VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH DIỆU

TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN

BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH DIỆU

TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN

BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận

văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều

đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Diệu

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TTHS: Tố tụng hình sự

PLHS: pháp luật hình sự

QĐHP: quyết định hình phạt

CTTP: cấu thành tội phạm

TNHS: trách nhiệm hình sự

VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân

TAND:Tòa án nhân dân HSST: Hình sự sơ thẩm.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI

GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH

ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh ...................................................................................... 7

1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh ............................................................................10

1.3. Lịch sử lập pháp các quy định của tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh .....................................................................24

1.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh với các tội phạm khác.....................................................................32

Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH

PHẠT ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH

THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .......36

2.1. Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích

động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ...................................................36

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ................48

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH .............56

3.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt

Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh ........................................................................................56

3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ....................................................61

3.3. Nâng cao năng lực cán bộ áp dụng pháp luật về tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................66

3.4. Các giải pháp tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS về tội Giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................68

KẾT LUẬN .....................................................................................................71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................73

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tổng số vụ án, bị cáo Tòa án tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm từ năm

2015 đến năm 2019 ..........................................................................................38

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong Tuyên Ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng

hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định “... tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc

nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và Tuyên ngôn

nhân quyền thế giới ngày 10/12/1948, tại Điều 3 Quy định: “Mọi người đều

có quyền sống, được tự do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của

Việt Nam cũng đã quy định tại Chương II về Quyền con người, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Mọi người đều

có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước

đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).

Con người là vốn quý, là giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại

và phát triển của xã hội. Trong đó, quyền sống là quyền thiêng liêng và quan

trọng nhất trong các quyền cơ bản của con người. Chính vì thế, pháp luật quốc tế

và pháp luật các quốc gia đều ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người. Ở

nước ta, từ khi Hiến pháp năm 1946 được ban hành đến nay, quyền sống luôn

được ghi nhận là quyền thiêng liêng và quan trọng nhất trong các quyền cơ bản

của con người. Theo pháp luật Việt Nam, hành vi trái pháp luật xâm phạm đến

tính mạng con người, tước đi quyền được sống của họ luôn được coi là một tội

ác cần phải trừng trị nghiêm khắc nhất và phải bị loại bỏ.

Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,

cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội, quyền con người

ở nước ta ngày càng được tôn trọng và đảm bảo. Bên cạnh những thành tựu đã

đạt được, cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế, đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội,

trong đó có các vấn đề về việc làm, tệ nạn xã hội, quá trình đô thị hoá nhanh...

1

ảnh hưởng đến sự gia tăng tội phạm nói chung và tội Giết người nói riêng.

Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Tuy

nhiên đối với hành vi giết người luật hình sự phân chia thành các trạng thái

như là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, giết người do

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi

bắt giữ người phạm tội. Trong đó, người bị kích động mạnh về tinh thần là

người không còn nhận thức được hành vi của mình, không có khả năng làm

chủ hành vi của mình và chỉ diễn ra trong khoảnh khắc tức thời, sau đó thì

người này trở lại trạng thái bình thường. Bởi vậy, đây là nhóm tội phạm khá

phức tạp trong việc cân nhắc, xem xét để có kết luận cũng như hình phạt

tương xứng. Vì cậy, cần phải có những quy định riêng và cụ thể cho tội Giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian gần đây cũng có sự diễn biến

phức tạp của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội Giết người trọng

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng. Trong vòng 5 năm từ 2015

đến 2019 trên địa bàn tỉnh Nam Định có 03 vụ khởi tố và 03 vụ xét xử với 03

bị can phạm tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bị

truy tố. Nhiều vụ án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

xảy ra mang tính chất côn đồ, hung hãn và ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ,

tâm lý và đời sống của người dân.

Nghiên cứu các vấn đề từ thực tiễn để tổng kết thành kinh nghiệm, nêu

lên một số tồn tại, bất cập trong quy định về tội giết người trong Bộ luật Hình

sự. Để từ đó đưa một số đề xuất nhằm khắc phục hạn chế, bất cập.

Công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung và tội

Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng trên địa bàn

tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn đang diễn

biến phức tạp. Nhằm góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng và

chống tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hiện

2

nay, tác giả chọn đề tài: “Tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định”

làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa là

dấu hiệu định tội vừa là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp

lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, ở trong và ngoài nước đã có

nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía

cạnh, những phương diện khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ

có các đề tài của các tác giả Đoàn Văn Lâm “Các tội xâm phạm tính mạng

con người trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2013.Ở cấp độ luận án tiến sĩ

có các đề tài của các nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hồng Hà “Tội giết người trong

Bộ luật hình sự Việt Nam” luận án tiến sĩ. Tiến sĩ Trần Văn Luyên (2000)

“Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam” Nxb

chính trị quốc gia.Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có

các công trình sau: Lê Cảm (chủ biên 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất – 2003);

Lê Cảm (chủ biên 2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản,

Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật

hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005;

Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I,

Nxb TP. HCM 2003; Lê Cảm “một số vấn đề lý luận chung về định tội danh

Chương XXXI – giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội;

Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần

các tội phạm) Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số công trình

3

nghiên cứu về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một dấu hiệu định tội

mà chỉ tập trung phân tích các cấu thành tội phạm cũng như hình phạt áp

dụng hoặc nghiên cứu chúng trong hệ thống các tội phạm xâm phạm về

tính mạng, sức khỏe. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khái niệm mà

chưa đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu nhận biết thực hiện tội phạm trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh.

Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng

định việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam

Định” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực

tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu của luận văn này là làm rõ những dấu hiệu pháp

lý, đường lối xử lý và phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với những

hạn chế, vướng mắc xung quanh tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh từ đó góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội phạm này cũng như rút ra nguyên nhân, từ đó tìm ra đóng góp

khắc phục, làm giảm tình hình tội phạm tại địa bàn tỉnh Nam Định.

- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

Về lý luận: Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý của tội

giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đồng thời phân biệt tội

này với một số tội phạm khác.

Về thực tiễn: phát hiện những vướng mắc, phân tích những cơ sở lý

luận và thực tiễn đồng thời đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện quy định luật

hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại địa

4

bàn tỉnh Nam Định.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới góc độ của luật hình sự và tìm

hiểu thực trạng tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh tại địa bàn tỉnh Nam Định .

Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các

nhiệm vụ sau đây:

+ Tìm hiểu lịch sử quy định và hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình

sự nước ta về tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

+ Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định hình phạt tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.

+ Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình

phạt đúng đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và luật

tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập tại Viện kiểm

sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đối với các vụ án giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xảy ra trên địa bàn tỉnh từ năm

2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học

của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các

phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,

5

phương pháp lịch sử...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Việc nghiên cứu thành công đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận và

thực tiễn.

- Về lý luận: Luận văn góp tiếng nói khoa học và nhận thức chung về

tội giết người trong khoa học luật hình sự Việt Nam, đồng thời góp phần làm

phong phú thêm cơ sở lý luận và hoàn thiện các quy định của BLHS về tội

giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh. Làm tài liệu cho học tập

và nghiên cứu.

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn, những vấn đề lý luận

nêu trong luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý

tôi phạm giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh và những tội

phạm khác có liên quan. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham

khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước

nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam.

- Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh

Nam Định.

- Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp

6

luật Hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh

•Khái niệm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:

Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được hiểu là

hành vi giết người trong tình trạng không tự chủ, không kiềm chế được hành

vi phạm tội của mình(tức sự phản đối của người phạm tội) do hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với chính người phạm tội hoặc

người thân của người phạm tội.

Là một trường hợp đặc biệt của tội giết người, vì vậy, để hiểu rõ khái

niệm của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều

125 BLHS) thì trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm “tội giết người”.

Về khái niệm của tội giết người hiện nay có nhiều quan điểm khác

nhau. Cụ thể:

Hiện nay, các nước trên thế giới có hai xu hướng để đưa ra về tội giết

người. Một là, định nghĩa tội giết người và không định nghĩa tội giết người.

Các nước theo xu hướng định nghĩa về tội giết người trong BLHS của mình

nhưng mỗi nước lại có các cách định nghĩa khác nhau. Luật Hình sự Liên

bang Nga năm 1966, tại Điều 106, tội giết người được định nghĩa: “… là cố ý

làm chết người khác” ; Trong BLHS Trung Quốc năm 1997, tại Điều 232 tội

7

giết người được định nghĩa “là hành vi cố ý giết người khác; Bộ luật Bang

California (Hoa Kỳ) năm 1998 tại Điều 187 tội giết người được định nghĩa “là

hành vi cố ý giết người khác hoặc giết bào thai một cách hiểm độc và bất hợp

pháp” . Một số nước theo xu hướng thứ hai, không định nghĩa tội giết người,

nhưng trong khoa học pháp lý hình sự cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.

Trong đó có các định nghĩa: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái

pháp luật tính mạng người khác” , hoặc “Tội giết người là hành vi trái pháp

luật của người đủ năng năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước đoạt quyền

sống của người khác” . Hoặc “Tội giết người là hành vi làm chết người khác

một cách cố ý và trái pháp luật” . Phân tích, đánh giá các định nghĩa trên cho

thấy về nội dung, các định nghĩa không đề cập đến dấu hiệu năng lực trách

nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể hoặc có đề cập đến trách nhiệm

hình sự mà không đề cập đến độ tuổi. Về sử dụng thuật ngữ giết người là

hành vi “cố ý tước đoạt tính 8 mạng” của người khác là chưa phù hợp, chính

xác theo ý nghĩa từ ngữ trong tiếng Việt. Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng

“tước đoạt” là “tước và chiếm lấy sự sống của người khác” và “tước đoạt” đã

bao gồm sự cố ý nên không cần thiết phải quy định “tội giết người là hành vi cố

ý tước đoạt tính mạng”. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam được

quy định tại Điều 8, Khái niệm Tội phạm thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm

cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự thực hiện bởi người có năng lực

trách hình sự thực hiện một cách cố ý, hoặc vô ý… xâm phạm tính mạng… của

công dân…” . Trên cơ sở phân tích các định nghĩa trên về tội giết người, tác giả

đưa ra khái niệm về tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý tước

đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật, thực hiện bởi người có năng

lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi theo quy định của pháp luật.

Theo bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban

hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân

tối cao thì: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người

khác một cách trái pháp luật” [31, tr.83]; [15, tr.12]. Tuy nhiên cũng có

8

quan điểm khác cho rằng “tội giết người là hành vi trái pháp luật của người

đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người khác”

[11, tr.67].

Cả hai quan điểm đưa ra đều chưa hợp lý ở chỗ: Chưa đề cập đến dấu

hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể “tội giết

người” (quan điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực trách

nhiệm hình sự mà không đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai), để

khắc phục những hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết

người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp

luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định

thực hiện” [6, tr.38].

“Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy

định tại Điều 125, BLHS năm 2015 như sau:

“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc

đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị

phạt tù từ ba năm đến bảy năm” [21]

Từ quy định tại Điều 125 BLHS cho thấy “tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh” đòi hỏi người phạm tội khi thực hiện hành

bi phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ

cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng

kiểm soát và điều khiển hành vi. Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh có thể

là tình tiết làm giảm nhẹ một cách đáng kể mức độ của tính nguy hiểm cho xã

hội của hành vi phạm tội. Do vậy tình tiết này có thể được quy định là tình tiết

định khung hình phạt giảm nhẹ hoặc có thể là tình tiết định tội cho tội nhẹ hơn so

với tội của trường hợp bình thường. BLHS 1985 quy định tình trạng tinh thần bị

9

kích động mạnh là trường hợp định khung hình phạt giảm nhẹ của “tội giết

người” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác”. Trong BLHS năm 1999 và BLHS 2015 các trường hợp này được tách ra

thành các tội danh riêng, đó là “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”

Theo Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán

TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS

năm 1985 thì “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người

phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của

mình. Sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân gây nên”. Cá biệt, có trường hợp, do hành vi trái pháp

luật của nạn nhân có tính chất đè nén áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại,

sự kích động đó đã âm ỉ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật

của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế

được, nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh

nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc thì lại được coi là mạnh hoặc

rất mạnh.

Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi

cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái

người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội

của mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người

phạm tội hoặc người thân thích của người đó.

1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh

Theo quy định tại Điều 125 BLHS “tội giết người trong trạng thái tinh

10

thần bị kích động mạnh” có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:

1.2.1. Khách thể của tội phạm

Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà nước cũng đều xác

lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội, phù

hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp

luật, trong đó có các quy phạm pháp luật hình sự. Trong Luật Hình sự Việt

Nam, những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm

xâm hại là những quan hệ được xác định trong khái niệm tội phạm, đó là:

“Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị,

chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,

quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa” (khoản 1 Điều 8 BLHS 2015). Trong số những

quan hệ xã hội đã được xác định này tính mạng con người là một trong những

khách thể có tầm quan trọng đặc biệt. Hành vi giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh là một trong những hành vi xâm phạm trực tiếp đến

tính mạng của con người, đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ

tính mạng của người khác từ đó có thể xác định khách thể của tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó là quyền sống của con người.

Đây là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ.

1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Cũng giống như các tội phạm khác khi được thực hiện đều có những

biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ra bên ngoài thế giới khách quan mà con người

có thể nhận biết được. “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh” cũng có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ở ngoài thế giới khách

quan, đó là:

- Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác;

- Hậu quả chết người;

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tước đoạt trái pháp luật tính

11

mạng của người khác và hậu quả chết người.

Ngoài ra còn có các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi

phạm tội như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa

điểm phạm tội… Những dấu hiệu này không được quy định là dấu hiệu bắt

buộc trong mặt khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá

tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

* Hành vi khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh:

Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc

đe doạ gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai

hình thức đó là hành động hoặc không hành động. Theo quy định của BLHS

2015, hành vi khách quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh” là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.

Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được hiểu là

hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của con

người. Hành vi đó có thể được thực hiện bằng những cách thức khác nhau

như bắn, đâm, chém...

Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được coi là hành vi khách

quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” khi

người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội

đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này với các tội

khác mà trước hết là tội giết người (Điều 123 BLHS).

Theo hướng dẫn của Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kích động mạnh về tinh

thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình

thường nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự

12

chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi của mình. Trạng thái tinh thần này của họ chỉ xẩy ra trong chốc lát.

Người phạm tội khi thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh thường xuất hiện cơn bùng phát về tinh thần, thường biểu hiện các trạng

thái tâm lý như: Quá lo sợ, quá hốt hoảng, quá kinh hãi, quá căm tức và quá

phẫn nộ. Nguyên nhân dẫn tới trạng thái tâm lý này xuất phát từ những hành

vi trái pháp luật của nạn nhân, dưới đây, chúng tôi xin phân tích một số hành

vi chủ yếu để thấy rõ biểu hiện tâm lý của người phạm tội khi có hành vi trái

pháp luật của nạn nhân dối với họ hoặc người thân thích của họ:

- Hành vi sỉ nhục hay vu khống người khác: Đây là dạng hành vi xúc

phạm tới nhân phẩm, danh dự của người khác, tác động mạnh tới trạng thái

tâm lý của của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A và B là hàng xóm của

nhau, A vu khống cho rằng B lấy trộm gà nhà A, B đã nhiều lần đính chính là

B không làm điều đó nhưng A vẫn một mực nghi ngờ và đi nói với nhiều

người khác và B cũng đã nhắc nhở A nhiều lần. Một lần, nhà B có khách đến

chơi, B có làm gà tiếp khách thì A có nói bóng gió rằng B là thằng ăn trộm, gà

đấy là nhà A, quá tức giận, B liền nhặt đá ném vào đầu A làm A chết. Như

vậy, hành vi vu khống của A đã tác động vào tâm lý của B, đỉnh điểm là khi

nhà B có khách làm cho B cảm thấy bị xúc phạm, căm phẫn dẫn tới hành vi

ném đá vào A.

- Hành vi dùng bạo lực một cách thô bạo với người khác: Đây là dạng

hành vi tác động vào tính mạng, sức khoẻ người khác một cách trái pháp luật.

Ví dụ, trường hợp của anh Lương Văn Thanh (người phạm tội) là công nhân

may của Công ty may Youngone khi đang trên đường trở về nhà sau khi tăng

ca vào buổi đêm thì bị anh Vân (nạn nhân) bất ngờ từ trong hẻm nhảy ra chặn

đánh (do anh Vân nhầm lẫn, nhận sai người). Do bị đánh đau nên anh rút dao

ra đâm vào ngực trái của nạn nhân làm nạn nhân chết trên đường đi cấp cứu.

13

Hành vi của anh Vân là quá bất ngờ lại vào đêm khuya nên đã làm cho anh

Thanh hoảng sợ dẫn tới tinh thần bị kích động mạnh nên đã dùng dao đâm

chết anh Vân.

- Những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình: Trong thực

tế, có rất nhiều vụ giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình, chồng đánh đập

vợ, đánh đập con cái, người vợ không làm tròn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ…

Ví dụ, trường hợp của ông Hoàng Văn Thái (thành phố Nam Định, tỉnh Nam

Định), do bị bà Mai Thị Thu (vợ) thường xuyên lăng mạ, khinh thường vì thu

nhập thấp, ngoài ra, bà Thu còn ngoại tình với người khác nên vợ chồng ông

Thái, bà Thu đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn. Trong một lần cãi vã, bị bà Thu

mắng nhiếc nặng lời và dùng đồ đạc ném về phía ông Thái, do quá tức

giận,ông Thái cầm cuốc dài 1,2m, đánh liên tiếp vào người bà Thu làm bà

chết tại chỗ. Hành vi thường xuyên hành hạ, coi thường chồng của bà Thu đã

làm cho ông Thái tức giận dồn nén lâu ngày đặc biệt là khi bà dùng lời lẽ,

hành động ném đồ đạc làm ông Thái căm phẫn nên đã dùng cuốc đập liên tiếp

vào người bà Thu. TAND tỉnh Nam Định cũng đã xác định ông Hoàng Văn

Thái do sự dồn nén, ức chế lâu ngày trong quá trình chung sống vì thường

xuyên bị bà Thu chửi bới, coi thường nên khi thấy bà Thu chửi bới, ném đồ,

thì ông Thái đã bị kích động mạnh mà dùng cuốc đánh bà Thu tới chết.

- Hành vi xâm phạm tới tài sản của người khác như đốt cháy, cướp giật,

đập phá. Đây là hành vi xâm phạm tới tài sản của người phạm tội của nạn

nhân, tài sản ở đây thường là tài sản có giá trị lớn về vật chất hoặc tình thần.

Ví dụ, trường hợp do mâu thuẫn trong quan hệ xóm giềng nên một lần, nhân

lúc thấy xe ô tô của A dựng ngoài sân mà không có người nên B đã lấy một

thanh sắt đập vào kính, vào gương và cốp xe của A, A đi bên nhà C về thì

thấy B đang đập phá ô tô của mình nên tức giận nhảy vào đánh B làm cho B

chết trên đường đi cấp cứu. Hành vi phá hoại tài sản có giá trị lớn của B đã

14

làm cho A tức giận và có hành động nhảy vào đánh B.

Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa

đến mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là tinh thần bị kích động mạnh,

không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh, đối với trường hợp này người phạm tội chỉ được giảm nhẹ hình phạt

theo quy định tại khoản 1, Điều 51 BLHS 2015.

Trên thực tế việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần

hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi trạng thái tâm lý của mỗi người là

khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia, có người

bị kích động mạnh về tinh thần nhưng có người lại không bị kích động mạnh.

Ví dụ: Cùng một sự việc là thấy vợ có quan hệ bất chính với người

khác, anh A lao tới giết tình nhân của vợ, anh B đệ đơn ly hôn.

Như vậy, không có “thước đo” cụ thể nào để xác định một người bị

kích động hay kích động mạnh mà chúng ta phải căn cứ vào từng vụ án cụ

thể, xem xét từng tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, điều kiện

sống, quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội…

Nạn nhân của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội

hoặc người thân thích của người phạm tội: Hành vi trái pháp luật của nạn

nhân đối với người phạm tội phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng. Hành

vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là những hành vi vi phạm pháp

luật hình sự, xâm phạm tới lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những

người thân thích của người phạm tội. Thông thường, những hành vi trái pháp

luật của nạn nhân xâm phạm tới sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự như hành vi sỉ

nhục hay vu khống người khác, hành vi dùng bạo lực thô bạo đối với người

khác, những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, hành vi xâm

phạm tới tài sản của người khác như đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật hay

15

những hành vi khác trái với đạo đức xã hội [17, tr.57-58]

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể vi phạm pháp

luật hình sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình… Hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng ở đây có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa cấu thành tội

phạm nhưng dù trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tính chất trái pháp

luật nghiêm trọng. Nếu hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng

không nghiêm trọng, có tính chất nhỏ nhặt thì không thuộc trường hợp này.

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một

hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của

người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi,

lặp lại trong suốt thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm

tội làm cho họ bị dồn nén về mặt tâm lý. Đến thời điểm nào đó khi có hành vi

trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy

đến cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Trong trường hợp này, nếu chỉ xét hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi

trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân [29].

Ví dụ, trường hợp A mở quán nước trước nhà B, thường xuyên vứt rác

trước cổng nhà B, B đã rất nhiều lần nhắc nhở nhưng A không thay đổi. Một

lần, cả nhà B đang ngồi ăn cơm ngoài sân thì A lại tiếp tục vứt rất nhiều rác

bẩn trước cổng nhà B, B ra mắng A thì bị A cãi lại, thách thức làm B tức giận

lấy thanh sắt ở sân đánh vào đầu A, làm A chết. Nếu xét từng hành vi cụ thể

của A thì sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật mà A

đã thực hiện nhưng hành vi này đã diễn ra thường xuyên, liên tục trong một

thời gian dài mặc dù đã được B nhắc nhở, đến thời điểm cả nhà B đang ăn

cơm, A lại vứt rác bẩn vào cổng, bị B mắng A lớn tiếng cãi lại, thách thức

thì B thực sự tức giận, bị kích động mạnh về tinh thần và dùng thanh sắt

16

đánh A chết.

Một người bị kích động mạnh về tinh thần ngoài trường hợp nạn nhân

có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với họ còn có những trường hợp bị

kích động mạnh về tinh thần khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng với

người thân thích của người đó. Hiện nay chưa có văn bản nào giải thích chính

thức thế nào là người thân thích của người phạm tội nhưng theo thực tiễn xét

xử có thể hiểu những người thân thích với người phạm tội là những người có

quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng như: Vợ chồng,

cha mẹ - con cái, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác

cha với nhau, ông bà nội ngoại đối với các cháu, trong thực tiễn xét xử Tòa án

cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay

quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc giống như anh chị em ruột, cha

mẹ ruột cũng được xác định là người thân thích của nhau [17]. Như trong trường

hợp mẹ và con nuôi với nhau mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng cũng

có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau: Bố mẹ A chết sớm, A được bà C

nhận làm con nuôi từ nhỏ, một hôm đang đi làm đồng thì có người gọi “Về nhà

ngay! Mẹ của mày bị người ta đánh cho què chân rồi”. A vội cầm dao chạy về

nhà và biết mẹ mình bị M đánh đang nằm bất tỉnh ở sân trước, A liền chạy sang

nhà M chém liên tiếp vào đầu M làm M chết ngay tại chỗ. Tuy A và bà C không

phải có quan hệ huyết thống nhưng có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau

nên bà C có thể được xem là người có quan hệ thân thích với A.

Nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người

phạm tội là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người

phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Không có hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân

thích của người đó thì không có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của

người phạm tội. Ví dụ trường hợp A đánh B (con của C) bị thương, C nghe tin

cầm gậy chạy đi tìm A để đánh nhưng không gặp A mà gặp bà M (mẹ của A)

nên C dùng gậy đánh bà M, do vết thương quá nặng nên bà M đã chết trên

đường đi cấp cứu. Trường hợp này, A mới là người có hành vi trái pháp luật

17

nghiêm trọng đối với người thân của C làm cho C bị kích động mạnh về tinh

thần chứ không phải bà M, nên hành vi giết người của C không phải là giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần bị

kích động mạnh rồi giết người cũng không thuộc trường hợp giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Ví dụ, A và B cãi nhau, B tức giận đi

uống rượu, say rồi về cầm dao đi giết A, trường hợp này B sẽ bị xử lý theo

Điều 123 BLHS chứ không áp dụng Điều 125 BLHS, vì hành vi giết A của B

là do B bị say rượu dẫn tới không nhận thức và điều khiển được hành vi chứ

không phải do A và B cãi nhau mà B bị kích động mạnh.

* Hậu quả của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh

Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đó là hậu quả chết người, cụ thể là

nạn nhân phải chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân

mới bị coi là phạm tội này. Theo đó, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu

nạn nhân không chết mà chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe mà thương

tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh” được quy định tại điều 126 BLHS. Cũng theo quy

định của BLHS, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không

có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có

khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội

hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó phải có tính đột xuất,

nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh.

* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của

18

tội phạm

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm

có cấu thành vật chất nên hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của cấu

thành tội phạm. Một người chỉ phải chịu TNHS về tội “Giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh” nếu giữa hành vi khách quan và hậu quả

chết người đó có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Hành vi giết người phải xảy ra tức thời, ngay lúc có hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì: “Nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành

động của bị cáo có một khoảng thời gian nhất định thì không thể nói bị cáo

đang ở trong tình trạng đột xuất bị kích động tinh thần mạnh mẽ đến nỗi họ

không tự chủ được mình nữa” [23, tr.346]

Như vậy, để xác định người phạm tội có ở trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh hay không chúng ta cần xem xét giữa hành vi giết người và

hậu quả chết người có mối quan hệ nhân quả hay không. Nếu giữa chúng

không có mối quan hệ nhân quả thì bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà phạm

một tội khác. Ví dụ, trường hợp A đánh con của B bị thương nặng, tức giận B

chạy sang đánh A bị thương, sau đó A được mọi người đưa đi bệnh viện, trên

đường đi A bị tai nạn giao thông mà chết thì trường hợp này B không phạm

tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì giữa hành vi

đánh A bị thương của B và hậu quả A bị chết không có mối quan hệ nhân quả.

1.2.3. Chủ thể

Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được hiểu là con

người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội ở thời điểm họ có năng lực TNHS

và đạt độ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật. Cũng như các tội

phạm khác, chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là chủ thể thường, chỉ cần là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi

19

luật định.

Năng lực TNHS là năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Năng lực

TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi hay không

khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực

TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực TNHS là người

khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính

chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có khả năng điều khiển được hành vi

ấy. Người có năng lực TNHS theo luật Hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi

chịu TNHS (Điều 12 BLHS năm 2015).

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đòi hỏi

người phạm tội cũng phải là người có năng lực TNHS, tức là khi thực hiện

hành vi phạm tội họ có khả năng nhận thức được hành vi tước đoạt trái pháp

luật tính mạng của người khác là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật ngăn cấm

và họ có khả năng điều khiển, kiềm chế hành vi của mình để không thực hiện

hành vi nguy hiểm đó nhưng họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

Bên cạnh năng lực TNHS, chủ thể của tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh cũng phải là người đạt tới độ tuổi nhất định. Điều

12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS như sau: “1. Người từ đủ 16

tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật

có quy định khác; 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về

tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Đồng thời cũng theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 thì “Tội

phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức

cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm

nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của

khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”…

Căn cứ vào tại khoản 2 điều 12, khoản 1 điều 8 và Điều 125 BLHS thì

chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là

20

người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Như vậy,

những người chưa đạt đến độ tuổi này thực hiện hành vi được quy định tại

•) Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo bộ

Điều 125 BLHS gây ra hậu quả chết người thì cũng không phải chịu TNHS.

luật Hình sự năm 2015.

Theo điều 125 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do

hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với

người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07

năm”[21]

So với BLHS năm 1985 thì quy định về “tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh” tại Điều 95 BLHS năm 1999 có những điểm

mới. Từ đó,điều 125 BLHS 2015 tiếp tục kế thừa và phát huy những điểm sửa

đổi của BLHS 1999

- Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã tách trường hợp giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh ra khỏi tội giết người và quy định thành một

tội danh độc lập với các khung hình phạt riêng.

- Thứ hai, trên cơ sở quy định thành một tội danh độc lập, BLHS năm

2015 tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự các trường hợp giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có các mức độ nguy hiểm cho xã hội

khác nhau. Nếu như trước đây BLHS năm 1985 quy định trường hợp “giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” chỉ có một khung hình

phạt là bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm thì trong BLHS năm 2015 với tư

cách là một tội danh độc lập “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh” quy định hai khung hình phạt là: khung cơ bản có hình phạt tù từ

sáu tháng đến ba năm còn khung tăng nặng với trường hợp phạm tội với 02

người trở lên thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm. BLHS 2015 đã cụ thể hóa

21

khung tăng nặng so với BLHS 1999, không dùng cụm từ “giết nhiều người”

mà thay bằng “phạm tội với 02 người trở lên” để cụ thể hóa quy định, dễ dàng

áp dụng trong các trường hợp phạm tội.

1.2.4. Mặt chủ quan

Lỗi là dấu hiện bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng như trong mặt chủ quan của mọi

cấu thành tội phạm.

Lỗi trong cấu thành tội phạm của tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Căn

cứ quy định tại điều 10, điều 11 BLHS thì lỗi cố ý trực tiếp của tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp người phạm tội

nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết

người có thể hoặc tất yếu xảy ra và vì mong muốn hậu quả chết người nên đã

thực hiện tội phạm. Lỗi cố ý gián tiếp của tội giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình

là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không

mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì

người phạm tội thực hiện tội phạm khi có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ làm tinh thần của

họ bị kích động mạnh dẫn tới hành vi phạm tội. Người phạm tội không hề có

sự chuẩn bị trước về tinh thần cũng như công cụ, phương tiện phạm tội. Do

vậy, lỗi của người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù là

lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp đều có đặc điểm chung là lỗi cố ý đột xuất. Cố

ý đột xuất là trường hợp người phạm tội vừa có ý định phạm tội đã thực hiện

ngay ý định đó, chưa có sự cân nhắc kỹ.

Khi thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì lý trí của người phạm

tội biểu hiện như sau: người phạm tội thấy rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội

22

của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. Người phạm tội

thấy trước tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình là sự nhận thức

được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên cơ sở

nhận thức được những tình tiết khách quan của nó. Người phạm tội thấy trước

hậu quả của hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của

hành vi đó.

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mặc dù

người phạm tội bị hạn chế trong việc thấy trước hậu quả của hành vi giết

người, vì khi thực hiện hành vi giết người họ đang trong tình trạng tinh thần

bị kích động mạnh nhưng không phải vì thế mà người phạm tội không bị truy

cứu trách nhiệm hình sự vì lúc đó họ chưa mất hẳn khả năng nhận thức và vẫn

còn có thể lựa chọn xử sự khác chứ không phải là hành vi giết người. Khi

thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì ý chí của người phạm tội được

biểu hiện là mong muốn hậu quả chết người xảy ra. Hậu quả chết người xảy

ra phù hợp với mong muốn của người phạm tội.

Khi thực hiện tội phạm với lỗi với lỗi cố ý gián tiếp thì lý trí của người

phạm tội biểu hiện như sau: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho

xã hội của hành vi của mình và thấy trước hậu quả có thể xảy ra. Người phạm tội

không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, ở đây người

phạm tội có thể thấy trước hậu quả chết người nhưng nằm ngoài mục đích và sự

quan tâm của họ, người phạm tội không hướng vào hậu quả chết người mà hướng

vào mục đích khác, mục đích của hành vi. Bởi lẽ khi có hành vi giết người, người

phạm tội đang ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể người phạm

tội chỉ mong muốn trút bỏ được cơn thù tức do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng

của nạn nhân đối với mình hoặc người thân thích của mình.

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mục đích và

23

động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm.

1.3. Lịch sử lập pháp các quy định của tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh

Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt

Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con

người gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt

Nam nói chung kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nó

gắn liền với các giai đoạn của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống

thực dân Pháp, đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Khi đất

nước được thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những

cơ sở về chính trị, kinh tế- xã hội để thống nhất về mặt luật pháp, trong đó

pháp luật hình sự quy định các tội phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của con người ngày càng được xây dựng và hoàn thiện.

1.3.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp

điển hóa Bộ luật hình sự 1985

Từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên năm

1985 nguồn pháp luật hình sự Việt Nam là tập hợp các văn bản đơn hành với

21 nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, thông tư, điều lệ… nội dung chủ yếu

là các tội phạm về phản cách mạng, tội phạm xâm phạm tính mạng sức khỏe,

tội phạm, về sở hữu…Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời

đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách

mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL

ngày 15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn

bản này được áp dụng cho các nước). Quy định về tội phạm thực hiện trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được thể hiện tại Sắc luật số 03-SL

ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời và Thông tư số

03- SL-BTP-TT ngày 15/4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật

số 03 theo đó “Giết người kèm theo tình tiết giảm nhẹ đặc biệt sau đây thì bị

24

phạt thấp hơn 15 năm tù: Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động

một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn

nhân”. Sắc luật số 03/SL chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt

cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác với

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh. Để nhận thức sắc luật được đúng đắn và để

việc áp dụng được thống nhất thì thông tư 03/BTP/TT có hướng dẫn cụ thể,

theo đó trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người

khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được coi là tội phạm ít

nghiêm trọng và là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Như vậy, trước khi Bộ luật

hình sự năm 1985 ra đời thì việc quy định các tội phạm nói chung và các tội

phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng ở các

văn bản dưới luật nên giá trị pháp lý của những văn bản đó chưa cao đồng

thời các quy định đó còn quá chung chung, không nêu cụ thể rõ ràng dẫn đến

việc áp dụng không thống nhất, việc xét xử 22 gặp nhiều vướng mắc do vậy

cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của công

tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này

1.3.2. Giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 1999

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp ứng yêu cầu

đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời

cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày

15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn bản

này được áp dụng cho các nước). Tại Điều 5 của Sắc luật này có quy định các

tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tuy

nhiên Sắc luật này cũng chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt

cụ thể tội giết người với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh. Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng được thống

25

nhất, ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng

dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội giết người.

Điểm 2 mục B của Thông tư này xác định:

“...Cố ý giết người là một tội đặc biệt nghiêm trọng do đó được quy định

hình phạt cao hơn các tội phạm cùng loại quy định ở Điều 5 Sắc luật này:

Cố ý giết người thì bị phạt từ 15-20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết giảm nhẹ thì bị xử dưới

15 năm tù. Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết giảm nhẹ thì

bị xử dưới 15 năm tù. Trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có những tình tiết

giảm nhẹ là:

- Giết người trong trường hợp tinh thần bị kích động quá mạnh...”

Như vậy, ở thời điểm này, trường hợp giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh được coi là phạm tội ít nghiêm trọng và là một tình

tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người, có thể bị xử dưới 15 năm tù.

Trong BLHS năm 1985, “tội giết người” được quy định tại Điều 101 và

“tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy định

tại Khoản 3 Điều này như một trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ

đặc biệt của tội giết người : “...Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với

người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ 6

tháng đến 5 năm”

1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985

đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam

được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982 – 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời

của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt: Bộ luật

hình sự 1985. Có thể nói, Bộ luật hình sụ 1985 ra đời là kết tinh thành tựu 40

năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng, là bản tổng kết sâu sắc

26

thực tiễn phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945

đến thời điểm Bộ luật được ban hành. Kế thừa những quy định pháp luật của

thời kỳ trước trường hợp thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh đã được và ghi nhận tại hai điều luật Điều 101 về tội giết người.

Tội giết người:

“1- Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì

bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình;

a) Vì động cơ đê hèn; để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác;

b) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; bằng cách lợi dụng nghề

nghiệp hoặc bằng phương pháp có khả năng chết nhiều người;

c) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

d) Giết nhiều người hoặc giết phụ nữ mà biết là có thai;

đ) Có tổ chức;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội

nghiêm trọng khác;

g) Có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm.

2- Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định ở khoản 1 Điều này

hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt thì bị phạt tù từ năm năm đến mười

lăm năm.

3- Phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi

trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối

với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

(Điều 101).

Và Điều 109 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

người khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác:

“1- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của

người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ

27

ba tháng đến ba năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ

hai năm đến bảy năm:

a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của

người khác;

b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm;

3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp

đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.

4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản

2, ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật

nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong 24 trường hợp vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một

năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.(Điều 109).

Sau khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời thì chỉ có một văn bản duy nhất

hướng dẫn về thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của HĐTP TANDTC mà chưa

có một khái niệm hay hướng dẫn cụ thể nào khác. Theo hướng dẫn của nghị

quyết trên thì: Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người

phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của

mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết

người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có

tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã

âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại

tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng

sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá

trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Trong

28

trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành

tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội

vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích

động mạnh. Như vậy, so với Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng

Chính phủ cách mạng lâm thời thì quy định của Bộ luật hình sự 1985 và nghị

quyết hướng dẫn liên quan đến tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh đã đầy đủ và cụ thể hơn. Cụ thể nêu ra tình trạng tinh thần bị

kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm

chế được hành vi phạm tội của mình, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của

nạn nhân là đối với người phạm tội và người thân thích.

1.3.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

đến nay

Trong vòng 12 năm Bộ luật hình sự 1985 đã có bốn lần sửa đổi, bổ

sung. Việc sửa đổi bổ sung là cần thiết và rất kịp thời nhưng vẫn còn mang

tính bộ phận, chỉ đáp ứng được các yêu cầu bức xúc, thời sự trước tình hình

tội phạm có chiều hướng gia tăng trong điều kiện xã hội đang chuyển đổi cơ

chế, cái cũ mất đi thay thế những cái mới tiến bộ hơn. Đó là những đòi hỏi có

tính khách quan cho sự ra đời của Bộ luật hình sự 1999.

Cũng trong sự thay đổi của diễn biến xã hội, bộ luật Hình sự 2015 tiếp

tục ra đời. Bộ luật hình sự năm 2015 không chỉ thể hiện một cách toàn diện

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn

là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền

làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực

hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

BLHS 2015 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam , kì họp thứ 10

thông qua ngày 27/11/2015. BLHS năm 2015 gồm 26 chương với 426 điều.

Bộ luật sửa đổi bổ sung các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; tăng

phạt tiền với chính sách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự

29

quản lý kinh tế. Bên cạnh đó, BLHS 2015 còn quy định trách nhiệm hình sự

của pháp nhân, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường. Sửa đổi,

bổ sung các quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng hạn chế áp

dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù. Sửa đổi, bổ sung các

quy định về các hình phạt tử hình theo hướng tiếp tục thể chế hóa chủ trương

hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo các nghị quyết của Đảng về cải cách

tư pháp, bám sát tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con

người, quyền cơ bản của công dân. Quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng

hình phạt tử hình , bỏ hình phạt tử hình với 07 tội danh cụ thể…Thời điểm có

hiệu lực quy định trong bộ luật là từ ngày 01/07/2016, tuy nhiên, do có một số

sai sót trong BLHS 2015, ngày 29/6/2016, Quốc hội khóa 13 đã ban hành

Nghị quyết số 144/2016/QH13 lùi hiệu lực thi hành BLHS năm 2015 từ ngày

01/7/2016 đến ngày luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 có hiệu

lực thi hành; tiếp tục thực hiện các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại

khoản 3 điều 7, điểm b, khoản 1 điều 1 và khoản 2 điều 1 BLHS 2015 và các

quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015-QH13.

Tuy nhiên, nội dung tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh được quy định tại điều 125 BLHS năm 2015 vẫn được giữ nguyên

từ điều 95 BLHS 1999.

So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 2015 có nhiều

quy định mới về tội phạm và hình phạt.Trong đó, quy định về thực hiện tội

phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng có sự thay đổi. Đối

với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125)

được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến

ba năm (khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu tháng 26 đến năm

năm); khoản 2 là trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ ba năm

đến bảy năm (quy định này mới, nặng hơn khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự

năm 1985). Vì là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, nếu

30

quy định cùng một điều luật với tội giết người như trước đây thì không phải

ánh đúng tính chất của tội phạm này. Việc nhà làm luật tách trường hợp giết

này ra thành một tội phạm riêng không chỉ bảo đảm chính xác về lý luận và

kỹ thuật lập pháp mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử. Đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) Đây là tội phạm được nhà luật tách từ

khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu của tội phạm này

cũng tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự 2015, chỉ khác nhau ở ý

thức chủ quan của phạm tội đối với hậu quả và hậu quả thực tế đã xảy ra. So

với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì các dấu hiệu cấu thành

được quy định tại Điều 105 đầy đủ hơn và hoàn toàn tương tự với các dấu

hiệu cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

được quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 4 Điều

109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định "bị kích động mạnh vì hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân", chứ chưa quy định "hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân tích của

người đó" như khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015. Mặt khác, Bộ

luật hình sự năm 2015 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thì người

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình

sự. Còn khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây thương

tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân

dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ

thương tật 31% được coi là thương tích nặng. Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ

thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành vi không bị truy cứu trách

nhiệm hình sự. Như vậy, nhìn vào lịch sử lập pháp có thể thấy trường hợp

thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được ghi

nhận trong pháp luật hình sự khá sớm. Qua ba lần pháp điển hóa với sự ra đời

31

của Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 thì quy

định liên quan đến thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh có sự thay đổi, bổ sung để ngày càng phù hợp với thực tế và theo đúng

mục đích của bộ luật hình sự. Sự thay đổi, bổ sung đó là tất yếu song thực tế

áp dụng vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa thống nhất đòi hỏi phải có sự

nghiên cứu để hoàn thiện hơn.

1.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh với các tội phạm khác

* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với

tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126, BLHS 2015)

Nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành về hai tội phạm này cho

thấy, bên cạnh những điểm giống nhau, còn có một số điểm khác nhau cơ bản

sau đây:

- Chủ thể của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

phải là người theo quy định của pháp luật có quyền phòng vệ chính đáng, tức

là quyền chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm hại đến lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, của bản thân hay

của người khác. Như vậy, động cơ hành động của chủ thể là động cơ bảo vệ

lợi ích hợp pháp, nhưng do thực hiện biện pháp phòng vệ quá mức cần thiết,

không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại dẫn

đến phạm tội. Trong khi đó chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh (Điều 125) không xuất phát từ động cơ phòng vệ khi

thực hiện hành vi giết người.

- Nạn nhân của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng phải là người có hành vi bất hợp pháp xâm phạm lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, lợi ích chính đáng của con người.

* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

32

với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (Điều 104)

Nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành về hai tội phạm này cho

thấy, bên cạnh những điểm giống nhau, còn có một số điểm khác nhau cơ bản

sau đây:

- Mặc dù mặt chủ quan của hai tội này giống nhau vì đều là tội phạm

được thực hiện với lỗi cố ý, nhưng nội dung của sự cố này có khác nhau: cố ý

giết người là cố ý tước đoạt sinh mạng người khác; cố ý gây thương tích là cố

ý làm cho người khác bị thương chứ không muốn người đó chết, việc người bị

hại chết là ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

- Khách thể bị xâm phạm của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh là tính mạng con người; còn khách thể bị xâm phạm của tội

cố ý gây thương tích dẫn đến chết người là sức khỏe con người, mặc dù có

hậu quả chết người, nhưng người phạm tội không nhằm mục đích giết người

nên không phải là khách thể của tội này.

- Mặt khách quan của hai tội giống nhau ở hành vi nhưng lại khác nhau

về hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Hậu quả chết người của tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hậu quả do chính hành vi của

người phạm tội trực tiếp gây nên, ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác, nó

là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm; Hậu quả chết người ở tội cố ý

gây thương tích dẫn đến chết người không chỉ do hành vi của người phạm tội

gây nên, vì hành vi của người phạm tội không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn

đến chết người mà nạn nhân chết còn do những nguyên nhân khác.

* Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

điều 125 BLHS với trường hợp giết người được áp dụng tình tiết giảm nhẹ

khoản 1 Điều 51 BLHS

Căn cứ quy định của Điều 125 và khoản 1 Điều 51 BLHS, chúng ta

thấy cả hai trường hợp người phạm tội đều bị kích động về tinh thần di hành

vi trái pháp luật của người khác gây nên nhưng sự khác nhau cơ bản là mức

33

độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn nhân.

- Thứ nhất, về mức độ kích động về tinh thần: nếu như ở trường hợp

giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS)

người phạm tội phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp phạm tội quy định

tại khoản 1 Điều 51 thì người phạm tội tuy tinh thần có bị kích động nhưng

chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được hành vi của mình.

- Thứ hai, về mức độ của hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra

tình trạng kích động của người phạm tội: Nếu ở Điều 125 hành vi trái pháp

luật của nạn nhân phải là nghiêm trọng thì ở trường hợp phạm tội quy định tại

khoản 1 Điều 51 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm

trọng, hành vi trái pháp luật ở Điều 125 phải là của chính nạn nhân thì ở

khoản 1 Điều 51 không nhất thiết phải là hành vi của nạn nhân mà là hành vi

của bất kỳ người nào khác.

- Thứ ba, về đối tượng tác động của hành vi trái pháp luật: ở tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hành vi trái pháp luật của

nạn nhân phải đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm

tội nhưng ở khoản 1 Điều 51 thì không nhất thiết phải như thế.

Tiểu kết chương 1

Trong chương này, tác giả đã tiến hành khái quát hóa quá trình lập pháp

hình sự Việt Nam về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh, từ trước khi ban hành BLHS năm 1985 đến nay. Đi sâu phân tích làm

rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh, phân tích làm rõ khách thể, mặt khách quan, chủ thể

và mặt chủ quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh; đồng thời phân tích để làm rõ hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối

với tội danh này.

Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, tội giết người trong

34

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là xâm phạm đến tính mạng của người

khác một cách trái pháp luật, do người có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi

nhất định theo quy định của pháp luật. Nghĩa là không phải bất kỳ người nào

có hành vi tước đoạt tính mạng của người khác đều phải chịu TNHS về tội

giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Người thực hiện hành

vi tước đoạt tính mạng của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đòi hỏi phải thỏa

mãn các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm của tội giết người trong trạng

35

thái tinh thần bị kích động mạnh.

Chương 2

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ

KÍCH ĐỘNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

2.1. Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích

động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định

2.1.1. Khái quát lý luận về định tội danh tội giết người trong trạng

thái bị kích động mạnh

Định tội danh là giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự.

Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý quan

trọng. Nó thể hiện việc đánh giá chính trị- xã hội và pháp lý đối với những

hành vi nhất định; loại trừ việc truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai, là cơ sở

quan trọng cho việc quyết định hình phạt, cơ sở cho việc xác định các thủ tục

tố tụng và giúp cho việc đánh giá chính xác tình hình tội phạm để có biện

pháp phòng ngừa phù hợp, có hiệu quả.

Có hai hình thức định tội danh; một là, định tội danh chính thức do

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có liên quan thực hiện

trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện việc buộc tội, bào chữa hay xét

xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lý; hai là, định tội danh không chính

thức do các nhà nghiên cứu thực hiện nhằm thể hiện quan điểm khoa học,

nhận thức của người định tội và không làm phát sinh hậu quả pháp lý.

Việc định tội được thực hiện nhằm đi đến các quyết định hành vi được

thực hiện có cấu thành tội phạm hay không, xác định tội danh và khung hình phạt

đối với hành vi phạm tội. Trong đó, BLHS là văn bản pháp luật duy nhất quy định

tội phạm và hình phạt, là cơ sở pháp lý duy nhất của định tội danh. Khi định tội

danh người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm

36

để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không.

Về mặt lý luận, định tội là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp

giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện

với các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể tương ứng được quy định

trong Bộ luật Hình sự.

Cụ thể, việc định tội là một hành vi xác định một hành vi cụ thể đã

thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể nào đó trong

số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Đồng thời nó cũng hình

thức hoạt động, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy

hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các

quy phạm pháp luật hình sự. Định tội danh được tiến hành trên cơ sở các

chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự

để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội

được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy

định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác

tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân tích

hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.

Như vậy, CTTP được xem là cơ sở pháp lý duy nhất để định tội, là mô

hình pháp lý có dấu hiệu cần và đủ để xác định trách nhiệm hình sự đối với

người phạm tội. Vì thế chủ thể định tội cần nhận thức đúng bản chất các dấu

hiệu CTTP trong quá trình định tội làm tiền đề cho việc xác định khung hình

phạt và quyết định hình phạt được chính xác, đảm bảo việc xét xử đúng người,

37

đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

2.1.2.Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích

động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định

Bảng 2.1. Tổng số vụ án, bị cáo Tòa án tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm từ

năm 2015 đến năm 2019

Tổng số vụ án, bị cáo Toà án cấp tỉnh đã xét xử

Năm

Số vụ án, bị cáo giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh

Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo

Tỷ lệ phần trăm(%) bị cáo giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh

Tỷ lệ phần trăm(%) vụ án giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh

82

212

0

0

0

0

2015

72

179

2

2

2,8

1,1

2016

61

152

1

1

1,6

0,7

2017

80

180

0

0

0

0

2018

85

167

0

0

0

0

2019

Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.

Qua nghiên cứu các bản án đã được Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét

xử các vụ án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn

tỉnh Nam Định, cho thấy các vụ án đều có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.

Điển hình là vụ án:

Bản án số 141/2017/HSST ngày 16/12/2017 của Toà án nhân dân tỉnh

Nam Định.

Hoàng Văn Thái tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh theo quy định tại khoản 1 điều 125 BLHS 2015.

Khoảng 12 giờ ngày 08/4/2016, Hoàng Văn Thái đang ở căn nhà do

Thái và bà Hoàng Thị Thu là vợ đứng tên tại 36 Hàng Tiện, thành phố Nam

Định, tỉnh Nam Định, thì Thu đi bàn công chuyện làm ăn về. Vì trục trặc

38

chuyện làm ăn, Thu đã gọi điện cho Hà Văn Lưu hỏi mượn tiền trước mặt

Thái. Quan sát cách nói chuyện của vợ,Thái nghi ngờ Thu có quan hệ tình

cảm với ông Lưu nên đã gặng hỏi Thu về mối quan hệ này. Thu không trả lời

thắc mắc của Thái nhưng lại lớn tiếng xúc phạm Thái không giúp gì được cho

công việc của Thu, đồng thời là gánh nặng về kinh tế trong gia đình và không

đối xử với Thu tốt như nhân tình của mình. Hai người xảy ra cãi vã. Khi ấy,

Thu đi vào phòng ngủ của Thái và Thu để lấy chiếc va li có đựng sẵn quần áo

và đồ dùng sinh hoạt của Thái chuẩn bị để đi du lịch ném vào người Thái

đang đứng ở cửa phòng ngủ.

Khi đó,Thái đã cầm chiếc bình hoa cạnh cửa phòng ngủ đập mạnh

xuống đất nhưng Thu vẫn tiếp tục chửi bới Thái. Khi Thu đi ra khỏi phòng

ngủ và đi tới cửa lớn tại phòng khách, Thái có lao đến, dùng tay tát vào má

trái của Thu. Thu lùi lại và định bỏ chạy nhưng Thái đã chạy theo. Khi tới

cổng có thấy sẵn chiếc cuốc buổi sáng Thái đi làm vườn, Thái đã cầm và

phang 03 nhát vào đầu, lưng và tay phải của Thu. Sau đó, Thái chạy ra đường

trước nhà hô hoán và nhờ sự giúp đỡ của người đi đường. Thu được người

dân đưa đi bệnh viện nhưng đã chết trên đường đưa tới bệnh viện.

15h00 ngày 08/4/2016, Hoàng Văn Thái ra đầu thú tại Công an thành

phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 161-16/KLGĐ-PY ngày

12/05/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Nam Định kết luận:

“Mai Thị Thu chết do sốc mất máu cấp bởi đa vết thương đâm thủng động

mạch cảnh phải, phổi phải.Vết thương bị gây nên bởi vật sắc, bén, máu Mai

Thị Thu thuộc nhóm máu A”.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn Thái đã khai nhận hành vi phạm tội

như đã nêu. Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Văn Thái khai nhận như đã khai tại

cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm

chứng, phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y tử thi xác định nguyên

39

nhân chết của người bị hại Mai Thị Thu, tang vật thu giữ được và các tài liệu

chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định bị Hoàng

Văn Thái có hành vi dùng 01 cuốc có lưỡi dài 25cm, rộng 18cm, đâm vào người

chị Mai Thị Thu, cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của chị Thu.

Tại bản Cáo trạng số 266/CT-VKS-P2 ngày 13/6/2016, Viện kiểm sát

nhân dân thành phố Nam Định đã truy tố: - Bị cáo Hoàng Văn Thái về tội

“Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều

125 của Bộ luật hình sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 125 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng

Văn Thái: 06 tháng tù giam. Nhận thấy việc Tòa án nhân dân thành phố Nam

Định xét xử đối với các bị cáo về mức án, điều khoản áp dụng hình phạt là

đúng và phù hợp với pháp luật.

Bản án số 72/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Toà án nhân dân tỉnh

Nam Định.

Vũ Thị X, sinh năm 1956 sống cùng chồng là ông Lê Văn T, sinh năm

1957 tại nhà riêng Thôn 9 T, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định. X và ông T có

với nhau 4 người con, hiện các con đã lớn đi xây dựng gia đình riêng. Ông T

làm thợ xây còn X thì chỉ quanh quẩn ở nhà không có việc làm, ông T cho

rằng X không chịu đi làm kiếm tiền nên giữa ông T và X thường xảy ra mẫu

thuẫn đánh chửi nhau. Từ năm 2007, ông T thường xuyên chửi bới thô tục,

nhiều lần dùng chân tay đấm đá X. Có lần ông T cầm dao đuổi đánh X nên X

phải chạy sang nhà hàng xóm. Nhiều lần chính quyền địa phương đến hòa giải

nhưng ông T vẫn chửi bới đánh đập X, khoảng thời gian trước khi xảy ra vụ

án ông T liên tục đánh X. Ngày 23/2/2017, X đã điện thoại cho Lê Văn Tr

(con trai X) đang làm nghề xây dựng tại thành phố Bắc Ninh xin ra Bắc Ninh

nấu cơm cho thợ do không chịu được việc bị đánh đập, nhưng Tr không đồng

ý (BL126 - 127, 93 - 94).

Khoảng 19h30 ngày 26/02/2017, ông Lê Văn T đang ngồi uống nước

40

trong gian phòng khách của gia đình, thì X từ dưới bếp đi lên. Ông T lại chửi

X vì X không đi làm kiếm tiền rồi dùng chân tay đấm, đá, tát vào mặt X, X

chạy ra phía cửa nhà rút then đẩy cửa để chạy ra thì ông T đuổi theo dùng hai

tay bóp vào cổ X khoảng 3 phút thì X mềm người sụp xuống nền nhà. Ngay

sau đó, T tiếp tục dùng 2 tay túm tóc và đập đầu X xuống nền nhà làm X nằm

gục ngay tại chỗ. Thấy X nằm dưới nền nhà, ông T đóng cửa ra vào rồi tắt

điện bỏ mặc X đi lên giường kê tại phòng khách nằm ngủ. Khoảng 15 phút

sau X ngồi dậy tựa lưng vào tường cạnh mép cửa ra vào. Ngồi khoảng 10 phút

thì ông T chửi X, bắt X lên giường nằm. X sợ quá đứng dậy rồi đi lên giường

nằm phía trong sát tường phía Bắc, còn ông T nằm phía ngoài giáp thành

giường phía Nam đầu giường quay hướng đông 3 ra giữa nhà. X nằm được

khoảng 5 - 10 phút, thấy trong người khó chịu nên miệng phát ra tiếng “Ực”.

Thấy vậy, ông T chửi “Đ. mẹ mày còn ực à” đồng thời ông T dậy chạy xuống

bếp lấy búa đinh bằng sắt (dài 30 cm, cán búa bằng sắt hình trụ rỗng đường

kính 3cm dài 25 cm) lên để ở đầu giường giáp thành giường phía Nam chỗ

ông T gối đầu và nói: “Mày ực lên một tiếng nữa, tao lấy búa đập mày chết

luôn, tao nói một là một, hai là hai”, sau đó ông T lên giường nằm tại vị trí

nêu trên. Khoảng 5 phút sau X cảm thấy người khó chịu nên ngồi dậy đẩy

màn ở đầu giường ra và nôn xuống đất, X lại kêu “Ực ực”. Đúng lúc X xoay

người, mặt hướng về phía ông T để chuẩn bị nằm xuống thì ông T ngồi dậy,

mặt quay đối diện với X, cách người X khoảng 40cm rồi tiếp tục chửi: “ Đ.

Mẹ mày còn ực à?”, đồng thời ông T dùng tay trái cầm chiếc búa ở vị trí nêu

trên vung búa chiều hướng từ dưới lên trên, từ trái sang phải vào người X, X

dùng tay phải co lại ôm mặt đỡ nên bị búa đập trượt qua cùi trỏ tay phải trúng

vào má phải. Khi ông T giơ búa lên trước mặt X tiếp tục đánh thì X dùng tay

phải nắm được cán búa và giật được búa khỏi tay ông T, đồng thời X cầm búa

giơ lên qua đầu đập mạnh 2 nhát liên tiếp từ trên xuống dưới, từ sau ra trước

vào phần đầu làm ông T ngã từ trên giường xuống đất, nằm sấp dọc theo

41

thành giường phía Nam, đầu quay hướng Đông vẫn động đậy và phát ra tiếng

nấc: “Ực … ực”. X cầm búa bước qua đầu giường phía Đông ra ghế kê sát

đầu giường đi trên mặt 2 chiếc ghế kê liền nhau rồi bước xuống đất đứng trên

đôi dép sục bằng nhựa của X ở ngay cạnh ghế kê mé ngoài sát đầu giường

ngay phía trên đầu ông T. Sau đó X khom người tiếp tục cầm búa bằng tay

phải giơ lên qua đầu đập liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu và vai ông T (X

không xác định được đã đập liên tiếp bao nhiêu nhát búa). Khi thấy ông T đã

nằm bất động, phần đầu ông T chảy nhiều máu thì X hoảng sợ vứt chiếc búa

xuống nền nhà cách đầu ông T khoảng 50 cm rồi chạy qua cửa sang bếp ra khỏi

nhà và chạy sang nhà con trai là Lê Văn Tr ở cùng thôn (BL 92, 103 - 106).

Khi đến cổng nhà Tr do biết Tr đi làm xa nên X gọi Trần Thị H (Vợ Tr)

ra mở cổng, X kể với H việc bị ông T đánh và việc giật búa đánh lại ông T sau

đó bảo H chở đi trạm xá khám. Ngay sau đó, H điện thoại báo cho chồng là Lê

Văn Tr và chị T (Vợ Lê Văn H anh trai Tr) rồi lấy xe máy chở Vũ Thị X lên

trạm y tế xã Yên Lộc. Tại đây X được ông Hoàng Văn Đ – Trạm trưởng trạm y

tế khám, ông Đằng thấy trên mặt X có vết bầm tím, không có dấu hiệu chấn

thương vùng đầu nên đã bán thuốc cho X về uống tại nhà (BL113-115,133-134).

Lê Văn Tr điện thoại nhờ anh họ là Lê Văn S (sinh năm 1976, ở Đội

10, xã Y, Y, Nam Định) đi xem tình hình. Khi xuống đến nhà ông T, anh S

mở cổng và gọi nhưng không có ai trả lời, sau đó anh S đi vòng lối cửa bếp

lên và đứng ở mép cửa từ nhà xuống bếp dùng đèn xe máy soi thấy máu chảy

lênh láng ra nhà, thấy vậy anh S hô lên đồng thời chạy ra gọi ông Lê Văn L

(là em trai ông T nhà ở gần đấy) đến. Khi ông L và anh S đến bật điện trên

nhà lên thì nhìn thấy ông T nằm sấp trên nền nhà bất động, phần đầu chảy

máu lênh láng trên nền nhà có rất nhiều máu chảy ra, nhìn kỹ thì thấy có cả óc

phun ra, cách đầu ông T khoảng 50cm có 01 chiếc búa bằng kim loại có dính

máu. Nhận thấy ông T đã tử vong nên mọi người báo tin chính quyền địa

42

phương (BL135 - 138).

Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam

Định đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng tổ chức khám nghiệm

hiện trường, khám nghiệm tử thi và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập

tài liệu, chứng cứ. Kết quả xác định:

Khám nghiệm hiện trường (BL12-13):

Hiện trường xảy ra vụ án tại nhà mái bằng 1 tầng quay hướng Nam,

đang sửa chữa mặt ngoài hiên của gia đình ông Lê Văn T tại Đội 9 T, xã Y,

huyện Y, tỉnh Nam Định. Nhà ông T có 2 phòng, phòng khách phía Tây và

phòng bếp phía Đông.

- Phòng khách xây bằng gạch có cửa ra vào 2 cánh bằng gỗ mở ra ngoài

trong trạng thái khép. Trên tường phía Nam có 2 cửa sổ, mỗi cửa 2 cánh gỗ

trong trạng thái đóng. Tại góc Nam tường phía Đông có 1 cửa gỗ 1 cánh mở

ra ngoài đi sang phòng bếp. Tại tường phía Đông Bắc có 1 bộ bàn ghế, tại

tường phía Bắc phía trên bàn nước có 1 bàn thờ. Tại góc tường phía Tây Bắc

có 1 giường ngủ KT (2 x 1,5 x 0,43)m, trên giường có 2 chăn, 2 gối, mắc màn

tuyn màu trắng, phần dưới góc Đông Nam màn tuyn có bám dính nhiều máu.

- Trên nền nhà ngay dưới thành giường phía Nam là tử thi ông Lê Văn T,

tử thi nằm úp dọc theo thành giường, mặt tử thi quay hướng Bắc, đầu tử thi

hướng Đông cách tường phía Đông 3m, cách tường phía Tây 2,1m. Chân tử thi

hướng Tây cách tường phía Tây 0,6m cách tường phía Nam 2,1m. Dưới bụng và

2 chân tử thi quấn chăn len nhiều màu. Trên nền nhà dưới tử thi có đám máu

dạng vũng không rõ hình kích thước (3,5 x 1)m, đám máu chảy loang theo

hướng từ Bắc đến Nam, hơi chếch từ Tây đến Đông loang ra cửa chính và kết

thúc ở hiên. Xung quanh đám máu gần vị trí đầu tử thi rải rác có các giọt máu

bắn thành tia trên nền nhà diện (2,3 x 2)m. Trên trần nhà, tương ứng với vị trí

đầu tử thi và đầu giường góc Đông Nam có bám dính đám màu nâu đỏ.

- Cách đầu tử thi về hướng Đông Nam 0,43m có 01 búa sắt dài 0,3m,

43

cán búa bằng sắt, hình trụ rỗng đường kính 03cm, dài 25 cm. Đầu búa hình

khối dài 10 cm, tiết diện (4 x3)cm, búa cách tường phía Đông 2,36m, trên búa

có nhiều vết màu nâu đỏ nghi máu. Ngay sát đầu giường phía Đông trên nền

nhà có đám chất nôn KT (10 x 7)cm, đám chất nôn cách tường phía Bắc 0,3m.

- Sát tường phía Tây về hướng Nam có tủ gỗ trên tủ để ti vi loa đài, mặt

tủ phía Đông rải rác có bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun bắn. Bề mặt

tường phía tây trên tivi, loa, đài rải rác bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun

bắn chiều hướng từ dưới lên trên, trên diện (2 x 1,5)m. Trên tường phía Nam

rải rác bám dính chất màu nâu đỏ dạng phun bắn chiều hướng từ dưới lên

trên, trên diện (2,4 x 1,9)m. Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan

CSĐT đã thu giữ chiếc búa bằng kim loại có đặc điểm nêu trên để phục vụ

yêu cầu điều tra, xử lý vụ án. Khám nghiệm tử thi (BL10-11): Các dấu vết tổn

thương trên cơ thể:

- Vùng trước và sau vành tai phải có đám rách dập da cơ kích thước

(6x4)cm.

- Vùng đỉnh thái dương trên vành tai phải 01cm có vết rách dập da cơ

kích thước (4x3)cm. Cách trên vết này 1,5cm có vết rách dập da cơ bờ mép

nham nhở kích thước (5x1) cm. Vùng chẩm gáy bên phải có 03 vết rách dập

da cơ bờ mép nham nhở đều có kích thước (3x1)cm.

- Phía dưới dái tai bên phải có vết rách dập da cơ kích thước (1,5x1)cm.

- Vùng thái dương đỉnh trái có đám rách dập da cơ bờ mép nham nhở,

lộ xương hộp sọ, tổ chức não kích thước (8x5)cm.

- Vùng chẩm trái trên vành tai trái 05cm có đám rách dập da cơ bờ mép

nham nhở lộ xương, tổ chức não kích thước (5x3)cm. Trên vết này 02cm có

vết rách da cơ kích thước (2x0,5)cm. Vùng chẩm gáy bên trái có đám rách

dập da cơ lộ xương hộp sọ, tổ chức não kích thước (5x4) cm.

- Trên vành tai trái, sau vành tai trái có vết rách da cơ kích thước

(3x1)cm. Phía sau vành tai trái có đám rách dập da cơ kích thước (3x1)cm.

44

Phía sau bả vai bên trái có vết trượt da, bầm tím, tụ máu kích thước

(12x10)cm. Phía sau bờ vai phải có vết trượt da, bầm tím kích thước (7x5)cm.

Vùng ngực, bụng, lưng, mông và 2 chi dưới không phát hiện dấu vết tổn tổn

thương. L đốt 2,3 ngón 3,4 bàn tay trái có vết trượt da cơ kích thước (3x2)cm.

Mổ tử thi:

- Rạch da vùng đỉnh chẩm thái dương trái:

+ Tụ máu dưới da vùng đỉnh chẩm thái dương trái KT

(20x15)cm, xương hộp sọ thái dương vùng đỉnh chẩm trái vỡ thành nhiều

mảnh nhỏ KT (15x7)cm. Dập nát toàn bộ tổ chức não, vùng đỉnh chẩm, thái

dương trái.

- Rạch da cơ đầu vùng đỉnh thái dương phải:

+ Tụ máu dưới da cơ đầu vùng đỉnh thái dương trái KT

(16x7)cm

+ Vỡ sập xương hộp sọ vùng thái dương bên trái KT(4x4)cm

+ Dập nát tổ chức não vùng thái dương bên phải.

- Hệ thống xương lồng ngực, xương tứ chi không bị dập gẫy. Khung

chậu vững.

Quá trình khám nghiệm tử thi, cơ quan CSĐT đã thu máu của nạn nhân

để phục vụ yêu cầu giám định. Bản kết luận giám định pháp y tử thi số

171/GĐKTHS ngày 03/3/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nam

Định kết luận: Nạn nhân Lê Văn T, sinh năm 1957 chết do chấn thương vỡ

xương hộp sọ, dập tổ chức não (BL14). Sáng ngày 27/2/2017, Cơ quan CSĐT

đã tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể Vũ Thị X tại UBND xã Yên Lộc,

huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (BL18). Kết quả xác định:

- Dưới mặt phải có vết bầm tím KT (4 x 2) cm.

-Dưới mũi có vết trượt da cơ KT (0,2 x 0,2) cm.

- Vùng má phải có nhiều vết trượt da cơ trên diện (12 x 7) cm, sưng

nề bầm tím KT (7 x 4) cm. Má trái có nhiều vết trợt da cơ nhỏ trên diện (7

45

x 5) cm.

- Môi trên bên phải trượt da màu tím KT (2 x7) cm. Mép phải trượt da

cơ KT (1 x 0,2) cm.

- Vùng trán thái dương trái có vết in ấn tụ máu KT (8 x 4) cm.

- Vùng cổ trước bên trái có đám bầm tím KT (9 x 4) cm.

- Mặt sau khuỷu tay phải có đám tụ máu trên diện (8 x 4) cm.

Ngay sau khi xem xét dấu vết trên thân thể, Cơ quan CSĐT công an

tỉnh Nam Định đã ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với Vũ Thị X để tiến hành điều

tra. Sau đó cơ quan CSĐT đã đưa Vũ Thị X đi khám vết thương tại bệnh viện

đa khoa công an tỉnh Nam Định để thu thập tài liệu trưng cầu Trung tâm pháp

y tỉnh Nam Định giám định thương tích của Vũ Thị X. Bản kết luận giám

định pháp y về thương tích số 31/17/TgT ngày 27/3/2017 của Trung tâm pháp

y tỉnh Nam Định (BL23), kết luận:

1. Dấu hiệu tổn thương chính qua giám định đối chiếu với Thông tư số

20/2014/TT - BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế:

- 01 vết thương rách da xây sát vùng má phải và các vết xây sát da chưa

thành sẹo kích thước Trung bình và nhỏ: 03% (Bảng 1, Chương 9, Phần I, mục 1).

- Vùng cổ bên trái có 4 vết xây sát da, kích thước lần lượt là: (2 x 2)cm,

(1,5x1)cm, (1 x 1)cm, (0,5 x 0,4)cm (giống dấu hiệu bóp cổ).

- Các vết sưng nề bầm tím không có tỷ lệ thương tích trong Thông tư số

20/2014/TT - BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng bộ y tế.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03% (Ba

phần trăm).

Về trách nhiệm dân sự:

Bố đẻ và các anh chị em ruột ông T đã uỷ quyền cho anh Lê Văn L (em

ruột ông T) đề nghị các cơ quan pháp luật không xem xét việc bồi thường dân

sự và đề nghị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với Vũ Thị

X (BL37,121). Riêng các con đẻ của bị hại uỷ quyền cho anh Lê Văn Tr (Con

46

trai ông T) đề nghị các cơ quan pháp luật không xem xét việc bồi thường dân

sự và có đơn đề nghị các cơ quan pháp luật xem xét giảm nhẹ một phần hình

phạt cho bị cáo Vũ Thị X (BL35, 127). Cáo trạng số 57/QĐ-KSĐT ngày

25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Vũ

Thị X về tội “Giết người” quy định tại khoản 2 điều 123 BLHS. Tại phiên

tòa: Bị cáo Vũ Thị X đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về

nguyên nhân nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo X dùng búa đập chết ông T

xuất phát từ việc ông T thường xuyên chửi bới, đánh đập X trong thời gian

dài, bản thân bị cáo không thể chịu đựng nổi cách đối xử của ông T với mình

cho nên đã giết ông T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định luận tội và thay đổi

quyết định truy tố đối với bị cáo X từ tội “Giết người” theo quy định tại

khoản 2 Điều 123 BLHS, sang tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS. Sau khi xem xét

đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ,

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng

khoản 1 Điều 125; điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo

Vũ Thị X từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp cho người bị hại không yêu

cầu giải quyết cho nên không đề cập xem xét. Ngoài ra còn đề nghị Hội đồng

xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Luật sư Phạm Hồng T đã

phát biểu quan điểm bào chữa đối với bị cáo và hoàn toàn nhất trí với quan

điểm truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tại phiên tòa

hôm nay. Tại phiên tòa bị cáo X đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người

đại diện hợp pháp cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy

đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự được quy định tại điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để

47

xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ

kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu,

chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, quan điểm bào chữa

của luật sư, TAND tỉnh Nam Định tuyên bố bị cáo Vũ Thị X phạm tội: “Giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Áp dụng khoản 1 Điều

125; Điểm e khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Thị

X 36 (Ba sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/02/2017.

Nhận thấy việc Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử đối với

các bị cáo về mức án, điều khoản áp dụng hình phạt là đúng và phù hợp với

pháp luật.

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định

2.2.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt đối với tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

- “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước

được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người

hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi

ích của người, pháp nhân thương mại đó” ( điều 30, BLHS).

Quyết định hình phạt (QĐHP) đối với tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp

luật hình sự thể hiện ở việc Toà án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể

được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để

áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội về tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Để làm sáng tỏ một cách đầy đủ hơn nội dung của khái niệm QĐHP đối

với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cần phải xác

định vị trí của QĐHP trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình

48

sự. Việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là một quá trình

phức tạp, nhiều mặt, được tiến hành qua những giai đoạn nhất định: giải thích

đạo luật hình sự; xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không gian và thời

gian; định tội danh; QĐHP, miễn TNHS và hình phạt; xoá án tích…

QĐHP đói với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá

trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá

trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết chỗ Toà án mới có

quyền QĐHP. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước

giao cho Toà án nhân dân, nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với

người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Toà án nhân

dân có quyền áp dụng hình phạt. Toà án căn cứ vào luật hình sự tuyên bố áp

dụng hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của nhà nước đối

với họ về việc thực hiện tội phạm là sự trừng trị người phạm tội.

QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là một hoạt động pháp lý Tố tụng hình sự, hay nói cách khác là một

dạng hoạt động của việc áp dụng luật hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý

nhất định.

QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là quá trình sử dụng kết quả điều tra, kết quả buộc tội, kết que thẩm

vấn, tranh luận; là quá trình đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cụ

thể với các dấu hiện của một cấu thành tội phạm cụ thể của tội giết người gắn

liền với đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định một loại

và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng

ngừa phạm tội.

Nội dung của QĐHP đối với tội giết người thể hiện ở chỗ Toà án lựa

chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật về tội

49

giết người để quyết định đối với bị cáo và xác định một mức hình phạt cụ thể

đối với bị cáo. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phải được

thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

và được công bố một cách công khai khi tuyên án.

Hình phạt do Toà án quyết định tuỳ thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ

án có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ, nhưng trong mọi trường hợp

bao giờ cũng phải đảm bảo đúng pháp luật, công bằng và cụ thể hoá.

QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi hình

phạt được quy định một cách chính xác và công bằng thì mục đích của hình

phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội,

ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác. Hình phạt được quyết định

quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện

sẽ sinh ra ở người phạm tội và những người khác thái độ xem thường pháp

luật, hình phạt được quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị án sự không tin

tưởng vào tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến

hành tố tụng. Cả hai tình trạng đó đều dẫn đến hậu quả là giảm ý nghĩa phòng

ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. QĐHP đúng đắn sẽ góp phần

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự và kỷ cương xã hội.

Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh

Căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do Luật hình

sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Toà án phải tuân theo khi

QĐHP đối với người thực hiện tội phạm. Căn cứ QĐHP, trước tiên là những

đòi hỏi được luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng. Đó là: các quy định của

BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm

tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.

Các căn cứ QĐHP là những đòi hỏi mang tính nguyên tắc vì đó chính

50

là biểu hiện, những đòi hỏi của các nguyên tắc QĐHP. Trên cơ sở nguyên tắc

QĐHP, nhà làm luật quy định những đòi hỏi cơ bản buộc Toà án phải tuân

theo khi QĐHP. Giữa các nguyên tắc QĐHP và căn cứ QĐHP có mối liên

quan hữu cơ với nhau. Chúng được thể hiện như những phạm trù cái chung và

cái riêng. Các nguyên tắc QĐHP là cái chung, các căn cứ QĐHP là cái riêng.

Các nguyên tắc QĐHP tồn tại ở các mặt này hay mặt khác của các căn cứ

QĐHP. Khi QĐHP, Toà án phải tuân thủ những đòi hỏi quan trong có tính

nguyên tắc sau: Căn cứ vào quy định của BLHS; cân nhắc tính chất và mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; cân nhắc thân nhân người

phạm tội, cân nhắc cái tính tiết giảm nhẹ và tăng năng TNHS.

Căn cứ vào quy định của các BLHS, tức là căn cứ vào các quy định của

phân chung và các tội phạm. Khi QĐHP đối với tội giết người, ngoài việc căn

cứ vào các quy định của phần chung BLHS, Toà án còn phải căn cứ vào các

chế tài của điều luật quy định đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh mà bị cáo đã thực hiện.

Khi QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh, Toà án phải cân nhắc tính chất của tội phạm đã thực hiện, tính chất

nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất

định, được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, trong

đó quan trọng nhất là ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những

quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại, tức là khách thể của tội phạm.

Để quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý, phù hợp với lỗi của

người phạm tội, ngoài việc xác định đúng hình thức lỗi, việc xác định rõ từng

loại lỗi trong mỗi hình thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định

mức độ hình phạt. Ngoài việc cân nhắc hình thức và lỗi, con phải xác định và

cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong những trường hợp phạm tội cụ thể.

Các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội cũng ảnh hưởng

51

đến mức độ lỗi, bởi những đặc điểm đó được thể hiện cụ thể ở lỗi của chủ thể.

Ngoài việc cân nhắc lỗi của bị cáo, còn phải xác định và cân nhắc cả

động cơ và mục đích của người thực hiện tội phạm. Trong thực tế, tội phạm

cụ thể được thực hiện những động cơ, mục đích rất khác nhau. Bởi vậy, Tòa

án kiểm soát định rõ tội phạm đó được thực hiện vì động cơ nào và phải nêu

rõ trong bản án.

Tóm lại, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một

trong những căn cứ quan trọng của việc QĐHP. Có nhiều loại tình tiết dấu hiệu

ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực

hiện. Bởi vậy, Tòa án phải cân nhắc tổng thể các tình tiết dấu hiệu đó mới đảm

bảo cho việc quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý đối với bị cáo.

Để có căn cứ đầy đủ cho việc QĐHP đối với tội giết người đúng pháp

luật công bằng hợp lý phù hợp với tội phạm đã thực hiện đã điều kiện cho

việc đạt được các mục đích của hình phạt theo luật. Ngoài việc cân nhắc các

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện Tòa án

phải cân nhắc thân nhân người phạm tội việc áp dụng đúng quy định này có ý

nghĩa cải tạo giáo dục và phòng ngừa rất lớn.

Khi QĐHP đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh không những chỉ cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

tội phạm đã thực hiện nhân thân người phạm tội mà còn phải cân nhắc các tình

tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự do đó cân nhắc các tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ của việc QĐHP

tức là một trong những điều kiện quan trọng của việc cụ thể hóa hình phạt.

Để có một phán xét và quyết định cụ thể về loại và mức hình phạt cần cần

tuyên, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải dựa vào ý thức pháp luật của

mình để có cái nhìn đúng đắn về nhân thân người phạm tội, các tình tiết chủ

quan và khách quan trong phạm vi chế tài tương ứng, chọn và quyết định một

loại mức hình phạt đúng pháp luật, công bằng, có khả năng lớn nhất để cải tạo,

52

giáo dục người phạm tội cũng như phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.

2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội Giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định

Qua nghiên cứu bản án sơ thẩm số 141/2017/HSST ngày 16/12/2017 và

bản án số 72/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Nam

Định, thấy rằng, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã có những nhận định

chính xác về nội dung vụ án, việc định tội danh cũng như quyết định hình

phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đầu tiên, đối với bị cáo Hoàng Văn Thái, nhận thấy hành vi phạm tội

của bị cáo Hoàng Văn Thái là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không những

giết chết người vợ của mình, gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân,

mà còn làm mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, xuất phát từ

quá trình chung sống gặp nhiều mẫu thuẫn và chưa có sự tôn trọng từ chính

người vợ của mình, cùng với hành động trong lúc xô sát, như một “giọt nước

tràn ly” khiến ông Thái bị kích động mạnh, dẫn tới hành vi thiếu kiểm soát.

Hành vi phạm tội của Hoàng Văn Thái đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu

thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1

Điều 125 BLHS năm 2015.

Thứ hai, với bị cáo Vũ Thị X, ban đầu, tại cáo trạng số 57/QĐ-KSĐT

ngày 25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo

Vũ Thị X về tội “Giết người” quy định tại khoản 2 điều 123 BLHS. Tại phiên

tòa: Bị cáo Vũ Thị X đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về

nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo X dùng búa đập chết ông T xuất phát từ việc

ông T thường xuyên chửi bới, đánh đập X trong thời gian dài, bản thân bị cáo

không thể chịu đựng nổi cách đối xử của ông T với mình cho nên đã giết ông

T. Như vậy, xét về nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội và các mặt cấu thành tội

phạm, Vũ Thị X Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên

tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn

53

diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, quan

điểm bào chữa của luật sư, TAND tỉnh Nam Định tuyên bố bị cáo Vũ Thị X

phạm tội: “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Áp dụng

khoản 1 Điều 125; Điểm e khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt

bị cáo Vũ Thị X 36 (Ba sáu) tháng tù.

Việc tuyên hai bị cáo Hoàng Văn Thái và Vũ Thị X của vụ án phạm tội

“Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” có thể thấy rằng

quan điểm xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đối với tội danh này là

tội có CTTP vật chất. Cả hai bị cáo đều có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ

độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận

thức, hành vi, có hành vi gây nguy hiểm cho tính mạng người khác, đồng thời

cố ý thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái bị cáo không còn nhận thức

được đầy đủ về hành vi của mình, nhưng không thuộc trường hợp mất khả

năng nhận thức, hành vi, trường hợp này không giống với người không có

năng lực hành vi hình sự như : mắc các bệnh tâm thần, thần kinh hay chưa đủ

độ tuổi. Tình trạng kích động của bị cáo lại do hành vi vi phạm pháp luật

nghiêm trọng của người bị hại với người phạm tội. Do đó, quyết định hình

phạt của người phạm tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

54

mạnh với hai bị cáo là hoàn toàn đúng căn cứ và pháp luật.

Tiểu kết chương 2

Bên cạnh việc định tội danh thì quyết định hình phạt sao cho phù hợp

với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng là một vấn đề cần

xem xét . Mục đích của hình phạt không chỉ mang tính răn đe mà còn mang

tính chất cải tạo , giáo dục người phạm tội. Khi quyết định hình phạt Toà án

cần có một phán quyết hợp tình , hợp lý trên cơ sở và trong phạm vi khuân

khổ của pháp luật thì mới phát huy hết hiệu quả của nó.

Thông qua quá trình phân tích lý luận về định danh tội, quyết định hình

phạt có thể thấy rằng lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt là cơ sở

về mặt lý thuyết cho việc vận dụng đúng các quy định pháp luật tại phần

chung , phần các tội phạm của BLHS giúp cơ quan xét xử là Toà án nhân dân

đưa ra quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật

Về mặt thực tiễn tại tỉnh Nam Định, quá trình điều tra, truy tố, xét xử

cho thấy vấn đề định tội danh còn có nhiều vướng mắc , việc quyết định hình

phạt trong quá trình xét xử của Toà án còn có những hạn chế do thiếu những

quy định, hướng dẫn của pháp luật hình sự. Quyết định hình phạt trong từng

trường hợp cụ thể còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt, xảy ra tình trạng có sự

chênh lệch về hình phạt giữa cơ quan Viện kiểm sát và Toà án, quan điểm

đường lối xử lý khác nhau do thiếu hướng dẫn cụ thể của luật khi áp dụng vào

thực tiễn . Do đó cần đề ra các yêu cầu và giải pháp để đảm bảo định tội danh

và quyết định hình phạt đúng đối với tội giết người.

Như vậy, để đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng với

tội giết người cũng cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến

55

hành tố tụng.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG

THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH

3.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt

Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

từ nay đến năm 2020 nhận định: Trong những năm qua, thực hiện các Nghị

quyết của Đảng nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian

tới, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo và

tổ chức thực hiện với sự quan tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và

sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi tích cực, chất lượng

hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh

tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả

đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc

nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, chính sách hình sự, chế định

pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng còn nhiều bất cập, cần được sửa đổi bổ

sung. Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang

đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp với tính

chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối

với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là

chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người đồng thời

phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu

56

tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Từ nhận định trên, Nghị quyết đề ra

mục tiêu: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, văn minh,

bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt đọng tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử

được tiên hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Thực tế thời gian qua, Nghị quyết

49- NQ/TW ra đời và đi vào thực tiễn đến nay nhưng so với mục tiêu nhiệm

vụ và phương hướng đến năm 2020 mà nghị quyết đã đặt ra thì kết quả mang

lại còn ở mức khiêm tốn.Chính sách pháp luật nói chung và các quy định của

Luật hình sự liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng

chưa được điều chỉnh kịp thời với yêu cầu của tình hình mới nên dẫn đến việc

áp dụng pháp luật chưa đúng. Từ đó, không chỉ xâm phạm đến quyền lợi hợp

pháp của con người, bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng xấu đến sự nghiêm minh của

pháp luật mà còn tạo ra những hệ lụy khác cho đời sống xã hội, làm cho niềm

tin công lý của nhân dân giảm, nên họ tự giải quyết bằng con đường bạo lực,

giết hại, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho nhau, ảnh hưởng xấu

đến an ninh trật tự. Chưa có sự cải cách mạnh về thủ tục tố tụng và mối quan

hệ phối hợp giữa ngành tư pháp trong phòng, chống tội phạm dẫn đến tiến độ

đấu tranh, xử lý án kéo dài làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung. Do các quy

định của pháp luật còn chung chung, nên đối với một tình tiết trong vụ án, các

cơ quan tiến hành tố tụng lại có những quan điểm giải quyết khác nhau,

không thống nhất từ đó dẫn đến những tồn tại yếu kém, thậm chí vi phạm

pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Chính sách hình sự của nhà

nước Việt Nam trong xử lý các tội phạm nói chung và các tội phạm thực hiện

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng luôn đảm bảo đường lối

xử lý tội phạm – “đúng người, đúng tội và đúng pháp luật” đồng thời “không

bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Theo đó,

chính sách hình sự về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích

57

động mạnh luôn có những thay đổi, hoàn thiện qua các thời kỳ. Người thực

hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường

hợp họ không còn hoàn toàn kiềm chế, điều khiển hành vi của mình. Tuy khả

năng nhận thức của họ vẫn còn nhưng bị hạn chế ở mức độ cao. Sự ức chế

mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là

nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Ngay từ đầu người phạm tội

đã không có ý định hay sự chuẩn bị công cụ, phương tiện cũng như các điều

kiện khác để thực hiện tội phạm mà chỉ khi có hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân gây nên sự kích động mạnh về tinh thần thì hành vi phạm

tội đó mới xảy ra. Do vậy, mà đối với loại tội phạm này không có gia đoạn

chuẩn bị phạm tội. Từ những tính chất, dấu hiệu trên mà mức độ nguy hiểm

của hành vi phạm tội cho xã hội của tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh thấp hơn tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần

bình thường. Nghiên cứu đường lối xử lý của tội tội phạm thực hiện trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu đường

lối xử lý chung và đường lối xử lý cụ thể. Trong thực tiễn xét xử, khi xác định

TNHS Tòa án xem xét tất cả tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

được quy định tại Điều 52 và Điều 54 BLHS năm 2015. Nhưng cần phải lưu ý

là: “các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ làm thay đổi

mức độ nguy hiểm trong một 61 khung hình phạt chứ không làm thay đổi tính

chất của tội phạm” và nếu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự đã được quy định là dấu hiệu định tội rồi thì không được coi là tình tiết

tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính tội đó nữa.Khi quyết định

hình phạt, Tòa án cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: khi xét xử phải

xem xét đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm của tội; chỉ áp dụng

hình phạt đối với người phạm một tội mà Bộ luật hình sự quy định; chỉ áp

dụng những hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự; không xử phạt

quá mức cao nhất của khung hình phạt; đối với hành vi xâm phạm tính mạng,

58

sức khỏe con người không được áp dụng hình phạt tiền dù đó là hình phạt

chính hay là hình phạt bổ sung vì hình phạt tiền sẽ gây tâm lý coi thường pháp

luật, coi thường tính mạng con người, gây rồi loạn trật tự xã hội.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua án lệ số số

28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” ngày

22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09

tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Vụ án như sau:

“Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 03-11-2016, Trần Văn C đang chơi

game ở quán Internet “Su Su” thuộc thôn 1A, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì

bạn là anh Nguyễn Hồng Q gọi điện thoại hỏi C đang ở đâu. Khi biết C đang

chơi game ở quán Internet, anh Q cũng đến và vào chơi ở máy số 6. Trong lúc

chơi game, anh Q nhiều lần đến chỗ C ngồi hỏi mượn tiền, nhưng C nói

không có tiền. Một lúc sau, anh Q đến chỗ C đưa 02 chiếc điện thoại di động

của mình nói C cầm cố đế mượn tiền, C vẫn không đồng ý nên anh Q bỏ về

chỗ của mình tiếp tục ngồi chơi game.

Khoảng 15 phút sau, anh Q đi đến chỗ C nói “Anh không tin em sao,

giúp em đi”, C trả lời “Anh không có tiền thật mà, mày làm ơn đi chỗ khác để

anh chơi. Anh Q chửi “Đ.M mày, nhớ mặt tao”. C nghe vậy không nói gì, anh

Q bỏ về chỗ máy của mình. Ít phút sau, anh Q đi đến chỗ C đang chơi game,

tay phải đấm mạnh 01 cái vào má trái của C làm chảy máu. Bị đánh, C tức

giận lấy dao Thái Lan có sẵn trên bàn giữa 02 máy vi tính, rồi cầm dao bằng

tay phải đứng lên ghế mình ngồi. Thấy vậy, anh Q lao đến, C dùng dao quơ

ngang qua lại trúng vào mặt anh Q làm chảy máu. Anh Q xông đến dùng hai

tay kéo C xuống ghế, sau đó anh Q dùng hai tay kẹp cổ C theo tư thế phần

đầu của C ở phía sau lưng anh Q, còn phần hai tay, thân người và hai chân

của C ở phía trước người anh Q. Bị anh Q kẹp cổ, C dùng tay trái nắm vào

phần hông bên phải anh Q, còn tay phải C cầm dao Thái Lan đâm 01 nhát

trúng ngực anh Q. Anh Nguyễn Hải Q1 đang chơi game thấy vậy chạy đến

59

giật con dao trên tay C vứt vào góc quán. Lúc này anh Q bị ngã xuống nền

nhà, sau đó C và một số người có mặt trong quán đưa anh Q đến bệnh viện

cấp cứu. Đến ngày 04-11-2016, anh Q tử vong. Ngay sau đó, C đến Công an

huyện K đầu thú.

Kết quả khám nghiệm tử thi anh Nguyễn Hồng Q ghi nhận: Vùng trán

trái phía trên lông mày có vết rách da hình khe, dài 0,7cm. Đỉnh mũi có vết

rách da hình khe dài 02cm, sâu 0,4 cm; cách vết này 03 cm tại môi trên có vết

rách da hình khe dài 02 cm. Mép phải có vết rách da hình khe dài 03 cm, sâu

0,8 cm. Ba vết rách da tạo đường thẳng không liên tục hướng từ trên xuống

dưới, từ trái qua phải. Ngực phải cách núm vú phải 3,5 cm về phía dưới, cách

đường giữa 09 cm có vết xây xát da nằm ngang hình khe dài 1,3 cm. Ngực

trái cách gót chân trái 120 cm, cách đường giữa 05 cm có vết rách da dài 2,5

cm, hở rộng 01 cm, nằm ngang hướng từ trái sang phải, từ trước ra sau, từ

ngoài vào trong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 714/QĐPY ngày 24-11-

2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Nguyên

nhân tử vong của anh Nguyễn Hồng Q là vết thương thấu ngực trái gây nên

thương tổn xuyên tim dẫn đến tim ngừng đập và mất máu suy tuần hoàn cấp

không hồi phục.

Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 113/PY-TgT ngày 04-01-2017

của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Trần Văn C bị chấn thương

vùng má trái với thương tích 02%.Trước khi xét xử sơ thấm, gia đình Trần

Văn C đã bồi thường cho gia đình người bị hại 95.000.000 đồng.”

• Nội dung án lệ: Bị hại là người gây sự, tấn công bị cáo trước. Hành vi

tấn công của bị hại diễn ra liên tục với mức độ tăng dần. Hành vi của bị hại là

trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể của bị cáo. Trong trạng thái bị

kích động dẫn đến mất khả năng tự chủ, không nhận thức hết được tính chất và

mức độ nguy hiểm của hành vi của mình, bị cáo dùng dao đâm vào ngực bị hại

60

là nhằm thoát khỏi sự tấn công. Do đó, có đủ cơ sở xác định Trần Văn C đã bị

kích động mạnh về tinh thần. Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn C về tội “Giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ” là có căn cứ.

Trong thực tiễn việc phân biệt giữa hai tội danh giết người và giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh rất khó, chủ yếu dựa vào

cảm quan đánh giá của Thẩm phán, vì vậy, khi xét xử các vụ án này vẫn còn

tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như trong vụ án nêu trên tại Bản án hình sự

phúc thẩm số 200/2017/HSPT ngày 10-8-2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại

Đà Nẵng cho rằng hành vi của Trần Văn C phạm tội giết người. Trong vụ án

nêu trên, có thể nhận thấy việc Nguyễn Hồng Q vô cớ đánh C đã gây ra sự

bức xúc, sau đó mặc dù C đã cầm dao đứng lên ghế đây như là một lời cảnh

báo cho Q biết nhưng bất chấp lời cảnh báo đó Q vẫn tiếp tục thực hiện một

chuỗi các hành vi như kéo, kẹp cổ những hành vi này đã tác động đến tinh

thần của C và việc dùng dao đâm Q là một phản xạ tự nhiên, mang tính tức

thời khi không còn cách nào khác để tự giải thoát cho bản thân khi rơi vào

tình huống này.

Nội dung Án lệ số 28/2019/AL là cơ sở để phân biệt giữa tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người./.

3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Bộ luật hình sự năm 2015 đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; đấu tranh chống và phòng ngừa tội

phạm; tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cho

đến nay Bộ luật hình sự hiện hành cũng bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập cần phải

sửa đổi, bổ sung; nhiều quy định của Bộ luật chưa đáp ứng được yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền và trong bối cảnh hội nhập quốc tế… Bên cạnh đó, trong

61

quá trình thực hiện, Bộ luật hình sự 2015 chưa hoàn toàn phù hợp với thực tế

khách quan, chưa thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương của Đảng

về cải cách tư pháp được thể hiện trong 2002 của Bộ Chính trị về “một số

nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian Nghị quyết số

08/NQ-TW” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị

về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” mà trong đó, một trong những

nội dung quan trọng theo yêu cầu cải cách tư pháp là:

Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự,

đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm

tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo

không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử

hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm.

Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội

phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới

xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và

hội nhập quốc tế.

Để xử lý tội phạm được đúng luật, để Bộ luật đi vào cuộc sống, phát

huy hiệu lực, hiệu quả thì luật thực định phải cụ thể, rõ ràng và phải được giải

thích kịp thời nhằm hạn chế tối đa khả năng phát sinh việc hiểu không đúng

và khả năng tạo cớ cho việc lạm dụng sự không rõ ràng của luật để làm sai.

Thêm vào đó, trước thực trạng các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh đòi hỏi việc xây dụng hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo

hành lang pháp lý vững chắc cho các cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có

hiệu quả cao. Do vậy, theo cá nhân tôi:

Thứ nhất, BLHS hiện hành chưa có Điều luật nào giải thích về “trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh”. Mặc dù, trong cấu thành cơ bản của tội này

có các cụm từ “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, song thế nào là trạng

62

thái tinh thần bị kích động mạnh? thì hiện có nhiều cách hiểu và đánh giá

khác nhau, dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất. Ngoài ra, pháp luật hình sự

hiện nay còn thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng, người thân thích, nếu chỉ quy định chung chung sẽ

dẫn đến hiểu sai và xét xử giữa các tòa án là khác nhau, việc định tội sẽ có

nhiều sai sót, không đảm bảo được mục đích xét xử đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật.Giống như các chế định khác trong BLHS như phòng vệ chính

đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ,... trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh cũng nên được giải thích chính thức trong một điều luật của Bộ luật

hình sự để làm rõ và xác định giới hạn của tinh thần bị kích động mạnh. Đồng

thời, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân cũng như về người thân thích của người phạm tội.Qua

những phân tích ở Chương 1 của luận văn, có thể xây dựng một điều luật ở

phần chung về thực hiện tội phạm trong trạng thái thần kinh bị kích động

mạnh. Cụ thể: Điều 125 Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh. Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là

trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ở trong tình trạng không hoàn toàn

tự chủ, tự kìm chế được hành vi của mình một cách tức thời do hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ.

Thứ hai là một vướng mắc nữa trong việc áp dụng Điều 125 và Điều

135 BLHS. Căn cứ vào bản chất của “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”,

hậu quả thực tế xảy ra là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt hai CTTP của các

tội trên. Tuy nhiên, theo sự mô tả của Điều 125 và Điều 135 trong BLHS năm

2015, chúng ta gặp khó khăn trong việc phân biệt chúng. Vấn đề này xảy ra

khi nghiên cứu CTTP cơ bản của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh (điều 125) và CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh (khoản 2 điều 135) vì cả hai CTTP đều chứa đựng hậu quả chết

63

người. Vấn đề vướng mắc ở đây chính là việc xác định yếu tố chủ quan - lỗi

của người phạm tội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội trong cả

hai trường hợp đều không nhận thức rõ về hành vi của mình có thể gây ra hậu

quả cụ thể nào (chết người hay thương tích/tổn hại sức khỏe) vì khi đó khả năng

nhận thức của họ đã giảm đi đáng kể. Do đó, việc xác định trường hợp nào là cố

ý đối với hậu quả chết người (giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh) hay vô ý với hậu quả chết người (cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn

đến chết người) là điều không khả thi. Vậy căn cứ vào đâu để chúng ta có thể

thấy được sự khác nhau tại Điều 125 và Điều 135 BLHS năm 2015?

Thứ ba, về hình phạt áp dụng cho khoản 1 Điều 125 và khoản 2 Điều

135 cần có sự chỉnh sửa cho tương xứng. Ngoài ra, hình phạt tiền là một trong

những hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình sự xong sự áp dụng

nó vào các điều luật chưa nhiều. Trong những trường hợp phạm tội ít nghiêm

trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội không cao thì b ên cạnh áp dụng các hình

phạt khác cần bổ sung áp dụng hình phạt tiền và việc áp dụng hình phạt tiền

đối với các tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không phải

là một ngoại lê. Cụ thể: Đối với trường hợp phạm tội tại khoản 1 Điều 135

“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với

người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…” [26, Điều 105,

Khoản 1] thì nên bổ sung lựa chọn giữa hình phạt tiền và hình phạt cải tạo

không giam giữ. Do vậy, theo chúng tôi có thể sửa đổi bổ sung Điều 125 và

Điều 135 Bộ luật hình sự 2015 theo hướng như sau:

Điều 125: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc

đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

64

05 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị

phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân

đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 06

tháng đến 03 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc

dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.

Thứ tư, Điều 125 BLHS quy định về tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh nhưng trong thực tiễn xét xử, tòa án rất ít áp dụng quy

định của điều luật này mà thường áp dụng điểm b khoản 2 Điều 135 BLHS.

Đây cũng là một thực tế cần phải xem xét trong quá trình áp dụng pháp luật.

Để khắc phục điểm vướng mắc khi áp dụng Điều 125 và Điều 135 BLHS, các

nhà làm luật có thể lựa chọn một trong hai cách sau: Một là, bỏ dấu hiệu hậu

quả chết người trong CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

(điểm b, khoản 2, điều 105 của BLHS năm 2015). Như vậy, điểm b, khoản 2,

Điều 105 của BLHS sẽ sửa đổi là: “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc trong trường hợp

đặc biệt nghiêm trọng khác”. Theo quy định sửa đổi đó, mọi hành vi tấn công

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà có hậu quả chết

người sẽ thỏa mãn CTTP tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh; nếu chỉ có hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe thì thuộc CTTP

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong

65

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.Hai là, vẫn để dấu hiệu hậu quả chết

người trong CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (điểm

b, khoản 2, điều 105 của BLHS năm 2015) nhưng phải có văn bản hướng dẫn

cụ thể về hậu quả chết người xảy ra ngay hay sau một thời gian thực hiện

hành vi phạm tội thì phải xác định như thế nào.

•Áp dụng án lệ vào hoạt động xét xử của Tòa án

Ngày 29/10/2015, TAND tối cao tổ chức họp báo công bố Nghị quyết

67 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về quy trình

lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.Việc áp dụng án lệ trong xét xử được

TAND tối cao kỳ vọng là bước đột phá để đảm bảo sự minh bạch của hoạt

động tư pháp. Việc án lệ được thừa nhận và vận dụng vào hoạt động xét xử

hiện nay sẽ kịp thời giải quyết những khó khăn , vướng mắc trong công tác

xét xử ; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất

lượng và hiệu quả công tác xét xử; từ đó góp phần bảo đảm Tòa án thực sự là

chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền

công dân. Đối với các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh thì việc áp dụng án lệ trong xét xử mang lại lợi ích rất lớn

đặc biệt với loại tội phạm này việc phân biệt các hành vi trong thực tế là

không dễ dàng vì nó phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của người phạm

tội. Nếu án lệ đối với tội phạm này được áp dụng tốt thì sẽ hạn chế được oan

sai, tránh làm oan người vô tội.

3.3. Nâng cao năng lực cán bộ áp dụng pháp luật về tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ những người tiến hành tố

tụng giải quyết vụ án có tình tiết phạm tội trong tình trạng thần kinh bị kích

động mạnh.

Việc áp dụng pháp luật đúng đắn trong công tác xét xử các vụ án phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong

66

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là vấn đề rất quan trọng. Có xét xử

đúng mới có điều kiện phát huy tính giáo dục, phòng ngừa của biện pháp xử

lý và mới có thể chỉ ra được nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm để

có kiến nghị xác đáng. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng có những bài

giảng, bồi dưỡng cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm những

kiến thức liên quan đến giải quyết vụ án có tình tiết phạm tội trong tình trạng

thần kinh bị kích động mạnh. Ngoài ra, Tòa án các cấp cần thường xuyên tổ

chức cho Thẩm phán và Hội thẩm nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của

Đảng và Nhà nước, nhằm quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng,

chống tội phạm trong tình hình mới. Nắm vững đường lối, phương châm xét

xử và những thông tư liên ngành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong

công tác xét xử nhất là việc định tội danh và những căn cứ cụ thể để quyết

định hình phạt; nguyên tắc vận dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... Đây là

những vấn đề cơ bản được quán triệt sâu sắc để đảm bảo cho việc xét xử các

vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người

khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được nghiêm chỉnh và đúng

pháp luật. Theo quy định tại Điều 184 BLTTHS năm 2003 thì bản án chỉ

được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, nhưng hiện

nay có một số nơi, ba ngành công an, kiểm sát, tòa án vẫn lợi dụng việc họp

trù bị để thống nhất với nhau trước về tội danh, về tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ TNHS và điều khoản của Bộ luật hình sự cần áp dụng rồi giao cho Tòa án

xét xử. Việc này đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa

án, xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của cơ

quan tư pháp nói riêng và nền công lý xã hội nói chung. Cần tiến hành xây

dựng Tòa án theo hướng đảm bảo cho Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật,

nhanh chóng, kịp thời và nghiêm minh. Thực hiện nghiêm túc nội dung nghị

67

quyết số 48/ - NQ/TW của Bộ chính trị “mọi quyết định của Tòa án phải căn

cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải được công khai để nhân

dân dễ tiếp cận, dễ hiểu..”,điều này có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh

phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh nói riêng.

3.4. Các giải pháp tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS về tội Giết

Thực tiễn áp dụng PLHS là phản ánh sự phù hợp của các QPPL hình sự

đối với đời sống xã hội, với một xã hội mà ở đó tình hình tội phạm nói chung và

tình hình tội phạm đối với một tội/nhóm tội cụ thể nói riêng có dấu hiệu suy

giảm rõ rệt; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm không nảy sinh dư luận

xấu, đồng thời được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, có nghĩa là các cơ quan

áp dụng pháp luật đã làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo vệ được

quyền lợi của công dân và Nhà nước trong xã hội đó, được xã hội đồng tình ủng

hộ. Điều đó cũng phản ánh một xã hội tiên tiến với ý thức pháp luật của cả xã

hội được nâng cao và với một nền pháp luật vững chắc được xây dựng ở một

trình độ pháp lý cao.

Tổng kết thực tiễn ADLPL là hoạt động của các cơ quan pháp luật, trong

đó chủ yếu là các cơ quan THTT, tổng hợp kinh nghiệm giải quyết vụ án hình

sự, tổng hợp việc áp dụng PLHS trong hệ thống các cơ quan THTT theo những

chủ đề nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Thông thường, đây là hoạt

động thực tiễn trong nội bộ cơ quan và nội bộ ngành, hoặc giữa các cơ quan liên

ngành với nhau theo khoảng thời gian mang tính chu kỳ và cách thức đều ổn

định (như hàng tháng, hàng quý, hàng năm...). Đây cũng có thể là hoạt động giữa

các cơ quan THTT trong nước với các cơ quan THTT quốc tế được diễn ra nhằm

tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS giữa các quốc gia sau những khoảng thời gian

nhất định cùng phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hình sự.

Trong hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS, các chủ thể tham gia

tổng kết nêu các kết quả và thành tựu đạt được thông qua quá trình áp dụng các

68

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

QPPL vào giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn như: Nêu các vụ án tiểu biểu,

điển hình; các đường lối xử lý vụ án hình sự đúng đắn và nhanh chóng; các văn

bản thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước (bản án, quyết định) có tính mẫu mực

và chính xác cao nhằm tuyên dương, đồng thời làm tấm gương, tiêu chí để các

chủ thể khác học tập và noi theo. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia tổng kết

thực tiễn áp dụng PLHS còn nêu những sai lầm, vướng mắc trong hoạt động áp

dung các QPPL vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự như: Nêu các vụ án oan

sai hoặc các vụ án có đường lối giải quyết sai lầm, chưa đúng đắn; các văn bản

áp dụng PLHS được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc lựa chọn sai quy

định của pháp luật để áp dụng trong giải quyết vụ án hình sự hoặc áp dụng

không đúng đối tượng; hoặc các vụ án hình sự quá thời hạn giải quyết theo quy

định của pháp luật.

Từ việc đánh giá hiệu quả các QPPL khi áp dụng vào giải quyết vụ án

hình sự, các chủ thể tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS tiến

hành đưa ra các đường lối giải quyết, khắc phục những sai lầm, vướng mắc; hoặc

đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có các biện pháp xem xét và ban hành

các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật cụ thể theo hướng sửa đổi, bổ sung,

giải thích các QPPL còn thiếu rõ ràng; hoặc hủy bỏ và thay thế bằng một văn bản

hướng dẫn áp dụng pháp luật mới cụ thể hơn.

Việc tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS giúp phản ánh được những vấn đề

chưa phù hợp của các QPPL hình sự khi áp dụng vào thực tiễn. Qua đó, nhà làm

luật sẽ phân tích và đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra

các giải pháp sửa đổi các QPPL hình sự sao cho tính phù hợp của các QPPL này

đối với thực tế được nâng cao hơn, đảm bảo tính khả thi cao của các QPPL hình

sự được đưa vào vận dụng để giải quyết vụ án hình sự.

Trong thời gian qua, các cơ quan THTT trên địa bàn Nam Định hàng năm

đều tiến hành tổ chức sơ kết 6 tháng và tổng kết năm, để đánh giá chất lượng,

hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự, đánh giá việc định tội danh các vụ án có

đảm bảo theo quy định không. Tuy nhiên, việc tổng kết ở một số ngành, địa

69

phương còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Do đó, cần tăng cường

công tác sơ kết, tổng kết cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao chất

lượng giải quyết án nói chung và bảo đảm định tội danh đúng.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cũng như thực tiễn hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc

giải quyết các vụ án hình sự nói chung và án giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh nói riêng trong thời gian qua, đánh giá những mặt đạt

được, những tồn tại và hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng pháp luật nên

trong những chương này tác giả tập trung đề ra các yêu cầu để việc định tội

danh và quyết định hình phạt đúng trong việc giải quyết vụ án giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh .

Từ các yêu cầu đề ra, tác giả đề xuất những giải pháp đảm bảo định tội

danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói

riêng . Đây là các giải pháp đồng bộ tác động vào những yếu tố ảnh hưởng

đến hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt trong việc giải quyết án

hình sự nói chung và giải quyết án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh nói riêng. Đồng thời các giải pháp này phải phù hợp với tình hình

địa phương và có tính khả thi để đảm bảo việc định tội danh và quyết định

hình phạt đúng trong việc giải quyết các vụ án giết người trong trạng thái tinh

70

thần bị kích động mạnh.

KẾT LUẬN

Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để

đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc

lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì trật tự an

toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời pháp

luật hình sự còn góp phần chồng lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi

người có ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Nghiên cứu đề tài về “Các

tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo

Luật hình sự Việt Nam”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Việc phân tích

khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, các trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh cho phép chúng ta nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về

bản chất pháp lý của tội này, nhận thức đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cũng

như yêu cầu phải trừng trị nghiêm khắc và phòng ngừa đối với tội phạm này.

Phân tích làm rõ sự khác biệt giữa các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh với các tội phạm liên quan đến PVCĐ, phân biệt với

tình trạng bị kích động (Điều 46 Bộ luật hình sự) cho phép chúng ta nhận thức

rõ và đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cũng như đặc điểm pháp lý của loại tội

phạm này để tránh nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp dụng sai điều luật.

Các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một

trong những nhóm tội được quy định sớm trong pháp luật hình sự nước ta.

Các tội phạm này đã và đang diễn biến phức tạp, ngày càng có nhiều chiều

hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Thực tiễn xét xử các tội phạm thực

hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không ít Tòa án còn gặp

những vướng mắc, lúng túng và không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống

nhất các quy định của pháp luật hình sự trong hoạt động xét xử. Luận văn đã

phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội phạm thực

hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cho thấy những khó khăn

71

phức tạp trong thực tiễn áp dụng xử lý tội này, thấy rõ yêu cầu cấp bách cần

phải hướng dẫn, xử lý hoặc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật có liên

quan đến loại tội danh này. Đồng thời mạnh mẽ đưa ra những đề xuất, kiến

nghị về hướng dẫn và sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự liên quan đến các tội

phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để việc áp dụng

72

luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huy Anh (2002), “Phạm Văn Toản phạm tội giết người hay giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Tạp chí Toà án nhân dân,

Tòa án nhân dân tối cao, (11), tr.20-21.

2. Lê Cảm (1989), “Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc quyết

định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí

Tòa án nhân dân, (1), tr.24.

3. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự

(tập III), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

4. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần

riêng), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Ngọc Điệp (1997), 550 thuật ngữ chủ yếu trong pháp luật hình

sự Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh.

6. Đỗ Đức Hồng Hà (2000), Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt

Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội.

7. Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

8. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (1986), Quyết định số 04-

HĐTPTANDTC/NQ ngày 29 tháng 11 năm 1986 Hướng dẫn áp dụng

một số quyết định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

9. Nguyễn Lân (2000), Từ điển Từ & Ngữ Việt – Nam, NXB TP.Hồ Chí

Minh.

10. Trần Nhật Linh (2011), Định tội danh đối với hành vi cố ý xâm phạm

tính mạng con người theo pháp luật hình sự hiện hành”, Luận văn thạc sĩ

luật học, trường Đại học TP. Hồ Chí Minh.

11. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh

73

dự, nhân phẩm của con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4

12. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

13. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB

công an nhân dân, HN.

14. Đinh Văn Quế (1992), Phần các tội phạm của Viện nghiên cứu khoa học

pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, NXB Pháp lý, Hà Nội.

15. Đinh Văn Quế (1994), Trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm

tính mạng, sức khỏe của con người, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

16. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội

phạm), Tập II, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội

phạm, tập 1, NXB TP. Hồ Chí Minh.

18. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự 1985, Hà Nội.

19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.

20. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, sửa đổi bổ sung 2009,

Hà Nội.

21. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam2015, Hà Nội.

22. Lâm Đức Tài (2010), Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh theo điều 95 BLHS. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa

luận tốt nghiệp, Hà Nội.

23. Toà án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ hình sự Việt Nam

tập 1, Hà Nội.

24. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Nghị quyết số 01/1998/NQ- HĐTP ngày

21/9 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp

dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác ngành Toà án, Báo cáo

74

của Toà án hình sự, Hà Nội. 5

26. Trịnh Quốc Toản (1999), Một số vấn đề lý luận về định tội danh và

hướng dẫn phương pháp định tội danh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

27. Trịnh Quốc Toản (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt

bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

tập I, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1992), Bình luận khoa học Bộ luật

Hình sự, NXB Pháp lý.

32. Viện ngôn ngữ học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm từ điển

ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt.

33. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của Phần chung Bộ luật

hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, NXB Chính trị Quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

34. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của Phần chung Bộ

luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

35. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

75

(Phần chung), NXB Giáo dục, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Biểu đồ 2.3a: Trình độ học vấn của người phạm tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Trình độ

Trình độ

học vấn

học vấn

của người

phạm tội

Tiểu học,

trung học cơ

45%

sở

Trung học

54%

phổ thông

Đại học

1%

Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.

Bảng 2.3b: Nghề nghiệp, thành phần tội phạm.

Nghề

Nghề

nghiệp,

nghiệp

thành phần

phạm tội

Lao động tự

63.73%

do

Không nghề

15.91%

nghiệp

Học sinh

sinh viên,

20.36%

công nhân

Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Nam Định.

76