính, nét vẽ nhanh
và cẩn thận. Trẻ nói đây là nhà của người ta, cửa đóng và khóa, họ đi chơi rồi, đi khoảng
một hai tiếng rồi về. Họ trồng cây và chăm sóc cây (tưới nước, bón phân). Cảm thấy hài
lòng về bức tranh của mình nhưng không hài lòng lắm về những chổ lem, không đều màu.
Bố cục chung của bức tranh cân đối, thể hiện xu hướng tự tin, thích nghi tốt với môi
trường sống.
74
Nhà khóa cửa, chỉ có một cửa sổ, tạo cảm giác khép kín, che dấu, khó bộc lộ.
Ngôi nhà nằm trên nền đất cao, thể hiện xu hướng vắng vẻ, đơn độc.Phần nền khá vững
chãi, trẻ có khuynh hướng đặt nặng tâm trí vào quá khứ, những người thân không ở gần trẻ.
Buổi thứ 2 14/4/2013 vẽ người
Khi đến đứng nép ở cửa nhìn vào, khi cô gọi vào tỏ ra nhanh nhẹn, vui vẻ. Khi được đề
nghị vẽ người, hơi nhăn mặt “em vẽ xấu lắm”. Ngồi suy nghĩ khá lâu rồi hỏi “vẽ người với
cái gì cô”. Khi cô giải thích “vẽ ai cũng được, trong hoàn cảnh nào cũng được, cái gì cũng
được, bất kỳ điều gì mà em nghĩ đến”. Trẻ tỏ ra thoải mái hơn. Lúc đầu tẩy xóa nhiều. Trẻ
mô tả, một bé gái đang qua nhà bạn chơi,đã xin phép mẹ, đó là một người bạn thân, rất hay
chơi. Chơi rất vui, nói rất nhiều chuyện. Cũng có lúc giận nhau, những lúc như vậy bạn kia
thường xin lỗi cô bé này (cô bé trong tranh) và hòa. Lúc đi mẹ dặn đi cẩn thận. Trẻ nói
muốn vẽ xe tải mà không biết vẽ. Cảm thấy không hài lòng về bức tranh của mình, thấy xấu
hoắc nhất là ngôi nhà. Hôm nay trẻ nói rất nhiều về cô giáo chủ nhiệm rất gắt gao, ai cũng
sợ, chuyện mẹ không cho đi chơi, bắt học, hỏi chuyện phòng trọ,tiền thuê phòng, kể về
chuyện mua bánh tráng đắt đỏ...
Bố cục bức tranh khá cân đối, màu sắc hài hòa, sinh động thể hiện sự thích nghi của trẻ
với môi trường xung quanh.
75
Hình ảnh bé gái trong tranh khá tươi tắn, nữ tính nhưng phần vai ngang, trẻ có xu hướng
bất lực và mong muốn được mạnh mẽ, có sức mạnh hơn.
Bàn tay, và bàn chân không rõ, cẳng chân quá nhỏ, trẻ có cảm giác thiếu an toàn, bất lực,
khó khăn trong việc xử lý với môi trường xung quanh. Thể hiện ước muốn được an toàn,
yên tâm và có chỗ dựa.
Bầu trời trong sáng, mây xanh, mặt trời là hình ảnh của hơi ấm, sự yêu thương, chăm
sóc, nhưng bị mây che một phần, gợi ý về cảm giác thiếu thốn sự yêu thương trong lòng trẻ.
Những câu chuyện kể, những lời than phiền cho thấy sự tự nhiên thoải mái và sự phản
ánh chân thật suy nghĩ về cuộc sống quanh em.
Buổi thứ 3 21/4/2013 vẽ gia đình
Hôm nay trẻ ngủ quên, đến trễ và giải thích với cô “hồi trưa nhà con ăn cơm trễ và đi
ngủ trễ”. Tỏ ra hợp tác, vui vẻ. Khi cô đề nghị vẽ gia đình, suy nghĩ khá lâu. Đặt bút vẽ
đường chân đứng phía dưới rồi hỏi “vẽ gia đình đang làm việc hay đang đi chơi hả cô?”.
“Em có thể vẽ điều gì em muốn thể hiện”. Trẻ chăm chú vẽ, tẩy xóa rất nhiều, vẽ đi, vẽ lại,
lật qua mặt sau của tờ giấy vẽ lại. Trẻ giải thích bức tranh có hai chị, một chị đang tưới cây,
một chị đang quét sân, họ làm việc gần nhau có nói chuyện với nhau nhưng em không biết
là chuyện gì lúc đó em đang quét nhà. “Nhà em có nhiều chị lắm nhưng công việc của mấy
chị kia em không biết vẽ (nhổ cỏ, dội sàn nước). Đây là công việc hàng ngày mẹ giao. Có
hai đứa nhỏ (lớp 1 và mẫu giáo) chỉ ngủ dậy, rửa mặt, uống sữa rồi tắm, chơi, rồi lăn ra ngủ
công việc của tụi nó có nhiêu đó”. Khi nói về ngôi nhà, trẻ nói đang đóng cửa, cả cửa lớn và
cửa sổ. Không hài lòng về bức tranh của mình, thấy nó xấu.
76
Đối với trẻ gia đình là điều gì đó xa vời, mờ nhạt, khó thể hiện và đem lại những cảm
xúc không vui. Thái độ lưỡng lự khi vẽ, khi nói chuyện về cách thành viên và bà mẹ SOS.
Hình ảnh gia đình là cảnh lao động của các chị ở Làng SOS, không thấy vai trò của
người lớn, cũng không thể hiện bản thân trẻ, cho thấy trẻ không có cảm giác thuộc về gia
đình hoặc có cảm giác mặc cảm, không được gia đình công nhận, không gắn bó với người
mẹ ở đây, cũng có thể trẻ không thích mẹ, người mẹ không có ý nghĩa gì đối với trẻ.
Cách nói “công việc của tụi nó có nhiêu đó” như có chút gì đó oán giận, ganh tỵ và
không hài lòng trong phân chia công việc, gợi cảm giác mọi người làm việc trong trạng thái
ép buộc.
Hình ảnh gia đình trở nên trầm lặng, cô quạnh, thiếu thốn sự yêu thương, gần gũi, trẻ bộc
lộ tình cảm lạnh lùng, xa lánh với gia đình.
Buổi thứ 4 28/4/2013 vẽ tự do
Hôm nay trẻ có vẻ hơi buồn và uể oải nhưng cố gắng hoàn thành bức vẽ nhanh chóng.
Trẻ rất có trách nhiệm với hoạt động vẽ tranh.
Bố cục hài hòa, màu sắc tươi sáng, nhưng một ngôi nhà và một cái cây nằm giữa trang
giấy cùng với lời kể nhà này có ba mẹ và một cô bé gái. Họ vừa mới đi chơi rồi, vài ba ngày
nữa mới về. Cái cây họ trồng từ lâu, đã lớn. Nhà được đóng khóa cẩn thận. Khi về nhà cửa
rất bụi bặm, khi về họ sẽ phải dọn dẹp nhiều. Tường nhà màu hồng sơn theo ý cô gái. Được
đi chơi cô bé rất vui. Đối lập với sự vắng vẻ, cô đơn trong hiện tại của trẻ thể hiện qua ngôi
nhà đóng kín cửa là mong muốn, mơ ước, khát khao được sống bên gia đình có mẹ cha,
77
được chăm sóc, vui chơi... Cảm thấy hài lòng về bức tranh. Hôm nay trẻ có vẻ buồn, không
muốn nói nhiều, cố gắng hoàn thành sớm.
Lần gặp này trúng dịp nghĩ lễ 30/4, ở Làng rất vắng vẻ, một số em được thân nhân đón
về nhà chơi. N T có gì đó đang rất buồn, mong ngóng được đoàn tụ gia đình. Có lẽ không
phải ngẫu nhiên mà em vẽ bức tranh về hình ảnh một gia đình đóng cửa đi chơi xa vài ba
ngày với cô con gái nhỏ rất dễ mến, đáng yêu.
Qua những lần gặp mặt N T thể hiện cảm xúc rất phong phú. Từ buổi đầu còn e dè, ngại
ngần và đầy sự dò xét. Luôn trả lời dạ thưa rất lễ phép nhưng dường như vỏ bọc em tự tạo ra
quá lớn, hầu như không thể hiện gì nhiều về con người mình. Đến buổi thứ hai thì lại nói
qua nhiều, lo ra quá nhiều, hỏi chuyện ngoài lề với cô quá nhiều (chuyện thi cử, chuyện mua
đồ ăn hàng, chuyện cô giáo chủ nhiệm...) mà không hề tập trung vào bức vẽ. Bằng cách đó
trẻ muốn hướng sự chú ý của người nghiên cứu đến những vấn đề khác chứ không phải là
con người trẻ, tạo cảm giác về sự phòng vệ nơi trẻ, luôn luôn che dấu, cất kỹ những cảm xúc
của bản thân mình. Buổi thứ 3 và 4 trẻ thật sự buồn, ít nói như có điều gì đó chất chứa rất
khó bộc lộ. Đây là thời điểm trẻ sẵn sàng thể hiện rằng mình đang buồn. Nỗi buồn ấy có thể
đã theo trẻ từ lâu lắm rồi, khó lòng chia sẻ, nó quá sức với một đứa trẻ và giờ đây em vẫn
đang loay hoay với những khó khăn chất đầy lòng mình.
Trường hợp 7: Đ T T Giới tính: Nam Sinh ngày: 23/11/2006
Ngày vào làng: 22/7/2010
Hoàn cảnh: cha bỏ đi khi mẹ mang thai. Sau đó mẹ (1987) mất do bệnh vào tháng
6/2009. Ông bà ngoại nuôi, bà ngoại rất thương, thường xuyên gọi điện thăm hỏi, thường
xuyên nhắc nhở về cách chăm sóc với mẹ ở SOS, hè tết thường đưa cháu về chơi (quê ở
Đức Linh – Bình Thuận). Khi nhắc đến bà ngoại em thường khóc. Hay ngồi ở cửa sổ nhìn
xa xăm, rất buồn. Có vẻ như có uẩn khúc, thiếu thốn tình cảm, sự chăm sóc. Khi mới vào
làng cũng ít được chăm sóc, ăn cùng với roi, rất áp lực. Thích được gần gũi, xoa, ôm ấp. Khi
được dỗ ngọt, vỗ về rất nghe lời. Nhiều lúc làm trái ý, chống đối người lớn. Không chú ý, lơ
là trong học tập. Cô giáo hay than phiền, quậy, chọc phá bạn, là một trong những học sinh
cá biệt của lớp. Mấy em trong nhà có kể lại có lần em để hình cô gái (ăn mặc không kín
đáo) để dưới gối, có khi viết những câu bậy bạ về tình dục lên giấy bỏ. Theo lời mẹ SOS em
hay nói chuyện chém giết, lớn lên sẽ đánh giết người này, người kia. Hay chửi bậy, lấy đồ
của bạn, đánh nhau, kể tội ở trường của các bạn trong nhà. Ông bà ngoại, dì tới chơi, rất
mừng, khi về thường khóc. Sống tình cảm, thường nhớ bà và khóc. Bà gọi điện lên thăm
78
thường bỏ ăn và khóc. Nên mẹ cũng không muốn cho gặp nữa. Có khi nằm khóc rấm rứt
một mình cả tuần (vào buổi tối) vì nhớ ngoại.
Buổi đầu 07/4/2013 vẽ nhà
Đến sớm, tò mò, liên tục đòi vẽ, đòi xem trong khi cô đang làm việc với một trẻ khác.
Khi cô đề nghị vẽ nhà, cười cười rồi với tay vẽ, đưa bút nguệch ngoạc, như giỡn, không
nghiêm túc, không tập trung. T nói đây là nhà ma, có ma ở trong đó, cửa mở. Tô màu
nghịch ngợm. Trẻ hỏi “quê cô ở đâu, quê con ở Bình Thuận”
Vừa làm trẻ vừa nói “Mẹ Nga đẻ ra con, giờ mẹ Nga chết rồi. Mới đẻ ra con là chết. Bà
ngoại kể. Có nhiều người chết rồi ông con, bà con, má hai...” Chỉ cho cô nhà ông Năm, là
người bán bánh kẹo gần trường mẫu giáo. Trẻ nói “giờ thích học mẫu giáo quá vì vừa có đồ
chơi, vừa được xem phim”. Tiếp tục hỏi “cô có biết cô Sương không? Cô đó dạy mẫu giáo
lớn, cô dạy dở lắm”. Vừa nói chuyện, vừa tô màu. Liên tục đề nghị cô được chơi cùng với
anh Đ. (là một trẻ khác trong nhà, 8 tuổi đang được một nhóm chuyên môn hỗ trợ tâm lý ở
phòng chơi). Lúc đầu làm rất hào hứng, sau đó tỏ ra chán nản, không muốn làm, than mỏi
tay, ít tập trung, không hoàn thành. Trẻ làm khá lâu, cô để hôm sau hoàn thành tiếp. Sau đó
cô hỏi con có muốn nói gì về ngôi nhà này không, trẻ cười và nói nhà của người, họ đang ở
trong nhà nấu ăn, nấu món đùi gà và canh.
Ấn tượng chung về bức tranh, gợi cảm giác ma quái, đầy sợ hãi, ngôi nhà kỳ lạ siêu vẹo,
nằm lọt thỏm giữa những mô đất cao, trẻ bộc lộ xu hướng lo sợ và có ý nghĩ về sự mất mát.
79
Những đám mây cũng cứng đờ, góc cạnh, trẻ có xu hướng phòng vệ với những người
xung quanh, đầy cảm giác bất an.
Khi giải thích đây là ngôi nhà ma, trong lời kể trẻ cũng bộc lộ thế giới huyễn hoặc, đầy ma
quái, như để khỏa lấp thế giới thực mà trẻ đang sống.
Ông mặt trời, biểu tượng của sự sưởi ấm, tình yêu thương, với gương mặt điềm tĩnh, như
đang quan sát, dõi theo trẻ. Phải chăng trong tâm trí trẻ vẫn hướng tình cảm đến người mẹ
đã mất.
Buổi thứ 2 14/4/2013 vẽ người
Đi vào phòng vui vẻ, cười và chào cô. Không muốn hoàn thành bức tranh hôm trước khi
cô hỏi ý trẻ, muốn vẽ một bức mới. Khi cô đề nghị vẽ người. Cầm bút vẽ ngay. Tẩy xóa rất
nhiều. Bắt đầu vẽ một bé trai. Rồi trẻ nói “xong”. Sau đó vẽ một cái cây bên cạnh, có phần
rễ (sau đó, khi tô màu, trẻ tô lấp lên phần rễ), vẽ thêm một hình người vừa vẽ trẻ vừa giải
thích đó là con gái, tóc ngắn . “Hai bạn này đang đứng ngoài trời, gần nhà, đang nói chuyện,
bạn gái đang kể chuyện ma”. Khi làm ít tập trung, nghịch màu. Tô nền màu hồng một nửa,
sau đó tô màu tím lên trên (khi tô màu tím lên trên, nhìn cô thăm dò), vừa làm vừa nói đây
là ma. Hay hỏi quê cô ở đâu? Nhắc nhiều đến chuyện ma quỷ, “cô thấy ma bao giờ chưa? Tí
nữa làm xong cô cho con 5 ngàn nha. Rẻ mà, con mua bánh. Cô cho con 7 ngàn thì mua
được lon nước ngọt. Một trăm chai nước ngọt con cũng uống hết”. Trong khi làm rất ít tập
trung, hay nghịch dụng cụ trong phòng, hay hỏi chuyện. Kêu chán, thích về quê để được
ngoại cho tiền mua bánh. Hỏi “ai đẻ ra cô, mẹ con đẻ ra con. Mẹ con chết rồi, chết lúc con
ba tuổi. Trẻ chỉ vào nước rửa cọ và nói giống rau câu”. Khi tô màu bị lem vào gương mặt bé
80
gái, trẻ tô lấp lên cả gương mặt. Không muốn tiếp tục, cứ ngồi nghịch, kéo dài thời gian và
đòi về. Cô phải hẹn hôm sau.
Hôm nay trẻ tỏ ra nhanh nhẹn, vui vẻ và rất hợp tác với cô. Trẻ bắt đầu vẽ người, nét vẽ
tự tin, nhanh nhẹn.
Một lần nữa, ấn tượng chung về bức tranh là sự kỳ quái trong cách tô màu, hình người,
có một bé gái bị che mặt. Trẻ có xu hướng lo lắng, sợ hãi và hỗn loạn trong cảm xúc.
Hình người có gương mặt hơi buồn và được vẽ lại lần thứ 2, trẻ không tự tin về bản thân,
cảm xúc buồn bã, ngay trong lời kể trẻ cũng nói buồn và nhớ ngoại.
Người có thân hình to ngang, phần vai vuông, to, thể hiện xu hướng muốn mạnh mẽ hơn
nữa và phòng vệ cá nhân.
Người bạn gái đứng cạnh tạo cảm giác hai người rất thân thiết, nhưng lại bị che mặt, gợi
ý về sự mất mát. Trẻ có xu hướng đau buồn vì mất mát những gì gần gũi, thân thiết, yêu
thương bên cạnh mình.
Cách trẻ nhắc đến chuyện xin tiền bạc, mua quà bánh, thích học mẫu giáo, gợi xu hướng
muốn được nhỏ bé, được chiều chuộng, chăm sóc, khao khát tình thương yêu của người
thân.
Qua lời kể, trẻ nhắc nhiều đến chuyện ma quỷ, kỳ quái. Từ bức tranh, rồi đến lời kể có
thể nhận thấy sự đau buồn của trẻ về nỗi mất mát lớn. Trẻ cứ nói mà không cần đáp trả,
không cần cô trả lời, rồi nhắc đến ma quỷ như để đắm chìm vào thế giới huyễn hoặc, cố
gắng xa rời nỗi đau hiện tại dường như quá sức với em.
81
Buổi thứ 3 21/4/2013 vẽ gia đình
Khi vào, vẻ mặt rất buồn, không nói gì, chỉ nhìn cô. Khi cô hỏi chuyện không nói gì. Khi
cô đề nghị hôm nay vẽ gia đình, trẻ nói khó lắm con không biết vẽ, rồi khóc một lúc, trẻ nói
nhớ ngoại, ngoại cưng con lắm.Ngồi thừ ra một lúc rồi bắt tay vẽ, rất buồn. Chăm chú vẽ,
trầm lặng. Khi vẽ xong, bắt đầu tô màu, vui vẻ hơn.
Bố cục bức tranh khá cân đối, các nhân vật trong tranh rời rạc, xa cách giữa cha mẹ và
con. Trẻ giải thích “Mẹ Nga và ba đứng gần cây táo, cây táo này mẹ Nga trồng, đây là táo
Mỹ màu đỏ. Ba mẹ đang nói chuyện, con đi chơi với bạn. Ba mẹ con chết rồi. À không, ba
còn sống nhưng ba đi tù ở Bến Tre còn 6 năm nữa.” Gia đình đối với trẻ gợi nhiều buồn
đau. Ngay cả trong tranh vẽ, trẻ cũng rất xa cha mẹ, một sự thiếu thốn tình cảm và những
nỗi buồn, nỗi khổ của trẻ được thể hiện trong từng đường nét, từng nhân vật của bức vẽ.
Cha mẹ ở rất xa, trẻ hay nhắc đến cái chết của mẹ, hình ảnh người cha mờ nhạt, không nhớ
tên, quên thông tin.
Gương mặt đứa nhỏ u buồn và hướng về cha mẹ mình, dù điều đó dường như xa vời, thể
hiện khao khát về tình yêu thương, gần gũi của em.
Bầu trời với đám mây kỳ lạ, và một đám mây khác bị tẩy xóa, ông mặt trời thể hiện sự
ấm áp và tình yêu thương không được tô, cả bức tranh dùng rất ít màu sắc, gợi nên sự lạnh
lẽo, cô đơn, trống trải trong lòng trẻ.
82
Vừa làm vừa kể với cô “bây giờ bà ngoại con đang đi đám cưới. Nãy ngoại vào thăm
con, ngoại nói, giờ ngoại đi rồi. Con muốn về với ngoại. Ước mơ của con là có nhiều tiền để
mua nhà lầu, mua máy lạnh ở với ngoại”. Đố cô “con gì biết ngủ mà lại biết bơi”, rồi trẻ trả
lời “là con cá”. “Hôm nay con không tô nền đâu, lâu lắm”. Nỗi đau mất mẹ của một đứa trẻ
lại tăng lên gấp bội khi người thân thương còn lại là bà ngoại trẻ cũng bị chia lìa. Ngày gặp
trẻ gần dịp lễ Giỗ tổ Hùng Vương, được ngoại đến thăm, vừa về trước buổi làm việc với trẻ,
làm T không tránh khỏi xúc động và tình cảm của em hướng về ngoại – người thân thiết,
gắn bó với em từ sơ sinh, rất nhiều.
Đ T T xuất hiện là một đứa trẻ với gương mặt sáng sủa, thông minh, lanh lợi và dễ mến.
Qua những biểu hiện trong quá trình làm việc, cảm nhận ở em có điều gì đó rất mong manh
như sắp vỡ, ánh mắt vời vợi nhìn xa xăm như nghĩ ngợi điều gì, một điều này lặp đi lặp lại ở
một bé trai 7 tuổi. Cách em nói đến ma quỷ, chém giết hoàn toàn đối lập với gương mặt
trong sáng, hồn nhiên và hiền hiền của em. Có quá nhiều điều nặng trĩu, chất chứa nơi em,
khiến em cứ muốn trốn thoát khỏi thực tại này, thực tại đau buồn và mất mát, đi đến thế giới
khác dù đó là ma quỷ, nhưng nơi đó phảng phất hình ảnh của mẹ - một người đầy yêu
thương trong ký ức trẻ, giờ chỉ còn lại qua lời kể của bà. Những bức tranh dường như tái
hiện rất sinh động cảm xúc nơi em, vừa hỗn loạn, buồn đau, lạnh lẽo, cô quạnh, chia lìa.
Tình trạng này kéo dài, buộc Làng SOS phải có những can thiệp kịp thời, đây cũng là lý do
người nghiên cứu không thể gặp trẻ buổi thứ 4.
Trường hợp 8: T T TA Giới tính: Nữ
Sinh ngày: 27/10/2005
Ngày vào làng: 04/06/2010
Hoàn cảnh: Mẹ còn rất trẻ (1987) người Hà Tĩnh, cha thường xuyên say xỉn, đánh đập vợ
con. Mẹ đưa hai con vào Nam, gởi hai chị em vào làng và làm ở xí nghiệp may. Thỉnh
thoảng đến thăm con và dẫn đi chơi vài ngày. Tính cách hơi khờ khạo, vui vẻ, thích nghi,
hòa nhập với gia đình ở SOS khá nhanh, dễ gần. Thân tình, hòa đồng, gần gũi với anh chị
em trong nhà, tham gia công việc gia đình tốt, đôi lúc ham chơi. Thỉnh thoảng T.A nhắc đến
bà nội. Đi học về, hay kể chuyện trường lớp với mẹ. Lúc mới vào làng, học lớp 1,học chậm,
chữ nào học không nhớ, xé sách bỏ đi. Mỗi lần mẹ đến thăm, rất bịn rịn, quyến luyến, khóc
và nhớ mẹ.
83
Buổi đầu: 7/4/2013 Vẽ nhà
Tỏ ra rất hào hứng, thích thú, chăm chú nghe cô giới thiệu rồi chăm chú vẽ. Bắt đầu vẽ từ
đầu trang giấy ông mặt trời và đám mây rồi đến ngôi nhà, cây, người. Ít tập trung vào ngôi
nhà dù cô đề nghị vẽ nhà.
Ngôi nhà trở nên mờ nhạt trong khung cảnh chung, trẻ tái hiện lại một cảnh chơi ở gần
nhà đầy sinh động, màu sắc phong phú, tươi sáng thể hiện sự thích nghi, cảm xúc tương đối
vui vẻ, chấp nhận cuộc sống.
Ngôi nhà lệch hẳn về bên trái, bộc lộ xu hướng về những cảm xúc, kỷ niệm, hình ảnh đời
sống trong quá khứ. Căn nhà có cửa quá nhỏ so với không gian chung, chỉ có một cửa sổ ở
trên cao sát mái, tạo cảm giác che kín, trẻ có xu hướng che dấu, muốn đóng kín những gì
thuộc về căn nhà này.
Những cái cây, có phần thân to lớn, vững chãi, bộc lộ xu hướng nền tảng tình cảm của trẻ
khá vững chắc.
Trẻ giải thích “nhà này dưới quê. Không có mẹ ở nhà, lấy dây ra chơi. Lúc đó con học
mẫu giáo, ai ngoan được cắm cờ. Nhà đang khóa cửa vì mẹ đi làm rồi. Sáng sáng có người ở
nhà tưới cây, ai tưới cũng được (ba, mẹ hoặc con). Mẹ bỏ ba rồi, cô biết sao không? vì ba
uống rượu xỉn toàn đánh mẹ”. Cuối cùng trẻ nói, nhà khóa cửa, cửa sổ cũng khóa luôn. Mẹ
trồng hoa, anh tưới cây, nếu mấy anh quên tưới cây mẹ la, mẹ tức lắm. Trẻ tái hiện lại
khung cảnh, ngôi nhà mà mình từng sống với mẹ, cha với cảm xúc đầy vui vẻ, yêu thương
nhưng cũng không ít muộn phiền, nhưng ngay sau đó xuất hiện hình ảnh của mấy anh là
84
khung cảnh sống tại làng SOS. Dường như trong tâm hồn trẻ đang có những luồng cảm xúc
đan xen ở cả quá khứ và hiện tại.
Cảm xúc không buồn bã khi nhắc đến mâu thuẫn của cha mẹ như một vết thương lòng
nhưng bên cạnh đó trẻ kể lại cuộc sống mà em từng trải qua rất yên bình, giản dị, trong sáng
với niềm vui và cả sự tiếc nuối.
Buổi thứ 2: 14/4/2013 vẽ người
Đến rất đúng giờ với thái độ hào hứng, thích thú.Khi cô đề nghị vẽ người, trẻ hỏi “vẽ
người trong bóng mát được không cô”, “con biết vẽ nồi bánh chưng, dễ lắm, lát cô cho con
vẽ”. Trẻ đặt bút vẽ hình người rồi xóa tất cả, tự nói “vẽ nhà, vẽ người rồi vẽ cây”. Vẽ xong
nhà, cửa lớn và cửa sổ, bé chỉ vào cửa và nói với cô “cửa mở đó cô, con không xóa đâu”.
Rất say mê vẽ các phần khác. Vừa tô màu vừa kể chuyện mẹ (SOS) đi thăm bà ngoại với
một chị lớp 9, hồi trưa coi phim “gia đình là số 1” với mấy chị vui lắm, tức cười...
Bố cục bức tranh cân đối, màu sắc tươi sáng, sinh động, trẻ có xu hướng tự tin, thích
nghi tốt, cảm xúc ổn định, vui vẻ, chấp nhận.
Hình người đầy đủ các bộ phận, nhưng khi tô màu bị che lấp bàn tay, trẻ có xu hướng đôi
lúc bất an, gặp khó khăn trong xử lý các mối quan hệ.
Trong lúc vẽ, trẻ vừa làm vừa kể chuyện mẹ nuôi (ý chỉ mẹ ở SOS), chuyện các chị trong
nhà, chuyện mẹ con làm ở Vũng Tàu... Trẻ là người nhận thức rõ về hoàn cảnh của mình có
vẻ chấp nhận và hòa đồng với môi trường mới, vẫn đầy nhớ thương và dành nhiều tình cảm
cho mẹ ruột (điều này càng được củng cố hơn khi trẻ hiểu hoàn cảnh của mình,thỉnh thoảng
được mẹ đến thăm). Vừa chấp nhận một cách vui vẻ với cuộc sống hiện tại, vừa thương yêu
và đầy thông cảm cho người mẹ dù em chỉ mới 8 tuổi.
85
Qua tranh, trẻ giải thích “hai chị em ở trường, ra chơi gặp nhau, hái hoa làm con bướm
ép vào tập. Có lúc làm bài có lúc không. Chị thương em, nhường em đồ chơi, nhưng có lúc
em cứ giành của chị, chị tức quá la lên làm mẹ chửi um xùm”. Có thể nhận thấy,trẻ gắn bó
với em mình, có tình cảm với đứa em ruột thịt, rất chân thật, mộc mạc, giản dị khi kể
chuyện. Tình cảm gắn bó ấy được trẻ nuôi dưỡng và có ý thức giữ gìn trong từng ý nghĩ,
từng lời kể và qua chính bức tranh của em.
Buổi thứ 3: 21/4/2013 vẽ gia đình
Khi được đề nghị vẽ gia đình, trẻ tỏ ra hơi ngần ngại, suy nghĩ một lúc nhưng rồi nhanh
chóng, hào hứng bắt tay vào vẽ.
Bức tranh không thể hiện đầy đủ các thành viên gia đình (theo ý nghĩ của trẻ về gia đình)
mà là khung cảnh sinh hoạt. Trẻ giải thích “ba mẹ đang ở trong nhà, ba giặt đồ, mẹ nấu
cơm. Gần đến tết rồi, ba mẹ nói hai anh em nấu bánh chưng, em ngồi quạt cho lửa cháy, anh
cầm bánh để bỏ thêm vào nồi. Lâu lâu mẹ nhắc hai anh em lo làm, đừng nói chuyện nữa”.
Không có hình ảnh cha mẹ trong tranh, có thể trẻ đang cảm thấy xa vời với họ, nhưng lại
khát khao một gia đình đầm ấm có mẹ cha, mọi người sum vầy, cùng nhau làm việc, cùng
nhau chia sẻ để đón một cái tết đầm ấm, gần gũi và đầy yêu thương. Đây cũng là những hồi
ức mà trẻ đã từng được trải qua “ở nhà con cũng nấu bánh chưng vầy nè, nấu lâu lắm, tới
khuya rồi dẹp”.
Bức tranh không thể hiện nhiều các mối quan hệ gia đình, chỉ là sự gần gũi, chung sức,
cùng làm việc của hai anh em. Trẻ có xu hướng gắn bó và rất có trách nhiệm, có tình cảm
với những người thân và điều này luôn được chính trẻ lưu giữ.
86
Rồi như nhớ lại gia đình thực tại, trẻ kể: “cô ơi, mẹ lên thăm từ Giỗ tổ Hùng Vương,
sáng nay mẹ về, mẹ đi thăm dì bị bệnh, mẹ đón xe 42 đi nhanh hơn, xe 18 đi lâu lắm. Mẹ
cho con 10 ngàn, cho hai chị em 2 trăm ngàn đưa cho mẹ nuôi để thiếu gì thì mua, cho bà
ngoại đang bệnh 100 ngàn. Mẹ con làm lương 3 triệu, không đủ nuôi con. Trẻ hỏi cô biết
sao mà mẹ con bỏ ba con không? Có lúc mẹ đang nằm ngủ, ba nắm tóc mẹ lôi, mẹ đau quá
không chịu nổi, mẹ cầm con dao phóng vào đầu ba, lúc đó cả xóm ai cũng nhìn nhà con, con
khóc quá chừng, mẹ ẵm em chạy ra ngoài. Con mong ba bỏ rượu.”
Từ việc vẽ tranh, trẻ thể hiện khao khát có một gia đình sum vầy, hạnh phúc. Đồng thời
những đau đớn, buồn tủi của một đứa trẻ 8 tuổi phải chứng kiến nhiều cảnh đau buồn và
chia lìa cũng được trẻ kể một cách rất tự nhiên.
Ký ức tuổi thơ, sự nhớ thương những người thân được trẻ nhắc đến vừa hồn nhiên, đầy
tình cảm trong khung cảnh sum vầy những ngày giáp Tết đầy ấm áp từ gam màu, khung
cảnh đến lời kể.
Buổi thứ 4 27/4/2013 vẽ tự do
Bức tranh tươi sáng, sinh động, đầy màu sắc, bố cục cân đối, tâm trạng trẻ khá thoải mái,
thích nghi tốt với môi trường.
Trẻ hào hứng vừa vẽ, vừa kể về những chú thỏ đi tìm củ cà rốt. Trẻ kể hai bạn thỏ ở gần
nhà nhau, xin mẹ đi tìm cà rốt, mẹ tưởng đi gần nên cho đi, mẹ dặn đem về chia cho mấy
em. Hai bạn thỏ đi cũng xa xa, về muộn nhưng mẹ không la, hai bạn tìm thấy ba củ cà rốt to
và một củ nhỏ. Thông qua tranh vẽ, trẻ kể về một câu chuyện giản dị, phản ánh khao khát về
cuộc sống đầm ấm, đầy tình yêu thương, sự gắn bó, chia sẻ công việc và cả thành quả với
đồng loại, với những người thân thiết quanh mình.
Chợt trẻ nói mẹ ruột con hiền lắm nên con muốn gì con sẽ xin, còn mẹ nuôi con dữ lắm,
con không dám xin, sợ mẹ la. Kể lại chuyện ba nắm tóc mẹ, mẹ ném dao vào đầu ba mà ba
cũng không né, cả làng coi nhà con...Kể chuyện coi phim “gia đình là số một” cùng các anh
87
chị. Trẻ kể tiếp câu chuyện, mỗi bạn cầm về hai củ cà rốt rồi chia cho mẹ. Ai no bụng sẽ ăn
củ nhỏ, trẻ chỉ vào con thỏ nhỏ và cười.
Trong những câu chuyện kể, những buổi làm việc, quá khứ và hiện tại luôn đan xen
trong tâm trí trẻ, có điều gì đó lẫn lộn trong cảm xúc, vừa đón nhận niềm vui, tình yêu
thương ở một nơi ở mới, vừa nhớ mẹ, vừa ám ảnh về cảnh cha mẹ xung đột.
T T T A là đứa trẻ hồn nhiên, vui vẻ, hòa đồng, thân thiện và đôi chút khờ khạo. Vừa vẽ
trẻ cứ nói cười rất tự nhiên như không chút ái ngại hay dè dặt về cuộc sống quanh mình, về
mẹ SOS, về các anh chị, về bộ phim đang xem...Em như đứa trẻ ngây thơ đón nhận tất cả
những gì cuộc sống đem đến. Trẻ chấp nhận thực tại và hiểu rất rõ hoàn cảnh của mình và
cứ thế lớn lên. Nhưng những nhớ thương, mong nhớ vẫn tồn tại trong em, tuy nhỏ tuổi
nhưng dường như trẻ hiểu và thông cảm cho tình cảnh của mẹ mình, em vẫn hướng về mẹ
với tình cảm yêu thương chất chứa không chút oán trách. Những bức vẽ thể hiện đời sống
phong phú quanh em, những ký ức êm đềm về gia đình mà em từng có được mang theo và
tái hiện một cách rõ nét. Đó là những điều đẹp đẽ, giản đơn đã qua cũng là khao khát có
được cuộc sống sum vầy bên người thân của em.
Trường hợp 9: N T H Y Giới tính: Nữ
Sinh ngày: 22/12/2006
Ngày vào làng: 14/4/2011
Hoàn cảnh: cha bỏ đi, mẹ để ông bà ngoại nuôi ở Nghệ An. Cậu và bà ngoại đứng tên
đưa vào làng. Tính cách tự giác, ý thức cao trong học tập và các công việc khác dù là em
nhỏ nhất nhà. Ngoan, lễ phép, thích nghi tốt,nhỏ nhẹ, rất thích đi học, thích đọc truyện cổ
tích. Biết nghe lời anh chị trong nhà, cảm thấy không đúng hay phản đối thường nhờ mẹ can
thiệp. Thể hiện rõ cảm xúc vui buồn, hay kể với mẹ chuyện ở trường lớp. Sống từ nhỏ với
bà ngoại, thời gian đầu, cậu và bà ngoại thường xuyên vào thăm, dẫn về chơi. Khi gặp bà và
cậu qua điện thoại thường khóc. Vài tháng gần đây có vấn đề về cảm giác tiêu tiểu và đang
dùng thuốc điều trị. Bà mẹ SOS của em H Y chính là bà mẹ đại diện ở Làng SOS.
88
Buổi đầu 31/03/2013 vẽ nhà
Nhanh nhẹn, lễ phép, tỏ ra thân mật với cô. Sau khi cô giới thiệu, chọn giấy nhỏ và dùng
màu nước vẽ trực tiếp. Tốc độ vẽ tương đối nhanh, cẩn thận và háo hức.
Trẻ giải thích nhà này của mẹ con, hai mẹ con đang đi chợ, chị ở nhà mở cửa đợi mẹ về.
Giọng kể về cuộc sống của trẻ có gì đó dung dị, bình lặng và đầy cảm xúc. Vừa vẽ, vừa nói
chuyện với cô, than phiền về sự ồn ào của các bạn khác bên ngoài, nói các bạn hư. Trẻ tỏ ra
là người nghiêm túc, chỉn chu, luôn luôn ngay ngắn, nguyên tắc, điều này phần nào làm mất
sự hồn nhiên nơi trẻ và cũng không thật sự thoải mái thể hiện những gì em cảm thấy.
Ngôi nhà nhỏ bé, lọt thỏm giữa những khoảng màu đối lập, chông chênh, tạo cảm giác
không an toàn, các cửa nhỏ bẻ, nhòe nhoẹt, trẻ có xu hướng khó bộc lộ tâm tư, tình cảm, dù
bề ngoài trẻ có vẻ nói nhiều và cởi mở.
Hai mảng màu hai bên, bé nói là hai bức tường hai bên nhà, nhưng khi cô hỏi thêm về
bức tường bé chỉ cười và nói không biết. Hai mảng màu đối lập đó, gợi ý về những điều xấu
tốt, vui buồn và những trạng thái đối lập khác trong cuộc sống, nhưng vẫn có sự ưu thế hơn
của phần màu tối, đồng thời có sự xâm lấn của hai mảng màu, những bông hoa xuất hiện
gãy đứt giữa nền tối như bộc lộ một nỗ lực, sự đấu tranh của trẻ trước những chuyện muộn
phiền.
89
Buổi thứ 2 7/4/2013 vẽ người
Có nhiều trục trặc, bất tiện về phòng ốc, vẫn kiên nhẫn đợi cô, háo hức được vẽ. Sau khi
cô đề nghị vẽ người, trẻ chăm chú vẽ, rất hăng say, tẩy xóa nhiều.
Hình người nhỏ bé, lọt thỏm giữa không gian, kích thước không cân đối với cảnh vật
xung quanh (chậu hoa quá lớn so với người, bông hoa quá nhỏ so với chậu hoa), trẻ có xu
hướng cảm thấy mình nhỏ bé, yếu ớt, so với mọi thứ xung quanh. Gợi xu hướng lạc lõng
giữa cái mênh mông bên ngoài.
Phần chân không tương xứng với thân mình, tạo cảm giác chông chênh, thiếu an toàn,
cần sự nâng đỡ.
Trẻ giải thích các nhân vật trong tranh là chị và anh của con. Chị đang nhảy dây trong
phòng, anh đang đứng xem. Hai người này hay chơi với nhau rất vui vẻ. Chơi ở trong nhà,
nhìn ra ngoài sân thấy hoa và cỏ (do mẹ trồng và chăm sóc). Qua lời kể trẻ thể hiện sự gắn
bó với nơi mình đang sống, với những người bên cạnh mình (mẹ ở SOS, các anh chị, nhà,
hoa cỏ...)
Dù đã hết giờ và trẻ phải đi học Anh văn nhưng trẻ vẫn muốn hoàn thành bức tranh rồi
mới đi. Cảm thấy thích và hài lòng về bức tranh của mình. Luôn tỏ ra là người có trách
nhiệm với công việc.
90
Buổi thứ 3 14/4/2013 vẽ gia đình
Trẻ rất vui vẻ, hào hứng. Phòng ốc không ổn định và gặp nhiều trở ngại nhưng vẫn kiên
nhẫn chờ đợi, phụ giúp cô đem dọn màu và dụng cụvới thái độ hòa nhã.
Hình ảnh về gia đình qua tranh của trẻ có gì đó như rời rạc, không gắn bó, xa cách hoặc
có sự chia rẽ dù dưới cũng một mái nhà. Điều này thể hiện sự lo lắng trong trẻ về những
mối quan hệ tại nơi em đang sống.
Trẻ giải thích đây là con và hai anh, con nắm tay hai anh, đây là chị, tụi con đang chơi
trong nhà. Trẻ rất gần gũi với hai anh, đứng ở giữa và nắm tay hai anh, gương mặt rất tươi
tắn vui vẻ ở cả ba người. Trong khi lại xa cách với một người chị (gương mặt có vẻ kém vui
hơn). Mối quan hệ giữa các anh chị em trong nhà (nơi trẻ
sống) có thể đang gặp những khó khăn, cũng có thể là sự
khao khát được sự ủng hộ của mọi người (các anh) đối
với mình.
Tranh vẽ gia đình nhưng lại không xuất hiện người
lớn (mẹ hay cha) quan trọng, phải chăng, đối với trẻ
những người lớn ấy không quan trọng, không có ý nghĩa
gì hay sự xa cách đã làm cho trẻ không còn cảm nhận
được hơi ấm, sự che chở của mẹ/cha.
Buổi thứ 4 21/4/2013 vẽ tự do
91
Khi gặp cô rất hào hứng và vui vẻ. Bắt tay vẽ ngay và rất tự tin khi cô đề nghị vẽ tự do.
Trẻ khoe với cô “con được tham dự kỳ thi nét vẽ xanh ở trường” và hỏi cô “con vẽ cái ly
được không cô?”
Trẻ giải thích đây là ly nước lọc, rót nước mời khách. Còn hai quả táo, mẹ đem một quả
mời khách, một quả để trong nhà cho tụi con ăn. Khi vẽ khung xung quanh trẻ giải thích với
cô đó là cái bàn.
Một bức tranh giản đơn, nhưng phần nào phản ánh cuộc sống của trẻ, đó là sự giao lưu
tiếp xúc và quý trọng mọi người xung quanh(tiếp khách, mời nước...), đó là tình yêu thương
của người mẹ khi trẻ cảm nhận được mẹ để phần quả táo cho mình. Cũng có thể đây là
những phép tắc mà em được dạy, là khao khát mong muốn được quan tâm, chia sẻ.
N T H Y luôn hào hứng, thích thú với hoạt động vẽ, nhiệt tình và luôn cố gắng hoàn
thành công việc. Trẻ tỏ ra hoạt bát và lúc nào cũng chỉn chu, luôn gọn gàng, sạch sẽ, từ tốn,
không hiếu động, vui đùa như những đứa trẻ khác. Có cảm giác trẻ già trước tuổi, luôn tỏ ra
đứng đắn, nghiêm túc như chính người mẹ ở Làng SOS của em (đồng thời là bà mẹ đại diện
trong nhiều hoạt động của Làng). Những bức vẽ của trẻ dường như không có gì đặc biệt,
cách kể chuyện, nội dung câu chuyện cũng mang tính chỉn chu, nghiêm túc như rời xa thế
giới tuổi thơ đối với một đứa trẻ 7 tuổi. Những bức vẽ của em bao trùm giữa những giới hạn
(ngôi nhà với hai bức tường – H1, anh chị đứng chơi trong nhà – H2, vẽ gia đình là các anh
chị em đứng trong nhà – H3, và cuối cùng ở H4 bức tranh tĩnh vật về ly nước, quả cảm đặt
trong khung mà trẻ nói đó là cái bàn). Có thể những giới hạn ấy giúp trẻ trở nên luôn ngoan
ngoãn, nghiêm túc nhưng cũng mất đi tính hồn nhiên trẻ thơ. Trẻ không còn dễ dàng nói lên
suy nghĩ, xúc cảm – tình cảm của mình, không còn dễ dàng khóc lóc khi buồn hay cười lớn
khi vui đùa.
Trường hợp 10: L T B Giới tính: Nam
Sinh ngày: 14/3/2005
Ngày vào làng: 14/12/2010
Hoàn cảnh: cha chết năm 2007, mẹ ở tù, B sống với dì được ba tháng thì chồng dì đứng
tên gởi vào làng. Qua điều tra của cán bộ xã Bà Điểm huyện Hóc Môn thì em bị chồng dì
đánh đập ngược đãi. Theo lời mẹ SOS, người dì nhận nuôi B vì muốn lấy tiền từ bà ngoại.
Dượng đánh đập rất nhiều, người dân xung quanh phản ánh lên công an. Mẹ ở tù về thỉnh
thoảng đến thăm. Tính cách rất hiền, ngoan, ít nói e ngại với người lạ, lúc đầu thấy người lạ
92
là trốn, khóc. Nhiều lần mọi người tập trung nhận quà, em đi lang thang. Có lúc quậy, có khi
nhõng nhẽo với mẹ SOS.
Buổi đầu 30/3/2013 vẽ nhà
Một giáo dục viên dẫn vào, mắt hơi đỏ, tự ngồi vào bàn, cô đề nghị đổi chổ ngồi để thuận
lợi hơn cho trẻ chỉ lắc đầu. Khi đến bé có cầm theo sáp màu và bút chì. Cô hỏi “con tên gì”
– “Bình”, “con ở nhà số mấy” – “17”. Khi cô giới thiệu về cô và hoạt động này, giới thiệu
các loại giấy, các loại màu, cho trẻ lựa chọn, không nói gì chỉ ngồi im, 2 tay bịt miệng, ngồi
im rất lâu, mắt nhìn xung quanh. Cô hỏi “bây giờ con có muốn vẽ không?”, trẻ tiếp tục
không trả lời, chỉ ngồi im, 2 tay vẫn bịt miệng. Cô hỏi “con có muốn uống nước không?” –
trẻ gật đầu. Sau khi nhận nước từ cô và uống một chút. Tiếp tục im lặng rất lâu. Tay cầm bút
chì vẽ hình gì rất nhỏ trên bàn. Cô hỏi “con vẽ gì vậy? Con có thể vẽ vào giấy”. Tiếp tục im
lặng và bịt miệng. Cô nói “bây giờ cô sẽ đợi con, khi nào con muốn vẽ cũng được” – trẻ gật
đầu nhẹ và tiếp tục ngồi im lặng. Thấy trẻ ngồi im lặng khá lâu, gần 40 phút kể từ khi vào
phòng, cô đề nghị “nếu bây giờ con không muốn vẽ, mình có thể gặp nhau vào buổi khác” –
trẻ chỉ ngồi im và không phản ứng gì. Cô thật sự lúng túng trong tình huống này. Cô nói
“bây giờ cô ra bàn ngoài kia ngồi, đợi con vẽ nhé” – bé gật đầu mạnh. Nếu cô còn nhìn trẻ
cứ ngồi im, cô cứ quay lưng lại với trẻ, trẻ thoải mái vẽ và vẽ rất nhanh, nếu cô ngỏ ý quay
lại, trẻ ngưng làm. Khoảng 10 phút sau cô quay lại, đang thoải mái vẽ. Cô ngỏ ý lại gần, bé
lắc đầu. Sau đó cô hơi nghiêng người và quan sát, trẻ rất chăm chú vẽ, có lúc lỡ đễnh như
đang suy nghĩ, nét vẽ nhanh và tự tin. Thỉnh thoảng quay lại nhìn cô như dò xét. Sau đó say
xưa vẽ, xoay hẳn người về phía cô, có lúc chống cằm nhìn vu vơ. Khi cô hỏi đã xong chưa,
93
trẻ chỉ lắc đầu. Sau khi vẽ xong, cô hỏi gì cũng không nói. Cô hẹn gặp hôm sau, vui vẻ gật
đầu.
Bố cục bức tranh cân đối, hài hòa, sinh động, rõ ràng, thể hiện sự thích nghi tốt với môi
trường sống xung quanh.
Bức tranh xuất hiện bé gái gương mặt vui vẻ, trẻ có xu hướng thể hiện cảm xúc vui vẻ,
chấp nhận cuộc sống hiện tại.
Phần gốc cây to và khá vững chắc, trẻ có xu hướng còn mang nặng những vấn đề liên
quan đến quá khứ.
Mặt trời chỉ là một góc nhỏ mờ nhạt, trẻ có khuynh hướng bộc lộ cảm xúckhao khát tình
yêu thương, sưởi ấm, che chở.
Buổi thứ 2 6/4/2013 vẽ người
Vào phòng nhanh nhẹn, vui vẻ hơn. Cô đưa nước uống. Cô dọn màu và giấy ra, trẻ chọn
giấy lớn. Biểu hiện nhanh nhẹn, hoạt bát hơn. Cô đề nghị ngồi gần, trẻ lắc đầu và không nói
gì, khi cô nói vậy cô ra đằng kia, trẻ gật đầu nhanh chóng. Ngồi ở bàn vẽ rất tập trung, tự
nhiên và hứng thú. Thỉnh thoảng liếc mắt nhìn qua cô dè dặt, e ngại. trẻ chăm chú vẽ và tô.
Bố cục bức tranh cân đối, sinh động, tươi tắn, trẻ đang thích nghi và khá thoải mái với
môi trường hiện tại.
Hình người với gương mặt vui vẻ, hai đứa trẻ nam nữ đứng cạnh nhau, nắm tay rất tình
cảm, trẻ bộc lộ là người sống tình cảm, thích sự gần gũi và khao khát sự yêu thương.
Ngôi nhà hai tầng, thể hiện rõ đồ vật bên trong, gợi ý trẻ là người có cảm xúc phong phú.
94
Buổi thứ 3 13/4/2013 vẽ gia đình
Trẻ vào phòng, thái độ vui vẻ hơn những lần trước nhiều, giúp cô dọn bàn khi cô đề nghị.
Cô hỏi chuyện có trả lời dù rất kiệm lời. Tương tác nhìn mắt và nói chuyện với cô nhiều
hơn. Tỏ ra hoạt bát hơn, cô hỏi chủ đề về hai hôm trước, trẻ trả lời vẽ nhà và vẽ người. Khi
cô đề nghị vẽ gia đình, trẻ nói “hông biết vẽ”. Cô tỏ ra khuyến khích và tin tưởng trẻ hơn.
Trẻ ngồi suy nghĩ một lúc rồi cắm cúi vẽ, ít để ý đến cô hơn, hôm nay cô cũng ngồi ở
khoảng cách gần hơn. Hay bặm môi. Vẽ các hình người theo thứ tự từ trái sang phải. Chăm
chú tô, lâu lâu liếc mắt nhìn cô nhưng vẫn làm bình thường, tự nhiên hơn. Bặm môi suốt
thời gian đầu. Tô màu lần lượt, đều đặn, cẩn thận. Lâu lâu liếc mắt nhìn cô, tay vẫn làm,
bặm môi. Tô màu cẩn thận, đều đặn, xoay giấy khi tô, tư thế thoải mái, tự nhiên hơn. Nét vẽ
nhanh nhẹn, tự tin, cẩn thận. Khi cô hỏi về bức tranh hầu như trẻ không nói gì. Khi cô hỏi
về bất kỳ chi tiết nào trong tranh, trẻ không trả lời chỉ lấy tay bịt miệng hoặc chống hai tay
hai bên thái dương và nhìn chổ khác. Nếu cô gợi ý “có phải là mây không”, cảm giác mặt
trẻ giãn ra và gật đầu. Tỏ ra rất mệt mỏi, nặng nề khi cô hỏi về bức tranh. Cô hẹn gặp hôm
sau rất vui vẻ, gật đầu.
Trẻ đã suy nghĩ khá nhiều khi được đề nghị vẽ gia đình, có điều gì đó rất khó khăn đối
với trẻ. Gia đình gợi nên trong trẻ cảm giác buồn, gia đình cũng trở nên xa vời và rất khó để
trẻ tái hiện.
Trong tranh cũng không thể hiện rõ người lớn, nhỏ như thế nào và rất khó phân biệt, có
cảm giác cả ba người đều đồng trang lứa, đứng gần nhau và rất vui vẻ, có thể trẻ đang “nói”
về những người thân thiết, những người đối với trẻ là gia đình.
95
Những hình người này, vai đề to ngang, trẻ có xu hướng phòng vệ cá nhân và mong
muốn trở nên mạnh mẽ.
Buổi thứ 4 20/4/2013 vẽ tự do
Khi vào phòng mạnh dạn, tự tin hơn. Khi cô nói hôm nay là buổi cuối cùng rồi, mắt có
vẻ hơi chùng xuống. Cô hỏi thêm “con có muốn gặp cô tiếp tục những buổi sau nữa
không?”, trẻ nhanh chóng gật đầu. Hôm nay trẻ đem theo bút chì của mình. Vẽ từ phải qua
trái. Bắt đầu bằng ngôi nhà, những người ở giữa và người bên trái, đường chân đứng, ông
mặt trời. Tốc độ vẽ nhanh, nét vẽ cẩn thận, tự tin. Khi mở hộp màu, nhìn cô như cần sự giúp
đỡ, cô hỏi “có phải con muốn mở hộp màu, để cô giúp con?”. Nhanh chóng gật đầu. Cô đã
có thể ngồi gần hơn và quan sát trẻ cũng không phản ứng nhiều, thỉnh thoảng ngước nhìn cô
e ngại. Khi vẽ xong, cô chỉ vào tranh vẽ và hỏi “đây là con gì?”, trẻ không trả lời. Cô hỏi
“có phải con bướm không?”, trẻ gật đầu rồi tiếp tục tô. Không nói bất kỳ điều gì, chỉ gật
đầu, lắc đầu.
Bố cục bức tranh khá hài hòa, cân đối nhưng màu sắc có vẽ tối hơn, u buồn hơn, phần
nền lem nhem, tường nhà, những đám mây cũng tối, có hai đứa trẻ trong tranh cũng đứng xa
nhau. Gợi nên cảm giác về sự lo hãi xa cách, chia lìa. Một cảm xúc bất an trong lòng trẻ.
Những bức vẽ của L T B rất hài hòa, tươi sáng và sinh động. Bố cục cân đối, màu sắc hài
hòa, trẻ bộc lộ là người thích nghi tốt và có tình cảm với nơi em đang sống, chấp nhận thực
tại, xúc cảm trong em cũng rất phong phú. Cả bốn buổi, em hầu như không nói gì, tỏ ra rất e
ngại, dè dặt và đầy phòng vệ. Cảm giác sợ người lạ vẫn kéo dài trong em. Đây có thể là di
chứng của sự bạo hành đối với một đứa trẻ quá nhỏ đến mức phải có sự can thiệp của công
96
an. Dường như sự yêu thương, che chở của bà mẹ và mọi người ở Làng SOS chưa làm em
nguôi ngoai nỗi sợ đòn roi của những người ruột thịt. Sự sợ hãi người lạ làm trẻ trở nên co
cụm, khó khăn trong giao tiếp, nhưng qua tranh vẽ em đã thật sự tái hiện những cảnh vật,
con người tươi sáng như chính ước mong của em hay những gì em đang cảm nhận được ở
Làng, sau thời gian dài sống trong đau khổ, tăm tối (cha chết, mẹ đi tù, dì dượng bạo hành).
Ở cả bốn bức tranh, hình ảnh ông mặt trời đều rất nhỏ, chỉ là một mẩu ở góc phải của giấy,
gợi ý về sự khao khát tình yêu thương, che chở và hơi ấm. Tuy hầu như không nói gì khi
được hỏi nhưng trẻ có thái độ vui vẻ, thoải mái và tự nhiên hơn ở những buổi sau và sẵn
sàng tiếp tục.
Trường hợp 11: L M P Giới tính: Nam
Sinh ngày: 13/9/2005
Ngày vào làng: 14/12/2010
Hoàn cảnh: cha là tài xế, nhiễm HIV, đã mất. Mẹ khó khăn gởi P vào làng cùng với anh
trai và em trai. Trước khi gởi vào làng, mẹ gởi ba anh em ở những người bà con, mỗi đứa
một nơi, nên khi vào làng hầu như không thân thiết nhau.Gia đình là người gốc Hoa. Hiện
mẹ bị ung thư, thường xuyên gọi điện, vào thăm ba anh em. Lúc mới vào làng, chậm chạp
về mọi thứ (nói năng, học hành, đi đứng...). Có phần ẻo lả, mọi người chọc là “pê đê”, chỉ
cười. Lúc đầu vào học rất yếu, mẹ SOS phải tác động rất nhiều, sau đó đỡ dần. Tính cách
hiền, dễ thương, gần gũi, biết chăm sóc em.
97
Buổi đầu 30/3/2013 vẽ nhà
Nhanh nhẹn, hợp tác, đến đúng giờ, chăm chú lắng nghe khi cô giới thiệu. Khi cô đề nghị
vẽ nhà, trẻ hỏi “chỉ vẽ nhà, có vẽ gì nữa không cô?”. Nét vẽ nhanh và tự tin, tẩy xóa đôi
chút.
Vẽ người trong nhà sau đó xóa sạch hình người vẽ lại. Vẽ đi vẽ lại một con vật ở trên
trời, trẻ nói muốn vẽ con chim mà không biết vẽ. Sau đó trẻ nói “con vẽ xong rồi”, mắt nhìn
vào các loại màu, sau khi được cô khuyến khích, bắt đầu tô màu, rất cẩn thận, từ tốn.
Trẻ giải thích đây là nhà của người ta, không phải nhà con đâu, có em bé đang chuẩn bị
đi du lịch, có người lớn nữa nhưng con không vẽ người lớn vì nếu vẽ thì người lớn to quá,
sẽ to hơn ngôi nhà. Trẻ nhắc lại con muốn vẽ em bé đi du lịch với ba mẹ nhưng nếu vẽ ba
mẹ thì to quá. Tỏ ra vui vẻ, nhanh nhẹn, kể chuyện của các bạn trong nhà, hỏi chuyện cô về
màu vẽ, về dụng cụ về lịch làm việc của cô...
Toàn bộ bức tranh tràn ngập màu da cam, gợi ý về những mối quan hệ của trẻ với người
xung quanh khá tốt, tuy nhiên kèm theo một số điều không thoải mái.
Gam màu cam bên ngoài, tạo cảm giác ấm áp, nhưng ngôi nhà lại là màu xanh lạnh lẽo,
con người trắng toát như đóng băng, gợi ý sự cô đơn.
Bố cục chung khá cân đối, nhưng ngôi nhà khá nhỏ bé, lọt thỏm giữa không gian, tạo
cảm giác cô đơn, lẻ loi, lạc lõng. Ngay cả con người xuất hiện trong ngôi nhà cũng rất mờ
nhạt, nhỏ bé, cô lẻ.
98
Cửa chính của ngôi nhà quá nhỏ so với căn nhà, cửa sổ mờ nhạt, trẻ bộc lộ khuynh
hướng rối loạn tình cảm, khó khăn trong giao tiếp, người rụt rè, khép kín.
Ông mặt trời, biểu tượng của sự ấm áp, tình yêu thương trở nên xa vời, ánh mắt cũng như
hướng về phía khác, không phải là căn nhà, gợi ý sự thiếu thốn, mong muốn sự gần gũi, yêu
thương.
Cách kể chuyện về một em bé chuẩn bị di du lịch như là trẻ đang nói lên mong muốn của
mình, việc khó khăn trong việc thể hiện hình ảnh người lớn cũng gợi ý về sự xa cách trong
lòng với những người lớn quan trọng mà em đang lo lắng. Rất tự tin, nhanh nhẹn, mạnh dạn,
tự nhiên trong giao tiếp, hỏi chuyện với cô.
Buổi thứ 2: 6/4/2013 vẽ người
Đến rất đúng giờ, nhanh nhẹn, hoạt bát, vui vẻ. Vẽ hình người từ trái qua phải. Tẩy xóa
rất nhiều ở các hình người.
Bố cục bức tranh cân đối,tập trung ở giữa trang giấy, sử dụng màu sắc nóng, phần lớn là
màu cam, gần giống bức tranh ở buổi đầu tiên, trẻ có xu hướng quan hệ tốt với những người
xung quanh, cởi mở, hướng ngoại, tuy nhiên tồn tại cả những điều không thoải mái.
Hình người không rõ mặt, trẻ có xu hướng khép kín, che dấu cảm xúc. Phần vai vuông,
to, trẻ có xu biểu hiện phòng vệ cá nhân cao, mong muốn trở nên mạnh mẽ hơn.
Mắt trống trơn, không có con ngươi, trẻ bộc lộ xu hướng lo lắng về vấn đề học tập.
Những hình người rời rạc, xa cách nhau tạo cảm giác lạnh lẽo, về sự xa cách giữa con
người, thiếu gắn bó, gần gũi.
99
Trẻ giải thích: “hai người mặc áo đỏ quen nhau, giúp đỡ qua lại như anh em, thân thiết
với nhau. Người thứ ba giàu có, đang đi chơi thì gặp hai người này và rủ đi Vũng Tàu
nhưng không nói là mình sẽ bao nên hai người kia không biết được bao và họ không có
nhiều tiền nên không đi. Phần màu đen trẻ lý giải là tóc (gương mặt nhìn nghiêng)”. Một
đứa trẻ 8 tuổi, nói về tình anh em, sự giàu có và tiền bạc. Phải chăng cuộc sống của trẻ từng
mang nặng, hay đang bận tâm những vấn đề này.
Buổi thứ 3: 13/4/2013 vẽ gia đình
Khi cô nói về đề nghị hôm nay vẽ về chủ đề gia đình trẻ cười, tỏ ra ngạc nhiên và trả lời
“khó lắm, con không biết vẽ”. Sau một lúc suy nghĩ, trẻ đặt bút vẽ nhưng không tập trung,
hay nhìn loanh quanh rồi hỏi về các loại màu “sao cô mua nhiều màu, ai học ở phòng này...”
Sau đó trẻ nói “con vẽ gia đình bốn người thôi vì ba con mất rồi”. Khi vẽ tẩy xóa nhiều, trẻ
xin giấy nháp để thử màu. Hay nhìn lơ đãng xung quanh, rồi hỏi về những thứ trong phòng.
Chủ đề gia đình với trẻ dường như rất khó, tuy đã xác định được vẽ những ai, nhưng trẻ vẫn
không muốn thể hiện nó, luôn nhìn xung quanh, rồi hỏi rất nhiều thứ, không hề tập trung.
Trong hình vẽ gia đình của trẻ có ba người cạnh nhau, lại xa cách với một người (trẻ nói
đó là mẹ). Đây cũng là điều mà trẻ đang phải cố gắng chấp nhận, cố gắng trải qua cảm giác
hụt hẫng khi phải xa cách với mẹ.
Trẻ giải thích về bức tranh hôm nay, chỉ vào tranh theo thứ tự mẹ, em trai, con, và anh
trai, đang đi chơi ở Đầm Sen, vui lắm. Mẹ đang kiếm chỗ ngồi để coi đồ đạc và đồ ăn, còn
ba anh em đang đi chơi, khi nào đói thì chạy tới chỗ mẹ ăn bánh mì cà ri hoặc bánh mì chấm
sữa. Lúc ăn ba anh em kể chuyện về những trò chơi cho mẹ nghe, mẹ rất vui. Đây phải
chăng là những kỷ niệm êm đềm, vui vẻ, đầm ấm giữ các anh em với mẹ mà trẻ luôn nhớ
100
đến, luôn mang theo. Tình cảm với mẹ qua những ký ức được trẻ bộc lộ rõ. Hình ảnh ba anh
em hướng mắt về phía mẹ ngay trong tranh cũng nói lên điều này.
Trẻ cảm thấy vui khi nói về bức tranh, luôn cố gắng để hoàn thành dù ít tập trung, có lúc
trượt người ra khỏi ghế, quỳ xuống sàn trong lúc tô. Trẻ rất có trách nhiệm hoàn thành
nhiệm vụ.
Buổi thứ 4 20/4/2013 vẽ tự do
Vào phòng vui vẻ, khi cô hỏi hôm nay con có thích vẽ gì không? Chỉ cười và không trả
lời, khi cô đề nghị vẽ những gì con đang nghĩ (vẽ tự do), ngồi suy nghĩ một chút rồi nói con
không biết vẽ gì. Cô cho phép trẻ suy nghĩ thêm. Một lúc sau, trẻ bắt đầu vẽ khá nhanh
chóng, tự tin.
Bức tranh thể hiện ba người nam dáng đứng nghiêng ngả, không vững chắc như cảm giác
của trẻ về sự thiếu an toàn, thiếu sự nâng đỡ, che chở.
Những hình người vai vuông to, thể hiện xu hướng phòng vệ cá nhân mong muốn được
mạnh mẽ hơn nữa. Những cánh tay ngắn, bộc lộ sự bất lực, cảm thấy khả năng của mình
kém.
Trẻ giải thích: “Người đầu tiên đang về nhà để đi chơi Suối Tiên. Người thứ hai đang về
nhà để đi Đầm Sen. Hai người này bằng tuổi nhau, người thứ ba lớn rồi đang tự đi chơi.
Mấy người này không quen nhau nhưng đi cùng giờ. Sau đó lại nói Đầm Sen nước và Đầm
Sen khô gần nhau và gần nhà con luôn. Họ gặp nhau trên đường đi, hai người sau thấy nhau,
người đầu tiên không nhìn vì đang lo chạy về nhà.”
Một câu chuyện kể bộc lộ khao khát được tự do vui chơi hay cảm giác không thoải mái,
bó buộc ở nơi trẻ đang sống. Trẻ cảm thấy hài lòng và thích thú về bức tranh của mình.
101
Thích nhất là hình ảnh ba người đi chơi. Đây có thể là những hình ảnh để lại trong ký ức trẻ
những kỷ niệm đẹp.
Qua bốn buổi làm việc em luôn luôn đúng giờ, rất có trách nhiệm hoàn thành công việc
của mình. Gương mặt sáng sủa, đầy thiện cảm, hay cười, hay hỏi nhiều vấn đề ngoài lề.
Những bức vẽ của em phản ánh những con người và những mối quan hệ của họ, ở đó có
những anh em, thân thiết, giúp đỡ nhau, có những người lạ. Trẻ nhắc đến địa vị, giàu nghèo
và tiền bạc, nhắc đến những nơi vui chơi Vũng Tàu, Đầm Sen, Suối Tiên. Có thể đây là
những trải nghiệm quá sớm đối với một đứa trẻ nhưng tất cả điều đó được trẻ mang theo
như những kỷ niệm đẹp gắn với mẹ (qua tìm hiểu được biết mỗi lần mẹ đến thăm thường
dẫn mấy anh em đi chơi những địa điểm này). Đó là tình cảm nhớ thương, mong ngóng
hướng về mẹ dù trẻ không được ở gần. Cùng với đó là cảm giác gò bó trong môi trường
mới, và mong muốn được thoát ra ngoài, được tự do (hay nhắc đến việc đi chơi). Hình
người trong những bức tranh của trẻ xuất hiện nhiều, những hình người này khá thô cứng,
đơn điệu, đôi mắt tạo cảm giác vô hồn, gợi ý về sự trống rỗng, khó xác định cảm xúc trong
em lúc này.
Trường hợp 12: L T D Giới tính: Nam
Sinh ngày: 10/3/2002
Ngày vào làng: 12/11/2002
Hoàn cảnh: Không có tên cha. Mẹ quá khó khăn nên gởi con vào làng . Nhà em đang ở
vừa có người mẹ mới từ 11/2012 (người mẹ trước đây về hưu), nhưng D hầu như không
phản ứng gì với việc thay đổi mẹ. Tính cách tương đối hiền, nhiều lúc rất giận dữ, rất nóng,
cọc tính. Nhiều lúc lang thang chơi một mình. Nhiệt tình với công việc mẹ giao. Ít nói, trả
lời chậm, nhiều khi nhắm mắt trong khi trả lời. Tiếp thu kiến thức chậm so với tuổi, Làng đã
đưa đi khám ở bệnh viện tâm thần. Kết quả chẩn đoán: F70 (chậm phát triển tâm thần
nhẹ)[19]. Không có người thân thích đến thăm. Những dịp lễ tết em hay nói “con không còn
người thân nào, con ở đây với mẹ”
102
Buổi đầu 30/3/2013 vẽ nhà
Có vẻ nhút nhát, nhỏ nhẹ khi gặp cô. Sau khi cô hỏi thăm, giới thiệu và đề nghị trẻ vẽ
nhà, nhanh chóng thực hiện. Hầu như không nói gì, chỉ cúi gầm mặt và chăm chú làm, hiếm
khi ngước mắt nhìn lên.
Trẻ sử dụng màu vàng để tô toàn bộ nền, màu sắc này gợi ý đến sự lệ thuộc và hành vi
con nít, đồng thời có biểu hiện chống đối.
Cửa chính của ngôi nhà bị che lấp, cửa sổ nhỏ, khuất có khuynh hướng mặc cảm về sự
thất bại, khó khăn trong giao tiếp, khép kín, e ngại.
Trẻ dùng cạnh gôm để vẽ những đường thẳng, dùng nắp hộp màu để vẽ đầu người. Luôn
cúi gầm mặt xuống, đôi lúc lơ đễnh, trẻ bộc lộ xu hướng thiếu tự tin, cảm xúc bất ổn, lo hãi.
Toàn bộ bức tranh được trẻ phủ màu lên, như che dấu, làm khuất lấp tất cả mây, ông mặt
trời, hoa, kể cả con người, gợi ý sự phủ nhận thực tế,cảm xúc không chấp nhận thực tại.
Hay tẩy xóa, mỗi lần tẩy xóa lấm lét nhìn cô. Trẻ giải thích, nhà này chỉ có hai anh em
với mẹ. Con trồng cây táo này, con đang đứng xem cây táo một mình. Em trai và mẹ đang ở
trong nhà, em còn nhỏ lắm, con hay chơi và thích chơi với em. Nhà này làm lâu lắm rồi lúc
con còn nhỏ. Con trồng cây táo và hoa, mẹ thường chăm sóc. Những lời kể rất nhỏ, chậm
rãi, thiếu tự tin nhưng cũng đã phản ánh phần nào cuộc sống bình dị xuất hiện trong tâm trí
trẻ, chỉ có mẹ và hai con trai gợi ý về những người thân thiết mà trẻ nghĩ đến, dù có chút
băn khoăn, buồn buồn nhưng trẻ vẫn thể hiện sự chấp nhận cuộc sống thực tại.
103
Buổi thứ 2 13/4/2013 vẽ người
Khi được đề nghị vẽ người, trẻ tỏ ra hợp tác, chọn giấy nhỏ và hào hứng vẽ. Nét vẽ ngập
ngừng, lực ấn rất mạnh, trẻ có khuynh hướng muốn chống lại thực tế, gợi cảm xúc về sự bất
an.
Bức tranh vẽ người đầy kỳ lạ, mờ ảo, không rõ, tràn ngập màu xanh, với những hình
người với khuôn mặt tô trắng, gợi cảm giác lạnh lẽo, trẻ có vẻ sống thụ động, khép kín và
nội tâm.
Lúc đầu trẻ vẽ ba hình người, xung quanh có nhà và cây, lúc tô nên cẩn thận để lại các
hình này nhưng sau đó trẻ lại tô lấp lên trên, bố cục những hình người, ngôi nhà, cây cối rất
lộn xộn, khó hiểu, cảm xúc trong trẻ dường như bất an, lo hãi. Dường như trẻ muốn xóa bỏ,
che lấp, dấu diếm điều gì đó.
Quan sát kỹ, thấy những hình người này rất nhỏ bé, không có bàn chân bàn tay. Gợi ý
rằng trẻ cảm thấy chới với, thiếu sự nâng đỡ, thiếu sức mạnh, và cảm thấy bất lực. Những
gương mặt mờ ảo, được trẻ cố gắng tô màu trắng tựa như sự vẫy vùng yếu ớt muốn thoát ra
khỏi phần “màu xanh” đặc quánh.
Trẻ giải thích con đứng gần nhà con, nhìn mặt trời rất to và đẹp, nhìn đến khi mặt trời
lặn. Thấy mặt trời đẹp nhưng không kể với ai. Góc mặt trời tuy nhỏ nhưng là phần sáng sủa,
rõ ràng nhất bức tranh, đó là tình yêu thương mà trẻ đang mong chờ, đang khao khát. Hình
ảnh đứa bé đứng ngắm mặt trời như sự chờ đợi rất kiên nhẫn (nhìn ngắm đến khi nó lặn),
một sự mong mỏi đã nuôi dưỡng trẻ.
104
Buổi thứ 3 20/4/2013 vẽ gia đình
Trẻ vào phòng nhanh chóng, mạnh dạn hơn hai buổi trước. Khi bắt đầu vẽ tẩy xóa nhiều,
lực ấn mạnh.
Bức tranh gợi nên hình ảnh mờ mịt, hỗn loạn và lộn xộn, tạo cảm giác khó hiểu, gợi ý về
cảm xúc rỗi nhiễu trong lòng trẻ.
Sử dụng ít màu sắc, đa số là màu xanh đậm, trẻ có xu hướng sống trầm lắng, khép kín,
thụ động, sống nội tâm và thu mình.
Tranh vẽ gia đình, nhưng những nhân vật trong tranh đứng rời rạc, rất xa cách nhau, gợi
cảm giác về sự xa cách, về sự mong manh, thiếu gắn bó của những mối quan hệ.
Trẻ giải thích các nhân vật trong tranh, đầu tiên là em trai, đến anh, con, và em gái. Mọi
người đang ở xung quanh nhà, nhổ cỏ, mới làm từ sáng sớm đến trưa sẽ nghỉ, mọi người chỉ
làm không nói chuyện với nhau. Con và em đang ở trong nhà (tay chỉ vào nhà đầu tiên), anh
ở nhà dưới, em gái nhỏ đang ở trong nhà gần cái cây.Gia đình đối với trẻ dường như không
được thể hiện rõ, cũng có thể đây là những đứa trẻ khác mà trẻ hay chơi cùng trong những
ngôi nhà khác tại Làng.
Tranh vẽ gia đình nhưng không thể hiện vai trò của bất kỳ người lớn nào, dường như chỉ
là những đứa trẻ với nhau, ai nấy làm việc của mình (làm nhưng không nói chuyện). Vai trò
của người mẹ dường như rất mờ nhạt trong lòng trẻ. Qua đó dễ nhận thấy trẻ cảm thấy thiếu
thốn tình yêu thương.
105
Bầu trời mù mịt, có mặt trời, những ngôi sao được tô xanh cùng với nền, những đám mây
có cả xanh, trắng và đen, có thể cảm nhận sự ấm áp, yêu thương mà trẻ cảm nhận được
dường như rất hiếm hoi. Gợi sự u ám, hỗn loạn nhiều xáo động trong lòng trẻ.
Buổi thứ 4 27/04/2013 vẽ tự do
Hôm nay trẻ nói chuyện rất nhỏ, mắt không nhìn, khi cô đề nghị vẽ những gì em đang
nghĩ (vẽ tự do), tỏ ra trầm tư, suy nghĩ một lúc, xoay giấy khi vẽ, có lúc xoay người. vẽ
những ngôi nhà, không dùng vật thẳng để kẻ như những lần trước (trẻ vẽ những đường
thẳng bằng nhiều nét đứt nhỏ liền nhau), tẩy xóa nhiều, lực ấn mạnh. Dường như trẻ rất
thiếu tự tin, lực ấn mạnh bộc lộ xu hướng chống lại thực tế, cảm giác về việc không chấp
nhận thực tại.
Những mảng màu xanh như những cơn lốc, như sóng gió, bão bùng mà trẻ đang cảm
nhận về cuộc sống xung quanh.
Hai đứa trẻ không có bàn chân, bàn tay, gợi ý về cảm giác chông chênh, thiếu sự bảo
bọc, che chở và nâng đỡ, cũng như cảm thấy mình thiếu khả năng, thấy bất lực.
Trẻ giải thích bức tranh tả buổi tối, em con và chị con đang chơi banh đũa ở ngoài sân,
con đang ở trong nhà coi phim với mẹ, lúc đầu muốn vẽ em bé đang ngủ nhưng sau lại thôi,
xóa đi. Chị và em mặc đồ màu trắng, con mặc đồ màu xanh ở trong nhà, những ngôi sao rất
đẹp.
Những bức vẽ của L T D làm người xem cảm nhận về sự hỗn loạn, siêu thực, lạ lẫm. Tất
cả được bao phủ, che lấp bởi màu sắc như dấu kín điều gì đó trong lòng em. Sự xuất hiện
của những con người đều nhỏ bé, mờ nhạt, thường không rõ mặt cũng như em cảm nhận về
bản thân mình trong tập thể, về giá trị (cảm giác mình không có người thân nào, học kém).
106
Ngoài ra, nói chuyện rất kém tự tin, không nhìn mắt, thường cúi gầm mặt, khi vẽ tẩy xóa
nhiều, tìm kiếm vật gì đó để vẽ đường tròn, đường thẳng khi cần..., đến buổi cuối em không
dùng cạnh của cục gôm để vẽ đường thẳng nữa nhưng vẽ đường thẳng bằng những nét đứt
liền nhau. Trẻ thường bộc lộ sự trầm buồn, lo lắng, có chút bất an trong khi vẽ, lực ấn bút
rất mạnh, giọng nói nhỏ.
2.3.2. Đặc điểm chung của các trường hợp
Qua 12 trường hợp gặp gỡ và làm việc với các em, tuy mỗi em là một cảnh đời, một thế
giới riêng rất đặc sắc nhưng tựu chung các em đều thể hiện những vấn đề xúc cảm, tình cảm
sau:
Thứ nhất, đa số các em bộc lộ những khó khăn khi phải thích nghi với môi trường sống ở
làng SOS. Nhiều em còn nặng tâm tư về gia đình gốc, những lưu luyến, nhớ thương (như ở
TH1, 8, 9) và cả căm giận, buồn tủi (TH 8, 9,11) làm các em khó đón nhận những người
chăm sóc mới. Trong quá trình thích nghi này trẻ có rất nhiều tâm tư, đa phần buồn tủi, sợ
hãi với môi trường mới, những con người mới mà các em chưa từng biết đến. Từ đó các em
dễ dàng có những biểu hiện như co rút, không muốn giao tiếp với ai, thái độ lầm lỳ, muốn
chống đối, có em lại hay khóc vì cảm thấy tủi hờn, vừa thương nhớ người thân, vừa hận thù
vì tại sao lại bỏ mình ở đây.
Thứ hai, các trẻ được nhận nuôi trong độ tuổi sơ sinh thường thích nghi tốt hơn, cảm xúc
tích cực, hòa đồng, vui vẻ và có tình cảm với mẹ ở SOS hơn các trẻ vào làng khi đã lớn(điển
hình ở TH2). Những em này thường tin mẹ SOS là mẹ ruột của mình khi ở độ tuổi nhỏ
(dưới 6 tuổi) và lớn lên, đón nhận mọi điều rất hồn nhiên. Chính các bà mẹ cũng dễ dàng
nảy sinh tình cảm với những em này hơn, đôi khi thái quá, dẫn đến thiên vị làm ảnh hưởng
đến mối quan hệ của mẹ với những đứa con khác, và giữa các anh em trong gia đình. Đây
cũng là một trong những nguy cơ lớn đối với trẻ này, khi lớn lên chúng bắt đầu có những
nghi ngờ, rồi hụt hẫng, buồn phiền nhiều hơn... cùng theo đó là cảm giác mình bị lừa dối.
Thứ ba, các trẻ khá thoải mái bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình qua tranh vẽ, qua một câu
chuyện khác, những người khác, con vật khác (TH1, 4, 6,9) một cách an toàn và không bị
tổn thương. Việc bộc lộ những cảm xúc, những buồn đau là điều khó khăn với các em, gợi
lại những đau buồn, khủng hoảng trong trong khứ mà có thể các em chưa vượt qua được.
Bằng những hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc sống, trẻ nói về nỗi buồn, của người khác,
câu chuyện của một con vật nào đó một cách dễ dàng, vô tư như không phải chuyện của
107
mình nhưng lại đem đến cho trẻ cảm giác được trải lòng, được thể hiện những điều mà bấy
lâu trẻ cất giữ.
Thứ tư, các em bộc lộ cảm xúc đa dạng vui, buồn, nhớ thương và những ký ức tuổi thơ
dường như sống lại, những người thân yêu nhất được các em thể hiện (TH5,6,8). Phải thích
nghi với một nơi xa lạ, những con người xa lạ và không có bất kỳ quan hệ nào là một quá
trình cần nhiều nỗ lực và chấp nhận. Những hoài niệm về quá khứ, về những người thân, về
khoảng thời gian ít ỏi các em được chăm sóc, yêu thương bên những người thân thật sự là
những điều đẹp đẽ các em luôn mang theo, luôn giữ gìn. Khi có cơ hội, có điều kiện các em
sẵn sàng thể hiện những điều này với thái độ trân trọng, đầy yêu thương.
Thứ năm, qua những lần gặp gỡ, trẻ có những thay đổi ở những lần sau, thoải mái hơn, tự
nhiên hơn, dễ dàng bộc lộ hơn, tin tưởng người nghiên cứu hơn, điều này cũng bộc lộ ngay
trên sự thay đổi của các bức tranh qua các buổi (điển hình là các TH 7, 8, 12). Để tạo sự tin
tưởng đối với trẻ em là một điều không hề dễ dàng, đối với trẻ mồ côi điều này còn khó hơn
rất nhiều lần, bởi nhiều trẻ đã từng chứng kiến nhiều mất mát, nhiều đau buồn, trẻ không thể
không nghi hoặc, đề phòng với bất kỳ người lạ nào. Do vậy những lần gặp cách nhau một
tuần làm cho trẻ có thời gian để trải nghiệm, sau từ một đến hai buổi đầu, trẻ nhận được
nhiều thú vị từ hoạt động vẽ tranh, cảm thấy tin tưởng và gần gũi hơn với người nghiên cứu
và bớt phần e ngại, phòng vệ. Tuy nhiên không hẳn trẻ nào cũng sẵn sàng bộc lộ, nhiều em
thậm chí không nói (TH10) hoặc trả lời rất miễn cưỡng (TH5, 6).
Thứ sáu, với đa số các em, chủ đề gia đình làm các em lúng túng nhất, có trẻ phải suy
nghĩ rất lâu thậm chí có ý từ chối (TH7, 10, 11). Các em có thái độ rất e ngại so với các chủ
đề khác. Sự băn khoăn tỏ rõ trên gương mặt. Có em im lặng, suy nghĩ, đắn đo lâu, có em lại
nói nhiều, lo ra, lơ đãng và nói rất nhiều về các chủ đề khác. Tuy là những phản ứng khác
nhau nhưng các em đều có ý né tránh không muốn thực hiện, không muốn nhắc đến, thậm
chí vẽ tranh về gia đình lại không có sự xuất hiện của người lớn (TH2, 6, 8,9,10,12). Đến
khi hoàn thành các em mô tả lại nó một cách dễ dàng. Có trẻ thể hiện tình cảm, sự nhớ
thương của mình với gia đình gốc (TH1, 7, 8). Có trẻ tái hiện cuộc sống thường ngày tại
làng SOS với tình cảm yêu thương, gắn bó và chấp nhận (TH2, 5). Nhưng một số trẻ khác
thể hiện về gia đình lại là những cảnh sinh hoạt lao động bình thường ở làng và thiếu vắng
hình ảnh người mẹ (TH 6, 9,12).
2.3.3. Một số ý kiến của các giáo dục viên và các mẹ ở Làng SOS
108
Các giáo dục viên và các mẹ đều khẳng định rằng việc giúp trẻ bộc lộ xúc cảm –
tình cảm là vô cùng quan trọng. Vì những lý do sau:
Thứ nhất, tự thân mỗi cá nhân đều có nhu cầu được chia sẻ những xúc cảm và tình cảm
với người khác, đối với trẻ nhỏ điều này lại càng quan trọng.
Thứ hai, trẻ sống trong làng vốn dĩ gặp rất nhiều đau buồn về gia đình gốc, những cú sốc
trong quá khứ, sự đứt gãy các mối quan hệ... càng cần được người khác hiểu tâm tư, tình
cảm của mình.
Thứ ba, giúp trẻ bộc lộ xúc cảm – tình cảm tức là giúp chúng hiểu chính bản thân mình.
Thứ tư, giúp trẻ bộc lộ cũng có nghĩa là giúp người lớn hiểu trẻ từ đó có cách tiếp cận,
gần gũi và giáo dục trẻ đúng hướng.
Thứ năm, từ việc giúp trẻ bộc lộ xúc cảm để trẻ có thể dễ dàng hòa nhập với môi trường
xung quanh, hòa nhập với cuộc sống mà các em đã chứng kiến nhiều việc đau buồn, giảm
thiểu tối đa những tư duy, hành động tiêu cực.
Cuối cùng, trẻ bộc lộ được xúc cảm, tình cảm của mình sẻ giúp các em sống vô tư, hồn
nhiên đúng với tuổi của mình, hòa đồng với các bạn, gần gũi hơn với người lớn.
Về những xúc cảm, tình cảm phổ biến của trẻ ở Làng SOS. Đa số các giáo dục
viên đề cập đến những xúc cảm tiêu cực
Sợ hãi: Đây là trường hợp phổ biến đối với những trẻ đã có một thời gian khá dài sống
với người thân và sau đó được gởi vào Làng. Những trẻ nếu đã gặp tổn thương thì sợ hãi là
do nghĩ đến chuyện mình sẽ tiếp tục gặp những tổn thương khác khi đến môi trường mới.
Sự sợ hãi này là biểu lộ của “sự phòng thủ” trước môi trường sống. Đối với những trẻ đã
thấm đẫm những tình cảm yêu thương, chăm chút từ người thân sẽ có nỗi sợ hãi khác, đó là
mất đi những tình cảm đó khi đến môi trường mới.
Dễ nóng giận: Mặc cảm bị bỏ rơi hình thành ở một số trẻ tâm lý “bất cần đời”, do đó dễ
nảy sinh nóng giận. Nhiều trẻ mang theo nỗi oán giận cha mẹ mình vì đã bỏ rơi chúng (phần
lớn là ly thân, tù tội, con ngoài giá thú...), hận cha mẹ đã để mình trong Làng.
Buồn bã: Việc khép mình vào góc riêng là nhu cầu có thực của bất kỳ ai trong một đoạn
đời nào đó. Tuy nhiên, biểu hiện này ở trẻ SOS có tính thường xuyên hơn. Khi trẻ cảm thấy
thiếu sự thấu cảm, trẻ sẽ tìm cách khép mình lại, xuất hiện tâm trạng buồn bã. Một khía
cạnh khác, nỗi hoài niệm về quê hương, mẹ cha, người thân… cũng làm xuất hiện tâm trạng
buồn bã nơi trẻ. Trẻ bị la mắng cũng xuất hiện tâm trạng này, nhất là khi trẻ cảm thấy mình
109
không được đối xử công bằng. Nặng nề hơn khi trẻ có cảm giác người lớn thông đồng để
bênh vực nhau, từ sự buồn bã, trẻ chuyển sang hành động tiêu cực.
Đa số các mẹ cũng nhận thấy rằng cảm xúc chủ yếu của các trẻ ở đây là buồn. Nỗi buồn
về gia đình, về cha mẹ ruột vì đã bỏ mình, vì thân phận mồ côi. Ngoài ra trẻ còn buồn và lo
lắng vì môi trường sống mới, một người mẹ hoàn toàn xa lạ. Nhiều trẻ luôn tỏ thái độ chống
đối, không hài lòng về mẹ, về môi trường mới.
Tự ti: nhiều trẻ cảm giác xấu hổ khi là trẻ mồ côi, là con của Làng. Đặc biệt khi chúng
đến trường học, trưởng thành...
Một số ít trẻ, (đa số những trường hợp mà cha mẹ đã mất), có cảm giác tự hào, may mắn
khi được sống trong Làng và cố gắng phấn đấu vươn lên.
Trẻ dễ hờn dỗi và tủi thân khi bị la mắng vì nghĩ rằng do mình không phải là con ruột.
Trẻ ít dành tình cảm cho mẹ nuôi ở làng(nhất là các trẻ ở độ tuổi dậy thì) vì trẻ thường bị mẹ
nhắc nhở nên nghĩ rằng mẹ không phải là mẹ ruột nên không thương yêu mình và thường có
khúc mắc, khó gần gũi với mẹ.Trẻ dễ dành nhiều tình cảm cho người nào quan tâm đến
mình, luôn chiều theo ý mình và lắng nghe tâm sự của trẻ mà không la mắng hay phản đối
các yêu cầu của trẻ.Đa số các trẻ rất mong muốn được sống cùng những người thân mặc dù
điều kiện có khó khăn hơn khi ở làng.
Những thuận lợi và khó khăn trong việc bộc lộ xúc cảm, tình cảm của trẻ ở
Làng SOS
Về thuận lợi:
Công tác lập hồ sơ cho trẻ khi vào Làng cũng là một điều kiện để nhân viên hiểu về hoàn
cảnh của trẻ, tiếp cận sâu với trẻ.
Một số bà mẹ và nhân viên có thâm niên làm việc với nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp
cận trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.
Các bà mẹ là nhân tố hết sức quan trọng trong tổ chức SOS, luôn nhiệt huyết, hết lòng
với công việc, tận tụy hy sinh để chăm sóc các con.
Trẻ được tạo điều kiện thân thiện, thoải mái trong việc bộc lộ xúc cảm – tình cảm.
Trẻ dễ bộ lộ cảm xúc với người ngoài (không phải là những người thân), đặt niềm tin,
tình cảm nhiều cho thầy cô, bạn bè.
Trẻ sống trong cộng đồng Làng, có các anh chị em, có những sinh hoạt cộng đồng gắn
kết các em lại với nhau, giúp trẻ gần gũi với nhau hơn, dễ dàng bộc lộ xúc cảm, tình cảm
của mình.
110
Trẻ nhận thấy có nhiều bạn đồng cảnh ngộ, dễ hiểu mình hơn, dễ chia sẻ và trò chuyện
hơn.
Sự nỗ lực của các giáo dục viên, các bà mẹ luôn sẵn sàng nâng đỡ, trợ giúp khi trẻ cần.
Nhiều trẻ xem SOS thật sự là nhà của mình, xem mẹ SOS là chổ dựa tin cậy. Nhiều bà mẹ
kể về những đứa con rất cảm động “tụi nhỏ biết quan tâm, hỏi han khi mẹ đau ốm, nấu cháo
cho mẹ dù không biết nấu và không thể ăn được...”, nhiều trẻ trưởng thành, lập gia đình,
đem con cái trở về thăm bà rất tình cảm.
Môi trường sống khá bình yên, không gian yên tĩnh, trẻ có thể có được không gian riêng
bất kỳ khi nào. Kết cấu mỗi ngôi nhà và sự liên kết giữa những ngôi nhà với nhau tạo cảm
giác quây quần, đầm ấm, nương tựa nhau.
Sự giúp đỡ của những người đỡ đầu, những mạnh thường quân... cũng là điều giúp trẻ
cảm thấy mình được quan tâm, chia sẻ.
Về khó khăn:
Một số bà, mẹ, nhân viên chưa thấy được tầm quan trọng trong việc tạo điều kiện để trẻ
bộc lộ xúc cảm-tình cảm. Điều này dẫn đến việc xem nhẹ hoặc không chú ý đến việc bộc lộ
xúc cảm-tình cảm nơi trẻ.
Định kiến và cảm tính cũng như áp đặt từ người lớn làm trẻ co mình lại khi có điều kiện
trao đổi. Điều này, đẩy trẻ đến hành động “phòng thủ” khi người lớn cần trao đổi với trẻ
một vấn đề nào đó. Thật may mắn cho những trẻ em được người lớn lắng nghe và chia sẻ.
Điều này cũng đồng nghĩa với sự bất hạnh của trẻ khi gặp phải người lớn chủ quan, quen
nhìn trẻ con với nhãn quan phán xét và ban phát.
Nhân viên thiếu kinh nghiệm (tệ hơn nữa là là thói bàng quan, kiểu cách) trong việc tiếp
xúc trẻ nên trẻ cũng gặp khó khăn trong việc bộc lộ xúc cảm-tình cảm.
Về phía trẻ, có những thương tổn tinh thần nhất định trước khi vào Làng nên cũng khó
khăn trong việc bộc lộ xúc cảm-tình cảm.
Bản thân mỗi đứa trẻ chưa có kỹ năng bộc lộ tình cảm của mình, không biết cách tìm
kiếm sự giúp đỡ khi buồn khổ...
Một số trẻ còn e dè khi bộc lộ cảm xúc của mình với các giáo dục viên, thiếu tin tưởng vì
nghĩ rằng người lớn luôn bênh vực người lớn, người lớn thường không hiểu trẻ.
Nhiều trẻ luôn nghĩ mẹ SOS không phải là mẹ ruột, vì thế không thể thương yêu mình.
(có bà mẹ rất đau lòng khi con giận mẹ, la hét và nói “đây là công việc của mẹ, mẹ có
lương, không có con sao mẹ có việc...”)
111
Sống trong cộng đồng Làng nhiều trẻ cảm thấy gò bó, không được thoải mái, tự do.
Thêm vào đó ở Làng còn nhiều thiếu thốn.
Mối quan hệ giữa mẹ và các giáo dục viên (mẹ sợ trẻ sẽ nói điều không tốt về mình với
giáo dục viên nên tra khảo, cấm đoán...) chưa phối kết hợp nhịp nhàng vì lợi ích đứa trẻ. Mẹ
và giáo dục viên bất đồng về quan điểm giáo dục.
Việc đối xử với các con thiếu công bằng ở một số bà mẹ. làm trẻ càng trở nên co cụm,
che dấu cảm xúc, thiếu tin tưởng ở người lớn.
Nhân viên giáo dục và các bà mẹ có một số khó khăn khi làm việc, chịu nhiều áp lực
(không hài lòng về các chế độ, mỗi giáo dục viên phụ trách khoảng 50 em là quá sức, khó
có thể gần gũi từng em, các mẹ tuổi cao...) từ đó khó có thể làm việc tốt để quan tâm đến
xúc cảm của các em.
Ngoài ra, những lúc có sự cố, đặc biệt là lúc con đau bệnh, các con và cả các mẹ thật sự
tủi thân và gặp rất nhiều khổ sở.
Để giúp trẻ ở Làng SOS dễ dàng bộc lộ xúc cảm, tình cảm của mình, theo các giáo dục
viên và các mẹ cần:
- Có kiến thức nhất định về tâm lý lứa tuổi; kỹ năng giao tiếp với trẻ, tính chuyên nghiệp
trong việc giúp trẻ bộc lộ cảm xúc của mình.
- Thân thiện và tình cảm với trẻ, tạo lòng tin nơi trẻ.
- Không áp đặt chủ quan; biết lắng nghe và chia sẻ với trẻ.
- Dùng những chuyện trong sách báo, phim ảnh để định hướng, khuyên nhủ trẻ, có những
trao đổi, nói chuyện, giải bày thêm với trẻ và cho trẻ cơ hội giải bày suy nghĩ cảm xúc của
các em
- Không nôn nóng kết quả, cần bình tĩnh và kiên trì trong mọi trường hợp (có lúc một vài
giờ chỉ ngồi với nhau mà trẻ không nói lời nào là bình thường vì im lặng cũng là “ngôn ngữ
giao tiếp”. Khi trẻ nhận ra được sự chân thành của người lớn, trẻ sẽ dễ dàng bộc lộ cảm xúc
của mình).
- Gần gũi với trẻ hơn. Làng SOS không phải là cơ quan hành chánh. Nó là một cộng
đồng các gia đình có mối liên hệ ràng buộc nhau.
- Hiểu hoàn cảnh trẻ, đặt mình vào trẻ để suy nghĩ về cách làm của trẻ. Khi trẻ có vấn đề
cần tìm hiểu kỹ và phân tích cả hai mặt đúng và sai cho trẻ. Thật sự là người bạn để nghe trẻ
tâm sự thì trẻ sẵn sàng bộc lộ xúc cảm, tình cảm của mình.
112
- Thiết lập mối quan hệ gắn bó, hợp tác giữa các giáo dục viên và các bà mẹ vì mục tiêu
lớn nhất là chăm sóc thể chất và tinh thần cho trẻ. Có quan điểm giáo dục nhất quán, kể cả
từ phía lãnh đạo.
- Dùng tình thương để cảm hóa các em đặc biệt đối với những lúc trẻ hư, phạm lỗi.Trẻ
vốn dĩ đã có quá nhiều đau buồn, mất mát, các em thật sự cần sự bao dung, độ lượng và tình
yêu thương thật sự.
- Khi nói chuyện với con, cảm nhận cảm xúc của con. Nói chuyện sao cho trẻ cảm thấy
được tin tưởng hoàn toàn và đang trao đổi chứ không áp đặt. Bất kỳ chuyện gì cũng phân
tích cho trẻ thấy, tin tưởng và chia sẻ như một người bạn. Tùy từng trẻ mà có cách nói
chuyện với các em khác nhau, gợi ý, hỏi han, vừa gần, vừa xa.
- Bản thân người mẹ phải làm gương (trong đối xử với các con và đời sống) cho con thì
các con mới tin tưởng.
- Cần sự hỗ trợ của những người có chuyên môn về tâm lý trẻ em và trẻ vị thành niên nói
chung, cũng như tâm lý trị liệu nói riêng.
Những khó khăn mà các giáo dục viên và các mẹ thường gặp phải khi làm việc với
những trẻ có những khó khăn trong việc bộc lộ xúc cảm, tình cảm.
- Khó tiếp cận trẻ.
- Quá trình tìm hiểu trẻ mất nhiều thời gian hơn; khó khăn trong việc định hướng cho
trẻ hoặc định hướng sai.
- Việc hoà nhập của trẻ gặp khó khăn nhất định hoặc trẻ bất hợp tác.
- Mối quan hệ của trẻ với bà mẹ, các anh chị em trong gia đình SOS gặp những trở
ngại.
- Không biết xử lý như thế nào khi trẻ từ chối nhận sự giúp đỡ hoặc những trẻ luôn
khóc trước mọi sự viêc khiến người lớn không hiểu trẻ muốn gì.
- Rất khó nắm bắt tâm tư riêng của các em, hầu như trẻ thu mình, buồn bã và không
hề bộc lộ.
Như vậy các giáo dục viên và các mẹ ở Làng SOS là những người trực tiếp chăm sóc,
nuôi dạy trẻ đã khẳng định tầm quan trọng của việc giúp đỡ trẻ bộc lộ cảm xúc của mình. Vì
trẻ có bộc lộ, có thể hiện thì người lớn mới có thể giúp các em, giáo dục các em và phần nào
đồng hành cùng các em vượt qua nỗi buồn hay nhân lên niềm vui. Bộc lộ xúc cảm- tình cảm
giúp trẻ hiểu bản thân mình, sống vô tư, hồn nhiên đúng với lứa tuổi và hòa nhập với cộng
đồng.
113
Ở làng SOS, là nơi nuôi dạy trẻ mồ côi với đa số các đối tượng có xuất thân rất phức tạp,
nhiều đau thương, mất mát. Do vậy các em cũng có một số xúc cảm – tình cảm phổ biến
được các mẹ và giáo dục viên ghi nhận. Đó là nỗi buồn quá lớn về gia đình, gốc tích về sự
bỏ rơi. Sự sợ hãi, lo lắng về môi trường mới. Sự nóng giận, bất cần đời, oán hận, thù ghét
mọi thứ vì cảm giác bất an ở các em. Sự tự ti và mặc cảm về thân phận.
Là một tổ chức phi chính phủ có mặt trên hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, SOS luôn
tạo mọi điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục những trẻ em bất hạnh. Do đó vấn
đề bộc lộ xúc cảm – tình cảm của trẻ có một số thuận lợi nhất định, như không gian yên
tĩnh, trong lành, rộng rãi tạo cảm giác bình yên, đầm ấm. Các mẹ, các giáo dục viên được
đào tạo, quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần. Sống trong cộng đồng Làng cũng giúp các em
có thêm cơ hội gần gũi, chia sẻ với nhiều bạn bè đồng cảnh ngộ. Nhiều trẻ cảm nhận được
sự chăm sóc, quan tâm rất thân tình của các mẹ, các anh chị ở nơi đây sau nhiều tháng ngày
bôn ba khắp chốn hay đau đớn vì bạo hành. Tuy nhiên cũng tồn tại không ít những khó
khăn. Các mẹ ngày càng lớn tuổi, các con ngày càng nhiều và nhỏ tuổi, người mẹ không đủ
sức và thời gian cập nhật những điều mới và cũng không thể quan tâm, chăm sóc đến từng
trẻ. Các giáo dục viên quá ít so với số lượng trẻ ngày càng đông nên gặp rất nhiều khó khăn
trong công việc, đặc biệt là công việc chăm sóc đời sống tinh thần cho các em.
Có nhiều khó khăn trong việc bộc lộ xúc cảm – tình cảm ở trẻ không xuất phát từ tổ chức
mà từ chính quan niệm giáo dục của một số mẹ và giáo dục viên (áp đặt, bảo thủ, cứng nhắc
trong cư xử...). Ngoài ra bản thân các em gặp qua nhiều “tai ương, sóng gió” nên càng trở
nên chán nản, hay nghi ngại trước mọi người và khó lòng đặt niềm tin ở một ai đó.
Các mẹ và giáo dục viên cũng nhận thức được rằng cần có sự quan tâm, gần gũi để hiểu
trẻ hơn đồng thời trở thành người bạn thật sự của con. Để giáo dục cũng như giúp trẻ giải
tỏa nỗi buồn, thể hiện cảm xúc cần quá trình đủ dài, cần sự hợp tác của các bộ phận trong
Làng và đặc biệt cần sự hỗ trợ của những người có chuyên môn về tâm lý.
Ngoài ra, các giáo dục viên, các bà mẹ cũng đã đề cập đến những khó khăn, lúng túng và
không biết phải xử lý như thế nào khi họ gặp những trẻ cảm xúc thất thường, bất hợp tác với
người lớn, tỏ ra ngông nghênh, ương bướng, hay khóc, luôn buồn bã những không hề nói gì
và từ chối sự giúp đỡ...
114
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Cơ sở lý luận
So với nhiều vấn đề trong nghiên cứu tâm lý, nghiên cứu tranh vẽ còn khá non trẻ nhưng
cũng đã chứng minh được vai trò, hiệu quả trong việc sử dụng tranh vẽ như một công cụ
giúp con người bộc lộ bản thân một cách an toàn.
Tranh vẽ trở thành một công cụ đắc lực trong tâm lý trị liệu, đặc biệt là đối với trẻ em,
đối tượng gặp nhiều khó khăn trong diễn đạt bằng lời các xúc cảm – tình cảm của mình. Đối
với trẻ mồ côi vốn dĩ tồn tại nhiều nguy cơ, trở ngại trong quá trình phát triển điều này càng
trở nên thiết thực và quan trọng. Do thiếu thốn tình cảm, trải qua bao nỗi đau về gia đình
gốc, chứng kiến nhiều tai ương quá sức chịu đựng của một đứa trẻ, vào đời quá sớm, các em
dễ dàng lâm vào trạng thái trầm uất, gặp nhiều khó khăn trong việc biểu lộ cảm xúc của
mình.
Mặc cho những năng lực, những đứa trẻ bị bỏ rơi tiếp tục trải nghiệm những vấn đề cảm
xúc và ít đứa được hỗ trợ về lĩnh vực này. Có một vài nguyên nhân. Đầu tiên là thiếu thông
tin đầy đủ về bản chất và tầm quan trọng của vấn đề. Thứ hai, có một quan niệm rằng những
đứa trẻ không có những vấn đề cảm xúc, vì vậy có người lớn thường thiếu sự chú ý quan
tâm. Thứ ba, vì những vấn đề tâm lý không phải lúc nào cũng rõ rệt, nhiều người lớn chịu
trách nhiệm với những đứa trẻ mồ côi không có khả năng nhận diện chúng. Tuy nhiên, dù
vấn đề được nhận diện, cũng không dễ có sự hiểu biết để kiểm soát nó cho phù hợp. Trong
nhiều trường hợp trẻ bị trừng phạt vì tỏ ra những cảm xúc tiêu cực, bằng cách đó chỉ thêm
cho chúng sự đau đớn. Ở trường thiếu hẳn sự huấn luyện phù hợp cho những giáo viên trong
việc nhận diện những vấn đề thuộc tâm lý và xã hội, vì thế cá nhân hay nhóm cần chú ý đến
điều này.
Trong tâm lý lâm sàng trẻ em, việc sử dụng hình vẽ trong trị liệu nằm trong phạm vi của
một chuyên ngành gọi là nghệ thuật trị liệu.
Vẽ là một cách biểu lộ tình cảm giống như vui đùa và nói. Qua tranh vẽ, trẻ thể hiện
niềm vui, hạnh phúc, ước mơ, và đôi khi cả nỗi sợ. Do đó các bức vẽ cũng chính là cách
thức giao tiếp với mọi người để trẻ giải bày về thế giới xung quanh một cách an toàn qua
lăng kính của các em. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng vẽ tranh là một trong những kỹ
thuật phóng chiếu đặc thù cho trẻ nhỏ. Tranh vẽ của trẻ em tiến triển qua các giai đoạn: vẽ
115
nguệch ngoạc và thực tại ngẫu nhiên (1-3 tuổi), giai đoạn thực tại và ý định hình tượng (3 –
5 tuổi), giai đoạn thực tại trí tuệ ( 6 – 12 tuổi), giai đoạn thị giác (12 tuổi trở đi).
Vẽ tranh là một hoạt động phức hợp, có sự tham gia của các cơ chế sinh học, cảm giác,
trí não và vận động. Có thể nói tranh vẽ của trẻ chính là thong điệp, là chân dung tự vẽ mà
qua đó chúng ta có thể hiểu được căn nguyên của những rối nhiễu tâm lý ở trẻ, những lo
lắng hiện tại, những câu chuyện đã qua và tương lai sắp tới của chúng. Giống như các trò
chơi khác, tranh vẽ cho phép trẻ tạo lập thế giới riêng của mình, sắp xếp thế giới ấy theo ý
mình và đưa vào đó một lượng lớn các cảm xúc.
Để có thể phân tích tranh vẽ của trẻ cần có những quan sát khi trẻ vẽ tranh, thu thập
thông tin khi trẻ hoàn thành và nắm những chỉ dẫn cụ thể về kỹ thuật xem tranh qua những
biểu hiện về cả nội dung cũng như hình thức của bức vẽ. Từ đó người xem tranh của trẻ có
thể có những ấn tượng ban đầu một cách chung nhất về tổng thể bức tranh, sau đó có những
diễn giải sâu hơn, chi tiết hơn.
1.2. Kết quả nghiên cứu
Đối với chủ đề vẽ nhà, là chủ đề đầu tiên trong quá trình các em tiếp xúc với người người
nghiên cứu, đa số các em còn e ngại, thiếu thoải mái, chưa thật sự tin tưởng. Tuy nhiên các
em vẫn rất háo hức, tò mò, vui vẻ và tỏ ra rất thích thú với hoạt động vẽ. Nhiều em say mê,
thỏa sức khám phá nhiều loại màu, bị cuốn hút và hấp dẫn bởi chúng. Chính sự thích thú
này cũng góp phần làm giảm đi những ngại ngần, dò xét nơi các em. Chủ đề vẽ nhà được đề
nghị trong buổi đầu tiên cũng phần nào giúp các em cảm thấy thoải mái và dễ dàng hơn để
bắt đầu vì đây là chủ đề khá đơn giản, hầu như trẻ nào cũng thực hiện được. Phần lớn các
tranh vẽ nhà của các em đều tự bổ sung ngoại cảnh đó là bầu trời, cây cối, hoa lá và có cả
con người. Những ngôi nhà được các em “thổi hồn” vào đó qua những lời kể về cuộc sống
rất đa dạng, về những người sinh sống, chăm sóc cho ngôi nhà và cả cây cối xung quanh.
Dù họ đang ở nhà hay đã đi vắng, thì mọi vật đều trở nên có sức sống, một cuộc sống đời
thường hiện ra dưới nét vẽ và lời kể của các em với rất nhiều cảm xúc khác nhau. Đó có thể
là những kỷ niệm êm đềm, chứa chan tình cảm về gia đình gốc (TH8, 11) cũng có thể là
cuộc sống hiện tại mà các em đang trải qua(TH1, 2, 3, 5), hoặc là một nơi xa xôi, huyễn
tưởng (TH7 với ngôi nhà ma) và không rõ nơi nào (TH 4, 6, 9,10).
Qua buổi gặp thứ hai, lúc này các em đã khá tự tin, thoải mái và gần gũi hơn với người
nghiên cứu. Các em cũng gia tăng mức độ sẵn sàng, không còn bỡ ngỡ, e dè vì phần nào các
em đã hiểu hoạt động này và cách tiến hành ra sao. Một số em càng trở nên thích thú đến
116
hẹn rất đúng giờ, thậm chí đến sớm. Đối với đề nghị vẽ người ở buổi thứ hai, một số em cho
rằng khó và không biết vẽ, nhưng trái với lời nói ấy, các em vẫn tiến hành rất nhanh chóng,
tự tin. Các nhân vật được thể hiện dù các em khó lòng nói rõ đó là ai, nhưng đều phảng phất
chính các em trong đó. Không gian để trẻ vẽ nên những con người cũng rất phong phú.
Những con người có thể xuất hiện ở một nơi nào đó là kỷ niệm đẹp mà các em mang theo
(TH1, 8) cũng có thể là những cảnh sinh hoạt, vui chơi ngay tại Làng SOS (TH4, 5, 9, 12),
hoặc không rõ ràng bất kỳ nơi nào (TH2, 3, 6, 7, 10, 11). Qua những nhân vật, những con
người được thể hiện, trẻ bộc lộ phần nào tình cảm, tâm trạng của các em với những kỷ niệm
đã qua và cả những bận tâm ở hiện tại.
Buổi gặp thứ ba, lúc này thời gian làm việc trực tiếp với trẻ đã kéo dài ba tuần trẻ trở nên
gắn kết, thân mật hơn với người nghiên cứu. Các em thoải mái, vui vẻ, nhiều em chủ động
hỏi chuyện (cô ở đây có lâu không? Nhà cô ở đâu?...). Trẻ đã lưu tâm đến hoạt động vẽ
tranh hơn, có em hồi hộp, tò mò, mong đợi, không biết hôm nay cô sẽ đề nghị vẽ gì. Khi
được đề nghị vẽ gia đình thật sự là điều khó khăn với đa số các em. Như đã phân tích ở trên,
các em cảm có ý định từ chối hoặc suy nghĩ rất lâu, lo ra, những khó khăn trong việc bộc lộ
thể hiện trong từng lời nói lơ đãng hay từ chối của các em, trong từng nét mặt và cả những
suy tư, những khó chịu. Nhắc đến gia đình không phải là điều thoải mái đối với các em. Tuy
nhiên đã là buổi thứ ba gặp nhau sau ba tuần, các em trở nên trách nhiệm và gắn kết hơn nên
thấy rõ sự nỗ lực trong việc cố gắng hoàn thành lời yêu cầu dù trong lòng không hề muốn.
Sau đó dường như đi qua được rào cản trong suy nghĩ, xác định được gia đình là gì, là ai đối
với bản thân trẻ. Các em sẵn sàng chia sẻ, bộc lộ và mô tả về những gì mình đã thể hiện. Ý
nghĩ về gia đình trong các em rất khác nhau, cũng có thể là những hoài niệm trong quá khứ,
những ngày được sống với cha mẹ ruột thịt, hay bà con thân thích (TH7, 8, 11) cũng có thể
là bà mẹ SOS cùng anh chị em trong ngôi nhà ở Làng (TH1, 5,) hay những cảnh sinh hoạt,
lao động của những anh chị em với nhau mà không hề có sự xuất hiện của người lớn (TH2,
4, 6, 9, 12), có em lại lưu giữ hình ảnh gia đình được tượng tưởng, không hề có thật trên
thực tế như những mong muốn, ao ước của các em (TH3).
Đến buổi thứ tư là buổi cuối cùng, trẻ như chất chứa rất nhiều cảm xúc, các em cũng
trong trạng thái chờ đợi không biết hôm nay sẽ vẽ gì. Một số em hỏi ngay điều này, số khác
lại nói “hôm nay vẽ gì dễ dễ nghen cô”. Sau ba đề nghị của những lần trước, lần này cô đề
nghị vẽ những gì mà con đang nghĩ đến/ vẽ tự do, nhiều em cảm thấy lúng túng và hơi ngạc
nhiên vì đa số các em đang chờ đợi một chủ đề vẽ tranh cụ thể. Tranh vẽ tự do nhưng phản
117
ánh rất rõ nét về đời sống tâm tư của chính các em. Đây cũng là một đề nghị mà các em có
thể nghĩ ra vô số các chủ đề để thể hiện nó. Những câu chuyện kể, những nhân vật được xây
dựng theo suy nghĩ của các em phần nào chỉ ra được tâm tư, tình cảm mà các em đang có.
Đó là những sinh hoạt đời thường nhưng có ý nghĩa đối với các em (TH 4, 5, 9, 12). Là
chuyện kể về những con vật được nhân cách hóa, ẩn chứa ao ước, mong muốn về những
mối quan hệ đầy yêu thương, quan tâm và chăm sóc (TH1, 8). Là những người thân yêu mà
các em luôn lưu giữ trong tâm trí mình, khi được thể hiện, được kể lại đầy cảm xúc tích cực,
nhớ thương và trân trọng (TH 2). Cảm giác cô lẻ, trống trải, khao khát được yêu thương,
được gần gũi và chăm sóc luôn hiện hữu (TH3, 11,12).
Trải qua bốn lần tiếp xúc, mối quan hệ giữa người nghiên cứu và trẻ dần được cải thiện.
Từ đó tạo sự tin tưởng, cởi mở nơi trẻ, một trong những vấn đề gặp nhiều khó khăn khi làm
việc với trẻ mồ côi. Điều này giúp kích hoạt sự sẵn sàng chia sẻ nơi mỗi trẻ. Các em cảm
thấy an toàn khi nói về những nhân vật trong tranh chứ không phải chuyện của mình. Thông
qua những nhân vật ấy, các em có cơ hội bộc lộ quan điểm, suy nghĩ, xúc cảm, tình cảm về
cuộc sống về những điều các em đã và đang trải qua. Xúc cảm, tình cảm là những điều khó
nói thành lời, tranh vẽ lại là phương tiện thay lờivà ngoại hiện nội tâm dưới dạng ẩn dụ.
Thông qua ẩn dụ, người nghiên cứu giao tiếp với trẻ an toàn hơn dùng lờivì dùng lời nói sẽ
đề cập trực tiếp đến các hoàn sống thực tế dễ gây tổn thương hơn, dùng ẩn dụ là cách nói
các chủ đề thực tếnhưng theo cách gián tiếp. Do vậy, trẻ đã biểu lộ cuộc sống, tâm tư của
mình một cách an toàn lại không né tránh những chủ đề gây đau buồn.
Những buổi làm việc với mỗi trẻ ở Làng SOS là quá trình tương tác giữa người nghiên
cứu và trẻ và là một tiến trình trải nghiệm giúp cả hai hiểu nhau. Bản thân trẻ hiểu hoạt động
vẽ tranh cũng như người nghiên cứu ở một mức độ nào đó. Người nghiên cứu bước đầu
giúp trẻ bộc lộ bản thân, qua đó phân tích và hiểu trẻ hơn.
2. Kiến nghị
2.1. Kiến nghị với ban lãnh đạo Làng SOS
Cần có cái nhìn toàn diện, sâu rộng hơn về việc chăm sóc trẻ. Mỗi một đứa trẻ có rất
nhiều nhu cầu khác nhau trong đó có nhu cầu về chăm sóc tinh thần. Hiểu và giúp các em
bộc lộ xúc cảm, tình cảm là điều rất quan trọng trong bối cảnh đối tượng trẻ mồ côi vốn dĩ
gặp nhiều bất hạnh, mất mát trong cuộc sống.
118
Ban lãnh đạo cần có những kế hoạch cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ
các giáo dục viên, các mẹ trong việc chăm sóc đời sống của trẻ, trong đó quan tâm hơn nữa
đến đời sống tinh thần, những khó khăn về tâm lý mà các em có thể gặp phải.
Công tác lập hồ sơ cần được tiến hành cẩn trọng, tỉ mỉ. Trò chuyện với những người gởi
trẻ đến Làng để tìm hiểu rõ về cha mẹ, hoàn cảnh, quan hệ với những người thân thuộc
khác, nguyên nhân và tất cả những thông tin về trẻ nếu có thể trước khi nhận trẻ vào Làng
hoặc tìm hiểu tiếp tục sau khi đã nhận trẻ nhằm nắm rõ môi trường, hoàn cảnh sống và cả
nguyện vọng của các em.
Chỉ đạo các giáo dục viên có những báo cáo, theo dõi sự thích nghi, phát triển của trẻ
một cách đầy đủ và khoa học. Từ đó có cơ sở để tác động, giáo dục các em một cách phù
hợp nhất.
Tìm kiếm, huy động những nguồn hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần không chỉ cho trẻ
mà còn cho cả mẹ và các giáo dục viên. Quan tâm hơn nữa đến sống tinh thần, vấn đề tình
cảm trong những mối quan hệ mẹ con, các giáo dục viên và bà mẹ, các giáo dục viên với
các con.
Tạo nên những liên kết với các lực lượng có chuyên môn về tâm lý bên ngoài Làng để có
thể giúp đỡ các mẹ, các trẻ khi cần thiết.
Kiểm soát, theo dõi chặt chẽ các tổ chức, công ty, trường học... muốn giao lưu, thăm hỏi
trẻ mồ côi trong Làng. Cần có mục đích rõ ràng, trên tinh thần vì quyền lợi và sự phát triển
của trẻ, không vì mục đích quảng bá hình ảnh.
2.2. Kiến nghị với các giáo dục viên
Giáo dục viên là những người trực tiếp giúp đỡ các mẹ trong việc nuôi dạy, chăm sóc đời
sống tinh thần cho trẻ. Vì vậy cần có những kiến thức nhất định về đối tượng trẻ, những khó
khăn mà mẹ cũng như trẻ có thể gặp phải. Quan tâm đến những biểu hiện cảm xúc của các
em. Từ đó có những ứng xử phù hợp và giúp đỡ các em một cách hiệu quả.
Tìm hiểu kỹ về hoàn cảnh, xuất xứ, gia đình gốc của trẻ để hiểu về hoàn cảnh sống,
những khó khăn, mong muốn và cả tính cách, những điều có thể các em đang lưu tâm về
nguồn gốc của mình.
Tiếp cận, gần gũi trẻ một cách thận trọng, sao cho vừa giúp đỡ, chia sẻ với các em, vừa
không làm trẻ cảm thấy bị tổn thương, mất mát. Xác định đây là một quá trình lâu dài,
không thể làm được trong một vài ngày, do đó cần có những tiếp cận từng bước nhỏ và hết
sức khéo léo. Từ đó tạo niềm tin nơi trẻ, để trẻ cảm thấy có chổ dựa an toàn, tin cậy ngoài
119
người mẹ là người trẻ sống cùng. Giáo dục viên cũng là người trẻ có thể tìm đến khi có mâu
thuẫn với mẹ, khi cảm thấy không hài lòng về mẹ..., làm sao để trẻ không cảm thấy người
lớn vào hùa với nhau, bênh vực nhau và chống lại trẻ. Điều này sẽ gây nên sự chống đối,
kháng cự nơi trẻ.
Có những lưu trữ thông tin cẩn thận, ghi chép các theo dõi một cách khoa học để có cơ
sở đánh giá sự thích nghi, phát triển của trẻ, quan tâm hơn nữa đến vấn đề bộc lộ xúc cảm,
tình cảm nơi trẻ. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ suy nghĩ hay
những điều các em đang bận tâm.
Phối hợp nhịp nhàng, nhất quán với các mẹ trong việc giáo dục cũng như truyền đạt
thông tin với trẻ. Hạn chế tối đa việc mâu thuẫn trong quan điểm giáo dục khiến trẻ hoang
mang, mất tin tưởng ở người lớn.
2.3. Kiến nghị đối với các bà mẹ
Bà mẹ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức SOS, đây là nhân tố chính tạo nên
không khí gia đình, là người trực tiếp nuôi dạy và sinh sống cùng trẻ. Do đó bà mẹ là người
gần gũi trẻ nhất, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển, đến tâm tư suy nghĩ của các em. Xác
định được tầm quan trọng này để các mẹ hiểu được sức ảnh hưởng của mình trong từng
hành động, lời nói.
Trước khi nhận trẻ, người mẹ cũng rất cần biết những thông tin đầy đủ nhất có thể về trẻ,
chuẩn bị tâm thế đón nhận trẻ, và cả cách tiếp nhận những phản ứng ban đầu (trong giai
đoạn này trẻ thể hiện xúc cảm, tình cảm khá rõ).
Do có điều kiện sống gần trẻ và có những tác động trực tiếp, người mẹ có rất nhiều cơ
hội tác động đến các em trên nhiều phương diện trong đó có vấn đề bộc lộ xúc cảm, tình
cảm của trẻ. Khi xác định được tầm quan trọng của đời sống tình cảm đối với mỗi con
người, người mẹ sẽ luôn ủng hộ, khuyến khích vào tạo mọi điều kiện để những đứa trẻ vốn
gặp nhiều bất hạnh sẵn sàng bộc lộ những điều dấu kín. Đó có thể là niềm vui bé nhỏ cũng
có thể là nỗi buồn chất chứa từ lâu.
Trong đời sống hàng ngày, có rất nhiều vấn đề, nhiều tình huống dễ gây tổn thương cho
trẻ, thêm vào đó vốn dĩ những trẻ ở Làng lại rất nhạy cảm và thiếu thốn tình cảm. Trong cư
xử người mẹ cần làm sao cho trẻ hiểu, cảm nhận được tình thương yêu chứ không phải trách
mắng, ghét bỏ vì không phải mẹ ruột, càng tránh việc để trẻ hiểu rằng mẹ có những hành
động thiên vị, không công bằng đối với những đứa con trong gia đình SOS. Sự gần gũi, hỏi
120
han, tận tâm và công bằng nơi người mẹ cũng là tiền đề tạo niềm tin để trẻ có thể bộc lộ tâm
tư, tình cảm sâu kín trong lòng mình.
Có sự phối kết hợp chặt chẽ với các giáo dục viên trong giáo dục trẻ. Mẹ là người gần
gũi, cận kệ các con nhất và cũng có thể là người hiểu chúng nhất. Do vậy, cần thông tin cho
các giáo dục viên kịp thời khi trẻ có những biểu hiện đáng lo ngại. Tránh trường hợp để các
trường hợp diễn biến trầm trọng.
Bản thân người phụ nữ chấp thuận trở thành bà mẹ ở Làng SOS là sự hy sinh lớn lao,
kèm theo đó là sự tận tâm và có tấm lòng đối với trẻ. Tuy nhiên trong quá trình làm việc với
đối tượng đặc biệt này với vô vàn hoàn cảnh, xuất xứ khác nhau, các mẹ gặp không ít những
khó khăn, áp lực và cả buồn khổ. Vậy nên, mỗi người mẹ cần biết cách chăm sóc bản thân
mình, biết tìm nguồn hỗ trợ, giúp đỡ để có thể giải tỏa căng thẳng và nâng đỡ tinh thần cho
các mẹ trong quá trình làm việc – công việc làm mẹ. những người mẹ có thoải mái về mặt
tình thần mới có thể làm việc tốt được. Họ có bộc lộ xúc cảm, tình cảm của mình thì mới dễ
dàng chấp nhận và khuyến khích trẻ bộc lộ tình cảm của chúng.
2.4. Kiến nghị đối với các tổ chức xã hội, mạnh thường quân, tình nguyện viên
Là những tổ chức có lòng hảo tâm, muốn đóng góp sức mình cả về vật chất lẫn tinh thần
để giúp đỡ trẻ mồ côi. Tuy nhiên, sự thể hiện lòng tốt không phải khi nào cũng là điều tốt
đối với trẻ. Tinh thần thiện nguyện được thể hiện sao cho trẻ cảm thấy mình không chỉ được
quan tâm, chia sẻ, được giúp đỡ chân thành mà còn cảm thấy được tôn trọng.
Tránh những hoạt động quá phô trương mà không quan tâm đến cảm xúc của trẻ. Sự
thăm hỏi, gặp gỡ sẽ trở nên có ý nghĩa hơn khi được thực hiện cùng với sự tôn trọng trẻ
bằng những hành động rất nhỏ như báo trước về cuộc gặp gỡ, hỏi ý kiến trẻ, cho chúng
quyền quyết định... Những cuộc viếng thăm quá thường xuyên, quá nhiều người lại quá hời
hợt dễ làm trẻ có cảm xúc tiêu cực, chán ghét và cảm giác giống như mình bị dòm ngó.
Các tình nguyện viên đến giúp đỡ các em cần có sự chuẩn bị về mặt chương trình, tìm
hiểu về đối tượng mình sẽ làm việc và có thời gian đủ lâu để hoàn thành mục tiêu. Tránh
những trường hợp làm giữa chừng gây những thất vọng, thiếu tin tưởng trong lòng các em,
dễ dẫn đến những xúc cảm tiêu cực.
“Của cho không bằng cách cho”, dù là món quà vật chất hay tinh thần, cách thể hiện nó
đúng mực, dựa trên tình yêu thương và quý trọng con người sẽ có tác dụng nâng đỡ tinh
thần, làm các em thêm tin yêu vào cuộc sống, thêm quý trọng những gì mình đang có và có
niềm tin vào cộng đồng.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. A.I.Zakharov(1987), Liệu pháp tâm lý loạn thần kinh chức năng ở trẻ em và thiếu niên,
người dịch Lê Hải Chi, Nxb Y học Hà Nội
2. Amelie ALIPHAT, Claude STERNIS, Hãy vẽ cho tôi một “bonhomme” (Đánh giá năng
lực trí tuệ của trẻ em Việt Nam, từ 4 – 11 tuổi, thông qua tranh vẽ người), người dịch
THAN Thi Man với sự giúp đỡ của Jean-Noel CHRISTINE (tài liệu của Đơn vị tâm
lý Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tp HCM, không ghi rõ năm dịch)
3. Vũ Thị Chín (2001), Mẹ và con, Nxb Văn Hóa Thông Tin Vũ Cao Đàm – Phương pháp
nghiên cứu Khoa học – Nxb Khoa học kỹ thuật Trần Thị Minh Đức, Nhận biết tâm lý
trẻ em qua tranh vẽ - Nxb Khoa học kỹ thuật
4. Vũ Dũng (2000),Từ điển Tâm lý học, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội
5. Vũ Cao Đàm (2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học kỹ thuật.
6. Kathryn Geldard & David Geldard (2000), Công tác tham vấn trẻ em tập 1 và 2, Dịch và
biên tập: Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc (tài liệu lưu hành nội bộ khoa phụ nữ học,
Đại học Mở bán công Tp HCM)
7. Trần Thị Minh Đức (2008), Nhận biết tâm lý trẻ em qua tranh vẽ, Nxb Khoa học kỹ
thuật.
8. Daniel Goleman (2007), Trí tuệ cảm xúc, Nxb Lao Động – Xã hội
9. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Thị Thu Mai (2007), Tâm lý học tiểu học và tâm lý học sư
phạm tiểu học, Nxb ĐHSP.
10. Dương Thị Diệu Hoa (2008), Giáo trình tâm lý học phát triển, Nxb ĐHSP.
11. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
12. Hà Thị Huyền (2006), Luận văn tốt nghiệp Đại học chuyên ngành tâm lý học, “sơ bộ tìm
hiểu sự bộc lộ cảm xúc của trẻ mồ côi qua tranh vẽ”, trường Đại học Văn Hiến.
13. Lê Khanh (2007), Khám phá trẻ em qua nét vẽ, Nxb Phụ nữ
14. Karl Koch Test vẽ cây – (Đỗ Hồng Anh dịch)
15. Marvin Klepsh and Laura Logie, Children draw and tell (trẻ em vẽ và bộc lộ) người
dịch: Lưu Huy Khánh, Hà Nội 1994)
16. Phan Trọng Ngọ (2001), Tâm lý học trí tuệ, Nxb ĐHQG Hà Nội.
17. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
122
18. Huỳnh Văn Sơn (2012), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb ĐHSP TPHCM.
19. Nguyễn Ánh Tuyết, Lê Thị Kim Anh, Đinh Văn Vang (2001), Phương pháp nghiên cứu
trẻ em, Nxb ĐHQG Hà Nội.
20. Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
21. Nguyễn Khắc Viện(1994), Tâm lý gia đình, Nxb Thế Giới
22. Nguyễn Khắc Viện (2007), Từ điển tâm lý, Nxb Thế Giới
23. Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, người dịch Trần
Di Ái, Trần Bình An, Lã Thị Bưởi, Nguyễn Thị Khánh Hợi, Nguyễn Viết Thiêm,
Nguyễn Việt, hiệu đính GS Nguyễn Việt,Viện sức khỏe tâm thần bệnh viện tâm thần
trung ương, Hà Nội 1992.
24. http://www.avschool.edu.vn/mamnon/index.php?option=com_content&view=article&id
=565%3Acach-ngi-m-dy-tr-mu-giao&catid=104%3Atam-ly-giao-dc-
chung&Itemid=170&lang=vi
25. http://www.tamlyhocthankinh.com/tam-benh-ly/cac-hoc-thuyet-tam-ly/phat-trien-cam-
xuc
Tiếng Anh
26. David Edwards (2004), Art therapy, Nxb Sage (London, Thousand Oaks, New Delhi)
27. Gerald D.Oster, Patricia Gould Crone(2004), Using Drawing in assessment and
therapy, Nxb Brunner-Routledge (London and New York)
28. James Sengendo & Janet Nambi (2007),The psychological effect of orphan-hood: a
study of orphans in Rakai district, (Báo cáo của giảng viên khoa xã hội học, đại học
Makerere, Uganda)
29. Marian Liebmann (2004), Art therapy for groups, Nxb Routledge (London and New
York)
30. Nagy Fauzy & Amira Fouad (2007), Psychological and developmental status of
orphanage children: Epidemiological study, (báo cáo của giảng viên khoa tâm thần
học đại học Zagazing, Ấn Độ).
31. Sally Skaife and Val Huet (1998), Art Psychotherapy Groups (between pictures and
words), Nxb Routledge (London and New York)
32. Ruth E.Hartley, Lawrence K.Frank, Robert M.Goldenson (1967), Understanding
children’s play, Nxb Columbia University Press.
123
33. http://www.divorcehelpforparents.com/effects-of-conflict.html
34. http://www.mentalhelp.net/poc/view_doc.php?type=doc&id=11455&cn=11
124
PHỤ LỤC
Để bổ sung thêm tư liệu cho khảo sát tâm lý. Rất mong đại diện BGĐ, các GDV và các Mẹ có thể trả lời
những câu hỏi sau. Mọi câu trả lời đều được đảm bảo bí mật và chỉ dùng trong khảo sát này. Chân thành cảm
ơn!
PHỤ LỤC 1:Câu hỏi phỏng vấn
Xúc cảm là những rung động của con người đối với từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ có liên quan đến
nhu cầu, động cơ của người đó trong những tình huống nhất định.(buồn bã khi bị la mắng, mừng rỡ khi
gặp người thân...)
Tình cảm là những rung động biểu thị thái độ của con người đối với một loạt sự vật, hiện tượng có liên
quan đến nhu cầu, động cơ của chủ thể. (mang tính ổn định hơn, yêu thương ai đó, gắn bó với nới nào
đó...)
1/ Theo anh/chị việc giúp trẻ bộc lộ xúc cảm- tình cảm có quan trọng không? Tại sao?
2/ Đối với trẻ ở làng SOS thường có những vấn đề xúc cảm- tình cảm nào là phổ biến?
3/ Đối với trẻ ở làng SOS, thường gặp những thuận lợi và khó khăn gì trong việc bộc lộ xúc cảm – tình cảm?
4/ Theo kinh nghiệm làm việc của các anh/ chị, cần làm gì để giúp trẻ ở làng SOS có thể dễ dàng bộc lộ xúc
cảm – tình cảm của trẻ?
5/ Trong quá trình làm việc anh/ chị thường gặp những khó khăn gì trong khi làm việc với những trẻ có vấn
đề về xúc cảm – tình cảm? (là khi trẻ không thể bộc lộ xúc cảm – tình cảm của mình hay biểu hiện dưới
những dạng mà người lớn không hiểu, không nắm bắt được...)
PHỤ LỤC 2:
125
PHỤ LỤC 3: TÓM TẮT CÁC TRƯỜNG HỢP
TT CÁC BUỔI GẶP TRẺ CHỦ ĐỀ VẼ NỘI DUNG VẼ TRƯỜNG HỢP GIỚI TÍNH NGÀY SINH NGÀY VÀO LÀNG CẢM XÚC, THÁI ĐỘ NỔI TRỘI
Buổi 1:23/03/2013 Vẽ nhà Trầm buồn
Buổi 2:30/03/2013 Vẽ người 1 D C T Nam 3- 2- 2002 1/7/2006 Nhớ thương người thân Ngôi nhà nhỏ bé ở Làng SOS với các anh chị ở đây Chính bản thân mình trong khu vườn của ngoại
Buổi 3:06/04/2013 Vẽ gia đình Mẹ, bản thân
Vẽ tự do
Buổi 4:13/04/2013 Buổi 5: 20/04/2013
Buổi 1: 23/03/2013 Vẽ nhà Sự gắn bó, gần gũi với anh, em trong Làng SOS Khao khát được chờ đợi, yêu thương Hồn nhiên, vui vẻ.
2 T Đ L Nam 6/6/2003 12/6/2003
Buổi 2: 30/03/2013 Vẽ người Vui vẻ, sáng tạo trẻ và các anh, em trong Làng SOS Con mèo đi chơi và ngôi nhà nhỏ Ngôi nhà và những mô tả về cảnh sống ở Làng SOS Chân dung chính em
Buổi 3: 06/04/2013 Vẽ gia đình Vẽ em cùng với Tự tin, hồ hởi
126
Buổi 4: 13/04/2013 Vẽ tự do Nhiệt tình, tự hào, chân thật
Buổi 1: 23/03/2013 Vẽ nhà
Buổi 2: 30/03/2013 Vẽ người anh và chị ở Làng SOS đi chơi Vẽ gia đình là những người thân thiết với em ở Làng SOS Ngôi nhà nhỏ và cây táo Vẽ chính em, đi hái táo
3 H T H Nam 3/3/2005 16/11/2011 Buổi 3: 06/04/2013 Vẽ gia đình Vẽ gia đình có
Buổi 4: 13/04/2013 Vẽ tự do
Buổi 1:20/04/2013 Vẽ nhà
Buổi 2:04/05/2013 Vẽ người Vui vẻ, hợp tác Thân mật, gần gũi, tự nhiên Suy tư, tập trung, cẩn thận Thoải mái, có chút trầm ngâm Trầm tĩnh, phòng vệ Tự nhiên, Hợp tác 4 T N H T Nữ 24/7/2003 13/7/2001
Buổi 3:21/05/2013 Vẽ gia đình ba mẹ, chính em và em gái Bản thân em đang chơi trốn tìm ở Làng Ngôi nhà xiêu vẹo Các chị và em trai đang chăm sóc cây ở Làng Ba, mẹ, anh trai và em gái
Buổi 4:24/05/2013 Vẽ tự do Lưỡng lự nhiều, khó diễn tả. Cảnh biểu diễn Vui vẻ,
127
nhanh nhẹn
Buổi 1:31/03/2013 Vẽ nhà văn nghệ ở trường Ngôi nhà nhỏ nhắn, đơn điệu
Buổi 2:07/04/2013 Vẽ người 5 H T K N Nữ 25/1/2002 1/10/2008
Buổi 3:14/04/2013
Buổi 4:21/04/2013 Vẽ tự do
Buổi 1: 07/04/2013 Vẽ nhà
Buổi 2: 14/04/2013 Vẽ người Vui vẻ, hợp tác, chưa sẵn sàng bộc lộ Nhanh nhẹn, vui vẻ Tự tin, hạnh phúc Trầm tĩnh, chăm chú, tập trung Phòng vệ, e ngại. Vui vẻ, chân thật, tự nhiên Hai người bạn đang chơi đùa Vẽ gia đình Mẹ và các anh chị em ở Làng Hai chị em ở Làng chơi cầu lông Ngôi nhà nhỏ, vững chãi Cô gái nhỏ đang qua nhà bạn chơi 6 P V N T Nữ 27/05/2002 13/06/2005 Buổi 3: 21/04/2013 Vẽ gia đình Hai người chị
Buổi 4: 28/04/2013 Vẽ tự do
đang làm việc ở Làng Ngôi nhà nhỏ, gia đình đóng cửa đi chơi
7 Đ T T Nam 23/11/2006 22/7/2010 Buổi 1: 07/04/2013 Vẽ nhà Ngôi nhà ma Vui vẻ, hợp tác nhưng hơi lạnh lùng Trầm buồn, mong ngóng hy vọng điều gì đó Hồ hởi, vui vẻ, đùa giỡn,
128
Buổi 2: 14/04/2013 Vẽ người
Buổi 3: 21/04/2013 Vẽ gia đình Ba mẹ và chính em
Buổi 1: 07/04/2013 Vẽ nhà Ngôi nhà và cảnh chơi ở quê
Hai chị em Buổi 2: 14/04/2013 Vẽ người 8 T T T A Nữ 27/10/2005 4/6/2010
nhanh chán Hai người bạn Lúc đầu vui vẻ sau đó lại trầm buồn, chán nản Đau buồn, khóc, nhớ thương Chân thật, hồn nhiên, buồn vui lẫn lộn Hòa nhã, vui vẻ. Nhớ thương Buổi 3: 21/04/2013 Vẽ gia đình Gia đình bên
Buổi 4: 27/04/2013 Vẽ tự do
Buổi 1:31/03/2013 Vẽ nhà Hồn nhiên, vui tươi Thân mật, chỉn chu
9 N T H Y Nữ 22/12/2006 14/4/2011 Buổi 2: 07/04/2013 Vẽ người Nhiệt tình, hợp tác
Buổi 3: 14/04/2013 Vẽ gia đình nồi bánh chưng ngày tết Hai con thỏ đi kiếm ăn Ngôi nhà nhỏ và hai bức tường Anh và chị đang chơi ở Làng SOS Chính em, hai anh và chị trong Vui vẻ, hào hứng
129
Buổi 4: 21/04/2013 Vẽ tự do nhà ở Làng SOS Ly nước và hai quả táo
Buổi 1:30/03/2013 Vẽ nhà
Buổi 2:06/04/2013 Vẽ người Nhà, cây và bé gái Nhà cây, bạn trai, bạn gái
10 L T B Nam 14/3/2005 14/12/2010
Buổi 3:13/04/2013 Vẽ gia đình Hai nữ, một Hào hứng, thân mật, tự nhiên. Trầm lặng, e ngại Có tự nhiên hơn nhưng còn dè dặt và không nói gì Trầm lặng, gần gũi hơn
nam không rõ là ai Nhà, người Buổi 4:20/04/2013 Vẽ tự do
Buổi 1: 30/03/2013 Vẽ nhà
Buổi 2: 06/04/2013 Vẽ người
11 L M P Nam 13/9/2005 14/12/2010 Buổi 3: 13/04/2013 Ngôi nhà của “người ta” Hai anh em và một người bạn Vẽ gia đình Mẹ và ba anh
Buổi 4: 20/04/2013 Vẽ tự do em Ba người đang đi chơi
Hơi buồn, mạnh dạn hơn Tự tin, hào hứng. Vui vẻ, bình thản. Nhớ thương, hay lo ra. Điềm tĩnh, thân thiện, vui tươi. 12 L T D Nam 10/3/2002 12/11/2002
130
Buổi 1: 30/03/2013 Vẽ nhà
Buổi 2: 13/04/2013 Vẽ người Rụt rè, thiếu tự tin. Điềm tĩnh, trầm buồn
Buổi 3: 20/04/2013 Vẽ gia đình Mạnh dạn hơn, buồn bã
Buổi 4: 27/04/2013 Vẽ tự do Ngôi nhà có mẹ và hai anh em Trẻ và những người bạn khác ở Làng SOS Các anh chị em ở nhiều ngôi nhà Những ngôi nhà, chị và em Trầm buồn, bình thản