VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MINH DIỆU
TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN
BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MINH DIỆU
TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN
BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS CAO THỊ OANH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Diệu
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTHS: Tố tụng hình sự
PLHS: pháp luật hình sự
QĐHP: quyết định hình phạt
CTTP: cấu thành tội phạm
TNHS: trách nhiệm hình sự
VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân
TAND:Tòa án nhân dân HSST: Hình sự sơ thẩm.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH
ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh ...................................................................................... 7
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh ............................................................................10
1.3. Lịch sử lập pháp các quy định của tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh .....................................................................24
1.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh với các tội phạm khác.....................................................................32
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH
THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .......36
2.1. Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích
động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ...................................................36
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ................48
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH .............56
3.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt
Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh ........................................................................................56
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ....................................................61
3.3. Nâng cao năng lực cán bộ áp dụng pháp luật về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................66
3.4. Các giải pháp tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS về tội Giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................68
KẾT LUẬN .....................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................73
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số vụ án, bị cáo Tòa án tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm từ năm
2015 đến năm 2019 ..........................................................................................38
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Tuyên Ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định “... tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và Tuyên ngôn
nhân quyền thế giới ngày 10/12/1948, tại Điều 3 Quy định: “Mọi người đều
có quyền sống, được tự do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam cũng đã quy định tại Chương II về Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Mọi người đều
có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).
Con người là vốn quý, là giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Trong đó, quyền sống là quyền thiêng liêng và quan
trọng nhất trong các quyền cơ bản của con người. Chính vì thế, pháp luật quốc tế
và pháp luật các quốc gia đều ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người. Ở
nước ta, từ khi Hiến pháp năm 1946 được ban hành đến nay, quyền sống luôn
được ghi nhận là quyền thiêng liêng và quan trọng nhất trong các quyền cơ bản
của con người. Theo pháp luật Việt Nam, hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
tính mạng con người, tước đi quyền được sống của họ luôn được coi là một tội
ác cần phải trừng trị nghiêm khắc nhất và phải bị loại bỏ.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội, quyền con người
ở nước ta ngày càng được tôn trọng và đảm bảo. Bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế, đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội,
trong đó có các vấn đề về việc làm, tệ nạn xã hội, quá trình đô thị hoá nhanh...
1
ảnh hưởng đến sự gia tăng tội phạm nói chung và tội Giết người nói riêng.
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Tuy
nhiên đối với hành vi giết người luật hình sự phân chia thành các trạng thái
như là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, giết người do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội. Trong đó, người bị kích động mạnh về tinh thần là
người không còn nhận thức được hành vi của mình, không có khả năng làm
chủ hành vi của mình và chỉ diễn ra trong khoảnh khắc tức thời, sau đó thì
người này trở lại trạng thái bình thường. Bởi vậy, đây là nhóm tội phạm khá
phức tạp trong việc cân nhắc, xem xét để có kết luận cũng như hình phạt
tương xứng. Vì cậy, cần phải có những quy định riêng và cụ thể cho tội Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian gần đây cũng có sự diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội Giết người trọng
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng. Trong vòng 5 năm từ 2015
đến 2019 trên địa bàn tỉnh Nam Định có 03 vụ khởi tố và 03 vụ xét xử với 03
bị can phạm tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bị
truy tố. Nhiều vụ án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
xảy ra mang tính chất côn đồ, hung hãn và ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ,
tâm lý và đời sống của người dân.
Nghiên cứu các vấn đề từ thực tiễn để tổng kết thành kinh nghiệm, nêu
lên một số tồn tại, bất cập trong quy định về tội giết người trong Bộ luật Hình
sự. Để từ đó đưa một số đề xuất nhằm khắc phục hạn chế, bất cập.
Công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung và tội
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng trên địa bàn
tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn đang diễn
biến phức tạp. Nhằm góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng và
chống tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hiện
2
nay, tác giả chọn đề tài: “Tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định”
làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa là
dấu hiệu định tội vừa là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp
lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, ở trong và ngoài nước đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía
cạnh, những phương diện khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ
có các đề tài của các tác giả Đoàn Văn Lâm “Các tội xâm phạm tính mạng
con người trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2013.Ở cấp độ luận án tiến sĩ
có các đề tài của các nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hồng Hà “Tội giết người trong
Bộ luật hình sự Việt Nam” luận án tiến sĩ. Tiến sĩ Trần Văn Luyên (2000)
“Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam” Nxb
chính trị quốc gia.Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có
các công trình sau: Lê Cảm (chủ biên 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất – 2003);
Lê Cảm (chủ biên 2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản,
Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005;
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I,
Nxb TP. HCM 2003; Lê Cảm “một số vấn đề lý luận chung về định tội danh
Chương XXXI – giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội;
Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm) Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số công trình
3
nghiên cứu về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một dấu hiệu định tội
mà chỉ tập trung phân tích các cấu thành tội phạm cũng như hình phạt áp
dụng hoặc nghiên cứu chúng trong hệ thống các tội phạm xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khái niệm mà
chưa đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu nhận biết thực hiện tội phạm trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam
Định” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực
tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn này là làm rõ những dấu hiệu pháp
lý, đường lối xử lý và phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với những
hạn chế, vướng mắc xung quanh tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh từ đó góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội phạm này cũng như rút ra nguyên nhân, từ đó tìm ra đóng góp
khắc phục, làm giảm tình hình tội phạm tại địa bàn tỉnh Nam Định.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Về lý luận: Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý của tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đồng thời phân biệt tội
này với một số tội phạm khác.
Về thực tiễn: phát hiện những vướng mắc, phân tích những cơ sở lý
luận và thực tiễn đồng thời đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện quy định luật
hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại địa
4
bàn tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới góc độ của luật hình sự và tìm
hiểu thực trạng tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh tại địa bàn tỉnh Nam Định .
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
+ Tìm hiểu lịch sử quy định và hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình
sự nước ta về tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định hình phạt tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.
+ Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và luật
tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập tại Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đối với các vụ án giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xảy ra trên địa bàn tỉnh từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
5
phương pháp lịch sử...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu thành công đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận và
thực tiễn.
- Về lý luận: Luận văn góp tiếng nói khoa học và nhận thức chung về
tội giết người trong khoa học luật hình sự Việt Nam, đồng thời góp phần làm
phong phú thêm cơ sở lý luận và hoàn thiện các quy định của BLHS về tội
giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh. Làm tài liệu cho học tập
và nghiên cứu.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn, những vấn đề lý luận
nêu trong luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý
tôi phạm giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh và những tội
phạm khác có liên quan. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước
nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh
Nam Định.
- Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp
6
luật Hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh
•Khái niệm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được hiểu là
hành vi giết người trong tình trạng không tự chủ, không kiềm chế được hành
vi phạm tội của mình(tức sự phản đối của người phạm tội) do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với chính người phạm tội hoặc
người thân của người phạm tội.
Là một trường hợp đặc biệt của tội giết người, vì vậy, để hiểu rõ khái
niệm của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều
125 BLHS) thì trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm “tội giết người”.
Về khái niệm của tội giết người hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Cụ thể:
Hiện nay, các nước trên thế giới có hai xu hướng để đưa ra về tội giết
người. Một là, định nghĩa tội giết người và không định nghĩa tội giết người.
Các nước theo xu hướng định nghĩa về tội giết người trong BLHS của mình
nhưng mỗi nước lại có các cách định nghĩa khác nhau. Luật Hình sự Liên
bang Nga năm 1966, tại Điều 106, tội giết người được định nghĩa: “… là cố ý
làm chết người khác” ; Trong BLHS Trung Quốc năm 1997, tại Điều 232 tội
7
giết người được định nghĩa “là hành vi cố ý giết người khác; Bộ luật Bang
California (Hoa Kỳ) năm 1998 tại Điều 187 tội giết người được định nghĩa “là
hành vi cố ý giết người khác hoặc giết bào thai một cách hiểm độc và bất hợp
pháp” . Một số nước theo xu hướng thứ hai, không định nghĩa tội giết người,
nhưng trong khoa học pháp lý hình sự cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.
Trong đó có các định nghĩa: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái
pháp luật tính mạng người khác” , hoặc “Tội giết người là hành vi trái pháp
luật của người đủ năng năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước đoạt quyền
sống của người khác” . Hoặc “Tội giết người là hành vi làm chết người khác
một cách cố ý và trái pháp luật” . Phân tích, đánh giá các định nghĩa trên cho
thấy về nội dung, các định nghĩa không đề cập đến dấu hiệu năng lực trách
nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể hoặc có đề cập đến trách nhiệm
hình sự mà không đề cập đến độ tuổi. Về sử dụng thuật ngữ giết người là
hành vi “cố ý tước đoạt tính 8 mạng” của người khác là chưa phù hợp, chính
xác theo ý nghĩa từ ngữ trong tiếng Việt. Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng
“tước đoạt” là “tước và chiếm lấy sự sống của người khác” và “tước đoạt” đã
bao gồm sự cố ý nên không cần thiết phải quy định “tội giết người là hành vi cố
ý tước đoạt tính mạng”. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam được
quy định tại Điều 8, Khái niệm Tội phạm thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự thực hiện bởi người có năng lực
trách hình sự thực hiện một cách cố ý, hoặc vô ý… xâm phạm tính mạng… của
công dân…” . Trên cơ sở phân tích các định nghĩa trên về tội giết người, tác giả
đưa ra khái niệm về tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý tước
đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật, thực hiện bởi người có năng
lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi theo quy định của pháp luật.
Theo bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban
hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân
tối cao thì: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật” [31, tr.83]; [15, tr.12]. Tuy nhiên cũng có
8
quan điểm khác cho rằng “tội giết người là hành vi trái pháp luật của người
đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người khác”
[11, tr.67].
Cả hai quan điểm đưa ra đều chưa hợp lý ở chỗ: Chưa đề cập đến dấu
hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể “tội giết
người” (quan điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực trách
nhiệm hình sự mà không đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai), để
khắc phục những hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết
người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp
luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định
thực hiện” [6, tr.38].
“Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy
định tại Điều 125, BLHS năm 2015 như sau:
“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc
đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị
phạt tù từ ba năm đến bảy năm” [21]
Từ quy định tại Điều 125 BLHS cho thấy “tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh” đòi hỏi người phạm tội khi thực hiện hành
bi phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ
cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng
kiểm soát và điều khiển hành vi. Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh có thể
là tình tiết làm giảm nhẹ một cách đáng kể mức độ của tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Do vậy tình tiết này có thể được quy định là tình tiết
định khung hình phạt giảm nhẹ hoặc có thể là tình tiết định tội cho tội nhẹ hơn so
với tội của trường hợp bình thường. BLHS 1985 quy định tình trạng tinh thần bị
9
kích động mạnh là trường hợp định khung hình phạt giảm nhẹ của “tội giết
người” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác”. Trong BLHS năm 1999 và BLHS 2015 các trường hợp này được tách ra
thành các tội danh riêng, đó là “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
Theo Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS
năm 1985 thì “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người
phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của
mình. Sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân gây nên”. Cá biệt, có trường hợp, do hành vi trái pháp
luật của nạn nhân có tính chất đè nén áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại,
sự kích động đó đã âm ỉ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật
của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế
được, nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh
nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc thì lại được coi là mạnh hoặc
rất mạnh.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi
cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái
người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội
của mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người
phạm tội hoặc người thân thích của người đó.
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh
Theo quy định tại Điều 125 BLHS “tội giết người trong trạng thái tinh
10
thần bị kích động mạnh” có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà nước cũng đều xác
lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội, phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp
luật, trong đó có các quy phạm pháp luật hình sự. Trong Luật Hình sự Việt
Nam, những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm
xâm hại là những quan hệ được xác định trong khái niệm tội phạm, đó là:
“Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa” (khoản 1 Điều 8 BLHS 2015). Trong số những
quan hệ xã hội đã được xác định này tính mạng con người là một trong những
khách thể có tầm quan trọng đặc biệt. Hành vi giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là một trong những hành vi xâm phạm trực tiếp đến
tính mạng của con người, đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ
tính mạng của người khác từ đó có thể xác định khách thể của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó là quyền sống của con người.
Đây là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Cũng giống như các tội phạm khác khi được thực hiện đều có những
biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ra bên ngoài thế giới khách quan mà con người
có thể nhận biết được. “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh” cũng có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ở ngoài thế giới khách
quan, đó là:
- Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác;
- Hậu quả chết người;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tước đoạt trái pháp luật tính
11
mạng của người khác và hậu quả chết người.
Ngoài ra còn có các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi
phạm tội như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm phạm tội… Những dấu hiệu này không được quy định là dấu hiệu bắt
buộc trong mặt khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
* Hành vi khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh:
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc
đe doạ gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai
hình thức đó là hành động hoặc không hành động. Theo quy định của BLHS
2015, hành vi khách quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được hiểu là
hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của con
người. Hành vi đó có thể được thực hiện bằng những cách thức khác nhau
như bắn, đâm, chém...
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được coi là hành vi khách
quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” khi
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội
đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này với các tội
khác mà trước hết là tội giết người (Điều 123 BLHS).
Theo hướng dẫn của Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kích động mạnh về tinh
thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình
thường nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự
12
chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình. Trạng thái tinh thần này của họ chỉ xẩy ra trong chốc lát.
Người phạm tội khi thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh thường xuất hiện cơn bùng phát về tinh thần, thường biểu hiện các trạng
thái tâm lý như: Quá lo sợ, quá hốt hoảng, quá kinh hãi, quá căm tức và quá
phẫn nộ. Nguyên nhân dẫn tới trạng thái tâm lý này xuất phát từ những hành
vi trái pháp luật của nạn nhân, dưới đây, chúng tôi xin phân tích một số hành
vi chủ yếu để thấy rõ biểu hiện tâm lý của người phạm tội khi có hành vi trái
pháp luật của nạn nhân dối với họ hoặc người thân thích của họ:
- Hành vi sỉ nhục hay vu khống người khác: Đây là dạng hành vi xúc
phạm tới nhân phẩm, danh dự của người khác, tác động mạnh tới trạng thái
tâm lý của của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A và B là hàng xóm của
nhau, A vu khống cho rằng B lấy trộm gà nhà A, B đã nhiều lần đính chính là
B không làm điều đó nhưng A vẫn một mực nghi ngờ và đi nói với nhiều
người khác và B cũng đã nhắc nhở A nhiều lần. Một lần, nhà B có khách đến
chơi, B có làm gà tiếp khách thì A có nói bóng gió rằng B là thằng ăn trộm, gà
đấy là nhà A, quá tức giận, B liền nhặt đá ném vào đầu A làm A chết. Như
vậy, hành vi vu khống của A đã tác động vào tâm lý của B, đỉnh điểm là khi
nhà B có khách làm cho B cảm thấy bị xúc phạm, căm phẫn dẫn tới hành vi
ném đá vào A.
- Hành vi dùng bạo lực một cách thô bạo với người khác: Đây là dạng
hành vi tác động vào tính mạng, sức khoẻ người khác một cách trái pháp luật.
Ví dụ, trường hợp của anh Lương Văn Thanh (người phạm tội) là công nhân
may của Công ty may Youngone khi đang trên đường trở về nhà sau khi tăng
ca vào buổi đêm thì bị anh Vân (nạn nhân) bất ngờ từ trong hẻm nhảy ra chặn
đánh (do anh Vân nhầm lẫn, nhận sai người). Do bị đánh đau nên anh rút dao
ra đâm vào ngực trái của nạn nhân làm nạn nhân chết trên đường đi cấp cứu.
13
Hành vi của anh Vân là quá bất ngờ lại vào đêm khuya nên đã làm cho anh
Thanh hoảng sợ dẫn tới tinh thần bị kích động mạnh nên đã dùng dao đâm
chết anh Vân.
- Những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình: Trong thực
tế, có rất nhiều vụ giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình, chồng đánh đập
vợ, đánh đập con cái, người vợ không làm tròn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ…
Ví dụ, trường hợp của ông Hoàng Văn Thái (thành phố Nam Định, tỉnh Nam
Định), do bị bà Mai Thị Thu (vợ) thường xuyên lăng mạ, khinh thường vì thu
nhập thấp, ngoài ra, bà Thu còn ngoại tình với người khác nên vợ chồng ông
Thái, bà Thu đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn. Trong một lần cãi vã, bị bà Thu
mắng nhiếc nặng lời và dùng đồ đạc ném về phía ông Thái, do quá tức
giận,ông Thái cầm cuốc dài 1,2m, đánh liên tiếp vào người bà Thu làm bà
chết tại chỗ. Hành vi thường xuyên hành hạ, coi thường chồng của bà Thu đã
làm cho ông Thái tức giận dồn nén lâu ngày đặc biệt là khi bà dùng lời lẽ,
hành động ném đồ đạc làm ông Thái căm phẫn nên đã dùng cuốc đập liên tiếp
vào người bà Thu. TAND tỉnh Nam Định cũng đã xác định ông Hoàng Văn
Thái do sự dồn nén, ức chế lâu ngày trong quá trình chung sống vì thường
xuyên bị bà Thu chửi bới, coi thường nên khi thấy bà Thu chửi bới, ném đồ,
thì ông Thái đã bị kích động mạnh mà dùng cuốc đánh bà Thu tới chết.
- Hành vi xâm phạm tới tài sản của người khác như đốt cháy, cướp giật,
đập phá. Đây là hành vi xâm phạm tới tài sản của người phạm tội của nạn
nhân, tài sản ở đây thường là tài sản có giá trị lớn về vật chất hoặc tình thần.
Ví dụ, trường hợp do mâu thuẫn trong quan hệ xóm giềng nên một lần, nhân
lúc thấy xe ô tô của A dựng ngoài sân mà không có người nên B đã lấy một
thanh sắt đập vào kính, vào gương và cốp xe của A, A đi bên nhà C về thì
thấy B đang đập phá ô tô của mình nên tức giận nhảy vào đánh B làm cho B
chết trên đường đi cấp cứu. Hành vi phá hoại tài sản có giá trị lớn của B đã
14
làm cho A tức giận và có hành động nhảy vào đánh B.
Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa
đến mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là tinh thần bị kích động mạnh,
không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, đối với trường hợp này người phạm tội chỉ được giảm nhẹ hình phạt
theo quy định tại khoản 1, Điều 51 BLHS 2015.
Trên thực tế việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần
hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi trạng thái tâm lý của mỗi người là
khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia, có người
bị kích động mạnh về tinh thần nhưng có người lại không bị kích động mạnh.
Ví dụ: Cùng một sự việc là thấy vợ có quan hệ bất chính với người
khác, anh A lao tới giết tình nhân của vợ, anh B đệ đơn ly hôn.
Như vậy, không có “thước đo” cụ thể nào để xác định một người bị
kích động hay kích động mạnh mà chúng ta phải căn cứ vào từng vụ án cụ
thể, xem xét từng tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, điều kiện
sống, quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội…
Nạn nhân của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội
hoặc người thân thích của người phạm tội: Hành vi trái pháp luật của nạn
nhân đối với người phạm tội phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng. Hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là những hành vi vi phạm pháp
luật hình sự, xâm phạm tới lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những
người thân thích của người phạm tội. Thông thường, những hành vi trái pháp
luật của nạn nhân xâm phạm tới sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự như hành vi sỉ
nhục hay vu khống người khác, hành vi dùng bạo lực thô bạo đối với người
khác, những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, hành vi xâm
phạm tới tài sản của người khác như đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật hay
15
những hành vi khác trái với đạo đức xã hội [17, tr.57-58]
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể vi phạm pháp
luật hình sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình… Hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng ở đây có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa cấu thành tội
phạm nhưng dù trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tính chất trái pháp
luật nghiêm trọng. Nếu hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng
không nghiêm trọng, có tính chất nhỏ nhặt thì không thuộc trường hợp này.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một
hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của
người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi,
lặp lại trong suốt thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm
tội làm cho họ bị dồn nén về mặt tâm lý. Đến thời điểm nào đó khi có hành vi
trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy
đến cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trong trường hợp này, nếu chỉ xét hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân [29].
Ví dụ, trường hợp A mở quán nước trước nhà B, thường xuyên vứt rác
trước cổng nhà B, B đã rất nhiều lần nhắc nhở nhưng A không thay đổi. Một
lần, cả nhà B đang ngồi ăn cơm ngoài sân thì A lại tiếp tục vứt rất nhiều rác
bẩn trước cổng nhà B, B ra mắng A thì bị A cãi lại, thách thức làm B tức giận
lấy thanh sắt ở sân đánh vào đầu A, làm A chết. Nếu xét từng hành vi cụ thể
của A thì sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật mà A
đã thực hiện nhưng hành vi này đã diễn ra thường xuyên, liên tục trong một
thời gian dài mặc dù đã được B nhắc nhở, đến thời điểm cả nhà B đang ăn
cơm, A lại vứt rác bẩn vào cổng, bị B mắng A lớn tiếng cãi lại, thách thức
thì B thực sự tức giận, bị kích động mạnh về tinh thần và dùng thanh sắt
16
đánh A chết.
Một người bị kích động mạnh về tinh thần ngoài trường hợp nạn nhân
có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với họ còn có những trường hợp bị
kích động mạnh về tinh thần khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng với
người thân thích của người đó. Hiện nay chưa có văn bản nào giải thích chính
thức thế nào là người thân thích của người phạm tội nhưng theo thực tiễn xét
xử có thể hiểu những người thân thích với người phạm tội là những người có
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng như: Vợ chồng,
cha mẹ - con cái, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha với nhau, ông bà nội ngoại đối với các cháu, trong thực tiễn xét xử Tòa án
cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay
quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc giống như anh chị em ruột, cha
mẹ ruột cũng được xác định là người thân thích của nhau [17]. Như trong trường
hợp mẹ và con nuôi với nhau mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng cũng
có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau: Bố mẹ A chết sớm, A được bà C
nhận làm con nuôi từ nhỏ, một hôm đang đi làm đồng thì có người gọi “Về nhà
ngay! Mẹ của mày bị người ta đánh cho què chân rồi”. A vội cầm dao chạy về
nhà và biết mẹ mình bị M đánh đang nằm bất tỉnh ở sân trước, A liền chạy sang
nhà M chém liên tiếp vào đầu M làm M chết ngay tại chỗ. Tuy A và bà C không
phải có quan hệ huyết thống nhưng có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau
nên bà C có thể được xem là người có quan hệ thân thích với A.
Nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người
phạm tội là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người
phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Không có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân
thích của người đó thì không có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của
người phạm tội. Ví dụ trường hợp A đánh B (con của C) bị thương, C nghe tin
cầm gậy chạy đi tìm A để đánh nhưng không gặp A mà gặp bà M (mẹ của A)
nên C dùng gậy đánh bà M, do vết thương quá nặng nên bà M đã chết trên
đường đi cấp cứu. Trường hợp này, A mới là người có hành vi trái pháp luật
17
nghiêm trọng đối với người thân của C làm cho C bị kích động mạnh về tinh
thần chứ không phải bà M, nên hành vi giết người của C không phải là giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh rồi giết người cũng không thuộc trường hợp giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Ví dụ, A và B cãi nhau, B tức giận đi
uống rượu, say rồi về cầm dao đi giết A, trường hợp này B sẽ bị xử lý theo
Điều 123 BLHS chứ không áp dụng Điều 125 BLHS, vì hành vi giết A của B
là do B bị say rượu dẫn tới không nhận thức và điều khiển được hành vi chứ
không phải do A và B cãi nhau mà B bị kích động mạnh.
* Hậu quả của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh
Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đó là hậu quả chết người, cụ thể là
nạn nhân phải chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân
mới bị coi là phạm tội này. Theo đó, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu
nạn nhân không chết mà chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe mà thương
tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh” được quy định tại điều 126 BLHS. Cũng theo quy
định của BLHS, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không
có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có
khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó phải có tính đột xuất,
nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của
18
tội phạm
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm
có cấu thành vật chất nên hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm. Một người chỉ phải chịu TNHS về tội “Giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh” nếu giữa hành vi khách quan và hậu quả
chết người đó có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Hành vi giết người phải xảy ra tức thời, ngay lúc có hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì: “Nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành
động của bị cáo có một khoảng thời gian nhất định thì không thể nói bị cáo
đang ở trong tình trạng đột xuất bị kích động tinh thần mạnh mẽ đến nỗi họ
không tự chủ được mình nữa” [23, tr.346]
Như vậy, để xác định người phạm tội có ở trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh hay không chúng ta cần xem xét giữa hành vi giết người và
hậu quả chết người có mối quan hệ nhân quả hay không. Nếu giữa chúng
không có mối quan hệ nhân quả thì bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà phạm
một tội khác. Ví dụ, trường hợp A đánh con của B bị thương nặng, tức giận B
chạy sang đánh A bị thương, sau đó A được mọi người đưa đi bệnh viện, trên
đường đi A bị tai nạn giao thông mà chết thì trường hợp này B không phạm
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì giữa hành vi
đánh A bị thương của B và hậu quả A bị chết không có mối quan hệ nhân quả.
1.2.3. Chủ thể
Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được hiểu là con
người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội ở thời điểm họ có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật. Cũng như các tội
phạm khác, chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là chủ thể thường, chỉ cần là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
19
luật định.
Năng lực TNHS là năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Năng lực
TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi hay không
khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực
TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực TNHS là người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có khả năng điều khiển được hành vi
ấy. Người có năng lực TNHS theo luật Hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi
chịu TNHS (Điều 12 BLHS năm 2015).
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đòi hỏi
người phạm tội cũng phải là người có năng lực TNHS, tức là khi thực hiện
hành vi phạm tội họ có khả năng nhận thức được hành vi tước đoạt trái pháp
luật tính mạng của người khác là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật ngăn cấm
và họ có khả năng điều khiển, kiềm chế hành vi của mình để không thực hiện
hành vi nguy hiểm đó nhưng họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội.
Bên cạnh năng lực TNHS, chủ thể của tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh cũng phải là người đạt tới độ tuổi nhất định. Điều
12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS như sau: “1. Người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật
có quy định khác; 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Đồng thời cũng theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 thì “Tội
phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”…
Căn cứ vào tại khoản 2 điều 12, khoản 1 điều 8 và Điều 125 BLHS thì
chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là
20
người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Như vậy,
những người chưa đạt đến độ tuổi này thực hiện hành vi được quy định tại
•) Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo bộ
Điều 125 BLHS gây ra hậu quả chết người thì cũng không phải chịu TNHS.
luật Hình sự năm 2015.
Theo điều 125 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với
người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm”[21]
So với BLHS năm 1985 thì quy định về “tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh” tại Điều 95 BLHS năm 1999 có những điểm
mới. Từ đó,điều 125 BLHS 2015 tiếp tục kế thừa và phát huy những điểm sửa
đổi của BLHS 1999
- Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã tách trường hợp giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh ra khỏi tội giết người và quy định thành một
tội danh độc lập với các khung hình phạt riêng.
- Thứ hai, trên cơ sở quy định thành một tội danh độc lập, BLHS năm
2015 tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự các trường hợp giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có các mức độ nguy hiểm cho xã hội
khác nhau. Nếu như trước đây BLHS năm 1985 quy định trường hợp “giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” chỉ có một khung hình
phạt là bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm thì trong BLHS năm 2015 với tư
cách là một tội danh độc lập “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” quy định hai khung hình phạt là: khung cơ bản có hình phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm còn khung tăng nặng với trường hợp phạm tội với 02
người trở lên thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm. BLHS 2015 đã cụ thể hóa
21
khung tăng nặng so với BLHS 1999, không dùng cụm từ “giết nhiều người”
mà thay bằng “phạm tội với 02 người trở lên” để cụ thể hóa quy định, dễ dàng
áp dụng trong các trường hợp phạm tội.
1.2.4. Mặt chủ quan
Lỗi là dấu hiện bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng như trong mặt chủ quan của mọi
cấu thành tội phạm.
Lỗi trong cấu thành tội phạm của tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Căn
cứ quy định tại điều 10, điều 11 BLHS thì lỗi cố ý trực tiếp của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp người phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết
người có thể hoặc tất yếu xảy ra và vì mong muốn hậu quả chết người nên đã
thực hiện tội phạm. Lỗi cố ý gián tiếp của tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì
người phạm tội thực hiện tội phạm khi có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ làm tinh thần của
họ bị kích động mạnh dẫn tới hành vi phạm tội. Người phạm tội không hề có
sự chuẩn bị trước về tinh thần cũng như công cụ, phương tiện phạm tội. Do
vậy, lỗi của người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù là
lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp đều có đặc điểm chung là lỗi cố ý đột xuất. Cố
ý đột xuất là trường hợp người phạm tội vừa có ý định phạm tội đã thực hiện
ngay ý định đó, chưa có sự cân nhắc kỹ.
Khi thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì lý trí của người phạm
tội biểu hiện như sau: người phạm tội thấy rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
22
của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. Người phạm tội
thấy trước tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình là sự nhận thức
được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên cơ sở
nhận thức được những tình tiết khách quan của nó. Người phạm tội thấy trước
hậu quả của hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của
hành vi đó.
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mặc dù
người phạm tội bị hạn chế trong việc thấy trước hậu quả của hành vi giết
người, vì khi thực hiện hành vi giết người họ đang trong tình trạng tinh thần
bị kích động mạnh nhưng không phải vì thế mà người phạm tội không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự vì lúc đó họ chưa mất hẳn khả năng nhận thức và vẫn
còn có thể lựa chọn xử sự khác chứ không phải là hành vi giết người. Khi
thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì ý chí của người phạm tội được
biểu hiện là mong muốn hậu quả chết người xảy ra. Hậu quả chết người xảy
ra phù hợp với mong muốn của người phạm tội.
Khi thực hiện tội phạm với lỗi với lỗi cố ý gián tiếp thì lý trí của người
phạm tội biểu hiện như sau: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình và thấy trước hậu quả có thể xảy ra. Người phạm tội
không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, ở đây người
phạm tội có thể thấy trước hậu quả chết người nhưng nằm ngoài mục đích và sự
quan tâm của họ, người phạm tội không hướng vào hậu quả chết người mà hướng
vào mục đích khác, mục đích của hành vi. Bởi lẽ khi có hành vi giết người, người
phạm tội đang ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể người phạm
tội chỉ mong muốn trút bỏ được cơn thù tức do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân đối với mình hoặc người thân thích của mình.
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mục đích và
23
động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm.
1.3. Lịch sử lập pháp các quy định của tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh
Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nó
gắn liền với các giai đoạn của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Khi đất
nước được thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những
cơ sở về chính trị, kinh tế- xã hội để thống nhất về mặt luật pháp, trong đó
pháp luật hình sự quy định các tội phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người ngày càng được xây dựng và hoàn thiện.
1.3.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự 1985
Từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên năm
1985 nguồn pháp luật hình sự Việt Nam là tập hợp các văn bản đơn hành với
21 nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, thông tư, điều lệ… nội dung chủ yếu
là các tội phạm về phản cách mạng, tội phạm xâm phạm tính mạng sức khỏe,
tội phạm, về sở hữu…Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL
ngày 15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn
bản này được áp dụng cho các nước). Quy định về tội phạm thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được thể hiện tại Sắc luật số 03-SL
ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời và Thông tư số
03- SL-BTP-TT ngày 15/4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật
số 03 theo đó “Giết người kèm theo tình tiết giảm nhẹ đặc biệt sau đây thì bị
24
phạt thấp hơn 15 năm tù: Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động
một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn
nhân”. Sắc luật số 03/SL chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt
cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh. Để nhận thức sắc luật được đúng đắn và để
việc áp dụng được thống nhất thì thông tư 03/BTP/TT có hướng dẫn cụ thể,
theo đó trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được coi là tội phạm ít
nghiêm trọng và là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Như vậy, trước khi Bộ luật
hình sự năm 1985 ra đời thì việc quy định các tội phạm nói chung và các tội
phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng ở các
văn bản dưới luật nên giá trị pháp lý của những văn bản đó chưa cao đồng
thời các quy định đó còn quá chung chung, không nêu cụ thể rõ ràng dẫn đến
việc áp dụng không thống nhất, việc xét xử 22 gặp nhiều vướng mắc do vậy
cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của công
tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này
1.3.2. Giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 1999
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày
15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn bản
này được áp dụng cho các nước). Tại Điều 5 của Sắc luật này có quy định các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tuy
nhiên Sắc luật này cũng chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt
cụ thể tội giết người với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh. Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng được thống
25
nhất, ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng
dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội giết người.
Điểm 2 mục B của Thông tư này xác định:
“...Cố ý giết người là một tội đặc biệt nghiêm trọng do đó được quy định
hình phạt cao hơn các tội phạm cùng loại quy định ở Điều 5 Sắc luật này:
Cố ý giết người thì bị phạt từ 15-20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết giảm nhẹ thì bị xử dưới
15 năm tù. Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết giảm nhẹ thì
bị xử dưới 15 năm tù. Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết
giảm nhẹ là:
- Giết người trong trường hợp tinh thần bị kích động quá mạnh...”
Như vậy, ở thời điểm này, trường hợp giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh được coi là phạm tội ít nghiêm trọng và là một tình
tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người, có thể bị xử dưới 15 năm tù.
Trong BLHS năm 1985, “tội giết người” được quy định tại Điều 101 và
“tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy định
tại Khoản 3 Điều này như một trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ
đặc biệt của tội giết người : “...Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với
người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ 6
tháng đến 5 năm”
1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam
được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982 – 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời
của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt: Bộ luật
hình sự 1985. Có thể nói, Bộ luật hình sụ 1985 ra đời là kết tinh thành tựu 40
năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng, là bản tổng kết sâu sắc
26
thực tiễn phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945
đến thời điểm Bộ luật được ban hành. Kế thừa những quy định pháp luật của
thời kỳ trước trường hợp thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh đã được và ghi nhận tại hai điều luật Điều 101 về tội giết người.
Tội giết người:
“1- Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì
bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình;
a) Vì động cơ đê hèn; để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác;
b) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; bằng cách lợi dụng nghề
nghiệp hoặc bằng phương pháp có khả năng chết nhiều người;
c) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d) Giết nhiều người hoặc giết phụ nữ mà biết là có thai;
đ) Có tổ chức;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội
nghiêm trọng khác;
g) Có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm.
2- Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định ở khoản 1 Điều này
hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt thì bị phạt tù từ năm năm đến mười
lăm năm.
3- Phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối
với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
(Điều 101).
Và Điều 109 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác:
“1- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ
27
ba tháng đến ba năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của
người khác;
b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm;
3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.
4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản
2, ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong 24 trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.(Điều 109).
Sau khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời thì chỉ có một văn bản duy nhất
hướng dẫn về thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của HĐTP TANDTC mà chưa
có một khái niệm hay hướng dẫn cụ thể nào khác. Theo hướng dẫn của nghị
quyết trên thì: Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người
phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của
mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết
người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có
tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã
âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại
tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng
sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá
trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Trong
28
trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành
tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội
vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích
động mạnh. Như vậy, so với Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng
Chính phủ cách mạng lâm thời thì quy định của Bộ luật hình sự 1985 và nghị
quyết hướng dẫn liên quan đến tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh đã đầy đủ và cụ thể hơn. Cụ thể nêu ra tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm
chế được hành vi phạm tội của mình, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của
nạn nhân là đối với người phạm tội và người thân thích.
1.3.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay
Trong vòng 12 năm Bộ luật hình sự 1985 đã có bốn lần sửa đổi, bổ
sung. Việc sửa đổi bổ sung là cần thiết và rất kịp thời nhưng vẫn còn mang
tính bộ phận, chỉ đáp ứng được các yêu cầu bức xúc, thời sự trước tình hình
tội phạm có chiều hướng gia tăng trong điều kiện xã hội đang chuyển đổi cơ
chế, cái cũ mất đi thay thế những cái mới tiến bộ hơn. Đó là những đòi hỏi có
tính khách quan cho sự ra đời của Bộ luật hình sự 1999.
Cũng trong sự thay đổi của diễn biến xã hội, bộ luật Hình sự 2015 tiếp
tục ra đời. Bộ luật hình sự năm 2015 không chỉ thể hiện một cách toàn diện
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn
là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực
hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
BLHS 2015 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam , kì họp thứ 10
thông qua ngày 27/11/2015. BLHS năm 2015 gồm 26 chương với 426 điều.
Bộ luật sửa đổi bổ sung các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; tăng
phạt tiền với chính sách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự
29
quản lý kinh tế. Bên cạnh đó, BLHS 2015 còn quy định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường. Sửa đổi,
bổ sung các quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng hạn chế áp
dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù. Sửa đổi, bổ sung các
quy định về các hình phạt tử hình theo hướng tiếp tục thể chế hóa chủ trương
hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo các nghị quyết của Đảng về cải cách
tư pháp, bám sát tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người, quyền cơ bản của công dân. Quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng
hình phạt tử hình , bỏ hình phạt tử hình với 07 tội danh cụ thể…Thời điểm có
hiệu lực quy định trong bộ luật là từ ngày 01/07/2016, tuy nhiên, do có một số
sai sót trong BLHS 2015, ngày 29/6/2016, Quốc hội khóa 13 đã ban hành
Nghị quyết số 144/2016/QH13 lùi hiệu lực thi hành BLHS năm 2015 từ ngày
01/7/2016 đến ngày luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 có hiệu
lực thi hành; tiếp tục thực hiện các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại
khoản 3 điều 7, điểm b, khoản 1 điều 1 và khoản 2 điều 1 BLHS 2015 và các
quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015-QH13.
Tuy nhiên, nội dung tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh được quy định tại điều 125 BLHS năm 2015 vẫn được giữ nguyên
từ điều 95 BLHS 1999.
So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 2015 có nhiều
quy định mới về tội phạm và hình phạt.Trong đó, quy định về thực hiện tội
phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng có sự thay đổi. Đối
với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125)
được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến
ba năm (khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu tháng 26 đến năm
năm); khoản 2 là trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ ba năm
đến bảy năm (quy định này mới, nặng hơn khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự
năm 1985). Vì là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, nếu
30
quy định cùng một điều luật với tội giết người như trước đây thì không phải
ánh đúng tính chất của tội phạm này. Việc nhà làm luật tách trường hợp giết
này ra thành một tội phạm riêng không chỉ bảo đảm chính xác về lý luận và
kỹ thuật lập pháp mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử. Đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) Đây là tội phạm được nhà luật tách từ
khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu của tội phạm này
cũng tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự 2015, chỉ khác nhau ở ý
thức chủ quan của phạm tội đối với hậu quả và hậu quả thực tế đã xảy ra. So
với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì các dấu hiệu cấu thành
được quy định tại Điều 105 đầy đủ hơn và hoàn toàn tương tự với các dấu
hiệu cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
được quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 4 Điều
109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định "bị kích động mạnh vì hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân", chứ chưa quy định "hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân tích của
người đó" như khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015. Mặt khác, Bộ
luật hình sự năm 2015 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thì người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Còn khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây thương
tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ
thương tật 31% được coi là thương tích nặng. Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ
thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành vi không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Như vậy, nhìn vào lịch sử lập pháp có thể thấy trường hợp
thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được ghi
nhận trong pháp luật hình sự khá sớm. Qua ba lần pháp điển hóa với sự ra đời
31
của Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 thì quy
định liên quan đến thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh có sự thay đổi, bổ sung để ngày càng phù hợp với thực tế và theo đúng
mục đích của bộ luật hình sự. Sự thay đổi, bổ sung đó là tất yếu song thực tế
áp dụng vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa thống nhất đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu để hoàn thiện hơn.
1.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh với các tội phạm khác
* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với
tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126, BLHS 2015)
Nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành về hai tội phạm này cho
thấy, bên cạnh những điểm giống nhau, còn có một số điểm khác nhau cơ bản
sau đây:
- Chủ thể của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
phải là người theo quy định của pháp luật có quyền phòng vệ chính đáng, tức
là quyền chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, của bản thân hay
của người khác. Như vậy, động cơ hành động của chủ thể là động cơ bảo vệ
lợi ích hợp pháp, nhưng do thực hiện biện pháp phòng vệ quá mức cần thiết,
không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại dẫn
đến phạm tội. Trong khi đó chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều 125) không xuất phát từ động cơ phòng vệ khi
thực hiện hành vi giết người.
- Nạn nhân của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng phải là người có hành vi bất hợp pháp xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, lợi ích chính đáng của con người.
* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
32
với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (Điều 104)
Nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành về hai tội phạm này cho
thấy, bên cạnh những điểm giống nhau, còn có một số điểm khác nhau cơ bản
sau đây:
- Mặc dù mặt chủ quan của hai tội này giống nhau vì đều là tội phạm
được thực hiện với lỗi cố ý, nhưng nội dung của sự cố này có khác nhau: cố ý
giết người là cố ý tước đoạt sinh mạng người khác; cố ý gây thương tích là cố
ý làm cho người khác bị thương chứ không muốn người đó chết, việc người bị
hại chết là ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.
- Khách thể bị xâm phạm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh là tính mạng con người; còn khách thể bị xâm phạm của tội
cố ý gây thương tích dẫn đến chết người là sức khỏe con người, mặc dù có
hậu quả chết người, nhưng người phạm tội không nhằm mục đích giết người
nên không phải là khách thể của tội này.
- Mặt khách quan của hai tội giống nhau ở hành vi nhưng lại khác nhau
về hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Hậu quả chết người của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hậu quả do chính hành vi của
người phạm tội trực tiếp gây nên, ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác, nó
là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm; Hậu quả chết người ở tội cố ý
gây thương tích dẫn đến chết người không chỉ do hành vi của người phạm tội
gây nên, vì hành vi của người phạm tội không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến chết người mà nạn nhân chết còn do những nguyên nhân khác.
* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
điều 125 BLHS với trường hợp giết người được áp dụng tình tiết giảm nhẹ
khoản 1 Điều 51 BLHS
Căn cứ quy định của Điều 125 và khoản 1 Điều 51 BLHS, chúng ta
thấy cả hai trường hợp người phạm tội đều bị kích động về tinh thần di hành
vi trái pháp luật của người khác gây nên nhưng sự khác nhau cơ bản là mức
33
độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn nhân.
- Thứ nhất, về mức độ kích động về tinh thần: nếu như ở trường hợp
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS)
người phạm tội phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp phạm tội quy định
tại khoản 1 Điều 51 thì người phạm tội tuy tinh thần có bị kích động nhưng
chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được hành vi của mình.
- Thứ hai, về mức độ của hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra
tình trạng kích động của người phạm tội: Nếu ở Điều 125 hành vi trái pháp
luật của nạn nhân phải là nghiêm trọng thì ở trường hợp phạm tội quy định tại
khoản 1 Điều 51 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm
trọng, hành vi trái pháp luật ở Điều 125 phải là của chính nạn nhân thì ở
khoản 1 Điều 51 không nhất thiết phải là hành vi của nạn nhân mà là hành vi
của bất kỳ người nào khác.
- Thứ ba, về đối tượng tác động của hành vi trái pháp luật: ở tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hành vi trái pháp luật của
nạn nhân phải đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm
tội nhưng ở khoản 1 Điều 51 thì không nhất thiết phải như thế.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, tác giả đã tiến hành khái quát hóa quá trình lập pháp
hình sự Việt Nam về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, từ trước khi ban hành BLHS năm 1985 đến nay. Đi sâu phân tích làm
rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh, phân tích làm rõ khách thể, mặt khách quan, chủ thể
và mặt chủ quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh; đồng thời phân tích để làm rõ hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối
với tội danh này.
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, tội giết người trong
34
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là xâm phạm đến tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật, do người có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi
nhất định theo quy định của pháp luật. Nghĩa là không phải bất kỳ người nào
có hành vi tước đoạt tính mạng của người khác đều phải chịu TNHS về tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Người thực hiện hành
vi tước đoạt tính mạng của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đòi hỏi phải thỏa
mãn các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm của tội giết người trong trạng
35
thái tinh thần bị kích động mạnh.
Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ
KÍCH ĐỘNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích
động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định
2.1.1. Khái quát lý luận về định tội danh tội giết người trong trạng
thái bị kích động mạnh
Định tội danh là giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự.
Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý quan
trọng. Nó thể hiện việc đánh giá chính trị- xã hội và pháp lý đối với những
hành vi nhất định; loại trừ việc truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai, là cơ sở
quan trọng cho việc quyết định hình phạt, cơ sở cho việc xác định các thủ tục
tố tụng và giúp cho việc đánh giá chính xác tình hình tội phạm để có biện
pháp phòng ngừa phù hợp, có hiệu quả.
Có hai hình thức định tội danh; một là, định tội danh chính thức do
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có liên quan thực hiện
trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện việc buộc tội, bào chữa hay xét
xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lý; hai là, định tội danh không chính
thức do các nhà nghiên cứu thực hiện nhằm thể hiện quan điểm khoa học,
nhận thức của người định tội và không làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Việc định tội được thực hiện nhằm đi đến các quyết định hành vi được
thực hiện có cấu thành tội phạm hay không, xác định tội danh và khung hình phạt
đối với hành vi phạm tội. Trong đó, BLHS là văn bản pháp luật duy nhất quy định
tội phạm và hình phạt, là cơ sở pháp lý duy nhất của định tội danh. Khi định tội
danh người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm
36
để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không.
Về mặt lý luận, định tội là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện
với các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể tương ứng được quy định
trong Bộ luật Hình sự.
Cụ thể, việc định tội là một hành vi xác định một hành vi cụ thể đã
thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể nào đó trong
số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Đồng thời nó cũng hình
thức hoạt động, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các
quy phạm pháp luật hình sự. Định tội danh được tiến hành trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy
định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác
tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân tích
hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, CTTP được xem là cơ sở pháp lý duy nhất để định tội, là mô
hình pháp lý có dấu hiệu cần và đủ để xác định trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Vì thế chủ thể định tội cần nhận thức đúng bản chất các dấu
hiệu CTTP trong quá trình định tội làm tiền đề cho việc xác định khung hình
phạt và quyết định hình phạt được chính xác, đảm bảo việc xét xử đúng người,
37
đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
2.1.2.Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích
động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định
Bảng 2.1. Tổng số vụ án, bị cáo Tòa án tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm từ
năm 2015 đến năm 2019
Tổng số vụ án, bị cáo Toà án cấp tỉnh đã xét xử
Năm
Số vụ án, bị cáo giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
Tỷ lệ phần trăm(%) bị cáo giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh
Tỷ lệ phần trăm(%) vụ án giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh
82
212
0
0
0
0
2015
72
179
2
2
2,8
1,1
2016
61
152
1
1
1,6
0,7
2017
80
180
0
0
0
0
2018
85
167
0
0
0
0
2019
Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.
Qua nghiên cứu các bản án đã được Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét
xử các vụ án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn
tỉnh Nam Định, cho thấy các vụ án đều có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Điển hình là vụ án:
Bản án số 141/2017/HSST ngày 16/12/2017 của Toà án nhân dân tỉnh
Nam Định.
Hoàng Văn Thái tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh theo quy định tại khoản 1 điều 125 BLHS 2015.
Khoảng 12 giờ ngày 08/4/2016, Hoàng Văn Thái đang ở căn nhà do
Thái và bà Hoàng Thị Thu là vợ đứng tên tại 36 Hàng Tiện, thành phố Nam
Định, tỉnh Nam Định, thì Thu đi bàn công chuyện làm ăn về. Vì trục trặc
38
chuyện làm ăn, Thu đã gọi điện cho Hà Văn Lưu hỏi mượn tiền trước mặt
Thái. Quan sát cách nói chuyện của vợ,Thái nghi ngờ Thu có quan hệ tình
cảm với ông Lưu nên đã gặng hỏi Thu về mối quan hệ này. Thu không trả lời
thắc mắc của Thái nhưng lại lớn tiếng xúc phạm Thái không giúp gì được cho
công việc của Thu, đồng thời là gánh nặng về kinh tế trong gia đình và không
đối xử với Thu tốt như nhân tình của mình. Hai người xảy ra cãi vã. Khi ấy,
Thu đi vào phòng ngủ của Thái và Thu để lấy chiếc va li có đựng sẵn quần áo
và đồ dùng sinh hoạt của Thái chuẩn bị để đi du lịch ném vào người Thái
đang đứng ở cửa phòng ngủ.
Khi đó,Thái đã cầm chiếc bình hoa cạnh cửa phòng ngủ đập mạnh
xuống đất nhưng Thu vẫn tiếp tục chửi bới Thái. Khi Thu đi ra khỏi phòng
ngủ và đi tới cửa lớn tại phòng khách, Thái có lao đến, dùng tay tát vào má
trái của Thu. Thu lùi lại và định bỏ chạy nhưng Thái đã chạy theo. Khi tới
cổng có thấy sẵn chiếc cuốc buổi sáng Thái đi làm vườn, Thái đã cầm và
phang 03 nhát vào đầu, lưng và tay phải của Thu. Sau đó, Thái chạy ra đường
trước nhà hô hoán và nhờ sự giúp đỡ của người đi đường. Thu được người
dân đưa đi bệnh viện nhưng đã chết trên đường đưa tới bệnh viện.
15h00 ngày 08/4/2016, Hoàng Văn Thái ra đầu thú tại Công an thành
phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Kết luận giám định pháp y tử thi số 161-16/KLGĐ-PY ngày
12/05/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Nam Định kết luận:
“Mai Thị Thu chết do sốc mất máu cấp bởi đa vết thương đâm thủng động
mạch cảnh phải, phổi phải.Vết thương bị gây nên bởi vật sắc, bén, máu Mai
Thị Thu thuộc nhóm máu A”.
Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn Thái đã khai nhận hành vi phạm tội
như đã nêu. Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Văn Thái khai nhận như đã khai tại
cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm
chứng, phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y tử thi xác định nguyên
39
nhân chết của người bị hại Mai Thị Thu, tang vật thu giữ được và các tài liệu
chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định bị Hoàng
Văn Thái có hành vi dùng 01 cuốc có lưỡi dài 25cm, rộng 18cm, đâm vào người
chị Mai Thị Thu, cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của chị Thu.
Tại bản Cáo trạng số 266/CT-VKS-P2 ngày 13/6/2016, Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Nam Định đã truy tố: - Bị cáo Hoàng Văn Thái về tội
“Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều
125 của Bộ luật hình sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 125 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng
Văn Thái: 06 tháng tù giam. Nhận thấy việc Tòa án nhân dân thành phố Nam
Định xét xử đối với các bị cáo về mức án, điều khoản áp dụng hình phạt là
đúng và phù hợp với pháp luật.
Bản án số 72/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Toà án nhân dân tỉnh
Nam Định.
Vũ Thị X, sinh năm 1956 sống cùng chồng là ông Lê Văn T, sinh năm
1957 tại nhà riêng Thôn 9 T, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định. X và ông T có
với nhau 4 người con, hiện các con đã lớn đi xây dựng gia đình riêng. Ông T
làm thợ xây còn X thì chỉ quanh quẩn ở nhà không có việc làm, ông T cho
rằng X không chịu đi làm kiếm tiền nên giữa ông T và X thường xảy ra mẫu
thuẫn đánh chửi nhau. Từ năm 2007, ông T thường xuyên chửi bới thô tục,
nhiều lần dùng chân tay đấm đá X. Có lần ông T cầm dao đuổi đánh X nên X
phải chạy sang nhà hàng xóm. Nhiều lần chính quyền địa phương đến hòa giải
nhưng ông T vẫn chửi bới đánh đập X, khoảng thời gian trước khi xảy ra vụ
án ông T liên tục đánh X. Ngày 23/2/2017, X đã điện thoại cho Lê Văn Tr
(con trai X) đang làm nghề xây dựng tại thành phố Bắc Ninh xin ra Bắc Ninh
nấu cơm cho thợ do không chịu được việc bị đánh đập, nhưng Tr không đồng
ý (BL126 - 127, 93 - 94).
Khoảng 19h30 ngày 26/02/2017, ông Lê Văn T đang ngồi uống nước
40
trong gian phòng khách của gia đình, thì X từ dưới bếp đi lên. Ông T lại chửi
X vì X không đi làm kiếm tiền rồi dùng chân tay đấm, đá, tát vào mặt X, X
chạy ra phía cửa nhà rút then đẩy cửa để chạy ra thì ông T đuổi theo dùng hai
tay bóp vào cổ X khoảng 3 phút thì X mềm người sụp xuống nền nhà. Ngay
sau đó, T tiếp tục dùng 2 tay túm tóc và đập đầu X xuống nền nhà làm X nằm
gục ngay tại chỗ. Thấy X nằm dưới nền nhà, ông T đóng cửa ra vào rồi tắt
điện bỏ mặc X đi lên giường kê tại phòng khách nằm ngủ. Khoảng 15 phút
sau X ngồi dậy tựa lưng vào tường cạnh mép cửa ra vào. Ngồi khoảng 10 phút
thì ông T chửi X, bắt X lên giường nằm. X sợ quá đứng dậy rồi đi lên giường
nằm phía trong sát tường phía Bắc, còn ông T nằm phía ngoài giáp thành
giường phía Nam đầu giường quay hướng đông 3 ra giữa nhà. X nằm được
khoảng 5 - 10 phút, thấy trong người khó chịu nên miệng phát ra tiếng “Ực”.
Thấy vậy, ông T chửi “Đ. mẹ mày còn ực à” đồng thời ông T dậy chạy xuống
bếp lấy búa đinh bằng sắt (dài 30 cm, cán búa bằng sắt hình trụ rỗng đường
kính 3cm dài 25 cm) lên để ở đầu giường giáp thành giường phía Nam chỗ
ông T gối đầu và nói: “Mày ực lên một tiếng nữa, tao lấy búa đập mày chết
luôn, tao nói một là một, hai là hai”, sau đó ông T lên giường nằm tại vị trí
nêu trên. Khoảng 5 phút sau X cảm thấy người khó chịu nên ngồi dậy đẩy
màn ở đầu giường ra và nôn xuống đất, X lại kêu “Ực ực”. Đúng lúc X xoay
người, mặt hướng về phía ông T để chuẩn bị nằm xuống thì ông T ngồi dậy,
mặt quay đối diện với X, cách người X khoảng 40cm rồi tiếp tục chửi: “ Đ.
Mẹ mày còn ực à?”, đồng thời ông T dùng tay trái cầm chiếc búa ở vị trí nêu
trên vung búa chiều hướng từ dưới lên trên, từ trái sang phải vào người X, X
dùng tay phải co lại ôm mặt đỡ nên bị búa đập trượt qua cùi trỏ tay phải trúng
vào má phải. Khi ông T giơ búa lên trước mặt X tiếp tục đánh thì X dùng tay
phải nắm được cán búa và giật được búa khỏi tay ông T, đồng thời X cầm búa
giơ lên qua đầu đập mạnh 2 nhát liên tiếp từ trên xuống dưới, từ sau ra trước
vào phần đầu làm ông T ngã từ trên giường xuống đất, nằm sấp dọc theo
41
thành giường phía Nam, đầu quay hướng Đông vẫn động đậy và phát ra tiếng
nấc: “Ực … ực”. X cầm búa bước qua đầu giường phía Đông ra ghế kê sát
đầu giường đi trên mặt 2 chiếc ghế kê liền nhau rồi bước xuống đất đứng trên
đôi dép sục bằng nhựa của X ở ngay cạnh ghế kê mé ngoài sát đầu giường
ngay phía trên đầu ông T. Sau đó X khom người tiếp tục cầm búa bằng tay
phải giơ lên qua đầu đập liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu và vai ông T (X
không xác định được đã đập liên tiếp bao nhiêu nhát búa). Khi thấy ông T đã
nằm bất động, phần đầu ông T chảy nhiều máu thì X hoảng sợ vứt chiếc búa
xuống nền nhà cách đầu ông T khoảng 50 cm rồi chạy qua cửa sang bếp ra khỏi
nhà và chạy sang nhà con trai là Lê Văn Tr ở cùng thôn (BL 92, 103 - 106).
Khi đến cổng nhà Tr do biết Tr đi làm xa nên X gọi Trần Thị H (Vợ Tr)
ra mở cổng, X kể với H việc bị ông T đánh và việc giật búa đánh lại ông T sau
đó bảo H chở đi trạm xá khám. Ngay sau đó, H điện thoại báo cho chồng là Lê
Văn Tr và chị T (Vợ Lê Văn H anh trai Tr) rồi lấy xe máy chở Vũ Thị X lên
trạm y tế xã Yên Lộc. Tại đây X được ông Hoàng Văn Đ – Trạm trưởng trạm y
tế khám, ông Đằng thấy trên mặt X có vết bầm tím, không có dấu hiệu chấn
thương vùng đầu nên đã bán thuốc cho X về uống tại nhà (BL113-115,133-134).
Lê Văn Tr điện thoại nhờ anh họ là Lê Văn S (sinh năm 1976, ở Đội
10, xã Y, Y, Nam Định) đi xem tình hình. Khi xuống đến nhà ông T, anh S
mở cổng và gọi nhưng không có ai trả lời, sau đó anh S đi vòng lối cửa bếp
lên và đứng ở mép cửa từ nhà xuống bếp dùng đèn xe máy soi thấy máu chảy
lênh láng ra nhà, thấy vậy anh S hô lên đồng thời chạy ra gọi ông Lê Văn L
(là em trai ông T nhà ở gần đấy) đến. Khi ông L và anh S đến bật điện trên
nhà lên thì nhìn thấy ông T nằm sấp trên nền nhà bất động, phần đầu chảy
máu lênh láng trên nền nhà có rất nhiều máu chảy ra, nhìn kỹ thì thấy có cả óc
phun ra, cách đầu ông T khoảng 50cm có 01 chiếc búa bằng kim loại có dính
máu. Nhận thấy ông T đã tử vong nên mọi người báo tin chính quyền địa
42
phương (BL135 - 138).
Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam
Định đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng tổ chức khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập
tài liệu, chứng cứ. Kết quả xác định:
Khám nghiệm hiện trường (BL12-13):
Hiện trường xảy ra vụ án tại nhà mái bằng 1 tầng quay hướng Nam,
đang sửa chữa mặt ngoài hiên của gia đình ông Lê Văn T tại Đội 9 T, xã Y,
huyện Y, tỉnh Nam Định. Nhà ông T có 2 phòng, phòng khách phía Tây và
phòng bếp phía Đông.
- Phòng khách xây bằng gạch có cửa ra vào 2 cánh bằng gỗ mở ra ngoài
trong trạng thái khép. Trên tường phía Nam có 2 cửa sổ, mỗi cửa 2 cánh gỗ
trong trạng thái đóng. Tại góc Nam tường phía Đông có 1 cửa gỗ 1 cánh mở
ra ngoài đi sang phòng bếp. Tại tường phía Đông Bắc có 1 bộ bàn ghế, tại
tường phía Bắc phía trên bàn nước có 1 bàn thờ. Tại góc tường phía Tây Bắc
có 1 giường ngủ KT (2 x 1,5 x 0,43)m, trên giường có 2 chăn, 2 gối, mắc màn
tuyn màu trắng, phần dưới góc Đông Nam màn tuyn có bám dính nhiều máu.
- Trên nền nhà ngay dưới thành giường phía Nam là tử thi ông Lê Văn T,
tử thi nằm úp dọc theo thành giường, mặt tử thi quay hướng Bắc, đầu tử thi
hướng Đông cách tường phía Đông 3m, cách tường phía Tây 2,1m. Chân tử thi
hướng Tây cách tường phía Tây 0,6m cách tường phía Nam 2,1m. Dưới bụng và
2 chân tử thi quấn chăn len nhiều màu. Trên nền nhà dưới tử thi có đám máu
dạng vũng không rõ hình kích thước (3,5 x 1)m, đám máu chảy loang theo
hướng từ Bắc đến Nam, hơi chếch từ Tây đến Đông loang ra cửa chính và kết
thúc ở hiên. Xung quanh đám máu gần vị trí đầu tử thi rải rác có các giọt máu
bắn thành tia trên nền nhà diện (2,3 x 2)m. Trên trần nhà, tương ứng với vị trí
đầu tử thi và đầu giường góc Đông Nam có bám dính đám màu nâu đỏ.
- Cách đầu tử thi về hướng Đông Nam 0,43m có 01 búa sắt dài 0,3m,
43
cán búa bằng sắt, hình trụ rỗng đường kính 03cm, dài 25 cm. Đầu búa hình
khối dài 10 cm, tiết diện (4 x3)cm, búa cách tường phía Đông 2,36m, trên búa
có nhiều vết màu nâu đỏ nghi máu. Ngay sát đầu giường phía Đông trên nền
nhà có đám chất nôn KT (10 x 7)cm, đám chất nôn cách tường phía Bắc 0,3m.
- Sát tường phía Tây về hướng Nam có tủ gỗ trên tủ để ti vi loa đài, mặt
tủ phía Đông rải rác có bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun bắn. Bề mặt
tường phía tây trên tivi, loa, đài rải rác bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun
bắn chiều hướng từ dưới lên trên, trên diện (2 x 1,5)m. Trên tường phía Nam
rải rác bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun bắn chiều hướng từ dưới lên
trên, trên diện (2,4 x 1,9)m. Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan
CSĐT đã thu giữ chiếc búa bằng kim loại có đặc điểm nêu trên để phục vụ
yêu cầu điều tra, xử lý vụ án. Khám nghiệm tử thi (BL10-11): Các dấu vết tổn
thương trên cơ thể:
- Vùng trước và sau vành tai phải có đám rách dập da cơ kích thước
(6x4)cm.
- Vùng đỉnh thái dương trên vành tai phải 01cm có vết rách dập da cơ
kích thước (4x3)cm. Cách trên vết này 1,5cm có vết rách dập da cơ bờ mép
nham nhở kích thước (5x1) cm. Vùng chẩm gáy bên phải có 03 vết rách dập
da cơ bờ mép nham nhở đều có kích thước (3x1)cm.
- Phía dưới dái tai bên phải có vết rách dập da cơ kích thước (1,5x1)cm.
- Vùng thái dương đỉnh trái có đám rách dập da cơ bờ mép nham nhở,
lộ xương hộp sọ, tổ chức não kích thước (8x5)cm.
- Vùng chẩm trái trên vành tai trái 05cm có đám rách dập da cơ bờ mép
nham nhở lộ xương, tổ chức não kích thước (5x3)cm. Trên vết này 02cm có
vết rách da cơ kích thước (2x0,5)cm. Vùng chẩm gáy bên trái có đám rách
dập da cơ lộ xương hộp sọ, tổ chức não kích thước (5x4) cm.
- Trên vành tai trái, sau vành tai trái có vết rách da cơ kích thước
(3x1)cm. Phía sau vành tai trái có đám rách dập da cơ kích thước (3x1)cm.
44
Phía sau bả vai bên trái có vết trượt da, bầm tím, tụ máu kích thước
(12x10)cm. Phía sau bờ vai phải có vết trượt da, bầm tím kích thước (7x5)cm.
Vùng ngực, bụng, lưng, mông và 2 chi dưới không phát hiện dấu vết tổn tổn
thương. L đốt 2,3 ngón 3,4 bàn tay trái có vết trượt da cơ kích thước (3x2)cm.
Mổ tử thi:
- Rạch da vùng đỉnh chẩm thái dương trái:
+ Tụ máu dưới da vùng đỉnh chẩm thái dương trái KT
(20x15)cm, xương hộp sọ thái dương vùng đỉnh chẩm trái vỡ thành nhiều
mảnh nhỏ KT (15x7)cm. Dập nát toàn bộ tổ chức não, vùng đỉnh chẩm, thái
dương trái.
- Rạch da cơ đầu vùng đỉnh thái dương phải:
+ Tụ máu dưới da cơ đầu vùng đỉnh thái dương trái KT
(16x7)cm
+ Vỡ sập xương hộp sọ vùng thái dương bên trái KT(4x4)cm
+ Dập nát tổ chức não vùng thái dương bên phải.
- Hệ thống xương lồng ngực, xương tứ chi không bị dập gẫy. Khung
chậu vững.
Quá trình khám nghiệm tử thi, cơ quan CSĐT đã thu máu của nạn nhân
để phục vụ yêu cầu giám định. Bản kết luận giám định pháp y tử thi số
171/GĐKTHS ngày 03/3/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nam
Định kết luận: Nạn nhân Lê Văn T, sinh năm 1957 chết do chấn thương vỡ
xương hộp sọ, dập tổ chức não (BL14). Sáng ngày 27/2/2017, Cơ quan CSĐT
đã tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể Vũ Thị X tại UBND xã Yên Lộc,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (BL18). Kết quả xác định:
- Dưới mặt phải có vết bầm tím KT (4 x 2) cm.
-Dưới mũi có vết trượt da cơ KT (0,2 x 0,2) cm.
- Vùng má phải có nhiều vết trượt da cơ trên diện (12 x 7) cm, sưng
nề bầm tím KT (7 x 4) cm. Má trái có nhiều vết trợt da cơ nhỏ trên diện (7
45
x 5) cm.
- Môi trên bên phải trượt da màu tím KT (2 x7) cm. Mép phải trượt da
cơ KT (1 x 0,2) cm.
- Vùng trán thái dương trái có vết in ấn tụ máu KT (8 x 4) cm.
- Vùng cổ trước bên trái có đám bầm tím KT (9 x 4) cm.
- Mặt sau khuỷu tay phải có đám tụ máu trên diện (8 x 4) cm.
Ngay sau khi xem xét dấu vết trên thân thể, Cơ quan CSĐT công an
tỉnh Nam Định đã ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với Vũ Thị X để tiến hành điều
tra. Sau đó cơ quan CSĐT đã đưa Vũ Thị X đi khám vết thương tại bệnh viện
đa khoa công an tỉnh Nam Định để thu thập tài liệu trưng cầu Trung tâm pháp
y tỉnh Nam Định giám định thương tích của Vũ Thị X. Bản kết luận giám
định pháp y về thương tích số 31/17/TgT ngày 27/3/2017 của Trung tâm pháp
y tỉnh Nam Định (BL23), kết luận:
1. Dấu hiệu tổn thương chính qua giám định đối chiếu với Thông tư số
20/2014/TT - BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế:
- 01 vết thương rách da xây sát vùng má phải và các vết xây sát da chưa
thành sẹo kích thước Trung bình và nhỏ: 03% (Bảng 1, Chương 9, Phần I, mục 1).
- Vùng cổ bên trái có 4 vết xây sát da, kích thước lần lượt là: (2 x 2)cm,
(1,5x1)cm, (1 x 1)cm, (0,5 x 0,4)cm (giống dấu hiệu bóp cổ).
- Các vết sưng nề bầm tím không có tỷ lệ thương tích trong Thông tư số
20/2014/TT - BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng bộ y tế.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03% (Ba
phần trăm).
Về trách nhiệm dân sự:
Bố đẻ và các anh chị em ruột ông T đã uỷ quyền cho anh Lê Văn L (em
ruột ông T) đề nghị các cơ quan pháp luật không xem xét việc bồi thường dân
sự và đề nghị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với Vũ Thị
X (BL37,121). Riêng các con đẻ của bị hại uỷ quyền cho anh Lê Văn Tr (Con
46
trai ông T) đề nghị các cơ quan pháp luật không xem xét việc bồi thường dân
sự và có đơn đề nghị các cơ quan pháp luật xem xét giảm nhẹ một phần hình
phạt cho bị cáo Vũ Thị X (BL35, 127). Cáo trạng số 57/QĐ-KSĐT ngày
25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Vũ
Thị X về tội “Giết người” quy định tại khoản 2 điều 123 BLHS. Tại phiên
tòa: Bị cáo Vũ Thị X đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về
nguyên nhân nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo X dùng búa đập chết ông T
xuất phát từ việc ông T thường xuyên chửi bới, đánh đập X trong thời gian
dài, bản thân bị cáo không thể chịu đựng nổi cách đối xử của ông T với mình
cho nên đã giết ông T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định luận tội và thay đổi
quyết định truy tố đối với bị cáo X từ tội “Giết người” theo quy định tại
khoản 2 Điều 123 BLHS, sang tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS. Sau khi xem xét
đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng
khoản 1 Điều 125; điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo
Vũ Thị X từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2017.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp cho người bị hại không yêu
cầu giải quyết cho nên không đề cập xem xét. Ngoài ra còn đề nghị Hội đồng
xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Luật sư Phạm Hồng T đã
phát biểu quan điểm bào chữa đối với bị cáo và hoàn toàn nhất trí với quan
điểm truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tại phiên tòa
hôm nay. Tại phiên tòa bị cáo X đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người
đại diện hợp pháp cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy
đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự được quy định tại điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để
47
xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu,
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, quan điểm bào chữa
của luật sư, TAND tỉnh Nam Định tuyên bố bị cáo Vũ Thị X phạm tội: “Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Áp dụng khoản 1 Điều
125; Điểm e khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Thị
X 36 (Ba sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/02/2017.
Nhận thấy việc Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử đối với
các bị cáo về mức án, điều khoản áp dụng hình phạt là đúng và phù hợp với
pháp luật.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định
2.2.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt đối với tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
- “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhân thương mại đó” ( điều 30, BLHS).
Quyết định hình phạt (QĐHP) đối với tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp
luật hình sự thể hiện ở việc Toà án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể
được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để
áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội về tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Để làm sáng tỏ một cách đầy đủ hơn nội dung của khái niệm QĐHP đối
với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cần phải xác
định vị trí của QĐHP trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình
48
sự. Việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là một quá trình
phức tạp, nhiều mặt, được tiến hành qua những giai đoạn nhất định: giải thích
đạo luật hình sự; xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không gian và thời
gian; định tội danh; QĐHP, miễn TNHS và hình phạt; xoá án tích…
QĐHP đói với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá
trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá
trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết chỗ Toà án mới có
quyền QĐHP. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước
giao cho Toà án nhân dân, nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với
người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Toà án nhân
dân có quyền áp dụng hình phạt. Toà án căn cứ vào luật hình sự tuyên bố áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của nhà nước đối
với họ về việc thực hiện tội phạm là sự trừng trị người phạm tội.
QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là một hoạt động pháp lý Tố tụng hình sự, hay nói cách khác là một
dạng hoạt động của việc áp dụng luật hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý
nhất định.
QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là quá trình sử dụng kết quả điều tra, kết quả buộc tội, kết que thẩm
vấn, tranh luận; là quá trình đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cụ
thể với các dấu hiện của một cấu thành tội phạm cụ thể của tội giết người gắn
liền với đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định một loại
và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng
ngừa phạm tội.
Nội dung của QĐHP đối với tội giết người thể hiện ở chỗ Toà án lựa
chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật về tội
49
giết người để quyết định đối với bị cáo và xác định một mức hình phạt cụ thể
đối với bị cáo. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phải được
thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
và được công bố một cách công khai khi tuyên án.
Hình phạt do Toà án quyết định tuỳ thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ
án có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ, nhưng trong mọi trường hợp
bao giờ cũng phải đảm bảo đúng pháp luật, công bằng và cụ thể hoá.
QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi hình
phạt được quy định một cách chính xác và công bằng thì mục đích của hình
phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội,
ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác. Hình phạt được quyết định
quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện
sẽ sinh ra ở người phạm tội và những người khác thái độ xem thường pháp
luật, hình phạt được quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị án sự không tin
tưởng vào tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Cả hai tình trạng đó đều dẫn đến hậu quả là giảm ý nghĩa phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. QĐHP đúng đắn sẽ góp phần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự và kỷ cương xã hội.
Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh
Căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do Luật hình
sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Toà án phải tuân theo khi
QĐHP đối với người thực hiện tội phạm. Căn cứ QĐHP, trước tiên là những
đòi hỏi được luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng. Đó là: các quy định của
BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.
Các căn cứ QĐHP là những đòi hỏi mang tính nguyên tắc vì đó chính
50
là biểu hiện, những đòi hỏi của các nguyên tắc QĐHP. Trên cơ sở nguyên tắc
QĐHP, nhà làm luật quy định những đòi hỏi cơ bản buộc Toà án phải tuân
theo khi QĐHP. Giữa các nguyên tắc QĐHP và căn cứ QĐHP có mối liên
quan hữu cơ với nhau. Chúng được thể hiện như những phạm trù cái chung và
cái riêng. Các nguyên tắc QĐHP là cái chung, các căn cứ QĐHP là cái riêng.
Các nguyên tắc QĐHP tồn tại ở các mặt này hay mặt khác của các căn cứ
QĐHP. Khi QĐHP, Toà án phải tuân thủ những đòi hỏi quan trong có tính
nguyên tắc sau: Căn cứ vào quy định của BLHS; cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; cân nhắc thân nhân người
phạm tội, cân nhắc cái tính tiết giảm nhẹ và tăng năng TNHS.
Căn cứ vào quy định của các BLHS, tức là căn cứ vào các quy định của
phân chung và các tội phạm. Khi QĐHP đối với tội giết người, ngoài việc căn
cứ vào các quy định của phần chung BLHS, Toà án còn phải căn cứ vào các
chế tài của điều luật quy định đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh mà bị cáo đã thực hiện.
Khi QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, Toà án phải cân nhắc tính chất của tội phạm đã thực hiện, tính chất
nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất
định, được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, trong
đó quan trọng nhất là ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những
quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại, tức là khách thể của tội phạm.
Để quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý, phù hợp với lỗi của
người phạm tội, ngoài việc xác định đúng hình thức lỗi, việc xác định rõ từng
loại lỗi trong mỗi hình thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định
mức độ hình phạt. Ngoài việc cân nhắc hình thức và lỗi, con phải xác định và
cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong những trường hợp phạm tội cụ thể.
Các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội cũng ảnh hưởng
51
đến mức độ lỗi, bởi những đặc điểm đó được thể hiện cụ thể ở lỗi của chủ thể.
Ngoài việc cân nhắc lỗi của bị cáo, còn phải xác định và cân nhắc cả
động cơ và mục đích của người thực hiện tội phạm. Trong thực tế, tội phạm
cụ thể được thực hiện những động cơ, mục đích rất khác nhau. Bởi vậy, Tòa
án kiểm soát định rõ tội phạm đó được thực hiện vì động cơ nào và phải nêu
rõ trong bản án.
Tóm lại, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một
trong những căn cứ quan trọng của việc QĐHP. Có nhiều loại tình tiết dấu hiệu
ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực
hiện. Bởi vậy, Tòa án phải cân nhắc tổng thể các tình tiết dấu hiệu đó mới đảm
bảo cho việc quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý đối với bị cáo.
Để có căn cứ đầy đủ cho việc QĐHP đối với tội giết người đúng pháp
luật công bằng hợp lý phù hợp với tội phạm đã thực hiện đã điều kiện cho
việc đạt được các mục đích của hình phạt theo luật. Ngoài việc cân nhắc các
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện Tòa án
phải cân nhắc thân nhân người phạm tội việc áp dụng đúng quy định này có ý
nghĩa cải tạo giáo dục và phòng ngừa rất lớn.
Khi QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh không những chỉ cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đã thực hiện nhân thân người phạm tội mà còn phải cân nhắc các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự do đó cân nhắc các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ của việc QĐHP
tức là một trong những điều kiện quan trọng của việc cụ thể hóa hình phạt.
Để có một phán xét và quyết định cụ thể về loại và mức hình phạt cần cần
tuyên, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải dựa vào ý thức pháp luật của
mình để có cái nhìn đúng đắn về nhân thân người phạm tội, các tình tiết chủ
quan và khách quan trong phạm vi chế tài tương ứng, chọn và quyết định một
loại mức hình phạt đúng pháp luật, công bằng, có khả năng lớn nhất để cải tạo,
52
giáo dục người phạm tội cũng như phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội Giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định
Qua nghiên cứu bản án sơ thẩm số 141/2017/HSST ngày 16/12/2017 và
bản án số 72/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Nam
Định, thấy rằng, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã có những nhận định
chính xác về nội dung vụ án, việc định tội danh cũng như quyết định hình
phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đầu tiên, đối với bị cáo Hoàng Văn Thái, nhận thấy hành vi phạm tội
của bị cáo Hoàng Văn Thái là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không những
giết chết người vợ của mình, gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân,
mà còn làm mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, xuất phát từ
quá trình chung sống gặp nhiều mẫu thuẫn và chưa có sự tôn trọng từ chính
người vợ của mình, cùng với hành động trong lúc xô sát, như một “giọt nước
tràn ly” khiến ông Thái bị kích động mạnh, dẫn tới hành vi thiếu kiểm soát.
Hành vi phạm tội của Hoàng Văn Thái đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu
thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1
Điều 125 BLHS năm 2015.
Thứ hai, với bị cáo Vũ Thị X, ban đầu, tại cáo trạng số 57/QĐ-KSĐT
ngày 25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo
Vũ Thị X về tội “Giết người” quy định tại khoản 2 điều 123 BLHS. Tại phiên
tòa: Bị cáo Vũ Thị X đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về
nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo X dùng búa đập chết ông T xuất phát từ việc
ông T thường xuyên chửi bới, đánh đập X trong thời gian dài, bản thân bị cáo
không thể chịu đựng nổi cách đối xử của ông T với mình cho nên đã giết ông
T. Như vậy, xét về nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội và các mặt cấu thành tội
phạm, Vũ Thị X Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn
53
diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, quan
điểm bào chữa của luật sư, TAND tỉnh Nam Định tuyên bố bị cáo Vũ Thị X
phạm tội: “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Áp dụng
khoản 1 Điều 125; Điểm e khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt
bị cáo Vũ Thị X 36 (Ba sáu) tháng tù.
Việc tuyên hai bị cáo Hoàng Văn Thái và Vũ Thị X của vụ án phạm tội
“Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” có thể thấy rằng
quan điểm xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đối với tội danh này là
tội có CTTP vật chất. Cả hai bị cáo đều có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận
thức, hành vi, có hành vi gây nguy hiểm cho tính mạng người khác, đồng thời
cố ý thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái bị cáo không còn nhận thức
được đầy đủ về hành vi của mình, nhưng không thuộc trường hợp mất khả
năng nhận thức, hành vi, trường hợp này không giống với người không có
năng lực hành vi hình sự như : mắc các bệnh tâm thần, thần kinh hay chưa đủ
độ tuổi. Tình trạng kích động của bị cáo lại do hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm trọng của người bị hại với người phạm tội. Do đó, quyết định hình
phạt của người phạm tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
54
mạnh với hai bị cáo là hoàn toàn đúng căn cứ và pháp luật.
Tiểu kết chương 2
Bên cạnh việc định tội danh thì quyết định hình phạt sao cho phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng là một vấn đề cần
xem xét . Mục đích của hình phạt không chỉ mang tính răn đe mà còn mang
tính chất cải tạo , giáo dục người phạm tội. Khi quyết định hình phạt Toà án
cần có một phán quyết hợp tình , hợp lý trên cơ sở và trong phạm vi khuân
khổ của pháp luật thì mới phát huy hết hiệu quả của nó.
Thông qua quá trình phân tích lý luận về định danh tội, quyết định hình
phạt có thể thấy rằng lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt là cơ sở
về mặt lý thuyết cho việc vận dụng đúng các quy định pháp luật tại phần
chung , phần các tội phạm của BLHS giúp cơ quan xét xử là Toà án nhân dân
đưa ra quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
Về mặt thực tiễn tại tỉnh Nam Định, quá trình điều tra, truy tố, xét xử
cho thấy vấn đề định tội danh còn có nhiều vướng mắc , việc quyết định hình
phạt trong quá trình xét xử của Toà án còn có những hạn chế do thiếu những
quy định, hướng dẫn của pháp luật hình sự. Quyết định hình phạt trong từng
trường hợp cụ thể còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt, xảy ra tình trạng có sự
chênh lệch về hình phạt giữa cơ quan Viện kiểm sát và Toà án, quan điểm
đường lối xử lý khác nhau do thiếu hướng dẫn cụ thể của luật khi áp dụng vào
thực tiễn . Do đó cần đề ra các yêu cầu và giải pháp để đảm bảo định tội danh
và quyết định hình phạt đúng đối với tội giết người.
Như vậy, để đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng với
tội giết người cũng cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến
55
hành tố tụng.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG
THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
3.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt
Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
từ nay đến năm 2020 nhận định: Trong những năm qua, thực hiện các Nghị
quyết của Đảng nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian
tới, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo và
tổ chức thực hiện với sự quan tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và
sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi tích cực, chất lượng
hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả
đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc
nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, chính sách hình sự, chế định
pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng còn nhiều bất cập, cần được sửa đổi bổ
sung. Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang
đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp với tính
chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối
với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
56
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Từ nhận định trên, Nghị quyết đề ra
mục tiêu: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, văn minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt đọng tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiên hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Thực tế thời gian qua, Nghị quyết
49- NQ/TW ra đời và đi vào thực tiễn đến nay nhưng so với mục tiêu nhiệm
vụ và phương hướng đến năm 2020 mà nghị quyết đã đặt ra thì kết quả mang
lại còn ở mức khiêm tốn.Chính sách pháp luật nói chung và các quy định của
Luật hình sự liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng
chưa được điều chỉnh kịp thời với yêu cầu của tình hình mới nên dẫn đến việc
áp dụng pháp luật chưa đúng. Từ đó, không chỉ xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của con người, bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng xấu đến sự nghiêm minh của
pháp luật mà còn tạo ra những hệ lụy khác cho đời sống xã hội, làm cho niềm
tin công lý của nhân dân giảm, nên họ tự giải quyết bằng con đường bạo lực,
giết hại, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho nhau, ảnh hưởng xấu
đến an ninh trật tự. Chưa có sự cải cách mạnh về thủ tục tố tụng và mối quan
hệ phối hợp giữa ngành tư pháp trong phòng, chống tội phạm dẫn đến tiến độ
đấu tranh, xử lý án kéo dài làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung. Do các quy
định của pháp luật còn chung chung, nên đối với một tình tiết trong vụ án, các
cơ quan tiến hành tố tụng lại có những quan điểm giải quyết khác nhau,
không thống nhất từ đó dẫn đến những tồn tại yếu kém, thậm chí vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Chính sách hình sự của nhà
nước Việt Nam trong xử lý các tội phạm nói chung và các tội phạm thực hiện
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng luôn đảm bảo đường lối
xử lý tội phạm – “đúng người, đúng tội và đúng pháp luật” đồng thời “không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Theo đó,
chính sách hình sự về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích
57
động mạnh luôn có những thay đổi, hoàn thiện qua các thời kỳ. Người thực
hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường
hợp họ không còn hoàn toàn kiềm chế, điều khiển hành vi của mình. Tuy khả
năng nhận thức của họ vẫn còn nhưng bị hạn chế ở mức độ cao. Sự ức chế
mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là
nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Ngay từ đầu người phạm tội
đã không có ý định hay sự chuẩn bị công cụ, phương tiện cũng như các điều
kiện khác để thực hiện tội phạm mà chỉ khi có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân gây nên sự kích động mạnh về tinh thần thì hành vi phạm
tội đó mới xảy ra. Do vậy, mà đối với loại tội phạm này không có gia đoạn
chuẩn bị phạm tội. Từ những tính chất, dấu hiệu trên mà mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội cho xã hội của tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh thấp hơn tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần
bình thường. Nghiên cứu đường lối xử lý của tội tội phạm thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu đường
lối xử lý chung và đường lối xử lý cụ thể. Trong thực tiễn xét xử, khi xác định
TNHS Tòa án xem xét tất cả tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được quy định tại Điều 52 và Điều 54 BLHS năm 2015. Nhưng cần phải lưu ý
là: “các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ làm thay đổi
mức độ nguy hiểm trong một 61 khung hình phạt chứ không làm thay đổi tính
chất của tội phạm” và nếu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự đã được quy định là dấu hiệu định tội rồi thì không được coi là tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính tội đó nữa.Khi quyết định
hình phạt, Tòa án cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: khi xét xử phải
xem xét đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm của tội; chỉ áp dụng
hình phạt đối với người phạm một tội mà Bộ luật hình sự quy định; chỉ áp
dụng những hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự; không xử phạt
quá mức cao nhất của khung hình phạt; đối với hành vi xâm phạm tính mạng,
58
sức khỏe con người không được áp dụng hình phạt tiền dù đó là hình phạt
chính hay là hình phạt bổ sung vì hình phạt tiền sẽ gây tâm lý coi thường pháp
luật, coi thường tính mạng con người, gây rồi loạn trật tự xã hội.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua án lệ số số
28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” ngày
22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09
tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Vụ án như sau:
“Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 03-11-2016, Trần Văn C đang chơi
game ở quán Internet “Su Su” thuộc thôn 1A, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì
bạn là anh Nguyễn Hồng Q gọi điện thoại hỏi C đang ở đâu. Khi biết C đang
chơi game ở quán Internet, anh Q cũng đến và vào chơi ở máy số 6. Trong lúc
chơi game, anh Q nhiều lần đến chỗ C ngồi hỏi mượn tiền, nhưng C nói
không có tiền. Một lúc sau, anh Q đến chỗ C đưa 02 chiếc điện thoại di động
của mình nói C cầm cố đế mượn tiền, C vẫn không đồng ý nên anh Q bỏ về
chỗ của mình tiếp tục ngồi chơi game.
Khoảng 15 phút sau, anh Q đi đến chỗ C nói “Anh không tin em sao,
giúp em đi”, C trả lời “Anh không có tiền thật mà, mày làm ơn đi chỗ khác để
anh chơi. Anh Q chửi “Đ.M mày, nhớ mặt tao”. C nghe vậy không nói gì, anh
Q bỏ về chỗ máy của mình. Ít phút sau, anh Q đi đến chỗ C đang chơi game,
tay phải đấm mạnh 01 cái vào má trái của C làm chảy máu. Bị đánh, C tức
giận lấy dao Thái Lan có sẵn trên bàn giữa 02 máy vi tính, rồi cầm dao bằng
tay phải đứng lên ghế mình ngồi. Thấy vậy, anh Q lao đến, C dùng dao quơ
ngang qua lại trúng vào mặt anh Q làm chảy máu. Anh Q xông đến dùng hai
tay kéo C xuống ghế, sau đó anh Q dùng hai tay kẹp cổ C theo tư thế phần
đầu của C ở phía sau lưng anh Q, còn phần hai tay, thân người và hai chân
của C ở phía trước người anh Q. Bị anh Q kẹp cổ, C dùng tay trái nắm vào
phần hông bên phải anh Q, còn tay phải C cầm dao Thái Lan đâm 01 nhát
trúng ngực anh Q. Anh Nguyễn Hải Q1 đang chơi game thấy vậy chạy đến
59
giật con dao trên tay C vứt vào góc quán. Lúc này anh Q bị ngã xuống nền
nhà, sau đó C và một số người có mặt trong quán đưa anh Q đến bệnh viện
cấp cứu. Đến ngày 04-11-2016, anh Q tử vong. Ngay sau đó, C đến Công an
huyện K đầu thú.
Kết quả khám nghiệm tử thi anh Nguyễn Hồng Q ghi nhận: Vùng trán
trái phía trên lông mày có vết rách da hình khe, dài 0,7cm. Đỉnh mũi có vết
rách da hình khe dài 02cm, sâu 0,4 cm; cách vết này 03 cm tại môi trên có vết
rách da hình khe dài 02 cm. Mép phải có vết rách da hình khe dài 03 cm, sâu
0,8 cm. Ba vết rách da tạo đường thẳng không liên tục hướng từ trên xuống
dưới, từ trái qua phải. Ngực phải cách núm vú phải 3,5 cm về phía dưới, cách
đường giữa 09 cm có vết xây xát da nằm ngang hình khe dài 1,3 cm. Ngực
trái cách gót chân trái 120 cm, cách đường giữa 05 cm có vết rách da dài 2,5
cm, hở rộng 01 cm, nằm ngang hướng từ trái sang phải, từ trước ra sau, từ
ngoài vào trong.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 714/QĐPY ngày 24-11-
2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Nguyên
nhân tử vong của anh Nguyễn Hồng Q là vết thương thấu ngực trái gây nên
thương tổn xuyên tim dẫn đến tim ngừng đập và mất máu suy tuần hoàn cấp
không hồi phục.
Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 113/PY-TgT ngày 04-01-2017
của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Trần Văn C bị chấn thương
vùng má trái với thương tích 02%.Trước khi xét xử sơ thấm, gia đình Trần
Văn C đã bồi thường cho gia đình người bị hại 95.000.000 đồng.”
• Nội dung án lệ: Bị hại là người gây sự, tấn công bị cáo trước. Hành vi
tấn công của bị hại diễn ra liên tục với mức độ tăng dần. Hành vi của bị hại là
trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể của bị cáo. Trong trạng thái bị
kích động dẫn đến mất khả năng tự chủ, không nhận thức hết được tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi của mình, bị cáo dùng dao đâm vào ngực bị hại
60
là nhằm thoát khỏi sự tấn công. Do đó, có đủ cơ sở xác định Trần Văn C đã bị
kích động mạnh về tinh thần. Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn C về tội “Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ” là có căn cứ.
Trong thực tiễn việc phân biệt giữa hai tội danh giết người và giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh rất khó, chủ yếu dựa vào
cảm quan đánh giá của Thẩm phán, vì vậy, khi xét xử các vụ án này vẫn còn
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như trong vụ án nêu trên tại Bản án hình sự
phúc thẩm số 200/2017/HSPT ngày 10-8-2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng cho rằng hành vi của Trần Văn C phạm tội giết người. Trong vụ án
nêu trên, có thể nhận thấy việc Nguyễn Hồng Q vô cớ đánh C đã gây ra sự
bức xúc, sau đó mặc dù C đã cầm dao đứng lên ghế đây như là một lời cảnh
báo cho Q biết nhưng bất chấp lời cảnh báo đó Q vẫn tiếp tục thực hiện một
chuỗi các hành vi như kéo, kẹp cổ những hành vi này đã tác động đến tinh
thần của C và việc dùng dao đâm Q là một phản xạ tự nhiên, mang tính tức
thời khi không còn cách nào khác để tự giải thoát cho bản thân khi rơi vào
tình huống này.
Nội dung Án lệ số 28/2019/AL là cơ sở để phân biệt giữa tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người./.
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Bộ luật hình sự năm 2015 đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm; tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cho
đến nay Bộ luật hình sự hiện hành cũng bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập cần phải
sửa đổi, bổ sung; nhiều quy định của Bộ luật chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền và trong bối cảnh hội nhập quốc tế… Bên cạnh đó, trong
61
quá trình thực hiện, Bộ luật hình sự 2015 chưa hoàn toàn phù hợp với thực tế
khách quan, chưa thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương của Đảng
về cải cách tư pháp được thể hiện trong 2002 của Bộ Chính trị về “một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian Nghị quyết số
08/NQ-TW” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị
về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” mà trong đó, một trong những
nội dung quan trọng theo yêu cầu cải cách tư pháp là:
Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự,
đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo
không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm.
Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội
phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới
xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và
hội nhập quốc tế.
Để xử lý tội phạm được đúng luật, để Bộ luật đi vào cuộc sống, phát
huy hiệu lực, hiệu quả thì luật thực định phải cụ thể, rõ ràng và phải được giải
thích kịp thời nhằm hạn chế tối đa khả năng phát sinh việc hiểu không đúng
và khả năng tạo cớ cho việc lạm dụng sự không rõ ràng của luật để làm sai.
Thêm vào đó, trước thực trạng các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh đòi hỏi việc xây dụng hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo
hành lang pháp lý vững chắc cho các cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có
hiệu quả cao. Do vậy, theo cá nhân tôi:
Thứ nhất, BLHS hiện hành chưa có Điều luật nào giải thích về “trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh”. Mặc dù, trong cấu thành cơ bản của tội này
có các cụm từ “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, song thế nào là trạng
62
thái tinh thần bị kích động mạnh? thì hiện có nhiều cách hiểu và đánh giá
khác nhau, dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất. Ngoài ra, pháp luật hình sự
hiện nay còn thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng, người thân thích, nếu chỉ quy định chung chung sẽ
dẫn đến hiểu sai và xét xử giữa các tòa án là khác nhau, việc định tội sẽ có
nhiều sai sót, không đảm bảo được mục đích xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.Giống như các chế định khác trong BLHS như phòng vệ chính
đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ,... trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh cũng nên được giải thích chính thức trong một điều luật của Bộ luật
hình sự để làm rõ và xác định giới hạn của tinh thần bị kích động mạnh. Đồng
thời, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân cũng như về người thân thích của người phạm tội.Qua
những phân tích ở Chương 1 của luận văn, có thể xây dựng một điều luật ở
phần chung về thực hiện tội phạm trong trạng thái thần kinh bị kích động
mạnh. Cụ thể: Điều 125 Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là
trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ở trong tình trạng không hoàn toàn
tự chủ, tự kìm chế được hành vi của mình một cách tức thời do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ.
Thứ hai là một vướng mắc nữa trong việc áp dụng Điều 125 và Điều
135 BLHS. Căn cứ vào bản chất của “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”,
hậu quả thực tế xảy ra là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt hai CTTP của các
tội trên. Tuy nhiên, theo sự mô tả của Điều 125 và Điều 135 trong BLHS năm
2015, chúng ta gặp khó khăn trong việc phân biệt chúng. Vấn đề này xảy ra
khi nghiên cứu CTTP cơ bản của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh (điều 125) và CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (khoản 2 điều 135) vì cả hai CTTP đều chứa đựng hậu quả chết
63
người. Vấn đề vướng mắc ở đây chính là việc xác định yếu tố chủ quan - lỗi
của người phạm tội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội trong cả
hai trường hợp đều không nhận thức rõ về hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả cụ thể nào (chết người hay thương tích/tổn hại sức khỏe) vì khi đó khả năng
nhận thức của họ đã giảm đi đáng kể. Do đó, việc xác định trường hợp nào là cố
ý đối với hậu quả chết người (giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh) hay vô ý với hậu quả chết người (cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn
đến chết người) là điều không khả thi. Vậy căn cứ vào đâu để chúng ta có thể
thấy được sự khác nhau tại Điều 125 và Điều 135 BLHS năm 2015?
Thứ ba, về hình phạt áp dụng cho khoản 1 Điều 125 và khoản 2 Điều
135 cần có sự chỉnh sửa cho tương xứng. Ngoài ra, hình phạt tiền là một trong
những hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình sự xong sự áp dụng
nó vào các điều luật chưa nhiều. Trong những trường hợp phạm tội ít nghiêm
trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội không cao thì b ên cạnh áp dụng các hình
phạt khác cần bổ sung áp dụng hình phạt tiền và việc áp dụng hình phạt tiền
đối với các tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không phải
là một ngoại lê. Cụ thể: Đối với trường hợp phạm tội tại khoản 1 Điều 135
“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với
người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…” [26, Điều 105,
Khoản 1] thì nên bổ sung lựa chọn giữa hình phạt tiền và hình phạt cải tạo
không giam giữ. Do vậy, theo chúng tôi có thể sửa đổi bổ sung Điều 125 và
Điều 135 Bộ luật hình sự 2015 theo hướng như sau:
Điều 125: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc
đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
64
05 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị
phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân
đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 06
tháng đến 03 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc
dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.
Thứ tư, Điều 125 BLHS quy định về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh nhưng trong thực tiễn xét xử, tòa án rất ít áp dụng quy
định của điều luật này mà thường áp dụng điểm b khoản 2 Điều 135 BLHS.
Đây cũng là một thực tế cần phải xem xét trong quá trình áp dụng pháp luật.
Để khắc phục điểm vướng mắc khi áp dụng Điều 125 và Điều 135 BLHS, các
nhà làm luật có thể lựa chọn một trong hai cách sau: Một là, bỏ dấu hiệu hậu
quả chết người trong CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(điểm b, khoản 2, điều 105 của BLHS năm 2015). Như vậy, điểm b, khoản 2,
Điều 105 của BLHS sẽ sửa đổi là: “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác”. Theo quy định sửa đổi đó, mọi hành vi tấn công
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà có hậu quả chết
người sẽ thỏa mãn CTTP tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh; nếu chỉ có hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe thì thuộc CTTP
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
65
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.Hai là, vẫn để dấu hiệu hậu quả chết
người trong CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (điểm
b, khoản 2, điều 105 của BLHS năm 2015) nhưng phải có văn bản hướng dẫn
cụ thể về hậu quả chết người xảy ra ngay hay sau một thời gian thực hiện
hành vi phạm tội thì phải xác định như thế nào.
•Áp dụng án lệ vào hoạt động xét xử của Tòa án
Ngày 29/10/2015, TAND tối cao tổ chức họp báo công bố Nghị quyết
67 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về quy trình
lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.Việc áp dụng án lệ trong xét xử được
TAND tối cao kỳ vọng là bước đột phá để đảm bảo sự minh bạch của hoạt
động tư pháp. Việc án lệ được thừa nhận và vận dụng vào hoạt động xét xử
hiện nay sẽ kịp thời giải quyết những khó khăn , vướng mắc trong công tác
xét xử ; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác xét xử; từ đó góp phần bảo đảm Tòa án thực sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền
công dân. Đối với các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh thì việc áp dụng án lệ trong xét xử mang lại lợi ích rất lớn
đặc biệt với loại tội phạm này việc phân biệt các hành vi trong thực tế là
không dễ dàng vì nó phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của người phạm
tội. Nếu án lệ đối với tội phạm này được áp dụng tốt thì sẽ hạn chế được oan
sai, tránh làm oan người vô tội.
3.3. Nâng cao năng lực cán bộ áp dụng pháp luật về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ những người tiến hành tố
tụng giải quyết vụ án có tình tiết phạm tội trong tình trạng thần kinh bị kích
động mạnh.
Việc áp dụng pháp luật đúng đắn trong công tác xét xử các vụ án phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
66
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là vấn đề rất quan trọng. Có xét xử
đúng mới có điều kiện phát huy tính giáo dục, phòng ngừa của biện pháp xử
lý và mới có thể chỉ ra được nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm để
có kiến nghị xác đáng. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng có những bài
giảng, bồi dưỡng cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm những
kiến thức liên quan đến giải quyết vụ án có tình tiết phạm tội trong tình trạng
thần kinh bị kích động mạnh. Ngoài ra, Tòa án các cấp cần thường xuyên tổ
chức cho Thẩm phán và Hội thẩm nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và Nhà nước, nhằm quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới. Nắm vững đường lối, phương châm xét
xử và những thông tư liên ngành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong
công tác xét xử nhất là việc định tội danh và những căn cứ cụ thể để quyết
định hình phạt; nguyên tắc vận dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... Đây là
những vấn đề cơ bản được quán triệt sâu sắc để đảm bảo cho việc xét xử các
vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được nghiêm chỉnh và đúng
pháp luật. Theo quy định tại Điều 184 BLTTHS năm 2003 thì bản án chỉ
được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, nhưng hiện
nay có một số nơi, ba ngành công an, kiểm sát, tòa án vẫn lợi dụng việc họp
trù bị để thống nhất với nhau trước về tội danh, về tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS và điều khoản của Bộ luật hình sự cần áp dụng rồi giao cho Tòa án
xét xử. Việc này đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa
án, xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của cơ
quan tư pháp nói riêng và nền công lý xã hội nói chung. Cần tiến hành xây
dựng Tòa án theo hướng đảm bảo cho Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật,
nhanh chóng, kịp thời và nghiêm minh. Thực hiện nghiêm túc nội dung nghị
67
quyết số 48/ - NQ/TW của Bộ chính trị “mọi quyết định của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải được công khai để nhân
dân dễ tiếp cận, dễ hiểu..”,điều này có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh nói riêng.
3.4. Các giải pháp tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS về tội Giết
Thực tiễn áp dụng PLHS là phản ánh sự phù hợp của các QPPL hình sự
đối với đời sống xã hội, với một xã hội mà ở đó tình hình tội phạm nói chung và
tình hình tội phạm đối với một tội/nhóm tội cụ thể nói riêng có dấu hiệu suy
giảm rõ rệt; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm không nảy sinh dư luận
xấu, đồng thời được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, có nghĩa là các cơ quan
áp dụng pháp luật đã làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo vệ được
quyền lợi của công dân và Nhà nước trong xã hội đó, được xã hội đồng tình ủng
hộ. Điều đó cũng phản ánh một xã hội tiên tiến với ý thức pháp luật của cả xã
hội được nâng cao và với một nền pháp luật vững chắc được xây dựng ở một
trình độ pháp lý cao.
Tổng kết thực tiễn ADLPL là hoạt động của các cơ quan pháp luật, trong
đó chủ yếu là các cơ quan THTT, tổng hợp kinh nghiệm giải quyết vụ án hình
sự, tổng hợp việc áp dụng PLHS trong hệ thống các cơ quan THTT theo những
chủ đề nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Thông thường, đây là hoạt
động thực tiễn trong nội bộ cơ quan và nội bộ ngành, hoặc giữa các cơ quan liên
ngành với nhau theo khoảng thời gian mang tính chu kỳ và cách thức đều ổn
định (như hàng tháng, hàng quý, hàng năm...). Đây cũng có thể là hoạt động giữa
các cơ quan THTT trong nước với các cơ quan THTT quốc tế được diễn ra nhằm
tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS giữa các quốc gia sau những khoảng thời gian
nhất định cùng phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hình sự.
Trong hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS, các chủ thể tham gia
tổng kết nêu các kết quả và thành tựu đạt được thông qua quá trình áp dụng các
68
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
QPPL vào giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn như: Nêu các vụ án tiểu biểu,
điển hình; các đường lối xử lý vụ án hình sự đúng đắn và nhanh chóng; các văn
bản thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước (bản án, quyết định) có tính mẫu mực
và chính xác cao nhằm tuyên dương, đồng thời làm tấm gương, tiêu chí để các
chủ thể khác học tập và noi theo. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia tổng kết
thực tiễn áp dụng PLHS còn nêu những sai lầm, vướng mắc trong hoạt động áp
dung các QPPL vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự như: Nêu các vụ án oan
sai hoặc các vụ án có đường lối giải quyết sai lầm, chưa đúng đắn; các văn bản
áp dụng PLHS được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc lựa chọn sai quy
định của pháp luật để áp dụng trong giải quyết vụ án hình sự hoặc áp dụng
không đúng đối tượng; hoặc các vụ án hình sự quá thời hạn giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Từ việc đánh giá hiệu quả các QPPL khi áp dụng vào giải quyết vụ án
hình sự, các chủ thể tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS tiến
hành đưa ra các đường lối giải quyết, khắc phục những sai lầm, vướng mắc; hoặc
đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có các biện pháp xem xét và ban hành
các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật cụ thể theo hướng sửa đổi, bổ sung,
giải thích các QPPL còn thiếu rõ ràng; hoặc hủy bỏ và thay thế bằng một văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật mới cụ thể hơn.
Việc tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS giúp phản ánh được những vấn đề
chưa phù hợp của các QPPL hình sự khi áp dụng vào thực tiễn. Qua đó, nhà làm
luật sẽ phân tích và đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra
các giải pháp sửa đổi các QPPL hình sự sao cho tính phù hợp của các QPPL này
đối với thực tế được nâng cao hơn, đảm bảo tính khả thi cao của các QPPL hình
sự được đưa vào vận dụng để giải quyết vụ án hình sự.
Trong thời gian qua, các cơ quan THTT trên địa bàn Nam Định hàng năm
đều tiến hành tổ chức sơ kết 6 tháng và tổng kết năm, để đánh giá chất lượng,
hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự, đánh giá việc định tội danh các vụ án có
đảm bảo theo quy định không. Tuy nhiên, việc tổng kết ở một số ngành, địa
69
phương còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Do đó, cần tăng cường
công tác sơ kết, tổng kết cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết án nói chung và bảo đảm định tội danh đúng.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cũng như thực tiễn hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
giải quyết các vụ án hình sự nói chung và án giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh nói riêng trong thời gian qua, đánh giá những mặt đạt
được, những tồn tại và hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng pháp luật nên
trong những chương này tác giả tập trung đề ra các yêu cầu để việc định tội
danh và quyết định hình phạt đúng trong việc giải quyết vụ án giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh .
Từ các yêu cầu đề ra, tác giả đề xuất những giải pháp đảm bảo định tội
danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói
riêng . Đây là các giải pháp đồng bộ tác động vào những yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt trong việc giải quyết án
hình sự nói chung và giải quyết án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh nói riêng. Đồng thời các giải pháp này phải phù hợp với tình hình
địa phương và có tính khả thi để đảm bảo việc định tội danh và quyết định
hình phạt đúng trong việc giải quyết các vụ án giết người trong trạng thái tinh
70
thần bị kích động mạnh.
KẾT LUẬN
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để
đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời pháp
luật hình sự còn góp phần chồng lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi
người có ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Nghiên cứu đề tài về “Các
tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo
Luật hình sự Việt Nam”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Việc phân tích
khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, các trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh cho phép chúng ta nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về
bản chất pháp lý của tội này, nhận thức đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cũng
như yêu cầu phải trừng trị nghiêm khắc và phòng ngừa đối với tội phạm này.
Phân tích làm rõ sự khác biệt giữa các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh với các tội phạm liên quan đến PVCĐ, phân biệt với
tình trạng bị kích động (Điều 46 Bộ luật hình sự) cho phép chúng ta nhận thức
rõ và đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cũng như đặc điểm pháp lý của loại tội
phạm này để tránh nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp dụng sai điều luật.
Các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một
trong những nhóm tội được quy định sớm trong pháp luật hình sự nước ta.
Các tội phạm này đã và đang diễn biến phức tạp, ngày càng có nhiều chiều
hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Thực tiễn xét xử các tội phạm thực
hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không ít Tòa án còn gặp
những vướng mắc, lúng túng và không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống
nhất các quy định của pháp luật hình sự trong hoạt động xét xử. Luận văn đã
phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội phạm thực
hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cho thấy những khó khăn
71
phức tạp trong thực tiễn áp dụng xử lý tội này, thấy rõ yêu cầu cấp bách cần
phải hướng dẫn, xử lý hoặc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật có liên
quan đến loại tội danh này. Đồng thời mạnh mẽ đưa ra những đề xuất, kiến
nghị về hướng dẫn và sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự liên quan đến các tội
phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để việc áp dụng
72
luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huy Anh (2002), “Phạm Văn Toản phạm tội giết người hay giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Tạp chí Toà án nhân dân,
Tòa án nhân dân tối cao, (11), tr.20-21.
2. Lê Cảm (1989), “Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc quyết
định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, (1), tr.24.
3. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự
(tập III), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
riêng), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Điệp (1997), 550 thuật ngữ chủ yếu trong pháp luật hình
sự Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh.
6. Đỗ Đức Hồng Hà (2000), Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội.
7. Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
8. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (1986), Quyết định số 04-
HĐTPTANDTC/NQ ngày 29 tháng 11 năm 1986 Hướng dẫn áp dụng
một số quyết định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
9. Nguyễn Lân (2000), Từ điển Từ & Ngữ Việt – Nam, NXB TP.Hồ Chí
Minh.
10. Trần Nhật Linh (2011), Định tội danh đối với hành vi cố ý xâm phạm
tính mạng con người theo pháp luật hình sự hiện hành”, Luận văn thạc sĩ
luật học, trường Đại học TP. Hồ Chí Minh.
11. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
73
dự, nhân phẩm của con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4
12. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
13. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB
công an nhân dân, HN.
14. Đinh Văn Quế (1992), Phần các tội phạm của Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, NXB Pháp lý, Hà Nội.
15. Đinh Văn Quế (1994), Trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
16. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm), Tập II, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội
phạm, tập 1, NXB TP. Hồ Chí Minh.
18. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự 1985, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.
20. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, sửa đổi bổ sung 2009,
Hà Nội.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam2015, Hà Nội.
22. Lâm Đức Tài (2010), Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh theo điều 95 BLHS. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa
luận tốt nghiệp, Hà Nội.
23. Toà án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ hình sự Việt Nam
tập 1, Hà Nội.
24. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Nghị quyết số 01/1998/NQ- HĐTP ngày
21/9 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
25. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác ngành Toà án, Báo cáo
74
của Toà án hình sự, Hà Nội. 5
26. Trịnh Quốc Toản (1999), Một số vấn đề lý luận về định tội danh và
hướng dẫn phương pháp định tội danh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
27. Trịnh Quốc Toản (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt
bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
tập I, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1992), Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự, NXB Pháp lý.
32. Viện ngôn ngữ học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm từ điển
ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt.
33. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của Phần chung Bộ luật
hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, NXB Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
34. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của Phần chung Bộ
luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
35. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
75
(Phần chung), NXB Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Biểu đồ 2.3a: Trình độ học vấn của người phạm tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trình độ
Trình độ
học vấn
học vấn
của người
phạm tội
Tiểu học,
trung học cơ
45%
sở
Trung học
54%
phổ thông
Đại học
1%
Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.
Bảng 2.3b: Nghề nghiệp, thành phần tội phạm.
Nghề
Nghề
nghiệp,
nghiệp
thành phần
phạm tội
Lao động tự
63.73%
do
Không nghề
15.91%
nghiệp
Học sinh
sinh viên,
20.36%
công nhân
Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.
76