BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN CỔN
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG CA THU BỒN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2002
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu: ................................................... 4
2. Giới hạn đề tài:............................................................................................... 5
2.1. Đối tượng khảo sát: ............................................................................ 5
2.2. Đối tượng nghiên cứu: ....................................................................... 5
3. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................... 5
3.1. Nhận xét mở đầu: ............................................................................... 5
3.2. Những nhận xét chung về Thu Bồn: .................................................. 6
3.3. Nhận xét về kết cấu, cốt truyện: ......................................................... 8
3.4. Nhận xét về cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình của trường ca Thu Bồn ..................................................................................................... 9
3.5. Nhận xét về hình tượng và ngôn ngữ ............................................... 11
4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 12
4.1. Phương pháp hệ thống: .................................................................... 12
4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp: .................................................... 12
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu: ...................................................... 12
4.4. Phương pháp xã hội học:.................................................................. 13
5. Đóng góp của luận văn: ............................................................................... 13
6. Kết cấu luận văn: ......................................................................................... 13
CHƯƠNG 1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN ... 15
1.1. Thời đại - nhà thơ ...................................................................................... 15
1.1.1. Thời đại ......................................................................................... 15
1.1.2. Nhà thơ .......................................................................................... 15
1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn: ....................................... 17
1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ ............................................................ 18
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ .............................................................. 34
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN ........................................................................................ 40
2.1. Cảm hứng sử thi trong trường ca Thu Bồn: .............................................. 40
2.2. Cảm hứng trữ tình trong trường ca Thu Bồn: ........................................... 51
CHƯƠNG 3. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN .......................................................................................................... 63
3.1. Không gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn: .................................... 63
3.1.1. Không gian thanh bình yên ả: ....................................................... 63
3.1.2. Không gian của miền đất đau thương mà anh dũng: .................... 66
3.1.3. Không gian mở rộng. .................................................................... 69
3.1.4. Không gian đưa tiễn, không gian thương nhớ: ............................. 72
3.2. Thời gian nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn .................................. 74
3.2.1. Thời gian lịch sử: .......................................................................... 75
3.2.2. Thời gian cá nhân .......................................................................... 77
CHƯƠNG 4. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRƯỜNG CA CỦA THU BỒN .......................................................................................................................... 81
4.1. Ngôn từ trong trường ca của Thu Bồn ...................................................... 81
4.2. Giọng điệu trong trường ca của Thu Bồn ................................................. 92
4.2.1. Giọng điệu kể, đối thoại: ............................................................... 93
4.2.2. Giọng điệu mang tính nhận định, khái quát, tổng kết một quá trình ................................................................................................................. 96
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 101
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, đặc
biệt những tác phẩm xuất bản trong những năm 70 là hiện tượng đáng chú ý của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Hầu hết những tác phẩm trường ca này viết về những sự kiện mang
tầm vóc lịch sử khác nhau, từ sự tích anh hùng của một người đến lịch sử chiến công
của cả dân tộc, nhưng tất cả đều mang hơi thở và nội dung lớn của thời đại. Đó là
những tình cảm thiêng liêng với nhân dân, đất nước, là sự hi sinh, cống hiến của cả
một thế hệ. Điều đó được phản ánh đậm nét trong văn học, đặc biệt là trong trường ca
của Thu Bồn. Trường ca của Thu Bồn chiếm một lượng lớn trong toàn bộ trường ca
viết về thời kì chiến tranh chống Mĩ. Bằng cảm xúc mãnh liệt, nhà thơ Thu Bồn đã làm
sống lại cuộc chiến tranh giàu chất sử thi của nhân dân ta qua những bản trường ca bất
hủ: Bài ca chim Chơ rao, Campuchia hy vọng, vách đá Hồ Chí Minh...
Đi vào tìm hiểu trường ca của Thu Bồn là đi vào thế giới những hình tượng (phụ
nữ, chiến sĩ, nhân dân, dân tộc...) trong những thời kì ác liệt của khói lửa chiến tranh.
Những hậu quả của chiến tranh, những triết lý về cuộc sống... đều được phản ánh sinh
động trong trường ca, tác động sâu rộng đến tâm hồn con người Việt Nam.Vì vậy
nghiên cứu trường ca của Thu Bồn là một việc làm cần thiết.
Xét về mặt thực tiễn giảng dạy hiện nay, thì các tác phẩm trường ca góp mặt rất
khiêm tốn trong chương trình PTTH, Cao đẳng và cả Đại học. Mặc đù vậy, việc nghiên
cứu trường ca nói chung và trường ca Thu Bồn nói riêng vẫn cần thiết đối với công tác
giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, phổ thông. Các đoạn trích trong các
trường ca như : Theo chân Bác của Tố Hữu, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa
Điềm, và đặc biệt là trường ca Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn... với chất trữ tình sâu
lắng, với âm hưởng sử thi hào hùng đã được giáo viên, học sinh, sinh viên phân tích,
nghiên cứu nhưng chỉ mới tìm hiểu ở những đoạn trích. Chính vì thế , việc nghiên cứu
một cách có hệ thống trường ca của Thu Bồn cũng góp phần không nhỏ vào việc giảng
dạy, cảm nhận trường ca. Thể loại trường ca đã được các nhà nghiên cứu phê bình tìm
hiểu khá sâu sắc: văn phong, cảm xúc chủ đạo, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nghệ
4
thuật trong trường ca của Thu Bồn ra sao, đã được nghiên cứu khá sâu trong nhiều
công trình của các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình văn học.Còn vấn đề quan niệm
nghệ thuật về con người; cảm hứng sử thi và trữ tình; thời gian và không gian nghệ
thuật; ngôn từ nghệ thuật……hầu như chưa được nhìn dưới góc độ tổng hợp trong
trường ca Thu Bồn.
Trường ca Thu Bồn vừa có giọng điệu thật riêng biệt vừa rất dễ hiểu, dễ nắm bắt
đối với mọi người. Điều đó mang đến cho trường ca tiếng nói mới mẻ, tươi trẻ...
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài "Đặc điểm của trường ca Thu
Bồn" để nghiên cứu, trên cơ sở tiếp thu kế thừa một số kinh nghiệm và kết quả của
những công trình đi trước.
2. Giới hạn đề tài:
2.1. Đối tượng khảo sát:
Xuất phát từ mục đích của đề tài đã đề ra, luận văn này tập trung nghiên cứu xem
xét, làm sáng tỏ những điều cơ bản xung quanh các vấn đề cụ thể như:
Những hình tượng nhân vật trong trường ca của Thu Bồn: hình tượng người
chiến sĩ, người phụ nữ…
Tính chất trữ tình và tính chất sử thi anh hùng trong trường ca của Thu Bồn.
Vài nét nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn: không gian và thời gian nghệ
thuật trong trường ca, ngôn từ, giọng điệu trong trường ca của Thu Bồn
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu toàn bộ trường ca của Thu Bồn: "Bài ca chim
ChoRao" (1964); "Vách đá Hồ Chí Minh" (1972); "Quê hương mặt trời vàng", "Chim
nàng chốt lửa" (1975); "Tiếng hú người DioLoa"; "Badan khát" (1977); "Oan 76
ngọn"; "Người gồng gánh phương đông"; "Hà Nội ngày nào"; "CamPuChia hy vọng"
(1979)
3. Lịch sử vấn đề:
3.1. Nhận xét mở đầu:
Trường ca là thể loại thơ có dung lượng đồ sộ, đề cập đến những nội dung lớn
lao, có tầm khái quát lịch sử và được viết bằng cảm hứng mãnh liệt. Chúng tôi tiếp cận
5
với những công trình nghiên cứu phê bình về trường ca của Thu Bồn để thấy rõ những
đóng góp của ông trong việc sáng tác trường ca: quan niệm về con người thể hiện qua
cách miêu tả nhân vật của tác giả, giá trị của từng trường ca. Qua đó chúng ta tiếp thu
có chọn lựa thành tựu của những công trình đi trước và vận dụng sự hiểu biết của bản
thân để khảo sát vấn đề: "Đặc điểm của trường ca Thu Bồn".
Là một tác giả viết nhiều trường ca nhất trong tất cả các nhà thơ Việt Nam, vì thế,
từ ngay trường ca đầu tiên (cũng là tác phẩm đầu tiên). "Bài ca chim Chơrao", cho đến
nay, đã có khá nhiều bài viết về sự nghiệp văn chương của Thu Bồn. Ta có thể phân ra
làm hai bình diện để khái lược lịch sử vấn đề. Đó là: những ý kiến chung về Thu Bồn
và những ý kiến riêng về trường ca Thu Bồn.
3.2. Những nhận xét chung về Thu Bồn:
3.2.1. Về phong cách thơ Thu Bồn, Nguyễn Trọng Tạo trong Thương nhớ Thu
Bồn - Hà Đức Trọng có nhận xét khá sắc nét: "Thơ văn anh có thể ví với dòng sông
đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo gọi... Ngòi bút anh cắm sâu vào những đề tài mang
tính anh hùng ca, nhưng cũng chan hòa máu lệ trong những bi thương đau khổ của
kiếp người" [37, tr.790]
3.2.2. Ngô Thế Oanh trong Người hiến mình trọn vẹn cho thơ đánh giá: "Trong
những nhà thơ đương đại, Thu Bồn là một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ tình
say đắm nhất" [38,tr.738].
3.2.3. Thanh Thảo trong Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng cho rằng: Thu
Bồn "là thi sĩ của tình yêu cuồng nhiệt với cuộc đời... Về sáng tác, phần bản năng là
phần mạnh nhất trong tác phẩm của Thu Bồn". Thanh Thảo cũng cho rằng: Chính vì
Thu Bồn "quá lo âu để phần ý thức sáng rõ can thiệp" khiến "bản năng nghệ thuật"
không dẫn dắt được cảm xúc tạo nên điểm yếu trong nhiều bài, nhiều đoạn thơ của
Thu Bồn. Nhưng, cũng như Ngô Thế Oanh, Thanh Thảo khẳng định: "Anh xứng đáng
là một trong những cánh chim Chơrao đầu đàn của Văn học chống Mỹ" [51, tr.551].
3.2.4. Trung Trung Đỉnh trong Tráng sĩ hề...dâu bể có một nhận xét khá khái quát
về phong cách thơ Thu Bồn: "cái dâu bể sâu nặng ân tình với đồng đội, nhân dân, Tổ
quốc, chính nó đã tạo nên vẻ đẹp thơ ông, cái đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian
nan khúc khuỷu vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn" [37, tr.529] và "Thơ Thu Bồn
6
hiện đại ngay cả trong cảm xúc" và khẳng định: "ông là nhà thơ hàng đầu trong số
đông đảo các nhà thơ thời chống Mỹ" [37, tr.544].
3.2.5. Vũ Khoa trong Bay và hát cùng Bài ca chim Chơrao cũng đánh giá: "Thu
Bồn là một nhà thơ viết nhiều trường ca nhất và thành công nhất của dòng văn học
cách mạng trong chiến tranh chống Mỹ xâm lược"; Vũ Khoa cũng cho rằng: "Có nhiều
nhà thơ hiện đại viết trường ca, nhưng chất tráng ca trong trường ca thơ thì chỉ có Thu
Bồn" [37,tr.607].
3.2.6. Huỳnh Như Phương với bài Những bài thơ viết dưới trời sao, đăng trên
Tuổi trẻ Chủ Nhật có nhận xét: "Những bài thơ đầy chất sử thi và mang dáng vẻ trầm
mặc của Thu Bồn như là được viết ra dưới một bầu trời đầy sao. Thiên nhiên khoáng
đạt đã có thể góp phần làm cho con người điềm tĩnh hơn sau những khổ đau. Càng
hiển nhiên là vậy khi tâm hồn người phiêu lãng đã tìm được bến đỗ. Mà nói cho cùng,
có người phiêu lãng nào lại không đến lúc quay về bến đỗ của đời mình, dù đôi khi chỉ
là một bến đỗ tượng trưng nào đó..." [40, tr.26]
3.2.7. Tác giả Ngô Thế Oanh nhận xét "Thu Bồn như dòng sông cuộn xiết":
"Trong các nhà thơ đương đại mà tôi được quen biết, ít ai bộc lộ tâm hồn trước người
khác thật thà như Thu Bồn. Những nhà thơ thựcsự là thi sĩ bao giờ cũng chân thành,
nhưng ở Thu Bồn tôi muốn dùng chữ thật thà. Ông bộc lộ trước ta cả niềm vui lẫn nỗi
đau không một chút dấu diếm" [39, tr.10]
3.2.8. Nguyễn Thị Liên Tâm trong cuốn Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn (2002): "Đặc
điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ" xem xét trường ca ở góc độ thể
loại và trên bình diện tổng hợp nhiều mặt của vấn đề. Trong đó tác giả đã dành nhiều
phần, nhiều đoạn khảo sát về trường ca của Thu Bồn trong thế so sánh với các trường
ca của các tác giả khác. Tác giả đã có nhiều nhận xét sắc sảo, quan trọng về trường ca
Thu Bồn, nhất là các mặt: hình tượng nhân vật, cảm hứng sáng tác, ngôn từ,...
3.2.9. "Nhà thơ Thu Bồn trong lòng bạn bè" - tác giả Phạm Trung Thành Chung:
"Thu Bồn là người có cá tính mạnh luôn luôn sống hết mình, từ việc lo một bữa ăn đến
làm cái lán để ở, từ việc đi săn thú rừng đến việc gùi gạo, bổ củi, làm thơ... Trong thơ
của Thu Bồn, cái chất cuồn cuộn của trường ca dường như luôn luôn thường trực trong
từng câu từng chữ, kể cả trong những bài thơ ngắn, kể cả trong tiểu thuyết của Thu
Bồn..." - [19, tr.19]
7
Như vậy, đa số các bài nghiên cứu về Thu Bồn ở phần này chủ yếu là đưa ra
những đánh giá về phong cách thơ Thu Bồn, về chất văn hoá Tây Nguyên hùng vĩ,
phóng khoáng và văn hóa Quảng chân thành, bộc trực tạo nên phong cách thơ ông. Đa
số tác giả đều khẳng định vị trí đầu đàn của Thu Bồn trong thơ ca kháng chiến chống
Mỹ.
3.2.10. Phạm Tiến Duật trong "Người dựng lều trong đêm để viết" khẳng định:
"Thu Bồn là người có thành công và đi đầu trong số những nhà thơ làm trường ca của
ta" [37, tr.518].
3.2.11. Vĩnh Quang Lê trong "Thu Bồn sống mãi cùng nhịp sống trường ca"
khẳng định "bằng trường ca Chim Chơrao Thu Bồn đã mở đầu một thời đại mới của
trường ca" [37, tr.613].
3.3. Nhận xét về kết cấu, cốt truyện:
3.3.1. Trong cuốn "Thơ Việt Nam hiện đại"của các tác giả: Phong Lê, Vũ Văn Sỹ,
Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (xuất bản năm 2001),Vũ Văn Sỹ có bài "Trường ca trong
hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại" có bàn đến trường ca Thu Bồn. Thu Bồn gọi
kết cấu Bài ca chim Chơrao là kết cấu cốt truyện - liên tưởng. Câu chuyện được kết lại
từ thời hiện tại là cảnh tù ngục đến tra tấn và hành hình. Tất cả những gì mà người đọc
hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật đều thông qua lời ca trữ tình của họ.
Nhà thơ khẳng định "chỉ kết cấu theo kiểu đó mới diễn đạt được chủ đề",... "tự sự mà
không vân vi, kể lể". Đối với Thu Bồn, tư tưởng chủ đề của tuyến sự kiện quy định cốt
truyện: "Từ chủ đề của tuyến sự kiện tìm ra kết cấu cốt truyện thích hợp rồi mới huy
động tổ chức tài liệu, vốn sống và khuynh hướng hoá chúng. Không phải sự kiện lôi
mình đi mà phải kéo sự kiện vào tổ chức tác phẩm".
3.3.2. Nguyễn Viết Lãm có bài: "Bài ca chim Chơrao, một bản trường ca hay"
đăng trên tạp chí văn học số 5/1965.
Trong đó tác giả ca ngợi: "Bài ca chim Chơrao" của Thu Bồn vừa mang hình
thức trường ca, vừa mang hình thức truyện thờ. Trường ca, vì tác giả đã phát triển khá
sâu những tình cảm đẹp đẽ của nhân vật chính diện - và cũng chính ở lòng mình, đã sử
dụng rộng rãi phương pháp miêu tả nghệ thuật, sử dụng nhiều hình tượng cô đọng, đã
nhân cách hoá và cường điệu hóa hiện thực và đã phát huy óc tưởng tượng, để cho mơ
8
mộng chắp cánh bay xa. Trong nhiều trường hợp, trường ca không đòi hỏi phải có một
cốt truyện đầu đuôi trọn vẹn...
"Bài ca chim Chơrao" cũng là một truyện thơ, vì tác giả đã kể lại một câu chuyện
có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc; nhân vật trong truyện được xây dựng rõ nét, có
hành động cụ thể, điều mà hình thức trường ca không đặt ra yêu cầu..." [31, tr.196-
209].
3.3.3. Nguyễn Trọng Tạo trong "Trường ca - cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của
người viết" cho rằng: "Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn được dư luận đánh giá cao
chính là do sự hấp dẫn của cốt truyện, số phận có tính anh hùng ca của nhân vật
[46,tr.118].
3.3.4. Hữu Thỉnh trong "Vài suy nghĩ" đánh giá sự chuyển biến về kết cấu của
trường ca Thu Bồn là: "Nếu như ở trường ca đầu, người ta thấy anh chú ý chăm chút
cho nhân vật, cốt truyện, thì trong các trường ca về sau, tính trữ tình đã dần dần chiếm
ưu thế".[52,tr.121]
3.3.5. Vũ Văn Sỹ trong "Một số đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam..." khái quát:
"Có thể nói, Thu Bồn là tác giả tiêu biểu viết trường ca theo kết cấu tuyến sự kiện
thông qua cốt truyện" [44, tr.172].
3.3.6. Nguyễn Đức Mậu trong "Tưởng nhớ Thu Bồn" nhận xét cụ thể về kết cấu
của trường ca Bài ca chim Chơrao được "viết theo lối truyền thống, có cốt truyện, có
nhân vật" [37,tr.653].
3.3.7. Bích Thu trong "Theo dòng văn học" nhận xét: "Thu Bồn đã sử dụng khá
thành thạo chất liệu đời sống Tây Nguyên để đưa vào tác phẩm. Bài ca chim Chơ rao
được kết cấu theo cốt truyện. Nhân vật xuất hiện và phát triển theo tuyến sự kiện trên
một môi trường, hoàn cảnh cụ thể. Kết cấu theo phương thức này, Thu Bồn có khả
năng xây dựng tình huống gay cấn dữ dội và đi sâu vào những tính cách phi thường
bằng bút pháp lãng mạn, khoa trương" [37, tr.859]
3.4. Nhận xét về cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình của trường
ca Thu Bồn
3.4.1. Nguyễn Trọng Tạo trong "Thương nhớ Thu Bồn - Hà Đức Trọng" có nhận
xét khá sắc nét: "thơ văn anh có thể ví với dòng sông đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo
9
gọi…" Ngòi bút anh cắm sâu vào những đề tài mang tính anh hùng ca nhưng cũng
chan hòa máu lệ trong những bi thương đau khổ của kiếp người" [37, tr.790]
3.4.2. Nguyễn Chiến trong "Chim Chơrao đến từ núi lạ" nhận xét: "Thu Bồn là
một hồn thơ dào dạt, cháy khát và nhiều nỗi niềm". Trên cơ sở đó, tác giả rút ra phong
cách thơ Thu Bồn: "có cái giọng hào sảng rất Quảng Nam. Hồn thơ Thu Bồn vút lên
như cánh chim Chơrao đến từ núi lạ. Điều quan trọng nhất ở anh là đã làm nên một cõi
Thu Bồn [37, tr.508-510]. Cũng ở góc nhìn văn hóa học, Vũ Khoa trong "Bay và hát
cùng Bài ca chim Chơrao" nói: "Chất thơ tráng ca trữ tình của Tây Nguyên, miền
Trung, xứ Quảng luôn là mạch thơ xuyên suốt" cuộc đời thơ Thu Bồn [37, tr.605]
3.4.3. Phùng Tấn Đông trong: "Thu Bồn qua sông Thu Bồn" cho rằng: giọng thơ
Thu Bồn nghiêng hẳn về tư duy nghệ thuật trữ tình trong thơ. Tính chất triết luận trong
thơ Thu Bồn nếu hiện diện cũng luôn nằm trong mạch trữ tình nhất quán" [37, tr.548]
3.4.4. Một trường ca về đề tài xây dựng kinh tế: "Ba-dan Khát"của Thu Bồn, tác
giả Đào Thái Tôn viết: "Với Ba-dan Khát, Thu Bồn không trực tiếp miêu tả cặn kẽ một
công trường hay một dự toán cụ thể nào về kinh tế. Anh trở lại dải đất Tây Nguyên đầu
năm 1976 để khảo sát một lần nữa dải đất thân quen này từ chiều sâu lịch sử, quá khứ
của nó; từ đó suy nghĩ về vấn đề kinh tế Tây Nguyên, với tầm nhìn và nhận thức hôm
nay. Làm như vậy, anh tạo cho mình được một thế chủ động, có được khoảng cách cần
thiết như người đứng ở trên cao nhìn được xa hơn, không bị ngợp trước những nét đơn
lẻ không toàn diện của cuộc sống; nhờ đó, trước một đề tài mới, anh vẫn có thể tạo ra
cho tác phẩm của mình một chủ đề có phần khái quát hơn: Nỗi khát khao đến bức bối
của vùng đất ba-dan từ ngàn đời nay mà suy cho cùng, chính là nỗi khát khao một
quan hệ, một phương thức sản xuất mới mà chỉ sau ngày toàn thắng ta mới có cơ sở
vững chắc để ước mơ, nhằm làm cho dân tộc Tây Nguyên: "đi thẳng từ nông nô đến
những lâu đài /mơ ước của con người bao thế kỷ /... đi thẳng đến con người / từ buổi
sơ khai" [56, tr.116].
3.4.5. Ngô Thế Oanh trong "Người hiến mình trọn vẹn cho thơ" nhớ lại:
"Thật khó nói hết ấn tượng mạnh mẽ và cảm động đến gần như có một chút gì
sửng sốt mà Bài ca chim Chơrao đã mang đến cho thơ Việt Nam vào nửa đầu những
năm sáu mươi của thế kỷ trước. Vì vẻ đẹp vừa rực rỡ vừa bi tráng. Vì là bản trường ca
10
đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến từ miền Nam máu thịt đau
thương" [38, tr.5]
3.4.6 Phùng Tấn Đông trong "Thu Bồn qua sông Thu Bồn" cho rằng "Thành công
của Bài ca chim Chơrao là đã kế thừa được về mặt nghệ thuật từ sử thi Tây Nguyên...
và trở thành trường ca của thời đại mới, ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân miền
Nam, ngợi ca người anh hùng của thời đại cách mạng" [37, tr.553].
3.4.7. Hoài Anh trong "Tìm hoa quá bước" có nhận xét: "Thu Bồn không đi theo
lối chuộng lạ, đưa nhiều hình ảnh kì quái kiểu exotique vào thơ, bên cạnh chất hùng
tráng, anh vẫn khơi được cái mạch trữ tình, nồng nàn thắm thiết [1, tr.417].
3.4.8. Phạm Huy Thông trong "Trường ca" đánh giá "Bài ca chim Chơrao hòa
lẫn thơ trữ tình với anh hùng ca" [53, tr.17].
3.4.9. Ngô Thế Oanh trong "Người hiến mình trọn vẹn cho thư":
"Cùng một lúc vang lên trong Bài ca chim Chơrao âm hưởng rực rỡ, bi tráng của
cá khan trường ca Tây Nguyên và sự mềm mại, tha thiết của những điệu hò khoan hát
ru trữ tình dọc những làng biển miền Trung quê hương tác giả". Tiếp theo là hàng loạt
trường ca của Thu Bồn... Tất cả đều mang hơi thở mạnh mẽ, sử thi, biên niên sử.
Những tác phẩm đã đưa Thu Bồn lên vai trò của một người dẫn đầu trong thể loại kiến
trúc tổng hợp của thơ ca, thể hiện được những tư tưởng chủ đề lớn, bao trùm những
tuyến nhân vật phức tạp, những ngôn ngữ phong phú" [38, tr.12].
3.5. Nhận xét về hình tượng và ngôn ngữ
3.5.1. Lại Nguyên Ân trong "Mấy suy nghĩ về trường ca" "Trữ tình và anh hùng
ca thường có ưu thế trong những mạch cảm xúc chủ đạo. Nhiều trường ca mang phong
cách lãng mạn táo bạo mà Bài ca chim Chơ-rao là một ví dụ. Thu Bồn nhấn mạnh tư
thế cao đẹp của hai chiến sĩ cách mạng - tư thế đứng cao hơn sự thực tò ngục và pháp
trường [3, tr.30].
3.5.2. Về trường ca Thu Bồn, ở mức độ khái quái hơn, Thanh Thảo trong "Đã
ngừng đập một cánh chim đại bàng..." đánh giá tổng thể phong cách trường ca Thu
Bồn như sau: "Tiếp nối truyền thống của những trường ca, những khan của các dân tộc
Tây Nguyên, trường ca Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn là một giọng thơ riêng, một
tiếng thơ riêng, quyết liệt, hào sảng, ngây thơ, dữ đội. Nó có đủ những phẩm chất
11
tưởng chừng đối nghịch, những đối cực của một thi pháp trường ca truyền thống cộng
với cá tính nghệ thuật riêng của Thu Bồn" [51, tr.549].
Từ những khái lược trên về lịch sử vấn đề, chúng ta thấy rằng các tác giả đi trước
nghiên cứu và đánh giá Thu Bồn chủ yếu là trên bình diện phong cách nghệ thuật một
cách tổng thể thơ ca của Thu Bồn (gộp cả trường ca và thơ ngắn). Một số bài viết có
đề cập đến trường ca thì cũng chỉ đi sâu phân tích giọng điệu, kết cấu, ngôn ngữ của
trường ca đầu tiên Bài ca chim Chơrao hoặc có cái nhìn tổng thể về sự vận động kết
cấu trong trường ca Thu Bồn. Chính vì vậy, chưa có một công trình nghiên cứu về toàn
bộ sự nghiệp trường ca của Thu Bồn.
Lấy đối tượng nghiên cứu là toàn bộ trường ca của Thu Bồn, qua phân tích và
tổng hợp rút ra các đặc điểm nổi bật của trường ca Thu Bồn trong cái nhìn đối sánh với
một số tác giả cùng thời để chắt lọc ra phong cách trường ca của Thu Bồn là một vấn
đề cần thiết nhằm khẳng định một cách thuyết phục nhất vị trí số một của Thu Bồn đối
với thể loại trường ca. Cũng là một hướng nghiên cứu cần thiết để đánh giá đúng vai
trò cá nhân của một tác giả trong việc định hình một thể loại văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp hệ thống:
Chúóng tôi xem trường ca Thu Bồn là một hệ thống các thành tố tư tưởng và
nghệ thuật. Do đó, chúng tôi sẽ khảo sát các thành tố nổi trội, có tính đặc trưng của
trường ca Thu Bồn, và chỉ ra mối quan hệ bên trong giữa các thành tố đó.
4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Chúng tôi phân tích các câu thơ, các hình ảnh nổi bật của các trường ca đó những
nội dung nổi bật trong tác phẩm hoặc để khám phá những khía cạnh cụ thể của từng
vấn đề, từng luận điểm. Cuối cùng đi đến khái quát đặc điểm nghệ thuật và nội dung
trường ca Thu Bồn.
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Chúng tôi so sánh trường ca Thu Bồn với trường ca của các nhà thơ khác để làm
nổi rõ những điểm tương đồng và dị biệt của trường ca Thu Bồn. Chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến những đặc điểm riêng của trường ca Thu Bồn để lấy đó làm căn cứ đánh
giá những đóng góp của Thu Bồn trong trường ca hiện đại Việt Nam.
12
4.4. Phương pháp xã hội học:
Nhà nghiên cứu Đào Thị Bình đã tổng kết "Trường ca hiện đại ra đời và phát
triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng đại, lớn lao" (tạp chí Giáo
dục số 26/2002).
Do đó, đứng trên quan điểm Macxit, chúng tôi đối chiếu những trường ca Thu
Bồn với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt mà chúng ra đời, nhằm thấy được sự phản ảnh của
thời đại vào thế giới tư tưởng nghệ thuật của trường ca Thu Bồn.
5. Đóng góp của luận văn:
Trong thời gian qua, có đoạn trường ca của Thu Bồn được đưa vào giảng dạy ở
các bậc học, nhưng như trên đã nói, mới ở dạng trích thơ. Giáo viên và học sinh xem
xét ở mức độ khái quát, quan niệm những trích đoạn này như một bài thơ dài, chưa tìm
hiểu phân tích một cách chi tiết, nên chưa thấy được những tư tưởng và cảm xúc chân
thành đồ sộ trong trường ca của Thu Bồn. Đó là sự chất chứa cả một dung lượng thông
tin lớn và chất tráng ca của một dân tộc anh hùng trong thời đại bão táp cách mạng.
Chính vì thế, trong luận văn này, chúng tôi đã đi tìm hiểu khá kỹ lưỡng, nghiên
cứu một cách có hệ thống về một số vấn đề như thời đại, hình tượng nhân vật và
những yếu tố nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn. Để thấy được Thu Bồn chính là
thủ lĩnh viết trường ca tác động và đóng góp quan trọng với các nhà thơ cũng như các
bạn đọc xa gần, thêm được một số vấn đề cho việc nghiên cứu và công tác giảng dạy
trường ca của Thu Bồn trong nhà trường hiện nay.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn này gồm có bốn chương:
Chương 1: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
1.1. Thời đại, nhà thơ
1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn
1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ
Chương 2: CẢM HỨNG SỬ THI VÀ TÍNH CẢM HỨNG, TRỮ TÌNH TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN
2.1. Cảm hứng sử thi trong trường ca Thu Bồn
13
2.2. Cảm hứng trữ tình trong trường ca Thu Bồn
Chương 3: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA
THU BỒN
3.1. Không gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn
3.2. Thời gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn
Chương 4: NGÔN TỪ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
4.1. Ngôn từ trong trường ca Thu Bồn
4.2. Giọng điệu trong trường ca Thu Bồn
14
CHƯƠNG 1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN
1.1. Thời đại - nhà thơ
1.1.1. Thời đại
Cuộc xâm lăng của Đế Quốc Mỹ là một thử thách khốc liệt và khủng khiếp chưa
từng có đối với dân tộc Việt Nam. Đó là một thử thách mà dân tộc Việt Nam ta buộc
phải chiến thắng, bởi nếu thất bại sinh mệnh dân tộc có thể không còn. Đối thủ của
chúng ta là một siêu cường về kinh tế, kỹ thuật và quân sự, trong khi dân tộc chúng ta
nhỏ bé, nghèo khổ, đất chật người đông, vũ khí thô sơ. Nhưng một dân tộc có truyền
thống văn hoá, tinh thần lâu đời, có truyền thống quật cường bất khuất, nghìn năm lịch
sử chống giặc ngoại xâm thì không thể chịu khuất phục một cách dễ dàng. Trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, người ta chứng kiến một không khí sống và chiến
đấu hào hùng, luôn dâng trào và đầy ắp trong tâm hồn mỗi con người yêu nước, và do
đó, không thể nào khác được, dâng trào trong trái tim mỗi nhà thơ. Cảm hứng về cái
thiêng liêng, cái anh hùng trở thành một cảm hứng chủ đạo trong văn học cách mạng.
Đó là cơ sở xã hội - lịch sử của sự ra đời của hàng loạt tác phẩm trường ca đặc sắc,
trong đó, đại diện tiêu biểu nhất là những trường ca của Thu Bồn.
1.1.2. Nhà thơ
Nhà thơ Thu Bồn vừa qua đời năm 2003. Ông để lại một gia tài văn học hết sức
đồ sộ về thơ: Bài ca chim Chơrao, Tre xanh, Mặt đất không quên, Quê hương mặt trời
vàng, Badan khát, Campuchia hy vọng, Người vắt sữa bầu trời, 100 bài thơ tình nhờ
em đặt tên, tôi nhớ mưa nguồn, trường ca tuyển tập... còn về văn xuôi có: Đánh đu
cùng dâu bể, Dưới đám mây màu cánh vạc, Hòn đảo chân Ren, Dòng sông tuổi thơ,
Đỉnh núi, Mắt bồ câu và rừng phi tiễn, Vùng pháo sáng, cửa ngõ miền tây,...
Thu Bồn tên thật là Hà Đức Trọng, sinh ngày 11 - 12 - 1935 tại Điện Thắng -
Điện Bàn - Quảng Nam. Mười hai tuổi tham gia thiếu sinh quân làm liên lạc. Ông có
một tuổi thơ hồn nhiên, gắn bó với kỷ niệm của quê hương. Năm 1945-1946, Thu Bồn
lúc đó mới 9-10 tuổi, là cậu bé khác tính anh trai, sôi nổi, bạo dạn, tham gia mọi tổ
15
chức trẻ con trong làng: hội giữ trâu, hội học trò, hội đánh nhau. Đi đâu, Thu Bồn cũng
có cái ná cao su thắt lưng quần, và trèo xoài hái trộm không có ai bằng. Thu Bồn cũng
thường ra chơi ở Mả Dứa, nơi khô ráo, sạch sẽ. Nơi đây đất thổ, người làm đồng
thường nghỉ khi từ đồng về, cả trâu bò cũng được nhẩn nha nhai lại, liu ríu mắt nhắm...
êm đềm và say đắm bao nhiêu câu hát dân gian. Hát kiến tạo, bài chòi, chọc ghẹo cũng
thường xuyên diễn ra ở đây , hầu như suốt trong năm, nhất là vào những ngày đạp xe
nước, xẽ trân ngày mùa...
Thu Bồn là một người con có hiếu trong gia đình, thương em. Ông thương mẹ
lắm, cứ mỗi lần gặp mẹ lại ôm mẹ khóc. Bên cạnh đó ông là một nhà thơ, là người
chiến sĩ chiến đấu hết mình cho Tổ quốc, viết cạn hồn thơ cho người đọc mai sau.
Thu Bồn yêu quê hương, yêu tha thiết nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Anh đã
từng khát vọng trở về "Hôn mảnh đất quê hương, hẹp như thể một con đường qua lại,
biển nhiều hơn là nước, một giọt tận trời cao, một giọt tận đất sâu". Trở về trên mảnh
đất ấy để làm cuộc chiến tranh giải phóng hằng mơ ước... (trích "Lá cỏ, đời xanh như
thể chẳng vì ai" - Nguyễn Trí Trung trong "Gói nhân tình" - Hoàng Minh Nhân biên
soạn - Nhà xuất bản Văn học).
Cũng chính vì thế, những tác phẩm của Thu Bồn đạt giá trị rất cao, tập trường ca
"Bài ca chim Chơrao" đã được Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tặng
giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Rồi niềm vui lại đến với Thu Bồn như lúa
được mùa: năm 1973, ông được nhận Giải thưởng quốc tế của Hội Nhà văn Á-Phi -
Giải thưởng Lotus cùng với những nhà văn Á-Phi được tặng giải Lotus như Tổng
thống Ănggola Nét tô, Katep Laxin (Angiêri), Gia Hia (Ấn Độ). Thu Bồn dược giải
thưởng người đọc thơ hay trong đêm thơ Á-Phi.
Rồi Thu Bồn có dịp sang Ấn Độ, ông tâm sự: "Mang vinh quang còn ấm tình
người tôi đến Ấn Độ. Thật không có gì tả nổi tấm lòng của những người dân Ấn. Các
nhà văn và các em thiếu nhi ra tận sân bay đón, choàng vòng hoa vạn thọ vào cổ chúng
tôi tượng trưng cho lòng mến khách…" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao và trái tim tôi
- Gói nhân tình - Hoàng Minh Nhân biên soạn).
Thu Bồn viết hơn hai mươi đầu sách, cả thơ và văn xuôi, "Thu Bồn sống và viết
gắn với hành trình mưu cầu độc lập, tự đo, khát khao hạnh phúc của nhân dân, đất
nước. Riêng mảng thơ, Thu Bồn là nhà thơ của những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ,
16
mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết nhỏ qua cách tổ chức câu chữ của anh luôn gây bùng nổ
cảm xúc, hiệu quả "lay lan" thường liên tưởng ở người đọc..." (Phùng Tấn Đông - Thu
Bồn qua sông Thu Bồn - Gói nhân tình - Hoàng Minh Nhân biện soạn).
Thu Bồn viết không ngừng nghỉ, tâm hồn bay đi hết nơi này nơi khác. Cứ nghĩ
rằng anh sẽ dừng nghỉ ở suối Lồ Ồ, nhưng không anh lại đi, lại trăn trở và lại sáng tạo
còn mãnh liệt hơn. Trong "Lá cỏ đời xanh như thể chẳng vì ai" trích "Gói nhân tình",
nhà văn Nguyễn Chí Trung có viết: "Như mây lang thang, Thu Bồn bay đi khắp núi
khắp làng. Cứ ngỡ rằng nhịp cầu cong và con đường thẳng, một đời đi đi mãi chẳng về
đâu. Nhưng cuối cùng Thu Bồn ghé lại suối Lồ Ồ. Tên con suối nghe xa như tiếng
thác, ở gần thành thị mà tưởng đâu như ở tận trên rừng. Anh bằng lòng dừng lại ở bến
này, ở con đò này. Phải chăng do anh chợt hiểu "Thế là hạ đã qua trong giây lát, giọt
thơ đã thánh thót thu vàng, chỉ còn là khát vọng mặt trời bóng xế". Không, anh đưa tay
quờ quạng. Ủa, "sửa soạn trở về lại hóa ra đi". Và anh lại đi, lại viết, cồn cào và mãnh
liệt:
"Phải ra đi vào những bài ca dang dở/ Với cây bút vượt qua cửa mở/ Sử sách
đoạn này ghi hết dưới bàn chân".
1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn:
Thực tế cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân, qua tâm hồn tài hoa và cảm hứng
anh hùng nồng cháy của nhà thơ, đã kết tinh thành hình tượng văn học sống động.
Một tác phẩm ra đời không thể thiếu những hình tượng. Và đằng sau những hình
ảnh cả một quá trình tìm tòi và khám phá không ngừng của người nghệ sĩ. Thu Bồn
với vai trò là một người nghệ sĩ thực thụ đã rất thành công khi tạo nên những hình
tượng tiêu biểu về người chiến sĩ cách mạng và người phụ nữ anh hùng.
Đến với trường ca Thu Bồn cùng lúc ta có thể cảm nhận được nhiều giá trị. Đó
có thể là giá trị hiện thực thể hiện qua các đoạn tự sự, tường thuật những sự kiện, diễn
ra trong những tháng năm con người sống đầy cam go và thử thách; đó cũng có thể là
cảm xúc trữ tình mãnh liệt, xót xa từ chính những yếu tố thật đến nao lòng; và rõ hơn
cả có lẽ là chất anh hùng của chính những đối tượng nhân vật được miêu tả. Đó là hình
ảnh anh bộ đội cụ Hồ kiên trung bất khuất xả thân vì nền tự do, độc lập của dân tộc; đó
là hình ảnh những người mẹ, người vợ, người chị, người em hy sinh tuổi xuân, chịu
17
nhiều thương đau vất vả, tảo tần mà trung hậu đảm đang gan dạ. Tất cả những điều đó
hội ngộ trong những bản trường ca của ông khiến người đọc không khỏi ngạc nhiên
xen lẫn niềm yêu thương, kính trọng đến bồi hồi xúc động.
1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ
Lịch sử dân tộc ghi dấu những chiến công hào hùng của nhân dân ta chống giặc
ngoại xâm. Cuộc kháng chiến với khẩu hiệu: "Toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực
cánh sinh" tự bản thân nó đã sản sinh ra những con người anh hùng.
Dưới ngòi bút của Thu Bồn - người cầm viết và cũng chính là người cầm súng,
hình tượng người chiến sĩ lại càng hiện lên sống động chân thật, những cảm xúc vàng
được thử lửa rực sáng, những nghĩ suy được phát khởi ở thời điểm khi "Dân tộc ta
mang trái tim chiến đấu" (Bài ca chim Chơrao).
Không ngẫu nhiên Thu Bồn lại chọn thể loại trường ca để sáng tạo. Còn thể loại
nào phù hợp hơn chăng để phản ánh hết cái hoành tráng, cái mãnh liệt hào hùng của
một thời vang dội khói lửa? Chất liệu anh thu thập được trả bằng mồ hôi công sức,
bằng máu, bằng sự anh dũng nhiệt tình của một trái tim người lính nên rất dễ hiểu khi
hình tượng người chiến sĩ của Thu Bồn lại gần gũi và, dễ thẩm thấu vào lòng người
đọc như thế. Có lẽ do nó khởi mạch không đơn thuần từ ngòi bút mà đã ngấm qua tim
tác giả như một dòng máu.
Hình tượng các anh được xây dựng rất chân thật. Các anh đến với cách mạng từ
lòng nhân dân, từ khắp mọi vùng miền của đất nước. Khác quê hương khiến mỗi người
lính mang trên mình một phong thái riêng nhưng lại gặp nhau ở điểm chung duy nhất
đó là lí tưởng và nhiệt tình cách mạng sục sôi.
Đến với bản trường ca "Bài ca chim Chơrao" ta bắt gặp hai người lính trẻ, hai
người lính có hai cái tên giản dị Hùng và Rin. Mỗi người có một xuất thân khác nhau
nhưng lại sát cánh trên cùng một chiến trường Tây Nguyên ác liệt.
Rin là người con đến từ chính mảnh đất Tây Nguyên "nắng tắm đẫm từng tấc đất
bazan" đã được Thu Bồn miêu tả qua những hình tượng thơ rất đẹp:
"Đêm ánh lửa hồng làm vui nóc nhỏ / Con dòng đòi ăn liến thoắng tối ngày /
Con chó vàng cụp đuôi sủa cọp / Lũ trai làng phóng giáo như bay..."
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
18
Cuộc sống thanh bình của lũ làng Tây Nguyên dưới ánh lửa đêm bập bùng hết
sức sống động. Những hình ảnh đẹp quê hương với "những con đường đi không dốc
rắn bò", "nai nhảy từng bầy trên đám cỏ non" đã ăn sâu vào khối óc của người lính trẻ
Tây Nguyên. Khi cuộc sống thanh bình trong tiềm thức của mỗi người đã trở thành
điều bình thường, thì chiến tranh đến với bộ mặt tàn phá, hủy diệt ác quỷ của nó đã trở
thành điều bất thường. Thời gian chiến tranh không kéo dài nhưng dư âm của nó thì
còn chấn động đến mãi mãi. Chiến tranh, ví như những trận bão, những cơn lũ của lịch
sử đi qua và quét sạch mọi cảm giác yên bình, gieo bất hạnh cho sự sống.
Rin đã cảm nhận nỗi đau, tai họa mà chiến tranh đổ ụp lên cuộc sống buôn làng.
Mang trong mình dòng máu Tây Nguyên, ngọn lửa căm thù giặc sục sôi và khát vọng
hòa bình, người con vùng cao nguyên đã đến với cách mạng thật tự nhiên như khi đói
ta cần cơm, khi khát ta cần nước:
"Lũ chúng nó một loài rắn độc
Làm dân ta khổ sở bao đời
Muốn tự do phải làm cách mạng"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Khác với người con miền ngược, người "dân tộc anh em" miền xuôi là Hùng.
Nếu Rin với quê hương có những đêm lửa bên chum rượu cần, bên điệu múa cồng
múa chiêng náo nhiệt mang âm hưởng miền núi thì Hùng lại đến từ "phía biển xanh,
nơi có chân trời sóng vỗ", có "Ngôi tháp chàm rêu phong cổ kính / Bầy dơi nghe động
bay vù / Con sư tử đá nằm lim dim ngủ / Rừng dừa xa thấp thoáng sương mờ" (Thu
Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Trong những năm tháng khói lửa chiến tranh ác liệt, hình như người lính nào
cũng ở trong tâm trạng đó: nhớ da diết những hình ảnh tươi đẹp của làng quê. Nhưng
chúng ta thấy rằng nỗi nhớ thương đó không làm người lính ủy mị, buồn đau mà nó
như là những gì thân thương nhất, luôn dõi theo những bước đường anh bước, luôn
hiện diện trong tâm tư các anh, như thôi thúc các anh chiến đấu hết mình để bảo vệ
quê hương.
Hai con người, hai dân tộc Kinh - Thượng, hai phong thái sống của hai miền quê
xuôi ngược lại hội tụ về đây trên cùng chiến trường sát cánh bên nhau chiến đấu.
19
Nguyễn Đình Thi thì diễn tả nỗi nhớ rất bình dị, nỗi nhớ mùa thu nhưng cũng
không kém phần lãng mạn: nhớ hương cốm, những con phố dài, lá rơi thềm nắng:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới / Tôi nhớ
những ngày thu đã qua / Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội"
(Nguyễn Đình Thi - Đất nước)
Hai người lính Kinh - Thượng trong "Bài ca chim Chơrao" rất giống hai người
lính trong "Đồng chí": "Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày
lên sỏi đá / Anh với tôi đôi người xa lạ / Từ phương trời chẳng hẹn cũng quen nhau"
(Chính Hữu - Đồng chí)
Cũng giống như Chính Hữu, những người lính trong trường ca của Thu Bồn
thường từ chiến trường nhớ về quê hương - hậu phương đằng sau tuyến lửa. Còn trong
"Mặt trời trong lòng đất" thì những người lính, người du kích nhớ về chính mảnh đất
mà mình đang đứng, đang nằm, ít ngày trước đó còn là quê hương thanh bình, bây giờ
vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến. Nên nỗi nhớ ở đây là sự hồi tưởng:
"Thuở ấy / bầu trời treo giữa làng như quả bóng / quả bóng bay trên cỏ trên cây
/ bông lúa uốn vòm trời cong xuống / để sân phơi thóc lẫn sao trời"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Điệp từ "em nhớ" được lặp lại nhiều lần, em không chỉ nhớ quê hương yên ấm,
tươi vui, quê hương Củ Chi những ngày giặc tới: "Củ Chi ơi ghi nhận tháng năm này"
mà anh, em còn nhớ cả những con người gần gũi, ruột thịt đã kiên trung ngã xuống:
"Em hãy nhớ chú Mười; Em hãy nhớ / cô du kích mười tám tuổi đời; Em đừng quên
anh Tư / Em hãy nhớ chị Ba / Em hãy nhớ những người du kích..." (Trần Mạnh Hảo -
Mặt trời trong lòng đất).
Nỗi nhớ không thể nào quên như hằn sâu mãi mãi vào tâm trí những con người ở
lại, Trần Mạnh Hảo như dự báo một sức mạnh bền bỉ, kiên cường, quật khởi của
những con người ở vùng đất này.
Không chỉ khai thác hình tượng người lính ở chiến trường Tây Nguyên, Thu Bồn
còn vượt biên giới đến với những người lính chiến sĩ tình nguyện quân Việt Nam trên
đất Campuchia bị dày xéo dưới chế độ diệt chủng Pônpốt - Iengsari
20
Trong những phút giây bình yên ngắn ngủi, ngồi bên nhau thắm đượm tình người
giữa anh lính Việt - Người dân xứ Angko, quê hương với những hình ảnh đẹp đã trở
thành đề tài, câu chuyện hấp dẫn của cả người nghe lẫn người kể trong trường ca
"Campuchia hy vọng": "Anh nói với tôi về Trường Sa, Hoàng Sa / Những cánh én
mỏng mềm hơn gợn nước / Sông Hồng đỏ rực / Sông Thương bên đục bên trong /
Hoàng Liên Sơn núi non chất ngất..."
Đọc những câu thơ viết bằng chính tâm huyết, trái tim của tác giả, ta như mường
tượng thấy đâu đây khuôn mặt của những anh lính trẻ đang say sưa hát, say sưa kể và
bất chợt trầm ngâm trong nỗi nhớ quê, nhớ nhà da diết.
Trong trường ca "Oran 76 ngọn", ta bắt gặp "đội trinh sát Việt Nam, có chín
người chiến sĩ" những ngày chiến đấu trên chiến trường Campuchia vì tình bè bạn, vì
hòa bình chung của bán đảo Đông Dương, trong trái tim người trinh sát trẻ bất chợt
nhớ về quê hương, một nỗi nhớ đau đáu khi các anh đang trèo lên cây cố định tìm
phương hướng trong bạt ngàn rừng núi, chỉ hình ảnh vài cột khói thôi cũng khiến
người chiến sĩ nao lòng: "...Vài cột khói dựng lên lặng lẽ / Lòng anh bỗng nhớ về quê
mẹ / Sông Hồng một dải êm ru"
Hình ảnh quê hương đẹp như bức tranh thủy mặc đã hằn sâu trong nỗi nhớ của
anh và về với anh trong những giờ phút chiến đấu gian khổ ác liệt.
Các anh về đây không chỉ chung một chiến trường, một lí tưởng chiến đấu vì quê
hương, mà những người đồng chí còn chung những bầu tâm sự. Trong trường ca của
mình, bên cạnh những dòng thơ diễn tả khí khái hào hùng của người lính, ta còn nhận
thấy Thu Bồn đã đi sâu khai thác nội tâm của những người lính trẻ, những tình cảm
đời thường mà hết sức thiêng liêng.
Các anh ra đi chiến đấu khi tuổi đời còn rất trẻ, hình tượng đẹp đẽ của các anh
chân thật hơn lên bởi tấm lòng yêu thương lo lắng cho mẹ; những cảm xúc nhân bản
tâm tình của tuổi chớm yêu; thương nước thương dân, biết hi sinh tình cảm riêng tư để
kiên cường đánh giặc trong tư thế đường hoàng, đĩnh đạc và rất lạc quan.
Những câu thơ với những tình cảm rất thật trong trường ca "Bài ca chim
Chơrao", tác giả đã khắc họa hình tượng các anh tâm sự nhỏ to cùng mẹ:
"mẹ ơi, con vẫn ở giữa lòng đất nước
trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây..."
21
Những đêm tối ngục tù đày đọa, các anh lại nhớ những lời ru tha thiết của mẹ lúc
trưa hè. Lời ru đưa ấu thơ anh vào giấc ngủ có vị ngọt ca dao, thần thoại, cổ tích ngàn
xưa; có vị ngọt của tiếng đàn bầu để rồi mãi mãi cùng bước chân của anh ra trận như
sức mạnh tăng nhiệt tình chiến đấu: "Anh bỗng nhớ tiếng ru bài hát cũ / Cái con chim
xanh ăn trái xoài xanh / Mẹ đã ru những trưa nồng anh ngủ / Con chim xanh ăn trái
xoài xanh." (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Lòng mẹ, tình yêu thương của mẹ "bao la như biển Thái Bình" đã cho các anh
sức mạnh Đamsan thời đại, là tướng lĩnh không có tù và, chiêng ché, nhưng bước các
anh đi đạp rừng băng suối, tràn xuống biển khơi.
Nỗi nhớ nhà thương mẹ đã làm bật ra những giọt nước mắt ở những người chiến
sĩ tưởng không biết khóc bao giờ, ở những con người chỉ biết bình thản cười trước đòn
roi tra tấn tàn bạo của kẻ thù khi các anh nghe tin bản làng, ngôi nhà thân yêu bị lũ
giặc đốt trúng:
"...Y Rin khóc! lần đầu tiên Rin khóc
Nước mắt rơi, từng giọt nước mắt rơi…"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Hình ảnh thơ của Thu Bồn khiến ta không khỏi liên tưởng đến câu ca dao xưa
"Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau". Chất dân ca, âm hưởng dân gian đã được
anh khéo léo đưa vào những vần thơ sâu lắng của mình để làm nên chất lãng mạn, ngọt
ngào của tình yêu, sắc son chung thủy, khát khao yêu thương của nhịp đập trái tim. Giá
như không có chiến tranh !! Giá như không có "những cơn lũ lịch sử", giá như lòng
tham bạo tàn của con người là giới hạn, giá như "người yêu người sống để yêu nhau"
(Tố Hữu), thì cảnh chia li, đau thương, tang tóc đã không có chỗ trú chân trên trái đất,
trên mảnh đất của những con người yêu chuộng hoà bình.
Trong hồi ức của Hùng, một người lính cụ thể hay của bất kì người chiến sĩ nào,
ẩn đằng sau đó ta cảm thấy như có cả một khối tình lớn lao của tác giả. Có lẽ, chính
anh lính Thu Bồn cũng đã yêu, yêu rất nhiều và thấu hiểu nỗi nhớ cồn cào, day dứt về
người thương phương xa, nên những dòng thơ càng chất chứa nỗi lòng đến nhường ấy.
Cái nỗi nhớ đã đi vào câu ca dao ví von:
"Nhớ gì như nhớ người yêu..."
22
Khai thác tâm hổn người lính ở khía cạnh tình yêu, ta không chỉ bắt gặp ở trường
ca Thu Bồn thời kháng chiến hào hùng của dân tộc mà còn như âm vang trong sáng tác
của nhiều nhà thơ khác. Đó là tâm hồn mộng mơ của người lính qua bài "Tây Tiến"
của Quang Dũng:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm..."
Đó là tâm hồn rạo rực, nóng bỏng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình
Thi:
"Những đêm dài hành quần nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu..."
Tình yêu - thứ tình cảm độc đáo đã như luồng gió thổi sức mạnh, niềm tin, thổi
lòng nhiệt tình can đảm, quyết chiến đấu đem lại hòa bình trả cho quê hương, trả cho
nụ cười của người yêu dấu:
"Y Rin nắm tay người con gái
Truyền thêm sức mạnh niềm tin..."
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Đến với cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc từ mọi vùng miền, mang trong
mình nhiệt tình cách mạng, sự yêu thương lo lắng của mẹ, hy vọng của em, niềm tin
của dân tộc, anh - người chiến sĩ anh hùng - hình tượng các anh hiện lên rực sáng
trong những chịu đựng, những hy sinh gian khổ, hiểm nguy vì sự sống còn của đất
nước.
Trong trường ca "Mặt trời trong lòng đất", Trần Mạnh Hảo cũng đi miêu tả một
hiện thực nhỡn tiền của mảnh đất Củ Chi ác liệt, không còn chỗ cho con người bám
lấy nhưng chính trong hoàn cảnh ấy mới thấy được sức sống và sự yêu đời của họ: "Kẻ
thù xóa mặt đất rồi / Thì trong địa đạo con người tìm nhau / Trái tim bám trụ đất sâu /
Kẻ thù nào thấy em đâu trong hầm"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Chúng ta có thể hình dung được cuộc sống của những người du kích, người lính
sống trong lòng địa đạo thế nào? Một điều chắc chắn rằng sẽ vô cùng bí bách và thiếu
thốn. Nhưng cũng như người lính trong trường ca của Thu Bồn, họ không đầu hàng
23
hoàn cảnh, vẫn cất lên bài ca yêu đời, không nghĩ đến cuộc sống thực tại của mình mà
lo những điều lớn lao hơn: "Con ta lớn lên sẽ không còn gì gieo vãi / không còn gì ăn
được dưới trời cao / mặt đất sẽ kinh hoàng biết mấy / hạt giống ở đâu con sẽ thét gào"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất) và họ đã làm được điều kì diệu:
"Trăm hạt giống đến náu nhờ địa đạo
con hái quả sau này con hãy nhớ
có một thời hạt giống dưới hầm sâu"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Còn ngòi bút Thu Bồn đã xoáy sâu mô tả hiện thực những chi tiết tưởng chừng
nhỏ nhặt trong cuộc sống chiến đấu, trong sinh hoạt đời thường của người chiến sĩ mà
gây xúc động sâu xa, cơn sốt rét rừng đến rồi đi, đày đọa thân hình gầy gò của người
chiến sĩ. Rừng với tán lá xanh che chở anh trong mỗi bước hành quân, nhưng những
căn bệnh mà rừng đem lại cũng dần lấy đi sức lực, tuổi trẻ thanh xuân của anh: "Chúng
tôi cõng nhau đi, cơn sốt rét dập vùi / chúng tôi ôm trong lòng cái đói / rừng toàn gỗ
không cho cây trái"(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Những khó khăn nhọc nhằn trên con đường làm nhiệm vụ đã trở thành thường
trực, nó luôn đặt người lính vào vị thế không chỉ chiến đấu với kẻ thù mà còn phải
chiến đấu để giành sự sống, sự tồn tại cho chính bản thân và đồng đội: "mùa khô cạn
đường rừng vất vả / họ tìm rong rêu trên từng phiến đá / để áp làn môi nứt nẻ cháy
khô / ..sỏi đá cắm bàn chân rách nát.."(Thu Bồn – Oran 76 ngọn)
Cái khát, cái đói, sự hành hạ của cơn sốt rét rừng không ngăn nổi bước đi tìm
chính nghĩa, tìm độc lập của anh, bởi trong lòng anh - người chiến sĩ, còn có một cái
khát, một cái khát lớn hơn mọi cái khát vật chất đó là khát tự do, khát hòa bình đã thôi
thúc, đó là động lực cho anh sức mạnh chiến đấu phi thường.
Chỉ những người đã từng ra trận, đã từng sống cuộc sống của người lính, đã từng
trải mọi nỗi khó khăn, hiểm nguy trong chiến đấu, đã từng hy sinh máu, mồ hôi của
mình trên mỗi tấc đất quê hương như Thu Bồn mới có thể tạo lập những hình tượng
thơ độc đáo trong trường ca như thế. Người đọc xúc động khi đọc những vần thơ về
đôi "bàn chân trắng nước" của những người chiến sĩ tình nguyện Campuchia: "...Anh
24
hát cho tôi nghe về những bàn chân / bạn biết không / có những bàn chân khi ngã
xuống, hóa những đôi bàn chân trắng
(Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Đôi bàn chân người tình nguyện quân trắng nước - chỉ hình tượng đơn giản thế
thôi mà ẩn đằng sau là cả một khối tình, của một tấm lòng nhiệt huyết hy sinh thầm
lặng mà rất đỗi lớn lao. Vì tình anh em, vì biên giới, vì những người đồng loại đang
quằn quại dưới chế độ diệt chủng, các anh đã không tiếc tuổi xuân, sức lực, đạp lũ
băng ngàn, đi xuyên mùa mưa miền Tây nam bộ để đến cứu những người bạn
Campuchia. Để rồi khi các anh ngã xuống, bàn chân ấy đã trở thành hình tượng ám
ảnh, ghi dấu tội ác chiến tranh: "bàn chân đó trắng hơn sự thật / nước nhạt nhoà / lũ
kẹt bàn chân…"
Thế gian này khó có thứ quý báu nào có thể so sánh, bù đắp và trả được tuổi
xuân sức lực mà chiến tranh đã bòn rút từ các anh. Sự hi sinh lớn lao của các anh khó
có giấy bút nào ghi hết, lột tả được hết. Trường ca Thu Bồn không chỉ xoáy sâu, lột tả
sự hi sinh về mặt thể xác của các anh, mà anh còn rất thành công khi diễn tả sự hi sinh
về mặt tinh thần của người chiến sĩ - những hi sinh mà chỉ người trong cuộc mới hiểu,
những hi sinh mà hòa bình hôm nay nợ ơn các anh suốt đời.
Nhận trên mình nhiệm vụ trinh sát, các anh đã phải hi sinh quá khứ hi sinh cả
những tình cảm riêng tư, những người cảm tử quân đã phải từ bỏ gốc gác, từ bỏ tình
yêu của trái tim trẻ để lên đường với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ: "Họ lục hết áo
quần / Bỏ ra hết những tờ chứng chỉ / Kể cả thư người yêu vừa mới nhận / Từ nay họ
không còn lận đận / Công việc của đời riêng..."
(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Và cụ thể hơn, Phiên - anh trinh sát trẻ nhất - mới mười tám tuổi trong "đội trinh
sát Việt Nam" tình nguyện sang chiến trường Campuchia đã dằn vặt day dứt nỗi lòng
yêu thương của mình để trả lại "cuốn sổ tay ghi những câu thơ" mà "người con gái
thường mặc áo màu hoa tím", "thường hát về miền Đông, đôi mắt mở tròn" đã "tặng
anh làm kỉ niệm", bởi anh biết còn vướng bận tình cảm riêng tư, nhiệm vụ cấp trên
giao sẽ khó có thể hoàn thành:
25
"Phiên đã trả sổ tay và nói hết nỗi lòng
Là trinh sát tôi không thể giữ quyển sổ tay của bạn"
(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Mọi thứ đã được gác lại cho tiếng gọi của Tổ quốc. Các anh đã sống, chiến đấu,
hi sinh anh dũng, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù. Tư thế của các anh như "Thạch
Sanh của thế kỉ hai mươi" đứng trên đầu thù mà sống, lạc quan trước cái chết, các anh
là con của cha Lạc, mẹ Âu, đi tìm giặc Mĩ mà đánh dẫu còn vô vàn gian khổ; "Trận
mùa khô đánh Mĩ" / "Quân ta thiếu cơm, thiếu súng, thiếu cả người..."
Và khí phách của anh đã thể hiện sáng ngời trong cuộc chiến đấu, khi giáp mặt
với kẻ thù
"...trận đánh
Anh ấy bắn đến viên đạn cuối cùng anh ấy bắn
Một ngày ròng không nứa cháy đen"
(Thu Bồn - Bazan khát)
Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và ra đi một cách anh dũng, anh đã để lại trong
tim đồng đội, trong lịch sử dân tộc, trong hơi thở đất trời niềm thương tiếc khôn tả
"...chỉ còn những giọt nước mắt chúng tôi mặn đắng long lanh
những vì sao khóc muộn màn trên đỉnh núi..."
(Thu Bồn - Bazan khát)
và cũng chính anh, người chiến sĩ Việt Nam đã liều mình lao vào đạn lửa cứu bè
bạn, quên cả chính thân mình, chứng minh cho tình yêu, cho chân lí chính nghĩa, cho
chủ nghĩa anh hùng cách mạng: "...khi trái đạn nổ bùng / chiếc nồi xoáy...mái tóc đen
dựng ngược / người chiến sĩ việt nam lao ra dòng nước"
(Thu Bồn - Campuchia hi vọng)
Luồng đạn tử thần đã cướp anh đi - con người thiên thần. Chiến tranh bom đạn
đã trở thành cái nền để anh - người chiến sĩ - hình tượng của con người giàu lòng vị
tha, đức dũng cảm, nghĩa tình thủy chung, chịu đựng gian khổ hi sinh, thể hiện. Một
thế giới khác, thế giới mà ở đó con người quyết vượt lên sự tàn phá, hủy diệt để tồn tại
phát triển, với vẻ đẹp sáng chói. Anh hi sinh tuổi xuân để tạo nên sự hồi xuân cho cả
một dân tộc, hình tượng các anh lại thắm thêm sắc xanh của trời… Đó là anh - hình
26
ảnh của những anh hùng - "sống thì đi mà chết thì nằm. Giọt lệ phần mình, nụ cười
dành bạn" bởi đất nước lúc bấy giờ là một cuộc hành quân.
Có những chiến sĩ anh hùng có tên, có tuổi, nhưng cũng có biết bao người vô
danh, bình dị, lặng lẽ, đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên lịch sử. Những người
lính có tâm hồn vô tư nhưng cao cả, biết hi sinh, vượt gian khó để mong làm nên chiến
thắng. Họ sống anh hùng, chiến đấu anh hùng và ra đi cũng anh hùng:
"Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh
Cho Tổ quốc lừng danh hiển hách
Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Chiến đấu anh hùng, hi sinh anh dũng, Thu Bồn còn nhấn bút khai thác hình ảnh
lẫm liệt của người chiến sĩ luôn thể hiện khí phách, phẩm chất cách mạng của mình
trước đòn roi tra tấn, thủ đoạn dụ dỗ của kẻ thù.
Qua tác phẩm "Bài ca chim chơ rao", người yêu thơ dễ nhận ra nét nổi bật trong
sáng tác dài hơi của Thu Bồn là khả năng tạo dựng khung cảnh dữ dội, bi tráng, và
khắc họa tính cách phi thường. "Bài ca chim chơ rao" đã trở thành bản anh hùng ca về
tinh thần kiên trung với cách mạng của hai chiến sĩ Hùng và Rin.
"Sáng nay chúng đưa Rin vào phòng tra khảo
Anh bị treo lên đánh phú đầu
Những giày đinh thi nhau đá đạp
Nhưng Rin không hề nói nửa câu"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Chúng ta nhận thấy có những nét tương đồng và dị biệt giữa trường ca "Mặt trời
trong lòng đất" của Trần Mạnh Hảo và "Bài ca chim chơ rao" của Thu Bồn. Nhân vật
trong trường ca của Trần Mạnh Hảo lớn lao kỳ vĩ là vì họ vượt qua sự càn quét và vây
ráp của kẻ thù, họ vượt qua một cuộc sống vô cùng khắc nghiệt mà chỉ ai sống sót qua
thử thách ấy mới thấy hết được ý nghĩa của nó. Khi kẻ thù tìm mọi cách để chôn vùi
họ trong lòng đất, chúng làm bất cứ việc gì dù là bỉ ổi xấu xa nhất, vô nhân đạo nhất,
cái mà đến bây giờ nhân loại gọi là tội ác chiến tranh: "Chất độc chúng phun từ giếng
27
nước đầy / bom giặc chặn dòng sông ngọn suối / nước quý hơn dòng máu anh đây".
Nhưng những người lính, du kích đâu có chịu: "...dưới địa đạo nếu mà em chết khát /
chỉ khi nào anh chẳng có bàn tay/ anh tìm mạch nước ngầm trong lòng đất…" (Trần
Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt, phần thắng luôn thuộc về những con người
trong lòng địa đạo. Thắng lợi đó làm cho kẻ thù khiếp sợ và chúng trở nên điên đảo,
quay cuồng như một con dã thú phi nhân tính: "Chúng ném bom nghĩa trang / chúng
quật các anh lên vì các anh là mặt đất / các anh chết mà không thể chết / giấc ngủ
nghìn đời bị chúng dựng lên / chúng sợ những người đã hy sinh vụt cầm lấy súng" và
một lần nữa họ lại chiến thắng kẻ thù: "Chúng tôi bốc mộ các anh / mang hài cốt các
anh xuống cùng địa đạo / các anh hãy ngủ trong chiếc lu sành / để chúng tôi lên đuổi
những thằng phá mộ" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Sự kiên trung của người lính trong trường ca "Bài ca chim Chơrao" hiện lên
ngay lúc mặt đối mặt với kẻ thù, mọi thủ đoạn tra tấn của kẻ thù đã không thể làm lung
lạc khí phách của người làm cách mạng. Dường như thủ đoạn càng tàn bạo thì càng
thấy sáng ngời bản lĩnh của người chiến sĩ.Rin - người con Tây Nguyên đã không
khuất phục - anh còn cất lên tiếng hát, tiếng hát ca ngợi quê hương, tiếng hát làm kẻ
thù kinh hãi:
"Rin hát giữa phòng tra Rin hát
Đứng hiên ngang đối mặt kẻ thù
Bài hát ngợi ca lòng dũng cảm
Ca ngợi lá cờ bay đẹp giữa mùa thu...
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Khi thân thể bị bầm đập trước đòn tra tấn làm anh "đứng lên rồi ngã xuống", khi
những chiếc răng còn lại của anh bị chúng nhẫn tâm dùng búa sắt đập hết, khi ta tưởng
anh hoàn toàn quỵ ngã thì:
"Bỗng Rin chồm lên chiếc ghế
Nhổ lên ảnh Diệm bãi máu tươi"
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
28
Hành động của anh đã làm bọn giặc bất ngờ kinh ngạc. Chính chúng đã bị bất
ngờ và phải đầu hàng trước bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng. Chúng đã thực sự
thất bại trước ý chí của người con Tây Nguyên.
Không khai thác được thông tin từ Rin, chúng tìm cách dụ dỗ Hùng, người bạn từ
xuôi lên với miền đất Tây Nguyên để chiến đấu. Lời đường mật không hiệu quả, chúng
đưa Hùng sang "phòng tự do", chúng tưởng rằng Hùng sẽ run sợ, sẽ sụp đổ bản lĩnh
trước đòn roi tra tấn. Nhưng không, một lần nữa chúng lại phải xanh mặt, một lần nữa
chúng lại phải kinh hãi đến "phách lạc hồn bay"
"Hùng lấy thuốc tiến lại lò lửa đỏ
Vùa than hồng vào giữa bàn tay
Điềm nhiên anh châm lửa hút
Mấy tên côn đồ phách lạc hồn bay
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Chính người đọc, chỉ qua ngôn từ miêu tả của tác giả cũng thấy khâm phục
những hành động ngoan cường của người chiến sĩ. Bút pháp tả thực của Thu Bồn
nhiều khi quá sát thực tế gây cho những trang viết của anh yếu hẳn chất thi vị - bản
tính vốn có của thơ - có phải chăng đó cũng là một hạn chế? Câu thơ của Thu Bồn
nhiều khi thiếu sự trau chuốt mà để trần trục, giản đơn như cuộc sống thật sự đang
chiếm lĩnh trang viết. Chiều sâu và sức rung động của những vần thơ khởi phát bởi suy
nghĩ chân tình của tác giả.
Run sợ trước ý chí của các anh, chúng đã đem các anh ra pháp trường. Chúng sợ
nhìn thấy ánh mắt rực lửa, chúng sợ nhìn thấy thất bại của mình trong bản lĩnh của các
anh. Thế nhưng, trước cái chết, tấm lòng kiên trung của các anh dành cho cách mạng
càng rực sáng. Tư thế các anh hiên ngang như "Thạch Sanh của thế kỉ 20" đứng trên
đầu thù mà sống, mà chiến đấu, hi sinh: "Trên nương sáng nay lúa vừa ngậm sữa /
Chúng đem Hùng, Rin trói chặt vào cây / Ôi hai con chim ưng trong bão tố / Đầu sắp
rơi đôi cánh vẫn tung bay..." (Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Lửa thù cuồn cuộn bốc cháy, kẻ thù tưởng rằng ngọn lửa hung bạo sẽ thiêu rụi
thân thể các anh đồng thời sẽ thiêu rụi ý chí các anh, sẽ thiêu rụi ý chí đấu tranh của
buôn làng, thiêu rụi quyết tâm chiến đấu của một dân tộc. Chúng đâu ngờ rằng ngọn
29
lửa của chúng đã biến thành vầng hào quang vây quanh hai trái tim anh hùng, hai trái
tim nguyện chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho dân tộc mình, cho nhân dân mình:
"Sợi dây trói cháy thành tro bụi / Nhưng tim anh hùng còn đập giữa khói đen / Hai
ngọn đuốc rùng rùng tiến lại / Cái chết đâu làm ta yếu hèn" (Thu Bồn - bài ca chim
Chơrao)
Cái chết của Hùng và Rin được thắp sáng bằng hình ảnh đối lập giữa hình tượng
người anh hùng và kẻ thù. Nhân vật được khắc họa có kích thước tầm vóc theo khuynh
hướng cách điệu hóa. Các anh là con người được kết tinh từ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của dân tộc và bản chất của con người xã hội chủ nghĩa. Các anh đã sống trung
thành và chết không khuất phục. Hình tượng của các anh sống mãi với đất nước, với
nhân dân. Năm tháng sẽ qua đi, hiện tại sẽ là quá khứ nhưng sự hi sính của các anh sẽ
bất tử trong lòng dân tộc. Sức trẻ đã truyền cho họ quyết tâm tràn lên nhập vào cuộc
thử lửa một mất một còn với kẻ thù đã man và quỷ quyệt, các anh đã chiến đấu anh
hùng và ra đi lẫm liệt.
Các anh, những người chiến sĩ là những con người vô cùng dũng cảm, không sợ
bất cứ kẻ thù nào nhưng lại cực kì nhân hậu thủy chung, lai láng tình yêu và đẹp hơn
cả là giữa bao nhiêu bề bộn sự hi sinh mất mát đau thương vẫn ngời lên tình đồng đội,
đồng chí gắn bó keo sơn, họ dựa vào nhau lạc quan để sống, để hi vọng một ngày mai
chiến thắng dù không có một ngày bình yên để ngắm mặt trời.
"Bài ca chim Chơ rao" là bản trường ca phản ánh mối đoàn kết chiến đấu giữa
người Kinh và người Thượng qua hai nhân vật Hùng và Rin nên chất hùng tráng, chất
trữ tình lại càng tô đậm thêm hình tượng anh hùng:
"Hùng và Rin - hai người con Kinh - Thượng
hai con chim bị khóa một lồng
Cả cuộc đời hai người gắn bó
Hai con suối giao hòa chảy đến một dòng sông"
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Tình đồng đội, đồng chí của họ không chỉ đơn thuần là tình bạn của những người
chung lí tưởng, cùng chiến đấu. Tình đồng đội, đồng chí của họ còn tượng trưng cho
30
sự gắn bó chiến đấu của một dân tộc, của miền xuôi và miền ngược nên nó có ý nghĩa
tượng trưng vô cùng lớn lao.
Trên cùng một mặt trận, cùng nếm trải đòn thù, đắng cay, tình bạn của hai người
con ở hai miền quê khác nhau càng thêm gắn bó, khăng khít. Trong những giờ phút
bình yên ngắn ngủi, họ đã hẹn ước với nhau khi hoà bình sẽ đến thăm quê bạn và rồi
phải xót xa tiếc nuối khi hẹn ước chẳng thể thực hiện
"Hùng nhé, Rin chưa gặp cô gái đẹp
Một đêm nào Hùng kể say sưa
Ngày thống nhất Rin về dưới nớ
Hùng sẽ cho Rin uống nước dừa…"
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Lời hẹn ước ngày thống nhất chưa kịp thực hiện bởi kẻ thù tàn bạo đã cướp mất
sự sống của các anh. Nhưng thẳm sâu trong tim hai người chiến sĩ, họ tin rằng lời hứa
của họ sẽ có bao lớp người khác thực hiện, sẽ có những mối tình Kinh - Thượng khác
thay họ làm điều đó, mối tình Kinh – Thượng sẽ khắng khít và hòa bình nhất định
ngày đó sẽ về với dân tộc mình: "Thôi! Những người con dân tộc / Sẽ thay Rin uống
nước dừa / Nước ngọt như mối tình Kinh - Thượng / Gạt hết hiềm thù cay đắng năm
xưa"
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Tình bạn hữu, tình đồng chí của hai người con Kinh - Thượng đã vút lên thành
biểu tượng, thành bản anh hùng ca. Sống, chiến đấu kề vai sát cánh và đến lúc hi sinh
kẻ thù cũng chẳng thể nào tách chia được hai trái tim tình bạn, không thể chia rẽ được
tình đoàn kết của một dân tộc anh hùng: "Lửa rực hai khuôn mặt gầy rạng rỡ / Hai
vòng tay lửa siết vào nhau / Người anh em ơi ! Đây là lời đất nước / Gắn bó đến cùng
những lúc thương đau" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Trong trường ca "Con đường của những vì sao" của Nguyễn Trọng Tạo, tình bạn
của những người lính lái xe với những cô gái thanh niên xung phong bạt núi mở đường
mới lãng mạn làm sao. Tình của họ như được vầng trăng trên đầu chứng giám, cái tình
có thể vượt lên nghìn cái chết: "Thôi đừng hỏi, bạn bè ơi, đừng hỏi / ánh trăng gặp gỡ
/ sẽ nói nhiều ngày tháng cách xa / như đêm nay giữa Đồng Lộc trụi trơ / vẫn vầng
31
trăng vẫn không hề lỗi hẹn / vầng trăng là nhân chứng / vầng trăng là mầm sống /
vầng trăng là lòng ta gửi gắm / vượt lên nghìn cái chết tỏa sáng trong..." (Nguyễn
Trọng Tạo - Con đường của những vì sao)
Không chỉ là tình bạn mà còn là một tình yêu với bao hứa hẹn đợi chờ giữa mưa
bom lửa đạn. Chúng ta phải thông cảm cho những con người chưa bao giờ được một
lần yêu, họ chỉ có được những giây phút hết sức ngắn ngủi trong khoảnh khắc rồi lại
phải bước vào nhiệm vụ của mình: "Xe rú ga, ánh trăng bỗng rung rinh / những cô gái
bấm nhau về vị trí / giành một phút cho hai người tình tự / thời gian hơn vàng ngọc
giữa vùng bom" (Nguyễn Trọng Tạo - Con đường của những vì sao)
Còn trong "Mặt trời trong lòng" đất thì cái tình đó đã chín mùi, thành một tình
yêu lứa đôi hạnh phúc ngay trong lòng địa đạo, trong bom đạn của kẻ thù: "Có người
con gái / chàng trai tìm đến cầu hôn / làm trái tim cô đập rối bời / bỗng giặc đổ quân
bất thần họ vội cầm lấy súng" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Còn ở "Bài ca chim chơ rao" của Thu Bồn, người đọc dễ nhận thấy chất anh
hùng ca của tác phẩm thành công phần lớn do nội dung thể hiện cuộc chiến đấu ngoan
cường của hai anh hùng tuổi trẻ - hai trái tim hòa thành bản hợp xướng đoàn kết thủy
chung của một dân tộc:
"Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sỹ vô danh
Cho Tổ quốc lừng danh hiển hách
Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Không chỉ khai thác tình đồng đội keo sơn của hai người người lính đến từ những
vùng đất khác nhau của Tổ quốc như Chính Hữu đã thể hiện:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
và họ trở thành:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ"
32
Người chiến sĩ, người thi sĩ Thu Bồn còn rất thành công khi khai thác khía cạnh
này ở chiến trường Campuchia, nơi đó có tình bạn, tình đồng chí không còn giới hạn
trong một nước mà vượt ra khỏi biên giới, cùng sát cánh bên nhau chiến đấu vì tương
lai của dân tộc anh em, vì tương lai hòa bình của bán đảo Đông Dương: "Đâu biên giới
lòng ta, đâu cột mốc / Tôi thấy một chiếc cân còn để giữa đường / Một chiếc cân làm
sao cân tiếng hát / Làm sao đo nổi nghĩa yêu thương"
Biên giới, ranh giới quốc gia dường như không còn nữa trong tim người lính tình
nguyện quân Việt Nam lẫn trong tình bè bạn Campuchia. Chung mục đích, chung mối
thù đã khiến họ trở thành những người tri kỉ sát cánh bên nhau trong những cánh rừng
bạt ngàn màu xanh, bạt ngàn nước. Niềm hạnh phúc được sẻ chia cùng nhau những
phút giây bình yên ngắn ngủi: "Tôi ngồi giữa vòng tay ấm áp / Của những người chiến
sĩ Việt Nam / Anh không nói nhưng lòng anh đã nói / Hai người mẹ chúng ta cùng giỗ
một ngày / Hai biên giới thù chung bầy quỷ sứ..." (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Chiến đấu vì nhau, vì hoà bình cho biên giới chung, vì gia đình anh, vì gia đình
tôi, vì những đôi mắt trẻ thơ, của những thiếu nữ, của những người mẹ, của dân tộc
mình, tình đồng chí của những người con cao cả, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, anh
và tôi sẽ làm nên những điều kì diệu
"Những anh hùng
Tình bạn hữu sáng trong"
(Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Trường ca "Campuchia hy vọng" hay "Oran 76 ngọn", Thu Bồn đã thay cả tấm
lòng của hai dân tộc nói lên tình đoàn kết
"Núi bà Đen pháo hoa kì vẫn nở
Tình bạn hữu sáng trong"
Bằng trường ca, Thu Bồn đã làm tái hiện hiện thực đất nước Campuchia với hai
mảng màu đối lập, màu đen của cái chết, màu xanh của sự sống được đem đến từ biên
giới bởi tình hữu nghị của người chiến sĩ Campuchia và người tình nguyện quân Việt
Nam. Chính sự tương phản gay gắt này giúp nhà thơ cất lên những cảm xúc mạnh mẽ,
những liên tưởng phong phú. Tuy nhiên đâu đó trong tác phẩm ta nhận thấy có khá
nhiều câu thơ còn mang nặng tính tư liệu và mô tả sự việc. Âu đó cũng là điều dễ hiểu
33
khi viết một tác phẩm dài hơi bằng mạch cảm xúc quá dạt dào và một bể tư liệu của
chính sự từng trải của một người vừa là thi sĩ nhưng đồng thời cũng là chiến sĩ. Viết
bằng cả trái tim, trường ca Thu Bồn viết về hình tượng người chiến sĩ đã thực sự chinh
phục được người đọc, đã có một bản sắc riêng, mang đậm dấu ấn cá tính.
Hình tượng người lính trong trường ca Thu Bồn thực sự để lại những ấn tượng
sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là những con người cao cả, giàu ân tình thủy chung
với nhân dân, nơi đâu các anh qua cũng để lại niềm tin và sự yêu thương trong lòng
dân không chỉ của nước mình mà còn của người dân nước bạn. Sống anh hùng, chiến
đấu anh hùng và hi sinh anh dũng, các anh xuất hiện trong trường ca Thu Bồn và
nhuốm lên trang viết màu sắc sử thi đậm nét và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Thu
Bồn với những bản trường ca bất hủ của mình đã thực sự làm nên, nhào nặn, tạo nên
hình tượng các anh - Hình tượng người chiến sĩ nhân dân - một kiểu người lính hoàn
toàn mới trong lịch sử, với những phẩm chất bản lĩnh tốt đẹp - lung linh ngời sáng
trong suốt chặng đường biến động hào hùng của lịch sử dân tộc.
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ
Theo suốt chiều dài lịch sử đất nước, trong thơ ca kháng chiến thường có sự xuất
hiện những người anh hùng... hình tượng những anh hùng ấy được nâng cao với tầm
vóc thời đại. Họ quả là những hình mẫu thật đẹp, thật lý tưởng.
Song có một điều mà ai cũng thấy rằng sau những chiến binh anh hùng ấy còn có
những con người thật thầm lặng. Họ là nền tảng góp sức cho chiến công và tầm vóc
của những người anh hùng. Đó là những người phụ nữ vừa nhỏ bé mà vừa kiên cường.
1.2.2.1. Hình tượng người mẹ
Có tình nào hơn tình mẹ chăng? Đó cũng chính là lý do hình tượng người mẹ
luôn được nhắc đến trong đời sống và nó dần đi vào thơ ca một cách thật đẹp, thật hồn
nhiên. Bất kỳ một đứa trẻ nào từ khi sinh ra cũng được dạy rằng: "Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra". Bởi thế mà trong trái tim, tâm hồn của những người con luôn có
hình tượng mẹ, và Thu Bồn cũng vậy - hình tượng người mẹ trong trường ca thu Bồn
thật giản dị mà cũng thật thiêng liêng:
34
"Ru con ru mẹ ru nhau
Ru cho cuống rốn cái nhau ru hoài
Ru cho đến tận ngày mai
Ru cho máu ấm bào thai vuông tròn
(Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Tình mẹ luôn bao la, dạt dào như sóng biển. Ở thời nào cũng thế, trong hoàn
cảnh nào cũng vậy, tình cảm đó không bao giờ vơi cạn. Đó là truyền thống ngàn đời
của Mẹ Việt Nam anh hùng. Mẹ đã ru con, mẹ vượt qua con suối dưới mưa bom bão
đạn, ngăn từng bước quân thù, mẹ đứng dưới mưa che từng căn hầm nhỏ... như lời bài
hát nào vang ngân. Đúng như vậy người mẹ ở đây trực tiếp chiến đấu cùng con, che
chở cho con: "...con nằm trong lòng mẹ / mẹ nằm trong lòng đất / có hai lần che chở
cho con..." (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Mẹ phải chiến đấu, vì trong bụng mẹ còn có con. Và mẹ hạnh phúc vô cùng khi
con thoát thai ra đời, được ôm con trong lòng, bây giờ mẹ sẵn sàng lấy thân này che
chở cho con: "...con hãy ngủ say nồng đừng thức giấc / mẹ mang con lên mặt đất
chống càn / mẹ xoay lưng đỡ đạn cho con" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Chiến tranh đến người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Đó là
những câu thơ được cất lên tự đáy lòng chứ không phải những câu thơ ngợi ca theo lối
tô hồng. Cũng bởi thế mà qua đoạn thơ ta hiểu hơn tấm lòng người mẹ, tấm lòng cao
cả. Người mẹ vừa đau đáu nỗi nhớ chồng nơi xông pha trận mạc, vừa làm hậu phương
vững chắc cho chồng nhưng không bao giờ quên tình cảm nồng ấm ấp ủ cho con.
Dường như bao thương yêu, bao khát khao đều chỉ dành cho con, nuôi con khôn lớn.
Bằng tất cả tình yêu, lý trí và nghị lực những người phụ nữ ấy đã vượt qua mọi khó
khăn để thay chồng làm việc nhà, bất chấp sự sợ hãi trước kẻ thù và cuộc đời sóng gió,
người mẹ vẫn kiên cường bảo vệ đứa con yêu bằng xương máu mình và dòng sữa tinh
khôi: "Dúm nhau mẹ và rốn con chôn một chỗ / Máu và bào thai mẹ và rốn con chảy
một lần / Mẹ thả neo vào mồm con bằng chiếc vú / Mà sóng đau thương cuộc đời
không đánh bật được mẹ ra". (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Đó là người mẹ tần tảo, chịu bao vất vả đau thương như hình ảnh người mẹ trong
"Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm: "Mẹ ta lòng dạ đói sầu / Đường trơn mưa
lạnh mái đầu bạc phơ".
35
Nhưng đó cũng là người mẹ hết lòng che chở cho những đứa con, đó cũng là
người mẹ quê hương. Cách xưng hô mẹ-con cũng diễn tả được sự gắn bó sâu sắc ấy:
"Mẹ đã cho con nhiều quá / Máu thịt con và tiếng hát để dành" (Thu Bồn - Campuchia
hy vọng)
Có lẽ cùng với dòng cảm xúc ấy mà với Hoàng Cầm: trong lửa đèn leo lết, tình
mẹ hiện lên thật bao la: "Lửa đèn leo lét soi tình mẹ / Khuôn mặt bừng lên như dựng
trăng" (Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống)
Trong thời kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Dương Hương Ly cũng có câu thơ nói
về sự bao la trong tình mẹ, lòng mẹ: "Đất quê ta mênh mông / Lòng mẹ rộng vô cùng"
Còn với Trần Mạnh Hảo, người mẹ như hoá thân vào lòng đất, mẹ vững chãi vô
cùng, mẹ của con và đất mẹ thân yêu đã cho con một bầu trời lộng lẫy: "...Mẹ mang
thai con đi cùng lòng đất / để cho con cả một khoảng trời / một khoảng trời không có
bom ném xuống / không có thuốc khai quang và bóng quân thù" (Trần Mạnh Hảo -
Mặt trời trong lòng đất)
Tình mẹ không chỉ bao la rộng lớn mà còn biểu hiện một tình thương cao cả. Mẹ
vất vả nuôi con khôn lớn trưởng thành, để rồi khi giặc cướp nước kéo tới, người con
theo chân cha đi đánh giặc, mẹ già ở nhà mỏi mòn trông:
"Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại
Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may
Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ
Từ buổi con đi bấm đốt từng ngày"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Tiễn con ra đi, mẹ ngày đêm mong con có ngày trở về, mẹ nhớ con, mẹ muốn
gần con để chăm sóc, che chở cho con nên mẹ đã hóa thân vào tất cả. Điệp từ mẹ được
nhắc lại liên tục như khắc ghi trong trái tim con hình bóng của mẹ: "Anh đi đi đường
dài đội ngũ / đất quê mình gió nóng tạt xiên vai / mẹ vẫn chờ anh ô kính cửa xe này /
mẹ phía trước mỗi chặng đường kháng chiến" (Nguyễn Trọng Tạo - Con đường của
những vì sao)
Lòng mẹ cao cả là vậy, mẹ nuôi con để con đi vì quê hương đất nước. Tình mẹ
sao lớn lao quá, cao cả quá, thiêng liêng quá. Từ tình yêu thương dành cho con, nó đã
36
được nâng lên thành một thứ tình cảm cao quý hơn - vì đất nước. Đó vừa là người mẹ
luôn ở bên những đứa con, vừa là người mẹ của quê hương đất nước.
Bởi thế, cùng với hình ảnh người mẹ trong thi ca, hình ảnh người mẹ trong Thu
Bồn trở thành một biểu tượng vĩnh hằng, biểu tượng cho tâm hồn và tấm lòng vừa kiên
trung vừa nhân hậu. Nó mãi trở thành tượng đài bất diệt biểu trưng cho người mẹ Việt
Nam anh hùng.
1.2.2.2. Hình ảnh người vợ, người yêu:
Bên cạnh hình tượng người mẹ còn có hình tượng người vợ trẻ, người yêu - họ là
những người con gái thanh xuân.
Nói đến những hình tượng này, trước hết ta thấy họ là những người con gái thật
đẹp, đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn như nhân vật Sao trong Trường ca Thu Bồn: "Cô gái
biển quanh năm chài lưới / Trên bàn tay có nắng mặt trời / Cô gái có tâm hồn sóng
biển / Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Nhưng sự ác liệt của chiến tranh mà người phụ nữ phải gánh chịu không ở đâu ác
liệt hơn tuyến đường máu lửa - đường mòn Hồ Chí Minh. Người phụ nữ, gọi chung
chung vậy thôi chứ họ đâu đã được làm vợ, đến cả yêu cũng chưa một lần được yêu.
Đó là những người phụ nữ chung thủy, họ tượng trưng cho tình yêu sắt son với
tình yêu dạt dào như "sóng biển". Dù phải trải qua bao khó khăn vất vả họ vẫn đợi, vẫn
chờ, vẫn tìm người trai hẹn:
"Sao qua bao nhiêu mỏm núi
Chưa tìm ra người trai hẹn năm xưa
Chiếc cong bạc còn đây người trai đâu thấy
Chim rừng bay lá rụng đâu thấy người trai"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Câu thơ làm ta nhớ tới câu ca dao xưa: "Yêu nhau mấy sông cũng lội mấy đèo
cũng qua".
Có tình yêu nào đẹp hơn thế này chăng? Nhờ cái tình yêu bền vững và vĩnh cửu
ấy nó đã được nâng lên át cả đạn bom, pháp trường: "Tiếng hát vút lên trời trong sáng
/ Mối tình yêu ngạo mạn giữa pháp trường / Rạo rực cuộc đời cô gái trẻ / Như bông
lúa sáng nay vừa trổ trên nương" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
37
"Tình yêu" ở đây không đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà nó còn là tình yêu lớn
lao - tình yêu Tổ quốc. Hai chữ "ngạo mạn" và "rạo rực" cho thấy người con gái trong
câu thơ thật đẹp, nó không phải là cái đẹp ủy mị mà nó là cái đẹp được thăng hoa "vút
lên trời trong sáng" một cách đầy tự tin. "Tiếng hát" ấy, "tình yêu" ấy vừa thướt tha
như những "bông lúa" mềm mại lại vừa mạnh mẽ như ánh sáng vụt qua lướt trên cánh
đồng mênh mông bát ngát. Giữa tù đày và xiềng xích của địa ngục trần gian tầm
thường u tối, tiếng hát của Sao như thăng hoa bởi lẽ tiếng hát ấy được cất lên bằng cả
tâm hồn, tình yêu và sức mạnh người phụ nữ: "Sao hát như xé toang lồng ngực / Bài
ca đất nước anh hùng / Tiếng hát đau thương cháy khát / Của con tim nức nở đương
rung" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Bằng tất cả sự rung động của "con tim", sự "đau thương" trước cảnh đất nước bị
xâm chiếm đến sự "cháy khát" của tự do...tất cả đã hoà chung trong tiếng hát của Sao,
trong bài ca Sao hát về đất nước anh hùng.
Người con gái dịu dàng là thế, mạnh mẽ là thế, khát khao là thế. Như cha ông
xưa vẫn nhắc "Giặc tới nhà đàn bà cũng đánh". Bởi vậy những người phụ nữ như Sao
cũng giống như Mai, Dit trong "Rừng Xà Nu" của Nguyên Ngọc: Họ không chỉ là
những người phụ nữ tần tảo lo cho gia đình mà họ còn biết theo bước những chiến sĩ
anh hùng, họ là sợi dây nối cho lịch sử trường kỳ kháng chiến của dân tộc:
"Năm xưa Sao hát rung tù ngục
Bây giờ thành chị Bí thư
Từ những buổi cơm đùm trong vú
Cách mạng lên ta mới nên người"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Nối tiếp Sao còn nhiều người phụ nữ kiên cường khác, họ biết vượt qua thử thách của
số phận, lên trên mọi mất mát đau thương để đến với kháng chiến, vì sự hy sinh cho
Tổ quốc:
Hình ảnh kiên cường, luôn vượt qua mọi thử thách của Sao rất giống với người
vợ trong "Mặt trời trong lòng đất" khi mà người chồng ngã xuống. Đọc những câu thơ
đó ta không khỏi rung lên niềm tự hào về người Phụ nữ Việt Nam nhưng cũng không
38
nén nổi nỗi xúc động: "Em đứng lên một mình mặc niệm / em tưởng nhớ anh trong địa
đạo, trong hầm " (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Những người phụ nữ ấy đang tiếp bước những người chồng, người cha đã ngã
xuống. Họ đi vào cuộc sống thật giản dị nhưng chính nhờ cái sức mạnh ấy và những
"lân tinh" đã đưa họ trở thành hình tượng của nữ thánh thiêng liêng. Vẻ đẹp của họ vừa
thanh thoát, vừa cao sang như Đức Mẹ Đồng trinh song chính từ cái vẻ dịu dàng nhân
hậu ấy đã toát lên một sức mạnh thật tuyệt vời, xung quanh họ như tỏa một ánh hào
quang ấm áp, dịu hiền: "Phập phồng ngực thở / Hai bàn tay chắp lại lặng yên / Bốn
thánh nữ đang quỳ / Lồng ngực nghiêng nghiêng" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Họ là những người làm nên đất nước và gìn giữ đất nước cho muôn đời sau.
Bằng trái tim "nóng bỏng" những người phụ nữ trong trường ca Thu Bồn thật mạnh
mẽ, những hy sinh của họ được khắc ngay lên chính đôi vai họ: "Tim em đập mạnh
hơn tiếng nổ đạn bom / Có bờ vai nào gầy hơn vai em nữa" (Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Đôi quang gánh đặt lên vai người phụ nữ sao mà nặng trĩu, nhọc nhằn đến thế?
Một bên quang gánh là gia đình, một bên là đất nước. Còn nhịp đập của trái tim họ
như chiếc đòn gánh giữa đôi quang ấy.
Qua đó ta thấy hình tượng người phụ nữ trong kháng chiến nói chung cũng như
hình tượng người phụ nữ trong trường ca Thu Bồn nói riêng, đó là những con người
nhân hậu, giản dị mà kiên trung. Họ mãi đi vào lòng người của mọi thế hệ, họ là biểu
tượng cho tình yêu và khát vọng: "Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng
thấy / Những cuộc đời đã hóa núi sông ta" (Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước)
Trong nền văn học cách mạng, hình tượng người phụ nữ là một trong những hình
tượng trung tâm. Tố Hữu, Thanh Thảo, ... trong đó có Thu Bồn đã khắc họa đậm nét
hình tượng đặc biệt ấy. Trong Văn học Cách mạng nói chung, trong trường ca Thu Bồn
nói riêng, người phụ nữ có một vị trí cao như vậy có lẽ vì trong thời đại cách mạng, số
phận và trái tim của người phụ nữ là nơi hội tụ của mọi điều. Đó là nơi hội tụ của đau
thương. Người phụ nữ phải hy sinh chồng con, hạnh phúc cá nhân và cả hạnh phúc
riêng tư của mình và người phụ nữ cũng là nơi hội tụ của phẩm chất anh hùng, bất
khuất ngàn đời của dân tộc. Không đâu như ở Việt Nam, mỗi con người nhìn vào
chính người mẹ của mình để thấy ở đó bóng hình Tổ quốc.
39
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG
TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
Thời đại chống Mỹ cứu nước, Việt nam là một mảnh đất hiện thực rừng rực lửa
chiến tranh. Mất mát, chia ly, căm giận, đau thương, vui buồn... đều đổ dồn lên đất
nước này. Hình ảnh con người, cuộc sống đất nước... đều được các nhà văn nhà thơ tái
hiện trong văn học, đặc biệt là văn học cách mạng.
Từ những năm 70, thơ dài nở rộ và phát triển, thể hiện chung xu hướng của thơ
ca trong cố gắng vươn lên của nhận thức tầm lớn lao của thực tế cách mạng. Thơ
không chỉ bằng lòng nằm trong những chiếc hộp vuông vức nhỏ hẹp, cảm súc ngắn
gọn mà còn khát vọng vươn dài, vươn rộng để khám phá và biểu hiện tầm sử thi của
cuộc sống... thể loại trường ca có khả năng phản ánh rộng lớn, nó là nơi dung hợp của
phương thức tự sự và trữ tình. Khát vọng tự do và tình yêu nam nữ trong sáng hồn
nhiên... vốn là những môtip chủ đề truyền thống của trường ca. Bởi vậy, có thể nói đó
là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng trữ tình. Điển hỉnh cho thể
loại "Trường ca sử thi hiện đại này" không thể không nhắc tới Thu Bồn. Ông đã có
những đóng góp nhất định cho dòng thơ ca Việt Nam thời chống Mỹ mà tiêu biểu là về
trường ca. "Các trường ca này là một thể loại mang tính tổng hợp: trữ tình, tự sự, chính
luận." [34, tr. 15]
2.1. Cảm hứng sử thi trong trường ca Thu Bồn:
Đứng vào vị trí cái tôi chứng nhân lịch sử mà đi ngược dòng lịch sử, để về với
cội nguồn xa xưa của một dân tộc anh hùng, chiêm nghiệm về cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc nên các bản trường ca của Thu Bồn mang đậm tính sử thi.
Trong lịch sử văn hóa nhân loại, ngoài Iliat và Ôđixê của Hy Lạp hay
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ cổ đại là những áng sử thi rất nổi tiếng thì cũng
còn rất nhiều tác phẩm sử thi của các dân tộc khác.
Sử thi hình thành trên nền văn hóa văn nghệ dân gian, trước hết là trên nền tảng
thần thoại. Thần thoại phản ánh nhận thức của con người xưa về thế giới, về nhân loại,
về cuộc sống...vv ; thần thoại thường gắn với phong tục, tập quán, nghi lễ và ca nhạc
nguyên thủy.
40
Theo quy luật tất yếu, sử thi được hình thành trong các bước chuyển mình của xã
hội: nảy sinh từ thực tiễn sản xuất và chiến đấu, từ yêu cầu mạnh mẽ của nhân loại cho
nên sử thi thường nóng hổi hơi thở hiện thực và dồn dập mạch đập lịch sử. "Trong giai
đoạn này trường ca không còn kết cấu theo mạch cốt truyện như những trường ca xuất
hiện trước đó mà được tổ chức theo sự phát triển của chủ đề. Các trường ca này là một
thể loại mang tính tổng hợp và trữ tình, tự sự, chính luận. Cùng với việc mở rộng
phạm vi phản ánh và biểu hiện, các trường ca này cũng thể hiện xu hướng tự do hóa
rất nhanh trong cấu trúc tác phẩm và ngôn ngữ thơ. Tác phẩm thường tổ chức thành
nhiều chương khúc, mà mỗi chương khúc có thể được đặt tên" [34, tr.16]. Bởi vậy, sử
thi trong thời chiến từ những năm 70 về sau đó không phải là thần thoại nữa mà nó
mang hình mẫu "sử thi hiện đại" với âm điệu anh hùng và tinh thần lãng mạng. Đó là
những sử thi mô tả sự nghiệp và chiến công của những người anh hùng, những người
kết tinh sức mạnh phi thường, tài năng và vẻ đẹp của cộng đồng. Họ mang phẩm chất
cao đẹp, giàu lòng hy sinh, sẵn sàng xả thân cho lý tưởng cộng đồng. Cho nên họ là
chỗ dựa và là niềm tự hào của cộng đồng.
Về tái hiện xung đột lớn của lịch sử, nếu như trong các "Sử thi cổ đại" là những
xung đột giữa thần thánh, thiên nhiên với con người bé nhỏ thì ở những "Sử thi hiện
đại" lại là những xung đột giữa kẻ thù cướp nước tàn bạo với nhân dân phải chịu cảnh
nô lệ, mất nước.
Cũng như xưa kia Đam San đi bắt nữ thần mặt trời về làm vợ còn trong thời
chiến những người anh hùng như Hùng, Rin trong trường ca của Thu Bồn lại khao
khát đi tìm tự do, hòa bình cho dân tộc. Song ở cả hai cuộc chiến ấy lại dường như
những cuộc chiến không cân sức giữa một bên là sức mạnh siêu nhiên với sự tàn bạo
còn một bên là những con người bình dị với ước mong chiến thắng kẻ thù tàn ác và
chinh phục thiên nhiên.
Trường ca Thu Bồn đã tái hiện lại thời chống Mỹ hừng hực lửa chiến tranh như thế:
"Mây đen đè nặng trăng không sáng
Loang lổ trời đêm máu tím bầm
Rặng núi nặng lề ôm mây ngủ
Nghe vẳng phương xa tiếng sấm gầm"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
41
Trước sự tàn ác dã man của kẻ thù cướp nước khiến biết bao con người vô tội
phải lầm than, cơ cực. Do đó nó càng làm tăng nỗi căm hận của người dân mất nước,
họ phải quyết đối đầu với kẻ thù mạnh hơn mình, phải vùng lên không chỉ cho bản
thân họ mà là cho cả một dân tộc. Bởi vậy, từ xung đột cụ thể của những con người là
nhân vật trong sử thi ta thấy đó cũng chính là xung đột "nóng bỏng" giữa các quốc gia,
dân tộc - giữa các đế quốc với "đất nước đứng lên".
Sự xung đột ấy lý giải cho những gì diễn ra trong lịch sử mà sử thi đã tái hiện lại.
Đó cóthể là những xung đột giữa con người và "thần thánh" nhưng cũng có thể là xung
đột giữa con người với con người - có khi kéo dài từ thế hệ này xang thế hệ khác
Cũng từ những xung đột ấy mà ta thấy xuất hiện trong sử thi "nhân vật anh hùng"
nhưng đó cũng là "những anh hùng mang tầm vóc thời đại". Bởi lẽ đó là những anh
hùng tiêu biểu cho sức mạnh của dân tộc vùng lên đấu tranh. Không giống như tù
trưởng Đam San hùng mạnh, có nhiều chiêng ché nhưng những người tiêu biểu như
Hùng, Rin cũng tiêu biểu cho các dân tộc Tây Nguyên dám đứng lên đối đầu với quân
cướp nước đầy man rợ.
"Trống rền chiêng ché rung cây núi
Tiếng chinh lặn xuống còn ngân
Người giậm, Giun chồi lên mặt đất"
(Thu Bồn - bài ca chim Chơrao)
Trước thời đại và quy luật tất yếu của lịch sử mà những con người ấy phải đứng
lên, họ phải can đảm, kiên cường, gan dạ chống lại kẻ thù. Tư thế của những người
chiến sỹ ấy là tư thế cao đẹp - tư thế đứng cao hơn sự thực tù ngục và pháp trường.
Những hình tượng anh hùng bất khuất được xây dựng trong trường ca của Thu Bồn
giống như ngọn đuốc sống cất cao tiếng hát trầm hùng, là một hình tượng sáng ngời
chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa lạc quan cách mạng: gông xiềng, bom đạn của kẻ thù
có thể giết chết họ, nhưng chẳng thể nào giết nổi trái tim lạc quan yêu đời, lí tưởng anh
hùng mà họ đã mang theo
42
"Gông xiềng cắn nát chân ta
Ngày mai trước những lằn roi lửa
Anh còn hát mãi chẳng rên la"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Họ đã từng tuyên bố:
"Muốn tự do phải làm người cách mạng
Nắm tay người dân tộc anh em
Vinh dự được làm người chiến sĩ
Là trọn đời chiến đấu không tên"
(Thu Bồn - Bài ca chim báo bão)
Để xây dựng những hình tượng như thế thì một điều chắc chắn không thể thiếu
trong sử thi đó là ngôn ngữ và giọng điệu.
Cảm hứng anh hùng có thể "vót cao trong tiếng nói hào hùng, trong những hình
tượng đồ sộ, chót vót của phong cách lãng mạn, đồng thời, phổ biến và gần gũi hơn
với thơ truyền thống, nó cũng quen đọng lại những cảm xúc động với nhiều giai điệu
trữ tình khác nhau". (Lại Nguyên Ân - Mấy suy nghĩ về trường ca)
Với ngôn ngữ giàu tính biểu tượng, giọng điệu hào hùng đã khiến cho trường ca -
Thu Bồn nói riêng, các trường ca nói chung mang đậm tính sử thi. Đồng thời nó là
mạch nối, giai điệu gắn kết toàn bộ thiên trường ca.
Chiều sâu và sức rung động của những vần chữ trong trường ca Thu Bồn bởi sự
suy nghĩ chân tình kết hợp với ngôn ngữ, giọng điệu trong tác phẩm.
Thu Bồn đứng trong tư thế của một nhà thơ, mộtchiến sĩ - có thể được coi là cái
tôi chứng nhân lịch sử. Theo dòng thời gian với cuộc chiến tranh thần thánh của dân
tộc và các hình tượng nhân vật tiêu biểu, rất tự nhiên, rất bộn bề đã tạo thành một
chỉnh thể mang sức khái quát cao về nhân dân, tạo thành cái hơi thở toát ra từ trung
tâm cuộc sống. Tất cả hội tụ lại, làm lên một áng "sử thi hiện đại" - liên kết xúc động
trữ tình và cảm hứng anh hùng ca.
Cảm hứng sử thi của Thu Bồn có những biểu hiện độc đáo. Điều đầu tiên ta bắt
gặp trong các tác phẩm trường ca mang tính sử thi đó là một bức tranh hoành tráng về
lịch sử trong những năm tháng ác liệt đầy thử thách.
43
Ngay mở đầu "Bài ca chim chơrao", hiện ngay trước mắt người đọc một cảnh trời
u ám:
"Làng mạc xa chòi canh thấp thoáng
rào vỉ giăng bóng tối đen ngòm
Tiếng mõ điểm canh khuya nhức óc
Dân vệ đi tuần chó sủa om"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Song, tất cả những sự kiện lịch sử chiến tranh chói lọi, bức tranh hoành tráng chỉ
làm nền để tôn vinh hình ảnh con người - những con người dũng cảm kiên trung.
Do đó mỗi tác phẩm văn học hay trường ca đều có một nhân vật anh hùng cụ thể,
giàu phẩm chất anh hùng cách mạng, gắn với một sự kiện lịch sử nhất định nhưng điều
đáng nói là những con người ấy lại mang trong mình tư thế của một dân tộc anh hùng,
đứng trên tầm cao thế kỷ của thời đại, tiếp nối truyền thống yêu nước hào hùng của
cha ông. Đó là những con người anh hùng, là chiến sỹ của đồng bằng, của miền Nam,
miền Bắc, các anh cũng là người chiến sĩ Tây Nguyên rừng núi đi về phương Nam, các
anh là Đam San hay Tnú thời đại, là tướng lĩnh không có tù và chiêng ché nhưng bước
các anh đi rẽ rừng, băng suối, tràn xuống biển khơi. Các anh là con của Lạc Long
Quân và Âu Cơ, là con của vùng đất "xứ thiêng liêng". Các anh đi tìm giặc Mĩ mà
đánh dù rằng cái khổ, cái khổ vẫn còn đầy phía trước: "Trận mùa khô đánh Mỹ" /
"Quân ta thiếu cơm thiếu súng thiếu cả người" (Thu Bồn - Bazan khát).
Nếu như với hình tượng mảnh đất Củ Chi và lính du kích bình thường nhỏ bé hòa
quyện trong tâm linh đã giúp Trần Mạnh Hảo xây dựng trường ca "Mặt trời trong lòng
đất" thì với những người lính giản dị mà tài hoa thì mảnh đất Sa Huỳnh hòa lại chảy
trong tâm hồn Thu Bồn đã tạo cảm hứng cho ông viết nên "Bài ca chim Chơ rao" - đó
như một bài ca về ước nguyện của người anh hùng đánh giặc: "Vinh dự được làm
người chiến sĩ / Là chọn đời chiến đấu không tên" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Nhắc đến ước nguyện này khiến ta lại nhớ tới hình ảnh những người lính nhỏ bé
mà tạo nên cuộc đời như trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm:
44
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Cũng chính từ những ý chí kiên cường ấy, hiện lên trên tất cả sự tàn ác đau
thương mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc đó là hình ảnh người anh hùng hiên ngang bất
khuất - bất chấp đòn lao hay tù ngục: "Thế phải đứng, anh đứng cho quân thù run sợ"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Đó là thế đứng của anh hùng thời đại mới, thế đứng của cả mộti dân tộc, tượng
trưng cho "dáng đứng Việt nam tạc vào thế kỉ"
Với lòng yêu nước, căm thù giặc , mong ước đem lại sự yên vui hòa bình cho dân
tộc; những người chiến sĩ ấy đã đứng lên vì dân tộc thân yêu, vì dòng máu của cha
ông, của dân tộc đang chảy trong máu của các anh. Có lẽ vì thế mà những nhân vật
như Hùng, Rin trong "Bài ca chim Chơ rao" của Thu Bồn mới có thể mang trong mình
một sức mạnh phi thường đến thế. Bọn giặc Mĩ tưởng đâu những thủ đoạn dã man của
chúng có thể khiến những người anh hùng như Hùng với Rin phải sợ:
"Một chiếc kìm nung trong lửa đỏ
Mấy lưỡi dao trắng lạnh trên bàn
Một bao thuốc vài chai rượu mạnh
Bó nứa dài vuốt mỏng thành than
Cảnh âm ti hiện ra trước mắt
Những tên quỷ sứ đang cười
Đây công việc hàng ngày của chúng
Hàm răng vàng vấy lắm máu tươi"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Trước khung cảnh "âm ti", "địa ngục" ấy, người chiến sĩ Hùng, Rin hiện lên thật
đẹp, họ như những vị thánh thần, họ không phải là thần Dớt hay thần mặt trời nhưng
sức mạnh và khối óc của họ sánh ngang với các vị thần.
45
"Với bàn tay độp phồng cháy khét
Anh ung dung vớ lấy chiếc kìm
Véo vào đùi rứt ra miếng thịt
Bọn ác ôn trông thấy rợn mình"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
So với sử thi "Đẻ đất đẻ nước" thì đây không phải là một huyền thoại lịch sử với
chiến tranh của các vị thần nhưng nó vẫn mang trong mình sự kì vĩ và hoành tráng.
Trên con đường vạn dặm đưa dân tộc mình từng bước đi lên, người anh hùng này đã
lập những kì tích một cách vô tư vì các lợi ích "tối thượng" của muôn người. Bởi vậy
trường ca Thu Bồn được sáng tạo theo cảm hứng cội nguồn với ý tưởng tràn đầy âm
hưởng sử thi, vừa có tính nhân dân cụ thể, vừa có tính nhân loại phổ quát.Vì vậy:
"Rin đã thắng quân thù bạo ngược
Đây dòng máu đỏ trung kiên
Như cành thông reo hát giữa quê hương"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Đó là người con trai có tinh thần thép, ý chí kiên cường, sức mạnh vô biên. Nếu
như Đam san đi chinh phục thiên nhiên thể hiện qua hành động đi bắt nữ thần mặt trời
thì Hùng, Rin trong "Bài ca chim Chơ rao" hành động một cách thiết thực hơn với thời
đại mới đó là đi đánh đuổi quân cướp nước bạo tàn. Đây không đơn giản là sức mạnh
của cơ bắp hay thân thể mà đó còn là sức mạnh của ý chí: "Máu thịt tao quyện vào bụi
đất / Xương óc tao rải khắp quê hương" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Ở đó như vẫn còn nguyên trong sâu thẳm tâm hồn của người xưa là những niềm
cảm khái, có cả vinh quang và cay đắng nhưng cảm hứng bao trùm vẫn tràn đầy niềm
tự tôn, tự hào. Ở đó hiện ra toàn bộ sức sống bền bỉ và sức mạnh hòa hợp của cả một
cộng đồng. Bởi thế, nó là sự kế thừa của cha ông "Đời cha có hóa ra than củi / Đời
con rực cháy lửa trong tim" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Đó là cái truyền thống đã chảy trong huyết mạch mỗi người, nó là sự truyền lại
và kế thừa ý chí, ước mơ khao khát mãnh liệt đến cháy bỏng của cả một dân tộc. Đó là
bài ca về dân tộc, về con người. Bởi vậy sau Hùng Rin mới có Dang Nghi A bất chấp
"cung nỏ, đục choòng" của kẻ thù vẫn khắc sâu thêm dòng chữ "Hồ Chí Minh muôn
46
năm", cho thấy sự dũng cảm kiên trung của người chiến sĩ anh hùng: "Dang Nghi A
như ngọn đuốc băng mình / Gãy đổ cây rừng vách đá rung rinh" (Thu Bồn - Vách đá
Hồ Chí Minh)
Đây quả thực là một sức mạnh siêu nhiên, biến căm hờn và đau thương thành sức
mạnh và ý chí, thành "ngọn đuốc" và "ngọn đuốc" ấy cháy hừng hực và dữ dội: làm đổ
cây rừng, vách đá phải rung rình. Độ cao của vách đá được so sánh với ý chí của con
người: "Vách đá cao như khí phách của con người". Việc lấy ý chí con người làm
chuẩn để so sánh với thiên nhiên đã khiến cho khí phách người anh hùng được tăng
lên, được nâng lên một tầm vóc mới. Giống như xưa kia Thủy Tinh không thể mãi làm
cho nước dâng ngập núi, con người không thể đạp đổ dãy Trường Sơn nhưng với sự
thông minh khôn khéo con người hòa với thiên nhiên thành một chúa tể siêu phàm
hùng mạnh: "Vách đá như lồng ngực người chiến sĩ / Đập vào biển Đông, sóng dội
gấp trăm lần" (Thu Bồn - Vách đá Hồ Chí Minh)
Không dừng ở đó mà dường như mỗi lần va đập, sức mạnh đó lại càng được
nhân lên oanh liệt hơn, người chiến sĩ trở nên hùng cường hơn: "Lồng ngực con người
căng trong bão tố / Máu vọt ra mở đường cho vách đá" (Thu Bồn - Vách đá Hồ Chí
Minh).
Câu thơ khắc sâu trong tâm trí mọi người như một thứ khẩu hiệu đấu tranh vì đó
là hiện thân của khí phách dân tộc.
Tiếp nối hình tượng là tù trưởng DamSan: Hùng, Rin, Dang Nghi A và những
người chiến sĩ trong trường ca Thu Bồn, họ phi thường quả cảm và luôn chiến thắng ở
cõi người với những lí do hiển nhiên: họ tài giỏi và nhạy cảm với số phận cả bộ tộc
trong lao động.
Nhưng để được như vậy bên cạnh những người chiến sĩ ấy còn có sự góp sức của
nhân dân, thậm chí là cả những người phụ nữ.nếu như người con trai ra trận thì người
con gái ở nhà "nuôi cái cùng con", làm hậu phương vững chắc và người mẹ của bản
làng, rừng núi lại quyết góp sức mình vào việc giữ gìn từng hạt muối nuôi dân quân đi
làm cách mạng
47
"Mẹ giữ muối như giữ từng giọt máu
Đừng tan muối ơi ! Chất mặn Sa Huỳnh
Muối trắng giằng từ bàn tay giặc
Thấm máu bao đồng đội đã hi sinh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Hay hình ảnh Dy Mơ Thưng trong "Vách Đá Hồ Chí Minh" tương tự như Hơ
Nhí, Hơ Bhí trong "Bài ca Damsan": họ hiện ra vẻ đẹp nữ tính, toàn vẹn và đều là
những người tha thiết với nghĩa vụ cao cả bảo vệ phong tục cộng đồng. Điều này làm
ta nhớ tới những câu thơ trong "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm:
"Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng"
Ngoài ra hình ảnh của người con gái Sao, Y Rin, …trong trường ca Thu Bồn
giống như HơBia và nữ thần mặt trời, họ là hiện thân cho khát vọng tình yêu lí tưởng.
Nó như tiếp thêm sức mạnh quyết tâm và làm giàu tâm hồn những người chiến sĩ anh
hùng kiên trung tạo nên con người thời đại mới
Có thể thấy rằng hầu hết tính sử thi anh hùng được xây dựng trong trường ca đều
xuất phát từ những con người bình thường những người dân gần gũi giản dị nhưng họ
là những người lính mang trong mình trái tim cháy sáng hừng hực lòng yêu nước và
căm thù giặc. Trong "Bài ca chim Chơ rao", ''Vách đá Hồ Chí Minh", …con người sử
thi được thắp sáng bằng hình ảnh đối lập giữa người anh hùng và kẻ thù - quân giặc
cướp nước bạo tàn. Nhân vật và khung cảnh được khắc họa có kích thước và tầm vóc
khuynh hướng cách điệu hóa - tạo cảm hứng sử thi.
Song khác với sử thi trước thời kháng chiến chống Mĩ, nếu như người anh hùng
của sử thi cổ được xây dựng dưới hình ảnh của vị thần thì ở trường ca Thu Bồn đó lại
là những người anh hùng của thời đại mới, họ rất thực rất đời thường, rất gần gũi với
nhân dân nhưng mang trong mình sức mạnh và ý chí tinh thần thép. Những người
chiến sĩ hùng cường trong trường ca Thu Bồn không phải là người đứng đầu bộ tộc
như tù trưởng Đam san, nhưng họ là Tnú của dân tộc, đại diện cho khát vọng và ý chí
48
của dân tộc. Mang trong mình kích thước của lịch sử họ tiêu biểu cho vẻ đẹp của dân
tộc và cộng đồng; đó là vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ
Chí Minh. Tất cả làm nên "Bài ca giữ nước" anh hùng và đẹp lạ lùng. Từ đó khiến cho
bản trường ca Thu bồn mang đậm âm hưởng hào hùng và những biểu tượng nói về sự
cao cả của đất nước và con người:
"Nằm khuất nơi đấu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh
Cho tổ quốc lừng danh hiển hách
Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Phải chăng đây cũng chính là ngọn nguồn làm nên sức mạnh bất khuất, đưa
người anh hùng từ truyền thống vẻ vang lên đến tầm cao thời đại. Nhưng ngay cả khi
ngợi ca sức mạnh thiên thần, cái vẻ đẹp anh hùng ấy, các nhà thơ vẫn không quên
gương mặt tâm hồn anh, bởi vì chính trái tim nhiệt huyết làm ngọn nguồn tạo nên sức
mạnh ấy. Ta hiểu sao những con người, bình dị ấy lại lừng danh trên thế giới "Mạnh
hơn tất cả bom đạn, đạn bom, làm run sợ cả lầu năm góc".
Viết về chiến tranh thì không thể né tránh những đau thương mất mát của chiến
tranh; Thế nhưng mất mát, hi sinh không có nghĩa là bi thương yếu đuối. Những con
người trong trường ca Thu Bồn nói riêng, cũng như tất cả những trường ca khác nói
chung đều là những anh hùng vô cùng dũng cảm, bất khuất và họ đẹp hơn cả là giữa
bao nhiêu bộn bề, sự mất mát đau thương đến cháy lòng dạ thì họ vẫn lạc quan để sống
và hi vọng về một ngày mai chiến thắng, dù rằng họ đang sống trong không khí bom
đạn vây quanh của kẻ thù, không có một ngày bình yên để ngắm mặt trời.
Đó cũng là lí do tại sao người anh hùng trong trường ca Thu Bồn còn sống mãi
như một biểu tượng vĩ đại của dân tộc: "Sợi dây trói cháy thành tro bụi / Nhưng tim
anh hùng vẫn còn đập giữa khói đen".
Cho dù kẻ thù có man rợ, tàn ác đến mấy thì chúng cũng có thể thiêu cháy thể
xác người anh hùng nhưng còn trái tim người anh hùng nóng bỏng và nhiệt huyết thì
vẫn còn đập mãi… Hình ảnh "Đập giữa khói đen" khiến cho hình tượng người chiến sĩ
49
trở nên thiêng liêng hơn, cao cả hơn. Những trái tim của người chiến sĩ ấy sẽ mãi đập
những nhịp đập thật mạnh mẽ, điều đó để trả lời với kẻ thù rằng:
"Quân thù kia ơi ! Một bầy man rợ
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Quả thực, cho dù thể xác người chiến sĩ có phải tan ra thành tro bụi thì trái tim, lí
trí, khối óc người chiến sĩ vẫn còn đó. Bởi vậy nó kết thành một vòng hoa rực rỡ trên
ánh lửa hồng - "Qua máu nở thành hoa". Hình ảnh "Ánh lửa" khiến ta nhớ tới hình
tượng "lửa" trên đầu ngón tay Tnú - nhân vật anh hùng trong "Rừng Xà nu" của
Nguyên Ngọc. Hình ảnh "lửa" ở đây như một nốt nhấn trong bức tranh đất nước nổi
dậy của Nhà văn. Đó là "lửa" mà kẻ thù tìm cách tàn phá cuộc sống bình yên. Nhưng
không chỉ thế mà người đọc còn nhận thấy trong đó những hình ảnh lửa khác; lửa căm
hờn trong đôi mắt người chiến sĩ như: Hùng, Bin, Trức… "lửa" để khẳng định bản lĩnh
và tinh thần cách mạng kiên cường của người chiến sĩ trong những ngày khủng khiếp
mà kẻ thù đã tra tấn các anh, rồi lửa báo hiệu những ngày núi rừng Tây Nguyên đã nổi
dậy, báo hiệu chúng ta đã cầm súng. Bởi vậy, đôi bàn tay Tnú trong "Rừng Xà Nu"
giống như "vòng hoa" thông thường mà là "đôi bàn tay" và "vòng hoa" tượng trưng
cho số phận, đó là số phận của Hùng, Rim, Trúc nhưng cũng chính là số phận của cả
một dân tộc. Nó trở thành một biểu tượng nghệ thuật tôn thêm vẻ đẹp con người. Đúng
như một nhà văn đã từng có câu: "Chúng muốn ta hóa thành tro bụi / Ta hóa vàng
nhân phẩm lương tâm".
Vâng, chính sự "hóa vàng" ấy thể hiện một tấm lòng kiên trung, vững bền của
người chiến sĩ. Năm tháng đã đi qua, thời gian hiện tại sẽ là quá khứ, nhưng hình ảnh
những người chiến sĩ anh hùng bất tử trong lòng mỗi con người - từ con người trong
thời chiến đến những con người sống trong hòa bình hôm nay. Nên thế mà:
50
"Cỏ không phủ được lối người đi trước
Hố bom không vằm đứt được lời ca
Con đường Hồ Chí Minh lia một vệt
Lưỡi gươm trường chém đứt mặt vạn hố bom
Ánh đèn pha chẻ hai bóng tối
Rừng lưỡi lê xốc mặt trời lên phương nam..."
(Thu Bồn - vách đá Hồ Chí Minh)
Tất cả những điều đó kết hợp lại tạo thành âm hưởng hào hùng trong toàn bộ
trường thiên của Thu Bồn. Hơn nữa, trên hết tất cả đó là biểu tượng về sự cao cả của
con người mà những con người ấy lại đại diện cho cả một dân tộc, như chiêm nghiệm
của những câu thơ trên vách đá Angkor ca ngợi Jaia Vaman: "...cánh tay người là con
đẻ của công lý vắt ngang qua đại dương mênh mông để chặn những vết nhơ thế kỷ...".
Nếu sử thi "Đẻ đất đẻ nước" thiên về ý tưởng giải thích chủ quan về một quá khứ
vĩ đại trong cảm hứng tự tôn hay "Bài ca Đam San" lại tiêu biểu cho anh hùng và con
người thời đại sử thi thì trường ca của Thu Bồn lại muốn trình bày khách quan toàn bộ
khát vọng tự khẳng định chính tầm vóc anh hùng của con người thời đại mới - tính
thương từ những gì cụ thể đến những gì mở rộng, bao trùm như Tổ quốc, dân tộc, nhân
dân luôn được khai thác như là nguồn lực của hành động anh hùng.
Tóm lại, từ bức tranh hoành tráng về lịch sử, con người biểu tượng cho sự dũng
cảm, kiên trung kết hợp với âm hưởng hào hùng đã tạo nên cảm hứng sử thi trong
trường ca Thu Bồn.
2.2. Cảm hứng trữ tình trong trường ca Thu Bồn:
Cảm hứng trữ tình trước hết khởi nguồn từ tâm hồn của tác giả. Đối với Thu Bồn,
tâm hồn ông hết sức nhạy cảm, rộng mở. Thu Bồn yêu đất nước này vô cùng, yêu từng
con người, mảnh đất thân yêu, từng bờ tre, con đường, hàng dừa xào xạc và những
đêm trăng thơ mộng. Ai cũng biết chiến tranh là đau thương, là mất mát nặng nề.
Trong trường ca của ông đều có cả, đều được phản ánh một cách chân thực, rõ ràng.
Là một người lính nơi chiến trường, ông hiểu được hết sự mất mát mà dân tộc
Việt Nam phải chịu đựng. Nhưng cũng chính người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà có
lẽ cũng chỉ có người Việt Nam thôi, dân tộc Việt Nam thôi, truyền thống 4000 năm
51
lịch sử đánh giặc giữ nước, họ luôn coi thường gian khổ, họ cười khi đánh giặc, họ
ngạo nghễ và hiên ngang trước mọi kẻ thù. Thế nên trong hầu hết các tập Trường ca
của ông, bên cạnh cảm hứng hào hùng, mang đậm tính sử thi của một thời đại bi hùng
của dân tộc vẫn luôn luôn vang lên những bài ca trữ tình, đôi lúc cả hai như hòa quyện
vào nhau tạo nên nhịp đập chung của dân tộc, của cuộc kháng chiến.
Trong "Bài ca chim Chơrao", một tù nhân nữ trong đêm tối mà theo song sắt,
chân đeo xiềng, bước thấp bước cao...vậy mà:
"Ồ! Lạ lùng thay khuya thanh vắng
Bỗng vút cao lên tiếng hát trong ngàn
Vượt mái tôn dày sương rơi trắng
Tiếng hát bỗng trầm một tiếng chinh ngân"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Nhưng chính tiếng hát đó đã làm cho bao con tim khác đang bị giam cầm bật lên
một nỗi xúc động, bồi hồi nhịp đập của những trái tim đó trở nên rộn ràng, tràn đầy
sinh lực, làm tiêu tan đi cảm giác lạnh lẽo, u tối của ngục tù:
"Tiếng hát mơ màng trong giấc ngủ
Bao con tim xúc động bồi hồi
Giọng hất trầm hùng thương nhớ
Như tiếng gió nề trên nương rẫy xa xôi"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Và đúng như vậy:
"Dãy núi xa kia ai đốt lửa
Vẫy gọi người bạn trẻ đêm nay
Lòng ta cũng biến thành ngọn lửa
Ta thiêu đốt trại cả đêm dài"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Lòng yêu đời, sự lạc quan đã giúp cho họ có một sức mạnh phi thường, có thể
tiêu diệt mọi âm mưu của kẻ thù, có thể sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa những đêm đông
giá lạnh.
52
Song tiếng hát đó phát ra từ trái tim của người con gái đang tuổi yêu, cô dành tất
cả niềm yêu thương, tình cảm của mình cho người con trai mà họ đã yêu nhau từ hồi
còn ở bản làng. Giờ đây, vì theo cách mạng đánh giặc mà cả hai ở trong ngục tù. Nên
tiếng hát của Sao - tên của cô gái có cái gì đó như trách móc, giận hờn, thể hiện rất rõ
tâm trạng khao khát của người con gái:
"Rin ơi ! Ngày mai trời sáng
Có con chim kêu trước hiên nhà
Mày dặn chim nói với người con gái
Tất cả tâm tình của chúng ta"
Tình yêu đó như bị cắt đứt, chia đôi vì chiến tranh của kẻ thù gây ra. Cũng giống
như bao nhiêu những chàng trai cô gái khác. Thu Bồn gửi những năm tháng trai trẻ của
mình ở chiến trường ác liệt, chắc rằng cũng có người con gái nào đang chờ đợi Thu
Bồn và Thu Bồn đang nhớ về hình bóng của người yêu. Thế nên:
"Đêm ngập xuống nặng nề chậm chạp
Tiếng hát cuối phòng vẳng vang lên
Giọng hát trầm buồn tha thiết
Một dòng sông nước chảy êm êm"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Chúng ta thấy rằng cảm hứng trữ tình trong trường ca của Thu Bồn rất khác biệt
so với một số nhà thơ khác.
Với Nguyễn Khoa Điềm, trong trường ca "Mặt đường khát vọng" thì đó là cảm
hứng trữ tình sâu lắng, thiết tha kết hợp với ngôn ngữ dân gian tạo nên một tâm hồn
dân tộc nhẹ nhàng như lời ru:
"đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
tóc mẹ thì bới sau đầu
cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"
(Nguyễn Khoa Điềm - Đất nước - Mặt đường khát vọng)
Tất cả những gì có trong lịch sử đều góp phần tạo nên đất nước. Nhà thơ đã khắc
họa đất nước hết sức điển hình: giàu chất trữ tình và giàu chất lịch sử: "Ôi đất nước
53
bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy / Những cuộc đời đã hóa núi sông ta" (Nguyễn
Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng).
Đọc kĩ, suy ngẫm kĩ ta thấy cảm hứng trữ tình trong trường ca của NKĐ thấm
đượm chất sử thi nên mang khuynh hướng giàu chất suy nghĩ, trí tuệ thiên về chính
luận:
"Em ơi ! Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời"
(Nguyễn Khoa Điềm – Mặt đường khát vọng)
Còn với Thu Bồn thì là một giọng điệu cao vui, vang xa, tội ác của kẻ thù càng
lớn, gian nan chiến tranh càng nhiều thì những tiếng hát lời ca càng vang dội:
"Rin nhổm lên ôm chầm thiếu nữ
Tưởng gông xiềng nát vụn dưới chân anh
Mảnh tôn bay đi để một trời sao lộng lẫy
Tường giam bốn phía đổ tan tành"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Tình yêu của họ tạo nên một sức mạnh vô địch có thể làm đứt gãy mọi gông
xiềng kìm kẹp của kẻ thù, có thể làm những bức tường nhà tù kiên cố bỗng chốc tan
thành mây khói. Một cảm hứng sử thi nói lên tầm vóc, sức mạnh của thời đại. Rồi lại
một tiếng hát vang xa:
"Cô gái cùng anh ca hát
Cườm rung lên lấp lánh ánh sao
Bao thác mấy đèo đi mãi
"Muốn tự do phải làm cách mạng
Nắm tay người dân tộc anh em
Vinh dự được làm người chiến sỹ
Là trọn đời chiến đấu không tên"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
54
Đọc những câu thơ này chúng ta thấy rất quen thuộc. Với nhịp nhanh, mạnh, nó
giống như một lời tuyên thệ của bao thế hệ thanh niên Việt Nam trước khi lên đường
chiến đấu. Thực sự vinh dự, thực sự tự hào khi được làm anh bộ đội Cụ Hồ, mang
trong mình một lý tưởng cao đẹp. Một bản trữ tình ca cách mạng được Thu Bồn khắc
họa rõ nét vào những nhân vật cụ thể là Hùng và Rin. Họ chiến đấu không cần mang
tên tuổi bởi họ đã là chiến sỹ cách mạng, mang hơi thở hừng hực của một thời vĩ đại.
Chân lý này cũng giống như nhà thơ trữ tình chính trị Tố Hữu khi được mặt trời
chân lý soi sáng tư tưởng, thì cũng là lúc cảm thấy:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"
(Từ ấy - Tố Hữu)
Những người lính nhà thơ ngày ấy, họ cùng chung một lý tưởng cao đẹp. Hơn
nữa vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc gắn liền với số phận của mỗi cá nhân, với
hạnh phúc lứa đôi, với tình yêu chồng vợ. Thu Bồn nói về một anh lính có tên là Hùng
có quê ở vùng biển thân yêu, hay đó có thể là chính Thu Bồn. Anh ra đi chiến đấu để
lại nơi quê nhà cô người yêu bé nhỏ ngày đêm đang vò võ đợi chờ, cùng mái nhà tranh
vắng bóng. Hình ảnh đó cứ theo mãi anh, luôn ở trong anh trên mỗi bước đường chiến
đấu:
"Hùng có mái nhà tranh nho nhỏ
Và một người yêu vò võ đợi chờ
Hàng dương quanh năm cãi lời ngọn gió
Mái tranh nghèo gốc đánh xác xơ"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Cả anh và em đều khắc sâu mối tình của ngày hẹn ước lúc xa nhau. Người con
gái đã hứa yêu anh là yêu đến cả trọn đời:
55
"Cô gái hiền quanh năm chài lưới
Trên bàn tay có nắng mặt trời
Cô gái có tâm hồn sóng biển
Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Còn anh:
"Ngày ra đi anh hẹn em trở lại
Muối biển trọn đời vẫn mặn anh ơi
Hãy nhớ em, nhớ con thuyền gợi sóng
Một cánh buồm con mỏng mảnh giữa chân trời"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Chắc rằng khi xa nhau ai chả mong có ngày gặp lại, nhưng ai mà biết được ngày
nào ? Họ cứ chiến đấu dài lâu, mang theo bên mình tình yêu thuở ấy, gắn chặt tình yêu
của mình với tình yêu đất nước
"Anh nhớ nhé xóm nghèo chài lưới
Con cá tươi nấu trã canh bầu
Đất quê ta quân thù còn chiếm
Bưng bát cơm mà có biết ngon đâu"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Anh nhớ về em, anh nhớ về mẹ, nhớ tất cả những gì thân quen, gần gũi nơi xóm
chài nghèo:
"Anh bỗng nhớ tiếng ru bài hát cũ
Cái con chim xanh ăn tráì xoài xanh
Mẹ ra ru anh những trưa nồng anh ngủ
Con chim xanh ăn trái xoài xanh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Trong Mỹ học, Hêghen cho rằng tự sự là thế giới của khách thể, trữ tình là thế
giới của chủ thể. Tự sự là sự tái hiện cuộc sống mang tính chất khách quan, còn trữ
tình là sự tái hiện cuộc sống mang tính chủ quan nhưng cuộc sống con người có tính
56
xã hội và tính lịch sử, cho nên nội dung của một tác phẩm văn học, dẫu là sử thi hay
trữ tình, chính là sự thống nhất của cuộc sống được nhận bởi nhà văn.
Thường thì ta thấy rằng tác phẩm tự sự sẽ thể hiện tính cách nhân vật trong tồn
tại xã hội thông qua các đặc trưng về hình tượng nghệ thuật, miêu tả đối tượng, các chi
tiết phong phú, ngôn ngữ và kết cấu gắn bó với nhân vật. Nguyên tắc sử thi của văn
học sẽ nằm trong chiều sâu của sự cấu tạo và các thủ pháp sáng tạo để dựng lên những
tính cách điển hình tồn tại trong xã hội có nhiều biến cố lớn lao. Nhân vật trữ tình là
một hình thức đặc biệt biểu hiện nhận thức của tác giả. Vì thế yếu tố trữ tình và sử thi
thể hiện ở chỗ người đọc nhận thấy trong trường ca: cái tôi của tác giả, đồng thời cả
bóng dáng các nhân vật khác trong đời sống xã hội. Điều đó đã thể hiện xu hướng kết
hợp yếu tố trữ tình và sử thi trong trường ca của một số nhà thơ hiện đại.
Trường ca, như đã nhiều lần đề cập ở trên, thường thể hiện mục đích nhằm tổng
kết một giai đoạn lịch sử lớn lao của dân tộc, và đó là một lý do cơ bản, một đặc tính
quan trọng để tạo tính sử thi cho trường ca Thu Bồn khi viết về đề tài chiến tranh thời
chống Mỹ.
Trong trường ca "Đường tới thành phố", Hữu Thỉnh đã khái quát hóa về cuộc
chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Đó là con đường lớn dọc núi
rừng Trường Sơn đế tiến về thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng. Đó là con đường
phát triển từ hậu phương đến tiền tuyến, con đường với những nhân vật anh hùng như
người lính, người mẹ. Và những câu thơ viết về mẹ rất dào dạt chất trữ tình:
"Nếu mẹ biết ta còn đông đủ
Đang bập bùng thương nhớ suốt hành lang
Giọt đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt
Chia bình yên cho mỗi con đường"
(Hữu Thỉnh - Đường tới thành phố)
Hữu Thỉnh nói chuyện với người yêu bên gốc sim cằn, một gốc sim thôi nhưng
nó là Tổ quốc. Vừa trữ tình thiết tha, đằm thắm vừa mang tính trữ tình sâu nặng:
57
"Trời ơi ! Nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi, dù một gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao ? Tổ quốc
Thơ ơi thơ ! Hãy ghì lấy gốc sim"
(Hữu Thỉnh - Đường tới thành phố)
Và trữ tình, đằm thắm sắc màu biết bao, lột tả hết tâm trạng: "Hoa bung biêng đi,
con lắc của mùa xuân / Rừng không ngủ vì những hồi gõ tím".
Sở dĩ ta nhắc nhiều đến Hữu Thỉnh như vậy là vì Hữu Thỉnh cũng như bao nhà
thơ khác đang cùng chung nhịp đập với Thu Bồn. Kết thúc tập trường ca "Bài ca chim
Chơrao" là một khúc ca khải hoàn giống như là mừng ngày chiến thắng. Đây có lẽ là
tổng kết một giai đoạn chiến đấu hào hùng của đồng bào Tây Nguyên cũng như của cả
nước. Đến lúc này kẻ thù hiểu rằng, một dân tộc ngoan cường không thể khuất phục.
Còn lời ca trữ tình sảng khoái cho chúng ta thấy rằng họ vẫn đứng vững và ngày càng
đứng thẳng, mạnh mẽ bước tiếp con đường thắng lợi vẻ vang:
"chim phí bay giữa trời ca hát
Kết đoàn vỗ cánh túc nao
Chơrao bay kết liền đôi cánh
Pơxe ngoan cường phóng mũi tên lao"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Tiếng hát lời ca từ ngục tù đã vang xa ra cả bầu trời rộng lớn, như đoàn kết dân
tộc "kết liền đôi cánh".
Một dân tộc Tây Nguyên đã anh dũng chiến đấu, kiên cường và bất khuất trong
một giai đoạn nhất định:
"Đất nước Tây Nguyên anh hùng bất khuất
Màu xanh lớp lớp vô tận dấy lên
Đầu đỡ vòm trời chân xoài biển cả
Vai vắt khăn mây dải lụa mềm"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Ở đây chúng ta thấy được cảm hứng sử thi và cảm xúc trữ tình hòa quyện thành
một, nhưng sự kết hợp đến mức hài hòa tuyệt đỉnh ở đây chứng tỏ tài năng của Thu
58
Bồn - ông rất nhạy cảm và lãng mạn: "Đầu đỡ vòm trời chân xoài biển cả / Vai vắt
khăn mây dải lụa mềm" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao).
Thu Bồn nhạy cảm lắm. Anh rung động sâu sắc trước nỗi nhớ người yêu của một
người lính khi đang hành quân trên con đường Hồ Chí Minh. Trên con đường đầy gian
nan khổ ải, qua núi, qua rừng, qua những trở ngại của con đường chiến đấu, tưởng
chừng như khó vượt qua nổi, nhưng tuổi trẻ dễ lộ tâm tình, và anh vẫn hành quân, vẫn
nhớ "Tôi đi trên con đường Hồ Chí Minh / Tuổi trẻ thơ dễ lộ hết tâm tình / Tôi có một
người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng / Ở chót lưỡi Cà Mau - trên đầu muôn ngọn sóng /
Đợi tôi về !"
Người con gái này và anh bộ đội đang hành quân kia, hoặc có lẽ là chính anh lính
Thu Bồn đã có một tuổi thơ đầy gắn bó, đã từng cùng nhau tắm chung một dòng sông
quê hương, cùng hái những trái dừa ngọt mát, trong vắt ngày thơ dại - cái thuở "dễ lộ
hết tâm tình kia!". Những tháng ngày đó là những kỷ niệm không bao giờ quên được
đối với mỗi con người. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ, ai cũng có một thời để yêu và
một thời để nhớ. Như đối với những người lính trong chiến tranh thì những kỷ niệm đó
đáng quý biết nhường nào. Nó là liều thuốc bổ trong những tháng ngày mệt nhọc, là sự
hồi sinh những giây phút tưởng như không còn nữa.
Nhưng có lẽ tuyệt vời hơn, chất trữ tình đằm thắm, sâu sắc hơn ở đây là sự bất
diệt của một tình yêu với người con gái mà giờ đây người lính mới thấu cảm được hết.
Kỷ niệm càng ùa về, lòng quyết tâm càng dâng cao, sự hồn nhiên yêu đời như tràn
ngập bởi một hình ảnh duy nhất: "một người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng" vẫn từng
giây phút, ngày đêm, tháng năm "đợi tôi về".
Chúng ta thấy giọng thơ ở đây đằm thắm, dịu ngọt, dịu ngọt như chính tình yêu
kia. Chất trữ tình như thấm sâu vào câu chữ, và rồi thấm sâu, lắng đọng trong lòng
người đọc, trong thế hệ hôm nay. Và chất trữ tình ở đây còn mang một giá trị nhân văn
sâu sắc.
Ở tập trường ca "Chim vàng chốt lửa" ta thấy chất trữ tình có cái gì đó như mang
một ý nghĩa triết lý, đòi hỏi người đọc phải dừng lại suy nghĩ lắng sâu nhưng lại cũng
hết sức lãng mạn: "...Chim vàng ơi! Phải chăng chim tập đưa nôi / Nghìn chiếc nôi
đưa cuộc đời nghèo lên cao vút" (Thu bồn - Chim vàng chốt lửa)
59
Trong bài "Cơn bão rớt", ta thấy sức mạnh của kẻ thù nào đâu có dập nát được sự
dẻo dai của những người anh hùng, đến cả những con chim bé nhỏ thì sức mạnh kia
cũng chẳng làm gì được nó: "…Cơn bão rớt đêm qua / Vết đạn quân thù thành tội
nhân dắt cơn bão vào lòng cây đang ứ nhựa / Sáng nay mặt trời lên / Mặt trời lên sáng
nay / Chim vàng vẫn hót trong một vùng dĩ vãng của rừng cây" (Thu Bồn - Chim vàng
chốt lửa)
Đọc trường ca của Thu Bồn chúng ta có thể nhận ra ngay chất trữ tình chính trị
được thể hiện rất rõ trong từng tập trường ca. Nói đến trữ tình chính trị, thì hầu hết các
nhà thơ trong kháng chiến, hay các nhà thơ trưởng thành trong cách mạng đều ít nhiều
có cả. Trữ tình chính trị chính là tâm hồn thơ, giọng điệu thơ, rồi nội dung trong thơ
đều mang hơi hướng của cách mạng, theo sát cuộc chiến tranh của dân tộc, gắn với sự
chuyển mình lớn lao của lịch sử. Tất cả đó được thể hiện qua ống kính tâm hồn của
người lính trên chiến trường. Họ vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm bút ghi lại rất chi
tiết tất cả những gì trong chiến tranh.
Phải nói rằng tiêu biểu nhất trong các nhà thơ trữ tình chính trị, chúng ta không
thể nhắc tới Tố Hữu - Lá cờ đầu của thơ trữ tình chính trị Việt Nam. Tố Hữu sáng tác
rất nhiều. Với 5 tập thơ tiêu biểu: "Từ ấy", "Việt Bắc", "Gió lộng", "Ra trận", "Máu và
hoa" là những thước phim mang tính thời sự tóm tắt lại những giai đoạn, bước ngoặt
mang tính lịch sử của Cách mạng Việt Nam.
Với Thu Bồn thì khác, những tập trường ca của ông chủ yếu thể hiện lại cuộc
chiến tranh chống Mỹ đầy ác liệt và một số viết khi đất nước đã hoà bình. Nhưng
chúng ta hãy xem xét chất trữ tình chính trị của Thu Bồn nằm ở chỗ nào? Nói đến trữ
tình nghĩa là cái tôi được thể hiện rất đậm nét và sâu sắc như: "Từ ấy trong tôi bừng
nắng hạ / Mặt trời tâm lý chói qua tim / Hồn tôi là một vườn hoa lá / Rất đậm hương
và rộn tiếng chim" (Tố Hữu - Từ ấy). Nhưng về sau, đặc biệt là từ "Việt Bắc" trở đi,
đối với Tố Hữu, cái "tôi" đã hoà chung với cái "Ta" rộng lớn - toàn thể dân tộc: "Ta về
mình có nhớ ta / Ta về ta nhớ những hoa cùng người..." (Tố Hữu - Việt Bắc)
Thu Bồn thì không thể hiện trực tiếp cái tôi của mình mà ông thể hiện một cách
khác, cũng là tâm hồn tâm trạng của chính mình khi phải rời quê hương, người thân
bước vào cuộc chiến đấu cùng dân tộc... nhưng lại được thể hiện dưới những cái tên
khác. Những tên Hùng, tên Rin, Sao, Idớt... Rồi rất nhiều những cái tên khác nữa
60
không sao kể hết. Đó chính là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam, trong đó có Thu
Bồn.
Trong "Bài ca chim Chơrao", chúng ta thấy rõ câu chuyện tình hết sức lãng mạn,
đầy trong sáng và muôn ngàn khổ đau của Rin và Sao. Họ đã có những ngày: "Sao nhớ
ngày nào năm trước / Trên đồi le gió xạc xào / Có người con trai bẻ măng quên giỏ /
Đi tìm còn hát nghêu ngao" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Những người đó, họ ngày càng trưởng thành trong chiến tranh, ban đầu chắc họ
chịu không ít cực khổ tưởng chừng như không vượt qua nổi, nhưng với sự vươn lên
của cả một dân tộc, sự phát triển của một quá trình. Tội ác của giặc càng lớn, nhà tù
càng dã man, cuộc chiến càng quyết liệt thì họ lại càng được tôi luyện. Đó là chứng
minh cho cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta đang đi theo chiều hướng thuận
lợi, ta đủ sức đánh bại và chiến thắng tên Đế quốc sừng sỏ.
Điều đó được thể hiện rất rõ qua từng nhân vật trong trường ca của Thu Bồn, họ
chính là những người con của dân tộc anh hùng.
Mặc dù trong cảnh lao tù: "Nhà lao lạnh lùng song gió lọt". Họ phải: "Lấy tóc
làm khăn chùi nước mắt / Chân đeo xiềng bước thấp bước cao" Nhưng họ vẫn cất cao
tiếng hát: "Tiếng hát trong xà lim sao tha thiết / Nhắn nhủ ai chiến đấu trọn đời / Hỡi
bạn khốn cùng kề vai sát cánh / Mất xiềng gông, ta được cả đất ười" (Thu Bồn - Bài
ca chim Chơrao)
Họ mang trong mình một hoài bão, một lý tưởng cao đẹp. Bởi họ đã được: "Mặt
trời chân lý chói qua tim". Chính vì thế mà trước cái chết cận kề, họ vẫn hiên ngang,
gang thép chiến đấu đến cùng: "Sao lấy nắm xôi ấp lên lồng ngực / Đưa cho rin và nói
thều thào / Anh ăn đi nắm xôi tình nghĩa / Của những người hấp hối trong lao". (Thu
Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Nói chung Thu Bồn chưa phản ánh trình tự cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta. Nhưng những gì xảy ra trong cuộc chiến đó - những hy sinh gian
khổ, những mất mát đau thương, những chiến thắng rực rỡ thì lại được Thu Bồn trình
bày hết sức chi tiết. Mỗi tập trường ca của ông như là có cốt truyện hẳn hoi. Số phận
những nhân vật được khắc họa khá rõ. Điều đặc biệt với Thu Bồn là kết thúc mỗi
trường ca đều là những tiếng reo vui của chiến thắng, của hạnh phúc vô biên.
61
Sự phân chia cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình ở trên chỉ hiểu là ở mức độ
tương đối, đó cũng là cách để tiện đường phân tích trường ca của Thu Bồn. Còn nhìn
chung trong toàn bộ sáng tác của ông, chúng ta thấy đó là sự hòa quyện chặt chẽ
những yếu tố sử thi pha lẫn chất trữ tình đầy ắp trong các tập trường ca. Thu Bồn đã
xây dựng một kết cấu trường ca theo phương thức có cốt truyện vừa có nhân vật vừa
có sự đan xen các sự kiện lịch sử. Như vậy nhân vật "tôi" hay những nhân vật có tên
cụ thể - nhân vật trữ tình và cả tác giả - chủ thể trữ tình nữa đã sống với các chi tiết sự
kiện lịch sử và phơi bày các trạng thái tình cảm đa dạng của mình trong trường ca.
Những nhân vật trữ tình như: Hùng, Rin, Sao hay Di Mơ Thưng, Dang Nghi A, những
Phiên, Trung, Thành..., họ đều chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng để bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam, họ còn chiến đấu vì những dân tộc anh em, họ lao động và dựng xây
vì tương lai của đất nước. Tất cả chỉ một niềm khao khát, chấm dứt chiến tranh, chấm
dứt đổ máu và chết chóc cho nhân loại, đem đến hòa bình và hạnh phúc cho con
người... Một sự hy sinh cá nhân nhưng mang tầm vóc cực kì to lớn. Đó chính là tố chất
nhân bản của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế mà họ có
quyền được yêu thương, được thổ lộ tình cảm cá nhân của mình - yêu người, yêu quê
hương làng xóm. Đó là những tình cảm thiêng liêng hướng về nhân dân, đất nước
trong những tháng ngày lịch sử, là những ao ước và lẽ sống của một thế hệ đã lớn lên
và hoà mình vào dòng thác chiến tranh. Như vậy, hầu hết các trường ca của Thu Bồn
dù viết trong chiến tranh hay sau chiến tranh đều mang tính sử thi hiện đại và chất trữ
tình luôn được biểu hiện gắn bó, nhân vật trong trường ca là nhân vật chung của thời
đại, của dân tộc. Và chính nhà thơ Thu Bồn cũng đã tạo bóng dáng tinh thần của mình
vào thời đại.
62
CHƯƠNG 3. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ
THUẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
3.1. Không gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn:
Không gian trong các tác phẩm văn học có thể nói là không bị một hạn chế nào.
Trong thi ca, con mắt tác giả dễ di chuyển từ không gian này sang không gian khác, từ
năm trước đến năm sau, từ bầu trời hẹp đến cánh đồng sinh sôi, từ không gian tự do
đến chốn tù đày.
Theo Trần Đình Sử "không gian nghệ thuật là một phương diện rất quan trọng
của tư duy nghệ thuật, đánh dấu trình độ chiếm lĩnh thế giới của thơ" [43, tr. 180].
Nếu như không gian trong thần thoại là không gian của các vị thần với màu sắc
của nhiều phép lạ và sức mạnh siêu nhiên, chẳng hạn như không gian khi Đamsan đi
tìm nữ thần mặt trời - cánh rừng âm u, ánh nắng chói chang của mặt trời... không gian
trong thơ cổ từ thời Lý-Trần trở đi lại là không gian của sự ung dung tự tại, không gian
cá nhân đồng nhất với không gian vũ trụ thì ở thời kì chiến tranh chống Mỹ, không
gian trong các trường ca viết về đề tài này mang tính sử thi hiện đại thường gắn với
không gian đưa tiễn, không gian thương nhớ, không gian đau thương và hào hùng. Mà
tiêu biểu cho trường ca thời chống Mỹ này chính là trường ca của Thu Bồn.
3.1.1. Không gian thanh bình yên ả:
Mỗi lần nhắc đến quê hương đất nước người ta lại thấy hiện lên những cánh
đồng, những con người bình dị, những cảnh trời lãng mạn... tất cả những điều ấy đã
làm nên vẻ đẹp của làng quê. Vẻ đẹp ấy được góp nhặt từ "xanh xanh", "biêng biếc",
"bãi mía" và "bờ dâu" và với Thu Bồn thì đó là: "Quê ta con trâu, con bò gặm cỏ / Nai
nhảy từng bầy trên đám cỏ non" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao).
Với những con vật rất đỗi gần gũi với người nông dân đã khiến cho không gian
làng quê thêm sinh động hơn, tràn đầy sức sống hơn. Cũng bởi cái sức sống ấy đã
khiến cho những người con quê hương cảm nhận được màu sắc, mùi vị quê hương lúc
xa nhà qua những điều thật giản dị: "Bài hát cũ bây giờ ai hát nữa / Con chim xanh ăn
63
trái xoài vàng / Nhớ da diết vị mùi chua ngọt / Ta là con chim xanh luyến trái xoài
vàng" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Không gian yên ả với hình ảnh của những sợi khói lam chiều: "Gió ơi! Ta muốn
hòa vào trận gió / Vuốt ve những sợi khói lam chiều / Ta sẽ thổi lên những đồi nắng
lửa / Hớn hở mặt người cây lúa thân yêu..." (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Không gian rộng lớn, bao la mà rất đỗi thân thiết, gần gũi, gợi nhớ về những kỷ
niệm tuổi thơ: "Ăn trái gắm nhớ trái dừa tha thiết / Tắm vũng suối trong nhớ biển biếc
bao la / Những đêm mưa rừng sấm động / Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà" (Thu
Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Quê hương thật đáng yêu, sâu đậm, cực kỳ sâu đậm: "Cắm chặt vào đời ôm ghì
trái đất / Trên đất cằn sỏi đá nhú mầm xanh / Hàng thông ơi! Đất ta nằm thời trẻ dạ /
Con chim huýt cô hay huýt trên cành" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Quê hương với thiên nhiên khắc nghiệt mà độc đáo: "Quê hương tôi bé nhỏ đẹp
xinh / có đá trong mưa / Lửa trong nắng / dòng sông cạn mà đồng lại sâu". (Thu Bồn -
Quê hương mặt trời vàng)
Một không gian thanh bình, giàu sức sống, tràn đầy màu sắc của cảnh vật: "Sen
nở dài qua hết mùa thu / bông súng đỏ tìm về mùa hạ / bình bát mởn như mỡ xoa từng
là / cành cây đen vắt những sợi tơ hồng" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Đó là lời ru của vùng đất Sa Huỳnh mang cái ngọt mát thanh thanh của trái xoài
quê hương. Từ không gian xa ấy khiến ta nhớ về con đường, khói bếp, tán dừa trong
"Mặt trời trong lòng đất" của Trần Mạnh Hảo: "Đâu rồi làng anh, đâu làn khói bếp /
đâu tán dừa như đôi cánh sắp bay lên / đâu tiếng bò kêu dâng mùi cỏ ngọt / lúa dậy thì
thơm dấu chân em?"
Hay nói về làng quê, các nhà thơ, nhà văn còn thường ví von cho cảnh vật nơi
đây như vụt bay lên, tung tăng trong không gian thanh bình: "Bầu trời treo giữa làng
như quả bóng / quả bóng bay trên cỏ trên cây / bông lúa uốn vòm trời cong xuống / để
sân phơi thóc lẫn sao trời" (Trần Mạnh Hảo - Làng)
Cũng là một không gian thanh bình êm ả nhưng sự giống và khác nhau giữa Thu
Bồn và Trần Mạnh Hảo rất đáng để chúng ta tìm hiểu và phân tích.
64
Trong "Bài ca chim Chơrao" của Thu Bồn và "Mặt trời trong lòng đất" của Trần
Mạnh Hảo có điểm rất giống nhau. Đó là không gian đó đều đi từ một không gian có
thể nói là rất chật hẹp: trong căn hầm dưới lòng đất và trong nhà giam: "Đất sâu trời
chẳng thể vào" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Nhưng cái khác thật khó nhận biết ở đây chính là "trong lòng đất" và "trong nhà
giam". Trong lòng đất-có thể hình dung là một không gian tối om, chật chội và bí bách
nhưng lại có phần thoải mái hơn, tự do hơn bởi đó là không gian hoàn toàn do quân ta
làm chủ. Còn không gian mà Thu Bồn thể hiện là trên mặt đất, có vẻ như sáng sủa
nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Chính vì thế mà tiếng hát của Sao chỉ ngân lên trong
đêm tối tĩnh mịch, lạnh ngắt: "Tiếng hát mơ màng trong giấc ngủ / Tiếng hát trơng xà
lim sao tha thiết...". (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Nhà lao đó cũng không có một chút ánh sáng, thứ duy nhất mà con người cảm
nhận được từ thế giới bên ngoài là luồng gió lạnh buốt, lạnh lùng như chính song sắt
của nhà giam: "Nhà lao lạnh lùng song gió lọt / Ngoài rừng pupút điểm tàn canh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao).
Có những lúc tiếng hát đó phải im lìm trong đêm lạnh: "Tiếng hát bỗng nhiên im
bặt / Trời sao đương sáng bỗng nhòa / Từng bước nặng nề tường giam lảo đảo" (Thu
Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Còn Trần Mạnh Hảo lại có một không gian trong lòng đất lung linh ánh sáng:
"Đất sâu trời chẳng thể vào / Trăng lên thì gác miệng hào cho anh" Hay: "Chúng tôi
người chủ những căn hầm / Đốt ngọn lửa để tìm vào tri kỷ / Hầm là nơi che máu che
xương / Là cửa sổ mở về hướng mẹ". Đôi khi không gian đó rất bình an, hạnh phúc:
"Địa đạo mở ra cánh cửa ngôi nhà / Anh sung sướng suýt bật òa tiếng khóc / May mà
anh kịp hát vu vơ" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Nhưng chúng ta thấy rằng mặc dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, không gian nào, kẻ
thù chỉ có thể giam hãm họ về thể xác, chứ đâu giam được tinh thần. Những con người
cách mạng luôn chịu đựng gian khổ, chiến đấu hết mình để giành lại đất nước, quê
hương vốn thanh bình, êm ả thì ai cấm được họ quên đi không gian thực tại để bước
tới một không gian thoáng đãng, bình yên? Thu Bồn và Trần Mạnh Hảo lại một lần
nữa rất giống nhau ở điểm này: "Người mẹ đã mở cửa hầm / Cửa hầm mở ra biển
65
đông / Nay đã tới ngày cửa hầm rộng mở / Mọc giữa làng anh với súng kề vai" (Trần
Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Thu Bồn thì để tiếng hát của Sao và Rin thỏa sức bay cao, ngân xa qua đồi núi,
nương rẫy, qua cánh đồng lúa chín, qua mặt biển êm ả buổi chiều về...Tất cả gợi một
không gian vô hạn, và ẩn hiện trong không gian đó là những hình ảnh rất gần gũi, thân
thương, êm ả tuyệt vời: "Rin vẫn hát say sưa Rin hát / Con chim Pơxe lao thẳng giữa
trời / Con quạ kêu lên lẩn chốn / Rừng cây thay lá, lá vàng rơi". Nhớ về một kỷ niệm
đẹp đẽ: "Sao nhớ ngày nào năm trước / Trên đồi le gió xạc xào / Có người con trai bẻ
măng quên giỏ / Đi tìm còn hát nghêu ngao". Họ nhớ mãi ngày ra đi cũng như sẽ tin
có ngày chiến thắng trở về: "Ngày ra đi anh hẹn em trở lại / Muối biển trọn đời vẫn
mặn anh ơi" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao).
Tất cả đó đều là những không gian rất đỗi quen thuộc, gần gũi mà sâu đậm trong
trái tim mỗi con người.
Nhưng cái cảnh làng quê ấy liệu sẽ mãi còn vẹn nguyên như thế này chăng ?
Đúng thế, nó sẽ mãi còn vẹn nguyên nếu như không có lũ cướp nước, quân xâm lược -
chúng kéo đến để tàn phá quê hương. Quê hương trong những năm chiến tranh đã phải
gồng mình lên trong đau thương và bom đạn.
3.1.2. Không gian của miền đất đau thương mà anh dũng:
Khi giặc đến, xen vào cảnh thanh bình yên ả của quê hương là những tiếng thở
dài:
"Đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh
Tiếng lá rơi gõ nhẹ trước hiên thềm
Mỗi trận gió lùa vào song sắt
Có tiếng thở dài người lính gác đêm"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Cái không gian yên ắng có vẻ nặng nề ấy đã xuất hiện mở đầu cho tập trường ca
của Thu Bồn. Phải chăng đó là cái điềm báo hiệu cho những ngày đau thương? Đó là
những chuỗi ngày giặc kéo đến tàn phá quê hương. Cái không gian trong lành, thanh
bình là vậy: "Mà giờ đây tơi bời lửa cháy / Lúa trên nương vàng vọt héo hon"(Thu
Bồn - Bài ca chim Chơrao)
66
Giờ đây mảnh đất quê hương, mảnh đất Sa Huỳnh đã biến thành không gian đau
thương. Hai chữ "héo hon" khiến ta phải xót xa đến chạnh lòng. Nếu trong "đất nước"
của Nguyễn Đình Thi là "những cánh đồng quê chảy máu", "nát trời chiều" thì với Thu
Bồn đó là nhũng cánh đồng héo hon, tất cả vẻ đẹp của quê hương đều đã "tơi bời lửa
cháy" còn đâu những con nai "ngơ ngác" lá vàng "xào xạc" như trong thơ Lưu Trọng
Lư: "Em không nghe mùa thu / Lá thu rơi xào xạc / Con nai vàng ngơ ngác / Đạp trên
lá vàng khô".
Bởi thế cái không gian "héo hon" trong trường ca của Thu Bồn vốn được cảm
nhận bằng thị giác nhưng với Thu Bồn nó lại được cảm nhận bằng linh giác bởi đó là
hồn. Đó là sự cảm nhận về không gian tan thương; những cánh đồng, những nương lúa
ấy sẽ vẫn còn "vàng vọt héo hon" hơn khi còn kẻ thù xâm lược nước ta. Thậm chí
không gian sinh sống đã bị biến thành: "Cảng âm ty hiện ra trước mắt" (Thu Bồn - Bài
ca chim chơrao).
Không gian đau thương ấy khiến ta cảm thấy se sắt lòng: "Batđomboong những
cánh đồng nứt nẻ / Những cánh đồng cây lúa không còn đẻ / Những cánh đồng đầy
rắn cạp nia / Những cánh đồng ốc đảo Campuchia" (Thu Bồn - Oan 76 ngọn)
Có thể nói ở đây tác giả đã cực tả một không gian gần như chết, cái không gian
của sự sinh sôi, sống động dường như đã biến mất hẳn trên mặt đất này. Khác với
không gian của Trần Mạnh Hảo ở trường ca "Mặt trời trong lòng đất" - đó là không
gian mô tả sự tàn phá của kẻ thù: "Mặt đất em ơi mặt đất / Chân trời sứt mẻ hố bom /
Chúng nó biến mặt đất / Thành mặt trống / bằng vạn chiếc dùi thuôn thuôn hình bom /
Chúng đánh thình thình lên mặt đất"
Nhưng tất cả những không gian ấy cùng làm nổi bật lên sự đau thương, chua xót
khiến ta không thể không nhớ tiếc, xót xa "Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên"
(Hoàng cầm - Bên kia sông Đuống). Từ những chuỗi ngày đau thương, khủng khiếp ấy
đã lên án kẻ thù man rợ - chúng đã đặt ta vào giữa sự sống và cái chết.
Trước cái ranh giới mong manh giữa sống và cái chết ấy: cả thiên nhiên, đất nước
và con người buộc phải vùng đứng dậy, phải chiến đấu: "Những dòng sông băng qua
những vết thương / Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ" (Thanh Thảo - Những người di
tới biển).
67
Đối với Thu Bồn điều đó đã biến thành khẩu hiệu kêu gọi các dân tộc Tây
Nguyên từ đồi núi rộng, tận đỉnh mây mù, nơi có dòng sông lửa "nhớ lấy mối thù".
Cùng với "những con kinh xa nhà lên núi", "tấm long ngóng vọng Trường sơn", người
du kích "mài dao bên suối" cùng nhau "nung nấu căm hờn".
Giống như người người ra trận, nhà nhà ra trận trong trường ca "hành khúc mùa
xuân" của Võ Văn Trực: "Những gia đình kéo nhau ra trận / Những dòng họ kéo nhau
ra trận / Anh em trên ụ pháo phòng không / Giữa trường sơn vợ lại gặp chồng"
Trong không khí sôi sục ấy, thiên nhiên dường như cũng hòa mình vào không khí
"Dừa réo lên vuốt cong ngàn tia kiếm" (Thu Bồn - bài ca chim chơrao), những "tia
kiếm" như những mũi nhọn cắm sâu vào tim gan kẻ thù tàn bạo.
Vậy là từ không gian đau thương đã chuyển thành không gian chiến đấu: "Tiếng
chinh chiêng đảo trời ngây ngất / Mỗi tiếng chiêng lóe lửa trời / Ơi ới tiếng người tiếng
cồng gào thét / Những hòn đá nhọn nắng lên hơi" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao)
Từ đau thương, tất cả đã biến thành hành động "Ra đi ra đi / bảo tồn sông núi /
ra đi ra đi / thà chết chớ lui". Tất cả những quyết tâm ấy đã tạo nên một không khí
chiến trận hào hùng, hừng hực lửa khiến cho "từ gốc lúa bờ tre hồn hậu / bỗng bật lên
tiếng khóc căm hờn".
Đó là sự chiến đấu ngoan cường và anh dũng. Hình ảnh người mẹ cũng hiện lên
thật đẹp trong một không gian đầy khắc nghiệt: "Trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây
/ Chiếc rìu cùn như đời mẹ cực"
Hòa mình trong chiến trận, không gian thiên nhiên dường như cũng hùng vĩ hơn
"vách núi vươn cao ngất / khoan khoái thở làn hơi". Thậm chí ngay cả những ngôi sao
trên trời cũng muốn góp mình vào trận chiến:
"Sao băng vạch đường vun vút phóng mũi tên
Rạch vòm trời đo thử cái mông mênh
Tên chói sáng đất trời đều thấy".
(Thu Bồn - Vách đá Hồ Chí Minh)
Không gian chiến đấu trong trường ca của Thu Bồn vừa phảng phất nét của
những trận chiến sử thi thời La Mã cổ vừa mang nét hiện đại của thời kháng chiến
chống Mỹ. Nhờ sự kết hợp đó khiến cho không gian vừa có chiều cao lẫn chiều sâu;
68
không gian được nhìn nhận và mô tả bao quát từ rất nhiều góc độ khác nhau hai chữ
"mông mênh" được tác giả sử dụng rất đắt giá: Nó vừa cho ta thấy không gian rộng lớn
của thiên nhiên, cái "hừng hực" lửa khí thế đấu tranh của đất trời; vừa cho ta thấy cái
không gian của lòng người, chiều sâu của tâm tưởng. Bởi thế mới có hình ảnh: "Những
anh hùng Việt Nam chống Mỹ / Đang xuống đường như nắng xuống quê hương"
(Nguyễn Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng)
Nếu như cái không gian của Thu Bồn là từ thấp lên cao, tập trung lại thì không
gian trong câu thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm lại là từ cao xuống thấp, từ hẹp trải
rộng ra. Song cái khí thế "quyết chiến, quyết thắng" trong câu thơ của Thu Bồn khiến
ta có cảm giác dồn dập và mạnh mẽ hơn.
Để có được không gian đi từ đau thương đến không gian chiến đấu anh dũng ấy
các nhà thơ, nhà văn phải mô tả từ không gian điểm chốt ấy đi đến khuynh hướng tái
hiện lại những không gian mở - rộng lớn hơn.
3.1.3. Không gian mở rộng.
Không gian nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn là không gian của sử thi,
không gian của những cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại là không gian của mảnh đất Sa
Huỳnh anh dũng kiên cường.
Đó cũng là không gian của dân tộc - cộng đồng, không gian của tập thể những
con người cùng hướng về cách mạng: "Ta là con chim ngậm vành kết cỏ / Quê hương
nuôi ta lớn nên người / Đã đến rồi con đường chính nghĩa / Mạnh bước đi, chết vẫn
tươi cười" (Thu Bồn - bài ca chim chơrao)
Đó là tinh thần của truyền thống, của sự tiếp nối, với hy yọng mở ra một không
gian tươi sáng hơn cho cách mạng: "Giọt nước mắt bóng đêm không nhìn thấy / Dưới
ngọn đèn thường chói to thêm / Những ngọn đèn đêm nay tôi đứng gác / Sẽ tiến sâu
vào lòng bóng tối thời gian" (Thu Bồn - chim vàng chốt lửa)
Ở đây Thu Bồn đã tạo ra một không gian đối nghịch giữa bóng tối và ánh sáng,
trong lòng sâu và trên mặt đất. Cái cách phân không gian ấy thật tinh tế mà sâu sắc.
Còn đối với Nguyễn Trọng Tạo trong bài "Con đường của những vì sao" thì không
gian ở đây không chỉ được thấy bằng thị giác mà nó còn cảm nhận bằng trái tim và
tâm hồn sự chuyển dịch của không gian được nhìn từ nhiều khía cạnh, hình thù hơn, cụ
69
thể hơn: "Và đêm / Đêm bị xắn ra bằng lưỡi xẻng / Đêm bị xắn ra bằng choòng bằng
cuốc / Đêm chuyển dời theo tiếng bước chân / Đêm bồng lên khi tiếng hát trong ngần /
Bay từ lồng ngực con gái / Đêm dãn ra / Đêm nén lại / Đêm vỡ tan trong đột ngột
tiếng cười" (Nguyễn Trọng Tạo - con đường của những vì sao)
Không gian lúc thì bị "nén lại", lúc lại "dãn ra", lúc vỡ oà…tất cả khiến cho ta
cảm thấy chiều sâu của không gian - chiều sâu ấy được cảm nhận bằng thính giác, theo
nhịp đập của con tim. Đó là không gian của mặt đất, của đại đạo, của bóng đêm và ánh
sáng nhưng quan trọng hơn đó là không gian được nhìn qua lăng kính xúc cảm của con
người. Bởi vậy ông cha ta xưa mới thường ví "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Không gian bên ngoài và tâm trạng bên trong con người dường như tách biệt nhau ở
hai cực thế giới song thực chất chúng lại soi vào nhau.
Để bao quát được toàn bộ không gian chiến tranh, Thu Bồn còn đi từ mặt đất, đồi
núi đến dòng sông: "Trận lụt đánh sạt bao sườn núi / Bom đào sâu thêm những hố đất
vàng / Cơn sốt lưu huỳnh nám mặt dòng sông / Những cây nấm hình thù kỳ dị / Những
đám bỏng napan trên da thịt mình / như họa đồ thế giới lặng câm" (Thu Bồn - Chim
vàng chốt lửa)
Đó là không gian của một chiến trận ác liệt. Khác với không gian vui nhộn, đầy
màu sắc của làng quê thanh bình, rộn tiếng chim ca, đầy mật ngọt trong trường ca
"Quê hương mặt trời vàng":
"mặt trời của tôi là lòng đại pháo một trăm ba mươi
bầy rốc két bay lên - chim báo bão
bay qua những vườn dâm bụt có con chim chích chòe kêu
bay qua sông ngòi lờ lững chiếc cầu treo
nắng rung cánh bầy ong về hướng mật"
(Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Cũng từ những năm tháng ác liệt của chiến tranh thì tất yếu sẽ là không gian ác
liệt, đạn nổ bom rơi, cùng với đó là những mất mát hy sinh vô bờ bến mới đến được
một không gian rộng lớn, nối miền của đất nước thân yêu: "...nơi tâm hồn tôi thắp lên
ngọn lửa / Việt Nam! / cầu đã bắc rồi em / đâu phải bắc qua sông / cầu đã bắc nối hai
bờ khát vọng" (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
70
Trong thơ ca thời chống Mỹ hầu hết đó là không gian của đạn bom, của trận mạc
- không gian được mở ra với khung cảnh của cuộc chiến đấu. Nhưng với sức mạnh
quật khởi và lòng căm thù giặc sâu sắc lòng yêu nước ngập tràn, tất yếu dân tộc ta có
ngày chiến thắng con người lại được lên mặt đất từ địa đạo, ngắm và sống dưới ánh
sáng mặt trời nhưng không gian địa đạo vẫn mãi là một niềm tự hào, niềm thương nhớ
về một thời chiến đấu gian khổ: "Giặc tan rồi em chào địa đạo / Chỉ còn anh nằm lại
đất sâu" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Nhưng như trong "Những người đi tới biển" của Thanh Thảo đã từng nói:
"Những dòng sông băng qua những vết thương / Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ"
Đó là một không gian mở cho sự tiếp nối những thành quả của người chiến sĩ đã
khuất. Để rồi: "Cho tổ quốc lừng danh hiển hách / Những đôi mắt xanh thèm khát
mảnh trời xanh" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao)
Nếu như "đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm là không gian "đến trường", "nơi
dân mình đoàn tụ"; Nơi "hò hẹn", "nơi chim về... rồng ở"…thì không gian tổ quốc
trong Thu Bồn chỉ là "mảnh trời xanh". Cái "mảnh trời xanh" ấy nó vừa thật bình dị
nhỏ bé mà cũng vừa thật rộng lớn mênh mông. Bởi dưới mảnh trời xanh ấy là không
gian của một đất nước thanh bình với "sông hồng một dải êm ru", "những con đường
rung rinh bóng lá / những con đường hoa sữa về khuya"... (Thu Bồn - Oran 76 ngọn).
Có một không gian đặc biệt trong thơ Thu Bồn là không gian của Tây Nguyên. Ở
trường ca "Bazan khát" là không gian của Tây Nguyên bao la hùng vĩ hay ở trường ca
vách đá Hồ Chí Minh là những vách đá cao, dựng đứng khắc đậm dòng chữ "Hồ Chí
Minh muôn năm". Điển hình là không gian nơi đồng nội xanh ngát một màu thanh
bình, có điểm những âm thanh tiếng kẻng nơi làng quê yêu dấu: "Em bé nào mai đây
ôm vỏ đạn này / báo đồng nội thanh bình tiếng kẻng... / quê hương tôi bé nhỏ xinh đẹp
xinh / có đêm đen ẩn dấu mặt trời vàng / có đêm sâu ẩn dấu mặt trời vàng..." (Thu
Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Cũng có khi là một không gian cụ thể của một vùng đất: "...từ ngón tay chàng
trai máu ứa những dòng kinh / còn lại chín ngón tay xòe ra vô tận / thành chín nhánh
cửu long sờ vào ngực biển Đông" (Thu Bồn - Người gồng gánh phương đông)
Với cách lia lăng kính từ nhiều góc độ; từ trên cao bao quát, từ rộng đến hẹp
khiến cho không gian trong trường ca của Thu Bồn như được giãn nở. Không gian ấy
71
phản ánh hiện thực mảnh đất Tây Nguyên hừng hực lửa chiến tranh. Nhưng đó mới chỉ
là quan sát bên ngoài, Thu Bồn còn đưa ống kính quan sát của mình tới tận không gian
tâm tưởng và bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng có đau thương, tiễn đưa để rồi thương
nhớ.
3.1.4. Không gian đưa tiễn, không gian thương nhớ:
"Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa", cho tới giờ câu hát ấy vẫn còn vang lên, vẫn
còn thấm sâu vào máu thịt mỗi con người. Khi kẻ thù kéo đến, chúng giày xéo, đàn áp
những người dân vô tội trong cảnh nước mất - nhà tan. Trước cảnh ác nghiệt đó, những
người con của quê hương của dân tộc nuôi trong một ý chí sục sôi: "Đất quê ta quân
thù còn chiếm / Bưng bát cơm và có biết ngon đâu" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Bởi thế nên họ đã cất bước ra đi, ra đi vì non sông đất nước yên bình chỉ trong
một thời gian cụ thể, độc đáo như không gian đưa tiễn với hình ảnh người mẹ, người
vợ đã bộc lộ được hết tấm lòng sâu sắc sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho hạnh
phúc dân tộc. Những người phụ nữ tiễn đưa chiến sĩ ra trận với biết bao lưu luyến:
"Ngày ra đi anh hẹn em trở lại / Muối biển trọn đời vẫn mặn anh ơi / Hãy nhớ em, nhớ
con thuyền gội sóng / Một cánh buồm con mỏng mảnh giữa chân trời". (Thu Bồn- Bài
ca chim chơrao)
Không gian đưa tiễn ở đây là không gian của biển cả quê hương mà đứng ở bên
bờ của nó là người con gái chờ đợi thủy chung, son sắt. Dù không gian ở đây không
cần được mô tả rõ là nhìn bằng mắt hay sự lãng mạn của không gian như: "Ảnh chiều
không thắm không vàng vọt / Sao nay hoàng hôn trong mắt trong" (Thâm Tâm - Tống
Biệt Hành).
Nhưng bằng những lời ca tinh tế, ý nhị Thu Bồn vẫn cho người đọc thấy được
không gian đưa tiễn. Cái không gian ấy được thu vào tầm mắt của người ra đi và người
ở lại và đẹp hơn nữa khi nó được ghi nhận bằng hồn. Không gian ở đây là không gian
đưa tiễn được miêu tả thật bình dị nhưng từ cái không gian ấy lại khiến ta hồi tưởng về
một không gian mang tính sử thi - là sự kết tinh hòa hợp: "Ngôi sao trời đi ăn ánh
sáng sương đêm / Mà cỏ cây leo lên để ngóng / Những bụi sương kết tinh nhanh chóng
/ Thành hạt ngọc đánh cắp lại ánh sao trời" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao).
Trong không gian tinh tế hòa quyện của trời đất ấy khiến cho lứa đôi đến lúc chia
tay càng phải bịn rịn. Hình ảnh "cánh thuyền mỏng mảnh" trong khung cảnh chia tay
72
là một hình ảnh thực sự đắt giá hai chữ "mỏng mảnh" cho thấy Thu Bồn quả là một
họa sĩ, một nhà nghệ thuật tài ba. Không gian mà Thu Bồn mở ra trước mắt người đọc
theo từng lớp từng lớp: có lúc nó là không gian của biển với "con thuyền gội sóng",
lúc nó lại là không gian của "bụi sương" với "sao trời". Nhờ thế tác giả đã tạo nên nỗi
lưu luyến ẩn hiện trong không gian đưa tiễn - đưa tiễn mà không biết đến ngày trở lại.
Giống như hình ảnh người mẹ trong "Đất nước hình tia chớp" của Trần Mạnh Hảo
cũng vậy: "Con thương mẹ cả đời đưa tiễn / Hết giặc này lại đến giặc kia /Mẹ cưu
mang hết mọi thời kháng chiến / Những đứa con đi dẫu biết không về".
Đưa tiễn để rồi nhớ thương: "Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại / Ơi người mẹ trọn đời
kim chỉ vá may" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao)
Không gian thương nhớ được ấp ủ trong hình ảnh "chờ anh ngày trở lại". Nỗi
thương nhớ da diết về quê hương khiến bao đêm người nơi chiến trường phải trằn trọc:
"Anh lính kinh bao đêm trằn trọc / Trở mình ngao ngán trên giường / Ngoài kia có
ngọn gió nào đang gọi / Con hãy trở về với cố hương" (Thu Bồn - Bài ca chim
chơrao). Và, đó là nỗi thương nhớ về vùng lương rẫy xa xôi: "Tiếng hát mơ màng
trong giấc ngủ / Bao con tim xúc động bồi hồi / Giọng hát trầm hùng thương nhớ /
Như tiếng gió về trên lương rẫy xa xôi" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao) về những ngôi
làng với những con đường ẩn hiện quanh co. tất cả đều là cái đẹp của làng quê Việt
Nam, từ đồng bằng đến miền núi, đến miền biển xa xôi: "Ôi / Tiếng hát khiến lòng ta
thương nhớ / Những con đường đi dốc rắn bò / Những con đường qua nương lúa chín /
Chạy về làng xưa ẩn hiện quanh co" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao).
Nhưng với những người biền biệt quê nhà, cả cuộc đời chinh chiến may ra có
được một lần lính chiến đấu bên đất bạn Campuchia, xa về thăm quê, thì nỗi nhớ ấy
càng da diết làm sao, nhớ cụ thể đến từng cái tên, đến hình hài cụ thể: "Đêm hôm ấy
người chỉ huy Việt Nam / nói với tôi về dòng sông Đuống / một dải bờ xa một bến xa /
đó là quê hương người chiến sĩ sinh ra / anh về phép một lần / người mẹ già tóc
trắng..." (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Vậy là không gian thương nhớ không chỉ hiển hiện nơi người ở lại mà nó còn ở
trong lòng cả người lính xa "cố hương".
Nói về không gian thì còn rất nhiều hình ảnh, chi tiết được Thu Bồn cũng như
các nhà văn, nhà thơ khác khắc họa nay tinh tế. Như vậy có thể nói không gian nghệ
73
thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng, không thể thiếu góp phần xây dựng nên cái
nền cho mỗi tác phẩm.
Quan niệm về thế giới và con người của mỗi nhà thơ được đánh giá qua cách
nhìn nhận không gian và thời gian. Vì thế không gian là hình thức tồn tại của vật chất,
của con người để từ đó khắc họa và làm nổi bật những sự vật, hiện tượng trên nền
không gian đó
3.2. Thời gian nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn
Nhắc đến không gian là nhắc đến thời gian bởi thật sự ra không gian và thời gian
bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với nhau như: "Thời gian đằng đẵng, không gian mênh
mông". Thời gian và không gian luôn kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên khung cảnh
cho mỗi tác phẩm. Vật lý học hiện đại cho rằng không gian và thời gian luôn có quan
hệ mật thiết với nhau hay nói khác đi thì thời gian là một chiều thứ tư của không gian
và không có một không gian nào lại không liên quan đến một thời gian cụ thể.
Cũng bởi thế mà đất nước có huyền thoại và gắn liền với huyền thoại ấy là sự
tiếp nối giữa thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến mai sau. Và thời gian cũng đi theo
trình tự đó: thời gian của quá khứ, thời gian hiện tại và thời gian tương lai. Cụ thể
trong trường ca Thu Bồn, tác giả đã đi từ thời gian hiện tại để mà ngược dòng tìm về
nguồn cội thời gian lịch sử và cũng từ đó đưa ta đến thời gian tương lai.
Thời gian nghệ thuật là thời gian được quan niệm, cảm nhận và lý giải theo lý
tưởng nghệ thuật của nghệ sỹ. Do đó, thời gian nghệ thuật là cái nhìn thời gian được
cảm nhận bằng tâm lý, qua chuỗi liên tục các biến đổi hay các biến cố xảy ra trong thế
giới nghệ thuật. Do đó thời gian nghệ thuật khác với thời gian khách quan đo bằng
lịch, đồng hồ: nó có thể đảo ngược từ hiện tại mà hồi tưởng về quá khứ, có thể cảm
thấy tháng năm như chốc lát, lại có thể cảm thấy "một ngày dài hơn thế kỷ" hay thời
gian có thể cảm thấy như ngừng trôi khi đắm say…
Bởi vậy mà thời gian nghệ thuật phong phú hơn về cách thể hiện so với thời gian
khách quan: thời gian ấy linh hoạt không tuân thủ tính một chiều của thời gian khách
quan.
74
3.2.1. Thời gian lịch sử:
Thời gian trong thơ lãng mạn thường là thời gian của cá nhân, thời gian của tâm
lí, của cảm xúc con người, cho nên nó thường là thời gian "vội vàng", "gấp gấp" theo
đúng nghĩa của nó: một giây đã trôi đi thì không bao giờ trở lại. Cũng bởi thế, ta nhận
thấy trong thơ lãng mạn là cuộc chạy đua với thời gian, con người có ý thức mãnh liệt
về từng giây phút hiện sinh: "còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi" (Xuân Diệu).
Nhưng thời gian trong văn học cách mạng thì ngược lại: thời gian lịch sử, thời gian
vĩnh cửu chiếm vị trí chủ đạo.
Thời gian trong trường ca của Thu Bồn là thời gian về lịch sử nguồn cội, thời
gian về quá khứ hào hùng, thời gian của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Có tình yêu nào cao hơn tình yêu đất nước ? Có nỗi nhớ nào bằng nỗi nhớ quê
hương? Thật vậy, "quê hương là chùm khế ngọt", là cội nguồn, là sức mạnh cho ta đi
lên: "Con sẽ đi nhưng con cần vượt nữa / Cho con về gặp lại mẹ yêu thương" (Chế Lan
Viên - Tiếng hát con tàu)
Bởi thế mà những người anh hùng như Hùng và Rin dù mạnh mẽ trước kẻ thù tàn
bạo thì vẫn không khỏi bùi ngùi khi nhớ đến quê hương: "Quê hương ơi! Những chiều
biển lặng". Hay: "Anh bỗng nhớ tiếng ru hời bài hát cũ" (Thu Bồn - Bài ca chim
Chơrao).
Cuộc đời dài rộng thế, năm tháng dẫu đi qua thì hình ảnh quê hương trong quá
khứ mỗi lúc dội về vẫn còn nguyên vẹn, khát khao đến cháy bỏng. Thán từ "ôi" trong
câu thơ khiến cho thời gian như ngưng đọng lại, thẩm sâu vào tâm hồn mỗi con người
hình ảnh về quê hương, về tiếng hát của mẹ ru con trong những trưa nồng. Hay giống
như nỗi nhớ tìm lại đường quê xưa trong "Nước non ngàn dặm" của Tố Hữu: "Nửa đời
tóc ngả màu sương / Nhớ quê ta lại tìm đường thăm quê / Đường vào như tỉnh như mê
/ Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân"
Câu thơ từ hiện tại đưa ta dần hồi tưởng về quá khứ, trở lại với "tuổi xuân". Thời
gian chạy ngược chiều kim đồng hồ mà ngược dòng với quá khứ. Như đồng thời chính
cái quá khứ ấy lại là động lực để nuôi dưỡng ý chí, phẩm cách con người, đặc biệt là
những anh hùng thời kháng chiến "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Giặc kéo đến
"giày xéo" quê hương khiến cho những con người đất Việt không thể thờ ơ, thời gian
75
lịch sử của dân tộc như lắng đọng lại: "những đêm mồ côi dân không có ánh mặt trời"
(Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Vào những thời khắc lịch sử ấy, nó như vết cứa sâu vào da thịt con người khiến
những người anh hùng phải quyết tâm vùng lên quật khởi. Cũng bởi thế mà sự kiện ấy
đã để lại cho năm tháng lịch sử những cột mốc còn mãi với thời gian: "1976 - nắng
mưa đều dữ dội / Trái đất chẳng bình thường / Những cơn động đất bay về Bắc Băng
Dương / 1976 - đứa bé ra đời / Trong tiếng nổ phá mìn / Hàng sư đoàn đi vỡ đất / Cờ
đuôi nheo đánh dấu lại những cánh đồng" (Thu Bồn - Bazan khát)
Đi theo sự kiện lịch sử năm 1976 nhưng nhịp độ thời gian ở đây dường như gấp
gáp hơn, khoảng cách giữa các sự kiện trong chuỗi sự kiện của năm 1976 như được rút
ngắn lại nên nó diễn ra liên tiếp và dồn dập khiến cho thời gian như dồn nén lại trong
một khoảnh khắc tường thuật. Giống như Nguyễn Khoa Điềm đã từng viết trong "Đất
và khát vọng": "Mũi tên bay thần tốc / Những trận đánh chuyển giông trời lập hạ /
Những trận đánh làm lịch sử vặn mình trong nép đá / Biển tung xao sóng cuộn đằng
đông"
Hồn thơ mạnh mẽ, dồn dập khiến cho sự kiện lịch sử in đậm đấu ấn vào thời gian
chỉ trong một khoảnh khắc tường thuật. Nhưng chính cái khoảnh khắc nhỏ bé ấy lại
mang sức chứa của một thời kì trong bom đạn oai hùng. Cũng từ những trận chiến hiển
hách ấy đã tạo nên những con người anh hùng trong thời đại, đi cùng năm tháng: "Năm
xưa Sao hát rung tù ngục / Bây giờ thành chị Bí thư / Từ những buổi cơm đùm trong
vú / Cách mạng lên ta mới nên người" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Cách sử dụng lối so sánh thời gian: năm xưa - bây giờ khiến cho hình tượng của
Sao như được chạm khắc lên dấu ấn thời gian lịch sử, tiêu biểu cho một thời đại anh
hùng.
Từ những con người anh hùng gắn liền với trận chiến oanh liệt của nhân dân ta
đã mở ra một hy vọng mới: một tương lai đất nước anh hùng: "Cơn bão rớt đêm qua /
vết đạn quân thù thành tội nhân dắt cơn bão vào lòng cây đương ứa nhựa / Sáng nay
mặt trời lên / Mặt trời lên sáng nay / Chim vàng vẫn hót trong một vùng dĩ vãng của
rừng cây" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Cách sử dụng thời gian "đêm qua" rồi "sáng nay" khiến cho thời gian như chậm
lại, dài hơn và cách lặp từ chỉ thời gian "sáng nay" đã để lại ấn tượng về thời điểm đó
76
trong lòng người đọc. Nó khiến cho câu thơ như bừng sáng lên, đưa người đọc hãy
hướng tới thời gian hiện tại - thời gian của ánh sáng hy vọng sau cái khoảnh khắc
"đêm qua" ấy.
Mỗi khoảnh khắc thời gian trôi qua nó lại thêm một biến đổi mới, thêm một kỷ
niệm yêu thương hay đau xót trong cuộc đời: "Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
/ Có những ngày trốn học bị đòn roi / Nay yêu quê hương vì trong lòng từng nắm đất /
Có một phần xương thịt của em tôi" (Thu Bồn - Bazan khát).
Mỗi phút, mỗi thời gian trôi đi là để lại trong nó một sự kiện, một biến đổi. Thêm
nữa trình tự thời gian là tương quan giữa trật tự kể chuyện và thời gian hiện thực trong
tác phẩm. Ở đây các khái niệm quá khứ, hiện tại hay tương lai không phải lúc nào
cũng là những khái niệm về thời gian vật lý mà còn là những khái niệm của thời gian
tâm lý.
Do đó, thời gian lịch sử thường được đóng lại bằng một kết thúc mở, hướng từ
hiện tại đến thời gian tương lai, nó kéo dài thời gian như dãn ra để ta có thể thấy được
trường độ của thời gian kéo từ hiện tại đến một tương lai mở: "Giọt nước mắt bóng
đêm không nhìn thấy / Dưới ngọc đèn thường chói to thêm / Những ngọn đèn đêm nay
tôi đứng gác / Sẽ tiến sâu vào lòng bóng tối thời gian / Đất nước quê hương rậm rịch
dưới chân mình / Những ngọn đèn hai mươi năm soi sáng dặm trường chinh" (Thu
Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Thời gian hai mươi năm khiến cho quá trình lịch sử như kéo dài ra, soi suốt
chặng đường và "những ngọn đèn ấy" sẽ còn sáng mãi, cháy mãi đến sau này.
Qua đó ta thấy thời gian lịch sử bao giờ cũng có mặt thời gian cá nhân tồn tại và
vận động. Và đặc biệt trường ca của Thu Bồn mang đậm yếu tố thời gian lịch sử, bởi
chất sử thi đi liền với sự kiện lịch sử.
3.2.2. Thời gian cá nhân
Tọa độ thời gian của chúng ta không phải chỉ được xác định trong thời gian
khách quan mà nó còn mang tính chủ quan. Bởi thế thời gian nghệ thuật là sự cảm thụ
và ý thức về thời gian được nhà thơ sáng tạo lại trong tác phẩm. Trong trường ca Thu
Bồn thời gian là thời gian của tâm trạng, thời gian chảy theo cảm xúc cá nhân. Bởi thế,
có khi thời gian trôi dài theo "lời ru" của mẹ, lời ru ngọt ngào "lặng lẽ đi theo năm
77
tháng, theo nhịp đập của trái tim yêu thương: "Người mẹ khóc nhưng không ai hay biết
/ Trong đêm dài họ lặng lẽ kéo nhau đi / Lời ru đó trong trái tim người mẹ / Có bao
giờ người mẹ giết lời ru?" (Thu Bồn - CamPuchia hy vọng)
Nhưng, cũng có khi thời gian cá nhân nằm trong thời gian lịch sử: "Chúng tôi
nằm dưới suối cơn mơ / Nước mắt rơi và máu chúng tôi đã chảy ra những cánh đồng /
Dưới mặt trời tháng bảy / Những dòng sông đã chảy máu chúng tôi" (Thu Bồn -
Campuchia hy vọng). Dường như ánh mặt trời của "tháng bảy" đã in dấu những người
anh hùng. Đó là thời gian bất tử của những người chiến sĩ để xương máu họ hòa quyện
với núi sông. "Tháng bảy" chỉ là một khoảnh khắc thời gian ngắn nhưng dấu ấn trên nó
sẽ còn tồn tại mãi mãi như "dòng sông" kia vẫn chảy. Có thể nói thời gian vật lý thì chỉ
là "tháng bảy" nhưng thời gian tồn tại hình ảnh những người anh hùng đã đổ máu vì lý
tưởng chung của dân tộc sẽ là mãi mãi. Hay cũng có khi thời gian trong mỗi tác phẩm
trường ca lại đi theo dòng cảm xúc mong chờ, thương nhớ: "Mẹ vẫn chờ anh ngày trở
lại / Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may / Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ / Từ buổi con
đi bấm đốt từng ngày" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Đọc những câu thơ trên ta mới thấy hết "thời gian dằng dẵng" là vậy: "trọn đời"
mẹ chỉ chờ "ngày trở lại". Bốn chữ "bấm đốt từng ngày" khiến cho thời gian vừa như
lắng lại, vừa từ từ trôi - nó trôi theo nỗi yêu thương con vô bờ bến của người mẹ.
Cái thời gian nghệ thuật đặc biệt ấy có khi lại được nhìn bằng đôi mắt người
chiến sĩ trẻ: vừa đầy nhiệt huyết, vừa lấp lánh những ánh sao: "Ơi Tây Nguyên khảm
một trời sao lộng lẫy / Ta đi theo tiếng hú thiêng liêng / Quả tim anh hùng bừng bừng
ngọn lửa / Nhìn đời soi sáng đất Tây Nguyên" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Cách cảm nhận thời gian ấy khiến ta nhớ đến những vần thơ trong "Nước non
ngàn dặm" của Tố Hữu: "Anh vào tuyến lửa đêm qua / Bất ngờ một trận như là bão
dông / Lại đi... "phấn khởi tơi bời" / Còn non, còn nước, còn người cứ đi / Rừng khuya
không ngủ, mơ gì / Sao hôm lấp lánh cũng vì miền Nam..."
Thời gian cá nhân ở đây được đặt trên cùng một cảm nhận nhưng chỉ có điều
cách nêu thời gian lại khác nhau, nếu như Thu Bồn nhấn mạnh rõ thời gian "nghìn đời"
để chỉ sự kéo dài vô tận của thời gian thì Tố Hữu lại nhấn mạnh vào sự bắt nguồn của
thời gian - thời điểm được bắt đầu nói đến là "đêm qua" như sự ám chỉ thời gian được
78
kéo dài trong hai chữ "cứ đi". Điều đó cho ta thấy cái mênh mông, sự trải dài của thời
gian.
Nhưng cũng có khi con người, sự vật không bình yên sống với nhịp thời gian vũ
trụ kiểu: xuân đi, hè tới, thu qua, đông lại như trong thơ cổ và cũng không tìm thấy sự
tồn tại vĩnh cữu của đời mình với đất nước và sự nghiệp cách mạng mà lại hòa mình
với tốc độ của thời gian không để thời gian ngưng lại mà để nó trôi đi theo quy luật
vốn có của nó: "Loại hoa rừng hôm nay / Chuyển nhựa thơm thành trái / Búp đương
chuyển thành hoa / Môi thiếu nữ run run lời ca" (Thu Bồn - Tiếng hú người Dioloa)
Dường như tất cả "hoa rừng", những "búp" và cả người "thiếu nữ" đều đang
chuyển mình theo thời gian, dường như sợ rằng thời gian trôi đi, nó sẽ không trở lại.
Điều này khiến ta nhớ đến những câu thơ của Chế Lan Viên trong "Hỏi đáp": "Ta là
ai? / Ta chưa kịp trả lời / Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối"
Đó là cách cảm nhận thời gian rất tinh tế và mới mẻ của Thu Bồn, là suy nghĩ mà
ta đã từng bắt gặp trong thơ của Xuân Diệu: "Còn trời đất nhưng chẳng còn ta mãi..."
Bởi thế mà con người phải sống sao cho thời gian không trôi qua một cách vô ích
và để nhìn vào thế giới với sức sống tràn trề "nhựa thơm thành trái", "búp ... chuyển
thành hoa"…
Và đôi khi thời gian được ví von qua hình ảnh của những bông hoa giản dị mà
đẹp đến lạ lùng: "Sen nở dài qua hết mùa thu / Bông súng đỏ tìm về mùa hạ" (Thu Bồn
- Campuchia hy vọng)
Nguyễn Thị Liên Tâm đã từng viết về thời gian trong trường ca Thu Bồn:
"Trong quê hương mặt trời vàng, Thu Bồn đã nói về tương lai bằng những chi tiết
khá thú vị: "Cầu đã bắc rồi em / Đâu phải bắc qua sông / Cầu đã bắc hai bờ khát
vọng"
Có khi là một tương lai xanh thẳm vươn đến một khoảng không gian rộng lớn
khôn cùng: "Đi hết đỉnh cao của nước non này / Lòng mơ tới trời xanh nhân loại"
(Thu Bồn - Vách đá Hồ Chí Minh).
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn khá gần
gũi với không gian, thời gian nghệ thuật trong dòng văn học Cách mạng nói chung. Đó
là không gian của quê hương thanh bình, tươi đẹp, hiền hòa hòa quyện với không gian
79
của đau thương, máu lửa, chết chóc, hủy diệt. Đặc biệt có một loại không gian đặc thù
với thời chiến: không gian đưa tiễn, chia ly, và cái không gian hệ quả của nó - không
gian thương nhớ. Gắn liền với không gian của đất nước, đau thương, anh hùng trong
hiện tại là thời gian của lịch sử và thời gian cá nhân. Hai loại thời gian ấy hòa quyện
với nhau, tạo thành một thời gian nghệ thuật đặc thù trong trường ca Thu Bồn.
Qua đó ta thấy rằng: thời gian nghệ thuật cũng như không gian nghệ thuật là yếu
tố không thể thiếu được trong mỗi tác phẩm, nó làm nền cho mỗi tác phẩm, tạo nên
linh hồn cho tác phẩm. Ở mỗi nhà thơ, nhà văn cái thời gian và không gian ấy lại được
cảm nhận từ nhiều khía cạnh thái độ khác nhau và theo những cảm xúc khác nhau. Để
từ đó nó biểu đạt tư tưởng chủ đề của tác phẩm, làm nổi bật hình tượng của nhân vật
và thể hiện cái cảm của nhà thơ trong mỗi thời đại.
80
CHƯƠNG 4. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG
TRƯỜNG CA CỦA THU BỒN
4.1. Ngôn từ trong trường ca của Thu Bồn
Nói chung những tập trường ca của Thu Bồn, ngoài nội dung phong phú: phản
ánh, tổng kết một giai đoạn lịch sử, cụ thể là cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của
dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ngoài những nội dung mà chúng ta đã
xét ở trên, từ những tập trường ca này chúng ta còn thấy được những đặc điểm của
nghệ thuật độc đáo, tạo nên sự hấp dẫn đối với người thưởng thức. Đó là ngôn ngữ, lời
thơ, giọng điệu thơ. Thu Bồn viết rất nhiều trường ca, mang tính nghệ thuật cao đặc
biệt là những trường ca thiên về chất trữ tình, thường đi sâu vào thế giới nội tâm tiềm
ẩn bên trong tâm hồn con người. Tuy vậy, bên cạnh đó cũng còn một số trường ca, một
số đoạn nằm rải rác ở các trường ca khác nhau còn thiếu nhiều chất thơ, lạm dụng chất
văn xuôi, câu thơ trở nên dàn trải, dễ dãi, buông thả.
Khác với một số nhà thơ khác, thường chỉ viết về người lính, cuộc sống người
lính nơi chiến trường. Thu Bồn viết về nhiều đối tượng khác nhau trong chiến tranh -
những anh lính trẻ, những người phụ nữ; người mẹ và người con gái, những trẻ em.
Ông được mệnh danh là một trong những tay viết khỏe. Hữu Thỉnh đã viết khá đúng
về phong cách sống của Thu Bồn: "Hăm hở sống, hăm hở viết, đi chiến dịch, về cơ sở
nhiều hơn ở cơ quan, giành lấy việc nặng nhọc nhất để làm, chọn những nơi nguy
hiểm nhất để có mặt:. [31, tr.126].
Hữu Thỉnh trong điếu văn Thu Bồn có đoạn: "nhắc đến Thu Bồn, người ta nhắc
đến một tài năng vạm vỡ, một sinh lực tràn đầy, một người triệt để trong ý nghĩ và
hành động, một ngươi luôn phát quang để vượt lên phía trước... Thu Bồn là nhà thơ
tài hoa, một người dồn đúc nhiều tài năng trong một tài năng... Thu Bồn là một trong
những nhà văn xuất sắc nhất của thế hệ các nhà văn chống Mỹ, là nhà văn hàng đầu
của mảng văn học chiến tranh nhân dân và quân đội cách mạng [37, tr. 126].
Về mặt ngôn ngữ trong trường ca Thu Bồn rất độc đáo, trong hầu hết các trường
ca của ông, đều sử dụng cách gọi tên người, địa danh cụ thể. Điều này giống như kể
chuyện bằng thơ, tạo nên sự chân thật trong cách cảm, cách thể hiện. Nghĩa là Thu
81
Bồn viết đúng như những gì nó đã xảy ra. Thế nên hình như mỗi tập trường ca của Thu
Bồn đều kể về một câu chuyện nào đó, một số phận con người, số phận một vùng đất,
một dân tộc.
Trong trường ca "Bài ca chim Chơ rao" viết năm 1963, Thu Bồn kể rất rõ về số
phận và cuộc đời của Hùng - Rin - Sao. Rất nhiều câu thơ gọi tên trực tiếp những nhân
vật này. Theo thống kê, cụ thể có 134 lần tác giả gọi tên những nhân vật này. Trong đó
có những câu tiêu biểu đánh giá quá trình đấu tranh và sự trưởng thành của những
nhân vật này, mở đầu tác giả như giới thiệu: "Hùng và Rin hai người con Kinh -
Thượng / Hai con chim bị khóa một lồng / Cả cuộc đời hai người gắn bó / Hai con
suối giao hòa chảy đến một dòng sông" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Tác giả giới thiệu tiếp: "Trong tù đêm nay có người con gái" Người con gái đó
chính là Sao: "Có bao giờ Sao giận lâu trong bụng / Một người con dân tộc của mình /
Sao phải nói những điều Sao muốn nói / Với hai người bạn sắp hy sinh" (Thu Bồn –
Bài ca chim Chơ rao). Mỗi con người ở mỗi vùng đất khác nhau, mỗi quê hương đều
tràn ngập thơ mộng và nhớ thương khi phải xa nó. Và bây giờ họ đang cùng trên một
chiến hào đấu tranh chống lại kẻ thù, họ đều có chung một ý chí, đều gan dạ, anh dũng
hy sinh trước mặt kẻ thù. Mỗi câu thơ là một tên người con của dân tộc làm kẻ thù
kinh sợ, những con người luôn ở tư thế: "Thế phải đứng, anh đứng cho quân thù run
sợ" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Kẻ thù tra tấn các anh: "Sáng nay chúng đưa Rin vào phòng tra khảo / Anh bị
treo lên đánh phủ đầu / Những giày đinh thi nhau đá đạp / Nhưng Rin không hề nói
nửa câu" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Có những câu thơ liên tục gọi tên: "Rin hát giữa phòng tra Rin hát / Yrin hát say
sưa, Rin hát / Hùng nói, đôi mắt chìm phẫn uất / Hùng cười, mắt bừng sáng rực / Y
Rin ơi ! có gặp Rin lần cuối / Để hôn Rin người bạn ngoan cường... " Với một nhịp thơ
liên tục nhấn mạnh, tuôn trào càng làm khắc sâu thêm sự dã man của kẻ thù nhưng
càng thể hiện khí phách hiên ngang của những con người thân yêu đó. Sự hy sinh của
họ làm cho kẻ thù phải run sợ, sự hy sinh của họ làm nên dân tộc hôm nay.
Tên tuổi họ được tác giả nhắc lại nhiều lần chính là nhằm mục đích dựng lại bức
tượng đài bằng thơ để khắc sâu trong mỗi thế hệ bạn đọc. Thu Bồn không muốn họ là
những chiến sỹ vô danh, bởi khi họ nằm xuống trong lúc khói bom lửa đạn thì chắc gì
82
đã có mộ chí, tấm bia ghi danh. Sự chân thật nằm trong giá trị nhân văn của Thu Bồn
là ở chỗ đó. Họ chẳng khác gì những chị Sáu, chị Bưởi, anh Giót, anh Trỗi. Như vậy, ở
đây chúng ta thấy Thu Bồn còn mang trọng trách một nhà viết sử.
Và kết thúc tập trường ca "Bài ca chim chơ rao", Thu Bồn lại nhắc tới họ một lần
nữa: "Hùng, Rin chết nhưng bao người khác / Đã xông lên như thác đổ cuối trời / Dân
tộc ta mang trái tim chiến đấu / Có bao giờ chịu nhục, Sao ơi !" (Thu Bồn - Bài ca
chim Chơ rao)
Mặc dù: "Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh / Trọn đời làm chiến sĩ vô danh /
Cho tổ quốc lừng danh hiển hách / Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Nhưng sự hy sinh của họ đã làm nên: "Ơi Tây Nguyên khảm một trời sao lộng lẫy
/ Ta đi theo tiếng hú thiêng liêng / Quả tim anh hùng bừng bừng ngọn lửa / Nghìn đời
soi sáng đất Tây Nguyên" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Ở tập trường ca "Vách đá Hồ Chí Minh" thì có đến 51 lần tác giả nhắc đến tên
nhân vật Dy Mơ Thưng, Dang Nghi A, chủ yếu là sự đối thoại của 2 nhân vật, đối
thoại với kẻ thù. Và cũng không ít lần tác giả nhắc đến vị lãnh tụ Hồ Chí Minh. Những
câu thơ tiêu biểu:
Dy Mơ Thưng gối đầu lên ngọn thác đen / Dy Mơ Thưng lại đi xua bóng tối / Dy
Mơ Thưng mơ màng câu chuyện ngày xưa...
Đặc biệt: "Sáng giữa trời dòng chữ thiêng liêng / "Hồ Chí Minh muôn năm"
chiếu rọi đến bưng biền...
Dy Mơ Thưng: "Dang Nghi A ơi ! (Tiếng cô gái reo như chim hót) / Kìa nhìn xem
/ Vách đá có tên, người cả nước ta yêu mến"
Dang Nghi A: "Trong rừng có cây lim, cây sến"
Những câu thơ giống như những đoạn hội thoại giữa các nhân vật. Chính vì thế
mà gây sự tò mò, kích thích người đọc dõi theo diễn biến của tập trường ca cũng như
số phận của những nhân vật này:
Dy Mơ Thưng: "Trước mắt anh là Dy Mơ Thưng / Anh dừng vờ nhìn con mắt
xuống"
83
Dang Nghi A: "Em đừng giận anh ! Bọn chúng đến rồi, lũ quỷ mắt xanh" (Thu
Bồn - Vách đá Hồ Chí Minh)
Dang Nghi A (tỉnh dậy): "Lũ làng ơi...! / Dy Mơ Thưng ơi...!"
Đáp lời anh có tiếng vọng núi rừng: "Hồ Chí Minh muôn năm ! / Hồ Chí Minh
muôn năm ! / tiếng đại liên nổ / Dang Nghi A như ngọn đuốc băng mình" (Thu Bồn -
Vách đá Hồ Chí Minh)
Còn trong đoạn đầu của trường ca "Oran 76 ngọn" (trang 247 - 297) thì có 60 lần
những cái tên Trung, Phiên, XôRiLa ... được nhắc đến.
Sự chân thật trong trường ca Thu Bồn hay tính chất nhật ký trong trường ca cũng
vậy, nó không chỉ thể hiện ở việc nói rõ tên những nhân vật vừa hiện thực, vừa trữ tình
mà tên các địa danh cũng được ông nhắc đến với một tần suất cực kỳ cao. Tất cả tạo
nên tính chất người thật, việc thật trong trường ca của Thu Bồn.
Những địa danh được nhắc tới rất nhiều trong trường ca của ông như: Bana,
Giarai, Hơrê, Capuchia, đường Hồ Chí Minh, người Chăm, người Diôlơa, Biển Hồ,
Sông Mê Kông...
Những câu thơ điển hình như: "Máu Ba na, Gia rai đỏ đường 19 / Đầu người Hơ
rê rơi đất Kơ dong / Người Kinh vàng thân vì ngải độc / Những làng dời đi không
nước uống chung dòng" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Có những lúc những danh từ đó đứng tách riêng làm thành một câu thơ: "Bo kam
pê col / Day tứ Kpodơn / Bài hát cho con đất nước của mình..." (Thu Bồn - Campuchia
hy vọng)
Tên người, tên địa danh trong thơ của Thu Bồn rất nhiều, nhưng nó không làm
cho câu thơ trở nên khô khan, rời rạc hay gãy khúc mà ngược lại dưới tâm hồn thơ
nhạy cảm, bàn tay khéo léo của Thu Bồn, những câu thơ lại trở nên giàu nhạc điệu:
"Khi mở Pờrâyveng sen bắt đầu tàn / Cũng là lúc Batđombong phượng nở" (Thu Bồn -
Campuchia hy vọng)
Tôi thấy: "Mật ong và trái chín / Trên khu rừng Đamthờpó trưa vàng / Con ong
hút nhụy rừng 3 nước / Để ngọt ngào về đến tận Phnom Pênh".
Có những câu thơ rất hay, cảm tưởng như chỗ đó phải là địa danh đó chứ không
thể là từ nào khác được: "Tôi lớn lên hết một vòng tay mẹ / Đất đai này mẹ đã trao tôi /
84
Lòng ngực biển hồ rung lá phổi / Cánh tay trần cuồn cuộn sóng Mê kông..." (Thu Bồn
- Campuchia hy vọng)
Có bài thơ, câu thơ nào trong đó cũng có danh từ chỉ địa danh hay sự vật như bài
(Công pông - Bến đợi): "Công pông bến đợi đây rồi / Mà sao em vẫn đứng ngồi không
yên / Pờrếat đợi phật / Têrêđa đợi tiên / Payxay đợi quỷ / Công pôngchơnông đợi nồi /
Côngpôngchơpú đợi trâu / Côngpông Sơpú đợi khế / Côngpông sầu...đợi ai /
Côngpông thơm đợi ngày mai / Mêcông bến đợi dài dài nhớ thương / Tônglê đợi sông
/ Pờrêk đợi suối / Pờrêa Katíc đợi mặt trời / Lòng anh bến đợi một lời của em." (Thu
Bồn - Campuchia hy vọng)
Hình như những vùng đất, địa danh nào nhà thơ đi qua cũng đều có mặt trong
trường ca của ông thì phải. Nó trải rộng không những chỉ Việt Nam, mà cả Campuchia,
Lào, rồi Thái Lan: "Campuchia những mẫu tự chưa nhòa / Trên vách Ăngko / Trên
biển Hồ ngợp nắng / Trên môi cô gái có đôi mắt buồn xa vắng / Prếchvihia những
ngọn núi cao / Tôi hỏi Lếck, hỏi KêKông / Hỏi biển xanh từ biên giới Thái" (Thu Bồn -
Oran 76 ngọn)
Tên người, tên đất gắn liền với đặc trưng thẩm mỹ tinh thần của mỗi dân tộc, Thu
Bồn tạo nên được những hồn thơ rất riêng, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc từng
vùng đất. Đây là một vũ điệu Ápxara: "Ồ kalahông, ồkalahông! / Bài ca về hoa đu đủ /
Bài ca về một loài hoa trắng thương nhau..." (Thu Bồn - Oan 76 ngọn)
Những câu thơ này của Thu Bồn mang đậm chất miêu tả, những vùng đất mà nhà
thơ qua đều đáng yêu, thân thiện và luôn mang đến cho ông một hồn thơ tươi trẻ: "Tây
Ninh với núi Bà Đen cao ngất / Nơi mưa tuôn và gió giật... / Khi núi cậu bên kia nhìn
mặt trời / Nhóm bếp phía tây / Núi Bà xõa những làn mây mỏng... / Đất đai nghèo
thành bến Sắn bến Khoai / Xa hơn nữa là sông Vàm Cỏ / Thả lòng mình xanh thẳm với
miền Đông" (Thu Bồn - Oan 76 ngọn)
Theo thống kê cụ thể của chúng tôi, ở một số trường ca như "Campuchia hy
vọng"; "Oran 76 ngọn" mật độ sử dụng các địa danh, vùng đất trong câu thơ, bài thơ
của Thu Bồn là rất nhiều.
Ở trường ca "Campuchia hy vọng", có khoảng 200 lần Thu Bồn nhắc tên các địa
danh. Các địa danh này chủ yếu thuộc về 2 đất nước Campuchia và Việt Nam.
85
Ở trường ca "Oran 76 ngọn", theo thống kê có 209 lần Thu Bồn sử dụng tên các
địa danh. Nhưng cũng chính vì điều này, đôi khi nhà thơ lạm dụng dẫn đến một số câu
thơ trở thành khô khan, đúng như giọng kể: "Tín hiệu vang lên rồi tắt ngấm / Mêkong
đâu? Mêkong đâu?... / Những bãi bờ trăn trở phù sa / Campuchia đâu? Campuchia
đâu?" (Thu bồn - Oran 76 ngọn)
Chất thơ đôi lúc như bị mất hẳn mà nhường hẳn chỗ cho lời kể: "Đến với những
người bạn hữu Việt Nam / Việt Nam - Lào - Campuchia là 3 dân tộc" (Thu bồn - Oran
76 ngọn)
Hay: "Đội trinh sát Việt Nam có 9 người chiến sỹ / Lớn nhất là Trung 27 tuổi đời
/ Nhỏ nhất là Phiên 18 tuổi" (Thu Bồn - Oan 76 ngọn)
Trong "Người gồng gánh phương đông", những câu thơ sau giống như nhà thơ
đang kể về truyện lịch sử: "Chúng muốn đoạn tuyệt với mũi tên thần / Với những cánh
cung / Chúng sợ An Đương Vương, Thánh Gióng" (Thu Bồn - Người gồng gánh
phương đông)
Nhưng chúng ta có thể nói, không thể phủ nhận tài năng của Thu Bồn. Việc đưa
nhiều tên người, tên những vùng đất, địa đanh vào thơ thì gặp vấn đề đó là không tránh
khỏi. Ở đây ta vẫn thấy được những câu thơ đậm chất trữ tình và những câu chuyện,
những vùng đất nên thơ.
Trong trường ca của Thu Bồn, ông sử dụng ngôn ngữ mang đậm chất liệu văn
học dân gian.
Gooki đã từng nói: "Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn
tồi". Quả thật là chính xác, ngôn từ nghệ thuật có một vị trí đặc biệt quan trọng trong
thơ, là vật liệu xây dựng hình tượng thơ, là phương tiện chuyên chở tư tưởng nghệ
thuật. Tính dân tộc thể hiện ở hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, nhất là ở phong
cách diễn đạt: lời ăn tiếng nói giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh ở cách ví von so sánh,
cách nói vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ... Sự kết hợp hài hòa giữa nét
truyền thống và nét hiện đại đã tạo cho trường ca của Thu Bồn nét đẹp văn hóa cổ xưa,
gợi nhớ về cội nguồn lịch sử dân tộc lại mang tính thời đại.
Nội dung này không chỉ Thu Bồn thể hiện, mà cùng thế hệ với ông như Trần
Mạnh Hảo, Nguyễn Khoa Điềm cũng thể hiện rất rõ.
86
Trong trường ca "Mặt trời trong lòng đất", Trần Mạnh Hảo viết: "Khi mẹ ru con
trong lòng đất / Cây cải lên trời còn gởi gió về thăm / Gió ở lại với rau răm cay đắng /
Mẹ là rau răm, mẹ là cây cải đắng" (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Những câu thơ trên, có khi nhà thơ cảm hứng từ một lời ru: "Gió đưa cây cải về
trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay !" (Ca dao)
Hoặc từ truyền thuyết "Trăm trứng nở trăm con" được nhẹ nhàng đưa vào trường
ca: "Chúng ta là cái bọc một trăm trứng, một trăm con của mẹ / Trái đất mang thai và
em đã hoài thai" (Trần Mạnh Hảo – Mặt trời trong lòng đất)
Với Thu Bồn, hình ảnh của đất mẹ thân yêu, hình ảnh của dân tộc hình cũng gắn
liền với câu truyện tình yêu huyền thoại đầy lãng mạn: "Nàng Âu Cơ trở mình trên
đệm cỏ / Tóc thả xuôi theo dải Sông Hồng / Lòng quặn đau nàng nhớ đến chồng / Ôm
cả đỉnh Phăng Xi Păng nàng khóc" (Thu Bồn - Người gồng gánh phương đông)
Hình ảnh nàng Âu Cơ thể hiện cho hình ảnh những bà mẹ Việt Nam - Người mẹ
quanh năm lam lũ, gánh chịu, bao dung mà Thu Bồn trân trọng: "Lòng mẹ từ xưa ấp ủ
/ Trọn đời mẹ khổ đau lam lũ / Để tạc ra hình dáng non sông / Tìm cha con hãy đến
biển Đông / Nơi ngọn sóng bạc đầu vì sương gió..." (Thu Bồn - Người gồng gánh
phương Đông)
Về sự kết hợp với ngôn ngữ văn học dân gian, nhưng ở đôi chỗ Trần Mạnh Hảo
sử dụng quá nhiều yếu tố truyện cổ dân gian, có chỗ hình như trùng lập nguyên xi, dẫn
đến rối, dàn trải: "thương nhau cởi áo cho nhau / vì em dối mẹ một câu trong đời / con
xin phép mẹ mẹ ơi / giặc tan con phải tìm người con thương..." (Trần Mạnh Hảo - Mặt
trời trong lòng đất). Thu Bồn thì sử dụng khá chắc chắn có điểm gì đó giống như
những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong "Đất nước" trích trường ca "Mặt đường
khát vọng". Khi Thu Bồn viết: "vì đất này anh đo bằng máu / dù cái kiến con ong đều
quý báu / một dây bìm cũng có" (Thu Bồn - Ba zan khát), ta cảm thấy ngôn ngữ của
ông gần với Nguyễn Khoa Điềm: "đất nước này là đất nước của nhân dân / đất nước
của ca dao thần thoại / cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn / cái kèo cái cột
cũng thành tên" (Nguyễn Khoa Điềm - "Đất nước" - Trích mặt đường khát vọng)
Là con người của đất nước bị đọa đày đau khổ nhưng Thu Bồn luôn luôn tự hào
về một đất nước anh hùng. Trong bài thơ "Tổ quốc tôi - Tổ quốc bị đọa đày đau khổ"
trích trường ca "Campuchia hy vọng", Thu Bồn đã nói khá rõ về bước đi của dân tộc
87
ta, mỗi bước đi gắn liền với một chiến công hiển hách trong lịch sử. Quá khứ lịch sử
hào hùng đã tạo nên niềm cảm hứng trong trường ca của ông hôm nay: "Anh nói với
tôi về niềm hạnh phúc / Và đau thương của dân tộc Việt Nam / Anh nói với tôi về
Trường sa, Hoàng sa" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Bằng ngôn ngữ trường ca hiện đại, yếu tố dân gian, ở đây không nằm trong giọng
điệu ngôn ngữ mà nằm trong chính đề tài và cảm hứng cổ xưa thể hiện của Thu Bồn,
nó vẫn tiếp nối mạch đập của mẹ Âu Cơ, của đất nước hình chim lạc.
Chính vì thế mà mạch thơ rất dồn dập, tuôn trào, giống như chính Thu Bồn đang
tham gia trận thủy chiến cùng Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương. Qúa khứ lịch sử như đan
xen cùng hiện tại: "Cọc Bạch Đằng - Cây chống lớn ngàn năm / ngọn sóng qua đây
thành lưỡi búa / ngọn gió qua đây thành mũi lao / cánh chim qua đây thành con tuấn
mã / tờ giấy qua đây thành trang sử đỏ / Quân thù nghe nói mặt xanh như tàu lá" (Thu
Bồn - Campuchia hy vọng)
Và đến khi hình ảnh Tổ quốc gắn chặt vào tâm trí nhà thơ đến không thể tách rời,
giống như cây cau, dây trầu trong truyện cổ tích: "Tổ quốc thánh thần và nhân hậu /
Có dây trầu quấn quýt thân cau / Nhà của tôi cắm sâu vào đất..." (Thu Bồn -
Campuchia hy vọng)
Ở "Quê hương mặt trời vàng", rất nhiều hình ảnh trong kho truyền thuyết, cổ tích
được Thu Bồn nhắc đến, ở đây không những người đọc được nghe tên những câu
truyện, những nhân vật trong cổ tích, truyền thuyết mà người đọc còn như thấy hình
ảnh mình thấp thoáng trong đó - Hình ảnh những ngày thơ dại được sống trong vòng
tay và lời du của mẹ, của bà: "...Lời mẹ ru... / Tay mẹ nựng / Mắt mẹ nhìn / Môi mẹ
nhìn..." (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Tôi nhớ ở một bài thơ của nữ văn sỹ Xuân Quỳnh có tựa đề: "Truyện cổ tích về
loài người". Cả bài thơ là một kho tàng cổ tích dân gian mà chúng ta được nghe qua
những lời ru quen thuộc của mẹ của bà, những bài học nhân sinh đầu đời của ba, của
thầy. Phải nói đó là một bài thơ rất hay và nổi tiếng của Xuân Quỳnh, trong đó xin
được phân tích ra những câu thơ rất hay, có điểm gì rất giống với Thu Bồn:
"...Thế là mẹ sinh ra / Cho trẻ con được bú / Mẹ đem đến lời ru / Từ cánh cò rất trắng
/ Bà bắt đầu từ đó / Kể cho bao truyện cổ / Truyện con cóc nàng tiên / Truyện Cô Tấm
ở hiền / Thằng Lý Thông ở ác..." (Xuân Quỳnh - Truyện cổ tích về loài người)
88
Trẻ em đều biết, đều thuộc bởi nó có trong lời ru của mẹ của bà mà mỗi chúng ta
khi trưởng thành ít nhiều ai cũng thuộc một đôi câu. Cũng như lời ru: "Gió mùa thu mẹ
ru con ngủ", trong ca dao. Thu Bồn cũng đã đúc kết một cách sâu sắc công lao của
người trong những lời ru, ví dụ như: "Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ / mẹ ấp con
bằng lồng ngực không còn mùa đông / mẹ xoa đầu con / bằng bàn tay xoa dịu canh
đồng..." (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Cái hay của ngôn ngữ trong trường ca Thu Bồn đó là dân dã, mộc mạc và hết sức
gần gũi và cuộc sống của người dân. Những câu đồng dao rất dễ nhớ: "Siêng đi tát /
nhát đi câu..." (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Cùng với ngôn ngữ đậm chất dân gian và mang tính lịch sử là một giọng điệu rất
phù hợp, giàu nhạc diệu, là hơi thở của của những lời ru ngọt ngào: "Anh bỗng nhớ
tiếng ru bài hát cũ / Cái con chim xanh ăn trái xoài xanh / Mẹ đã ru những...trưa nồng
anh ngủ / Con chim xanh ăn trái xoài xanh" (Thu Bồn - Bài ca chim chơrao)
Ở tập trường ca "Campuchia hy vọng", một lần nữa tiếng ru của mẹ lại cất lên,
mà ẩn chứa trong lời ru đó là những bài học nhân sinh vô cùng quí giá: "Đây là bài hát
cho con / Lời ru của mẹ nước non vỗ về / Là khi mưa nắng bộn bề / Là khi chiếc lá rơi
về cội cây / Xanh con trên chiếc sạp này / Mồ hôi mẹ chảy tuôn đầy ngực cha" (Thu
Bồn - Campuchia hy vọng)
Và ở chỗ khác trong tập trường ca, lời ru của mẹ như ngân nga mãi tận ngàn đời,
lời ru đó từ khi con còn ở trong lòng mẹ cho đến tận sau này: "…ru con ru mẹ ru mau /
ru cho cuống rốn cái nhau ru hoài / ru cho đến tận ngày mai / ru cho màu ấm bào thai
vuông tròn / ru như lời mẹ ru con / ru lời thương nhớ nước non ru người" (Thu Bồn -
Campuchia hy vọng)
Lời ru của mẹ lớn lao vô cùng, đó cũng là lời ru của đất nước ru những người con
đã hy sinh vì nghĩa lớn bởi vì "Khi em gọi tên con là đã có tên anh trong đó rồi". Ở
đây, chúng ta cũng thấy giống như những lời ru trong bài hát ru dân gian, mong cho
con có giấc ngủ say, ngon giấc trong vòng tay của mẹ, của bà, của chị: "Con ơi con
ngủ cho ngoan / Để mẹ gánh nước rửa bành con voi..." (Ca dao); "Em ơi em ngủ cho
ngoan / còn đi chợ mua vôi têm trầu..." (Ca dao). Còn ở Thu Bồn, thì lời ru của mẹ
còn chất chứa một niềm mong mỏi lớn lao, giấc ngủ của con và sự sống của bao
người, sự sống của dân tộc, chính vì thế mẹ vừa ru vừa lạy vừa cầu xin, lời ru như gián
89
đoạn, gãy khúc: "Con tôi đói thèm ăn / nó khóc / sữa đâu con / vú mẹ cạn khô / con
hãy nín mẹ ru / lời thầm thì nhẹ hơn làn gió nhẹ / quân thù đang sục sạo ngoài kia /
tiếng chó / tiếng người / mẹ lạy con đừng khóc ! " (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Và đúng là huyền thoại mẹ, lời ru đã mang đến niềm hạnh phúc lớn lao cho bao
người, vì niềm hạnh phúc đó, người mẹ đã phải hy sinh đi mầm sống của mình - niềm
hạnh phúc lớn lao của đời mẹ: "Lời ru âm thầm trong trái tim người mẹ / bỗng làm êm
dịu những cơn đau" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Cái mới, cái khác của Thu Bồn chính là nằm ở chỗ đó. Cũng chính vì thế mà
ngôn ngữ trong trường ca Thu Bồn ngoài yếu tố chân thật, với những tên người, tên
đất cụ thể, chất liệu dân gian, gắn với câu truyện lịch sử... Ngôn ngữ trong trường ca
của ông còn mang tính khái quát cao, sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, miêu tả...
Và đặc biệt nhất là tính triết lý cao trong ngôn ngữ.
Tính triết lý hay triết luận trong văn học nghệ thuật được hiểu là những bài học lý
luận sâu sắc mà tác giả thể hiện trong tác phẩm của mình. Điều này không phải nhà
văn, nhà thơ nào cũng làm được, hay mỗi người nghệ sỹ thể hiện một cách khác nhau.
Nhưng một điều không thể chối cãi được đó phải là những người lao động nghệ thuật
thực sự, đi nhiều, trải nghiệm nhiều, đầy kinh nghiệm trong cuộc sống và trăn trở thực
sự. Với Thu Bồn thì ông có cả những đức tính ấy. Ngôn ngữ mà Thu Bồn sử dụng
mang đậm chất bình luận, triết lý, sâu xa, thâm thúy nhưng lại rất dễ hiểu với người
thưởng thức.
Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc vào Nam, từ Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng
Cái, với nhiều dân tộc sinh sống trên các vùng đất khác nhau đã được Thu Bồn thể
hiện: "đất nước dài theo dưa hấu dưa leo / An Tiêm trồng cây cho cháu con ăn quả /
dân tộc tôi da vàng / không màu da nào hợp hơn / đất vừa đen vừa đỏ / vừa thẫm vừa
nâu / mẹ sinh con ra màu da như thể vỏ địa cẩu!" (Thu Bồn - Quê hương mặt trời
vàng)
Sự ra đời của một con người đồng nghĩa với sự mang nặng đẻ đau của người mẹ.
Nhân dân ta thường nhắc nhở mỗi con người phải nhớ tới nơi chôn nhau cắt rốn của
mình cũng là vì thế. Thu Bồn nói thật chính xác bằng những lời thơ mà bất cứ ai đọc
cũng phải đọc để suy nghĩ: "Mẹ sinh con ra vào năm tuổi Hợi / cắt rốn cho con bằng
90
một mảnh bom / dúm nhau mẹ và rốn con chôn một chỗ / máu bào thai mẹ và rốn con
chảy một lần" (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Đó cũng chính là bài học làm người cho mỗi chúng ta từ khi lọt lòng mẹ, ta uống
dòng sữa mẹ lúc chào đời, dòng sữa mẹ không bao giờ cạn bởi đất nước này hai mươi
lăm năm đạn nổ: "răng mới mọc con cắn vào vú mẹ / cắn đứt dòng sữa tươi / để nối
tiếp cuộc đời đất nước hai mươi lăm năm / thắp bằng pháo sáng" (Thu Bồn - Quê
hương mặt trời vàng)
Có thể nói, Thu Bồn có mặt ở hầu hết những chiến trường ác liệt nhất, từ hầu hết
các vùng đất của Việt Nam, đến đất bạn Lào, Campuchia. Tất cả đều hiện lên rất rõ
trong các tập trường ca của ông. Ông yêu đất nước vô cùng bởi đất nước này là đất
nước của nhân dân (Nguyễn Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng), ông hiến dâng bằng
cả tài năng, bằng máu: "Vì yêu mến tôi cất lên tiếng hát / Lòng thẳng băng như những
luống cày / Bài thơ nhỏ tôi viết lên bằng máu / Gởi Tổ Quốc tôi – Tổ Quốc bị đọa
đày!" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Những người đã hy sinh vì Tổ Quốc thì Tổ Quốc cũng sẽ mãi mãi không quên
họ. Trước hết chính Thu Bồn đã làm việc đó bằng những vần thơ, những ngôn từ rất
hình tượng nhưng vô cùng sâu xa về triết lý bánh xe lịch sử: "Trên những chiếc xe bò
này, anh chị là ai? / Lịch sử sẽ còn dài / Để nhớ lại những trang máu đẫm" (Thu Bồn -
Oran 76 ngọn)
Tính triết lý bàn luận trong thơ đôi lúc có thể làm cho câu thơ trở nên khô khan,
như chính Thu Bồn có lúc nhận thấy: "Đừng bắt bẻ tôi vài câu nói sai vần". Nhưng
chúng ta nhận thấy trong những câu nói sai vần ấy là cả một sự trải nghiệm, một suy
nghĩ sâu xa, biển có rộng đường nào thì chim cũng vượt qua được bằng đôi cánh,
nhưng trong lòng đại dương thì có mẹ - con người của biển, sống chết với biển thì mới
hiểu được, hiểu được cả lời của biển. Như Xuân Quỳnh: "Nếu phải cách xa em anh chỉ
còn bão tố". Còn với Thu Bồn: "Biển sẽ đến những vùng đất góa / Nói với khô cằn lời
bà mẹ mất con / Lời của biển chim bồ nông đo bằng cánh / Ta đo bằng lòng mẹ của ta"
(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Hay phải để giải thích dòng sông chín nhánh, Thu Bồn có một sự suy luận rất
hay: "Từ ngón tay chàng trai máu ứa ra những dòng kinh / Còn lại chín ngón tay xòe
91
ra vô tận / Thành chín nhánh Cửu Long sờ vào ngực biển Động" (Thu Bồn - Người
gồng gánh phương đông)
Đất nước Việt Nam như dây dưa hấu, dưa leo, có lúc tác giả ví như dây trầu, đặc
biệt có lúc đất nước cong như đòn gánh: "Đất nước cong như đòn gánh / Nỗi ngày mai
trĩu nặng vai gầy" (Thu Bồn - Người gồng gánh phương đông)
Cũng có lúc ngôn ngữ đó giải thích sự mất mát cá nhân đã làm lành cho những
cái lớn hơn: "Giờ đây chúng tôi thôi khóc / Đứa trẻ con đã lớn nên người / Tôi chẳng
còn khóc nữa đâu nhưng chẳng dễ dãi nụ cười / Thương tật chúng tôi lành bằng vết
thương Tổ quốc! "(Thu Bồn - Bazan khát)
Nhưng thú thực, đôi lúc ngôn ngữ Thu Bồn sử dụng thật khó hiểu hay nói cách
khác là sự cầu kì trong ngôn ngữ, chẳng hạn: "Gió đánh vào hàng cây / Thêm đau
ngọn gió / Nghìn nhánh trơ vơ tiếng lá thì thào" (Thu Bồn - Người gồng gánh phương
đông)
Nói chung sự khó hiểu đó là nhất thời hay đối với một số ít bạn đọc, còn sự già
giặn trong việc sử dụng ngôn ngữ của Thu Bồn là không thể nào phủ nhận. Những tập
trường ca của ông là kho tàng ngôn ngữ rất quý giá với những nhà ngôn ngữ học.
Như vậy, bằng sự cao tay của một người được coi là viết nhiều trường ca nhất,
Thu Bồn đã rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ trường ca của mình. Là ngôn
ngữ của kể chuyện với cách gọi tên nhân vật, tên địa danh rất nhiều mà nghe không hề
khô khan hay nhàm chán chút nào. Tất cả như đã được nhà thơ lựa chọn. Sắp đặt kĩ
càng, như thể không thể dùng từ khác được mà phải là cái tên đó mới thành thơ. Cũng
chính vì Thu Bồn chọn lựa chính xác như vậy nên ngôn ngữ trong trường ca của ông
còn mang đậm tính triết lý, nhân sinh sâu sắc, kết hợp với tình cảm trữ tình dào dạt. Và
để hiểu thêm vấn đề này, chúng tôi đi tìm hiểu tiếp về giọng điệu trong trường ca của
ông.
4.2. Giọng điệu trong trường ca của Thu Bồn
Có thể nói nếu ngôn ngữ là những viên gạch để xây dựng nên tác phẩm nghệ
thuật thì giọng điệu cũng như những tác phẩm nghệ thuật khác là những chất phụ gia
để hoàn chỉnh và tăng giá trị cho những tác phẩm ấy. Ở đây, chúng tôi xét đến vấn đề
giọng điệu. Nói đến giọng điệu thì mỗi thể loại văn học có một giọng điệu riêng phù
92
hợp với thể loại đó nhưng ngoài ra tác giả cũng vận dụng một số giọng điệu khác nữa.
Với trường ca hiện đại thì đó là sự kết hợp cả giọng điệu nói, kể, đối thoại mang chất
tự sự pha lẫn giọng điệu trữ tình nhẹ nhàng, mang tính chất khái quát cao, triết lý sâu
sa, có khi lại mộc mạc, giản đơn.
Với Thu Bồn, tất cả các tập trường ca của ông nổi bật lên là những giọng điệu có
sự kết hợp giữa giọng điệu kể, đối thoại mà rất trữ tình, mang tính chất khái quát cao...
4.2.1. Giọng điệu kể, đối thoại:
Giọng điệu là đặc trưng của thể loại trường ca và hầu hết các trường ca hiện đại
từ năm 1954 đến nay. Bởi trường ca là những câu thơ dài, có cốt truyện. Những người
viết trường ca là những người kể chuyện bằng thơ.
Đây là một lời kể mang tính chất tự sự, giới thiệu nhân vật nhưng lại rất thiết tha,
giàu hình ảnh: "Hùng và Rin hai người con Kinh - Thượng / Hai con chim bị khoá một
lồng / Cả cuộc đời hai người gắn bó / Hai con suối giao hòa chảy đến một dòng sông"
(Thu Bồn – Bài ca chim Chơrao)
Rồi chúng ta như được nghe anh lính kể về một trận đánh rất gay go, hồi hộp mà
chính anh vừa tham gia: "…đêm hỏa châu vàng vọt trên đầu / Qua cao điểm bom nổ
nhiều như lòng tham lũ giặc / Tôi ôm cả bóng đêm lấy rạ phủ lên người / Rạ mang lớp
rong rêu đồng nội / Tiếng bom bi bất lực trên đầu" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Điều làm cho giọng kể đó giàu chất thơ là Thu Bồn sử dụng thành công thủ pháp
so sánh, không màu mè, cao siêu mà rất dễ hiểu: "Bom nổ nhiều như lòng tham lũ giặc
/ Rạ mang lớp rong rêu đồng nội / Tiếng gõ kiến là cành khô nắng nó / Cây rớt ngang
đường là nhánh bão tử thương" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Một sự mở đầu rất ngộ nghĩnh: "Cây chốt lửa là cây chốt không bao giờ đốt lửa /
Một ngọn đèn cũng thắp trong mơ" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Tiếp theo là lời giới thiệu: "Chúng tôi có ba người / Ba cây súng bắn cùng cỡ đạn
/ Tiếng nói ba miền trên đỉnh núi cao" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Lời giới thiệu về một miền đất, một vùng quê gợi nhiều cảm xúc trong "Quê
hương mặt trời vàng": "Quê hương tôi bé nhỏ đẹp xinh / Có đá trong mưa / Lửa trong
nắng / Dòng sông cạn mà đồng lại sâu..." (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
93
Nói chung mở đầu trường ca nào của Thu Bồn cũng thường là giọng điệu kể, giới
thiệu những nét chung nhất, sau đó mới đi khai thác chi tiết: "Vũ điệu Xarian người
Chăm / Vũ điệu Lăm người Lào / Nhạc chiêng người Rục / Tiếng cồng người Bana /
Tiếng hú người Diôloa" (Thu Bồn - Tiếng hát người Diôloa)
Trong "Campuchia hy vọng" là một câu nói rất khái quát và triết lý: "…cánh tay
người là con đẻ của công lý vắt qua đại dương mênh mông để chặn những vết nhơ thế
kỷ…" (Thơ ghi trên vách đá Angkor ca ngợi Jaia Vaman thứ 5, 968 - 1001)
Và tiếp theo là lời kể của Omal, kể về dân tộc Campuchia anh hùng trải qua bao
khổ đau. Sự mở đầu quá trình đấu tranh của một dân tộc là mở đầu một ngày mới, hết
sức gợi mở: "Khi mặt trời mở cửa những ngôi nhà / Lửa đỏ liếm chiếc nồi đen bóng"
(Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Lời kể như không bao giờ ngớt, giống như già làng kể chuyện cho con cháu buôn
làng nghe, những tiếng nói ngày này qua ngày khác đã kết thành tràng thơ, chứa đựng
những tình yêu bao la: "Tiếng nói Campuchia thốt lên từ đất / Hồi âm từ những vách
chùa / Những tiếng nói kết vào nhau thành chuỗi / Thành tình yêu như da thịt liền
nhau" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Nhưng cũng có những lúc lời kể chỉ thuần là lời kể, và tất nhiên là ở đó, chất thơ
sẽ không còn, đó chính là lời dẫn truyện. Ví dụ: "Thốt Nốt", "Lễ buộc chỉ cổ tay", "Lời
ru cho người đẻ", "Angkor đến"…(Thu Bồn - Campuchia hy vọng).
Giọng điệu kể gắn chặt với yếu tố cốt truyện trong trường ca, thì ngôn ngữ giọng
điệu mang tính đối thoại cũng không nằm ngoài điều đó, mà có lẽ có chỗ nó trở thành
yếu tố chủ đạo. Bởi đối thoại sẽ làm nổi bật được số phận và tính cách của nhân vật,
cũng có nghĩa là tác giả dễ dàng gửi gắm vào đó những tâm tư, tình cảm, và cả thái độ
của mình, của đại đa số những số phận khác vào các nhân vật trữ tình đó.
Đối thoại trong trường ca Thu Bồn rất phong phú: thường là đối thoại giữa các
nhân vật trữ tình trong trường ca, người lính với người lính, người lính với kẻ thù,
người con trai với người con gái, đôi chỗ là sự đối thoại giữa tác giả - chủ thể trữ tình
với nhân vật trữ tình hay chủ thể trữ tình sẽ thể hiện cả hai lời thoại của nhân vật trữ
tình.
Đây là lời đối thoại giữa cô gái Sao và người chiến sỹ trong nhà lao, nhưng hình
như chỉ có lời hỏi: "Cô nắm bàn tay anh lạnh ngắt / Kề miệng vào tai hỏi thì thầm /
94
Anh là ai và kia người chiến sỹ / Vì sao chúng nó lại cùm chân?" (Thu Bồn - Bài ca
chim Chơrao)
Rất xúc động, những người chiến sỹ hiên ngang trước kẻ thù, bất phục trước đòn
roi, nhưng lại rất yếu mềm khi họ tâm sự cùng nhau, rất vui sướng được nói cho nhau
nghe về mình, về quê hương mình những lời thoại nghe thật tha thiết và cảm động, họ
cảm thấy hạnh phúc khi được san sẻ nỗi đau: "Sao lấy nắm xôi ấp trên lồng ngực /
Đưa cho Rin và nói thều thào / Ăn đi anh nắm xôi tình nghĩa / Của những người hấp
hối trong lao" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Xúc động, yếu mềm, tràn đầy tình cảm đồng đội, xen lẫn tình yêu quê hương,
làng xóm tình yêu của những số phận đáng thương. Nhưng khi đứng trước kẻ thù hung
ác thì họ lại cứng rắn làm sao, sự tra tấn nhục hình trở nên vô nghĩa với họ, mỗi lời dụ
dỗ ngon ngọt của kẻ thù là những tiếng nói đanh thép của người chiến sỹ chọi lại:
Kẻ thù: "Khai ngay không tao cắt lưỡi mày / Thằng Hùng đã khai rồi tất cả / Bí
mật gì tao nắm hết trong tay"
Rin: "Khai gì tao là người chiến sỹ / Còn tao, sẽ không có chúng mày / Giết đi,
tao sợ gì cái chết / Xẻo đi, lồng ngực của tao đây"
Kẻ thù: "Đây ông hãy viết những lời khai / Rồi về với gia đình làng mạc / Chính
phủ quốc gia trọng dụng nhân tài"
Hùng: "Tôi có thứ bút này rất tốt / Anh cắn đầu ngón tây máú chảy tràn / Tất cả
thứ này tôi thử hết / Trong đấu tranh sống chết là thường / Tôi cầm súng cứu nhà cứu
nước / Giải phóng miền Nam tôi chỉ có một đường" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Sự gan dạ của họ khiến kẻ thù phải run sợ, lời thoại của mỗi bên thể hiện tội ác
của kẻ thù, nhục nhã và yếu hèn của kẻ xâm lược cũng như bè lũ tay sai. Kiên cường,
bất khuất, anh dũng hy sinh thân mình để dân tộc Việt Nam được độc lập, tự do, để
"ngàn đời soi sáng đất Tây Nguyên".
Lời thoại trong trường ca Thu Bồn chiếm một dung lượng rất lớn. Ở trường ca
"Vách đá Hồ Chí Minh" là lời thoại giữa Dang Nghi A và Dy Mơ Thưng, giữa Dang
Nghi A và nước Mỹ văn minh; giữa em và người chiến sỹ trong "Chim vàng chốt lửa";
Bơrốc và Omal trong "Campuchia hy vọng".
95
4.2.2. Giọng điệu mang tính nhận định, khái quát, tổng kết một
quá trình
Độ dài của trường ca về dung lượng các câu thơ, còn về nội dung của trường ca
thì rất dễ nắm bắt. Với trường ca của Thu Bồn, như đã tìm hiểu phần trên, mở đầu mỗi
tập trường ca, mỗi bài thơ nhỏ bao giờ cũng là kể và giới thiệu nội dung chính, khái
quát nội dung được trình bày ở phần tiếp theo. Kết thúc thường là tổng kết, khái quát
lại.
Nhưng cách tổng kết của Thu Bồn có chiều hướng tổng kết, nhận định quá trình
đấu tranh của một dân tộc đau thương đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Những câu thơ tổng kết ở cuối tập trường ca của Thu Bồn thường là những lời
hát vang bay xa, là một bài ca ngợi chiến thắng. Đây là thành quả đấu tranh của dân
tộc Tây Nguyên: "Ơi Tây Nguyên khảm một trời sao lộng lẫy / Ta đi theo tiếng hú
thiêng liêng / Quả tim anh hùng bừng bừng ngọn lửa / Nghìn đời soi sáng đất Tây
Nguyên" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Ai đã từng đi qua cuộc chiến tranh nhiều ngàn ngày mới thấy được, mới đúc kết
được sự vĩ đại của một dân tộc anh hùng, những cái được, cái mất. Nhưng cuối cùng
vẫn là một niềm hạnh phúc trong mỗi trái tim con người: "Đi hết đỉnh cao của nước
non này / Lòng mơ tới trời xanh nhân loại / Vầng chữ kia như cầu vồng sáng chói /
Trong trái tim sâu thẳm con người" (Thu Bồn - Vách đá HCM)
Giống như vầng trăng hòa bình cuối bài "Đồng chí", của nhà thơ Chính Hữu:
"Đêm nay rừng hoang sương muối / Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới / Đầu súng
trăng treo"
Thì với Thu Bồn đó là hình ảnh cây chốt lửa, sẽ không còn nữa những giọt nước
mắt đau thương vì đã có những ngọn đèn sáng mãi hai mươi năm: "...giọt nước mắt
bóng đêm không nhìn thấy / dưới ngọn đèn vừa chói to thê / những ngọn đèn đêm nay
tôi đứng gác / sẽ tiến sâu vào lòng bóng tối thời gian / đất nước quê hương rậm rịch
dưới chân mình / những ngọn đèn hai mươi năm soi sáng ngọn trường chinh / giờ mọc
thẳng nơi này cây chốt lửa !" (Thu Bồn - Chim vàng chốt lửa)
Sự khái quát trong trường ca của Thu Bồn bao giờ cũng được thể hiện với một
giọng điệu tươi vui, phấn khởi, giọng điệu của chính con người đi trong cuộc kháng
96
chiến. Đã bao lần nén uất hận giờ như được cởi mở tấm lòng: "...nơi tâm hồn tôi thắp
lên ngọn lửa / Việt Nam! / cầu đã bắc rồi em / đâu phải bắc qua sông / cầu đã bắc nối
hai vòng khát vọng" (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng)
Giọng điệu này rất gần với Tố Hữu: "Ôi Huế ngàn năm, Huế của ta / Đường vào
sẽ nối lại đường ra / Như con của mẹ về quê mẹ / Huế lại về vui giữa Cộng Hòa" (Tố
Hữu - Quê mẹ)
Hay trong "Bài ca mùa xuân 1961", một giọng điệu rất đặc biệt, thể hiện tài năng
của Tố Hữu: "Hòa bình / Độc lập / Ấm no / Cho / Con người / Sung sướng / Tự do!"
(Tố Hữu - Bài ca mùa xuân 1961)
Đó là những câu thơ cực ngắn, xuống dòng liên tục nhưng lại liền mạch chảy liên
tục. Còn Thu Bồn vì sung sướng quá nên bật thành tiếng hát: "Vì yêu mến tôi cất lên
tiếng hát / lòng thẳng băng như những luống cày / bài thơ nhỏ tôi viết lên thành máu /
gởi Tổ quốc tôi_ Tổ quốc bị đọa đầy!" (Thu Bồn - Campuchia hy vọng) hoặc như ở
phần kết thúc trường ca "Oran 76 ngọn" là giọng thơ tổng kết, chan chứa niềm vui:
"...đất đai này như có lời nguyền / khi em ngồi bên tôi / ngoài kia bóng tối tan dần /
bên biển Hồ ngôi sao lên xanh biếc" (Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Ngoài ra trong trường ca của Thu Bồn còn chứa một số giọng điệu khác nữa,
giọng điệu của sự xót xa, uất nghẹn của các nhân vật trữ tình: Hùng, Rin, Sao, rồi của
Dang Nghi A, Dy Mơ Thưng..., của chỉ thể trữ tình - tác giả. Có lúc lại là giọng điệu
trầm tĩnh, thiết tha: "Tôi và Sao đi trên đỉnh đồi nắng ấm / Mái tóc Sao gió đánh
ngang trời / Hai đứa tôi dừng chân bên mồ liệt sĩ / Trên mắt Sao từng giọt lệ rơi..."
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Cùng với ngôn ngữ và giọng điệu, với trường ca của Thu Bồn, một điểm rất đáng
xem xét nữa, nó cũng nằm trong ý đồ nghệ thuật của tác giả, đó là thể thơ. Nói chung
hầu hết Thu Bồn sử dụng thể thơ tự do. Chỉ duy nhất có trường ca "Bài ca chim
Chơrao" là còn theo một thể thống nhất: câu thơ 7 tiếng, đôi khi xen câu 8 tiếng, mỗi
khổ 4 câu được ngắt rất đều: "Đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh / Tiếng lá rơi gõ nhẹ
trước hiên thềm / Mỗi trận gió lùa vào song sắt / Có tiếng thở dài người lính gác đêm"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Các trường ca khác thì tương đối tự do, hình như không còn ranh giới giữa câu
này câu kia, mà liền một mạch từ đầu đến cuối, có chỗ ngắt dòng rất ngắn: một đến hai
97
tiếng, khổ dài, ngắn đan xen... Sự tự do đó trong trường ca là hợp lý vì để tác giả thể
hiện được cảm xúc, tình cảm, cũng như dễ dàng tái hiện lại những câu chuyện trong
chiến tranh. Đó là những lời ca dài ngoài việc thể hiện nội dung mà vẫn trữ tình tha
thiết, giàu chất thơ.
Bằng sự trải nghiệm của mình, Thu Bồn luôn lắng nghe lòng mình, lắng nghe
cuộc sống bên ngoài nên những trường ca của Thu Bồn thiên về chất trí tuệ, sự suy tư
trăn trở nhưng lại không hề khô khan, nhà thơ luôn bộc lộ bằng lời nói, lời ru, điệu hát
hơn là giọng kể. Ngôn ngữ, giọng điệu thiên về chính luận dàn trải tâm tình, kết cấu
thơ tương đối tự do. Chính vì thế mà trường ca của Thu Bồn có độ dài và độ sâu về
tâm trạng. Giọng điệu kể, đối thoại, tâm tình...trong một trường ca có cốt truyện rõ rệt.
Đó là tính chất đa giọng điệu, đa ngôn ngữ mà Thu Bồn đã thể hiện trong trường ca đạt
đến tầm cao, độ sâu tâm trạng, cảm xúc của nhân vật mới trong trường ca của Thu
Bồn.
98
KẾT LUẬN
Trường ca là một trong những mảng sáng tác quan trọng của Thu Bồn. Thậm chí
chúng ta có thể coi đây là mảng sáng tác nổi bật nhất. Nhắc đến Thu Bồn là nhắc đến
trường ca.
Trường ca Thu Bồn là một nét vẽ không thể thiếu trong thơ ca cách mạng Việt
Nam. Những tác phẩm ấy đã góp một thanh âm trầm hùng cho bản hợp xướng về cuộc
sống lao động và chiến đấu thần thánh của dân tộc suốt nửa cuối thế kỷ XX. Hiện thực
của thời đại đã tái hiện một cách chân thực, sắc sảo, phong phú hấp dẫn trên những
đường nét cơ bản nhất, bao quát nhất.
Chúng tôi nhận thấy có 4 vấn đề nổi bật thể hiện đặc trưng trường ca Thu Bồn.
Đó là: hình tượng nhân vật, cảm hứng sử thi, và tính chất trữ tình, không gian và thời
gian nghệ thuật, ngôn từ và giọng điệu.
Khảo sát trường ca Thu Bồn, chúng tôi nhận thấy có 2 hình tượng nhân vật tiêu
biểu làm nên những giá trị lâu dài cho các tác phẩm của ông. Đó là hình tượng người
chiến sỹ và hình tượng người phụ nữ. Phản ánh bản chất của cuộc sống thực tiễn và
hòa quyện trong cảm hứng chung của nền văn học, người chiến sỹ trong trường ca Thu
Bồn chan chứa một tình yêu thương bao la cho Tổ quốc, cho quê hương, có một niềm
tin son sắc vào Đảng, một tấm lòng kính yêu thiêng liêng với Lãnh tụ; anh hùng, dũng
cảm trong chiến đấu, bất khuất trước bạo lực dã man của kẻ thù, tin tưởng sắt đá vào
chiến thắng và tương lai của dân tộc. Người phụ nữ trong trường ca Thu Bồn thể hiện
tập trung ở hai hình tượng: người mẹ và người vợ, người yêu. Họ là những người phụ
nữ thủy chung, chịu thương chịu khó, một mực yêu chồng thương con, chấp nhận một
cách kiên cường bao đau thương mất mát, hy sinh do kẻ thù gây ra tất cả vì lòng yêu
nước, yêu quê hương và gia đình một cách tha thiết và sâu sắc.
Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình trong
trường ca Thu Bồn. Cảm hứng sử thi đã chắp cánh cho trường ca Thu Bồn thoát ra
ngoài những số phận, những cuộc đời cá lẻ bay vút lên miền lý tưởng, hòa vào số phận
của dân tộc, của Tổ quốc, bắt nhịp với nhịp đập của thời đại Cách mạng. Nhưng ở
trường ca Thu Bồn, cái cao cả không xa lạ với cái đời thường gần gũi, được phản ánh
99
trong chất trữ tình của tác phẩm. Cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình kết hợp với
nhau một cách hữu cơ, tạo ra một sức hấp dẫn đáng kể của trường ca Thu Bồn.
Trong trường ca của Thu Bồn, không gian và thời gian có một vị trí rất đặc biệt.
Các nhân vật của trường ca Thu Bồn không tồn tại trong một không gian và thời gian
bình thường. Họ tồn tại trong không gian "yên bình, êm ả", đồng thời cũng tồn tại
trong những không gian vĩ đại - "không gian của miền đất đau thương - anh dũng",
"không gian đưa tiễn của thương nhớ". Họ tồn tại trong thời gian cá nhân đồng thời
cũng tồn tại trong thời gian lịch sử!
Ngoài ra Thu Bồn có nhiều đóng góp đáng chú ý ở ngôn ngữ giọng điệu thơ ca.
Ngôn ngữ trường ca Thu Bồn vừa dân dã, mộc mạc, vừa nồng cháy đến mức bão hòa
cảm xúc, vừa có tính nhật ký, vừa đậm tính triết lý. Giọng điệu trong trường ca Thu
Bồn cũng hết sức đa dạng, vừa có giọng kể, vừa giọng đối thoại, và gây ấn tượng hơn
cả là giọng điệu khái quát, tổng kết về những quá trình vận động của cuộc sống.
Trên đây là một số kết quả nghiên cứu của chúng tôi khi tiếp cận trường ca Thu
Bồn. Đây là một đối tượng nghiên cứu khó, đòi hỏi người viết không chỉ có phương
pháp luận nghiên cứu khoa học cao, mà còn phải có một vốn văn hoá sâu rộng để lĩnh
hội tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm, phải có một tâm hồn nhạy cảm, phóng
khoáng, giàu cảm xúc để có thể trực cảm sức sống, tinh thần dạt dào ẩn chứa phía sau
từng câu từng chữ. Nhưng vấn đề đặt ra khi tìm biểu đặc điểm của trường ca Thu Bồn
đã nêu trong luận văn này cũng chỉ là những tìm tòi buổi đầu, chắc rằng còn có những
kiến giải bất cập, chúng tôi rất mong sự góp ý của các thầy cô trong hội đồng.
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hoài Anh (2001), Tìm hoa quá bước - Nxb Văn học
2) Lại Nguyên Ân (1981), Bàn góp về trường ca - Tạp chí Văn nghệ quân đội số 1
3) Lại Nguyên Ân (1984), Mấy suy nghĩ về thể trường ca - Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội
4) Đào Thị Bình (2002), Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước - Tạp chí Giáo dục số 26
5) Thu Bồn (1964) Bài ca chim Chơ rao - Tuyển tập trường ca - Nxb Quân đội
1997
6) Thu Bồn (1972) Vách đá Hồ Chí Minh - Văn nghệ Quân đội 1977
7) Thu Bồn (1972) Mặt đất khôngquên - Nxb Trẻ
8) Thu Bồn (1972) Người gồng gánh phương Đông - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí
Minh 1999
9) Thu Bồn (1974) Tiếng hú người Diôloa - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh 1999
10) Thu Bồn (1975) Chim vàng chốt lửa - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh 1999
11) Thu Bồn (1975) Quê hương mặt trời vàng - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
1999
12) Thu Bồn (1977) Badan khát - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh 1999
13) Thu Bồn (1979) Campuchia hy vọng - Nxb Quân đội 1983
14) Thu Bồn (1980) Oran 76 ngọn - Tuyển tập trường ca - Nxb Quân đội 1997
15) Thu Bồn (1986) Người vắt sữa bầu trời - Nxb Trẻ
16) Thu Bồn (1996) Hà Nội ngày nào - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh 1999
17) Thu Bồn (2002) Đánh đu cùng dâu bể - Nxb Trẻ
18) Thu Bồn Lục bát Thu Bồn (2003) - Nxb Trẻ
19) Phạm Trung Thành Chung (2004), Nhà thơ Thu Bồn trong lòng bạn bè - Báo
Văn nghệ số 28 (10/7/2004).
20) Hồng Diệu (1981), Thêm vài suy nghĩ (Trao đổi về thể loại trường ca) - Tạp chí
Văn nghệ quân đội tháng 2
21) Phạm Tiến Duật (1980), Về bút pháp hiện thực trong thơ Việt Nam hiện đại
(1945-1980) - Tạp chí Văn học số 5.
101
22) Nguyễn Khoa Điềm (1984), Đất và khát vọng - Nxb Văn học Hà Nội
23) Trần Mạnh Hảo (1981), Mật trời trong lòng đất - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí
Minh
24) Nguyễn Văn Hạnh (1972), Một số điều cần nói rõ thêm về nghiên cứu tác phẩm
văn học - Tạp chí văn học số 6
25) Nguyễn Văn Hạnh (1998), Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ Sau năm 1975 - Tạp chí
Văn học số 9
26) Hoàng Ngọc Hiến (1984), Về đặc trưng của trường ca - Tạp chí văn nghệ số 3
27) Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại
28) Xuân Hoàng (1983), Từ tiếng võng làng Sen - Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
29) Tố Hữu (1975), Nước non ngàn dặm - Nxb Bộ văn hóa
30) Đỗ Văn Hỷ (1991), Trong thơ có họa - Tạp chí văn nghệ số 1
31) Nguyễn Viết Lãm (1965), Bài ca chim Chơrao, Một bản trường ca hay - Tạp chí
văn học số 5
32) Mã Giang Lân (1982), Trường ca, vấn đề thể loại - Tạp chí Văn học số 6
33) Vĩnh Quang Lê (1996) Tốc độ lớn của tình yêu - Nxb Giao thông vận tải Hà Nội
34) Nguyễn Văn Long (2005), Thơ kháng chiến chống Mỹ trong tiến trình thơ Việt
Nam hiện đại số 22, tháng 4
35) Phan Ngọc (1991), Thơ là gì? - Tạp chí Văn học số 1
36) Phùng Quý Nhâm (2002) Văn học và Văn hóa từ một góc nhìn - Nxb Văn học
37) Hoàng Minh Nhân (2004), Gói Nhân Tình - Nxb Văn học
38) Ngô Thế Oanh (2003), Thu Bồn-Người hiến mình trọn vẹn cho thơ - Thơ và
trường ca - Nxb Đà Nẵng
39) Ngô Thế Oanh (2004), Thu Bồn như dòng sông cuộn xiết - Chân dung thơ số 12
tháng 6 năm 2004
40) Huỳnh Như Phương (1999) Những bài thơ viết dưới trời sao - Tuổi trẻ chủ nhật
số 50 ngày 19/12/1999
41) Từ Sơn (1981), Về khái niệm trường ca - Tạp chí quân đội số 1
42) Trần Cao Sơn (2004), Qua Sa Huỳnh nhớ thi sĩ Thu Bồn - Văn nghệ quân đội số
606 tháng 9
102
43) Trần Đình Sử (1987), Chuyên luận thi pháp thơ Tố Hữu - Nxb Tác phẩm mới
Hà Nội
44) Vũ Văn Sỹ (1999), Một số đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945-1995 - Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội.
45) Vũ Văn Sỹ (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học - Nxb Khoa học xã
hội Hà Nội
46) Nguyễn Trọng Tạo (1980), Trường ca, bản lĩnh, cảm hứng, sức vóc của người
viết - Tạp chí Văn nghệ quân đội số 11
47) Nguyễn Trọng Tạo (1981), Con đường của những vì sao - Nxb Thanh niên
48) Nguyễn Thị Liên Tâm (2002), Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn "Đặc điểm
trường ca về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ"
49) Hoài Thanh (1974), Nước non ngàn dặm - Báo Văn nghệ số tết Giáp Dần
50) Hoài Thanh (1981), Thơ và truyện trong thơ, Mục "Trao đổi về thể loại trường
ca" - Tạp chí văn nghệ số 5.
51) Thanh Thảo (2003), Đã ngừng đập một cánh chim Đại bàng (Thu Bồn thơ và
trường ca) - Nxb Quân đội nhân dân.
52) Hữu Thỉnh (1980), Vài suy nghĩ... - Tạp chí Văn nghệ quân đội số 22
53) Phạm Huy Thông (1983), Trường ca - Tạp chí Văn nghệ quân đội số 1
54) Bích Thu (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại - Nxb Khoa học xã hội
55) Nguyễn Quang Tính (1985), Tình yêu người gửi đất - Nxb Quân đội nhân dân
56) Đào Thái Tôn (1977), Một trường ca về đề tài xây dựng kinh tế: Bazan khát của
Thu Bồn - Văn nghệ Quân khu V
57) Võ Văn Trực (1978), Ngày hội của rạng đông - Nxb Thanh niên
58) Trần Ngọc Vương (1981), Về thể loại trường ca và tính chất của nó - Tạp chí
Văn nghệ quân đội số 2.
59) Tạ Hữu Yên (1984), Sấm dậy trưa hè - Nxb Thanh niên
103