BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- Nguyễn Thị Thanh Thảo NHU CẦU TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG CÔNG THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Nghề

nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời,

trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề

nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con

người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con

người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước.

Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay,

để chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là một việc không

dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay phải làm việc không đúng với

chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra,

không cảm thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự

lãng phí nhân lực rất lớn và phân bố nhân lực không hợp lý.

Tư vấn hướng nghiệp được xem là một vấn đề nóng hiện nay, nhất là trong trường phổ thông.

Khi được định hướng đúng đắn về nghề, con người sẽ yên tâm với nghề mình đã lựa chọn, có thái độ

chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có thể hoạt động tốt lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu

chọn được đúng nghề phù hợp, con người càng có nhiều cơ hội để thành đạt sau này. Nói cách khác, tư

vấn hướng nghiệp giúp cho thanh thiếu niên chọn nghề một cách có cơ sở, giúp họ có được nhận thức

đúng đắn hơn về nghề nghiệp, phát huy tối đa năng lực sáng tạo, nâng cao chất lượng cuộc sống, phù

hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, tránh

lãng phí về đào tạo và sử dụng lao động hợp lý, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội bền vững

của đất nước. Nhìn tổng quát về công tác tư vấn hướng nghiệp hiện nay thì vấn đề này còn nhiều nội

dung chưa được quan tâm hoặc chưa làm đến nơi đến chốn. Thường thì chỉ khi gần đến kỳ thi tuyển

sinh hàng năm, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền thông,

các tổ chức chính trị-xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các trường trung học phổ thông (THPT).

Điều này chỉ mới cung cấp được một số thông tin cơ bản về trường thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện

vọng…, chưa đủ cơ sở để giúp các em học sinh có những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn

nghề nghiệp tương lai. Sự hiểu biết về nghề nghiệp mà các em chọn cũng như những yêu cầu của nghề

và sự đáp ứng yêu cầu của bản thân đối với nghề còn rất hạn chế. Điều này đã làm cho các em có

những suy nghĩ sai lệch trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy học sinh rất cần

được sự định hướng đúng, được tư vấn rõ ràng và đầy đủ trong việc hướng nghiệp.

Kiên Giang cũng nằm trong thực trạng chung đó; là một tỉnh vùng sâu ven biển thuộc Đồng

bằng sông Cửu Long, chính vì vậy việc tiếp cận thông tin nghề nghiệp cũng như các hoạt động tư vấn

hướng nghiệp dành cho học sinh rất khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu cần được tư vấn của học sinh là

rất cao, các em luôn tìm đến thầy cô, các đoàn thể cũng như các tổ chức khác có liên quan để được giải

đáp mọi thắc mắc về nghề nghiệp mà các em sẽ chọn. Tuy nhiên, hiện tượng học sinh gặp nhiều khó

khăn trong việc chọn trường, chọn nghề luôn xảy ra; đa số các em đều có mong muốn được vào các

trường Đại học hoặc Cao đẳng để có một nghề nghiệp nhất định. Thế nhưng sự hiểu biết của các em về

nghề nghiệp mà các em chọn thì rất mơ hồ và hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình

học tập và nghề nghiệp của các em sau này. Có những em theo đuổi ngành học của mình cho đến khi đi

thực tập thì mới phát hiện mình không thích hợp với nghề nghiệp đã chọn; sinh viên ra trường làm việc

trái với ngành nghề chuyên môn hoặc không thể xin được việc ngày càng nhiều. Tình hình trên có

nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do các em thiếu các thông tin cần thiết nên chọn nghề

chưa phù hợp với thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Về mặt chủ quan, nhìn

chung, đa số học sinh có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng nhu cầu này còn phiến diện, học sinh chỉ

mới quan tâm chủ yếu đến các nghề có thu nhập cao, chưa quan tâm tìm hiểu các khía cạnh khác như

năng lực, hứng thú cá nhân, những yêu cầu của nghề đối với người lao động, triển vọng phát triển của

nghề ở địa phương và nhu cầu nhân lực... Đây là những nội dung thật sự cần thiết nhưng học sinh chưa

ý thức được để có nhu cầu tư vấn. Mặt khác, trong thực tế hiện nay, các nhà trường phổ thông chỉ mới

dừng lại ở việc cung cấp thông tin tối thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường đại học, cao

đẳng, mà không hề quan tâm đến những yếu tố có liên quan khác. Một số trường có tổ chức cho học

sinh tham quan các trường đại học, hoặc các xí nghiệp, cơ sở sản xuất… nhưng hoạt động này không

nhiều, và cũng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó, khi học sinh muốn tìm hiểu thêm các vấn đề

khác có liên quan thì hầu như các nhà trường đều không đáp ứng được, hoặc chưa định hướng được

cho học sinh về những nội dung cần được tư vấn giúp các em ý thức được sự cần thiết và có nhu cầu

cần phải được tư vấn khi chọn nghề.

Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tư vấn hướng

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang ”.

Nêu lên được nhu cầu về những nội dung tư vấn hướng nghiệp và mức độ biểu hiện nhu cầu về

những nội dung này ở học sinh lớp 12 THPT. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh thấy được sự cần

thiết của tư vấn hướng nghiệp, định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh khi

chọn nghề và thử nghiệm tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.

học sinh.

3.1 Đối tượng nghiên cứu:

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT.

3.2 Khách thể nghiên cứu:

Học sinh lớp 12 THPT.

4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC.

Đa số học sinh lớp 12 THPT có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng chưa xác định rõ ràng

những nội dung cần được tư vấn khi chọn nghề, dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức về nghề, trong việc

chọn nghề và những hệ quả sau đó. Nếu có biện pháp làm thay đổi nhận thức sẽ giúp học sinh hiểu

được đầy đủ sự cần thiết phải được tư vấn, từ đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp rõ ràng và đầy đủ khi

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

chọn nghề tương lai.

5.1 Nghiên cứu lý luận tâm lý học về nhu cầu và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhu cầu tư vấn

hướng nghiệp của học sinh lớp 12.

5.2 Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 hiện nay; mức độ

đáp ứng đối với nhu cầu này.

5.3 Đề xuất biện pháp tác động nhằm định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp cho

học sinh; đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của học

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

sinh.

6.1 Những cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.

6.1.1 Quan điểm hoạt động.

Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp dựa trên sự phân tích hoạt động sống, học tập của

học sinh trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.

6.1.2 Quan điểm hệ thống - cấu trúc.

Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp một cách toàn diện nhiều mặt, trong nhiều mối quan

hệ với các hiện tượng tâm lý khác.

6.1.3 Quan điểm thực tiễn.

Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp xuất phát từ thực tiễn, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp

giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra.

6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.

6.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

Tham khảo các tài liệu lý luận tâm lý học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,

khái quát hoá, hệ thống hóa các vấn đề có liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài.

6.2.2 Phương pháp điều tra và thu thập thông tin bằng bảng hỏi.

Sử dụng các phiếu điều tra bao gồm một hệ thống câu hỏi với mục đích làm khách thể nghiên

cứu bộc lộ rõ mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Phiếu điều tra nhằm làm sáng tỏ thực

trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT và những nguyên nhân của thực trạng.

6.2.3 Phương pháp trò chuyện.

Là phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra; thông qua phương pháp này nhằm thu thập

thêm thông tin để làm rõ thêm những nhận xét trong đề tài.

6.2.4 Phương pháp thực nghiệm: tư vấn cá nhân; tư vấn trực tiếp; tư vấn gián tiếp; tham quan

thực tế.

6.3 Phương pháp thống kê toán học:

Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được. Cách xử lý số liệu theo

7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.

phương pháp thống kê toán ứng dụng trong giáo dục học và tâm lý học.

7.1 Giới hạn về đối tượng : Mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh.

7.2 Giới hạn về khách thể : Học sinh lớp 12 THPT.

7.3 Giới hạn về địa bàn : Số liệu được thu thập trên 620 học sinh tại 7 trường THPT. Nguyễn

Trung Trực, THPT. Huỳnh Mẫn Đạt, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Hà

8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI.

Tiên, THPT. Định An huyện Gò Quao, THPT. Châu Thành tỉnh Kiên Giang.

8.1 Đưa ra được một thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. tỉnh Kiên

Giang.

8.2 Cung cấp tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh

THPT. sống trong những điều kiện khó khăn ở vùng sâu, vùng xa; học sinh dân tộc ở Đồng bằng sông

Cửu Long.

8.3 Góp phần làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp có hiệu quả.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Lược sử nghiên cứu vấn đề.

Tư vấn hướng nghiệp đang phát triển khá mạnh trong hệ thống giáo dục đương đại của thế giới

hiện nay, không chỉ là ở các nước phát triển như Pháp, Mỹ, Anh…. mà ở cả những nước đang phát

triển cũng rất quan tâm, trong đó có Việt Nam. Đây được xem như là một công cụ hữu hiệu mang tính

chiến lược nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục và tạo ra sự phù hợp giữa hoạt động trong nhà trường và

thị trường lao động ngoài xã hội để hướng tới việc tăng cường chức năng xã hội của các cơ sở giáo dục

trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh phát triển lành mạnh. Đồng thời, tư vấn hướng nghiệp được coi

là điều kiện không thể thiếu cho sự lựa chọn và phát triển đúng đắn nghề nghiệp của thế hệ trẻ.

1.1.1 Nghiên cứu ở nước ngoài

Hướng nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, bắt đầu từ năm 1850 đến 1940, gắn liền với những cá

nhân như Francis Galton, Wilheim Wundt, James Cattell, Alfred Binet, Frank Parsons, Robert Yerkes,

và E. K. Strong. Cuối những năm 1800, một hệ thống công nghiệp với quy mô lớn ra đời đã làm thay

đổi mạnh mẽ môi trường làm việc và điều kiện sống. Khu vực đô thị phát triển, cùng với tốc độ phát

triển và tập trung hoá công nghiệp đã thu hút rất nhiều người dân lao động từ các khu vực nông thôn.

Để đáp ứng được các yêu cầu của các nhà máy công nghiệp và điều kiện sống khắc nghiệt, chật chội

trong những khu nhà ổ chuột, một nhu cầu đổi mới đã xuất hiện, một vài nhà nghiên cứu bắt đầu quan

tâm đến hành vi con người, quan tâm đến các điều kiện sống và làm việc trong xã hội bị thay đổi bởi

cuộc cách mạng công nghiệp. Những điều kiện khách quan trên để phôi thai và cho ra đời một ngành

khoa học, ngành tham vấn nghề. [15]

Nước Mỹ có phòng tư vấn nghề đầu tiên trên thế giới do Frank Parsons thành lập vào năm

1908 ở Boston. Nhiệm vụ của phòng này là tư vấn cho thanh niên có nhu cầu tìm kiếm công ăn việc

làm và giúp cho họ chọn được những nghề phù hợp với năng lực, sở trường của mình, nói một cách

khác, họ giúp cho học sinh lựa chọn công việc một cách khôn ngoan, và thực hiện việc di chuyển tiếp

cận từ trường học đến công việc phù hợp.

Hiện nay, ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tư vấn nghề với chương trình công nghệ và dạy nghề,

họ cũng đã đưa môn “Hướng dẫn chọn nghề” (Career Guidance) vào giảng dạy trong trường phổ

thông. Từ bậc trung học đến đại học đều có các cố vấn tâm lý làm việc trong trường. Công việc của họ

xuất phát từ nhu cầu lựa chọn một nghề phù hợp trong tương lai của học sinh, họ đưa ra lời khuyên cho

học sinh nên nộp đơn xin vào học trường đại học nào phù hợp với trình độ và năng khiếu học sinh.

Chương trình giáo dục THPT được cấu tạo mềm, gồm chương trình A và B. Từ khi vào học lớp 9,

người cố vấn đã chỉ cho học sinh nên học theo chương trình nào tuỳ theo nhu cầu, nguyện vọng của em

đó sau này muốn học lên đại học ngành gì hay sau khi học xong phổ thông sẽ đi làm.

Ở Pháp, năm 1948 đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” đề cập đến vấn đề hướng

nghiệp cho thanh niên. Để phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhà trường Pháp đặt giáo dục

lao động, thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trường, đào tạo

“tiền nghề nghiệp” là cơ sở cho việc học tập liên tục về sau và chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc

sống lao động. Tháng 3/1991 các nhà tư vấn hướng nghiệp trở thành nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý.

Các nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý được phân về trường phổ thông và đại học là công chức nhà

nước. Toàn bộ khu vực chuyên môn do các nhà chuyên môn đảm nhiệm. Cùng với giáo viên và phụ

huynh học sinh theo thời điểm mong muốn, các nhà tư vấn hướng nghiệp tổ chức thường xuyên, liên

tục các kiểm tra hệ thống về sự phát hiện bằng các trắc nghiệm tâm lý, kiến thức để đưa ra các thông

tin xác đáng. Từ đó cho học sinh những lời khuyên nhằm tránh những thiên hướng sai lệch, hướng học

sinh vào con đường thành công đúng theo nhu cầu và nguyện vọng của học sinh.

Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp để

chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề tuỳ theo trình độ học tập của mỗi em. Khi học sinh có

nhu cầu tìm hiểu nghề nghiệp mình muốn học thì giáo viên chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng

nghiệp, với những trường dạy nghề để tư vấn cho học sinh.

Ở các nước trong khu vực Châu Á cũng có sự quan tâm đến vấn đề này. Tại trường trung học

phổ thông, dù là trường công lập hay tư thục thì ở các em bắt đầu xuất hiện nhu cầu tìm hiểu và lựa

chọn nghề nghiệp tương lai. Và việc định hướng tương lai cho học sinh đều bắt đầu từ năm lớp 10

thông qua giờ hoạt động câu lạc bộ hoặc hướng dẫn riêng cho từng em của giáo viên chủ nhiệm. Lớp

11 nhà trường mời các giảng viên ở bên ngoài như những sinh viên đã ra trường hay những lãnh đạo

các doanh nghiệp đến nói chuyện về kinh nghiệm bản thân hay hoạt động ở doanh nghiệp của họ. Lớp

12 nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan để định hướng cho tương lai.

Ngoài các nội dung giáo dục bắt buộc trong chương trình dạy học, đa số các nước đều có môn

tự chọn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát triển các xu hướng học lên (Academic) hoặc học một

nghề phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng học sinh.[27]

Như vậy, việc điểm qua tình hình của một số nước trên thế giới cho ta thấy việc tư vấn hướng

nghiệp cho học sinh phổ thông là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy, hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh

giá dựa trên kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về nhân cách tương lai. Nhà trường cần phải

có những nhà tư vấn hướng nghiệp chuyên môn để giúp học sinh lựa chọn khoá học thích hợp với nhu

cầu, hứng thú, năng lực của học sinh (có tính đến nhu cầu của thị trường lao động), dự báo những khó

khăn trong học tập và giúp học sinh giải quyết những khó khăn đó.

1.1.2 Nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hướng nghiệp của

học sinh THPT, trong đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.

Thực trạng công tác tư vấn hướng nghiệp được nhiều tác giả nghiên cứu như Nguyễn Viết Sự,

Hà Thị Đức, Lưu Xuân Mới... Các tác giả này đề cập đến vấn đề nội dung tư vấn hướng nghiệp còn

nghèo nàn, chưa thu hút và đáp ứng được nhu cầu cần tư vấn của học sinh THPT, những người làm

công tác tư vấn hướng nghiệp tuy nhận thức được rất rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác

này đối với học sinh nhưng họ lại thiếu thông tin và điều kiện cần thiết để làm tốt. Bên cạnh đó các tác

giả cũng nói đến các nhân tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh và họ cho rằng việc lựa

chọn nghề nghiệp phần lớn là do cá nhân học sinh quyết định (chiếm 46%), ít chịu sự tác động từ gia

đình và các giáo viên. [24]

Trong nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề

nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT” cũng đã nhấn mạnh đến nguyện

vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế

với nhiều nước trên thế giới, vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế,

công nghệ tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo xu thế

phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ nhỏ, từ mẫu người lý tưởng,

có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo yêu cầu của cha mẹ... Do đó có thể có sự không

phù hợp giữa sở thích và nguyện vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở

thích và khả năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi trọng.

Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái gì. Bên cạnh đó, sự hiểu

biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc, không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông

tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận

thức đúng đắn về nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy, biểu tượng về nghề nghiệp mà

học sinh định chọn không rõ ràng, phiến diện cũng là điều dễ hiểu. [31]

Tác giả Nguyễn Ngọc Minh trong công trình nghiên cứu “Nhận thức của giáo viên về tư vấn

hướng nghiệp trong nhà trường THPT” đã nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp hiện nay trong

nhà trường THPT là hầu hết các trường THPT đều đặc cách các giáo viên kiêm nhiệm thêm công tác

này, cho nên quá trình chuẩn bị thông tin, kiến thức cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường

của các giáo viên còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống. Tác giả cũng nêu lên được thái độ của giáo

viên đối với vai trò của tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường: đa số các giáo viên đều nhận biết và

thông hiểu một cách thấu đáo và sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, nhận biết được sự mong mỏi

của học sinh về một ban chuyên trách tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường để giúp các em lựa chọn

nghề nghiệp, trường thi khi các em ở những năm cuối cấp. Gần như 100% học sinh đều chọn ý kiến

mong muốn trong nhà trường có ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc

chọn nghề.[24]

Tác giả Phạm Ngọc Anh và Đỗ Thị Hoà với công trình nghiên cứu “Nguyện vọng nghề của học

sinh phổ thông và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó” - hầu hết học sinh THPT (89,4%) đều có

nguyện vọng học tiếp đại học, chỉ có một phần nhỏ các em là có nguyện vọng học nghề (4,7%) và các

yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng học nghề chủ yếu phụ thuộc vào phẩm chất tâm lý, sự định hướng

của các em hoàn toàn mang tính chất chủ quan cảm tính.

Tác giả Nguyễn Ngọc Bích đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên học sinh, trong đó

động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự

sau:

- Khả năng của bản thân.

- Tính chất quan trọng của nghề nghiệp.

- Khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Nữ thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: do yêu cầu của Nhà nước, vị trí xã hội

của nghề nghiệp, thực hiện được khả năng của mình.

Theo tác giả thì sự lựa chọn ngành nghề của cả nam và nữ có sự khác nhau. Tác giả chỉ đưa ra

một số động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của học sinh và đánh giá động cơ nào là

quan trọng với họ, nhưng chưa quan tâm đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp.[5]

Trong các công trình nghiên cứu của mình về vấn đề hướng nghiệp, tác giả Phạm Tất Dong đã

xem xét một cách sâu sắc và có hệ thống về hứng thú nghề nghiệp cũng như những vấn đề cơ bản về

nội dung, phương pháp hướng nghiệp cho học sinh. Tác giả có nhận xét sau: hứng thú môn học, hứng

thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện khả năng của mình là động cơ

mạnh nhất, quan trọng nhất trong việc lựa chọn nghề của học sinh. Hứng thú nghề nghiệp có tác dụng

thúc đẩy con người tìm tòi sáng tạo trong lao động, đi sâu vào mọi hoạt động có liên quan tới nghề

nghiệp mà mình yêu thích và hướng tới. [11]

Tác giả Nguyễn Quang Uẩn nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp của học sinh theo các chỉ số

như: Mức độ nhận thức nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp, tính ổn định của thái độ, tác giả đã

chỉ ra đặc điểm chung trong xu hướng nghề nghiệp của học sinh THPT và một số vấn đề khác. Tác giả

còn cho biết nhận thức về nghề của học sinh biết đến chưa nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của học sinh

hình thành môn chưa tập trung và chưa rõ nét.[33]

Tác giả Chu Văn Thảo với công trình nghiên cứu “Giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác

tư vấn hướng nghiệp cho học sinh tại các Trung tâm KTTH-HN ở tỉnh Bắc Ninh” đã nhấn mạnh rằng

đa số học sinh trung học trước khi chọn nghề chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn

nghề có cơ sở khoa học, các em chưa hiểu rõ về nghề nghiệp, chưa đánh giá đúng năng lực bản thân.

Sự hiểu biết về nghề của các em còn đơn giản, nghèo nàn so với thế giới nghề nghiệp vô cùng phong

phú, đa dạng, thiếu thông tin về thị trường lao động đã làm các em lúng túng, khó khăn khi chọn nghề.

Nhìn chung, nhận thức của học sinh về các lĩnh vực của nghề nghiệp còn rất chung chung, đặc biệt đối

với nghề mình định chọn các em cũng mơ hồ. Các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp trong việc lựa

chọn các hướng đi sau khi tốt nghiệp THPT. [30]

Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu đến vấn đề lựa chọn nghề và nhận thức nghề của học

sinh THPT, tác giả đã chỉ ra hiệu quả của việc lựa chọn nghề của học sinh phụ thuộc vào 3 yếu tố trên

cơ sở “Tam giác hướng nghiệp” đó là:

- Nhận thức về thế giới nghề

- Nhận thức về nhu cầu nghề của xã hội

- Tư vấn nghề. [25]

Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng chọn nghề của học sinh

THPT (lý do chọn nghề, động cơ chọn nghề, nguyện vọng chọn nghề, các nhân tố ảnh hưởng đến việc

chọn nghề của học sinh, nhận thức về nghề nghiệp của học sinh), nêu lên được thực trạng tư vấn hướng

nghiệp trong nhà trường THPT hiện nay cùng với nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở năm học

cuối cấp. Đồng thời, các công trình nghiên cứu này cũng tổng hợp được ý kiến của học sinh với mong

muốn trong nhà trường có được ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc

chọn nghề cho tương lai. Tuy nhiên, các tác giả chưa làm rõ những nội dung tư vấn hướng nghiệp nào

được học sinh quan tâm nhiều nhất, và mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thể hiện trên

từng mặt nội dung cần được tư vấn. Kết quả của các công trình nghiên cứu trên sẽ là cơ sở cho các

công trình nghiên cứu tiếp theo, và cũng là cơ sở để giúp chúng tôi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu

do đề tài đặt ra, đó là đưa ra được bức tranh thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp

12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ đó đề ra biện pháp tác động nhằm thay đổi nhận thức của học sinh về

nhu cầu tư vấn hướng nghiệp và tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp để đáp ứng được nhu cầu này

hiện nay.

1.2 Cơ sở lý luận của đề tài.

1.2.1 Nhu cầu.

a. Định nghĩa.

Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định

cảm thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu thúc đẩy con người tích cực hoạt động

nhằm tạo nên những điều kiện, những phương tiện tương ứng để thoả mãn những đòi hỏi của mình.

Nếu nhu cầu của con người được thoả mãn đầy đủ sẽ tạo ra điều kiện cần thiết để làm cho nhân cách

phát triển toàn diện và làm phát triển toàn bộ xã hội.

Nói một cách cụ thể, nhu cầu là thuộc tính cơ bản của cá nhân. Nó có tác dụng xác định xu

hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và đối với trách nhiệm của bản

thân, xét đến cùng, nó xác định lối sống và hoạt động của cá nhân.

Có nhiều định nghĩa về nhu cầu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, nhưng trong quá trình

nghiên cứu tài liệu, tác giả cho rằng các định nghĩa sau sát và phù hợp với đề tài nghiên cứu hơn.

Theo từ điển Tâm lý học “nhu cầu là một trạng thái của cá nhân được tạo ra do cá nhân đó

thiếu những đối tượng cần cho sự tồn tại và phát triển và là nguồn gốc hoạt động của cá nhân đó”. [4]

Theo A. G. Covaliop, nhu cầu là sự cần thiết mà con người cảm thấy cần phải thoả mãn của

những điều kiện nhất định của cuộc sống và sự phát triển. [3]

Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, khái niệm nhu cầu được phát biểu như sau “Nhu cầu là sự

đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.[34]

Trong đề tài này, chúng tôi chọn định nghĩa sau về nhu cầu làm cơ sở cho việc nghiên cứu

“Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.

b. Các đặc điểm cơ bản và hình thức biểu hiện của nhu cầu.

- Các đặc điểm.

Nhu cầu của con người có các đặc điểm cơ bản sau:

+ Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự

thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.

+ Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định. Tuỳ theo

phương thức thoả mãn nào nó có thể phát triển lên hoặc thoái hoá đi hoặc thậm chí biến mất đi. Bề

rộng của nhu cầu phụ thuộc vào mức độ phát triển của con người và những điều kiện vật chất của cuộc

sống

+ Nhu cầu có tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu được nảy sinh trong điều kiện nó được lặp đi lặp

lại một cách có hệ thống, do đó sẽ hình thành thói quen sử dụng một phương tiện và phương thức nhất

định để thoả mãn nhu cầu.

+ Con người điều chỉnh các nhu cầu của mình một cách có ý thức, vì vậy nhu cầu của con

người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật. Khi điều chỉnh các nhu cầu của mình, con người

không chỉ xem xét các điều kiện bên ngoài, mà còn xem xét các chuẩn mực hành vi trong xã hội. Và sự

điều chỉnh này phụ thuộc vào cấu trúc tâm lý trọn vẹn của nhân cách, vào sự được giáo dục của nhân

cách.

+ Nhu cầu của con người rất đa dạng so với nhu cầu của con vật (nhu cầu vật chất gắn liền với

sự tồn tại của cơ thể, nhu cầu tinh thần gồm có nhu cầu nhận thức, nhu cầu lao động, nhu cầu thẩm

mỹ…). [34]

- Hình thức biểu hiện của nhu cầu.

Có hai hình thức biểu hiện của nhu cầu:

+ Hình thức đầu, nhu cầu được phản ánh vào các bán cầu đại não, được ý thức và biểu hiện ra

dưới dạng một hành động có lý trí (hành động có ý chí). Đây là trường hợp tiêu biểu nhất cho con

người và có đặc điểm là quá trình thoả mãn nhu cầu tiến hành thông qua các hiểu biết và kinh nghiệm

sống. Nói cách khác, trong trường hợp này, nhu cầu của con người đã đi qua đầu óc của nó, tức là được

ý thức và biểu hiện ra trong ý chí của con người.

+ Hình thức thứ hai, biểu hiện của nhu cầu chỉ thấy có ở người trong trường hợp ngoại lệ. Nó có

đặc điểm là hành động để thực hiện ý hướng mang tính chất bồng bột hay nói đúng hơn là bột phát, ít

được ý thức.

c. Phân loại nhu cầu và đặc điểm của chúng.

Có nhiều cách để phân loại nhu cầu, nhưng thông thường người ta dựa vào đối tượng thoả mãn

của nhu cầu để chia thành nhu cầu vật chất (gồm có nhu cầu ăn, mặc, ở) và nhu cầu tinh thần (gồm có

nhu cầu nhận thức và nhu cầu thưởng thức cái đẹp). Bên cạnh đó còn có thêm một loạt nhu cầu khác

có tính chất xã hội (nhu cầu giao tiếp, lao động, hoạt động xã hội).

Theo A.G. Covaliop có các dạng nhu cầu sau:

- Nhu cầu vật chất là những nhu cầu có trước nhất, là cơ sở cho hoạt động sinh sống của con

người. Nhu cầu này hình thành trong quá trình phát triển giống loài và phát triển xã hội lịch sử của loài

người. Thoả mãn nhu cầu vật chất sẽ tạo điều kiện giải phóng nhân cách con người khỏi những thói hư

tật xấu như tham lam, ganh tị…

Nhu cầu vật chất thường chiếm ưu thế và mang hình thức xấu xa ở những người phát triển

phiến diện và thấp kém về trí tuệ, ở những người này thường không có những động cơ đẹp đẽ và cao

quí, không nghĩ đến lợi ích chung mà chỉ chú ý đến lợi ích của bản thân. Nếu nhu cầu vật chất được

thoả mãn một cách hợp lý, được phát triển một cách bình thường thì con người tìm thấy ý nghĩa trong

cuộc sống và thấy mình có ích cho tất cả mọi người.

- Nhu cầu tinh thần là những cấu thành đặc biệt, là các nhu cầu đặc trưng cho con người và chỉ

con người mới có, và nó chứng tỏ một trình độ phát triển cao của nhân cách. Nhu cầu tinh thần gồm có

nhu cầu nhận thức, khoái cảm thẩm mỹ. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định hướng chung (con

người cần hiểu biết cái thế giới trong đó mình sống) vừa là một nhu cầu riêng hay là một niềm say mê

hiểu biết các hiện tượng đặc biệt của hiện thức như hiện tượng vật lý, hoá học,…. Trên cơ sở nhu cầu

nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập. Trong trường

hợp này nhận thức không phải là mục đích mà trở thành phương tiện để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo.

Trong cuộc sống con người nhu cầu khoái cảm thẩm mỹ chiếm vị trí to lớn. Nhờ nó con người hướng

đến việc làm cho cuộc sống của mình đẹp lên.

Cơ chế biểu hiện của những nhu cầu tinh thần, chẳng hạn như nhu cầu nhận thức thì cơ chế sinh

lý trước nhất của nhu cầu nhận thức chính là phản xạ định hướng. Và cơ thể càng phát triển thì trong

hoạt động sống của nó, phản xạ định hướng càng ngày càng tăng cường. Tất cả mọi người đều có phản

xạ định hướng - tìm tòi không điều kiện, nhưng không phải người nào cũng có hứng thú rõ rệt đối với

việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Chỉ trong điều kiện dạy học và giáo dục nhất

định, phản xạ tìm tòi có điều kiện mới được hình thành và củng cố. Chính phản xạ này thể hiện nhu cầu

nhận thức của con người.

Khi ta tạm ngừng thoả mãn nhu cầu nhận thức thì điều đó sẽ làm cho nhu cầu này trở nên gay

gắt hơn, có thể làm trì trệ và suy yếu nhu cầu đó. Các nhu cầu tinh thần khi được thoả mãn sẽ không

tạm thời lắng dịu xuống mà trái lại, càng tăng lên rõ rệt. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định

hướng chung, vừa là một nhu cầu riêng, và trên cơ sở nhu cầu nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo

khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập.

- Nhu cầu xã hội : nhu cầu có vị thế xã hội, nhu cầu được xã hội đánh giá, nhu cầu tình bạn, tình

đồng chí, tình yêu, nhu cầu hoạt động xã hội… Nhu cầu xã hội thể hiện bản chất xã hội của con người.

Một trong những nhu cầu xã hội là nhu cầu giao tiếp, nhu cầu này tạo điều kiện để hình thành

những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ giữa người với người, đồng thời kích thích sự phát triển của

nhân cách. Bên cạnh đó, nhu cầu xã hội chủ đạo của nhân cách con người chính là nhu cầu lao động.

Nhu cầu lao động làm con người biết được niềm vui, niềm hạnh phúc khi nào người đó làm việc vì lợi

ích chung.

Người nào có những nhu cầu xã hội đặc biệt và những nhu cầu tinh thần phát triển thì người đó

sẽ thoả mãn những nhu cầu vật chất một cách hợp lý. Người đó sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong

hoạt động sáng tạo, làm cho con người cảm thấy hạnh phúc của cuộc sống và cảm thấy mình có ích cho

tất cả mọi người. [2]

Có một cách phân chia khác, đó là thang nhu cầu của A. Maslow. A. Maslow chia nhu cầu của

con người thành 7 nhóm nhu cầu, chúng xuất hiện từ lúc sinh và trong quá trình phát triển nhân cách

gồm có : nhu cầu sinh lý; nhu cầu được an toàn; nhu cầu được công nhận và chấp nhận; nhu cầu được

tôn trọng; nhu cầu nhận thức; nhu cầu thẩm mỹ; nhu cầu tự bộc lộ (năng lực, tài năng, các tiềm năng

sáng tạo, thể hiện bản thân).

d. Sự phát triển của nhu cầu.

Sự phát triển của nhu cầu có thể được xét ở hai phương diện, đó là phương diện xã hội lịch sử

và phương diện phát sinh cá thể. Trong quá trình phát triển lịch sử, bắt buộc phải diễn ra quá trình tăng

thêm và ngày càng phân hoá các nhu cầu. Về mặt phát triển cá thể, sự phát triển của nhu cầu bắt đầu từ

sự thoả mãn những nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ. Ngay từ rất bé, đứa trẻ đã bộc lộ hoạt động định

hướng tìm tòi, thể hiện ở nhu cầu muốn nhận thức thế giới xung quanh. Nếu được thoả mãn thì hoạt

động này được củng cố và mở rộng thêm. Trái lại nếu không được thoả mãn, nhu cầu này sẽ bị ức chế

và tàn lụi đi.

Sự hình thành và phát triển các nhu cầu phải tuân theo một số qui tắc sau đây:

1. Nhu cầu chỉ có thể được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có

hệ thống hay là được thực hiện một hoạt động nhất định. Điều đó làm cho cơ thể nói riêng và toàn bộ

nhân cách nói chung trở nên quen thuộc với một kiểu hoạt động nhất định. Tất cả mọi nhu cầu mới đều

được hình thành theo kiểu thói quen; cơ chế hoạt động của nó cũng vậy.

2. Nhu cầu phát triển trong điều kiện được “tái sản xuất mở rộng”. Điều đó tạo điều kiện để

những phương tiện thoả mãn nhu cầu được trở nên phong phú hơn và phát triển hơn. Nhu cầu xuất hiện

và phát triển trong quá trình hoạt động.

3. Sự tiến triển của nhu cầu sẽ dễ dàng hơn nếu hoạt động không làm trẻ kiệt quệ đi, đặc biệt là

thoạt đầu, mà trái lại tương đối dễ thực hiện vì điều đó làm cho con người có thái độ tích cực đối với

hoạt động ấy. Vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ hoạt động và tạo điều kiện cho trẻ có những thành công

bước đầu là một vấn đề rất quan trọng.

4. Một điều rất quan trọng để phát triển nhu cầu là sự chuyển tiếp từ hoạt động tái tạo sang hoạt

động sáng tạo. Điều đó không những làm cho con người có thái độ xúc cảm tích cực đối với hoạt động

mà hơn nữa, còn thấy rằng nó là thiên hướng cơ bản của mình.

5. Nhu cầu sẽ được củng cố khi ta có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó và ý nghĩa của nó đối với

bản thân ta. Điều đó được sự giáo dục và dư luận tập thể hỗ trợ thêm [2]

1.2.2 Tư vấn hướng nghiệp.

1.2.2.1 Hướng nghiệp.

Có nhiều khái niệm khác nhau về hướng nghiệp, nhưng để phù hợp với đề tài, chúng tôi chọn

khái niệm sau để làm cơ sở cho việc nghiên cứu:

“Hướng nghiệp là những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, y học và nhiều khoa học khác để

giúp đỡ học sinh phù hợp với yêu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với

những năng lực, sở trường và điều kiện tâm lý cá nhân nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có

hiệu quả nhất lực lượng dự trữ sẵn có của đất nước”. [35]

Có thể nói, hướng nghiệp là sự kết hợp tương đối hài hoà giữa nhu cầu của mỗi cá nhân và nhu

cầu xã hội; đặt nhiệm vụ đào tạo con người cho xã hội làm nhiệm vụ trung tâm trước tiên, đồng thời

luôn đảm bảo tính cá thể trong sự phát triển tự do của mỗi nhân cách. Mặt khác hướng nghiệp cũng đề

cập tới tính chất phức tạp của công tác hướng nghiệp, đòi hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ

phận xã hội, nhằm giải quyết hợp lý lực lượng lao động dự trữ sẵn có của đất nước.

Nói một cách cụ thể, hướng nghiệp chính là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn bị

cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lao động sản xuất. Đây là một hệ thống các biện pháp tác động của

gia đình, nhà trường và xã hội cùng phối hợp thực hiện, trong đó nhà trường phải nắm giữ vai trò chủ

đạo trong việc hướng dẫn thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi mà xã

hội đang cần, đồng thời cũng phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân.

1.2.2.2 Tư vấn hướng nghiệp.

a. Tư vấn.

Theo các chuyên gia hiệp hội tâm lý học Mỹ “Tư vấn tâm lý là quá trình giúp cá nhân khắc

phục những trở ngại tâm lý trong quá trình trưởng thành, khiến người ta phát triển một cách lý tưởng”.

[29]

Tổ chức tư vấn thế giới định nghĩa như sau “Tư vấn là một quá trình trợ giúp dựa trên các kỹ

năng, trong đó một người dành thời gian, sự quan tâm và sử dụng thời gian một cách có mục đích để

giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác định và triển khai các giải pháp khả thi trong thời gian cho

phép”. [29]

Người tư vấn có thể đóng vai trò như người chịu trách nhiệm tìm ra những giải pháp (R.

Schein, 1969); hay thu thập thông tin, chẩn đoán vấn đề và đề xuất giải pháp (D.J. Kurpius & J.C.

Brukbaker, 1976); hoặc là người định hướng, điều phối tiến trình giải quyết vấn đề (R. Blake & J.S.

Mouton, 1976)…

Với tác giả Trần Thị Giồng thì “Tư vấn là sự tương tác giữa nhà tư vấn và thân chủ, trong quá

trình này, nhà tư vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ tự giải

quyết vấn đề đang gặp phải”. [26]

Nhìn chung, theo định nghĩa của các tác giả về tư vấn thì tư vấn chính là quá trình thu thập

thông tin, chẩn đoán vấn đề thân chủ đang vướng mắc, sau đó bằng những kỹ năng và kiến thức chuyên

môn giúp thân chủ tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.

Tóm lại, tư vấn là quá trình trợ giúp của nhà tư vấn đối với thân chủ bằng cách sử dụng tối đa

những kiến thức chuyên môn và kỹ năng mà nhà tư vấn có để giúp thân chủ giải quyết những vấn đề

khó khăn đang vướng mắc. Tư vấn vừa phải có tính chuyên nghiệp, vừa phải có tính hệ thống.

b. Tư vấn hướng nghiệp.

Theo tác giả Phan Thị Tố Oanh (tr.20): Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống biện pháp tâm lý giáo

dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực

đó với những yêu cầu do nghề đặt ra với người lao động, có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của địa

phương, xã hội, trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên về chọn nghề, có căn cứ khoa học, loại bỏ

những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn khi chọn nghề nhằm mục đích giúp thanh thiếu niên nhận ra

chính mình, tạo điều kiện cho họ phát huy cao độ sở trường cũng như trong bước đường hoạt động

nghề nghiệp tương lai. [27]

Theo P.A Savin “Tư vấn nghề thực hiện chức năng liên kết giúp cho học sinh đối chiếu hứng

thú, sở thích và khả năng vốn có của mình với nhu cầu của nền kinh tế quốc dân” [26]

Theo K.K Platonov “Tư vấn nghề là hệ thống những hình thức y học và những hình thức tác

động đa dạng khác nhằm phát hiện, nhằm khám phá những khả năng tinh thần và thể lực của học sinh

trong lựa chọn nghề” [26]

Trong từ điển Tâm lý học Đức (55tr-63) “Tư vấn nghề là hoạt động tư vấn giúp các cá nhân

đặc biệt là thanh niên trong quá trình định hướng tìm chọn cũng như thay đổi nghề”

Như vậy, theo nhận định của phần đông các tác giả (trong và ngoài nước) thì mục đích của tư

vấn hướng nghiệp chính là giúp học sinh nhận biết được những đặc điểm tâm sinh lý vốn có của bản

thân và những nhu cầu của xã hội trong lựa chọn nghề. Tư vấn hướng nghiệp rất có ích cho học sinh vì

nó không chỉ đề cập đến nhân cách, mơ ước, sở thích, nguyện vọng của học sinh mà còn đề cập đến

những yếu tố khác trong bức tranh nghề nghiệp rộng lớn, từ đó giúp học sinh có thể lựa chọn được cho

mình một nghề phù hợp cho tương lai. Tư vấn hướng nghiệp giúp cho học sinh có một cái nhìn từ “bên

trong” và học sinh có cơ hội lựa chọn, an tâm, dành hết năng lực và công sức của bản thân một khi đã

chọn được một nghề thích hợp cho mình. Trên cơ sở cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản của

các môn học, những hiểu biết về các ngành nghề trong xã hội, tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh nhận

thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp mà mình định chọn. Đồng thời giúp cho các em tự đánh giá những

đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân. Từ đó giúp cho các em có thể tự đối chiếu những đặc điểm tâm sinh

lý của mình với những yêu cầu của nghề nghiệp đòi hỏi, để các em tự xác định được nghề nghiệp tương

lai phù hợp của mình.

Từ sự phân tích nội hàm của khái niệm tư vấn hướng nghiệp nói trên; trong luận văn của mình,

chúng tôi sử dụng khái niệm sau đây làm công cụ để tiến hành việc nghiên cứu:

“Tư vấn hướng nghiệp là một hệ thống những biện pháp thích hợp nhằm đánh giá toàn bộ năng

lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực đó với những yêu cầu do nghề đặt

ra đối với người lao động, bên cạnh có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Trên cơ

sở đó cho họ những lời khuyên đúng đắn về chọn nghề, có căn cứ khoa học, và loại bỏ những trường

hợp thiếu chín chắn khi chọn nghề”.

1.2.3 Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT.

1.2.3.1 Khái niệm nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.

a. Khái niệm.

Chúng ta biết rằng, ý thức chọn nghề của học sinh THPT có một ý nghĩa nghiêm túc, trực tiếp,

và cấp bách. Chính ý thức này sẽ làm nảy sinh ở học sinh nhu cầu cần được tư vấn hướng nghiệp để

các em có cơ sở khoa học cho việc chọn cho mình một nghề phù hợp trong tương lai.

Nếu nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của sự tồn tại và phát triển của con người nói chung thì nhu

cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu thiết yếu đối với mỗi cá nhân khi đứng trước quyết định chọn cho

mình một nghề phù hợp và hoạt động tốt ở lĩnh vực nghề đó.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thuộc nhu cầu về nhận thức của con người, nhu cầu nhận thức

một lĩnh vực riêng, như vậy nhu cầu này sẽ có đầy đủ các đặc điểm chung của một nhu cầu nhận thức

nói chung, đồng thời có thêm những đặc điểm riêng của tư vấn hướng nghiệp. Từ cơ sở lý luận về nhu

cầu nói chung, nhu cầu nhận thức nói riêng, chúng tôi cho rằng “Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu

cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và trên cơ sở đó mỗi cá

nhân có sự đối chiếu với năng lực bản thân để chọn cho mình một nghề phù hợp”.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp với tư cách là nhu cầu nhận thức, ngoài những đặc điểm của nhu

cầu nói chung, có những đặc điểm riêng của mình. Đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là

những thông tin về nghề nghiệp (đặc điểm của nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, chống

chỉ định trong nghề), hệ thống trường đào tạo nghề, nhu cầu của thị trường lao động… Nhu cầu tư vấn

hướng nghiệp được nảy sinh trong quá trình cá nhân tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề

nghiệp và trước khi quyết định chọn nghề, từ đó cá nhân sẽ tìm phương thức để thoả mãn nhu cầu này,

đó là cá nhân tìm đến các tổ chức hoặc các chuyên gia tư vấn. Đồng thời, cá nhân có xem xét những

điều kiện bên ngoài cũng như điều kiện của bản thân (sở thích, năng lực, điều kiện sức khoẻ, điều kiện

kinh tế gia đình…) để biết cách điều chỉnh nhu cầu cho phù hợp và đạt được mục đích.

Tương tự như vậy, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT cũng mang đầy đủ

những đặc điểm của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp nhưng lại kết hợp thêm những đặc điểm riêng của

lứa tuổi học sinh lớp 12 THPT. Đây là một nhu cầu cơ bản và mang tính thiết yếu của học sinh nhằm

để nhận biết được sự phù hợp giữa các đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện riêng của cá nhân với hệ

thống nghề nghiệp, có tính đến nhu cầu của thị trường lao động, từ đó giúp các em có quyết định lựa

chọn nghề nghiệp tương lai đúng đắn và khoa học có dựa trên sự hỗ trợ của những nhà tư vấn hướng

nghiệp.

b. Các đặc điểm: Cũng như các loại nhu cầu về nhận thức khác, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp

của học sinh THPT cũng có những đặc điểm về đối tượng, về điều kiện và phương thức thoả mãn nhu

cầu, về tính chu kỳ, và mang đậm bản chất xã hội-lịch sử.

Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, và đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học

sinh THPT chính là những tri thức về nghề nghiệp học sinh định chọn trong tương lai mà học sinh

muốn có khi tham gia hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Nói một cách cụ thể, đó chính là nhận thức đúng

đắn của học sinh về thế giới nghề nghiệp, về những đặc điểm tâm sinh lý của bản thân, về những điều

kiện riêng của bản thân, cũng như về nhu cầu của thị trường lao động. Từ sự nhận thức đó sẽ giúp cho

học sinh tạo lập được kỹ năng tìm kiếm và chọn lọc thông tin cần thiết, kỹ năng phân tích, đánh giá và

tự đánh giá bản thân trong mối tương quan với nghề nghiệp mà các em định chọn. Để có được sự nhận

thức đúng đắn đó, các em cần đến sự hỗ trợ của những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp.

Điều kiện và phương thức để thoả mãn nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT thì

bản thân hoạt động tư vấn hướng nghiệp phải được tổ chức dưới nhiều hình thức tư vấn đa dạng, phong

phú và nội dung tư vấn phải đầy đủ, sâu và rộng, giải quyết được những băn khoăn, thắc mắc của các

em. Thông qua các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm giúp các em khám phá hứng thú, năng lực

bản thân, xây dựng kế hoạch nghề nghiệp, rèn luyện cho mình những kỹ năng tương ứng với nghề

nghiệp tương lai.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng mang tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu

này chỉ được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có hệ thống. Nói một cách

khác, nhu cầu này được thể hiện ở các mức độ khác nhau theo các khối học khác nhau của học sinh, và

đòi hỏi sự thoả mãn ngày một cao hơn. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được củng cố tốt khi mà học sinh

có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó, đồng thời con người ý thức được ý nghĩa của nó đối với bản thân

con người, muốn được vậy cần phải có sự hỗ trợ thêm của giáo dục và của dư luận tập thể. Ở mức độ

cao nhất để thoả mãn nhu cầu, học sinh sẽ chủ động tìm kiếm thông tin và tham gia các hoạt động tư

vấn hướng nghiệp để tự tin ra quyết định chọn lựa nghề nghiệp tương lai.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp mang bản chất lịch sử - xã hội bởi nó gắn liền với sự phát triển

của xã hội. Sự phát triển của xã hội đã đẩy nhanh quá trình mở rộng hệ thống ngành nghề cùng với

những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động đã làm cho đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng

nghiệp ngày càng phong phú hơn, và phương thức để thoả mãn được nhu cầu cũng ngày càng đa dạng

hơn.

1.2.3.2 Đặc điểm chọn nghề của học sinh THPT.

a. Đặc điểm lứa tuổi.

Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn đầu tuổi thanh niên (14, 15 đến 17, 18 tuổi). Tuổi đầu

thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả

về mặt sinh lý: Sự phát triển của hệ xương đã hoàn thiện. Những cơ bắp tiếp tục phát triển. Nhịp độ

tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi

quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Điều này tạo

nên tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong

quá trình học tập và lao động.

Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò xã hội và hứng thú xã

hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở

thanh niên ngày càng xuất hiện nhiều các vai trò của người lớn, và họ thực hiện các vai trò đó ngày

càng có tính độc lập và có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của lứa tuổi này là chọn

nghề.

Lứa tuổi học sinh THPT đã có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là người lớn. Người

lớn bắt đầu đòi hỏi ở các em phải có tính độc lập, ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý… đồng thời lại

đòi hỏi ở các em phải thích ứng và phục tùng cha mẹ và giáo viên. Vị trí của thanh niên có tính chất

không xác định (ở mặt này các em được coi là người lớn, nhưng ở mặt khác lại không). Tính chất đó và

những yêu cầu đề ra cho thanh niên ở lứa tuổi này được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lý thanh

niên.

Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên học sinh khác rất nhiều so với hoạt

động học tập của thiếu niên; hoạt động học tập của thanh niên học sinh đi sâu vào những tri thức cơ

bản, những qui luật của các bộ môn khoa học. Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng

phong phú, các em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy, thái độ

có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Các em hiểu được rằng, vốn tri thức, kỹ

năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết để các em bước vào cuộc sống tương lai. Từ đó, nhu cầu tri thức của

các em tăng lên.

Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em đã

hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT, các em

đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri

thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan với việc chọn một nghề nhất định của học sinh. Thái độ

học tập của thanh niên học sinh được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với động cơ học

tập ở tuổi trước. Đối với học sinh THPT thì có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức,

sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến các động cơ cụ thể khác…

Nhưng thái độ học tập ở không ít học sinh còn có nhược điểm là, các em rất tích cực học học

một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, nhưng lại xao nhãng các môn học

khác, hoặc chỉ học để đạt điểm trung bình; hoặc một số học sinh cho rằng, mình không đủ khả năng

vào được đại học nên chỉ cần học đạt yêu cầu là được… Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát

triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của thanh niên học sinh

trong hoạt động học tập.

Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các năng lực trí tuệ; tính

chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tuy nhiên, thiếu sót cơ bản trong hoạt

động tư duy của nhiều em là thiếu tính độc lập; chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của

bản thân, kết luận vội vàng theo cảm tính, hoặc thiên về việc tái hiện tư tưởng của người khác, cách

luận chứng của người khác… [15,53]

Học sinh THPT đã trưởng thành như một người lớn nhưng các em chưa phải là người lớn. Mặc

dù trong nhận thức của các em đã có tính chủ định nhưng các em chưa hoàn toàn độc lập suy nghĩ mà

còn lệ thuộc vào người lớn rất nhiều. Chính vì vậy, nhận thức của các em về chọn nghề cũng như xu

hướng chọn nghề mang những nét đặc trưng riêng của lứa tuổi.

b. Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề. Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình

chọn nghề.

- Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề.

Ở lứa tuổi học sinh THPT, nhu cầu tự ý thức được phát triển mạnh mẽ, khiến các em quan tâm

sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, và sự tự ý thức này xuất phát từ

yêu cầu của cuộc sống và hoạt động. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn

nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai; và các em coi trọng những phẩm chất bên

trong. Ở lứa tuổi này, các em có thể xây dựng được thế giới quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ

thống quan điểm; và sự hình thành thế giới quan này được thể hiện ở tính tích cực nhận thức. Một vấn

đề quan trọng cần được nhắc đến trong thế giới quan của các em đó là việc chọn vị trí xã hội tương lai

cho bản thân và các phương thức đạt đến vị trí xã hội ấy - trước hết là việc lựa chọn nghề một cách có ý

thức, đây là công việc khẩn thiết đối với các em; các em hiểu được rằng: cuộc sống tương lai phụ thuộc

vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề một cách đúng đắn hay không. Dù vô tâm đến đâu thì các em

cũng phải quan tâm, suy nghĩ đến việc chọn nghề. Việc quyết định chọn một nghề nào đó ở nhiều em

đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm lý, khả năng của mình với yêu cầu

của nghề nghiệp, mặc dù sự hiểu biết của các em về yêu cầu của nghề còn phiến diện, chưa đầy đủ.

Học sinh khi bắt đầu định hướng chọn nghề thì điều trước tiên đòi hỏi các em phải hiểu biết về

nghề định chọn. Tuy nhiên, hiện nay, đa số các em còn định hướng một cách phiến diện, đó là việc học

tập ở đại học, các em hướng vào các trường đại học nhiều hơn là học nghề; tâm thế này sẽ dễ có ảnh

hưởng tiêu cực đối với các em, nếu như dự định bước vào đại học của các em không thực hiện được.

Điều này cho thấy các em (vô tình hoặc cố ý) đã không chú ý đến nhu cầu của xã hội đối với các ngành

nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề trong khi quyết định đường đời cho mình. [15,68]

Xu hướng nghề nghiệp là thiên hướng chọn một nghề ổn định, và xu hướng nghề nghiệp này sẽ

thúc đẩy toàn bộ hoạt động của cá nhân để đạt kết quả như mong muốn. Thế nhưng xu hướng chọn

nghề hiện nay của học sinh thường là theo những suy nghĩ chủ quan mà không căn cứ vào năng lực, sở

trường của bản thân, cũng như nhu cầu của địa phương và xã hội. Các em lại thành kiến với một số

nghề trong xã hội, chọn nghề dựa vào dư luận xã hội và ý kiến của người khác. Chính vì không đánh

giá đúng năng lực bản thân nên lúng túng khi chọn nghề, đồng thời thiếu hiểu biết về sức khoẻ của bản

thân, không có đầy đủ thông tin chống chỉ định y học trong nghề từ đó gây nên nhiều cản trở cho các

em trong hoạt động nghề nghiệp.

- Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn nghề.

Học sinh THPT chưa có sự hiểu biết đầy đủ, chính xác về thế giới nghề nghiệp nên không thể

định hướng đúng đắn về nghề mà bản thân chọn, ít nhiều bị ảnh hưởng từ một số yếu tố khách quan.

Trên thực tế, nhiều học sinh lựa chọn, định hướng nghề theo cảm tính cá nhân, bị ảnh hưởng

của cha mẹ, người thân trong gia đình, hay của thầy cô và bạn bè; sự lựa chọn thường mang tính chủ

quan, phiến diện, thiếu thực tiễn, không phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội. Hầu hết các em

học sinh và các bậc cha mẹ đều không chú ý điều kiện phát triển của địa phương, đất nước; điều kiện

kinh tế gia đình; không đánh giá đúng năng lực bản thân, cũng như khả năng tìm việc làm sau khi ra

trường. Đồng thời, nhiều học sinh đã chọn nghề khi thấy nghề đó được xã hội ưa chuộng hay bạn bè

chọn nhiều. Cũng không ít học sinh đã chọn nghề và thi vào những trường khó trong khi năng lực bản

thân không có với suy nghĩ đơn giản là nghề đó có vẻ trí thức, được mọi người tôn trọng và có thu nhập

cao. Chính sự ảnh hưởng của những yếu tố đó đã làm nhận thức của học sinh đối với việc chọn nghề có

sự sai lệch, đồng nghĩa với việc các em không chọn được cho mình một nghề phù hợp.

1.2.3.3 Biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT được nảy sinh khi mà các em bắt đầu nhận

thức được vị trí, vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội, các em đã ý thức được rằng

mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, khi đó ở các em hình thành những hứng thú học tập gắn

liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất nhu cầu này của học sinh THPT

chính là:

- Các em bắt đầu tìm hiểu về năng lực, sở trường của bản thân, chọn chương trình học theo

phân ban phù hợp, tập trung đầu tư cho những môn học có liên quan đến ngành nghề mà các em dự

định chọn, và tìm kiếm cho mình phương pháp học thích hợp, đặt ra những kế hoạch học tập nhằm đạt

hiệu quả cao nhất.

- Có khuynh hướng mở rộng các mối quan hệ bạn bè, người thân, quen để tìm hiểu về nghề

nghiệp tương lai mà các em định chọn.

- Chủ động tìm kiếm và chọn lọc những thông tin có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, và

tham gia vào các hoạt động tư vấn hướng nghiệp của nhà trường và các tổ chức đoàn thể.

Khi đứng trước yêu cầu lựa chọn nghề tương lai cho bản thân, mỗi học sinh sẽ có nhận thức

khác nhau về lĩnh vực nghề nghiệp, khi đó các em sẽ có sự quan tâm khác nhau đối với từng nội dung

tư vấn khác nhau có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, đồng thời mức độ biểu hiện nhu cầu cần tư

vấn cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, thế giới nghề nghiệp thật rộng lớn, và con đường dẫn tới nghề

nghiệp tương lai của mỗi người là rất khác nhau. Học sinh sẽ không tránh khỏi sự hoang mang, ngỡ

ngàng trước thế giới nghề nghiệp phức tạp và đa dạng, các em không đủ tri thức và kinh nghiệm để có

cái nhìn thực tế và chính xác về tình hình xã hội cũng như trong đánh giá các điều kiện của bản thân,

khi đó các em rất dễ bị “nhiễu” bởi những dư luận xã hội. Vì vậy, các em rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ

gia đình, nhà trường và xã hội để các em có được nhận thức đúng đắn chọn cho mình một nghề phù

hợp. Nói một cách khác, các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp. Nếu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp

được thoả mãn sẽ càng làm cho nhu cầu này được phát triển mạnh mẽ hơn, đòi hỏi của nhu cầu ngày

càng cao hơn và chất lượng hơn.

1.2.3.4 Các tiêu chí đánh giá về mức độ biểu hiện của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT, chúng tôi

đưa ra một số các tiêu chí đánh giá nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của đề tài này. Các tiêu chí này được

chia thành hai nhóm tiêu chí:

a. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp nói chung.

+ Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về các nội dung tư vấn (Hiểu biết về thế giới nghề nghiệp

cũng như hệ thống các trường đào tạo nghề; hiểu biết về thị trường lao động, nội dung và điều kiện lao

động; hiểu biết về những yêu cầu của nghề đối với người lao động và mức độ đáp ứng của bản thân;

hiểu biết về khả năng phát triển của nghề trong tương lai…)

+ Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp định chọn.

+ Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng theo từng yếu tố của thị trường lao động.

+ Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của việc chuẩn bị những phẩm chất và kỹ năng chung

nhất định của nghề định chọn.

b. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.

- Tiêu chí đánh giá mức độ quan tâm đến hoạt động tư vấn hướng nghiệp.

- Tiêu chí đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố đến lựa chọn nghề của học sinh.

- Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn.

- Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của sự hiểu biết về thị trường lao động khi quyết định

chọn nghề.

- Tiêu chí đánh giá mức độ hài lòng đối với các tổ chức tư vấn trong việc đáp ứng nhu cầu tư

vấn hướng nghiệp của học sinh.

1.3 Một số nội dung của hoạt động tư vấn hướng nghiệp.

1.3.1 Các hình thức tư vấn hướng nghiệp.

1) Tư vấn thông tin hướng dẫn: nhằm giới thiệu nghề, nhóm nghề mà thanh thiếu niên định

chọn qua các bản mô tả nghề. Ở đây, người cán bộ tư vấn sẽ giới thiệu về những yêu cầu do nhóm nghề

đề ra đối với những phẩm chất cá nhân của con người, đồng thời chỉ ra con đường để đạt được nghề

nghiệp và triển vọng nâng cao tay nghề.

2) Tư vấn chẩn đoán trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc nhân cách con người một cách toàn diện

được thực hiện bằng các test như: tìm hiểu hứng thú xu hướng nghề; tìm hiểu kiểu thần kinh khí chất;

trắc nghiệm tư duy; trắc nghiệm trí nhớ; trắc nghiệm trí tưởng tượng không gian; trắc nghiệm chú ý;

trắc nghiệm khả năng giao tiếp; trắc nghiệm khả năng kinh doanh... để tìm hiểu hứng thú, thiên hướng,

năng lực và những phẩm chất nghề chuyên biệt của con người. Mục đích của tư vấn chẩn đoán là xác

định trong những lĩnh vực hoạt động nào con người có thể lao động thành công nhất, tức là đem lại lợi

ích tối đa cho xã hội, đồng thời cũng đem lại niềm vui và sự hài lòng cho bản thân người lao động.

3) Tư vấn y học: người làm tư vấn đo đạc các chỉ số tâm sinh lý như thị giác, thính giác, xúc

giác, sự phối hợp cảm giác vận động, sự phối hợp hành động. Nếu như người được tư vấn mắc một

trong những bệnh thuộc loại chống chỉ định của nghề thì người cán bộ tư vấn sẽ khuyên nên chọn một

nghề khác gần gũi với thiên hướng và hứng thú, đồng thời phù hợp với trạng thái sức khoẻ của người

đó. Chẳng hạn, những người rối loạn sắc giác sẽ không được chọn những ngành nghề giao thông vận

tải, thông tin tín hiệu...

4) Tư vấn hiệu chỉnh: được tiến hành trong trường hợp ý định nghề nghiệp của con người không

phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ. Trong trường hợp này, kế hoạch nghề nghiệp của cá

nhân cần được xem xét và uốn nắn lại cho phù hợp với tình hình. Ví dụ: trên cơ sở những cứ liệu thu

được khi nghiên cứu nhân cách con người, cán bộ tư vấn sẽ khuyên thanh thiếu niên nên chọn một

nghề khác, phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của mình hơn.

Ngoài ra, người ta có thể chia tư vấn hướng nghiệp thành 2 loại: tư vấn sơ bộ và tư vấn chuyên

sâu

1) Tư vấn sơ bộ: loại này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì không đòi hỏi phải có

thiết bị, các phương tiện kỹ thuật. Chẩn đoán những phẩm chất nhân cách của học sinh không cần đòi

hỏi phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp có tay nghề cao, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực tâm

sinh lý, giáo dục học, y học, kinh tế học. Ở đây, giáo viên (chủ nhiệm hoặc bộ môn) đóng vai trò “nhà

tư vấn” cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một số trường hoặc ở địa phương,

về nhu cầu nhân lực, về năng lực của học sinh. Từ đó cho học sinh lời khuyên nên học nghề gì và học ở

đâu. Hoặc là qua những điều giảng giải của giáo viên để học sinh tự trả lời được 3 câu hỏi: Em có

muốn (thích) học nghề đó không? Em có khả năng làm nghề đó không? Xã hội, địa phương có cần

nghề đó không?

2) Tư vấn chuyên sâu: loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến hành trên cơ sở khoa học thực

sự, đảm bảo độ chính xác cao nhờ một số máy móc hiện đại (ví dụ máy đo độ chính xác của các cử

động, sự khéo léo vận động của 2 tay...). Điều kiện để tư vấn hướng nghiệp chuyên sâu là phải có đội

ngũ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao gồm các nhà

tâm lý học, giáo dục học, kinh tế học, bác sĩ có kinh nghiệm thực tế. Họ phải được huấn luyện nghiêm

chỉnh để có kiến thức về thế giới nghề nghiệp, về yêu cầu của nghề, về nhân cách, trước hết về động

cơ, hứng thú, khuynh hướng và năng lực nghề nghiệp của học sinh, về kinh tế, về nhu cầu phát triển

nhân lực của các ngành nghề kinh tế quốc dân và địa phương. Đặc biệt phải có kiến thức sâu sắc về

hướng nghiệp, tư vấn hướng nghiệp chọn nghề, kỹ thuật tư vấn hướng nghiệp, biết sử dụng thành thạo

các phương pháp test chẩn đoán khả năng trí tuệ, khả năng vận động và nhân cách của học sinh. Đương

nhiên, kèm theo các phương pháp này là những máy móc, thiết bị, những phương tiện kỹ thuật.

1.3.2 Các nội dung tư vấn hướng nghiệp.

1) Giúp học sinh tìm hiểu thế giới nghề nghiệp : các em biết được tính đa dạng phong phú của

nghề, xu hướng phát triển của nghề, các yêu cầu của nghề, đặc biệt là các yêu cầu về tâm sinh lý,

những điều kiện học nghề và vào nghề… Đồng thời, qua quá trình tìm hiểu nghề, ở học sinh sẽ xuất

hiện và phát triển hứng thú nghề nghiệp. Từ đó hình thành ở học sinh những biểu tượng đúng đắn về

những nghề cần phát triển; hình thành và rèn luyện cho các em phương pháp tìm thông tin. Một số

thông tin cụ thể như: thông tin về ngành, nhóm nghề và nghề cụ thể; thông tin về cơ sở đào tạo; thông

tin về nghề nghiệp và cơ sở đào tạo mà bản thân học sinh thích.

2) Giúp học sinh tìm hiểu thông tin về định hướng phát triển kinh tế - xã hội, về thị trường lao

động ở địa phương, cả nước và xa hơn nữa là trong khu vực và thế giới; giúp học sinh tiếp cận dần về

hệ thống thông tin về đào tạo nhân lực và việc làm, giúp các em quen dần với những tính chất, quy luật

của thị trường lao động; giúp các em thấy được đòi hỏi mới về nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá để các em có trình độ tự chủ cao hơn, có kỹ năng giao tiếp, tinh thần trách nhiệm và

sáng kiến trong lao động. Do tính biến động của thị trường lao động, người lao động cũng cần thể hiện

tính năng động, thích ứng qua việc không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn hoá.

Và những nội dung này cũng có tính đến đặc điểm nhận thức, tâm sinh lý lứa tuổi. Các nội dung cụ thể:

thông tin về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội; thông tin về thị trường lao động.

3) Giúp học sinh tự đánh giá hứng thú và năng lực nghề nghiệp của bản thân: Hứng thú là một

động lực hết sức quan trọng để con người gắn bó với nghề; hứng thú được coi như một chỉ số quan

trọng hàng đầu đ ể xét sự phù hợp người của con người. Bên cạnh đó, để có thể gắn bó với nghề, đạt

năng suất lao động cao, người lao động cần phải có năng lực chuyên môn thật sự, đóng góp được sức

lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề mình yêu thích. Hơn nữa, nghề nghiệp cũng không chấp nhận

những người thiếu năng lực, do đó giúp học sinh tự đánh giá và phát triển hứng thú, năng lực nghề

nghiệp tương lai của các em trên cơ sở phân tích những đặc điểm, những điều kiện, những hoàn cảnh

riêng của từng em một.

1.3.3 Các phẩm chất đạo đức của nhà tư vấn hướng nghiệp.

Mỗi nghề đều có những yêu cầu, đòi hỏi nhất định về phẩm chất và năng lực của người lao

động. Để thích ứng được với nghề và đạt năng suất lao động cao nhất, người lao động cần có những

phẩm chất năng lực tương ứng đáp ứng đòi hỏi của nghề. Tư vấn là một nghề mang tính chuyên nghiệp

cao. Vì vậy nghề này cũng đòi hỏi các chuyên gia phải có những phẩm chất nhất định. Trong nghề

tham vấn, các chuyên gia tham vấn thông thường phải có các phẩm chất đặc trưng sau:

- Sự thông minh, nhanh nhạy.

- Chân thật.

- Khát vọng giúp đỡ người khác.

- Tính cởi mở, nhạy cảm, nhân ái với mọi người.

- Có tấm lòng khoan dung, độ lượng và khả năng giao tiếp hoàn hảo.

Đặc biệt đối với quá trình tư vấn hướng nghiệp thì yêu cầu trong phẩm chất “Sự thông minh,

nhanh nhạy” bao hàm thêm rất nhiều các phẩm chất khác như:

- Sự hiểu biết về nghề, trường thi (chỉ tiêu), loại hình đào tạo, hình thức đào tạo, yêu cầu đặc

điểm của nghề, trường.

- Hiểu biết về sự thay đổi yêu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp.

- Các kỹ năng để đánh giá các đặc điểm tâm sinh lý, xu hướng, khí chất riêng của từng cá nhân.

1.3.4 Một số nguyên tắc tư vấn hướng nghiệp cơ bản.

Nguyên tắc tư vấn là những quy định mang tính chỉ đạo hoạt động của nhà tư vấn trong suốt

quá trình tư vấn, các nguyên tắc tư vấn chính là yếu tố phân biệt với tư cách là hoạt động nghề nghiệp

của họ.

Những nguyên tắc này được xây dựng dựa trên cơ sở triết lý. Mục đích của nghề và những kinh

nghiệm của các tổ chức, cá nhân được đúc kết trong lịch sử phát triển của nghề tư vấn. Thực hiện đúng

theo tư vấn, hoạt động tư vấn sẽ diễn ra với hiệu quả trợ giúp cao, và ngược lại, thậm chí sẽ làm hại đến

thân chủ. Vì vậy, nhà tư vấn cần nắm vững và quán triệt tốt các nguyên tắc này. Hiện nay, ở Việt Nam,

các trung tâm tư vấn, các tổ chức giáo dục đào tạo đều có tiến hành hoạt động tư vấn hướng nghiệp, các

nhà giáo dục, khoa học cũng đưa ra rất nhiều quan điểm về cơ sở lý luận của tư vấn hướng nghiệp. Tuy

nhiên, đây là một mô hình mới được phát triển ở Việt Nam vài năm trở lại đây, bên cạnh đó là có sự

tiếp nhận các quan điểm về tư vấn hướng nghiệp của Pháp, Mỹ… và các nước phát triển khác. Vì vậy,

hệ thống cơ sở lý luận về tư vấn hướng nghiệp mà được Bộ Giáo dục – Đào tạo công nhận và đưa vào

làm kim chỉ nam trong hoạt động công tác tư vấn hướng nghiệp thì hiện nay mới đang được xây dựng,

thông qua các ý kiến chuyên gia. Tạm thời tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường được coi là một

mảng của tư vấn học đường, các nguyên tắc trong tư vấn hướng nghiệp được lấy và vận dụng một cách

linh hoạt trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tư vấn. Một số nguyên tắc tư vấn cơ bản nhất:

- Nguyên tắc tôn trọng thân chủ trong quá trình tư vấn. Dành quyền tự quyết cho thân chủ. Tất

cả vì lợi ích của thân chủ.

- Nguyên tắc chấp nhận, không phán xét mọi hành vi, xúc cảm của thân chủ.

- Nguyên tắc thấu cảm.

- Nguyên tắc đảm bảo tính bí mật thông tin cho thân chủ

Tuy nhiên, đối với tư vấn hướng nghiệp, mỗi nguyên tắc này thể hiện bằng những biểu hiện

khác nhau, cụ thể là:

- Nguyên tắc tôn trọng thân chủ (học sinh) trong quá trình tư vấn – nhà tư vấn cần tôn trọng học

sinh như một nhân cách độc lập, tin vào khả năng của học sinh.

Mức độ thông hiểu nguyên tắc này được thể hiện bằng dấu hiệu nhà tư vấn chỉ ra được các lý

do hợp lý của việc cần phải tôn trọng học sinh, cần phải tin tưởng học sinh trong quá trình tư vấn. Và ý

thức được tác dụng cũng như hậu quả khi thực hiện tốt hay không tốt về nguyên tắc này trong quá trình

tư vấn.

- Với nguyên tắc dành quyền tự quyết cho thân chủ, thể hiện sự thông hiểu trong nguyên tắc

này của nhà tư vấn đó chính là chỉ ra được bản chất tư vấn không áp đặt đối tượng, mà tin tưởng ở đối

tượng trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học vấn đề mà đối tượng vướng mắc, đưa ra gợi

ý. Cuối cùng để đối tượng tự cân nhắc và đưa ra cách giải quyết vấn đề của mình vì lợi ích của bản

thân.

- Nguyên tắc thấu cảm: Sự nhận biết của nhà tư vấn về nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: nhà tư

vấn cần đặt vị trí của mình vào vị trí của học sinh để đồng cảm và hiểu những cảm xúc của các em.

Nhà tư vấn cần tránh sự đồng nhất giữa “thấu cảm” và “đồng cảm”, cũng như ý tưởng tạo lập một

khoảng cách giữa nhà tư vấn và học sinh nhằm để giữ “uy” với mục đích “giáo dục” học sinh.

- Nguyên tắc chấp nhận, không phê phán học sinh: nhà tư vấn không nên phê phán, uốn nắn,

giáo dục học sinh một cách cứng nhắc như trong hoạt động giáo dục - hoạt động mà họ đang thực hiện;

cần phải biết lắng nghe và chấp nhận học sinh, chấp nhận vô điều kiện.

Tóm lại, tư vấn hướng nghiệp không chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho học sinh những thông tin

liên quan đến nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, nhu cầu xã hội, hay hệ thống trường đào

tạo…mà còn phải giải đáp được các thắc mắc của học sinh, giúp học sinh hiểu được ý nghĩa, tầm quan

trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai, gợi ý và định hướng cho học sinh tìm hiểu những thông

tin nào là quan trọng và cần thiết cho quá trình chọn nghề, giúp học sinh có được kỹ năng tự đánh giá

được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp, biết cách tìm kiếm

được những thông tin nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề, biết

cách định hướng và lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Bên cạnh đó, tư vấn hướng nghiệp giúp học

sinh có thái độ chủ động và tự tin trong việc chọn nghề phù hợp, có hứng thú và khuynh hướng chọn

nghề đúng đắn. Tuy nhiên, tư vấn hướng nghiệp cần phải được hiểu một cách rộng hơn, là không chỉ

tác động và làm thay đổi nhận thức của cá nhân đối với nghề định chọn, mà còn phải biết làm cho cá

nhân đó hiểu được giá trị của nghề, hình thành hứng thú với nghề và tận tâm cống hiến với nghề đã

chọn. Nói cách khác, tư vấn hướng nghiệp phải làm cho cá nhân thấy được hạnh phúc khi cống hiến

toàn bộ tinh thần và sức lực cho nghề mình chọn, coi việc hoạt động trong lĩnh vực nghề là một lẽ sống

chứ không chỉ là phương tiện kiếm sống.

Tiểu kết chương 1

Từ những nội dung trình bày trên, chúng tôi cho rằng:

1) Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu

cầu của con người có nhiều loại: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần (trong đó có nhu cầu nhận thức),

và nhu cầu xã hội. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thuộc nhu cầu nhận thức về một lĩnh vực riêng, đó là

nhu cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp, trên cơ sở đó mỗi cá

nhân có sự đối chiếu với năng lực, điều kiện bản thân (có tính đến nhu cầu lao động của xã hội) để

chọn cho mình một nghề phù hợp. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp có đối tượng, đặc điểm, biểu hiện,

điều kiện và phương thức thoả mãn như một nhu cầu nhận thức, đồng thời có những đặc trưng riêng

của mình.

2) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng là nhu cầu tư vấn hướng nghiệp

nhưng có những nét riêng của đặc điểm lứa tuổi. Học sinh THPT bắt đầu nhận thức được vị trí, vai trò

của mình trong gia đình và ngoài xã hội, đã đến lúc các em thấy cần phải chuẩn bị bước vào cuộc sống

và chọn nghề nghiệp tương lai cho mình. Trong quá trình tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp và trước khi

quyết định chọn nghề, ở học sinh nảy sinh nhu cầu cần được tư vấn hướng nghiệp. Biểu hiện rõ nét của

nhu cầu này là việc học sinh bắt đầu tìm hiểu về năng lực, sở trường của bản thân, biết đối chiếu năng

lực để đầu tư việc học phù hợp, tìm kiếm phương pháp học thích hợp đối với những môn học có liên

quan đến ngành nghề mà cá nhân dự định chọn. Đồng thời, cá nhân có sự chủ động tìm kiếm, chọn lọc

các thông tin liên quan đến nghề định chọn, chủ động tìm kiếm sự tư vấn với mong muốn để có quyết

định chọn nghề đúng đắn. Tuy nhiên, thế giới nghề nghiệp đa dạng và phức tạp, học sinh chưa đủ tri

thức và kinh nghiệm để có cái nhìn chính xác, mặt khác không phải lúc nào các em cũng được tiếp

nhận sự tư vấn đúng đắn, chính vì vậy mà các em dễ bị “nhiễu” và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác

nhau của cuộc sống xã hội. Sự ảnh hưởng này đã phần nào làm cho nhận thức của học sinh đối với việc

chọn nghề có sự sai lệch, và điều này đồng nghĩa với việc các em sẽ không chọn được cho mình một

nghề phù hợp.

3) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp có thể được đánh giá thông qua hai nhóm tiêu chí, đó là nhóm

tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết của học sinh đối với nghề nghiệp (hiểu biết về nghề định chọn, hiểu

biết về thị trường lao động, hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý bản thân), và nhóm tiêu chí đánh giá mức

độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh (mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp,

mức độ cần thiết phải hiểu biết về thị trường lao động, mức độ hài lòng của học sinh đối với các tổ

chức tư vấn hướng nghiệp …).

Chương 2

TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Tổ chức nghiên cứu.

Để thực hiện nội dung nghiên cứu đã nêu trên, chúng tôi tiến hành theo 4 giai đoạn sau:

* Giai đoạn 1 (từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2009)

Xây dựng đề cương cho vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu lý luận của đề tài, soạn thảo công cụ

nghiên cứu, xây dựng khung chương trình thực nghiệm.

* Giai đoạn 2 (từ tháng 01/2010 đến tháng 02/2010)

Tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung

học phổ thông tỉnh Kiên Giang.

* Giai đoạn 3 (từ tháng 3/2010 đến tháng 4/2010)

Tiến hành triển khai thực nghiệm chính thức theo mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu

đề ra.

* Giai đoạn 4 (từ tháng 5/2010 đến tháng 8/2010)

Hoàn chỉnh đề tài và viết báo cáo khoa học.

2.2. Các phương pháp nghiên cứu.

2.2.1. Nghiên cứu lý luận.

- Mục đích: Khái quát một số vấn đề liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài nhằm giải

quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.

- Nội dung: Lý luận tâm lý học về nhu cầu, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, đặc điểm chọn nghề

và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT, mức độ biểu hiện nhu cầu và các tiêu chí

đánh giá. Xây dựng giả thuyết khoa học, xác định các khái niệm của đề tài và lựa chọn phương pháp

nghiên cứu phù hợp.

- Phương pháp: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu.

2.2.2. Nghiên cứu thực trạng.

- Mục đích: Đưa ra được bức tranh tổng thể về thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học

sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang.

- Nội dung: Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông về các mặt:

thông tin chung về nhu cầu của thị trường lao động tại địa phương và toàn tỉnh ở hiện tại và trong

tương lai; những khả năng đào tạo; những điều kiện và yêu cầu tuyển dụng; những đặc điểm của nghề

cụ thể (nội dung và điều kiện lao động; những yêu cầu, đòi hỏi của nghề đối với người lao động;

những lĩnh vực sử dụng; khả năng phát triển của nghề; điều kiện tiền lương...)

- Mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu theo công thức tính mẫu nghiên cứu đơn giản của Yamane

(1967-1986):

n = N\1 + N(e)2

Trong đó:

n : Số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra.

N : Tổng số mẫu

e : Mức độ chính xác mong muốn.

Tổng số học sinh lớp 12 toàn tỉnh Kiên Giang là 10.633 học sinh (N = 10.633), nếu ta cho phép

nghiên cứu sai số là 5% và độ tin cậy là 95%. Với công thức trên ta có: n = 10.633\1 + 10.633(0,05)2 = 385

Do chúng tôi cần nghiên cứu chính xác hơn nên cho phép sai số là 4%, như vậy số mẫu mà

chúng tôi nghiên cứu là:

n = 10.633\1 + 10.633(0,04)2 = 590

Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 7 trường THPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang gồm có: trường THPT

Định An (huyện Gò Quao); trường THPT Châu Thành (huyện Châu Thành); trường THPT Hà Tiên (thị

xã Hà Tiên); và 4 trường THPT Nguyễn Trung Trực; THPT Chuyên Huỳnh Mẫn Đạt; THPT Nguyễn

Hùng Sơn; THPT Dân tộc Nội trú tỉnh (thành phố Rạch Giá). Đồng thời, chúng tôi cũng chọn ngẫu

nhiên một số lớp 12 đại diện tại các trường đã chọn trên để tiến hành phát phiếu điều tra thực trạng.

Phiếu phát ra, sau khi thu về và loại bỏ những phiếu không hợp lệ (thiếu thông tin cá nhân; trả

lời không đầy đủ các câu hỏi) thì chúng tôi còn lại là 620 phiếu hợp lệ và được chọn làm mẫu nghiên

cứu của đề tài.

Trước khi cho học sinh trả lời các câu hỏi của phiếu khảo sát thực trạng nhu cầu tư vấn hướng

nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. tỉnh Kiên Giang, chúng tôi đã yêu cầu học sinh cung cấp một số

thông tin cá nhân có liên quan như giới tính, dân tộc, học lực, trình độ học vấn của cha mẹ, và nghề

nghiệp của cha mẹ. Đồng thời, chúng tôi cũng phân vùng địa bàn nghiên cứu. Từ những thông tin trên,

chúng tôi có thể xác định mối tương quan giữa các thông tin đó với nhu cầu và nhận thức của học sinh

đối với công tác tư vấn hướng nghiệp nhằm làm rõ nét hơn thực trạng. Các thông tin trên thu về được

tổng hợp và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả.

Tỉ lệ %

Tên huyện Gò Quao Hà Tiên Châu Thành

Số lượng 95 74 34

15,3% 11,9% 5,5%

Bảng 2.1: Mẫu nghiên cứu phân theo địa bàn

Rạch Giá Tổng cộng

417 620

67,3% 100%

Địa bàn nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên trong tổng số 14 huyện, thị, thành của tỉnh Kiên

Giang gồm có 2 huyện Gò Quao và Châu Thành, 1 thị xã Hà Tiên và 1 thành phố Rạch Giá. Số lượng

của mẫu nghiên cứu là 620 học sinh lớp 12, trong đó huyện Gò Quao (THPT. Định An) chiếm 15,3%,

thị xã Hà Tiên (THPT. Hà Tiên) chiếm 11,9%, huyện Châu Thành (THPT. Châu Thành) chiếm 5,5%,

và thành phố Rạch Giá (THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Nguyễn Trung Trực,

THPT. Chuyên Huỳnh Mẫn Đạt) chiếm 67,3%.

Giới tính

Nam Nữ Tổng cộng

Số lượng Tỉ lệ % 39,2% 60,8% 100%

243 377 620

Bảng 2.2: Mẫu nghiên cứu phân theo giới tính

Học sinh nam chiếm 39,2%, học sinh nữ chiếm 60,8%.

Dân tộc

Tỉ lệ %

Kinh Khơme Hoa Tổng cộng

Số lượng 478 105 37 620

77,1% 16,9% 6% 100%

Về thành phần dân tộc của khách thể nghiên cứu thì dân tộc Kinh chiếm 77,1%, dân tộc

Bảng 2.3: Mẫu nghiên cứu phân theo thành phần dân tộc

Khơme chiếm 16,9%, và dân tộc Hoa chiếm 6%.

Học lực

Yếu

Số lượng Tỉ lệ % 22,1%

137

Trình độ học vấn của cha

Trình độ học vấn của mẹ

Trung Bình Khá Giỏi Tổng cộng

313 170 620

50,5% 27,4% 100%

Học lực của khách thể nghiên cứu được chia thành 3 mức là Yếu, Trung Bình, và Khá Giỏi.

Bảng 2.4: Mẫu nghiên cứu phân theo học lực

Trong đó, học lực Yếu chiếm 22,1%, học lực Trung Bình chiếm 50,5%, và học lực Khá Giỏi chiếm

27,4%. Như vậy, số học sinh có học lực trung bình chiếm đa số. Các số liệu về học lực này sẽ giúp

chúng tôi tìm mối tương quan giữa học lực với nhóm ngành nghề mà học sinh định chọn.

Bảng 2.5: Trình độ học vấn của cha mẹ

Trình độ

Số lượng Tỉ lệ % Trình độ

8,4% Tiểu học

19,4% THCS 27,8% THPT

Tiểu học THCS THPT Đại học Cao học Không biết Tổng cộng

52 120 173 49 1 225 620

7,9% Đại học 0,2% Cao học 36,3% Không biết 100% Tổng cộng

Số lượng Tỉ lệ % 12,3% 24,7% 21,1% 4% 0,2% 37,7% 100%

76 153 131 25 1 234 620

Trình độ học vấn của cha mẹ được chia thành 5 mức: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học

phổ thông, Đại học, và Cao học.

Có 36,3% tổng số học sinh trả lời không biết trình độ học vấn của cha, trình độ học vấn của cha

chiếm tỉ lệ cao nhất ở bậc học THPT là 27,8%, kế đến là ở bậc học THCS chiếm 19,4%, trình độ Đại

học là 7,9%, và trình độ Cao học chỉ có 0,2%. Như vậy trình độ học vấn của cha chỉ ở mức trung bình,

ở bậc Đại học là thấp, và ở bậc Cao học là rất thấp, không đáng kể.

Có 37,7% tổng số học sinh trả lời không biết trình độ học vấn của mẹ, trình độ học vấn của mẹ

ở bậc học THCS chiếm tỉ lệ cao nhất là 24,7%, kế đến là ở bậc học THPT chiếm 21,1%, trình độ Đại

học là 4%, và trình độ Cao học chỉ có 0,2%.

Nghề nghiệp của cha

Nghề nghiệp của mẹ

Nhóm nghề

Số lượng Tỉ lệ %

Nhóm nghề

Nông nghiệp Ngư nghiệp Tự kinh doanh Cán bộ, CNVC Nghề Khác Tổng cộng

199 49 120 146 105 620

32,1% Nông nghiệp 7,9% Ngư nghiệp 19,4% Tự kinh doanh 23,6% Cán bộ, CNVC 17% Nghề Khác 100% Tổng cộng

Số lượng Tỉ lệ % 26,4% 0,2% 18,3% 13,3% 41,9% 100%

163 1 113 82 259 620

Có nhiều cách phân chia nghề nghiệp trong xã hội, nhưng căn cứ vào thực tế các ngành nghề

Bảng 2.6: Nghề nghiệp của cha mẹ

chủ yếu của tỉnh Kiên Giang thì nghề nghiệp của cha mẹ học sinh được chia thành 5 nhóm nghề nghiệp

như sau: Nông nghiệp, Ngư nghiệp, Tự kinh doanh, Cán bộ Công nhân viên chức, Nghề khác (Nội trợ,

Làm thuê, May vá,...)

Ở nghề nghiệp của cha, nhóm nghề Nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất là 32,1%, kế đến là Cán

bộ, CNVC chiếm 23,6%, nhóm nghề Tự kinh doanh là 19,4%, nghề Khác là 17% và Ngư nghiệp là

7,9%. Như vậy nghề nghiệp của cha chủ yếu là nông nghiệp, cũng phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp

của tỉnh.

Ở nghề nghiệp của mẹ, nhóm nghề Khác chiếm tỉ lệ cao nhất là 41,9%, chủ yếu là nội trợ và đi

làm thuê. Kế đến là nhóm nghề Nông nghiệp chiếm tỉ lệ 26,4%, Tự kinh doanh là 18,3%, Cán bộ

CNVC là 13,3% và cuối cùng là Ngư nghiệp là 0,2%.

Như vậy, nông nghiệp vẫn là nghề nghiệp chủ yếu của cha mẹ học sinh.

Các thông tin về trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ được thu thập nhằm để tìm hiểu

có hay không mối tương quan giữa trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ với nhóm ngành nghề

mà học sinh định chọn.

- Phương pháp:

+ Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu khảo sát ý kiến lần 1 để điều tra thực trạng nhu cầu tư

vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT (Phụ lục1). Cấu trúc của phiếu khảo sát ý kiến lần 1 được

phân bố như sau:

1) Thông tin cá nhân của học sinh (giới tính, dân tộc, học lực trung bình, trình độ học vấn và

nghề nghiệp của cha mẹ).

2) Đặc điểm chọn nghề của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, gồm có các câu hỏi 1,2,3,4.

3) Hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp nói chung (hiểu biết về nghề, về thị trường lao động,

hiểu biết về yêu cầu của nghề đối với người lao động, những khó khăn của học sinh khi chọn nghề...)

gồm có các câu hỏi 5,6,9,12,14,16,17,18,19,20.

4) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT (mức độ quan tâm đến tư vấn

hướng nghiệp, mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn, mức độ ảnh hưởng của một số đối tượng

đến việc chọn nghề của học sinh...) gồm có các câu hỏi 7,8,10,11,13,15,21.

+ Phương pháp trò chuyện (phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra): thông qua trò

chuyện, trao đổi với Ban Giám hiệu, các giáo viên và các em học sinh về các vấn đề có liên quan đến

đề tài nhằm thu thập thêm thông tin để làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu.

- Quy trình thực hiện: bao gồm các bước: xây dựng bảng hỏi; điều tra thử; bổ sung và hoàn

chỉnh bảng hỏi; tiến hành phát phiếu và thu thập số liệu chính thức.

- Cách đánh giá: Sử dụng thang đánh giá mức độ biểu hiện 5 bậc.

2.2.3. Nghiên cứu thực nghiệm.

- Mục đích: Bước đầu thay đổi nhận thức của học sinh về sự cần thiết được tư vấn trước khi

chọn nghề.

- Nội dung:

1) Định hướng phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh giai đoạn 2010-2015.

2) Định hướng phát triển giáo dục & đào tạo của tỉnh giai đoạn 2010-2015.

3) Danh mục ngành nghề ưu tiên đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang.

4) Thông tin chung về nhu cầu của thị trường lao động trên toàn tỉnh ở hiện tại và trong tương

lai.

5) Thông tin tuyển sinh của các trường Đại học ở phía Nam.

6) Những nội dung về yêu cầu và đòi hỏi của nghề đối với năng lực của người lao động; khả

năng đáp ứng của người lao động (các tài liệu về hướng nghiệp).

7) Một số nội dung về tâm lý có liên quan đến đề tài nghiên cứu: đặc điểm lứa tuổi học sinh

THPT; xu hướng chọn nghề; mối quan hệ giữa hứng thú, năng lực, đặc điểm tâm sinh lý và việc chọn

lựa nghề nghiệp của học sinh...

- Các tài liệu đã được sử dụng trong thực nghiệm: Phụ lục 4.

- Khách thể: Mẫu nghiên cứu thực nghiệm được chia thành 2 nhóm:

+ Nhóm đối chứng (không tác động) gồm có 392 học sinh lớp 12 của 6 trường THPT (THPT.

Định An, THPT. Châu Thành, THPT Hà Tiên, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Chuyên Huỳnh Mẫn

Đạt, và THPT. Nguyễn Trung Trực).

+ Nhóm thực nghiệm (dùng một số biện pháp tác động nhằm thay đổi nhận thức) gồm có 134

học sinh lớp 12 của trường THPT. Nguyễn Hùng Sơn.

Giới tính Số lượng Tỉ lệ % 41,8% Nam 58,2% Nữ 100% Tổng

56 78 134

Bảng 2.7: Mẫu nghiên cứu phân theo giới tính:

Nam chiếm 41,8%, nữ chiếm 58,2%.

Học lực

Yếu Trung bình Khá Giỏi Tổng cộng

Số lượng Tỉ lệ % 13,4% 58,2% 28,4% 100%

18 78 38 134

Học lực Yếu chiếm 13,4%, học lực Trung Bình chiếm 58,2%, học lực Khá Giỏi chiếm 28,4%.

Bảng 2.8: Mẫu nghiên cứu phân theo học lực

Như vậy học lực Trung Bình chiếm đa số.

- Phương pháp và các bước tiến hành thực nghiệm:

+ Tư vấn cá nhân: Trưng dụng văn phòng Đoàn trường làm văn phòng trực tư vấn hướng

nghiệp trong giai đoạn tiến hành thực nghiệm (thời gian thực nghiệm từ tháng 03/2010 đến tháng giữa

04/2010 (kết thúc thời gian nhận hồ sơ đăng ký dự thi Đại học), thời gian trực tư vấn là mỗi ngày từ

7h30-11h và 13h30-17h, trừ chủ nhật); các thầy cô là cán bộ Đoàn trường đã được trao đổi công việc

và tập huấn trước để hỗ trợ thêm cho quá trình làm thực nghiệm. Trường THPT. Nguyễn Hùng Sơn có

tổng học sinh lớp 12 là 585 học sinh, mẫu nghiên cứu thực nghiệm là 134 em học sinh. Tiến hành tư

vấn cá nhân đối với tất cả các em học sinh đến với văn phòng tư vấn và có sổ nhật ký công việc để theo

dõi tiến triển quá trình thực nghiệm đối với những em học sinh thuộc nhóm thực nghiệm, đảm bảo tính

chính xác và khách quan của kết quả quả nghiên cứu, thống nhất trên mỗi đối tượng nghiên cứu.

+ Tư vấn gián tiếp (điện thoại, email, hộp thư): Cung cấp cho các em học sinh số điện thoại tư

vấn, địa chỉ email, và hộp thư riêng của văn phòng để các em học sinh có thể gửi về đó những câu hỏi

mà các em cần tư vấn.

+ Tư vấn trực tiếp: Cùng Đoàn trường phối hợp với Trường Đại học An Giang, Trường Đại

học Cần Thơ, Trường Đại học Hoa Sen (TP.HCM), 4 trường Cao đẳng trong tỉnh và Tỉnh đoàn Kiên

Giang tổ chức 2 buổi tư vấn tuyển sinh cho tất cả các em học sinh khối lớp 12 vào các ngày chủ nhật

trong tuần.

+ Tham quan thực tế: Tổ chức cho các em học sinh 2 ngày đi tham quan thực tế tại các trường

Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Đô (thành phố Cần Thơ), Đại học An Giang, Đại học Võ Trường Toản

(tỉnh Hậu Giang) và 4 trường Cao đẳng trong tỉnh.

- Kiểm tra tính khả thi của quá trình thực nghiệm: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi gồm có

6 câu hỏi thể hiện bằng Phiếu khảo sát ý kiến lần 2. Cấu trúc bảng hỏi (phụ lục 2) được phân bố như

sau:

1) Các thông tin cá nhân của học sinh (giới tính, dân tộc, học lực trung bình, ngành học đã

đăng ký trong hồ sơ dự thi Đại học).

2) Căn cứ chọn nghề của học sinh: câu số 1 (sử dụng lại câu số 1 của Phiếu khảo sát ý kiến lần

1).

3) Mức độ quan tâm của học sinh đối với tư vấn hướng nghiệp: câu số 2 (sử dụng lại câu số 7

của Phiếu khảo sát ý kiến lần 1).

4) Nhận định của học sinh về mức độ đáp ứng của các chương trình tư vấn: câu số 3.

5) Mức độ hài lòng của học sinh về kết quả tư vấn: câu số 4.

6) Sự cần thiết của việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT: câu số 5.

7) Ý kiến đóng góp của học sinh về hình thức, nội dung tư vấn hướng nghiệp trong thời gian

tới (câu hỏi mở): câu số 6.

2.2.4. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu điều tra thực trạng và sau thực nghiệm

bằng phần mềm SPSS 11.5. Các số liệu được xử lý chủ yếu bằng thống kê mô tả và kiểm nghiệm Chi

bình phương.

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. tỉnh Kiên

Giang.

3.1.1. Đặc điểm chọn nghề của học sinh lớp 12 THPT. Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc với diện tích tự nhiên là 6.222 km2, rộng

nhất trong các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đứng thứ 18 so với 64 tỉnh thành trong

cả nước. Kiên Giang có 14 huyện, thị, thành với tổng dân số năm 2003 là 1,611,746 triệu người; toàn

tỉnh có tổng cộng 49 trường THPT, với tổng số học sinh là 38.935, trong đó riêng khối 12 là 10.633

học sinh (bao gồm 10.359 học sinh công lập và 274 học sinh ngoài công lập); riêng tại thành phố Rạch

Giá có 7 trường THPT với số học sinh lớp 12 là 2.256 học sinh.

Do Kiên Giang là tỉnh ven biển, lại nằm sát biên giới nên việc tiếp cận được các nguồn thông

tin là rất khó khăn, và học sinh càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận thông tin về nghề nghiệp cũng

như được tiếp cận các hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Trong những năm gần đây Sở Giáo dục & Đào

tạo cũng đã dành rất nhiều sự quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi đến công tác này tại các

trường THPT trong toàn tỉnh, cũng đã có nhiều chuyển biến đáng kể nhưng hiệu quả chưa cao.

Hàng năm, khi gần đến kỳ thi tuyển sinh Đại học, các trường THPT mới bắt đầu liên hệ với

một số trường Đại học, Cao đẳng về làm tư vấn tuyển sinh cho học sinh trường mình (chủ yếu là các

trường Đại học gần như Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Đô, Đại học Võ Trường

Toản và 4 trường Cao đẳng trong tỉnh). Khi tư vấn tuyển sinh như vậy thì các trường chỉ tổ chức gói

gọn trong một buổi, chủ yếu các em học sinh chỉ được nghe thông tin về chỉ tiêu tuyển sinh, về điểm

chuẩn, về các ngành đào tạo, về mức học phí của trường đến làm tư vấn tuyển sinh. Khi các em có

những băn khoăn khác như về sự phù hợp nghề, về thị trường lao động, khả năng phát triển của nghề

đã chọn trong tương lai... thì hầu như không có thời gian để hỏi, hoặc không được giải thích một cách

thoả đáng. Do đó, các em tuy đã chọn cho mình một nghề cụ thể nhưng lại rất mơ hồ với sự lựa chọn

của mình. Chính vì vậy, hàng năm có rất nhiều sinh viên tốt nghiệp ở nhiều ngành nghề khác nhau

nhưng các em rất khó tham gia vào thị trường lao động trong tỉnh, một phần do các em không đáp ứng

được yêu cầu của nghề nghiệp, một phần do ngành nghề của các em chọn không có trong nhu cầu của

thị trường lao động.

Chọn nghề là một nhiệm vụ quan trọng, chi phối phần lớn suy nghĩ và hoạt động của các em

học sinh cuối cấp THPT. Thông qua việc lựa chọn nghề nghiệp, các em học sinh tỏ rõ sự trưởng thành

về năng lực lựa chọn của mình. Điều này được các em thể hiện trước nhất qua những dự định cho

tương lai.

- Dự định tương lai:

Hầu hết học sinh lớp 12 THPT. đều có những dự định trước cho tương lai, và những dự định

này của các em cũng khá đa dạng.

Dự định Học ĐH, CĐ, THCN Học nghề Đi làm ngay Vừa học vừa làm Làm kinh tế tại GĐ Chưa có dự định Lựa chọn khác Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 88,9% 2,3% 0,8% 4,4% 0,2% 2,7% 0,8% 100%

551 14 5 27 1 17 5 620

Có 97,3% tổng số học sinh đã có dự định tương lai cho mình, chỉ có 2,7% học sinh là chưa có

Bảng 3.1: Dự định tương lai của học sinh (n=620)

dự định gì cho tương lai. Trong đó, có đến 88,9% học sinh lớp 12 đã chọn sẽ tiếp tục học Đại học, Cao

đẳng sau khi tốt nghiệp THPT. Có 4,4% học sinh chọn sẽ vừa học vừa làm. Chỉ có 2,3% học sinh chọn

con đường đi học nghề. Những dự định khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Như vậy, đi học tiếp Đại học,

Cao đẳng được các em chọn chủ yếu, chiếm tỉ lệ phần trăm cao nhất. Một thực tế để chúng ta cần quan

tâm trong công tác tư vấn hướng nghiệp là hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đều

đổ xô đi thi đại học, chỉ có những học sinh trượt tốt nghiệp hay đại học mới tính đến chuyện học trung

cấp, tuy nhiên trong những em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lại đại học vào năm sau. Tâm lý

chuộng bằng cấp, thích làm thầy không thích làm thợ đã ăn sâu vào suy nghĩ của các em học sinh và cả

phụ huynh, chính vì vậy mà các em phải thi vào đại học mà không cần quan tâm đến năng lực bản thân

có hay không. Các em xem nhẹ việc học nghề, trong khi đó học Đại học không phải là yếu tố duy nhất

quyết định hay đảm bảo sự thành công của các em trong công việc hay trong cuộc sống, mà còn phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố khác, và nhất là trong tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay. Và đa số

học sinh lớp 12 đã chọn được một nghề cụ thể cho bản thân.

- Nhóm nghề định chọn của học sinh:

Tương tự như cách phân loại nghề nghiệp của cha mẹ học sinh, sau khi nghiên cứu các cách

phân loại hệ thống ngành nghề đào tạo trong xã hội hiện nay, cùng với việc căn cứ vào lựa chọn cụ thể

của học sinh, nghề nghiệp lựa chọn của học sinh được chia thành 5 nhóm nghề như sau: 1) Sư phạm; 2)

Y tế; 3) Kỹ thuật; 4) Kinh tế; 5) Ngành Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Du lịch, Diễn viên,...).

Bảng 3.2: Nhóm nghề định chọn (n=620)

Nhóm nghề

Số lượng chọn Tỉ lệ %

Sư phạm Y tế Kỹ thuật Kinh tế Ngành khác Tổng Chưa lựa chọn Tổng cộng

61 58 60 191 101 471 149 620

9,8% 9,4% 9,7% 30,8% 16,3% 76% 24% 100%

Có 76% học sinh nêu rõ được nghề nghiệp định chọn và 24% học sinh là chưa biết phải chọn

nghề gì cho phù hợp với bản thân. Trong đó có 30,8% học sinh chọn nhóm ngành Kinh tế (chiếm tỉ lệ

cao nhất), kế đó là nhóm ngành Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Diễn viên,...) là 16,3%. Nhóm

ngành Sư phạm là 9,8%, nhóm ngành Y tế là 9,4%, và nhóm ngành Kỹ thuật là 9,7%.

- Tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn:

Để tìm hiểu mối tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn của học sinh, chúng tôi phân tích số liệu bằng kiểm định Chi bình phương và được kết quả χ2 = 28.874 (với Sig = 0.000 < 0.04).

Như vậy kết quả kiểm định cho thấy có mối tương quan giữa học lực trung bình và ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.1).

Đa số học sinh có học lực Yếu chọn nhóm ngành là nhóm Khác và nhóm Kinh tế. Đối với

nhóm học sinh có học lực Trung Bình thì tỉ lệ chọn nhóm ngành Kinh tế là chiếm đa số trong tổng số

học sinh có học lực trung bình (36,3%). Nhóm học sinh Khá Giỏi cũng tương tự, tỉ lệ chọn nhóm ngành

Kinh tế cũng rất cao (54,5%).

Như vậy ta nhận thấy rõ xu hướng chọn nghề của học sinh hiện nay đa phần ngiêng về nhóm

ngành khối Kinh tế. Tuy nhiên vẫn nhận rõ sự không phù hợp lắm trong việc lựa chọn của các em vì tỉ

lệ chọn nhóm ngành Kinh tế của học sinh trung bình và học sinh yếu còn chiếm khá nhiều và chưa phù

hợp với học lực hiện tại.

- Tương quan giữa giới tính và ngành nghề lựa chọn :

Tương tự, chúng tôi được kết quả χ2 = 86.324 (với Sig = 0.000 < 0.04), như vậy kết quả kiểm

định cho thấy có mối tương quan giữa giới tính với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.2).

Học sinh nam chọn nhiều nhất nhóm ngành Kỹ thuật (88,3%), học sinh nữ thì lại ngiêng về

nhóm ngành Kinh tế nhiều hơn, đặc biệt là ở chuyên ngành Tài chính kế toán (74,3%). Ở hai nhóm

ngành Sư phạm và Y tế thì tỉ lệ nữ chọn nhiều hơn nam. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm tâm sinh

lý của nam và nữ vì đây là hai nhóm ngành nghề rất cần sự tỉ mỉ và chịu khó. Riêng ở nhóm ngành

Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Du lịch, Diễn viên,...) thì tỉ lệ chọn của nam và nữ gần như

ngang bằng nhau.

- Tương quan giữa địa bàn sinh sống và ngành nghề lựa chọn:

Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 54.684 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối

tương quan giữa địa bàn sinh sống với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.3).

Nếu xét tỉ lệ học sinh giữa thành phố Rạch Giá và các huyện, thị thì tỉ lệ học sinh tại thành phố

Rạch Giá chiếm tỉ lệ đông nhất, vì vậy tỉ lệ chọn lựa các nhóm ngành của học sinh tại RG cũng cao hơn

là cũng phù hợp. Nhưng ngay tại thành phố Rạch Giá thì sự sự chọn lựa các nhóm ngành cũng khá

chênh lệch, nhóm ngành Kinh tế vẫn chiếm đa số tỉ lệ phần trăm học sinh chọn (78%), kế đến là nhóm

ngành Khác (71,3%), và nhóm ngành Kỹ thuật (70%). Hai nhóm ngành còn lại là Y tế (55,2%) và Sư

phạm (41%) được chọn ít hơn.

- Tương quan giữa thành phần dân tộc và ngành nghề lựa chọn:

Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 39.410 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối

tương quan giữa thành phần dân tộc với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.4)

Xét giữa các thành phần dân tộc của học sinh thì dân tộc Kinh chiếm đa số, kế đến là dân tộc

Khơme, và ít nhất là dân tộc Hoa. Vì vậy sự lựa chọn ở học sinh dân tộc người Kinh chiếm tỉ lệ nhiều

nhất ở các ngành so với hai dân tộc còn lại là cũng hợp lý. Tuy nhiên, ở học sinh dân tộc Khơme, sự

lựa chọn nhiều nhất của các em là ở hai nhóm ngành Sư phạm (29,5%) và Y tế (27,6%), kế đến là

nhóm ngành Khác (14,9%) và nhóm ngành Kỹ thuật (10%). Nhóm ngành Kinh tế có tỉ lệ chọn thấp

nhất (7,3%). Ở học sinh dân tộc Hoa, hai nhóm ngành được chọn nhiều là Y tế (12,1%) và Kinh tế

(7,9%), nhóm ngành Kỹ thuật là không có học sinh nào chọn (0%).

- Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ và ngành nghề lựa chọn:

Chỉ có 50,2% học sinh biết được trình độ học vấn của cha, có tới 49,8% học sinh không biết

trình độ học vấn của cha (bỏ trống không trả lời).

Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 33.447 (với Sig = 0.001 < 0.04) cho thấy có mối

tương quan giữa trình độ học vấn của cha với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.5).

Đa số các lựa chọn nghề nghiệp của học sinh chủ yếu ở những học sinh có cha có trình độ học

vấn THCS (31,8%) và THPT (41,8%), kế đến là trình độ Đại học (13,5%) và thấp nhất và trình độ Tiểu

học (12,9%). Và ở mỗi nhóm ngành nghề thì sự lựa chọn của học sinh vẫn cao nhất đều là những học

sinh có cha có trình độ học vấn là THPT.

Tương tự như vậy, có 49,4% học sinh biết được trình độ học vấn của mẹ, có tới 50,6% học sinh

không biết được trình độ học vấn của mẹ.

Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 30.332 (với Sig = 0.002 < 0.04) cho thấy có mối

tương quan giữa trình độ học vấn của mẹ với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.6).

Chiếm tỉ lệ lựa chọn cao nhất vẫn là những học sinh có mẹ có trình độ học vấn THCS (40,5%)

và THPT (34,6%). Tuy nhiên, trình độ học vấn của mẹ tương đối thấp hơn so với trình độ học vấn của

cha, và nhìn chung thì trình độ học vấn của cha mẹ cũng có một ảnh hưởng nhất định đến việc quyết

định chọn nghề của học sinh.

- Tương quan giữa nghề nghiệp của cha mẹ với ngành nghề lựa chọn: Có 76% học sinh cho biết nghề nghiệp của cha. Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 =

66.477 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa nghề nghiệp của cha với ngành nghề

lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.7).

Ở nhóm ngành Kinh tế, tỉ lệ học sinh chọn cao nhất (27,7%) là những học sinh có cha có nghề

nghiệp là Tự kinh doanh. Điều này cho thấy nếu cha làm nghề Tự kinh doanh thì học sinh có khuynh

hướng chọn nhóm ngành Kinh tế nhiều hơn. Ở nhóm ngành Kỹ thuật, tỉ lệ học sinh chọn cao nhất

(30%) có cha là CB,CNVC. Ở ba nhóm ngành còn lại là Sư phạm (50,8%), Y tế (51,7%), và ngành

Khác (36,6%) có cha làm nghề Nông nghiệp.

Tương tự như vậy, có 76% học sinh cho biết nghề nghiệp của mẹ. Kết quả kiểm định Chi bình

phương χ2 = 69.234 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa nghề nghiệp của mẹ với

ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.8).

Những học sinh có mẹ làm ở nhóm nghề Khác (chủ yếu là nội trợ, may vá, hoặc làm thuê) có

sự chọn lựa cao ở 3 nhóm ngành Kỹ thuật (58,3%), Kinh tế (48,7%) và ngành Khác (40,6%). Những

học sinh có mẹ làm nghề nông lựa chọn nhiều nhóm ngành Sư phạm (47,5%) và Y tế (43,1%).

Nhìn chung, nghề nghiệp của cha mẹ không ảnh hưởng nhiều đến lựa chọn ngành nghề của học

sinh, phần lớn cha mẹ học sinh đều làm nghề nông là do đặc thù nền kinh tế chủ yếu của tỉnh là nông

nghiệp. Cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ (tự kinh doanh) hoặc là CB,CNVC chiếm một tỉ lệ trung bình.

Nhóm nghề khác (nội trợ, làm thuê) cũng có một tỉ lệ khá lớn vì phần đông học sinh đều có mẹ ở nhà

làm nội trợ hoặc may vá.

- Những cơ sở học sinh dựa vào khi chọn nghề:

Những cơ sở mà học sinh căn cứ vào đó khi chọn nghề được xem là lý do chọn nghề của học

sinh. Xét về phương diện rộng thì lý do chọn nghề có thể được xem là động cơ chọn nghề của học sinh.

Lý do chọn nghề của học sinh chính là cái thúc đẩy học sinh vươn tới sự xác định cho mình một nghề

nào đó. Trong việc lựa chọn nghề nghiệp, học sinh có thể có nhiều lý do khác nhau, đôi khi chọn cùng

một nghề nhưng lý do để chọn của mỗi em là khác nhau. Và trong một chừng mực nào đó, căn cứ vào

lý do chọn nghề của học sinh, chúng ta có thể đoán được chiều hướng hoạt động cũng như tính hiệu

quả trong hoạt động của cá nhân ở lĩnh vực nghề nghiệp mà cá nhân đó chọn. Thường thì trong lý do

chọn nghề của học sinh sẽ có nhiều lý do khác nhau tạo thành một tổ hợp và sẽ có một vài lý do chính.

Ở đây, chúng tôi đưa ra 11 lý do mà trên thực tế học sinh thường căn cứ vào đó để chọn nghề và yêu

cầu học sinh chọn 4 lý do quan trọng nhất đối với các em.

Lý do chọn nghề

Có thu nhập cao Phù hợp năng lực bản thân Sở thích, đam mê Nghề được ưa chuộng Bạn bè chọn nhiều Dễ xin việc Nhu cầu thực tế xã hội Theo cảm tính Theo truyền thống gia đình Theo điều kiện kinh tế gia đình Theo điều kiện sức khoẻ tâm lý

Kết quả chọn Số lượng chọn Tỉ lệ % 48,2% 299 76,9% 477 73,5% 456 10,8% 67 2,4% 15 29,7% 184 59% 366 9,4% 58 8,5% 53 304 49% 30,2% 187

Bảng 3.3: Lý do chọn nghề của học sinh (n=620).

Đa số học sinh cho rằng mình chọn nghề phù hợp với năng lực bản thân (76,9%), kế đến phù

hợp với sở thích, đam mê (73,5%), đồng thời cũng phù hợp với nhu cầu thực tế xã hội (59%). Bên cạnh

đó các em cũng quan tâm đến điều kiện kinh tế gia đình (49%), mức thu nhập của nghề (48,2%), và

điều kiện sức khoẻ tâm lý (30,2%). Kết quả như vậy cũng phù hợp với sự chọn lựa nghề của học sinh,

đảm bảo sự phù hợp nghề của các em sau này.

Để hiểu rõ hơn nhận thức của học sinh về nghề nghiệp, bên cạnh những lý do chọn nghề đã đưa

ra cho học sinh chọn, chúng tôi yêu cầu học sinh đánh giá mức độ quan trọng của từng yếu tố đó đối

với học sinh khi được tư vấn lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân, thang đánh giá gồm có 5

mức độ quan trọng từ thấp đến cao (phụ lục 3.9).

Yếu tố 1: Phù hợp với năng lực của bản thân: Có đến 90,2% học sinh chọn và chiếm tỉ lệ phần

trăm cao nhất trong các yếu tố mà học sinh đánh giá. Như vậy đa số học sinh đều hiểu rằng năng lực là

một yếu tố quan trọng để có được sự phù hợp nghề. Năng lực này được hiểu như là khả năng tiềm ẩn

về nghề nghiệp mà học sinh định chọn.

Yếu tố 2: Nghề có địa vị trong xã hội: Có 30,3% học sinh chọn. Địa vị xã hội của nghề ít được

các em quan tâm khi quyết định cho tương lai. Như vậy giá trị xã hội của nghề ít có tác dụng đối với

việc chọn nghề của học sinh, nhưng các em cũng có quan tâm đến giá trị xã hội của nghề nghiệp.

Yếu tố 3: Phù hợp với sức khoẻ bản thân: Có 66,9% học sinh chọn. Yếu tố sức khoẻ cũng khá

quan trọng để giúp cá nhân có được sự phù hợp với nghề.

Yếu tố 4: Có nhiều bạn lựa chọn nghề đó: Có 3,7% học sinh chọn. Như vậy học sinh có suy

nghĩ và sự lựa chọn riêng khi chọn nghề cho mình mà không theo xu hướng chung của bạn bè.

Yếu tố 5: Có thu nhập cao: Có 56,2% học sinh chọn, các em cho rằng thu nhập của nghề để

đảm bảo điều kiện cuộc sống và giúp cá nhân an tâm theo đuổi nghề. Đó cũng là một yếu tố đáng quan

tâm.

Yếu tố 6: Công việc không ràng buộc về thời gian: Có 29,2% học sinh chọn yếu tố này. Chính

những đặc trưng của xã hội hiện nay cần sự thích ứng cao, linh hoạt, nhanh, nhạy bén trong việc tiếp

thu những cái mới... đã làm cho thế hệ trẻ năng động ngày càng yêu thích và tìm đến những công việc

ít có sự ràng buộc về thời gian để tự chủ và phát huy tối đa tính sáng tạo.

Yếu tố 7: Phù hợp sở thích cá nhân: Có 76,3% học sinh chọn, và chiếm một tỉ lệ cũng tương

đối cao, vì hứng thú nghề nghiệp giúp cá nhân có được những khát vọng hành động và hành động một

cách sáng tạo, hứng thú nghề nghiệp là động lực thúc đẩy các em chọn nghề và là nguồn gốc cơ bản

của lòng yêu nghề, của niềm vui nghề nghiệp.

Yếu tố 8: Dễ xin việc: Có 71,1% học sinh chọn. Sau khi ra trường, mỗi cá nhân đều mong

muốn là mau chóng có được việc làm để có thể làm chủ bản thân, để được thực hiện ước mơ và hoài

bão về nghề nghiệp và góp một phần công sức cho sự phát triển chung của xã hội.

Yếu tố 9: Theo nhu cầu thực tế xã hội: Có 65,5% học sinh chọn. Như chúng ta đã biết, trong

nền kinh tế thị trường hiện nay, thì lao động cũng là một thứ hàng hoá. Cho dù hàng hoá có tốt bao

nhiêu nhưng nếu không có cầu thì cũng không thể nào giải quyết được đầu ra. Chính vì vậy mà học

sinh khi chọn nghề tương lai cho mình, bên cạnh sự phù hợp với năng lực bản thân thì cũng phải tính

đến nhu cầu thực tế của xã hội.

Yếu tố 10: Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình: Có 69,7% học sinh chọn. Kinh tế có tính

quyết định tương đối đến hiệu quả công việc. Kinh tế thoả mãn sẽ làm cho con người an tâm hơn trong

công việc. Cá nhân học sinh muốn con đường theo đuổi nghề nghiệp tương lai thuận lợi thì cũng cần

phải quan tâm đến điều kiện kinh tế gia đình có phù hợp hay không để có thể an tâm đầu tư cho quá

trình đào tạo nghề.

Yếu tố 11: Phù hợp với điều kiện sức khoẻ, tâm lý: Có 63,8% học sinh chọn. Mỗi nghề nghiệp

đều có những chống chỉ định y học riêng, chính vì vậy mà học sinh khi chọn nghề cần kiểm tra xem

nghề đó có phù hợp với sức khoẻ, tâm lý của mình hay không để đảm bảo sự an toàn trong quá trình

hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp, đồng thời làm hiệu quả công việc cao hơn.

Yếu tố 12: Theo truyền thống gia đình: Có 9,5% học sinh chọn. Thế giới nghề nghiệp vô cùng

phong phú, đa dạng, sự phát triển của xã hội kéo theo sự xuất hiện nhiều nghề mới trong xã hội. Đồng

thời, mỗi cá nhân khác nhau sẽ thích hợp với nghề nghiệp khác nhau. Chính vì vậy ngày càng ít các em

học sinh chọn nghề theo ngành nghề truyền thống của gia đình.

Nhận xét: Các yếu tố mà học sinh đánh giá là rất quan trọng và quan trọng để căn cứ khi quyết

định chọn nghề là nghề phù hợp năng lực bản thân, phù hợp sở thích và phù hợp sức khoẻ, tâm lý, đồng

thời nghề đó dễ xin việc, đúng theo nhu cầu thực tế xã hội. Mặt khác, các em cũng có chú ý đến điều

kiện kinh tế của gia đình, là điều kiện có tính quyết định sự thuận lợi của các em trong quá trình theo

đuổi việc đào tạo nghề.

Tóm lại, phần lớn học sinh chọn nghề thường căn cứ vào các lý do chủ yếu như phù hợp với

năng lực bản thân, phù hợp sở thích, đam mê, và phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình, đồng thời nghề

đó sau khi ra trường phải dễ xin việc và đem lại thu nhập cao cho người lao động. Và đó cũng là những

yếu tố được học sinh đánh giá ở mức độ quan trọng khá cao.

3.1.2. Mức độ hiểu biết của học sinh lớp 12 THPT. đối với nghề nghiệp.

3.1.2.1. Nhận thức về nghề nghiệp nói chung.

Nếu nói chọn nghề là một nhiệm vụ quan trọng, thì điều này càng đặc biệt quan trọng hơn với

học sinh lớp 12, vì đây là bước chuẩn bị để các em bước vào cuộc sống, chọn nghề phù hợp giúp các

em khẳng định bản thân, đồng thời đóng góp được nhiều hơn cho xã hội. Theo tác giả K. K. Platonov,

để chọn cho mình một nghề phù hợp, cá nhân cần phải nhận thức đầy đủ ba loại thông tin cơ bản sau:

Một là những thông tin liên quan đến thị trường lao động, nơi mà mình sẽ tham gia lao động với nghề

sau này. Hai là những thông tin liên quan đến nghề mà bản thân dự định lựa chọn. Ba là những thông

tin về đặc điểm tâm sinh lý của bản thân. Nếu hiểu biết đầy đủ và đúng đắn những thông tin trên thì cá

nhân sẽ dễ dàng chọn cho mình một nghề phù hợp, và đảm bảo thành công trong sự nghiệp sau này.

Nhận thức của học sinh về nghề nghiệp tương lai thể hiện nhu cầu cần tư vấn của học sinh khi chọn

nghề.

a. Nhận thức về thị trường lao động:

Nền kinh tế của nước ta hiện nay là một nền kinh tế được vận hành theo theo cơ chế thị trường,

vì vậy lao động cũng là một thứ hàng hoá, và giá trị của lao động hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ, kỹ

năng, thái độ của người lao động cũng như phụ thuộc vào quy luật cung-cầu của thị trường lao động.

Điều bắt buộc đối với học sinh khi các em đang trong quá trình chọn nghề là các em phải tìm hiểu kỹ

nhu cầu của thị trường lao động nói riêng, nơi mà các em sẽ tham gia lao động sau này, và nhu cầu của

nền kinh tế xã hội nói chung, để tìm được cho mình một nghề với nhiều cơ hội tuyển dụng cũng như

khả năng đóng góp cao nhất cho sự phát triển chung của xã hội.

- Nhận thức về việc tìm hiểu thị trường lao động đối với nghề định chọn.

Chính vì tầm quan trọng của thị trường lao động đối với việc hành nghề của các em sau này mà

các em cũng rất quan tâm, và có sự chủ động tìm hiểu về vấn đề này, nhưng mỗi học sinh có suy nghĩ

khác nhau về vấn đề.

Lựa chọn

Có Có nhưng chưa kỹ Không Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 53,7% 333 44,4% 275 1,9% 12 100% 620

Bảng 3.4: Tìm hiểu về thị trường lao động của học sinh (n=620)

Có 53,7% học sinh có sự chủ động tìm hiểu về thị trường lao động đối với ngành nghề mà

mình đã lựa chọn. Có 44,4% học sinh cũng có tìm hiểu nhưng chưa kỹ, chỉ có 1,9% học sinh là không

tìm hiểu về thị trường lao động khi chọn lựa nghề nghiệp cho mình. Như vậy, với kết quả trên, cho thấy

tuy đa số các em có sự quan tâm, nhưng cũng còn khá nhiều học sinh còn hời hợt, chưa quan tâm và

đầu tư cho nghề nghiệp tương lai của mình nên không có sự tìm hiểu kỹ. Các em đều nhận thức được

việc nắm bắt đầy đủ các thông tin của thị trường lao động là quan trọng và cần thiết, rất có ích cho các

em về sau nhưng các em lại thiếu sự quan tâm đúng mức. Điều này cho thấy nhận thức của các em về

thị trường lao động là còn lệch lạc.

- Các nguồn tư vấn về thị trường lao động mà học sinh thường tìm đến.

Một số nguồn tư vấn về thị trường lao động chủ yếu mà học sinh thường tìm đến để tư vấn:

Nguồn tư vấn

Gia đình Thầy cô Bạn bè Các phương tiện thông tin đại chúng Các chuyên gia, tư vấn viên Các sinh viên tình nguyện Các buổi toạ đàm, giao lưu với doanh nghiệp

Số lượng chọn Tỉ lệ % 51,8% 321 48,4% 300 36,6% 277 81,5% 505 35,6% 221 28,7% 178 14% 87

Bảng 3.5: Nguồn tư vấn về thị trường lao động (n=620).

Các phương tiện thông tin đại chúng là kênh thông tin mà học sinh thường tìm hiểu về thị

trường lao động nhiều nhất, chiếm tới 81,5%, kế đến là gia đình chiếm 51,8%, thầy cô là 48,4%, bạn bè

là 36,6% và các chuyên gia, tư vấn viên là 35,6%. Hai kênh còn lại là từ sinh viên tình nguyện và các

buổi toạ đàm, giao lưu với doanh nghiệp có tỉ lệ thấp nhất. Có một điều đáng quan tâm là trong các

nguồn tư vấn thì các phương tiện thông tin đại chúng chiếm giữ ở vị trí thứ nhất trong sự chọn lựa của

học sinh, gia đình ở vị trí thứ hai, và nhà trường (các thầy cô giáo) lại ở vị trí thứ ba. Trong khi đó, gia

đình và thầy cô có thể là 2 nguồn tư vấn để học sinh tìm hiểu thông tin khá tốt, nhưng lại đứng sau khá

xa trong sự chọn lựa của học sinh đối với các phương tiện thông tin đại chúng. Nhà trường là nơi chiếm

ưu thế nhất trong việc giáo dục, đáng lẽ phải là nơi cung cấp thông tin về nghề nghiệp đến học sinh

chính xác nhất thông qua hoạt động dạy học, và các hoạt động ngoại khoá thì lẽ ra nhà trường phải

đứng ở vị trí thứ nhất trong việc giúp học sinh nhận thức về nghề nghiệp. Có thể nói nhà trường chưa

hoàn thành tốt vai trò của mình trong việc hướng nghiệp cho học sinh. Các phương tiện thông tin đại

chúng (sách, báo, đài,...) tuy cũng là nguồn thông tin quan trọng giúp học sinh cập nhật được những

thông tin có liên quan đến nghề nghiệp, và những nguồn thông tin này học sinh có thể tiếp xúc hàng

ngày. Thế nhưng, đối với những học sinh ở vùng nông thôn khó khăn sẽ là một thiệt thòi, cơ sở vật chất

thiếu thốn làm các em khó tiếp cận với các phương tiện này. Sự lựa chọn của học sinh ở cha mẹ thấp có

thể giải thích được là tuy cha mẹ có nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng cha mẹ chưa phải là người hiểu

nghề nhiều hơn các em học sinh, bởi vì phần đông cha mẹ học sinh đều là những người nông dân. Vai

trò của các chuyên gia, tư vấn viên còn khá mờ nhạt đối với học sinh, chưa được học sinh biết đến

nhiều. Tuy nhiên chúng tôi cũng có thể lý giải được điều này, hiện nay trên thực tế thì hầu hết các

trường THPT đều do các giáo viên chủ nhiệm, hoặc cán bộ Đoàn trường kiêm nhiệm thêm công tác này

mà không có chuyên gia, hay tư vấn viên chuyên nghiệp. Ngay cả Sở Giáo dục cũng chưa có cán bộ

chuyên trách công tác này. Như vậy để học sinh được tiếp cận với các chuyên gia hay tư vấn viên là

một điều hết sức khó khăn.

- Đánh giá các nguồn tư vấn về thị trường lao động.

Khi chúng tôi hỏi học sinh “những người góp ý kiến cho em chọn nghề có tư vấn cho em về thị

trường lao động không” thì có đến 58,2% học sinh cho rằng các em cũng nhận được sự tư vấn về thị

trường lao động nhưng chỉ là những thông tin chung chung, không cụ thể, rõ ràng. Có 37,6% học sinh

trả lời là có nhận được sự tư vấn và 4,2% học sinh là không nhận được sự tư vấn nào về thị trường lao

động. Như vậy, những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh cũng có đề cập đến vấn

đề này, nhưng thông tin cung cấp đến cho học sinh còn rất chung chung, không đầy đủ, chính xác (phụ

lục 3.9).

b. Nhận thức về nghề định chọn.

Nhận thức nghề nghiệp chính là quá trình phản ánh các đặc trưng cơ bản của nghề nghiệp,

những yêu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp cũng như những yêu cầu của nghề đối với người lao

động.

Bên cạnh việc cần phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường lao động thì học sinh còn phải có

sự hiểu biết đầy đủ các thông tin về nghề mà bản thân đã lựa chọn cũng có một ý nghĩa vô cùng quan

trọng. Con người chỉ có thể yêu nghề và gắn bó được với nghề khi mà họ hiểu rõ về nghề, hiểu được

các yêu cầu của nghề đối với người lao động, hiểu được những thuận lợi và khó khăn khi hành nghề,

đồng thời hiểu được mục đích và ý nghĩa của nghề nghiệp đối với cá nhân và xã hội. Nếu học sinh có

sự hiểu biết tốt về nghề trong xã hội thì sự chọn lựa của các em sẽ thuận lợi hơn, điều đó sẽ giúp cho

các em tìm được cho bản thân một nghề phù hợp và có thể hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực nghề

nghiệp mà mình đã chọn.

- Sự cần thiết được tư vấn trước khi chọn nghề:

Tư vấn hướng nghiệp giúp cho học sinh THPT cách thức lựa chọn nghề nghiệp tương lai một

cách khoa học, trên cơ sở hình thành những hứng thú nghề nghiệp vững chắc phù hợp với những phẩm

chất, năng lực của cá nhân và yêu cầu của nghề cũng như nhu cầu của xã hội. Bản thân học sinh hiểu

rất rõ sự cần thiết của việc tư vấn hướng nghiệp.

Lựa chọn

Có Thỉnh thoảng Không Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 82,7% 513 13,7% 85 3,5% 22 100% 620

Bảng 3.6: Sự cần thiết được tư vấn trước khi chọn nghề (n=620)

Kết quả khảo sát cho thấy có đến 82,7% học sinh đã trả lời “có” khi được hỏi có cần đến sự tư

vấn, góp ý cho các em khi các em lựa chọn nghề hay không. Có 13,7% học sinh là thỉnh thoảng cần

đến sự tư vấn. Chỉ có 3,5% học sinh là không cần tư vấn. Nhìn chung, đa số học sinh đều rất cần được

sự tư vấn, góp ý khi các em lựa chọn nghề.

- Sự hiểu biết của học sinh đối với nghề định chọn.

Sự hiểu biết đối với nghề là học sinh phải hiểu được những yêu cầu của nghề đối với người lao

động, hiểu được những chống chỉ định trong nghề, cũng như hiểu được môi trường làm việc của nghề

đó.

Lựa chọn Hoàn toàn chưa biết gì Hiểu biết rất ít Tương đối hiểu biết Hiểu biết rất rõ Tổng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 3,4% 31,9% 59,5% 5,2% 100%

21 198 369 32 620

Bảng 3.7: Sự hiểu biết của học sinh đối với nghề định chọn (n=620).

Có 59,5% học sinh trả lời tương đối hiểu biết đối với nghề mình chọn. Có 31,9% học sinh hiểu

biết rất ít đối với nghề đã chọn, và 3,4% học sinh là hoàn toàn chưa biết gì. Chỉ có 5,2% học sinh cho là

mình hiểu biết rất rõ đối với nghề mà mình đã chọn. Như vậy cũng còn nhiều học sinh chọn nghề mà

chưa có sự tìm hiểu kỹ về nghề. Điều này thể hiện cho thấy học sinh có mức độ hiểu biết đầy đủ, chính

xác và sâu sắc về nghề mà các em đã chọn là không nhiều, và chắc chắn sẽ có sự ảnh hưởng không nhỏ

đến sự lựa chọn cũng như sự phù hợp nghề của các em sau này. Khi tìm hiểu kỹ hơn về kết quả này thì

chúng tôi nhận thấy rằng đa số học sinh đều nhận thức về nghề nghiệp một cách tự phát, đó là sự hiểu

biết mà học sinh thu nhận được trong cuộc sống bằng nhiều con đường khác nhau, có thể từ những

người thân trong gia đình, từ bạn bè, từ những người quen biết, hoặc từ các phương tiện thông tin đại

chúng. Chính vì vậy mà những hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp thiếu tính hệ thống và chính xác.

Và điều này có thể xảy ra hai chiều hướng, hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Nếu như nguồn thông tin

đó được cung cấp đầy đủ, rõ ràng thì học sinh có sự hiểu biết đúng, còn ngược lại thì sự hiểu biết của

học sinh rất phiến diện, sẽ có những sai lệch trong nhận thức và dẫn tới sự định hướng và chọn nghề

không chính xác. Nhưng với kết quả thu được ở đây thì chúng tôi cũng thấy là sự hiểu biết của học sinh

là rất mơ hồ.

Đồng thời, trên thực tế mức độ hiểu biết của học sinh về những yêu cầu của nghề đối với người

lao động thì còn rất ít và mơ hồ. Có 47,9% học sinh nói rằng mình biết những yêu cầu của nghề nhưng

mức độ biết rất chung chung, không cụ thể, rõ ràng. Có 7,1% học sinh hoàn toàn không biết gì. Tuy có

45% học sinh cho rằng mình có biết đến những yêu cầu của nghề đối với người lao động, nhưng khi

chúng tôi trò chuyện thêm với các em thì chúng tôi nhận thấy rằng sự hiểu biết của các em cũng không

đầy đủ (phụ lục 3.10).

c. Nhận thức về các đặc điểm tâm sinh lý cá nhân:

Cùng với sự hiểu biết về nghề, về thị trường lao động thì một yêu cầu nữa đối với học sinh là

các em phải hiểu biết được chính bản thân mình, hiểu biết về các đặc điểm tâm sinh lý cá nhân. Mỗi

một nghề nghiệp có các đặc trưng lao động riêng cũng như những yêu cầu khác nhau về năng lực, tính

cách, kỹ năng đối với người lao động. Sự phù hợp giữa các yêu cầu của nghề với các đặc điểm tâm sinh

lý của cá nhân sẽ giúp cá nhân phát huy tối đa các khả năng để thành công trong công việc. Để có được

một nghề phù hợp thì mỗi cá nhân bên cạnh nguyện vọng, sở thích còn phải có sự hiểu biết đầy đủ,

chính xác và sâu sắc các đặc điểm tâm sinh lý của chính bản thân mình. Bởi nếu đánh giá không đúng

các đặc điểm này, học sinh sẽ khó đáp ứng được các yêu cầu của nghề đối với người lao động, khi đó

học sinh không thể thích ứng và phát triển nghề nghiệp sau này. Đồng thời nếu đánh giá quá thấp do

thiếu tự tin vào bản thân, học sinh sẽ bỏ lỡ cơ hội chọn cho mình một nghề mà mình yêu thích. Chính

vì vậy mà việc tìm hiểu và đánh giá một cách khách quan về chính bản thân mình là một điều thật sự

rất khó khăn đối với học sinh. Khó là vì học sinh chưa có đủ những kiến thức cần thiết để có thể tự

đánh giá, và khó là vì học sinh chưa được hướng dẫn các kỹ năng đánh giá để các em có thể đối chiếu

những đặc điểm cá nhân có phù hợp với yêu cầu của nghề hay không. Nếu đánh giá đúng những đặc

điểm tâm sinh lý của bản thân giúp học sinh tránh được tình trạng chọn “nhầm” nghề hoặc chọn nghề

không phù hợp.

- Sự cần thiết của việc chuẩn bị trước các phẩm chất, kỹ năng của nghề nghiệp tương lai.

Mỗi một nghề trong xã hội đều có những đặc trưng riêng của nghề đó, và có những yêu cầu

riêng đối với người lao động. Để thành công trong lĩnh vực nghề mà mình chọn, con người cần phải

biết chuẩn bị cho mình những phẩm chất, kỹ năng mà nghề nghiệp yêu cầu.

Lựa chọn Không cần thiết Ít cần thiết Tương đối cần thiết Cần thiết Rất cần thiết Tổng cộng

Số lượng chọn 3 4 72 199 342 620

Tỉ lệ % 0,5% 0,6% 11,6% 32,1% 55,2% 100%

Bảng 3.8: Sự cần thiết chuẩn bị trước phẩm chất, kỹ năng của nghề

Có 55,2% tổng số học sinh đồng ý với việc chuẩn bị những phẩm chất, kỹ năng cần có cho

nghề nghiệp tương lai là rất cần thiết. 32,1% học sinh cho là cần thiết, 11,6% học sinh chọn tương đối

cần thiết. Chỉ có 0,6% học sinh cho là ít cần thiết, và 0,5% học sinh cho là không cần thiết. Kết quả

chọn của học sinh cho thấy đa số học sinh đều nhận thức khá đúng đắn đối với vấn đề. Hầu hết học

sinh cho rằng việc chuẩn trước các phẩm chất và kỹ năng mà nghề nghiệp yêu cầu là cần thiết, nhưng

nếu tìm hiểu kỹ hơn thì các em không giải thích được là cần thiết như thế nào.

- Đánh giá của học sinh về nguồn tư vấn.

Khi chúng tôi hỏi “các em có nhận được sự tư vấn nào về các phẩm chất, kỹ năng cần có của

nghề đã chọn hay không”. Có 49,2% học sinh nhận được sự tư vấn rất chung chung, 39,4% học sinh trả

lời có nhận sự tư vấn, nhưng có đến 11,5% học sinh trả lời là không nhận được sự tư vấn nào về các

phẩm chất, kỹ năng của nghề yêu cầu đối với người lao động (phụ lục 3.11).

Thực tế cho thấy rằng mỗi học sinh có một mức độ nhận thức về nghề nghiệp là khác nhau, nó

phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi người, đồng thời phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động nhận

thức của mỗi người trong việc chiếm lĩnh tri thức. Sự hiểu biết của học sinh về nghề, về các yêu cầu

của nghề là rất ít và chung chung, chính vì vậy mà các em rất cần được tư vấn, nhưng thực tế thì các

em lại không nhận được sự tư vấn đầy đủ từ các đối tượng mà các em tìm đến tư vấn, từ đó đã dẫn đến

việc học sinh có sự nhận thức mơ hồ, khiến học sinh chọn nghề không chính xác, dẫn đến một hệ quả

là sinh viên khi ra trường không tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo, không đáp ứng

được nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, công ty. Song song đó cũng tồn tại một nghịch lý là

nhiều cơ quan, doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc tuyển đủ nhân lực có chất lượng phù hợp. Từ

đó đã gây nên sự lãng phí rất lớn cản trở sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển chung

của xã hội.

3.1.2.2. Những khó khăn học sinh thường gặp phải khi lựa chọn nghề.

Trên thực tế, khi quyết định lựa chọn cho mình một nghề, học sinh thường rất lúng túng, và

gặp không ít khó khăn. Chúng tôi đưa ra 7 khó khăn mà học sinh thường gặp phải khi lựa chọn nghề

cho bản thân, đó là:

1) Nghề phù hợp với sở thích nhưng không phù hợp năng lực.

2) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng gia đình không đồng ý.

3) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng thu nhập thấp.

4) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng khả năng có việc làm thấp.

5) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng không có địa vị trong xã hội

6) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng không đảm bảo đủ sức khoẻ.

7) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng hướng phát triển không cao.

8) Nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng điều kiện kinh tế gia đình khó khăn.

Chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

Khó khăn

Khó khăn 1 Khó khăn 2 Khó khăn 3 Khó khăn 4 Khó khăn 5 Khó khăn 6 Khó khăn 7 Khó khăn 8

Kết quả chọn Số lượng chọn Tỉ lệ % 71,6% 444 26,8% 166 39,8% 247 63,9% 396 12,9% 80 31,6% 196 34,2% 212 14,4% 89

Bảng 3.9: Những khó khăn học sinh thường gặp khi chọn nghề (n=620).

Bên cạnh những khó khăn mà chúng tôi đưa ra từ đầu thì có thêm một khó khăn nữa mà học

sinh cũng thường gặp khi chọn nghề và được các em đưa ra cũng chiếm một tỉ lệ cũng tương đối là

14,4%, đó là “nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng không phù hợp với điều kiện kinh tế của gia

đình”. Chúng ta biết rằng, mỗi cá nhân muốn hoạt động tốt trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình thì

điều kiện đòi hỏi trước tiên là cá nhân đó phải có đủ năng lực nghề nghiệp, nếu chỉ có đam mê, hứng

thú thôi thì chưa đủ, nếu không có năng lực nghề nghiệp, con người sẽ không đáp ứng được các yêu

cầu do nghề nghiệp đặt ra, và không thể hoàn thành tốt công việc. Đây là mâu thuẫn lớn nhất và cũng là

khó khăn nhất đối với học sinh khi chọn nghề cho mình (71,6%). Khi ra trường, ai cũng mong muốn

mình có được một việc làm ổn định và vững vàng, đây cũng là nhu cầu thiết thực và chính đáng của

con người trong cuộc sống, thế nhưng nhiều khi nghề mà các em học sinh chọn tuy phù hợp sở thích và

năng lực của các em nhưng khả năng có việc làm sau khi ra trường là rất thấp, và các em không biết

phải quyết định như thế nào (63,9%). Có 3 khó khăn đối với học sinh khi chọn nghề và được các em

chọn với tỉ lệ xấp xỉ gần nhau, đó là nghề phù hợp sở thích, năng lực của các em nhưng lại có thu nhập

thấp (39,8%), hướng phát triển của nghề đối với bản thân không cao (34,2%), không đảm bảo đủ sức

khoẻ (31,6%). Hai khó khăn còn lại chiếm tỉ lệ thấp hơn, đó là nghề phù hợp sở thích, năng lực nhưng

gia đình không đồng ý (26,8%), và không có địa vị trong xã hội (12,9%). Như vậy, từ những khó khăn

của học sinh, nhiệm vụ của công tác tư vấn hướng nghiệp là phải giúp được các em học sinh giải quyết

được các khó khăn đó để các em có thể chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp nhất.

Tóm lại, từ những kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng:

Hầu hết học sinh đều muốn tiếp tục học đại học sau khi hoàn tất chương trình lớp 12 và các em

đều đã chọn cho mình một nghề. Trong số các nhóm nghề thì nhóm nghề kinh tế được học sinh chọn

nhiều nhất, và trong nhóm nghề kinh tế này thì học sinh có học lực Trung bình chiếm tỉ lệ tương đối

nhiều. Kết quả kiểm định cho thấy có mối tương quan giữa nhóm nghề định chọn của học sinh với giới

tính, thành phần dân tộc, học lực, trình độ học vấn của cha mẹ và nghề nghiệp của cha mẹ. Lý do chọn

nghề chủ yếu của học sinh là phù hợp với năng lực, với điều kiện sức khoẻ, điều kiện kinh tế gia đình

cũng như nghề sau khi ra trường dễ xin được việc làm và mang lại thu nhập cao cho người lao động.

Như vậy lý do chọn nghề của học sinh tương đối chính xác và hợp lý.

Mức độ hiểu biết về nghề nghiệp của học sinh còn khá mơ hồ, sự hiểu biết của học sinh về

nghề định chọn, về thị trường lao động, về những đặc điểm tâm sinh lý cá nhân là rất chung chung,

chưa sâu sắc. Sự hiểu biết này làm cho học sinh nhận thức lệch lạc và chọn nghề không chính xác, có

sự mâu thuẫn giữa lý do chọn nghề khá hợp lý và sự hiểu biết ít ỏi này.

Chính vì vậy, khi chọn nghề, học sinh thường cảm thấy khó khăn và không tự tin với quyết

định chọn lựa của mình. Những khó khăn mà học sinh thường gặp nhất và băn khoăn khi chọn nghề đó

là nghề phù hợp sở thích nhưng không phù hợp năng lực, nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng khả

năng có việc làm thấp, nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng thu nhập thấp...

3.1.3. Mức độ thể hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12.

- Mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp:

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 là nhu cầu học sinh cần được tư vấn các vấn

đề có liên quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai của các em. Nhu cầu tư vấn của học sinh

là rất cao, chính vì vậy các em rất quan tâm đến công tác tư vấn hướng nghiệp.

Mức độ

Rất quan tâm Tương đối quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Tổng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 51,9% 322 37,9% 235 8,7% 54 1,5% 9 100% 620

Bảng 3.10: Mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp (n=620).

Có 51,9% học sinh rất quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp trước khi lựa chọn nghề nghiệp. Có

37,9% học sinh là tương đối quan tâm. Chỉ có 8,7% học sinh là ít quan tâm và 1,5% là không quan tâm.

Như vậy, cho thấy học sinh có sự quan tâm rất lớn đến công tác này, điều này cũng thể hiện được nhu

cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông trong tỉnh là rất cao.

- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh.

Học sinh THPT tuy trưởng thành và có những nét đặc trưng của người lớn, nhưng các em chưa

phải là một người lớn thật sự, đại đa số các em vẫn còn phụ thuộc vào người lớn rất nhiều mặt. Chính

vì vậy người lớn có một ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các em. Chúng tôi đưa ra 5 đối tượng

có thể ảnh hưởng ít nhiều đến sự chọn lựa nghề của học sinh (gia đình; thầy cô; bạn bè; các chuyên

gia, tư vấn viên; và các phương tiện thông tin đại chúng) và cũng đưa ra 5 mức độ ảnh hưởng để các

em đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng đối tượng đối với các em, và chúng tôi đã thu được kết quả

như sau:

Mức độ ảnh hưởng

1

Đối tượng ảnh hưởng 4 3

2

5

Ảnh hưởng nhiều nhất

Có ảnh hưởng

Tương đối ảnh hưởng

Ít ảnh hưởng

Không ảnh hưởng

Tổng

259 41,8% 145 23,4% 82 13,2% 63 10,2% 71 11,5% 620 100%

19 3,1% 133 21,5% 124 20% 181 29,2% 163 26,3% 620 100%

14 2,3% 51 8,2% 161 26% 188 30% 206 33,2% 620 100%

63 10,2% 161 26% 144 23,2% 138 22,3% 114 18,4% 620 100%

62 10% 158 25,5% 183 29,5% 129 20,8% 88 14,2% 620 100%

Bảng 3.11: Các nhân tố ảnh hưởng đến chọn nghề của học sinh (n=620).

Đối tượng 1: Gia đình.

Có 41,8% học sinh cho rằng gia đình có sự ảnh hưởng nhiều nhất đối với các em khi các em

chọn lựa nghề nghiệp cho mình. Có 23,4% học sinh chọn có ảnh hưởng của đến việc chọn nghề của các

em. Có 13,2% học sinh chọn tương đối ảnh hưởng. Chỉ có 11,5% học sinh là chọn gia đình không có

ảnh hưởng gì đến việc chọn nghề của các em, và 10,2% học sinh là chọn ít ảnh hưởng. Điều này cho

thấy rằng gia đình vẫn là đối tượng có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với các em học sinh khi các em

quyết định chọn nghề nghiệp tương lai cho mình.

Đối tượng 2: Thầy cô.

Có 3,1% học sinh chọn thầy cô có ảnh hưởng nhiều nhất đến việc chọn nghề của các em. Có

21,5% học sinh chọn thầy cô có ảnh hưởng. 20% học sinh chọn tương đối ảnh hưởng. Có đến 29,2%

học sinh chọn ít ảnh hưởng và 26,3% học sinh chọn không ảnh hưởng. Như vậy, kết quả chọn của học

sinh cho chúng ta thấy tầm ảnh hưởng của thầy cô đến quyết định chọn nghề nghiệp của học sinh là rất

thấp.

Đối tượng 3: Bạn bè.

Có 2,3% học sinh cho rằng bạn bè có ảnh hưởng nhiều đến việc chọn nghề của các em. 8,2%

học sinh chọn có ảnh hưởng, 26% học sinh chọn tương đối ảnh hưởng. Có đến 30,3% học sinh chọn ít

ảnh hưởng và 33,2% học sinh là chọn không ảnh hưởng. Đa số học sinh đã khẳng định bạn bè ít ảnh

hưởng và không ảnh hưởng gì đến việc chọn nghề của bản thân các em.

Đối tượng 4: Các chuyên gia, tư vấn viên.

Có 10,2% học sinh chọn các chuyên gia, tư vấn viên ảnh hưởng nhiều nhất đến việc chọn nghề

của các em. 26% học sinh chọn có ảnh hưởng, 23,2% học sinh chọn tương đối ảnh hưởng. Và cũng có

khá nhiều học sinh chưa thấy hết vai trò của các chuyên gia, tư vấn viên, 22,3% học sinh chọn ít ảnh

hưởng, và 18,4% học sinh chọn là không ảnh hưởng. Như vậy vai trò của các chuyên gia, tư vấn viên

chưa phát huy đúng mức ở mặt công tác này đối với học sinh.

Đối tượng 5: Các phương tiện thông tin đại chúng.

Có 10% học sinh chọn các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng nhiều nhất đến quá

trình chọn nghề của các em. 25,5% học sinh chọn có ảnh hưởng, 29,5% học sinh chọn tương đối ảnh

hưởng. Có 20,8% học sinh chọn ít ảnh hưởng và có 14,2% học sinh chọn là không ảnh hưởng. Như

vậy, mức độ ảnh hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng khá lớn đối với học sinh, chỉ sau mức

độ ảnh hưởng của gia đình.

Tóm lại, với kết quả chọn lựa của học sinh, nếu xét theo tỉ lệ phần trăm về mức độ ảnh hưởng

của từng đối tượng đối với việc chọn nghề của học sinh thì chúng ta thấy rằng gia đình có tầm ảnh

hưởng rất lớn đối với các em, kế đó là ảnh hưởng của các chuyên gia, tư vấn viên, và các phương tiện

thông tin đại chúng. Ở 2 đối tượng này thì mức độ ảnh hưởng tương đối ngang nhau (tỉ lệ phần trăm

xấp xỉ nhau). Thầy cô có mức độ ảnh hưởng đối với học sinh thì thấp hơn, và mức độ ảnh hưởng của

bạn bè là thấp nhất. Chúng ta có thể dựa trên kết quả chọn lựa của học sinh để điều chỉnh công tác tư

vấn được tốt hơn.

- Các nội dung học sinh quan tâm cần được tư vấn.

Có nhiều nội dung tư vấn nhưng trên thực tế có một số nội dung cơ bản sau mà học sinh quan

tâm nhiều khi tìm đến tư vấn.

Nội dung tư vấn

Điểm thi tuyển của các năm trước Tỉ lệ chọi của ngành ở các năm trước Khả năng có việc làm sau khi ra trường Cơ hội có thể học cao hơn Mức lương bình quân của việc làm Uy tín của cơ sở đào tạo Địa vị xã hội của nghề

Kết quả chọn Số lượng chọn Tỉ lệ % 71,5% 443 30,5% 189 85,5% 530 25% 155 42,3% 262 28,4% 176 12,1% 75

Bảng 3.12: Nội dung tư vấn (n=620).

Trong số các nội dung có liên quan cần để được tư vấn khi chọn nghề cho mình, học sinh quan

tâm nhiều nhất đến nội dung “khả năng có việc làm sau khi ra trường” (85,5%), kế đến là nội dung

“điểm thi tuyển của các năm trước” (71,5%), một nội dung nữa cũng được các em quan tâm là “mức

lương bình quân của việc làm sau khi ra trường” (42,3%). “Uy tín của cơ sở đào tạo” ít được các em

quan tâm hơn (28,4%), và “địa vị xã hội của nghề” là ít được học sinh quan tâm nhất (12,1%). Chúng

ta có thể thấy học sinh rất quan tâm đến các nội dung tư vấn mà các em cần trước mắt, trong khi đó uy

tín của cơ sở đào tạo thì ít được các em quan tâm mặc dù đây là điều kiện để đảm bảo chất lượng đào

tạo cho các em. Học sinh ít quan tâm đến cơ hội được học lên cao sau này, cũng như ít quan tâm đến

địa vị xã hội của nghề.

- Mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp theo từng mặt nội dung:

Mỗi học sinh có mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp khác nhau, và mức độ biểu

hiện này được thể hiện trong việc đánh giá mức độ quan trọng của từng mặt nội dung tư vấn (Thang

đánh giá mức độ biểu hiện gồm có 5 mức độ:1-không quan trọng; 2-ít quan trọng; 3-tương đối quan

trọng; 4-quan trọng; 5-rất quan trọng).

Lựa chọn

7

2

1 165

3 388

75

5

Nội dung cần được tư vấn 4 112 26,6% 12,1% 62,2% 18,1%

6 5 130 66 203 21% 32,7% 10,6%

Mức độ quan

Bảng 3.13: Mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn (n=620).

265

206

152

219

4

60

176

216 34,8% 163

147

3

trọng của từng nội dung

52

15

45

2

6

1

103 2,4% 16,6% 23 3,7% 620

22 3,5% 620

Tổng

158 180 29% 24,5% 33,2% 42,7% 35,3% 25,5% 187 194 166 9,7% 28,4% 26,8% 23,7% 30,2% 26,3% 31,3% 131 47 128 7,3% 21,1% 7,6% 8,4% 20,6% 12 43 78 1% 12,6% 1,9% 6,9% 620 620 620 620 100% 100% 100% 100% 100% 100%

5 0,8% 620 100%

Nhận xét: “Khả năng có việc làm sau khi ra trường” được học sinh đánh giá là nội dung quan

trọng nhất chiếm tỉ lệ cao nhất (62,2%), và quan trọng là 24,5% học sinh.

“Mức lương bình quân của việc làm sau khi ra trường” cũng được khá nhiều học sinh quan

tâm, được đánh giá quan trọng nhất là 21%, và quan trọng là 42,7% học sinh.

Có một điều mâu thuẫn là “uy tín của cơ sở đào tạo” là nội dung cần tư vấn thì tỉ lệ học sinh

chọn ít (28,4%) nhưng lại được học sinh đánh giá là quan trọng nhất chiếm tỉ lệ phần trăm khá cao, chỉ

sau nội dung “khả năng có việc làm sau khi ra trường” (32,7%), và được đánh giá là quan trọng là

35,3% trong tổng số học sinh.

“Điểm tuyển của các năm trước” và “tỉ lệ chọi” cũng khá quan trọng với học sinh và được các

em quan tâm, đánh giá là quan trọng nhất là 26,6% và quan trọng là 34,8%.

“Cơ hội có thể học cao hơn” và “địa vị xã hội của nghề” vẫn đứng sau cùng trong đánh giá của

học sinh, các em không coi đó là điều quan trọng lắm trong quyết định chọn nghề cho tương lai.

Như vậy, trong các nội dung mà học sinh thường quan tâm khi tìm đến tư vấn thì có ba nội

dung tư vấn mà học sinh chọn nhiều nhất, đó là khả năng có việc làm sau khi ra trường (đối với nghề

định chọn), mức lương bình quân của việc làm, và điểm thi tuyển của các năm trước. Và ba nội dung

đó cũng được học sinh đánh giá có mức độ quan trọng cao nhất.

- Mức độ cần thiết của việc hiểu biết thị trường lao động.

Việc hiểu biết thị trường lao động giúp cho học sinh chọn được nghề phù hợp, tránh tình trạng

thất nghiệp, gây nên sự lãng phí đào tạo cho cá nhân và xã hội.

Tỉ lệ %

Lựa chọn Không cần thiết Ít cần thiết Tương đối cần thiết Cần thiết Rất cần thiết Tổng

Số lượng chọn 2 4 74 217 321 620

0,3% 0,6% 11,9% 35% 51,8% 100%

Bảng 3.14: Mức độ cần thiết phải hiểu biết về thị trường lao động (n=620).

Có đến 51,8% học sinh đồng ý sự hiểu biết về thị trường lao động là rất cần thiết để chọn cho

mình một nghề phù hợp. Có 35% học sinh chọn là cần thiết, có 11,9% học sinh cho là tương đối cần

thiết. Chỉ có 0,6% học sinh cho là ít cần thiết, và 0,3% học sinh cho là không cần thiết. Như vậy, đa số

học sinh đều thấy được sự cần thiết phải hiểu biết rõ về thị trường lao động khi quyết định chọn nghề

cho mình.

- Mức độ quan trọng của các nội dung về thị trường lao động.

Đa số học sinh cho rằng hiểu biết về thị trường lao động là rất quan trọng trước khi quyết định

chọn nghề để đảm bảo sau khi ra trường các em sẽ có một công việc ổn định và phù hợp, tạo thu nhập

cho bản thân đồng thời cống hiến cho xã hội. Mức độ quan trọng của từng nội dung về thị trường lao

động khác nhau tuỳ theo nhận thức và sự hiểu biết riêng của học sinh.

Lựa chọn

5 175

3 132

1 238

5

265

271

212

Các yếu tố của thị trường lao động 6 4 2 183 119 122 38,4% 19,7% 21,3% 19,2% 28,2% 29,5% 278

4

135

232 34,2% 43,7% 37,4% 191

142

185

3

54

2

Mức độ quan trọng của từng yếu tố

1

Tổng

7 285 46% 227 217 35% 42,7% 44,8% 36,6% 93 177 15% 13 2,1% 2 0,3% 620 100%

31 5% 7 1,1% 620 100%

120 21,8% 29,8% 30,8% 28,5% 22,9% 19,4% 31 5% 8 1,3% 620 100%

83 8,7% 13,4% 24 3,9% 620 100%

23 3,7% 12 1,9% 620 100%

34 5,5% 8 1,3% 620 100%

11 1,8% 620 100%

Bảng 3.14: Mức độ quan trọng của các yếu tố về thị trường lao động (n=620).

Ghi chú: Các yếu tố của thị trường lao động:

1) Nhu cầu chung hiện nay của thị trường lao động đối với nghề

2) Khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo đối với nghề ở thời điểm hiện tại

3) Định hướng, chính sách phát triển trọng điểm của Nhà nước

4) Nhu cầu hiện nay của địa phương đang sinh sống

5) Mức lương trung bình của nghề trên thị trường

6) Điều kiện làm việc của nghề nói chung

7) Hướng phát triển của nghề đối với bản thân.

Sau khi ra trường mỗi người đều muốn mình có được một việc làm để ổn định cuộc sống và

đóng góp cho xã hội, chính vì vậy để biết được nhu cầu của thị trường lao động đối với nghề mình

chọn là một điều quan trọng và cần thiết, và đây là yếu tố mà học sinh đánh giá rất quan trọng và quan

trọng chiếm một tỉ lệ rất cao (82,6%). Mặt khác, nhu cầu cao nhất của con người lúc nào cũng muốn

hướng bản thân đến sự phát triển, trong lĩnh vực nghề nghiệp cũng vậy, mỗi cá nhân đều rất chú trọng

đến khả năng phát triển cao hơn của nghề đối với bản thân trong tương lai, điều này cũng không kém

phần quan trọng và cũng được học sinh đánh giá với một tỉ lệ khá cao và ngang bằng với yếu tố đầu

(82,6%). Trong hoạt động nghề nghiệp, mỗi người đều rất chú trọng đến điều kiện làm việc bởi điều

kiện làm việc tốt giúp con người được thuận lợi hơn và đạt hiệu quả cao hơn trong công việc, yếu tố

này cũng được đánh giá cao (74,3%). Một yếu tố nữa cũng được nhiều học sinh quan tâm đó là mức

lương trung bình của nghề trên thị trường (70,9%), và điều này cũng hợp lý vì tiền lương là yếu tố giúp

con người ổn định cuộc sống và an tâm cống hiến cho nghề. Các yếu tố còn lại được học sinh đánh giá

ở mức độ trung bình. Nhìn chung đa số học sinh đặc biệt quan tâm và đánh giá mức độ rất quan trọng

và quan trọng đối với những yếu tố mà học sinh thấy có lợi ích thiết thực cho lựa chọn hiện tại của bản

thân. Học sinh ít quan tâm đến định hướng, chính sách phát triển trọng điểm của Nhà nước, trong khi

đó chính yếu tố này mới tạo nên nhu cầu chung của thị trường lao động cũng như giúp các em biết rõ

hướng phát triển của nghề đối với bản thân trong tương lai. Bên cạnh đó, học sinh cũng ít quan tâm đến

khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo đối với nghề ở thời điểm hiện tại, chính khả năng đáp ứng này

giúp cho học sinh có chuyên môn vững vàng mới đáp ứng được các yêu cầu của nghề và hoạt động tốt

trong lĩnh vực nghề nghiệp mà mình đã chọn.

- Mức độ hài lòng về các hoạt động tư vấn trong thời gian qua.

Hàng năm, các nhà trường phổ thông và các tổ chức đoàn thể đều tổ chức các hoạt động tư vấn

cho học sinh khi bước vào mùa thi. Chúng tôi hỏi các em học sinh về mức độ hài lòng của các em về

các hoạt động tư vấn của một số tổ chức trong thời gian qua. Đồng thời, chúng tôi liệt kê ra 4 hoạt động

tư vấn của 4 tổ chức gồm có hoạt động tư vấn của nhà trường, hoạt động tư vấn của các phương tiện

truyền thông, hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể, và toạ đàm với các doanh nghiệp để học sinh

đánh giá mức độ hài lòng khi tiếp nhận sự tư vấn từ các tổ chức đó, và chúng tôi đã nhận được kết quả:

Các tổ chức tư vấn

Mức độ hài lòng

3

2

1

42

1

11 1,8% 62

2

34 5,5% 90 14,5% 256

3

222

176

176

4

4 128 6,8% 20,6% 140 114 10% 18,4% 22,6% 189 239 243 41,3% 39,2% 38,5% 30,5% 108 28,4% 35,8% 28,4% 17,4% 55

49

82

64

5

Bảng 3.15: Mức độ hài lòng về các tổ chức tư vấn (n=620)

Tổng

10,3% 13,2% 620 100%

620 100%

7,9% 620 100%

8,9% 620 100%

Ghi chú :

Mức độ hài lòng của học sinh: 1) Rất không hài lòng; 2) Không hài lòng; 3) Khá hài lòng; 4)

Hài lòng; 5) Rất hài lòng.

Các tổ chức tư vấn: 1) Hoạt động tư vấn của trường; 2) Hoạt động tư vấn của các phương tiện

truyền thông; 3) Hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể; 4) Toạ đàm với các doanh nghiệp.

Ở mức độ “rất hài lòng” thì hoạt động tư vấn của các phương tiện truyền thông chọn nhiều

nhất (13,2%), kế đó là hoạt động tư vấn của nhà trường chiếm 10,3%, toạ đàm với các doanh nghiệp

chiếm 8,9%, và hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể là 7,9% học sinh.

Ở mức độ “hài lòng” thì hoạt động tư vấn của các phương tiện truyền thông vẫn chiếm tỉ lệ cao

nhất là 35,8%, kế đến là hoạt động tư vấn của nhà trường chiếm 28,4%, hoạt động tư vấn của các tổ

chức đoàn thể chiếm 28,4%, và toạ đàm với các doanh nghiệp chiếm 17,4%.

Ở mức độ “khá hài lòng” thì hoạt động tư vấn của nhà trường chiếm 41,3%, hoạt động tư vấn

của các phương tiện truyền thông chiếm 39,2%, hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể chiếm

38,5%, và toạ đàm với doanh nghiệp chiếm 30,5%.

Ở 2 mức độ “không hài lòng” và “rất không hài lòng” thì hoạt động tư vấn của các phương tiện

truyền thông và hoạt động tư vấn của nhà trường có tỉ lệ thấp hơn các tổ chức đoàn thể và toạ đàm với

doanh nghiệp.

Tóm lại, xét ở mức độ “rất hài lòng” và “hài lòng”, ta thấy hoạt động tư vấn của nhà trường

chiếm tỉ lệ thấp hơn hoạt động tư vấn của các phương tiện tuyền thông, một điều nữa là tuy hoạt động

tư vấn của nhà trường chiếm tỉ lệ cao hơn nhưng con số tỉ lệ phần trăm vẫn là rất thấp so với các mức

độ khác. Điều này chứng tỏ nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh, nói một cách khác là

chưa thật sự làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh và chưa hoàn thành vai trò của mình

trong công tác giáo dục học sinh. Ở góc độ của đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã giải quyết được nhiệm

vụ nghiên cứu về điều tra thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên

Giang hiện nay cùng với mức độ đáp ứng nhu cầu này của học sinh.

Kết luận về thực trạng: Kết quả điều tra thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh

lớp 12 THPT. tỉnh Kiên Giang cho chúng ta những kết quả sau:

1) Hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đều muốn thi vào đại học, gần 90% học sinh lớp

12 đều có dự định tiếp tục học đại học và các em đã chọn cho mình một nghề cụ thể. Trong các nhóm

nghề học sinh định chọn thì phần lớn các em chọn ngành kinh tế. Có mối tương quan giữa học lực, giới

tính, địa bàn sinh sống, trình độ học vấn của cha mẹ và nghề nghiệp của cha mẹ với nhóm nghề định

chọn của học sinh. Lý do chọn nghề chủ yếu của học sinh là phù hợp với năng lực, phù hợp với điều

kiện kinh tế gia đình, phù hợp với điều kiện sức khoẻ, và sau khi ra trường thì nghề dễ xin được việc

làm và có thu nhập cao. Những lý do này khá chính đáng nhưng khi đối chiếu với kết quả nghiên cứu

mức độ hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp thì có sự mâu thuẫn.

2) Sự hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp (hiểu về thị trường lao động, hiểu về nghề định

chọn, hiểu về những đặc điểm tâm sinh lý) thì rất mơ hồ và không đầy đủ. Như vậy, mặc dù lý do chọn

nghề là hợp lý nhưng với sự hiểu biết về nghề nghiệp không đầy đủ sẽ làm cho học sinh nhận thức lệch

lạc và lựa chọn thiếu chính xác. Các nội dung tư vấn hướng nghiệp mà học sinh thường quan tâm nhiều

nhất chính là điểm chuẩn, điểm thi tuyển của các năm trước, chỉ tiêu tuyển sinh, và nghề định chọn sau

khi ra trường dễ kiếm được việc làm, có thu nhập cao, các em ít quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý bản

thân, hướng phát triển trong nghề, uy tín, chất lượng của các cơ sở đào tạo... Và những nội dung tư vấn

này cũng được học sinh đánh giá mức độ quan trọng cao. Chính sự nhận thức lệch lạc đã làm cho học

sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình chọn nghề, không dám chắc chắn với quyết định chọn lựa của

bản thân.

3) Học sinh hiểu rất rõ tầm quan trọng của tư vấn hướng nghiệp trong việc điều chỉnh và định

hướng quyết định chọn nghề nghiệp tương lai của các em. Học sinh rất quan tâm đến tư vấn hướng

nghiệp, và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của các em là rất cao. Sự nhận thức lệch lạc, không đầy đủ về

nghề nghiệp đã dẫn đến nhu cầu cần được tư vấn của học sinh đối với các nội dung tư vấn cũng chưa

đầy đủ và sự đánh giá của học sinh cũng chưa chính xác theo từng nội dung. Mặt khác, trong quá trình

chọn nghề các em rất cần được sự tư vấn của cha mẹ, thầy cô, các chuyên gia, thế nhưng sự tư vấn mà

các em nhận được rất rời rạc và không trọn vẹn. Tuy nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh rất cao

nhưng mức độ đáp ứng nhu cầu này thì chưa đủ vì hầu hết các hoạt động tư vấn trong thời gian qua

chưa đạt hiệu quả.

4) Nguyên nhân thực trạng trên là do các em học sinh chưa tiếp cận được sự tư vấn hướng

nghiệp chính thống và bài bản. Phần lớn công tác hướng nghiệp cho học sinh hiện nay được các trường

THPT triển khai thông qua các giờ sinh hoạt, hoặc mời các trường đại học, cao đẳng về tổ chức một vài

buổi tư vấn tuyển sinh cho học sinh, hoặc tổ chức cho học sinh đi tham quan một vài trường đại học

gần. Mặt khác, công tác tư vấn hướng nghiệp trong các trường THPT. hiện nay thường được đặc cách

giao cho một số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm đảm trách, chính vì vậy mà đội ngũ làm công

tác hướng nghiệp chưa chuyên nghiệp, hoạt động rời rạc, không đạt hiệu quả.

Nếu làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp sẽ giúp các em học sinh ý thức được những vấn đề

cần tư vấn , trên cơ sở đó chọn được cho mình một nghề phù hợp với năng lực, sở thích của bản thân,

đáp ứng được yêu cầu của nghề nghiệp đặt ra cũng như nhu cầu của thị trường lao động. Khi đó các em

sẽ hài lòng về nghề nghiệp của mình, và điều này hoàn toàn có lợi cho bản thân học sinh, cũng như gia

đình và xã hội.

3.2. Kết quả tác động thử nghiệm.

3.2.1. So sánh kết quả giữa dự định chọn nghề và thực tế đăng ký nguyện vọng thi đại học

của học sinh.

Với kết quả thu được ở hai lần khảo sát, chúng tôi so sánh giữa dự định chọn nghề và thực tế

đăng ký nguyện vọng (trong hồ sơ đăng ký thi đại học) của học sinh để tìm hiểu có sự thay đổi ngành

nghề lựa chọn hay không.

a. Nhóm đối chứng:

Nhóm ngành Số lượng chọn Tỉ lệ % 10,5% 11,5% 9,7% 31,1% 16,8% 79,6% 20,4% 100%

1 2 3 4 5 Tổng số Chưa dự định Tổng số

41 45 38 122 66 312 80 392

Bảng 3.16: Dự định chọn nghề (n=392)

Có 79,6% học sinh có dự định chọn một nghề cụ thể cho mình, có 20,4% học sinh chưa có dự

định chọn nghề. Nhóm ngành kinh tế chiếm tỉ lệ cao nhất (31,1%), kế đến là nhóm ngành khác

(16,8%), ba nhóm ngành còn có tỉ lệ học sinh chọn là xấp xỉ nhau.

Nhóm nghề Số lượng chọn Tỉ lệ % 16,1% 13% 14,8% 44,6% 11,5% 100%

1 2 3 4 5 Tổng số

63 51 58 175 45 392

Bảng 3.17: Thực tế đăng ký nguyện vọng. (n=392)

Có 100% học sinh đã đăng ký nguyện vọng trong hồ sơ dự thi đại học. Nhóm ngành kinh tế

vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (44,6%), kế đến là nhóm ngành sư phạm (16,1%), ba nhóm ngành còn lại có tỉ

lệ chọn tương đương nhau là nhóm ngành kỹ thuật (14,8%), nhóm ngành y tế (13%) và nhóm ngành

khác (11,5%).

b. Nhóm thực nghiệm:

Nhóm ngành Số lượng chọn Tỉ lệ % 6,7% 3,7% 10,4% 38,1% 19,4% 78,4% 21,6% 100%

1 2 3 4 5 Tổng số Chưa dự định Tổng số

9 5 14 51 26 105 29 134

Bảng 3.18: Dự định chọn nghề (n=134)

Có 78,4% học sinh đã có dự định chọn nghề, có 21,6% học sinh chưa có dự định chọn nghề

cho mình. Nhóm ngành kinh tế chiếm tỉ lệ cao nhất (38,1%), kế đến là nhóm ngành khác (19,4%), và

nhóm ngành kỹ thuật (10,4%), hai nhóm ngành còn lại có tỉ lệ chọn thấp nhất.

Nhóm ngành 1 2 3 4 5 Tổng số

Số lượng chọn Tỉ lệ % 13,4% 18 4,5% 6 14,2% 19 52,2% 70 15,7% 21 100% 134

Bảng 3.19: Thực tế đăng ký nguyện vọng (n=134)

Có 100% học sinh đăng ký nguyện vọng trong hồ sơ dự thi đại học, và có sự điều chỉnh trong

lựa chọn nghề, nhóm ngành kinh tế vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất trong sự lựa chọn của học sinh giữa các

nhóm ngành nghề (52,2%), nhóm ngành khác là 15,7%, tiếp đến là hai nhóm ngành kỹ thuật (14,2%)

và sư phạm (13,4%), nhóm ngành y tế có tỉ lệ chọn thấp nhất (4,5%).

3.2.2. Căn cứ chọn nghề của học sinh.

Cả hai nhóm đối chứng và thực nghiệm đều có hai lần khảo sát để so sánh có hay không sự

thay đổi trong căn cứ chọn nghề.

a. Nhóm đối chứng.

Kết quả chọn

Khảo sát lần I

Khảo sát lần II

Tiêu chí

Tỉ lệ %

Số lượng chọn

Số lượng chọn

Có thu nhập cao.

178

Tỉ lệ % 45,4%

128

32,7%

Bảng 3.20: So sánh những căn cứ chọn nghề (n=392)

64,5% 61,2% 10,5% 1,5% 28,8% 44,6% 3,1% 4,8% 33,4% 14,5% 0,0% 100%

253 240 41 6 113 175 12 19 131 57 0 1175

300 297 46 9 124 234 37 36 193 104 10 1568

Phù hợp năng lực bản thân. Phù hợp sở thích, đam mê. Nghề đang được ưa chuộng. Theo xu hướng của bạn bè. Dễ xin việc. Nhu cầu thực tế của xã hội. Theo cảm tính. Theo truyền thống gia đình. Điều kiện kinh tế gia đình. Khả năng về sức khỏe, tâm lý. Yếu tố khác Tổng số

76,5% 75,8% 11,7% 2,3% 31,6% 59,7% 9,4% 9,2% 49,2% 26,5% 2,6% 100% Nhận xét: Có sự thay đổi tự nhiên trong căn cứ chọn nghề của học sinh nhưng sự thay đổi này

không theo chiều hướng đồng nhất về mặt tích cực, chúng ta có thể thấy ở các tiêu chí không phù hợp

(theo xu hướng của bạn bè, theo cảm tính, hay theo truyền thống gia đình) tuy có giảm, nhưng đồng

thời ở các tiêu chí phù hợp (phù hợp năng lực, phù hợp sở thích, theo nhu cầu thực tế của xã hội...)

cũng giảm, mặc dù sự chênh lệch không cao.

b. Nhóm thực nghiệm.

Kết quả chọn

Khảo sát lần I

Khảo sát lần II

Tiêu chí

Tỉ lệ %

Tỉ lệ %

Số lượng chọn

Số lượng chọn

58,2% 75,4% 72,4% 8,2% 0% 24,6% 64,2% 9% 9% 44,8% 32,8% 1,5% 100%

70,9% 79,1% 73,9% 9% 1,5% 27,6% 63,4% 5,2% 6,7% 46,3% 43,3% 6,7% 100%

95 106 99 12 2 37 85 7 9 62 58 9 581

78 101 97 11 0 33 86 12 12 60 44 2 536

Có thu nhập cao. Phù hợp năng lực bản thân. Phù hợp sở thích, đam mê. Nghề đang được ưa chuộng. Theo xu hướng của bạn bè. Dễ xin việc. Nhu cầu thực tế của xã hội. Theo cảm tính. Theo truyền thống gia đình. Điều kiện kinh tế gia đình. Khả năng về sức khỏe, tâm lý. Yếu tố khác Tổng số Nhận xét: Có sự thay đổi rõ rệt trong căn cứ chọn nghề của học sinh, có sự chênh lệch tỉ lệ

Bảng 3.21: So sánh những căn cứ chọn nghề (n=134)

phần trăm đáng kể giữa hai lần điều tra ở các tiêu chí sau: phù hợp với năng lực bản thân, phù hợp sở

thích, đam mê, có thu nhập cao, và theo nhu cầu thực tế của xã hội. Mặt khác, bên cạnh những căn cứ

đó học sinh có tính đến điều kiện kinh tế của gia đình để có thể an tâm đầu tư quá trình đào tạo nghề

(46,3%), phù hợp về điều kiện sức khoẻ, tâm lý (43,3%) và sau khi ra trường thì nghề đó dễ xin việc

(27,6%). Như vậy, đa số học sinh đã có những căn cứ khá hợp lý và đúng đắn để ra quyết định nghề

nghiệp tương lai cho mình, và những căn cứ này khá chính xác để giúp học sinh có được sự phù hợp

nghề sau này.

Tóm lại, có sự thay đổi trong nhận thức của học sinh nếu như các em được tiếp nhận sự tư vấn

hướng nghiệp. Chúng tôi thấy có sự điều chỉnh của học sinh ở căn cứ chọn nghề, và những căn cứ của

học sinh chính xác hơn, phù hợp hơn và đúng đắn hơn. Điều này chứng tỏ rằng nếu có biện pháp tác

động thích hợp của tư vấn hướng nghiệp sẽ làm thay đổi nhận thức của học sinh, từ đó có thể điều

chỉnh nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh đúng đắn hơn.

3.2.3. Mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp của học sinh và mức độ đáp ứng của

các chương trình tư vấn.

a. Mức độ quan tâm.

- Nhóm đối chứng: Có sự thay đổi một cách tự nhiên trong nhận thức của học sinh đối với tư

vấn hướng nghiệp trong quá trình học sinh tìm hiểu và lựa chọn nghề nghiệp cho mình.

Lựa chọn Không quan tâm Ít quan tâm Tương đối quan tâm Quan tâm Rất quan tâm Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 0% 3,6% 19,9% 32,9% 43,6% 100%

0 14 78 129 171 392

Bảng 3.22: Mức độ quan tâm tư vấn hướng nghiệp (n=392)

Có 43,6% học sinh rất quan tâm và 32,9% học sinh quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp, có

19,9% học sinh tương đối quan tâm, chỉ có 3,6% học sinh là ít quan tâm, và không có học sinh nào là

không quan tâm. Như vậy 100% học sinh là có sự quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp, tuỳ mức độ quan

tâm là ít hay nhiều, không có học sinh không quan tâm.

- Nhóm thực nghiệm:

Lựa chọn Không quan tâm Ít quan tâm Tương đối quan tâm Quan tâm Rất quan tâm Tổng cộng

Số lượng chọn 1 1 22 62 48 134

Tỉ lệ % 0,7% 0,7% 16,4% 46,3% 35,8% 100%

Bảng 3.23: Mức độ quan tâm tư vấn hướng nghiệp (n=134)

Có 35,8% học sinh rất quan tâm, có 46,3% học sinh quan tâm, có 16,4% học sinh tương đối

quan tâm, ít quan tâm và không quan tâm chiếm tỉ lệ rất nhỏ (1,4%). Như vậy, hầu hết học sinh đều

quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp.

Tóm lại, nếu có biện pháp tác động thích hợp sẽ làm thay đổi nhận thức của học sinh đối với tư

vấn hướng nghiệp. Các em thấy được tầm quan trọng của tư vấn hướng nghiệp trong việc lựa chọn

nghề nghiệp phù hợp cho tương lai, và sự quan tâm của các em nhiều hơn đối với công tác này trước

khi có quyết định đúng đắn cũng là điều phải làm.

b. Mức độ đáp ứng.

- Nhóm đối chứng: Có 24,2% tổng số học sinh cho rằng các chương trình tư vấn đã giải quyết

được các băn khoăn, thắc mắc của các em. Có 68,9% học sinh đồng ý là tuy các chương trình tư vấn có

giải quyết được các thắc mắc của các em nhưng cách giải quyết cũng như kết quả cuối cùng còn rất

chung chung, chưa sâu sắc. Chỉ có 6,9% học sinh thì nói các chương trình tư vấn chưa giúp được các

em trong việc giải quyết những thắc mắc, băn khoăn của các em về việc chọn nghề cho tương lai.

Lựa chọn

Có Có nhưng chưa sâu sắc Không Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 24,2% 68,9% 6,9% 100%

95 270 27 392

Bảng 3.24: Mức độ đáp ứng của các chương trình tư vấn (n=392)

- Nhóm thực nghiệm: Có 28,4% tổng số học sinh cho rằng các chương trình tư vấn đã giúp

được các em giải quyết một cách thoả đáng các vấn đề mà các em thắc mắc trong quá trình lựa chọn

nghề nghiệp tương lai. Có 63,4% học sinh nhận định các chương trình tư vấn chưa giúp các em giải

quyết một cách triệt để, sâu sắc các vấn đề liên quan đến việc chọn nghề của các em. Có 8,2% học sinh

thì cho rằng các chương trình tư vấn chưa giúp các em giải quyết các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp.

Lựa chọn

Có Có nhưng chưa sâu sắc Không Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 28,4% 63,4% 8,2% 100%

38 85 11 134

Bảng 3.25: Mức độ đáp ứng của các chương trình tư vấn (n=134)

Nhìn chung, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh thì cao, các chương trình tư vấn tuy có

đáp ứng được phần nào nhu cầu này của học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong muốn.

Nhưng từ kết quả đánh giá, cùng với sự ghi nhận những ý kiến đóng góp của học sinh về các chương

trình tư vấn sẽ là bước khởi đầu cho quá trình tổ chức công tác này được tốt hơn về sau.

3.2.4. Mức độ hài lòng của học sinh về các chương trình tư vấn.

a. Nhóm đối chứng:

Bảng 3.26: Mức độ hài lòng (n=392)

Mức độ

Rất hài lòng Hài lòng Tương đối hài lòng Không hài lòng Rất không hài lòng Tổng cộng

Số lượng chọn Tỉ lệ % 2% 28,1% 55,6% 12% 2,3% 100%

8 110 218 47 9 392

Có 30,1% tổng số học sinh rất hài lòng và hài lòng về các chương trình tư vấn hiện nay. Có

55,6% học sinh là tương đối hài lòng. Có 14,3% học sinh ít hài lòng và không hài lòng.

b. Nhóm thực nghiệm:

Mức độ

Số lượng chọn

Rất hài lòng Hài lòng Tương đối hài lòng Không hài lòng Rất không hài lòng Tổng cộng

Tỉ lệ % 3,7% 37,3% 47% 10,4% 1,5% 100%

5 50 63 14 2 134

Bảng 3.27: Mức độ hài lòng (n=134)

Có 41% học sinh rất hài lòng và hài lòng với các chương trình tư vấn. Có 47% học sinh là

tương đối hài lòng. Và 11,9% học sinh là ít hài lòng và không hài lòng.

Như vậy, so sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm thì mức độ rất hài lòng và hài

lòng về các chương trình tư vấn ở nhóm thực nghiệm chiếm tỉ lệ phần trăm cao hơn, đồng thời mức độ

ít hài lòng và không hài lòng cũng chiếm tỉ lệ ít hơn. Có thể nói, nếu các chương trình tư vấn có sự

quan tâm và đầu tư sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của học sinh. Tuy nhiên, mức độ tương đối hài lòng ở

cả hai nhóm vẫn còn khá cao, điều này chứng tỏ các chương trình tư vấn tuy có sự cố gắng nhưng vẫn

chưa hoàn thành tốt vai trò của mình trong công tác hướng nghiệp cho học sinh.

3.2.5. Sự cần thiết của việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT.

Với nhu cầu của học sinh về tư vấn hướng nghiệp cao như vậy nhưng khả năng đáp ứng của

các chương trình tư vấn theo định kỳ hàng năm như hiện nay thì không thể nào giải đáp được hết

những thắc mắc của học sinh, và cũng không thể nào giúp các em hướng nghiệp tốt. Việc thành lập

phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT là điều nên làm. Khi hỏi ý kiến của học sinh về sự cần

thiết của việc thành lập các phòng tư vấn hướng nghiệp này thì chúng tôi nhận được kết quả như sau:

Nhóm đối chứng: Có đến 99,2% học sinh cho rằng rất cần thiết và cần thiết phải thành lập

phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT. Điều này cho thấy đã đến lúc các nhà trường phổ

thông cần nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc và có hướng giải quyết một cách triệt để. Đây là nhu

cầu chính đáng và thiết thực của các em học sinh mà người lớn cần phải quan tâm thật sự, bởi điều này

không chỉ giúp học sinh có quyết định đúng đắn khi lựa chọn nghề nghiệp, mà còn làm cho chất lượng

giáo dục của nhà trường phổ thông được toàn diện hơn.

Lựa chọn

Số lượng chọn

Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Tổng cộng

Tỉ lệ % 64,8% 34,4% 0,8% 100%

254 135 3 392

Bảng 3.28: Sự cần thiết thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp (n=392)

Nhóm thực nghiệm: Có đến 98,5% học sinh đồng ý với việc phải thành lập phòng tư vấn hướng

nghiệp tại các trường THPT, và đó là điều thật sự cần thiết đối với học sinh. Điều này thể hiện nhu cầu

cần tư vấn của học sinh là rất cao. Chọn nghề có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh

THPT, các em cần cân nhắc cẩn thận bởi đây được coi là trách nhiệm đầu tiên của các em khi bước vào

đời. Chính vì vậy mà khi đứng trước sự lựa chọn này, các em thấy lúng túng, và rất băn khoăn, các em

rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ, và tư vấn của những người có chuyên môn để các em không mắc sai lầm khi

chọn nghề tương lai.

Lựa chọn

Số lượng chọn

Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Tổng cộng

Tỉ lệ % 61,2% 37,3% 1,5% 100%

82 50 2 134

Bảng 3.29: Sự cần thiết thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp (n=134)

Như vậy, ở cả hai nhóm đối chứng và thực nghiệm đều đồng ý việc thành lập phòng tư vấn

hướng nghiệp trong trường THPT là việc làm cần thiết để giúp các em hướng nghiệp tốt hơn.

3.2.6. Những ý kiến đóng góp của học sinh về hình thức và nội dung của tư vấn hướng

nghiệp trong thời gian tới.

Chúng tôi thu nhận và tổng hợp những ý kiến đóng góp của học sinh về hình thức và nội dung

cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong thời gian tới. Đa số học sinh đều cho ý kiến của mình đối với

công tác này rất rõ ràng và cụ thể (chiếm tỉ lệ là 80,1%). Và các ý kiến này xoay quanh các vấn đề cụ

thể như sau:

Đánh giá của học sinh về công tác tư vấn hướng nghiệp hiện nay: Các chương trình tư vấn còn

rất sơ sài, nội dung chưa đầy đủ, không hay, chán. Cách giải thích các vấn đề của người tư vấn chưa

sâu sắc, rõ ràng, để mất nhiều thời gian vào các vấn đề không cần thiết. Yêu cầu học sinh đặt ra đối với

những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp là phải có sự tận tâm, vui vẻ, cởi mở, giải đáp được đầy

đủ các vấn đề mà học sinh quan tâm một cách cụ thể, rõ ràng, đúng trọng tâm và đúng mục đích tư vấn.

Đóng góp của học sinh cho hình thức tư vấn hướng nghiệp trong thời gian tới: Phải bố trí

được địa điểm và thời gian hợp lý, thuận tiện để học sinh được thoải mái khi đến tư vấn. Tổ chức được

các buổi giao lưu, tư vấn trực tuyến về những kiến thức có liên quan đến tư vấn hướng nghiệp. Có hình

thức tư vấn trực tiếp cụ thể và sinh động. Dành nhiều thời gian hơn cho mỗi lần tổ chức, và tổ chức

nhiều hơn, chủ động lấy ý kiến của học sinh. Nếu được, có thể tổ chức định kỳ vào các buổi sinh hoạt

lớp, hoặc các buổi sinh hoạt dưới cờ bởi tư vấn hướng nghiệp cho học sinh là cả một quá trình, không

phải chỉ có một, hai buổi là đủ. Có như vậy thì mới đem lại kết quả như mong muốn.

Đóng góp của học sinh cho nội dung tư vấn hướng nghiệp trong thời gian tới:

Cung cấp được những thông tin cơ bản của các trường Đại học, Cao đẳng như hình thức tuyển

sinh, chỉ tiêu, điểm chuẩn, nguyện vọng, học phí đào tạo, danh mục ngành nghề đào tạo, cũng như chất

lượng đào tạo của các trường.

Giúp học sinh có được sự hiểu biết về thế giới nghề nghiệp, và yêu cầu của nghề nghiệp đối

với người lao động, hiểu biết về những định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, về nhu cầu của

thị trường lao động, và triển vọng phát triển của các ngành nghề hiện nay.

Giúp học sinh tự đánh giá những đặc điểm tâm sinh lý cá nhân, cũng như những điều kiện

riêng của bản thân để các em chọn lựa cho mình một nghề phù hợp.

Kết luận về thực nghiệm: Từ kết quả thực trạng, chúng tôi tiến hành thử nghiệm một vài biện

pháp tác động nhằm bước đầu làm thay đổi nhận thức của học sinh về tư vấn hướng nghiệp, định

hướng và phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của các em. Kết quả thực nghiệm cho thấy:

- Có sự điều chỉnh giữa dự định chọn nghề và thực tế đăng ký ngành dự thi trong hồ sơ dự thi

đại học của học sinh, mặc dù nhóm ngành kinh tế vẫn là sự lựa chọn ưu tiên hàng đầu của các em học

sinh, nhưng các em đã có sự cân nhắc đến sự phù hợp giữa nghề nghiệp định chọn với các điều kiện

của bản thân.

- Học sinh có sự thay đổi trong căn cứ chọn nghề, có sự cân nhắc và điều chỉnh ngành nghề lựa

chọn cho phù hợp với điều kiện của các em.

- Mức độ quan tâm và mức độ hài lòng của các em dành cho các chương trình tư hướng nghiệp

cao hơn.

- Gần như đa số học sinh đồng ý với việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp ở các trường

THPT là một việc làm cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời các em có nhiều ý kiến đóng góp

tích cực về hình thức và nội dung cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong thời gian tới. Như vậy, có

thể nói việc thử nghiệm một vài biện pháp tác động bước đầu đã có kết quả khả quan, và kết quả này sẽ

là cơ sở cho việc định hướng và phát triển hoạt động tư vấn hướng nghiệp của tỉnh nhà trong tương lai.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN.

Nghề nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với cá nhân nói riêng, và đối với sự phát triển

kinh tế xã hội nói riêng. Muốn có một cuộc sống tương lai hạnh phúc, mỗi người cần phải có một nghề

nghiệp vững vàng trong tay. Không làm chủ được sự chọn nghề cũng đồng nghĩa với việc con người

không làm chủ được tương lai của mình. Chân lý cuộc sống cũng đã chứng minh, mỗi người đều phải

lao động để kiếm sống, nhưng chất lượng cuộc sống là tuỳ thuộc sự quyết định của mỗi người. Chọn

nghề là một quá trình nhận thức và quyết định của học sinh lớp 12 THPT, có sự tham gia của nhiều quá

trình trạng thái và nhiều thuộc tính tâm lý của học sinh đó như nhu cầu, hứng thú, nhận thức, tình

cảm... và những yếu tố đó thúc đẩy hành động của học sinh. Học sinh có quyền lựa chọn nghề nghiệp

cho mình phù hợp giữa nguyện vọng, khả năng của bản thân với nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, đây

cũng là một quá trình khó khăn đối với học sinh, bởi phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan

của cuộc sống.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh

vực nghề nghiệp. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ngoài những đặc điểm của nhu cầu nói chung, có

những đặc điểm riêng của mình. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được nảy sinh trong quá trình cá nhân

tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và trước khi quyết định chọn nghề, từ đó cá

nhân sẽ tìm phương thức để thoả mãn nhu cầu này. Đồng thời, cá nhân có xem xét những điều kiện bên

ngoài cũng như điều kiện của bản thân (sở thích, năng lực, điều kiện sức khoẻ, điều kiện kinh tế gia

đình…) để biết cách điều chỉnh nhu cầu cho phù hợp và đạt được mục đích. Những biểu hiện nhu cầu

tư vấn hướng nghiệp ở học sinh THPT được thể hiện qua việc các em bắt đầu tìm hiểu năng lực, sở

trường bản thân, có khuynh hướng mở rộng các mối quan hệ, đồng thời tìm kiếm và chọn lọc thông tin

về nghề nghiệp và tham gia vào các hoạt động tư vấn hướng nghiệp được tổ chức trong nhà trường và

ngoài xã hội.

Kết quả điều tra thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. tỉnh Kiên

Giang cho thấy rằng đa số học sinh đều có dự định tiếp tục học đại học sau khi hoàn tất chương trình

lớp 12 và các em cũng đã lựa chọn được một nghề cho bản thân. Phần lớn học sinh chọn nhóm nghề

kinh tế, tuy nhiên có một điều chưa phù hợp vì chiếm tỉ lệ khá lớn những học sinh chọn nhóm nghề này

lại có học lực trung bình và học lực yếu. Mặc dù các em cho rằng lý do chọn nghề của các em là có căn

cứ vào năng lực, vào điều kiện tâm sinh lý cá nhân, vào điều kiện kinh tế gia đình, đồng thời các em

cũng có quan tâm đến vấn đề là sau khi ra trường thì nghề đó dễ xin được việc làm và có thu nhập cao.

Thế nhưng kết quả điều tra thực trạng cũng cho thấy mức độ hiểu biết về nghề nghiệp của học sinh là

chưa cao, chưa đầy đủ, rõ ràng, còn mơ hồ và rất chung chung. Như vậy, sự chọn nghề của học sinh là

chưa chính xác. Học sinh cũng tìm đến nhiều nguồn tư vấn khác nhau trước khi quyết định chọn nghề

và nội dung tư vấn mà học sinh quan tâm nhiều là chỉ tiêu tuyển sinh, điểm chuẩn, điểm thi tuyển của

các năm trước, hoặc sau khi ra trường thì nghề đó dễ kiếm việc làm, có thu nhập cao và những nội

dung này được các em đánh giá mức độ quan trọng cao. Học sinh ít quan tâm đến các đặc điểm tâm

sinh lý của bản thân, ít quan tâm đến hướng phát triển của nghề đối với bản thân, cũng như uy tín và

chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề. Điều này cho thấy nhu cầu tư vấn của học sinh về các nội dung

tư vấn là chưa đầy đủ, nhận thức của học sinh về nghề nghiệp còn phiến diện, lệch lạc, chưa chính xác,

chưa có chiều sâu và chủ quan.

Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu thiết yếu đối với các em học sinh THPT, và nhu cầu

này càng thiết thực đối với các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời. Chính vì vậy mà học sinh rất cần được tư

vấn trước khi chọn nghề và các em rất quan tâm đến công tác tư vấn hướng nghiệp. Kết quả thực trạng

cũng cho thấy nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh rất cao, và tư vấn hướng nghiệp đóng một vai

trò quan trọng trong việc điều chỉnh và định hướng nhận thức và lựa chọn của các em đúng đắn hơn.

Các em nhận thức được sự cần thiết phải hiểu biết rõ về nghề nghiệp thì các em mới có thể chọn cho

mình một nghề phù hợp, chính vì vậy các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp. Tuy nhiên, trên thực

tế, học sinh chỉ nhận được sự tư vấn chung chung, không đầy đủ, làm các em cảm thấy khó khăn và

không biết phải chọn lựa như thế nào cho đúng. Có thể nói, các hoạt động tư vấn hướng nghiệp trong

thời gian vừa qua (của nhà trường, các tổ chức đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng) còn

mang tính chắp vá và theo mùa, chưa đáp ứng được nhu cầu rất cao của học sinh.

Kết quả thử nghiệm một số biện pháp tác động tâm lý bước đầu đã thấy có kết quả khả quan

trong quá trình thay đổi nhận thức của học sinh về việc chọn nghề, định hướng và phát triển nhu cầu tư

vấn hướng nghiệp ở học sinh khi chọn nghề. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT

tỉnh Kiên Giang là rất cao, và đa số học sinh đều đồng ý rằng việc thành lập phòng tư vấn hướng

nghiệp tại các trường các THPT là một việc làm thật sự cần thiết. Đã đến lúc Sở Giáo dục, các nhà

trường phổ thông cũng như các ngành có liên quan khác phải nhìn nhận và giải quyết vấn đề này một

cách thấu đáo, và phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT là hướng giải quyết thoả đáng nhu

cầu này của học sinh, đồng thời góp phần vào việc xã hội hoá giáo dục một cách tốt nhất cho nền giáo

dục của tỉnh nhà.

Tư vấn hướng nghiệp tốt sẽ bước khởi đầu quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân trong

bước đường phát triển nghề nghiệp tương lai, mà còn là bước khởi đầu quan trọng trong việc sử dụng

lao động một cách hợp lý và phát triển nền kinh tế xã hội của tỉnh nhà. Tư vấn hướng nghiệp tốt phải

có sự phối hợp đồng bộ của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường phải đóng vai trò chủ

đạo.

Hiện nay, tuy Bộ Giáo dục & Đào tạo có văn bản chỉ đạo các Sở Giáo dục phải có kế hoạch

triển khai công tác này đối với các trường THPT thế nhưng Sở Giáo dục Kiên Giang vẫn còn nhiều

lúng túng trong quá trình thực hiện. Hiện nay công tác tư vấn hướng nghiệp của tỉnh chưa được làm tốt

vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan. Có sự mâu thuẫn giữa việc đòi hỏi của xã hội về việc phải đẩy

mạnh công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thông với cơ chế, chính sách cho tư vấn hướng

nghiệp chưa rõ ràng, cụ thể, phù hợp. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng hiệu quả công tác

tư vấn hướng nghiệp với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, và trình độ đội ngũ cán bộ làm công

tác tư vấn hướng nghiệp. Mặt khác, ngay cả Sở Giáo dục vẫn còn thiếu chuyên viên có chuyên môn để

phụ trách theo dõi và tham mưu cho lãnh đạo mảng công tác này.

2. KIẾN NGHỊ.

2.1. Đối với Sở Giáo dục.

Sở Giáo dục cần nhìn nhận thấu đáo vai trò quan trọng của công tác tư vấn hướng nghiệp cho

học sinh trong nhà trường THPT để có những tác động tích cực, hỗ trợ, tạo điều kiện về cơ sở vật chất,

kinh phí cho công tác này. Sở Giáo dục có thể căn cứ vào tình hình thực tế riêng của nền giáo dục tỉnh

nhà mà có thể đưa ra những quy định riêng về chế độ, chính sách dành cho những người làm công tác

tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Đồng thời có sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát đối với mặt

công tác này.

Mặt khác, Sở Giáo dục cần bố trí được ít nhất một chuyên viên có chuyên môn về công tác tư

vấn hướng nghiệp để theo dõi mặt công tác này như các bộ môn khác. Song song đó, nên có một bộ

phận để làm công tác kiểm tra, đánh giá đối với công tác tư vấn hướng nghiệp ở các trường THPT. Có

các chế độ động viên, khen thưởng kịp thời đến các giáo viên làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp cho

học sinh.

Sở Giáo dục có thể phát hành rộng rãi tờ tin giáo dục theo định kỳ hàng tháng để những người

làm công tác giáo dục, các giáo viên, học sinh và phụ huynh có thể tiếp cận và nắm bắt được tình hình

giáo dục của tỉnh nhà, trong đó ngoài những thông tin giáo dục còn có chuyên mục về tư vấn hướng

nghiệp (do chuyên viên tâm lý hoặc các chuyên gia giáo dục đảm trách) để tư vấn cho học sinh các vấn

đề có liên quan về hướng nghiệp.

2.2. Đối với nhà trường phổ thông.

Mỗi nhà trường phổ thông cần có một chuyên gia tâm lý về tư vấn hướng nghiệp để kịp thời

giúp đỡ học sinh trong việc chọn nghề. Hiện tại, nếu chưa có biên chế dành cho người làm công tác tư

vấn hướng nghiệp thì cần phải linh động có kế hoạch bồi dưỡng cho những giáo viên được đặc cách

làm công tác này để làm công tác tư vấn cho trường. Hoặc có cơ chế tuyển hợp đồng dài hạn hoặc đội

ngũ cộng tác viên nhằm khắc phục tình trạng thiếu người làm công tác này (là các chuyên gia tâm lý)

Có thể sử dụng văn phòng Đoàn trường kết hợp làm phòng tư vấn và đưa cán bộ Đoàn chuyên

trách và bán chuyên trách thường xuyên tham gia tập huấn về tư vấn hướng nghiệp để làm công tác tư

vấn cho học sinh. Theo định kỳ có thể mời chuyên gia tâm lý về tư vấn hướng nghiệp tổ chức các buổi

nói chuyện chuyên đề dành cho học sinh. Hoặc nhà trường mời cán bộ, chuyên viên các ngành chuyên

môn đến trường giới thiệu với học sinh về ngành nghề, chuyên ngành...

Tạo điều kiện cho các giáo viên làm công tác tư vấn hướng nghiệp đi tham quan thực tế ở

những địa phương đất nước phát triển làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp.

Tổ chức cho học sinh tham quan các trường đại học, các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất... để học

sinh có thể hiểu rõ hơn ngành nghề mà các em định chọn.

Có sự phối hợp với gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho học sinh, có sự

thông tin hai chiều giữa nhà trường và gia đình về học sinh.

Trong khi chờ đợi cơ chế, mỗi nhà trường phổ thông cần có sự chủ động cũng như tạo điều

kiện thuận lợi về mọi mặt cho công tác này. Bên cạnh việc phải có một đội ngũ giáo viên phụ trách thì

việc đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất để làm tốt công tác này cũng là điều cần quan tâm. Nên có một

bộ tư liệu giới thiệu về nghề nghiệp, giới thiệu về những yêu cầu của nghề đối với người lao động, xây

dựng hoạ đồ nghề nghiệp để học sinh có điều kiện tìm hiểu các nghề trong xã hội nhằm định hướng

được nghề nghiệp thích hợp.

2.3. Đối với gia đình.

Các bậc cha mẹ cần tôn trọng sở thích nguyện vọng phù hợp với khả năng của học sinh, không

nên áp đặt mà chỉ nên định hướng dựa trên cơ sở năng lực sở thích của học sinh. Thường xuyên trao

đổi, trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh, kết

hợp với nhà trường để tư vấn hướng nghiệp cho các em được tốt. Đồng thời, trong quá trình tư vấn cho

học sinh, cần cân nhắc học sinh giữa khả năng, sở thích của các em phải phù hợp với điều kiện riêng

của gia đình và nhu cầu của thị trường lao động tại địa phương và ngoài xã hội.

2.4. Đối với các tổ chức đoàn thể.

Công tác Đoàn trường học cần quan tâm, chú ý và phối hợp tổ chức nhiều hoạt động, sân chơi

thiết thực có liên quan đến nghề nghiệp và làm tốt công tác tư vấn mùa thi, tư vấn hướng nghiệp cho

các em học sinh THPT.

Hướng dẫn các chi đoàn đưa các nội dung sinh hoạt hướng nghiệp vào các kế hoạch hoạt động

ngoại khoá.

Tổ chức nhiều lớp tập huấn theo định kỳ về tư vấn hướng nghiệp dành cho cán bộ Đoàn

trường học, hỗ trợ các Đoàn trường trong việc thực hiện công tác này.

Thông tin về “Tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp” cho học sinh. Định kỳ hàng năm có thể tổ chức

các ngày hội hướng nghiệp hoặc ngày hội việc làm, thu hút đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên

tham gia và tìm hiểu về các ngành nghề hiện có của tỉnh.

Luôn là cầu nối tốt nhất giữa Hội Doanh nghiệp trẻ trong tỉnh với các nhà trường THPT nhằm

giúp đỡ học sinh tìm hiểu thêm các kiến thức về nghề nghiệp và cung cấp kịp thời thông tin nhu cầu xã

hội đang cần đối với các ngành nghề.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Danh Ánh (2003), Những nẻo đường lập nghiệp, Nxb Lao động xã hội.

2. A. G. Covaliov (1971), Tâm lý học cá nhân (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. A. G. Covaliov (1981), Tâm lý học đại cương, M.,.

4. A.V. Petrovski, M.G. Iarosepski (1990), Từ điển tâm lý học. M.,.

5. Nguyễn Ngọc Bích (1979), Động cơ chọn nghề của thanh thiếu niên, Luận án Phó Tiến sĩ.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp giáo dục hướng nghiệp, Hà

Nội. (Lưu hành nội bộ).

7. Climov E.A., (1971), Nay đi học, mai làm gì? ĐHSP I, Hà Nội.

8. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2002), Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (Sách giáo khoa thí điểm),

Nhà xuất bản Giáo dục.

9. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1990), Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông, Hà Nội.

10. Phạm Tất Dong, Quan điểm giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông Việt Nam theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội IX.

11. Phạm Tất Dong, Định hướng hoạt động lao động, hướng nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước từ 1991-2000.

12. Phạm Tất Dong (1989), Giúp bạn chọn nghề, Nhà xuất bản Giáo dục.

13. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, NXB

Lao động Xã hội.

14. Golomxtoc A.F (1969), Nhà trường và sự lựa chọn nghề nghiệp, M.,.

15. Đỗ Thị Lệ Hằng, Lịch sử phát triển và các mô hình tham vấn hướng nghiệp trên thế giới, Tạp chí

Tâm lý học số 6/2010.

16. Holland J.L. (1985), Lựa chọn nghề nghiệp: Lý thuyết về tính cách nghề nghiệp và môi trường lao

động.

17. Nguyễn Văn Hộ (1998), Cơ sở sư phạm của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông, NXB.

Giáo dục.

18. PGS. TS. Nguyễn Văn Hộ, Một số cơ sở lý luận về công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ

thông.

19. PGS. Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản

Giáo dục.

20. Phạm Mạnh Hùng (2006), Giáo trình Chuyên đề tâm lý học nghề nghiệp, Nhà xuất bản Hà nội.

21. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng nguồn nhân lực -

Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, NXB. KHXH. Hà nội.

22. John Arnold (2004), Tâm lý học lao động (Work psychology), Nhà xuất bản Prentice Hall.

23. K.K. Platonop, Tâm lý học lao động.

24. Kasina MP (chủ biên) (1979), Chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống và lao động, M. ,.

25. Phùng Đình Mẫn (chủ biên) (2004), Một số vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở

trường Trung học Phổ thông, Nhà xuất bản Giáo dục.

26. Nguyễn Ngọc Minh (2007), Nhận thức của giáo viên về tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường

trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ.

27. Phan Thị Tố Oanh (1996), Nghiên cứu nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh THPT, Luận

án tiến sĩ.

28. Platonop. K.K.(1972), Những vấn đề về năng lực, M, NXB Khoa học.

29. Nguyễn Thơ Sinh (2006), Tư vấn tâm lý căn bản, Nhà xuất bản Lao động.

30. Chu Văn Thảo (2006). Giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác tư vấn hướng nghiệp cho học

sinh tại các Trung tâm KTTH-HN ở tỉnh Bắc Ninh.

31. Lê Khắc Thìn (1996), Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác

hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ.

32. Trần Trọng Thủy (1997), Tâm lý học lao động, Tài liệu dùng cho học viên cao học.

33. Nguyễn Quang Uẩn (1989), Tâm lý học xã hội với sự nghiệp đổi mới đất nước, Hà Nội.

34. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1998), Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà

Nội.

35. Viện Khoa học Giáo dục (1984), Hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông (tập thể biên

soạn), NXB. Giáo dục.

PHỤ LỤC 1 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN LẦN I

Nhằm tìm hiểu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ đó có thể giúp các em có nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn trong việc chọn nghề nghiệp tương lai, mời các em tham gia đóng góp ý kiến của mình bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi sau: Họ tên: …………………………………… Giới tính ................ Dân tộc................ Lớp: ....... Trường: …………………………………….............................................. Học lực trung bình học kỳ I: ………………………………………………………… Trình độ học vấn của cha:………… Nghề nghiệp: ..................................................... Trình độ học vấn của mẹ:………… Nghề nghiệp: ..................................................... Câu 1: Hiện tại em đang học lớp 12, vậy em có dự định gì cho tương lai? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, THCN 2. Học nghề 3. Đi làm ngay 4. Vừa học nghề vừa làm việc 5. Làm kinh tế tại gia đình 6. Chưa có dự định 7. Dự định khác (ghi cụ thể) : .…………………………………………...

Câu 2: Em có dự định chọn cho mình một nghề cụ thể nào hay chưa? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Đã lựa chọn (ghi cụ thể tên nghề sẽ chọn : …………………………… ) 2. Chưa lựa chọn

Câu 3: Những yếu tố nào là lý do chính để em quyết định chọn nghề? (chọn 4 yếu tố quan trọng nhất và khoanh tròn số thứ tự các yếu tố đã chọn)

1. Vì có thu nhập cao 2. Vì phù hợp với năng lực bản thân 3. Vì sở thích, đam mê 4. Vì nghề đang được ưa chuộng 5. Vì bạn bè chọn nhiều 6. Vì dễ xin việc 7. Theo nhu cầu thực tế xã hội. 8. Theo cảm tính. 9. Theo truyền thống gia đình. 10. Theo điều kiện kinh tế gia đình. 11. Theo điều kiện sức khỏe, tâm lý. 12. Lý do khác (ghi cụ thể): …………………………………………. Câu 4: Em có dự định chọn cho mình một nghề từ khi nào? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ

tự mà các em chọn) 1. Lớp 10 2. Lớp 11 3. Lớp 12

4. Trước đó. Câu 5: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, em nghĩ mình đã hiểu biết đầy đủ về nghề nghiệp đã chọn hay chưa? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Hoàn toàn chưa biết gì. 2. Hiểu biết rất ít. 3. Tương đối hiểu biết. 4. Hiểu rất rõ về nghề đã chọn.

Câu 6: Khi lựa chọn cho mình một nghề cụ thể, em có cần sự tư vấn, góp ý của người khác không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Có 2. Thỉnh thoảng 3. Không

Câu 7: Em có quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp (tại các trung tâm, điểm tư vấn hoặc hoạt động tư vấn tại trường; không phải ý kiến của gia đình, bạn bè, người thân) trước khi lựa chọn nghề nghiệp hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Rất quan tâm. 2. Tương đối quan tâm 3. Ít quan tâm. 4. Không quan tâm.

Đối tượng ảnh hưởng

Gia đình Thầy cô Bạn bè Các chuyên gia, tư vấn viên Các phương tiện thông tin đại chúng Đối tượng khác:…………………………….

3

1

2

4

5

STT 1 2 3 4 5 6 Câu 9: Khi cần tư vấn để lựa chọn một ngành học hợp lý thì em thấy cần được tư vấn những

Câu 8: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, các đối tượng có ảnh hưởng đến lựa chọn của em như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không ảnh hưởng; 2 là ít ảnh hưởng; 3 là tương đối ảnh hưởng; 4 là có ảnh hưởng; 5 là ảnh hưởng nhiều nhất)

nội dung nào? (chọn 3 yếu tố quan trọng nhất và khoanh tròn vào số thứ tự các yếu tố đã chọn)

1. Điểm thi tuyển của các năm trước. 2. Tỷ lệ chọi của ngành ở các năm trước. 3. Khả năng có việc làm sau khi ra trường. 4. Cơ hội có thể học cao hơn. 5. Mức lương bình quân của việc làm sau khi ra trường. 6. Uy tín của cơ sở đào tạo. 7. Địa vị xã hội của nghề. 8. Yếu tố khác (ghi rõ): …………………………………………………………

STT

Yếu tố

1

2

3

4

5

Cơ hội có thể học cao hơn

1 Điểm thi tuyển của các năm trước 2 Tỷ lệ chọi của các năm trước 3 Khả năng có việc làm sau khi ra trường 4 5 Mức lương bình quân 6 Uy tín của cơ sở đào tạo 7 Địa vị xã hội của nghề 8 Yếu tố khác (ghi rõ)……………….

Câu 10: Mức độ quan trọng của các nội dung cần được tư vấn như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít quan trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng)

3

1

5

4

2

Yếu tố

Phù hợp với năng lực của bản thân Nghề có địa vị trong xã hội Phù hợp với sức khỏe bản thân Có nhiều bạn lựa chọn nghề đó Có thu nhập cao Công việc không ràng buộc về thời gian Phù hợp sở thích cá nhân Dễ xin việc Theo nhu cầu thực tế xã hội Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình Phù hợp với điều kiện sức khoẻ, tâm lý Theo truyền thống gia đình Yếu tố khác:………………………

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Câu 12: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, em thường gặp khó khăn gì? (khoanh tròn vào số thứ

Câu 11: Những yếu tố sau quan trọng như thế nào đối với em khi lựa chọn cho mình một nghề trong tương lai? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít quan trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng)

tự mà các em chọn, chọn 3 yếu tố)

1. Nghề phù hợp sở thích nhưng không phù hợp năng lực của bản thân. 2. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng gia đình không đồng ý. 3. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng thu nhập thấp. 4. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng khả năng có việc làm thấp. 5. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng không có địa vị trong xã hội. 6. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng không đảm bảo đủ sức khỏe. 7. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng hướng phát triển không cao. 8. Khó khăn khác:………………………………………………………… 9. Khó khăn khác:…………………………………………………………

Câu 13: Theo em, để chọn cho mình một nghề phù hợp thì sự hiểu biết về thị trường lao động cần thiết như thế nào? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Không cần thiết. 2. Ít cần thiết. 3. Tương đối cần thiết.

4. Cần thiết. 5. Rất cần thiết. Câu 14: Khi lựa chọn cho mình một nghề, em có tìm hiểu về thị trường lao động đối với ngành đó không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Có 2. Có nhưng chưa kỹ. 3. Không.

1

3

4

2

5

1

2

3

Yếu tố Nhu cầu hiện nay của thị trường lao động nói chung đối với nghề đó. Khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo đối với nghề đó thời điểm hiện tại. Định hướng, chính sách phát triển trọng điểm của nhà nước. Nhu cầu hiện nay của địa phương nơi mình đang sống.

4 5 Mức lương trung bình của nghề đó trên thị trường. 6 7 8

Điều kiện làm việc nói chung của nghề. Hướng phát triển của nghề đối với bản thân. Yếu tố khác:………..

Câu 15: Khi lựa chọn nghề, theo em những yếu tố sau của thị trường lao động quan trọng như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít quan trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng) STT

Câu 16: Những người góp ý kiến cho em chọn nghề (bao gồm gia đình, bạn bè, thầy cô, người quen, các tư vấn viên…) có tư vấn cho em về thị trường lao động khi lựa chọn nghề hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Có. 2. Có nhưng còn rất chung chung. 3. Không.

Câu 17: Em thường tìm hiểu về thị trường lao động từ những nguồn thông tin nào là chính? (chọn 3 nguồn thông tin mà em thấy quan trọng nhất và khoanh tròn vào số thứ tự)

1. Gia đình. 2. Thầy cô 3. Bạn bè. 4. Các phương tiện thông tin đại chúng. 5. Các chuyên gia, tư vấn viên. 6. Từ các sinh viên trong các chương trình thanh niên tình nguyện hay hướng nghiệp. 7. Từ các buổi tọa đàm, giao lưu với doanh nghiệp. 8. Từ nguồn khác:…………………………………………………………………...

Câu 18: Đối với nghề định chọn, em có biết những yêu cầu của nghề (phẩm chất, kỹ năng…) đối với người lao động hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Có 2. Có nhưng còn chung chung 3. Không

Câu 19: Theo em, bên cạnh việc tìm hiểu ngành học mà mình chọn, thì việc chuẩn bị cho mình những phẩm chất và kỹ năng chung nhất định là quan trọng như thế nào? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Không cần thiết. 2. Ít cần thiết. 3. Tương đối cần thiết. 4. Cần thiết. 5. Rất cần thiết. Câu 20: Các đối tượng đóng góp ý kiến để em chọn nghề nghiệp có tư vấn được cho em về các phẩm chất, kỹ năng cần có của nghề đó hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)

1. Có 2. Có nhưng còn chung chung. 3. Không Câu 21: Mức độ hài lòng của em về các hoạt động tư vấn trong thời gian qua như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó:1 là rất không hài lòng; 2 là không hài lòng; 3 là khá hài lòng; 4 là hài lòng; 5 là rất hài lòng)

Tổ chức 1 2 3 4 5

STT 1 2 3 4 Hoạt động tư vấn của trường Hoạt động tư vấn của các phương tiện truyền thông. Hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể. Toạ đàm với các doanh nghiệp

PHỤ LỤC 2 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN LẦN II

Nhằm tìm hiểu xu hướng, cũng như mức độ quan trọng, và sự cần thiết của tư vấn hướng nghiệp đối với việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của các em học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ đó có thể điều chỉnh và đề ra các biện pháp cho hoạt động tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT, mời các em tham gia đóng góp ý kiến của mình bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi sau : Họ tên: ……………………………………. Giới tính ................ Dân tộc.................... Lớp: ............. Trường: ……………………………………............................................... Học lực trung bình học kỳ I: …………………………………………………………… Ngành học đã đăng ký trong hồ sơ dự thi ĐH, CĐ: …………………………………… Câu 1: Khi đưa ra quyết định trên em đã căn cứ vào đâu? (Chọn 3 yếu tố và khoanh tròn vào số thứ tự các yếu tố đã chọn) 1. Có thu nhập cao. 2. Phù hợp năng lực bản thân. 3. Phù hợp sở thích, đam mê. 4. Nghề đang được ưa chuộng. 5. Theo xu hướng của bạn bè. 6. Dễ xin việc. 7. Nhu cầu thực tế của xã hội. 8. Theo cảm tính. 9. Theo truyền thống gia đình. 10. Điều kiện kinh tế gia đình. 11. Khả năng về sức khỏe, tâm lý. 12. Yếu tố khác:…………………………………………………………………….

Câu 2: Mức độ quan tâm của em đến tư vấn hướng nghiệp trước khi lựa chọn nghề nghiệp ? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)

5. Không quan tâm. 6. Ít quan tâm. 7. Tương đối quan tâm 8. Quan tâm 9. Rất quan tâm.

Câu 3: Các chương trình tư vấn hướng nghiệp có giải quyết được các thắc mắc, băn khoăn của em trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp tương lai hay không? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)

1. Có 2. Có nhưng chưa sâu sắc lắm. 3. Không

Câu 4: Mức độ hài lòng của em về kết quả của các chương trình tư vấn? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn) 1. Rất không hài lòng

2. Không hài lòng 3. Tương đối hài lòng. 4. Hài lòng 5. Rất hài lòng.

Câu 5: Theo em, việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp tại mỗi trường THPT là cần thiết hay không? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)

1. Rất cần thiết. 2. Cần thiết. 3. Không cần thiết 4. Ý kiến khác : …………………………………………………………………

Câu 6: Ý kiến đóng góp cụ thể của em về cách thức và những nội dung cần tư vấn hướng nghiệp. Về cách thức tổ chức họat động tư vấn: …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………… Về những nội dung cần tư vấn: …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………… PHỤ LỤC 3

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

HOC LUC * C2.2

471

76,0%

149

24,0%

620

100,0%

HOC LUC * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

4

5

3

1

1

Count

11

7

31

32

97

16

HOC LUC

% within C2.2

26,2%

12,1%

18,3%

16,2%

31,7%

20,6%

2

Count

33

32

87

52

240

36

% within C2.2

59,0%

55,2%

55,0%

45,5%

51,5%

51,0%

3

Count

16

19

73

17

134

9

% within C2.2

38,2%

16,8%

28,5%

14,8%

32,8%

26,7%

Total

Count

60

58

191

101

471

61

Phụ lục 3.1: Kiểm định mối tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn của học sinh (C2.2).

% within C2.2

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Value

Df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

28,874(a) 29,491

8 8

,000 ,000

,019

1

,890

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

471

a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 11,94.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

GIOI TINH * C2.2

471

76,0%

149

24,0%

620

100,0%

GIOI TINH * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

3

4

5

1

1

Count

16

53

19

49

52

189

% within C2.2

26,2%

32,8%

88,3%

25,7%

51,5%

40,1%

2

Count

45

7

39

142

49

282

% within C2.2

GIOI TINH

73,8%

67,2%

11,7%

74,3%

48,5%

59,9%

Total

Count

61

60

58

191

101

471

% within C2.2

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

86,324(a) 90,222

4 4

,000 ,000

1,417

1

,234

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

471

a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 23,27.

Phụ lục 3.2: Kiểm định mối tương quan giữa giới tính với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

TEN HUYEN * C2.2

471

76,0%

149

24,0%

620

100,0%

TEN HUYEN * C2.2 Crosstabulation

Phụ lục 3.3: Kiểm định mối tương quan giữa địa bàn sinh sống với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

C2.2

Total

1

2

4

5

3

1

1

Count

17

15

9

18

21

80

TEN HUYEN

% within C2.2

34,4%

31,0%

15,0%

14,9%

17,0%

8,9%

2

Count

23

11

7

2

10

53

% within C2.2

16,4%

3,4%

11,7%

12,0%

10,9%

11,3%

3

Count

2

3

2

6

5

18

% within C2.2

1,0%

3,0%

3,3%

3,8%

8,2%

10,3%

4

Count

149

72

42

32

25

320

% within C2.2

67,9%

41,0%

55,2%

70,0%

78,0%

71,3%

Total

Count

58

61

471

60

191

101

% within C2.2

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

54,684(a) 53,201

12 12

,000 ,000

24,077

1

,000

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

471

a 4 cells (20,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2,22. Phụ lục 3.4: Kiểm định mối tương quan giữa thành phần dân tộc của học sinh với ngành nghề lựa chọn.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

DAN TOC * C2.2

471

76,0%

149

24,0%

620

100,0%

DAN TOC * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

3

4

5

1

1

Count

39

35

54

162

83

373

DAN TOC

% within C2.2

63,9%

60,3%

90,0%

84,8%

82,2%

79,2%

2

Count

18

16

6

14

15

69

% within C2.2

7,3%

29,5%

27,6%

10,0%

14,9%

14,6%

3

Count

4

7

0

15

3

29

% within C2.2

6,6%

12,1%

,0%

7,9%

3,0%

6,2%

Total

Count

61

58

60

191

101

471

% within C2.2

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

39,410(a) 41,217

8 8

,000 ,000

11,117

1

,001

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

471

a 3 cells (20,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 3,57. Phụ lục 3.5: Kiểm định mối tương quan giữa trình độ học vấn của cha với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

TRINH DO CHA * C2.2

311

50.2%

309

49.8%

620

100.0%

TRINH DO CHA * C2.2 Crosstabulation

Total

C2.2

1

2

4

5

1

3

Count

1

10

40

13

9

6

2

TRINH DO CHA

% within C2.2

30.3%

14.6%

4.5%

7.5%

17.8%

12.9%

Count

2

14

14

99

18

40

13

% within C2.2

42.4%

34.1%

29.5%

33.3%

24.7%

31.8%

Count

3

8

20

130

30

55

17

% within C2.2

24.2%

48.8%

38.6%

45.8%

41.1%

41.8%

Count

4

1

1

42

12

16

12

% within C2.2

3.0%

2.4%

27.3%

13.3%

16.4%

13.5%

Total

Count

33

41

311

73

120

44

% within C2.2

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

Chi-Square Tests

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Value

Pearson Chi-Square

33.447(a) 34.498

12 12

.001 .001

7.748

1

.005

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

311

a 2 cells (10.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 4.24. Phụ lục 3.6: Kiểm định mối tương quan giữa trình độ học vấn của mẹ với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

TRINH DO ME * C2.2

306

49.4%

314

50.6%

620

100.0%

TRINH DO ME * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

3

4

5

1

1

Count

14

8

2

15

15

54

TRINH DO ME

% within C2.2

37.8%

20.5%

12.4%

21.4%

5.1%

17.6%

2

Count

15

15

16

55

23

124

% within C2.2

40.5%

38.5%

41.0%

45.5%

32.9%

40.5%

3

Count

7

16

17

44

22

106

% within C2.2

18.9%

41.0%

43.6%

36.4%

31.4%

34.6%

4

Count

1

0

4

7

10

22

% within C2.2

2.7%

.0%

5.8%

7.2%

10.3%

14.3%

Total

Count

37

39

39

121

70

306

% within C2.2

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

30.332(a) 32.205

12 12

.002 .001

7.491

1

.006

Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

306

a 3 cells (15.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2.66. Phụ lục 3.7: Kiểm định mối tương quan giữa nghề nghiệp của cha với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

471

76.0%

149

24.0%

620

100.0%

NGHE NGHIEP CHA * C2.2

NGHE NGHIEP CHA * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

4

5

3

1

Count

0

1

0

1

0

0

NGHE NGHIEP CHA

% within C2.2

.0%

.5%

.0%

.2%

.0%

.0%

1

Count

15

33

37

146

31

30

% within C2.2

50.8%

51.7%

25.0%

17.3%

36.6%

31.0%

2

Count

7

2

8

22

1

40

% within C2.2

11.5%

3.4%

13.3%

11.5%

1.0%

8.5%

3

Count

5

10

8

53

15

91

% within C2.2

8.2%

17.2%

13.3%

27.7%

14.9%

19.3%

4

Count

7

11

18

48

31

115

% within C2.2

11.5%

19.0%

30.0%

25.1%

30.7%

24.4%

5

Count

11

5

11

34

17

78

% within C2.2

18.0%

8.6%

18.3%

17.8%

16.8%

16.6%

Total

Count

61

58

60

191

101

471

% within C2.2

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

Likelihood Ratio N of Valid Cases

66.477(a) 72.429 471

20 20

.000 .000

a 6 cells (20.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .12. Phụ lục 3.8: Kiểm định mối tương quan giữa nghề nghiệp của mẹ với ngành nghề lựa chọn của học sinh.

Case Processing Summary

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

Percent

N

Percent

N

NGHE NGHIEP ME * C2.2

471

76.0%

149

24.0%

620

100.0%

NGHE NGHIEP ME * C2.2 Crosstabulation

C2.2

Total

1

2

4

5

3

1

Count

1

0

1

0

0

0

NGHE NGHIEP ME

% within C2.2

.5%

.0%

.2%

.0%

.0%

.0%

1

Count

22

29

116

29

25

11

% within C2.2

47.5%

43.1%

18.3%

11.5%

28.7%

24.6%

3

Count

51

10

85

8

11

5

% within C2.2

13.1%

19.0%

8.3%

26.7%

9.9%

18.0%

4

Count

24

21

63

4

5

9

% within C2.2

8.6%

15.0%

12.6%

20.8%

13.4%

6.6%

5

Count

93

41

206

20

17

35

% within C2.2

32.8%

29.3%

58.3%

48.7%

40.6%

43.7%

Total

Count

61

58

60

191

101

471

% within C2.2

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

100.0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2- sided)

Pearson Chi-Square

Likelihood Ratio N of Valid Cases

69.234(a) 69.478 471

16 16

.000 .000

a 5 cells (20.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .12.

Kết quả ở bảng trên mất nhóm nghề số 2 của mẹ (ngư nghiệp) là do nhóm nghề này chiếm một tỉ lệ rất thấp, không đáng kể (0,2%)

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

233

37.6

37.6

37.6

2

361

58.2

58.2

95.8

3

26

4.2

4.2

100.0

Total

620

100.0

100.0

Phụ lục 3.10: Mức độ hiểu biết về yêu cầu của nghề đối với người lao động

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

279

45.0

45.0

45.0

2

297

47.9

47.9

92.9

3

44

7.1

7.1

100.0

Total

620

100.0

100.0

Phụ lục 3.11: Đánh giá sự tư vấn về phẩm chất, kỹ năng của nghề

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

244

39.4

39.4

39.4

2

305

49.2

49.2

88.5

3

71

11.5

11.5

100.0

Total

620

100.0

100.0

Phụ lục 3.9: Đánh giá các nguồn tư vấn về thị trường lao động

PHỤ LỤC 4

TÀI LIỆU DÙNG TRONG THỰC NGHIỆM

1. Văn bản của UBND tỉnh Kiên Giang, Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang giai

đoạn 2010 - 2015.

2. Văn bản của Sở Giáo dục & Đào tạo, Định hướng phát triển giáo dục tỉnh Kiên Giang giai đoạn

2010 - 2015.

3. Văn bản của UBND tỉnh Kiên Giang, Danh mục ngành nghề ưu tiên đào tạo và thu hút nguồn nhân

lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang.

4. Nhiều tác giả, Tôi chọn nghề (Tủ sách hướng nghiệp), Nhà xuất bản Kim Đồng

5. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2009), Tài liệu tập huấn cán bộ Đoàn về nghề nghiệp, việc

làm, Hà Nội.

6. Nhiều tác giả, Chọn nghề - chọn tương lai (tập 1,2), Nhà xuất bản Trẻ

7. Quý Long, Chọn nghề, Nhà xuất bản Đồng Nai.

8. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hướng nghiệp và chọn nghề, Nhà xuất bản Kim Đồng.

9. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Cẩm nang chọn nghề và việc làm, Nhà xuất bản Kim Đồng.

10. Cẩm nang hướng nghiệp Đại học Hoa Sen.

11. Danh mục ngành, chuyên ngành tuyển sinh 2010 Đại học Cần Thơ