1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN A SAY

HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG

TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH

THẢO, HỮU THỈNH

Chuyên Ngành: Văn học Việt Nam

Mã Số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN VĂN KHA

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Hình tượng biển trong trường

ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh” là công trình nghiên cứu của tôi, được

thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Kha. Những kết quả

nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình

nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2012

Học viên

Nguyễn A Say

3

Lời cảm ơn

Con xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình, những người đã nuôi

dưỡng con nên người và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con chuyên tâm học

hành.

Tôi xin cảm ơn với lòng biết ơn và trân trọng đến TS. Nguyễn Văn

Kha, người Thầy không chỉ giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn,

mà còn là người đã định hướng cho tôi rất nhiều về con đường học tập nghiên

cứu.

Tôi xin cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Sư Phạm đã trực tiếp giảng

dạy, cho tôi tri thức, phương pháp cần thiết để tôi hoàn thành khóa luận này.

Tôi xin cảm ơn Quý thầy cô trong Hội đồng đã dành thời gian đọc bài

luận và sẽ cho tôi những đóng góp quý báu, để không chỉ hoàn thiện bài viết

mà còn là những kinh nghiệm cho tôi trên con đường học tập.

Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn, những người

đã động viên, ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt

nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn!

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012

Tác giả

Nguyễn A Say

4

MỤC LỤC

DẪN NHẬP .......................................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 6

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 7

3.1. Đối tượng .......................................................................................................................... 10

3.2. Phạm vi ............................................................................................................................. 10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 10

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................................... 12

6. Cấu trúc của luận văn................................................................................................... 12

CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN ................................................... 13

VÀ TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT .............................................................................. 13

1.1. Biển trong đời sống người Việt ................................................................................ 13

1.2. Biển trong văn học dân gian ..................................................................................... 15

1.3. Biển trong thơ ca ....................................................................................................... 21

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG BIỂN ................................................. 30

TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH ........................... 30

2.1.1. Biển trong kí ức, hành trang của những người con đất Việt trong cuộc chiến đấu giữ

nước của dân tộc ...................................................................................................................... 32

2.1.2. Biển, đảo-một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam ..................................................... 36

2.1.3. Biển đời đầy khó nhọc gian truân .................................................................................. 38

2.1. Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn ............................................................... 30

2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo ........................................................ 42

2.2.2.Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người ............................................................. 45

2.2.3.Biển- triết lý về sức mạnh của nhân dân ......................................................................... 47

2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo .......................................................... 42

2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính tiếp tục cống

hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc ...................................................... 53

2.3.2. Biển- một không gian sống và chiến đấu mới ................................................................ 55

2.3.3. Ý chí người lính đảo ....................................................................................................... 58

2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh............................................................................... 53

2.3.4. Đối thoại với biển- một cuộc đối thoại của nhân cách sống .......................................... 60

5

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG TRƯỜNG

CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH ............................................................. 65

3.1.1. Biểu tượng của Tổ quốc ................................................................................................. 65

3.1.2. Biển là “đại dương nhân dân” ........................................................................................ 67

3.1.3. Biển - biểu tượng của lòng mẹ ...................................................................................... 69

3.1.4. Biển - biểu tượng của tình yêu đôi lứa ........................................................................... 70

3.1. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển mang tính biểu tượng ....................................... 65

3.2.1. So sánh ........................................................................................................................... 73

3.2.2. Nhân hóa ........................................................................................................................ 75

3.2. Các biện pháp tu từ ................................................................................................... 73

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, tự hào ............................................................................................. 77

3.3.2. Giọng điệu trữ tình, triết lý ............................................................................................ 79

3.3. Giọng điệu................................................................................................................. 76

3.4. Sự liên tưởng ............................................................................................................. 81

3.5.1. Không gian nghệ thuật ................................................................................................... 83

3.5.2. Thời gian nghệ thuật ...................................................................................................... 85

3.5. Không gian - thời gian nghệ thuật ............................................................................ 83

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 91

PHỤ LỤC 1......................................................................................................................... 97

PHỤ LỤC 2......................................................................................................................... 99

6

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

Vùng biển của Tổ quốc Việt Nam là một đặc ân của thiên nhiên cho con người. Từ bao

đời, biển Việt Nam cung cấp nguồn tài nguyên phong phú. Câu thành ngữ “rừng vàng biển

bạc” có ý chỉ như vậy. Đường bờ biển Việt Nam dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà

Tiên (Kiên Giang). Biển đảo không những đẹp tự nhiên mà còn chứa đựng nhiều giá trị

tinh thần sâu sắc.

“Là một quốc gia có dải bờ biển trải dọc theo bờ Tây Thái Bình Dương dài hơn ba

nghìn ki lô mét, tự bao đời, biển đã là môi trường sống, môi trường tiếp giao văn hóa của

người Việt. Cùng với các không gian núi rừng và châu thổ, biển đã góp phần hợp thành,

định diện truyền thống, bản sắc văn hóa, cơ sở kinh tế, tư duy... của nhiều cộng đồng cư

dân Việt Nam. Trong tâm thức của người Việt, biển Đông là không gian thiêng gắn với

thời lập quốc. Bao thế hệ người Việt đã hoài niệm về cha Rồng - mẹ Tiên, về công lao sinh

thành, mở cõi của các bậc Thủy tổ. Từ biển, Lạc Long Quân đã về với đất liền, hiển linh

như một Nhân thần, diệt trừ yêu quái, giáo hóa dân chúng, dạy cho dân biết cấy lúa, làm

nghề thủ công” [86].

Từ lâu, biển đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức người Việt bởi sự ồn ào và dữ dội

nhưng cũng có lúc lặng im của nó. Biển không chỉ được khai thác về mặt kinh tế, quân sự

mà còn bao hàm nhiều yếu tố văn hóa - nghệ thuật. Không khó để tìm những tác phẩm

nghệ thuật xuất sắc về biển trên các lĩnh vực như âm nhạc, điêu khắc, hội họa… Đối sánh

với rừng, biển là biểu tượng của Tổ quốc, của tình yêu quê hương đất nước con người. Tìm

hiểu về hình tượng biển cũng giống như chúng ta đang tìm về với mẹ nước bao la, tìm về

không gian thần thoại với cha Rồng, mẹ Tiên vậy.

Ngày nay chúng ta đang kêu gọi góp đá xây Trường Sa, xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ

quyền đất nước... Biển đảo càng ngày càng đi vào tâm thức, trong ý thức chủ quyền của

người Việt. Nghiên cứu về hình tượng biển, trong văn học, tác giả luận văn muốn góp

thêm một viên đá để xây nên “tượng đài” của lòng yêu quê hương đất nước qua việc tìm

hiểu một số trường ca viết về biển, đảo.

7

Trong thơ ca nói chung và trường ca nói riêng, biển được nhắc đến với nhiều tầng

nghĩa. Biển, đảo là hình ảnh của Tổ quốc, của dân tộc. Đó là hình ảnh của người mẹ Việt

Nam chịu thương chịu khó, của người con gái miền biển sâu sắc, mặn mà. Biển, sóng

tượng trưng cho sức mạnh, tinh thần chiến đấu của nhân dân. Các đặc tính của biển, sóng,

gió, cát… còn tượng trưng cho những sắc thái tình cảm trong tình yêu đôi lứa. Không

những vậy, trong trường ca các nhà thơ còn ví biển như nỗi khó nhọc, gian truân của biển

đời. Viết về biển, các tác giả đã thổi vào những trang thơ tình yêu quê hương, biển đảo của

chính mình.

Trường ca là một thể loại thơ dài hơi, gom vào nó tính chất lịch sử to tớn của thời đại

và mang hơi hướng sử thi. Biển trong trường ca vì vậy cũng được miêu tả với những bình

diện khác nhau. Đặc biệt là trong trường ca của các nhà thơ miền Trung, biển, bờ được các

nhà thơ này thể hiện rất đậm nét.

Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những nhà thơ có nhiều thành tựu nổi bật ở mảng

trường ca. Những sáng tác của họ đã gặt hái không ít thành công và được đông đảo bạn

đọc ghi nhận. Hình ảnh biển, đảo trong trường ca của các nhà thơ trên tuy chưa nhiều

nhưng cũng đủ làm nên sắc thái riêng, góp phần làm nổi bật nội dung tác phẩm.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Hình tượng biển trong trường ca

Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh để nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các đề tài đi trước,

từ đó có cái nhìn phổ quát hơn về hình tượng biển trong trường ca. Nghiên cứu Hình tượng

biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, tác giả luận văn muốn góp một

góc nhìn về hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn Thanh Thảo, Hữu Thỉnh trong bối

cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ quyền đất nước.

2. Lịch sử vấn đề

Trường ca là một thể loại nở rộ trong và sau hai cuộc kháng chiến thần thánh, góp phần

làm phong phú thêm đời sống văn học nghệ thuật của dân tộc. Sự phát triển rực rỡ của

trường ca trong giai đoạn này đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Nhiều bài viết

về trường ca trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học và các tạp chí có uy tín

khác đều cho chúng ta thấy rõ điều này. Trước sự nở rộ của trường ca, nhiều nhà nghiên

cứu đã lật lại vấn đề, tìm hiểu tiến trình vận động của thể loại trường ca, cách đặt tên cũng

như bàn về đặc trưng loại thể, thi pháp...

8

Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết “Về đặc trưng của trường ca” đăng trên Tạp chí Văn

học số 3 năm 1984 cho rằng: Trường ca là một thể loại lớn với 2 nghĩa: có dung lượng lớn

và mang nội dung lớn [27,113]. Trường ca là một thể loại vừa có tính chất trữ tình vừa có

tính chất tự sự [27,117]. Trước sự phát triển của trường ca, Mã Giang Lân có bài viết:

“Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài” trên tạp chí Văn học số 5 năm 1988.

Ông cho rằng, trường ca và thơ dài giống nhau ở chỗ: Thơ dài và trường ca thường vận

dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi không khí cảm xúc hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu

[42,61]. Tuy nhiên trường ca có kết cấu rõ rệt và hoàn chỉnh hơn, có nhân vật và nhân vật

ở đường nét, có tâm trạng, có hành động [42,62]. Cũng bàn về vấn đề này, trước đó 13

năm nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã viết “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” trên tạp

chí Văn học số 4 năm 1975. Ông cho rằng có thể gọi chung thơ dài hiện nay là trường ca

với nhiều biến thức, nhiều kiểu kết cấu khác nhau [72].

Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết khác đề cập đến vấn đề thi pháp, thể loại, phong cách thơ

cũng như đánh giá vai trò, đóng góp của họ.

Và như vậy, hình tượng biển trong trường ca hầu như chưa có công trình nào đề

cập đến. May ra qua một vài bài viết đề cập đến nội dung tác phẩm, có một hai câu "chạm"

đến vấn đề này mà thôi. Thiếu Mai trong "Thanh Thảo, thơ và trường ca" in trên tạp chí

văn học, số 2 năm 1980 có viết về phần vĩ thanh trong trường ca Những người đi tới biển

của nhà thơ Thanh Thảo như sau: Đã tới biển, đã đến đích, tới đích rồi nhưng đâu phải về

biển là yên nghỉ [46,78]. Lại Nguyên Ân khi bàn đến khúc vĩ thanh này có viết: Không

phải ngẫu nhiên tập trường ca của Thanh Thảo có nhan đề Những người đi tới biển. Trong

khá nhiều hàm nghĩa có một nghĩa khá rõ: anh nói về những người đi tới nhân dân, hòa vào

nhân dân trong một hành trình lịch sử [6,60]. Ngoài ra có thể kể đến bài viết của Lê Thị

Mây “Hữu Thỉnh với trường ca biển”. Tác giả đã đề cập đến nội dung, nghệ thuật của

trường ca biển và những vấn đề của người lính biển đảo hôm nay... tìm kiếm phác hoạ cho

được một chân dung lính đảo hoàn toàn mới [88].

Trong hội nghị khoa học toàn quốc về “Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển

Quảng Ngãi”, TS. Mai Bá Ấn có bài viết “Tâm thức biển trong thơ miền Trung hiện đại”

(Qua trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo), in lại Tạp chí Sông Trà

(21)/2007, tr.71-79. Bài viết đưa ra được những tầng nghĩa phổ quát nhất của biển. Đó là

nỗi ám ảnh trong tâm thức người lính; là biểu tượng của tổ quốc, của dân tộc, của người

9

mẹ Việt Nam tần tảo... Tuy nhiên, bài viết còn khá sơ lược, chưa nêu lên được những tầng

nghĩa sâu sắc của biển, một đại dương cuộc đời bao la của con người.

Ngoài các bài viết trên các báo, tạp chí thì trường ca cũng được đề cập đến khá

nhiều trong luận văn cao học, nghiên cứu sinh. Các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu

Thỉnh là những cây bút trường ca lớn, có đóng góp, do đó đề tài nghiên cứu về các tác giả

trên là không ít.

Các luận văn trên đều đi vào tìm hiểu quá trình vận động phát triển của trường ca, tìm hiểu

đặc điểm trường ca, vấn đề thể loại cũng như thi pháp nghệ thuật của từng nhà thơ. Bên

cạnh đó còn có một số đề tài khát quát cả một chặng đường phát triển trường ca gắn với sự

vận động, phát triển của lịch sử như luận án Trường ca về thời chống Mĩ trong văn học

hiện đại Việt Nam của Nguyễn Thị Liên Tâm hay Thể trường ca trong Văn học Việt Nam

từ 1945 đến cuối thế kỉ XX của Đào Thị Bình.

Điểm qua các công trình trên, các nhà nghiên cứu chỉ chú ý xoáy vào đặc điểm

trường ca, cấu trúc cũng như đóng góp của trường ca đối với đời sống nghệ thuật. Hình

tượng biển, sóng trong trường ca được ít nhà nghiên cứu quan tâm. Đến hiện nay vẫn chưa

có một công trình khoa học nào đề cập đến hình tượng biển trong trường ca. Tuy nhiên

trong các luận văn về trường ca Thanh Thảo, hình tượng biển sóng cũng được nhắc đến, dù

ít ỏi nhưng cũng thấy được ý đồ nghệ thuật mà tác giả gửi gắm thông qua hình tượng đó.

Cụ thể trong luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Hương, Chất triết luận trong trường ca

Thanh Thảo (năm 2009, trường Đại học Sư phạm Hà Nội), phần những phương thức nghệ

thuật có đề cập đến biểu tượng sóng biển và biểu tượng cát. Biểu tượng sóng là hình thái

tồn tại vĩnh hằng, thể hiện sức mạnh khôn cùng của nhân dân [33,79]; Biển, sóng thể hiện

khát vọng yên bình, giãi bày những suy tư, cảm nghĩ về nhân dân [33,80]. Biểu tượng cát

cũng mang các tầng nghĩa trên. Tác giả Hoàng Thị Thu Hương cho rằng, cát có giá trị nhân

bản sâu sắc, tố cáo tội ác và nỗi đau thương của cả dân tộc. Cát là nỗi mất mát đau khổ, là

tương lai, cát vẫn vĩnh hằng bất diệt với thời gian [33,83].

Luận văn Thạc sĩ của Đào Thị Khánh Vân, Trường ca Thanh Thảo (năm 2009,

trường Đại học Sư Phạm-Đại học Thái Nguyên) có đề cập đến hình ảnh sóng, cát- mặt đất.

Sóng là biểu tượng cho sức mạnh tiềm ẩn, quật cường của quần chúng nhân dân [71,89].

Sóng còn là biểu tượng cho sức mạnh trào dâng, sức mạnh nhấn chìm, sức mạnh vô địch

của quần chúng nhân dân trước kẻ thù [71,90]. Bên cạnh đó tác giả luận văn đề cập đến

cát như là biểu tượng của quê hương, của những năm tháng thăng trầm gian khó mà người

10

dân Sơn Mĩ đã trải qua. Theo Đào Thị Khánh Vân cát là nơi ghi dấu ấn sự tồn tại cũng như

những mất mát, hy sinh của con người... cát vĩnh hằng bất diệt, cát là sự hóa thân của

tương lai tươi sáng [71,95].

Trong luận văn thạc sĩ của Dương Lệ Thủy, Đặc điểm trường ca Thanh Thảo (năm

2011, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) cũng đề cập đến hình ảnh sóng -

mặt đất, tương tự như trong công trình của Đào Thị Khánh Vân. Sóng và mặt đất là biểu

tượng cho sức mạnh vô bờ, âm ỉ và đoàn kết của nhân dân ta trong suốt chiều dài giữ nước

[69,106].

Nói chung, hình ảnh biển được đề cập trong các luận văn cao học trên chưa sâu và

mới chỉ tập trung vào biểu tượng biển, sóng, cát trong trường ca của nhà thơ Thanh Thảo.

Trên cở sở tiếp thu thành quả nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu, bài viết của

những người đi trước, tác giả luận văn chọn đề tài Hình tượng biển trong trường ca Thu

Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh và chủ yếu chỉ khảo sát trường ca của ba tác giả trên.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung xem xét và làm sáng tỏ

những vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài: “Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn,

Thanh Thảo, Hữu Thỉnh”. Tìm hiểu đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca của các

tác giả trên và một số phương thức nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển trong trường ca.

3.2. Phạm vi

Tác giả luận văn xác định rõ, đây là một đề tài chỉ tập trung vào hình tượng biển trong

trường ca. Do đó, tác giả luận văn chỉ đi sâu tìm hiểu trường ca viết về biển của 3 tác giả

có tên tuổi như Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. Chủ yếu là một số trường ca có trong

ba tuyển tập trường ca sau:

* Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao-tuyển tập trường ca, Nhà xuất bản Văn

nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

Bài ca chim Chơ rao

Badan khát

Người gồng gánh phương Đông

Chim vàng chốt lửa

Campuchia hy vọng

11

Vách đá Hồ Chí Minh

* Thanh Thảo (2004), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

Những người đi tới biển

Trẻ con ở Sơn Mỹ

Những nghĩa sĩ Cần Giuộc

Đêm trên cát

Trò chuyện với nhân vật của mình

Bùng nổ mùa xuân

* Hữu Thỉnh (2004), Trường ca biển, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội

Đường tới thành phố

Trường ca biển

Ngoài ra trong quá trình triển khai đề tài, luận văn có sử dụng một số tác phẩm thơ của

các nhà thơ trong diện khảo sát để vấn đề được sáng tỏ hơn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp loại hình

Đây là phương pháp nghiên cứu chính của luận văn. Căn cứ vào đặc trưng thể loại

để tìm hiểu hình tượng biển trong trường ca của Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh.

Phương pháp so sánh

Đây là phương pháp không thể thiếu để chúng tôi làm rõ nét đặc sắc của các tác giả

khi xây dựng hình tượng biển trong trường ca của mình so với các tác giả khác.

Phương pháp thống kê

Đề tài xoay quanh hình tượng biển của ba tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu

Thỉnh nên rất cần tiến hành thống kê tần suất xuất hiện của các từ khóa liên quan. Sử dụng

phương pháp này người viết muốn “lượng hóa” hình tượng biển để chứng minh rằng, biển

là kết quả của tư duy nghệ thuật riêng biệt và độc đáo của từng nhà thơ.

Phương pháp hệ thống

Với quan niệm mỗi trường ca là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh thể lớn

hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích hình tượng biển, người viết không đặt

nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống nhất với các yếu tố nghệ

thuật khác để làm rõ hơn nội dung của tác phẩm.

12

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Từ lâu biển đã trở thành biểu tượng của tổ quốc của dân tộc, biển còn là cái nôi cội

nguồn của dân tộc. Việc nghiên cứu hình tượng biển này góp phần làm rõ đặc điểm của

hình tượng biển trong trường ca đồng thời hiểu rõ dụng ý nghệ thuật của các nhà thơ, bên

cạnh đó góp phần lý giải một phần văn hóa biển, tâm thức biển trong đời sống con người

Việt.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phần phụ lục, luận văn chúng tôi gồm có ba chương:

Chương 1: Biển trong đời sống tâm hồn và trong thơ ca người Việt

Chương 2: Đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu

Thỉnh

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng biển

13

CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN VÀ

TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT

1.1. Biển trong đời sống người Việt

Nước ta có 3260 km đường bờ biển kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà

Tiên (Kiên Giang). Ưu thế đường bờ biển dài, vùng biển rộng đã tác động trực tiếp đến

người dân Việt Nam.

“Là một vùng biển giàu có, biển Đông chứa đựng nhiều tài nguyên sinh vật,

khoáng sản rất phong phú cả về số lượng và chủng loại. Nhờ có biển Đông, nước ta mang

nhiều đặc tính của khí hậu ẩm ướt và vì thế về điều kiện tự nhiên có thể gọi Việt Nam là xứ

sở của biển cả” (45,11).

Cũng theo Nguyễn Thị Hải Lê, ban đầu người Việt không có nguồn gốc biển, họ là

cư dân sống ở vùng trước núi, tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng, rồi lấn biển và

khai thác biển. Nhưng trong quá trình “Nam tiến” chất biển của họ ngày càng tăng lên.

Giải thích điều này, nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh cho rằng có hai nguyên nhân

cơ bản: thứ nhất đó là do quá trình lấn biển làm nông nghiệp và khai thác biển bắt buộc họ

phải đứng trước biển; thứ hai người Việt đã tiếp nhận truyền thống biển từ người Chăm và

một bộ phận người Chăm bị Việt hóa từ sau thế kỉ XI. Như vậy, qua một thời kì lịch sử

dài, chất biển trong văn hóa người Việt ngày càng được khẳng định và củng cố. Tuy chưa

tạo cho mình được một nền văn hóa biển điển hình như một số dân tộc khác trên thế giới

nhưng người Việt đã làm chủ được một nền văn hóa mang những nét riêng của cư dân

nông nghiệp.

“Dấu ấn của biển đã hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt từ thời kì tiền

sử. Những di tích “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ như văn

hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu

tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng

người tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn năm trước” [50,53].

Từ xưa người Việt đã sớm biết chinh phục biển, đảo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt

của mình. Biển trở thành nơi cung cấp nhiều sản vật quí cho con người. Ngọc trai, đồi mồi,

san hô… hay gần gũi nhất là muối đều được khai thác từ rất sớm. Nhiều hải sản như mực,

cá, tôm… với hàm lượng dinh dưỡng cao trở thành nguồn thực phẩm quen thuộc. Trong

14

bữa cơm của người dân Việt không thể không có chén nước mắm - một loại gia vị làm từ

cá biển. Nước mắm không chỉ đơn thuần là một gia vị mà nó trở thành một nét văn hóa ẩm

thực, văn hóa truyền thống gia đình của người Việt. Thế nhưng biển không hề êm dịu mà

có lúc “sóng to gió lớn”, con người cũng đã học hỏi được nhiều điều từ “tính tình của

biển”. “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” là một ví dụ tiêu biểu.

Khai thác các giá trị từ biển cả, con người đã biết “khoan, thư” với cái ồn ào, dữ

dội của biển. Khi gặp nạn trên biển (thường là sóng to, gió bão làm lật tàu, thuyền) các ngư

dân thường khấn Ông, nhờ Ông độ. Nhiều câu chuyện về việc ngư dân được Ông cứu lan

truyền ở nhiều vùng miền. Việc lập đền thờ cá Ông trở thành một tín ngưỡng đẹp của ngư

dân ven biển. Hầu như ở địa phương ven biển nào cũng đều có đền thờ cá Ông. Hằng năm,

tùy theo từng nơi, lễ hội Nghinh Ông diễn ra một cách tôn nghiêm, thu hút hàng ngàn

người tham dự.

Không những thế nước ta còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho khá nhiều bãi biển,

nhiều vũng, vịnh, đảo đẹp. Với bãi cát vàng, ngọn sóng trắng xóa vỗ ì oạp, dòng nước xanh

biếc… nhiều bãi biển đã trở thành một địa điểm du lịch lý thú, thu hút khách trong nước

lẫn khách nước ngoài, góp phần đẩy mạnh kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống

của ngư dân ven biển nhờ vào ngành công nghiệp không khói này.

Biển còn là một vị trí quan trọng về mặt quân sự. Trong lịch sử kháng chiến chống

giặc ngoại xâm của dân tộc, không thể không nhắc đến vai trò của biển cả. Những năm

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để kịp thời chi viện người, vũ khí và lương thực cho

chiến trường miền Nam, đường Hồ Chí Minh trên biển đã được hình thành, góp phần làm

nên chiến thắng lẫy lừng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những con tàu không số và cả những

thủy thủ vô danh đã đi vào lịch sử. Trước đó hàng chục thế kỷ, nhiều trận đánh quan trọng,

đẩy lùi quân xâm lược cũng bằng thủy chiến. Thời bấy giờ, dưới trướng Hưng Đạo Vương

Trần Quốc Tuấn có một chàng trai giỏi bơi lặn, tên là Yết Kiêu, đã dùi thủng chiến thuyền

của giặc làm nên chiến thắng lẫy lừng ở cửa bể Vạn Ninh.

Nhiều địa danh trên đất nước ta hàm chứa yếu tố biển hoặc liên quan đến biển như:

Hải Phòng, Hải Dương, Cát Hải, Tiền Hải, hay vùng cửa biển lớn như Cửa Lớn, Cửa Việt,

Cửa Lò, Cửa Tùng… Không những vậy, hình ảnh biển bờ đã đi sâu vào tâm thức người

dân Việt, để rồi trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, người dân Việt đều lấy các yếu tố biển

làm “chuẩn”. Nói về việc làm vô ích, viễn vông: “Dã tràng xe cát biển Đông, Mò kim đáy

bể”; nói về sự đoàn kết: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; nói về sự nham

15

hiểm, khó dò của lòng người: “Đố ai lặn xuống vực sâu/ Mà đo miệng cá uốn câu cho

vừa”…

1.2. Biển trong văn học dân gian

Văn học dân gian là một kho tàng vô giá, chứa đựng nhiều giá trị tinh thần sâu sắc.

Văn học dân gian hình thành trong quá trình lao động, sản xuất của dân tộc. Sau tấm màn

hoang đường, kì ảo, chất hiện thực được tái hiện rõ nét. Những hình ảnh về biển, đảo; hình

ảnh ghe thuyền và sinh vật biển đã sớm đi vào sử sách, đặc biệt là trong những câu chuyện

thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. “Hình tượng biển và đảo luôn thấp thoáng trong bao

nhiêu cổ tích, truyền thuyết, là dấu ấn trong tâm thức mọi người” [91].

Hệ thần thoại là phương pháp cơ bản của việc hiểu thế giới và thần thoại phản ánh cảm

giác, sự hiểu biết về thế giới của thời đại sinh ra nó. Thuở ban đầu, biển còn vô cùng lạ lẫm

đối với con người. Nhiều hiện tượng của biển được người dân lý giải lại một cách thần

thánh hóa. Tuy nhiên, qua đó chúng ta cũng dễ dàng nhận ra người Việt đã sớm tiếp xúc

với biển và lý giải các hiện tượng liên quan đến biển như sóng, thủy triều, bão lớn hay

sóng thần... Truyện Thần Biển có đoạn lý giải các hiện tượng biển như sau: “Thần chỉ có

mỗi công việc là hô hấp để sống. Mỗi lần hít vào thì nước biển tuôn vào bụng, mỗi lần thở

ra thì khối lượng nước đó lại ùa ra hết. Thần thở khi mạnh, khi nhẹ nhưng rất đều. Cứ mỗi

lần như thế thì biển có hiện tượng thủy triều dâng lên rút xuống như ngày nay ta vẫn

thường thấy. Thần nằm yên lặng, nhưng cũng có khi mệt mỏi, phải cựa quậy. Mỗi lần thần

vùng vẫy là có gió to bão lớn, nước dâng ngập tràn mọi nơi, người trên mặt đất vẫn thường

gọi là sóng của thần hay sóng thần” [49,11]. Dân gian còn truyền tụng câu hát, kể về các vị

thần gầy dựng nên trời đất như ngày nay, trong đó có thần Biển như sau: Ông đếm cát/

Ông tát bể/ Ông kể sao/ Ông đào sông/ Ông trồng cây/ Ông xây rú/ Ông trụ trời. Điều này

phần nào chứng tỏ, ngay từ thuở khai thiên lập địa, biển đã hiện diện trong tâm thức người

Việt.

Theo tác giả Hồ Quốc Hùng: “Truyền thuyết là ký ức cộng đồng về quá khứ. Chủ

yếu nó phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử

của dân tộc ít nhiều bằng hư cấu, tưởng tượng. Lịch sử đọng lại trong truyền thuyết như

những tia hồi quang phủ lên cảnh vật, phong thổ của đất nước làm đắm say biết bao thế

hệ” [31,10]. Như vậy, ngoài yếu tố kì ảo, hoang đường, truyền thuyết cũng có một phần

16

nào đó sự kiện có thật. Những truyền thuyết dưới đây phần nào minh chứng cho việc dân

tộc ta đã lấn biển từ khá sớm và biển đã có trong tâm thức của người Việt.

Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên kể về nguồn gốc của dân tộc ta được sinh ra trong bọc

trăm trứng bởi cha Rồng Lạc Long Quân và mẹ Tiên Âu Cơ. Một hôm lạc Long Quân mới

nói với Âu Cơ rằng: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống trên đất,

tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng,

khó ở với nhau được, nay ta đưa năm mươi người con về thủy phủ chia trị các xứ, năm

mươi con theo nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo nhau biết,

đừng quên”. Từ đấy lớp lớp con cháu của cha Rồng mẹ Tiên phá rừng lấn biển dựng nên

cơ đồ con Lạc cháu Hồng ngày nay.

Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra, từ thuở hồng hoang, con người đã lên núi, xuống

biển, phá rừng lấn biển để làm ăn sinh sống. Câu chuyện về bào thai trăm trứng như một

lời tuyên ngôn cho dân tộc Việt Nam, dù ở đâu, trên rừng hay dưới biển thì chúng ta cũng

đều là người một nhà, cùng có chung nguồn gốc.

Tiếp xúc với biển từ rất sớm nên trong tâm thức của họ, biển không chỉ bao la rộng lớn mà

còn có nhiều sinh vật biển nguy hiểm và nó luôn ám ảnh trong tâm trí. Truyền thuyết Ngư

tinh kể về một con tinh ngư xà dài hơn mười trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa

muôn vẻ, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người, quấy nhiễu

thuyền chài làm ai ai cũng sợ hãi… là một trong số đó. Câu chuyện còn lý giải một số địa

danh như Bạch Long Vĩ, Cẩu Đầu Sơn, Mạn Cẩu Thủy…

Câu chuyện An Dương Vương được thần Kim Quy đến từ biển ba lần giúp đỡ cũng

là một ví dụ cụ thể về hình ảnh biển đã có trong tâm thức người Việt. Thần Kim Qui xuất

hiện lần thứ nhất giúp nhà vua xây thành, lần thứ hai giúp nhà vua giữ thành và lần thứ ba

rẽ sóng đưa nhà vua xuống biển khi giặc theo sát sau lưng. Cả ba lần, thần Kim Qui cũng

đi ra từ biển và biến mất cũng từ biển. Trong tâm thức người Việt thời bấy giờ cảm nhận,

biển mang trong mình một phần hào sảng, trù phú nhưng cũng chứa đựng sức mạnh to lớn

và ẩn chứa nhiều huyền bí. Người Việt cũng đã biết ngọc trai, một sản vật quý của biển từ

sớm qua chi tiết Mỵ Châu bị chém chết, máu nàng chảy xuống biển, loài trai ăn phải mà

thành.

Theo các truyền thuyết để lại thì từ lâu con người đã biết lấy mực xăm mình theo

hình thủy quái để tránh giao long làm hại, vẽ mắt ở mũi ghe, thuyền để thủy quái không

quấy nhiễu.

17

Truyền thuyết Sơn tinh- Thủy tinh tái hiện lại cách sống với thiên nhiên của dân tộc

ta. Qua câu chuyện tranh giành công chúa của Sơn tinh và Thủy tinh, chúng ta có thể nhận

thấy lý giải của người xưa về các hiện tượng thiên nhiên (tức mưa bão hằng năm), phần

nào thấy được sức mạnh của thiên nhiên (cụ thể là sức mạnh của Thủy tinh- sức mạnh của

sông, biển) và dần dần tìm cách sống chung với nó.

Theo giáo sư Chu Xuân Diên, cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân

đối với thực tại. Truyện Quả Dưa Hấu kể về cuộc sống của người dân trên hoang đảo cũng

như cách thức người dân trên đảo liên lạc với đất liền. Mai An Tiêm là con vua nhưng vì

thẳng thắn, bộc trực mà bị đày ra hoang đảo. Trên đảo hoang, Mai An Tiêm đã tìm ra được

giống dưa lạ do đàn chim bỏ lại. Sau khi chăm bón, hạt giống đó cho ra thứ quả có vỏ

xanh, ruột đỏ, ăn vào thì ngọt lịm. Mai An Tiêm làm dấu thả dưa xuống biển để tìm đường

liên lạc với đất liền. Theo con sóng, những quả dưa hấu đến được các thuyền buôn, họ tìm

đến đảo đổi hàng hóa lấy dưa. Những quả dưa trôi dạt về đất liền quân lính đi tuần nhặt

được dâng lên vua Hùng. Nhà vua biết chuyện đã cho thuyền đi đón gia đình Mai An Tiêm

về. Câu chuyện cũng phần nào cho chúng ta thấy được nét nông nghiệp của cư dân miền

biển. Dù sống ở biển nhưng yếu tố nông nghiệp qua chi tiết Mai An Tiêm trồng quả dưa

hấu vẫn còn rất đậm đặc.

Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung đánh dấu quá trình giao lưu buôn bán của dân

tộc ta và các nước lân bang bằng đường biển qua chi tiết hai vợ chồng Chử Đồng Tử và

Tiên Dung giao thiệp với các thuyền buôn nước ngoài. “Họ giao thiệp với các thuyền buôn

nước ngoài thường vẫn hay ghé vào để bán hàng và cất hàng. Công việc buôn bán của họ

ngày một khá. Chỗ bến sông ấy trở thành một nơi đông đúc, sầm uất” (49,243).

Dấu ấn của biển trở nên rất rõ trong truyện cổ tích Đá Vọng Phu. Người phụ nữ bồng con,

hướng mắt ra biển chờ chồng từ ngày này qua ngày nọ cho đến khi hóa đá. Mô-tip hai anh

em ruột lấy nhau và người hóa đá xuất hiện khá nhiều ở các tỉnh ven biển. Điều này phần

nào lý giải vì sao có khá nhiều đá vọng phu (đá trông chồng) ở nhiều địa phương khác

nhau: Lạng Sơn (núi nàng Tô Thị), Thanh Hóa (núi đá trông chồng Sầm Sơn), Bình Định

(núi đá bên cửa biển Đề Bi, Phù Cát), Ninh Thuận (núi đá ở cửa biển Cà Ná)… Biển cả

bao la vừa là nơi cung cấp nhiều sản vật, nuôi sống con người nhưng biển cũng là mối

hiểm họa ám ảnh trong tâm thức người Việt. Nỗi đau đớn, trông chờ đến vô vọng của

người phụ nữ trong truyện Đá Vọng Phu đã thể hiện điều đó. Ngoài câu chuyện nàng Tô

18

Thị hóa đá vì trông chờ người chồng ra trận chiến đấu, hầu hết các câu chuyện khác đều có

mô tip người vợ chờ chồng đi biển mà hóa đá.

Như vậy, ngoài việc lý giải các hiện tượng thiên nhiên, các câu chuyện thần thoại,

truyền thuyết hay cổ tích cũng phác họa sơ lược cho chúng ta thấy cách người Việt sống và

thích nghi với biển. Theo Nguyễn Văn Kim: “Có thể nói, trong lịch sử, trên các không gian

biển Việt Nam đã từng là nơi diễn ra nhiều hoạt động giao thương trong nước - quốc tế,

vùng - liên vùng hết sức sôi động. Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, kinh tế

thương mại, trong đó có ngoại thương, đã luôn đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên

sự hưng thịnh của kinh tế Việt Nam trong nhiều thời kỳ lịch sử. Đặt Việt Nam trong không

gian kinh tế biển Đông Nam Á, trong mối liên hệ với khu vực thị trường Đông Bắc Á và

Tây Nam Á có thể khẳng định rằng, chủ nhân của các nền văn hóa cổ, các chính thể quân

chủ đã không chỉ chú tâm xây dựng xã hội nông nghiệp, khai thác tự nhiên mà còn quan

tâm đến sự phát triển của kinh tế công thương, phát triển kinh tế biển” [87].

Biển với những đặc tính riêng của mình, phô diễn trước loài người sức mạnh oai hùng, dữ

dội, nhưng cũng có lúc duyên dáng, đằm thắm; giàu có, hào sảng, phong phú nhưng cũng

huyền bí đến tận cùng… Chính những điều đó đã khiến biển trở thành đối tượng của văn

hóa nghệ thuật. Biển xuất hiện trong nhiều hình thức diễn xướng, hò vè, ca dao, tục ngữ,

thơ, truyện…

Trong những lần chài lưới đánh bắt, người lao động cần có một nguồn cổ vũ tinh

thần thì lúc đó hò phát huy tác dụng. Những bài hò như: Hò hụi, hò kéo lưới, hò chèo

thuyền, hò đẩy thuyền, hò đan lưới, lý kéo chài… khá phổ biến. Những bài hò hay các điệu

lý thể hiện tinh thần hào sảng, rộng lớn của biển cùng nhịp điệu, tiết tấu nhanh, mạnh, dứt

khoát tái hiện không khí lao động đầy sức sống, vui tươi. Ngoài ra còn có nhiều bài hò, lý

thể hiện cuộc sống tự do, tự tại, thoải mái cùng biển nước bao la như bài Lý kéo chài dưới

đây:

Nắng lên rồi căng buồm cho khoái

Gác chèo lên ta nướng ngô khoai

Hò ơi…

Nhậu cho tiêu hết mấy chai

Bỏ ghe nghiêng ngả không ai chống chèo

Đặc biệt hò bả trạo (hát bả trạo) là một hình thức diễn xướng dân gian mang tính

nghi lễ. Hò bả trạo diễn lại hành trình ra khơi đánh cá của ngư dân, tái hiện lại hành trình

19

vượt biển đầy gian khổ. Ngày nay trong lễ hội Nghinh Ông của các ngư dân ven biển miền

Trung thì hò bả trạo là một nghi thức không thể thiếu (trong khi đó ở các ngư dân ven biển

Nam Bộ, hình thức diễn xướng thường là hát Bội).

Ngoài hò ra còn có các bài vè: vè con cá, vè cá biển, vè cào hén, vè nghề làm muối, vè đi

biển, vè nhật trình đi biển, vè đánh lưới… bổ sung nhiều thông tin bổ ích về biển, nghề

biển và người dân biển… Chẳng hạn như bài vè cá biển sau đây:

Cá nuôi thiên hạ

Là con cá cơm

Không ăn bằng mồm

Là con cá ngác

Không ăn mà ú

Là con cá voi

Hai mắt thòi lòi

Là con cá tráo

Dựa vào đặc điểm của biển mà người Việt đưa ra nhiều lời khuyên, kinh nghiệm bổ

ích như: Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo; Dã tràng xe cát biển Đông; Đồng vợ đồng

chồng tát biển Đông cũng cạn…

Ca dao tục ngữ viết về biển có khá nhiều. Ca dao, tục ngữ là tiếng nói tâm tình, rút

kết kinh nghiệm sống về tình yêu, lao động sản xuất do đó biển cũng đi vào trong ca dao,

tục ngữ với nhiều hình ảnh quen thuộc với đời sống con người. Theo thống kê của Nguyễn

Thị Hải Lê trong Biển trong văn hóa người Việt, phần phụ lục 3, có đến 273 câu tục ngữ ca

dao có yếu tố biển trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam. Trong đó có những câu ca vô

cùng quen thuộc.

Những gì to lớn, vĩ đại không thể do bằng kích thước cụ thể thì con người mượn

hình ảnh biển bờ để ví von. Đó là nghĩa mẹ mênh mông, dạt dào:

Công Cha như núi ngất trời

Nghĩa Mẹ như nước ở ngoài biển Đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.

Biển còn được ví với ý nghĩa vĩnh hằng, trường tồn. Trong ca dao dân ca, để thể

hiện tấm lòng thủy chung son sắt, lời thề khăng khít thì sự bao la, mênh mông rộng lớn của

biển thích hợp hơn cả:

20

Biển cạn, sông cạn lòng qua không cạn

Núi lở, núi mòn nghĩa bạn không quên

Với những đôi lứa đang yêu, biển có lẽ là một không gian hò hẹn lý tưởng:

Trèo lên trái núi Thiên Thai

Thấy đôi chim phượng hoàng ăn ngoài biển Đông

Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt

Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây

Qua tới đây không được cưới cô hai mày

Qua chèo ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô

Có khi, biển là một không gian mơ ước của đôi lứa. Biển là một không gian trong

khao khát, trong tâm tưởng của biết bao người:

Cá bống đi tu

Cá thu nó khóc

Cá lóc nó rầu

Phải chi ngoài biển có cầu

Anh ra đến đó đoạn giải sầu cho em

Đôi lúc, con người lại mượn hình ảnh biển để truyền tải ý chí và suy nghĩ của họ.

Khi về mối thù dân tộc, dân gian ta có câu:

Bể Đông có lúc vơi đầy

Mối thù đế quốc có ngày nào quên

Nói về những việc làm tốn công, vô ích:

Thôi đừng đáy bể mò kim

Bóng chim tăm cá dễ tìm được nao

Không những vậy, biển còn thể hiện những bất trắc khó khăn trong cuộc sống. Có

thể đó là cửa tử của người phụ nữ khi vượt cạn:

Đàn ông đi biển có đôi

Đàn bà đi biển mồ côi một mình

Có khi biển được ví với lòng dạ thẳm sâu, khó dò của lòng người:

Lòng sông, lòng bể dễ dò

Nào ai bẻ thước mà đo lòng người

Ca dao, tục ngữ là kho tàng kiến thức, kinh nghiệm của dân tộc ta. Chính vì vậy tất

cả ý nghĩa và sắc thái của biển đều được thể hiện đầy đủ. Điểm qua một số câu ca dao, tục

21

ngữ viết về biển đủ để thấy biển là một chủ đề đã có từ rất lâu trong kho tàng văn hóa, văn

học của dân tộc.

1.3. Biển trong thơ ca

Hầu như ở góc độ nào biển cũng được thơ ca ưu ái nhắc đến, từ thời gian: sáng,

trưa, chiều, tối cho đến những không gian trên biển: bãi biển, bờ biển, làng biển… lẫn các

trạng thái ở biển: buồn, vui, vắng lặng... Không những vậy, tất cả những gì liên quan đến

biển cũng là đối tượng của thơ ca như sóng, cát, gió, cánh buồm, hàng dương, hạt muối…

Chúng ta cũng có thể liệt kê hàng trăm, hàng ngàn bài thơ viết về biển, đảo. Tuy vậy, tùy

vào từng giai đoạn cụ thể mà biển, đảo được tiếp cận ở mức độ khác nhau. Và ở mỗi tác

giả hẳn nhiên cũng có cách cảm nhận riêng biệt về biển.

Do đặc điểm về thời đại mà giai đoạn văn học trung đại nhìn chung có ít bài thơ

viết về biển. Ở giai đoạn này, lãnh thổ nước ta chưa mở rộng như bây giờ. Thơ văn sáng

tác hầu như thuộc về giới trí thức, nhà nho giàu chữ nghĩa và phần đông sống ở kinh thành,

ít kinh qua các vùng đất ven biển. Hình ảnh biển chỉ được nhắc đến trong một số tác phẩm

của các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát... Tuy nhiên tất cả sắc thái của

biển đều được các nhà thơ khắc họa một cách chi tiết, rõ ràng.

Biển được Nguyễn Trãi miêu tả trong khá nhiều bài thơ, như: Quan duyệt thủy trận,

Quá hải, Quan hải, Vân Đồn, Thần Phù hải khẩu, Lâm Cảng dạ bạc, Quá Thần Phù hải

khẩu… Đó là hình ảnh biển bao la, hùng vĩ được viết bằng những nét bút hoàng tráng. Với

tầm nhìn cao cả và cảm xúc hào hùng, tác giả đã thổi hồn vào những bài thơ ấy, làm cho

biển bờ cũng dậy sóng:

Kình phun lãng hống, lôi nam bắc,

Sáo ủng sơn liên, ngọc hậu tiền

(Cá kình phun nước sóng gầm thét như sấm ran từ nam đến bắc

Giáo dựng san sát núi trùng điệp như ngọc bày đằng trước, đằng

sau [37,246])

(Thần Phù hải khẩu)

Đó còn là hình ảnh Vịnh Hạ Long với những câu thơ gợi tả đầy sức quyến rũ.

Nguyễn Trãi đã ví Vịnh Hạ Long như một tấm gương lớn mà những ngọn núi, những hòn

đảo xung quanh như những búi tóc của người phụ nữ:

Nhất bàn lam bích trừng minh kính

22

Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn

(Một mặt phẳng sắc lam, sắc biếc như tâm gương trong suốt

Muôn vòm màu đen màu xanh như những búi tóc óng trễ xuống

[37,248])

(Vân Đồn)

Là một cố vấn quân sự tài ba, Nguyễn Trãi cũng có nhiều bài thơ nói về công tác

phòng ngự trên biển. Theo ông, dù đất nước đã yên bình nhưng không vì vậy mà lơ là cảnh

giác:

Biển Bắc năm xưa đã diệt kình

Dù yên, còn luyện ngũ ôn binh

(Quan duyệt thủy trận)

Từ xưa con người đã biết khai thác sản vật từ biển, thế nhưng biển cũng vô cùng

nguy hiểm với bao hiểm họa chết người. Khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng

bắt ép dân ta xuống biển mò ngọc trai, không cần biết đó là nơi nước sâu, nhiều cá mập,

thuồng luồng: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng

luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Tội ác của giặc

Minh không sao kể xiết, để rồi nhà thơ phải thốt lên:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

(Bình Ngô đại cáo)

Vua Lê Thánh Tông cũng viết về biển với những bài thơ ngợi ca thiên nhiên đất

nước tươi đẹp, đồng thời tự hào về đường lối chính trị của nhà nước phong kiến:

Hải thượng vạn phong quần ngọc lập

Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh

Ngư diêm như thổ, dân xu tiện

Hòa đạo vô điền, phú bạc chinh

(Trên bờ biển, muôn ngọn núi quây quần như ngọc

La liệt đá xanh biếc rải ra chon von

Cá và muối nhiều như đất, dân chúng sinh nhai thuận lợi

Lúa màu thiếu ruộng, thuế khóa đánh nhẹ [37,317])

(An Bang phong thổ)

23

Nhà thơ Nguyễn Du đề cập đến biển ở một khía cạnh khác. Biển mênh mông, ầm

ào nhưng xa xôi, diệu vợi. Viết về biển, Nguyễn Du lấy điểm tương đồng trong đặc tính

của biển để toát lên tâm trạng của nàng Kiều. Môi trường sống đầy xa lạ và nguy hiểm

chốn lầu xanh đã chuyển thành cái thế gió cuốn, sóng vỗ xung quanh nàng Kiều. Những

con sóng nối tiếp nhau vỗ vào bờ, cứ đều đặn, đều đặn không dứt làm cho người đọc dễ

dàng nhận ra tâm trạng của Thúy Kiều lúc này: đau đớn, tủi nhục, xót xa, cám cảnh cho

thân phận hẩm hiu, đồng thời lo lắng cho tương lai của mình sau này:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

(Truyện Kiều)

Biển với những con sóng ngày đêm xô bờ, với bão tố hung hãn làm cho con người

cảm thấy sợ hãi, bất an. Nhìn những hình ảnh như sóng biển trắng xóa, gió táp, sấm ran,

chớp giật… nhà thơ Cao Bá Quát liên tưởng ngay đến con đường công danh, sự nghiệp của

mình. Đó là một con đường đầy sóng gió gian nan lẫn thử thách khiến cho nhà thơ không

khỏi âu lo:

Bạn chẳng thấy:

Sóng trên biển trắng xóa như bạc đầu

Gió táp xô vỡ thuyền vạn mộc

Sóng ran chớp giật hãi mắt người

Mà trong điểm điểm vài chim âu

Hơi bể quyện vào núi, núi lởm chởm như ngón tay

Phía bắc núi, phía nam núi, suốt nghìn muôn dặm

Trên đường công danh đã mấy ai nhàn

Mũ lộng nhộn nhịp ta cũng đi đây

(Đứng trên Hoành Sơn nhìn biển)

Thơ ca hiện đại nở rộ phong phú về thể loại, cấu trúc và cả đối tượng được miêu tả.

Nhà thơ Huy Cận có khá nhiều bài thơ viết về biển. Bằng cảm quan vũ trụ, biển trong thơ

ông hiện lên với nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau. Trong đó, nhà thơ đã tái hiện lại

cuộc sống lao động của ngư dân ven biển qua hình ảnh Đoàn thuyền đánh cá. Đó là những

hình ảnh lao động khỏe khoắn, mạnh mẽ cùng sự phong phú, hào sảng của biển cả:

24

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Biển đã có trong tâm thức của mỗi người. Đó là miền duyên hải xinh đẹp với cát trắng, có

nắng vàng và cả trời biếc:

Tôi nói đến một vùng duyên hải

Ở miền Nam êm ái quê tôi

Có cát trắng, có nắng vàng, trời biếc

Có những tấm lòng chan chứa tình thương

(Tiếng sóng- Tế Hanh)

Đó là quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng ý chí cách mạng và lòng căm thù giặc sâu sắc:

Nơi rất thực và cũng là rất mộng

Của đời tôi yêu biển tự bao giờ

Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng

Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ

Những con người suốt chín năm kháng chiến

Đem máu đào giữ miếng đất thiêng liêng

Nay đứng thẳng nhìn quân thù Mỹ Diệm

Bùn sẽ tan khi ngọn thuỷ triều lên!

(Tiếng sóng- Tế Hanh)

Nhiều địa danh trở thành căn cứ chiến đấu quan trọng và để lại trong lòng nhân dân nhiều

tình cảm. Cửa Tùng của nhà thơ Hoàng Trung Thông là một bài thơ như thế:

Biển triền miên tung sóng như năm xưa

Hai dải cát nằm nghe dạt dào muôn lớp sóng

Ðất khét mùi đạn bom

25

“Những ý tưởng tự chủ, những cảm xúc tự hào về biển, đảo quê hương được nhà thơ lớn

Tố Hữu khái quát vào những câu thơ như một lời tuyên ngôn - tuyên bố chắc nịch về chủ

quyền hiển nhiên, về nét đẹp rạng ngời của một phần lãnh thổ Việt Nam toàn vẹn và thống

nhất:

Hùng vĩ thay toàn thân đất nước

Tựa Trường Sơn vươn tới Trường Sa

Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước

Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa [89]”...

(Vui thế, hôm nay)

Nhà thơ Khương Hữu Dụng bằng những câu thơ đầy triết lý đã vẽ nên hình ảnh bao lơn,

rộng lớn của biển, thu nạp vào trong mình hết thảy muôn suối nghìn sông để cuối cùng hóa

xanh trong:

Ai như biển cả lượng mênh mông

Muôn suối nghìn sông rộng mở lòng

Dòng đục dòng trong thu nạp cả

Tan vào chất mặn hóa xanh trong

(Biển và núi)

Ngoài các tầng ý nghĩa trên, biển, sóng còn được các thi sĩ sử dụng để nói hộ các

cung bậc cảm xúc khi yêu. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ đều mượn hình ảnh

biển, sóng để nói đến các cung bậc cảm xúc ấy. Theo từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,

biển là “một biểu tượng của động thái sự sống. Tất cả từ biển mà ra và tất cả trở về biển:

đây là nơi của những cuộc sinh đẻ, những biến thái và những tái sinh. Là nước trong sự

chuyển động, biển tượng trưng cho một trạng thái quá độ giữa các khả năng còn phi hình

và các thực tại đã hiện hình, cho một tình thế nước đôi, tình thế bấp bênh, đầy hồ nghi,

chưa quyết định và có thể kết thúc tốt hay xấu. Từ chỗ đó biển là biểu tượng vừa của sự

sống, vừa của sự chết” [51,80]. Chỗ “không ổn định” của biển với nhiều tình thế bấp bênh,

hồ nghi phần nào giống với cung bậc cảm xúc trong tình yêu. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà

thơ lấy hình ảnh của thuyền, biển, sóng… để miêu tả tâm trạng khi yêu.

Nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, đã viết:

Anh không xứng là biển xanh

Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng

Bờ cát dài phẳng lặng

26

Soi ánh nắng pha lê

Bờ đẹp đẽ cát vàng

Thoai thoải hàng thông đứng

Như lặng lẽ mơ màng

Suốt ngàn năm bên sóng...

(Biển)

Để rồi sóng biển ngàn năm hôn mãi bờ cát vàng:

Anh xin làm biển biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi hôn lại

Cho đến mãi muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt.

(Biển)

Thuyền và biển, hai sự vật hiện hữu ngoài đời thực bỗng trở nên thơ mộng, thi vị

hẳn khi hóa thân thành những đối tượng vô hình trong thơ ca. Đặc biệt là hình tượng hóa

thành đối tượng trữ tình anh và em. Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng mượn hình ảnh Thuyền và

Biển để nói lên tình yêu đôi lứa:

Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu về đâu

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố

27

(Thuyền và biển)

Hay trong bài thơ Sóng, những cung bậc, cảm xúc khi yêu của người con gái được Xuân

Quỳnh miêu tả bằng hình ảnh sóng rất tinh tế:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nỗi mình

Sóng tìm ra tận bể

Sóng có lúc dữ dội lại có lúc êm dịu, hai đặc tính trái ngược nhau mà vẫn luôn luôn

tồn tại, giống như tâm trạng khi yêu, có lúc dạt dào, rạo rực nhưng cũng có lúc lạnh băng,

xa cách. Sóng tượng trưng cho nỗi khát vọng của tình yêu đôi lứa, cho dù ở thời điểm nào

đi chăng nữa:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Hữu Thỉnh cũng có một bài thơ viết về tình yêu rất hay (dù theo nhà thơ không hề

có bóng hồng nào nhuộm tím ông cả!). Nhà thơ cũng mượn hình ảnh biển để truyền tải

thông điệp tình yêu:

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Dù sóng đã làm anh

Nghiêng ngã

Vì em...

(Thơ viết ở biển)

28

Nhà thơ Trần Đăng Khoa lại hóa thân thành người lính đảo, mượn hình ảnh biển đối sánh

với nhân vật em để bày tỏ tâm tình người lính biển. Đó là tấm lòng yêu tha thiết biển quê

hương, cùng những suy nghĩ đầy yêu thương về Tổ quốc:

Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên

Gió thổi chưa ngưng trong những vành tang trắng

Anh đứng gác-trời khuya đảo vắng

Biển một bên và em một bên

(Thơ tình người lính biển)

“Những con người giữ biển anh hùng đó lại một lần nữa tự khẳng định mình như một lời

thề trước biển, đảo quê hương:

Ôi, đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu

Dẫu chẳng có mưa chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo

Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão

Chúng tôi như hòn đá ngàn năm đập trái tim người [91]”!

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn - Trần Đăng Khoa)

Còn có rất nhiều bài thơ khác viết về biển. Nội dung tập trung vẫn là tình yêu biển

đảo, là niềm tự hào dân tộc và đề tài tình yêu. Nhiều bài thơ đã được các nhạc sĩ phổ nhạc.

Điều này cũng góp phần đưa bài thơ, bài ca ấy đi sâu vào lòng người đọc. Năm 2000, Hồ

Quốc Nhạc đã sưu tầm và giới thiệu 82 bài thơ hay về biển của nhiều tác giả như: Huy

Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tế Hanh, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương... Số liệu ấy phần nào

cho thấy biển là một đề tài lớn của các thi nhân.

Gần đây có khá nhiều cuộc thi sáng tác thơ, nhạc về biển và cũng đã có không ít tác

phẩm có giá trị. Đó là Tổ quốc nhìn từ biển của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. Bài thơ ra đời

trong không khí cả nước sôi sục hướng về biển đảo quê hương. Biển, đảo trở nên gần gũi

hơn bao giờ hết. Bài thơ là tình cảm của những người con đất Việt trước tình hình biển đảo

quê hương đang chịu nhiều sóng gió cùng với ý chí quyết tâm bảo vệ vùng biển, đảo của

dân tộc:

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển

Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa

Ngàn năm trước con theo cha xuống biển

Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc

29

Các con nằm thao thức phía Trường Sơn

Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả

Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển

Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng

Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa

Trong hồn người có ngọn sóng nào không

Như vậy, từ lâu biển đã là đối tượng của văn hóa, văn học. Biển đã có trong tâm

thức người Việt và càng ngày càng được củng cố và phát triển. Những câu thơ, lời ca ấy,

dù ra đời trong hoàn cảnh nào thì cũng đều thể hiện tâm thức hướng biển và tình cảm thiết

tha đối với biển đảo quê hương. Một quốc gia phát triển phải là một quốc gia hướng ra

biển cả. Lời nói ấy của nhà thơ Hữu Thỉnh thật đúng, và nó càng đúng hơn trong hoàn cảnh

hiện nay, khi cả nước đang hướng về biển đảo với quyết tâm bảo vệ, giữ gìn và phát huy

truyền thống biển đảo của dân tộc.

30

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG BIỂN

TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH

“Văn thơ hàm chứa tư tưởng tình cảm. Nhưng văn chương không nói ý một cách

khô khan. Văn chương đích thực là hoa quí nên mới có hương sắc. Văn chương thấm vào

lòng người, bất tử với thời gian, không có biên giới bởi lẽ văn học nhận thức và thể hiện

bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật do nhiều yếu tố, chi tiết nghệ thuật hợp

thành. Đọc tác phẩm văn học phải phát hiện ra và cảm nhận các chi tiết nghệ thuật, có thế

mới khám phá được cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật” [86].

Vậy hình tượng nghệ thuật là gì? Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “hình tượng

nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo

trong những tác phẩm nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể nó có thể làm cho người ta ngắm

nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không

phải sao chép nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông

qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn

tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác” [24,147]. Trong thơ

văn, hình tượng nghệ thuật có thể là một bông hoa, một vầng trăng, một nàng Kiều, một

Trương Phi – cũng có thể là một nét của tâm trạng, tình cảm như “Tương tư” của Nguyễn

Bính, v.v… Hình tượng nghệ thuật là bức vẽ về con người, về cuộc đời, về thiên nhiên cụ

thể được nhà văn sáng tạo nên qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm

và khái quát hiện thực một cách thẩm mĩ.

Và như vậy, biển cũng được các nhà thơ xây dựng thành hình tượng nghệ thuật để truyền

đạt thông điệp của mình. Tìm hiểu hình tượng biển sẽ cho chúng ta thấy được cái hay, cái

ý vị trong trường ca của các nhà thơ Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh

2.1. Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn

Nhà thơ Thu Bồn tên khai sinh là Hà Đức Trọng, sinh năm 1935 ở Điện Bàn - Quảng Nam.

Năm 12 tuổi ông tham gia thiếu sinh quân, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu.

Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, ông liên tục có mặt ở các chiến trường gian khổ, ác

liệt như Tây Nguyên, Khu V, Quảng Trị, biên giới Tây Nam. Có lúc làm phóng viên mặt

trận, lúc làm lính xung kích, lính pháo, từng là biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân Giải

31

phóng Trung Trung bộ, biên tập viên và cán bộ sáng tác tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông là

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1962).

Thu Bồn là một tác giả đa tài bởi vì hầu như ở thể loại nào ông cũng có những sáng tác

đáng ghi nhận. Năm 1963 với tác phẩm đầu tay, trường ca Bài ca chim Chơ rao đã khẳng

định vị trí của ông trên thi đàn. Ngay từ khi mới ra đời, Bài ca chim Chơ rao với nội dung

trữ tình chứa đựng tinh thần chiến đấu bất khuất của Hùng và Rin, hai người con Kinh -

Thượng, đã gây một tiếng vang lớn cả trong nước lẫn quốc tế. Năm 1969 tập thơ Tre Xanh

ra đời, tiếp tục khẳng định tài năng của Thu Bồn. Tiếp liền những năm sau đó, Thu Bồn

sáng tác nhiều tác phẩm với sự đa dạng về thể loại.

Thơ: Mặt đất không quên (1970), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (1992);

Tiểu thuyết: Chớp trắng (1970), Những đám mây màu cánh vạc (2 tập, 1975), Hòn đảo

chân ren (1972), Dòng sông tuổi thơ (1973), Đỉnh núi (1980), Mắt bồ câu và rừng phi tiễn

(1986), Vùng pháo sáng (1986), Cửa ngõ miền Tây (1986), Em bé vào hang cọp (2 tập,

1986);

Truyện ngắn: Em bé trong rừng thốt nốt (1979), Dưới tro (1986).

Hơn bốn mươi năm cầm bút, Thu Bồn đã mở rộng phạm vi sáng tác của mình ở nhiều thể

loại, tuy nhiên, có lẽ ông có duyên với trường ca hơn cả. Trường ca Bài ca chim Chơ rao

đã đánh dấu một bước ngoặc “tươi sáng” trong chặng đường trường ca sau này của ông.

Sau thành công vang dội của Bài ca chim Chơ rao, tiếp tục trên nền cảm hứng sử thi Tây

Nguyên, Thu Bồn đã viết Vách đá Hồ Chí Minh (1970) và tiếp sau đó, một loạt trường ca

ra đời, gắn với tên tuổi Thu Bồn: Người gồng gánh phương Đông (1972), Tiếng hú người

Diôlao (1974), Chim vàng chốt lửa (1973-1975), Quê hương mặt trời vàng (1975), Badan

khát (1976), Campuchia hy vọng (1978), Oran 76 ngọn (1979), Người vắt sữa bầu trời

(1985), Thông điệp mùa xuân (1985).

Chặng đường sáng tạo của nhà thơ được ghi nhận qua các giải thưởng sau: Giải thưởng

Văn học Nguyễn Đình Chiểu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền

Nam Việt Nam (1965) với trường ca Bài ca chim Chơ rao. Giải thưởng thơ báo Hà Nội

mới (1969) với bài thơ Gởi lòng con đến cùng cha. Giải thưởng văn học quốc tế (Hội Nhà

văn Á Phi, 1973) với trường ca Bài ca chim Chơ rao.

32

2.1.1. Biển trong kí ức, hành trang của những người con đất Việt trong cuộc

chiến đấu giữ nước của dân tộc

Thu Bồn là một nhà thơ-chiến sĩ đi nhiều, viết khỏe. Trong những năm tháng chiến tranh

gian khổ, ông đã lăn lộn khắp các chiến trường, đặt bàn chân qua nhiều vùng đất khác

nhau. Thậm chí, ông đã vượt dãy Trường Sơn giữa lúc quân thù đánh phá ác liệt nhất. Có

lẽ vì thế mà ông có nhiều “vốn” để sáng tác. Sáng tác của ông đa dạng về thể loại và đa

dạng cả về địa danh. Đó là một Tây Nguyên bạt ngàn, một Campuchia hy vọng hay một

Hà Nội ngày nào...

Biển là một đối tượng thân thuộc của thơ ca, có lẽ bởi những trạng thái đối nghịch của nó:

vừa dữ dội lại dịu êm, vừa rộng mở vừa huyền bí. Các nhà thơ đã viết về biển trong những

hoàn cảnh khác nhau, bằng những biểu hiện khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung: đó

là cảm xúc khi viết về biển rất tự nhiên, chân thành. Và hẳn nhiên, Thu Bồn cũng không

ngoại lệ. Biển trong thơ ông dạt dào cảm xúc và chất đầy nỗi niềm của một người con xa

quê. Biển trong thơ ông hiện lên mãnh liệt trong kí ức của những người con đất Việt qua

công cuộc giữ nước của dân tộc.

Là một người con xứ Quảng, từ lâu hình ảnh biển bờ với tiếng sóng vỗ, mảnh buồm cong,

bãi cát dài đã ăn sâu vào tâm thức nhà thơ. Để rồi chỉ cần một tiếng gợi nhỏ cũng đủ làm

cho tâm hồn nhà thơ dậy sóng. Đối với ông, biển không hề xa lạ. Bởi đơn giản đó là quê

hương:

Quê hương tôi biển nhiều hơn nước

Gọt tận trời cao giọt tận đất sâu

Biển đã thổi cồn cào cơn khát

Giọt đầu nguồn trong- mắt em đâu?

(Qua quê mẹ)

Biển trong thơ ông còn là tình mẫu tử thiêng liêng, là tiếng lòng của những chàng trai cô

gái tuổi đôi mươi hay là những trăn trở về cuộc đời. Tất cả được nhà thơ thể hiện bằng nét

bút “lừng lững” một thời của mình.

Cùng mạch cảm xúc trên, trong thể loại trường ca, nhà thơ Thu Bồn cũng dành rất nhiều

“đất” cho tình yêu biển đảo. Qua số liệu thống kê, trong 6 trường ca khảo sát có tới 71 từ

biển và 32 từ sóng, ngoài ra còn có các từ khác liên quan đến biển như cát, gió, muối,

thuyền... (xem phần phụ lục 1). Điều này phần nào chứng tỏ những hình ảnh biển đã có sẵn

33

trong tâm thức nhà thơ, và nó tự nhiên tuôn chảy mà không cần hướng theo một chủ đích

nào cả.

Kháng chiến nổ ra, những người con Việt Nam yêu nước từ đồng bằng, duyên hải cho đến

cao nguyên... đều hăng hái lên đường nhập ngũ. Trong những năm chiến tranh đầy gian

khổ, địa bàn hoạt động của người lính chủ yếu là ở rừng. Họ đã trải qua nhiều thử thách

với bao chuyến vượt thác, băng rừng, trèo đèo, lội suối đầy vất vả. Rừng núi trở thành quê

hương thứ hai của những người lính miền duyên hải. Thế nhưng, trong họ, cảm xúc về một

miền quê đầy gió sóng vẫn luôn dạt dào. Trong kí ức của người lính, không đâu đẹp bằng

quê hương, không đâu trù phú bằng quê hương. Họ đã kể cho người bạn Campuchia của

mình nghe về một vùng biển quê hương giàu có, bằng một giọng điệu đầy tự hào:

Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói

Về những hòn đảo xa nối biển liền trời

Con ngọc trai bám vào thềm lục địa

Một loài sao biển sáng lân tinh

(Campuchia hy vọng)

Sống và chiến đấu ở rừng khiến cho những người lính thèm cảm giác được tung tăng, vẫy

vùng với biển. Trong họ, biển có một vị trí riêng. Biển ám ảnh trong tâm thức, khiến cho

người lính không khỏi không nghĩ đến. Ngay cả trong những sinh hoạt hằng ngày cũng làm

cho họ nhớ da diết miền quê ầm ào sóng vỗ:

Ăn trái gắm nhớ trái dừa da diết

Tắm vũng suối nhớ biển biếc bao la

Những đêm mưa rừng sấm động

Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà

(Bài ca chim Chơ rao)

Biển đã nằm ở một tầng sâu trong tâm thức người lính, để rồi ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào,

chỉ một cái gợi rất nhỏ cũng làm cho tình cảm ấy bùng phát mãnh liệt. Hùng là một chiến

sĩ kiên cường. Anh cùng Rin, một chiến sĩ vùng cao, hoạt động cách mạng ở Tây Nguyên.

Để tham gia cách mạng, hòa mình cùng đồng bào dân tộc, anh đã cà hàm răng ngà ngọc,

học cách bương đèo, bới tóc, căng tai, mang vòng lấp lánh. Anh dần dần trở thành một

người con miền núi đúng nghĩa. Nhưng anh vẫn là người con của biển, vẫn đậm đà, chất

phác. Là một người lính, nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được đặt lên hàng đầu. Nỗi

nhớ quê hương luôn canh cánh trong lòng nhưng anh đã cố gắng gìm lại. Và càng gìm chặt

34

thì nỗi nhớ về miền quê nhiều sóng biển, lắm chân trời càng mãnh liệt. Trong nhà lao,

trước sự tàn bạo của kẻ thù, Hùng vô cùng kiên cường, cứng rắn, nhưng khi nghe tâm sự

của Rin và Sao, nỗi niềm trong anh như được khơi dòng. Đó là nỗi lòng của một người con

miền biển chất đầy nhớ thương:

Nỗi tâm sự của người con nước mặn

Cũng trào lên như sóng biển dạt dào

Kí ức như ngàn con sóng bao bọc lấy người chiến sĩ. Ở phía biển anh có một mái nhà tranh

nho nhỏ với hàng dương xanh quanh năm cãi lời ngọn gió, một người mẹ hiền sớm hôm

tần tảo vá may cho anh chiếc áo, đợi anh về. Ở nơi đó anh còn có một người yêu vò võ đợi

chờ:

Cô gái biển quanh năm chài lưới

Trên bàn tay có nắng mặt trời

Cô gái có tâm hồn sóng biển

Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời

(Bài ca chim Chơ rao)

Nỗi niềm trong anh cứ thế, cứ thế dâng lên như ngọn thủy triều. Hình ảnh quê hương với

biển xanh, sóng vỗ đến khôn cùng như vẫy gọi anh, để rồi tiếng gọi quê hương bật ra từ tận

đáy lòng, nghe yêu thương và da diết đến lạ:

Quê hương ơi, những biển chiều lặn

Con cá chuồn lao phóng như tên

Ánh đèn xanh đêm hè soi mực

Con sứa rập rình chờ nước biển lên

(Bài ca chim Chơ rao)

Kí ức về quê hương và những con người thân thuộc đã cho anh sức mạnh chiến đấu với kẻ

thù. Bị tra khảo bằng những nhục hình đầy đau đớn, bị dụ dỗ với những lời nói ngọt nhạt

nhưng Hùng vẫn kiên trung với con đường mình đã chọn. Anh tự vùi bàn tay vào than đỏ

châm thuốc hút, dùng kìm véo vào đùi rứt ra miếng thịt... Đứng trước kẻ thù anh không hề

run sợ mà vô cùng anh dũng, kiên trung. Hùng đã chọn cho mình một cái chết hiên ngang:

Tao sẽ chết bằng xe kéo trên đường

Máu thịt tao quyện vào bụi đất

Xương óc tao rải khắp quê Hương

(Bài ca chim Chơ rao)

35

Ý chí của anh đã làm cho bọn giặc phách lạc hồn bay, phải rợn mình khiếp sợ. Chính sự ồn

ào, dữ dội nhưng cũng thâm trầm da diết của biển đã thấm vào anh. Lý tưởng đó, thứ ánh

sáng đó anh học được từ phía biển quê hương:

Ánh sáng đầu nhô từ mặt biển

Cánh buồm căng sưởi lửa mặt trời

Con của mẹ hun đúc từ nơi ấy

Lồng ngực con mang tiếng đập biển khơi

(Bài ca chim Chơ rao)

Tiếng đập biển khơi đã dựng anh đứng dậy, không đầu hàng trước sự tàn bạo của kẻ thù,

bởi với anh, con đường anh chọn là con đường chính nghĩa để rồi mạnh bước đi, chết vẫn

tươi cười.

Trước giây phút hy sinh, trong tâm trí người chiến sĩ, kí ức về quê hương hiện lên mãnh

liệt hơn bao giờ hết. Hùng bị đem ra pháp trường thiêu chết nhưng anh vẫn điềm nhiên.

Anh nhớ về miền biển thân thương với ngôi tháp Chàm rêu phong cổ kính với rừng dừa xa

thấp thoáng sương mù. Anh nhớ về người mẹ hiền trọn đời kim chỉ vá may, nhớ người con

gái mà anh yêu thương tha thiết. Anh bị thiêu chết nhưng anh không chết, lời của anh như

còn vang vọng. Tấm áo mẹ may năm nào anh nhường lại cho người em với lời nhắn nhủ

chiến đấu tới cùng:

Tấm áo mẹ con không bao giờ mặc nữa

Để dành cho em con mặc buổi ra khơi

Tấm áo quê nhà che bao nắng gió

Vững mái chèo bão táp chớ buông lơi

Anh nhắn với cô gái- người yêu anh đừng buồn, bởi dù chết anh vẫn còn mãi với quê

hương, đất nước:

Và cô gái đẹp xinh người vợ trẻ

Ngày chiến thắng về không có bóng anh

Em hãy nhìn lên sắc cờ kiêu hãnh

Có anh về ôm ấp rặng dừa xanh

Tầm vóc của người chiến sĩ bỗng chốc vụt lớn lao. Hùng không chết mà sức mạnh ý chí

của anh lan tỏa đến quảng đại quần chúng nhân dân. Sức mạnh ấy như một trận bão giông,

có thể cuốn phăng tất cả:

Bến thuyền xa gió kéo dài ngọn lửa

36

Chớp xé trời tung thuyền lên nghiên ngửa bão giông

Con cá kình lao mình trong đảo sóng

Lướt đá ghềnh bọt trắng nước mênh mông

(Bài ca chim Chơ rao)

Không phải ngẫu nhiên mà Thu Bồn tái hiện ý chí của Hùng bằng một trận bão giông. Biển

với sức mạnh to lớn và huyền bí của mình có khả năng quét sạch mọi thứ. Biển vừa là nơi

hủy diệt lại vừa là nơi tái sinh. Tinh thần chiến đấu của Hùng sẽ lan tỏa ra quảng đại quần

chúng nhân dân. Họ là những trận bão giông, sẽ dùng sức mạnh khôn cùng của mình hủy

diệt bè lũ cướp nước, đồng thời tái sinh những cuộc đời mới.

Cái chết của Hùng và Rin không hề đau thương, bi lụy mà lan tỏa sức mạnh, ý chí quật

cường đến với nhân dân. Hình ảnh của Hùng và Rin bỗng chốc trở nên bất tử, bất tử đúng

vào khoảnh khắc họ bị thiêu chết ấy:

Lửa rực hai gương mặt gầy rạng rỡ

Hai vòng tay lửa siết vào nhau

Người anh em ơi! Đây là lời đất nước

Gắn bó đến cùng những lúc thương đau

Như vậy, hình ảnh quê hương miền biển luôn hiện hữu trong tâm trí người chiến sĩ cách

mạng, để rồi, từ những kí ức ấy hun đúc trong họ ý chí quyết tâm giữ gìn độc lập tự do cho

Tổ quốc. Biển hiện lên trong trang thơ Thu Bồn tự nhiên và gần gũi nhất, có lẽ đơn giản đó

là quê hương, là cái nôi nuôi những người con đất Việt lớn khôn thì không còn gì là xa lạ

nữa. Bằng tấm lòng của một người con miền biển, Thu Bồn đã thổi vào những bản trường

ca của mình lớp lớp sóng biển đầy sức gợi tả.

2.1.2. Biển, đảo-một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam

Dù biển có hung hăng, có tàn phá thì biển đảo vẫn là quê hương, là nơi nuôi ta

khôn lớn, là một phần máu thịt của Tổ quốc ta. Hướng về biển, nhà thơ tìm về với cội

nguồn dân tộc:

Tìm cha con hãy đến biển Đông

Nơi ngọn sóng bạc đầu vì sương gió

Khi đau thương biến con thành đảo nhỏ

Mẹ sẽ ôm con trong lòng biển rạt rào

(Người gồng gánh phương Đông)

37

Qua hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra thông điệp mà

nhà thơ gửi gắm. Biển đảo đã trở thành một phần cơ thể của Mẹ Việt Nam. Để rồi từ đó

bao thế hệ con Rồng cháu Tiên sẵn sàng trở thành người lính biển, người lính đảo, canh

giữ bình yên cho Tổ quốc Việt Nam.

Biển đảo còn là cái nôi nguồn cội của dân tộc ta. Đó còn là hình ảnh của chàng chim Lạc

và nàng Âu Cơ trong cuộc chiến chống lại lão già nghèo đói cùng gia đình lão:

Vợ lão là hoang vu

Con đầu là cơ cực

Cháu trai là nóng nực

Cháu gái là lạnh lùng

Bè bạn lão ta khổ độc cứ từng vùng

(Người gồng gánh phương Đông)

Chàng chim Lạc soãi cánh mở nước về phương Nam, băng qua dải Trường Sơn hùng vĩ.

Trong cuộc chiến với lão già chàng bị lão cắn đứt một ngón tay, để rồi:

Từ những ngón tay chàng trai máu ứa thành những dòng kinh

Còn lại chín ngón tay xòe ra vô tận

Thành chín nhánh Cửu Long sờ vào ngực biển Đông

hình thành đất nước Việt Nam cong như chiếc đòn gánh “gồng gánh phương Đông”.

Biển đảo đã trở thành máu thịt, là quê hương, là đất nước mến yêu như lời tâm sự Quê

hương tôi có biển Đông/ Vừa đủ mặn bốn ngàn năm lao động. Biển đảo trở nên thân thuộc,

là nơi người lính cảm thấy tự hào khi nghĩ về, tôi chỉ em xem biển rộng vô cùng/ và tên gọi

mến yêu từng hòn đảo. Đứng trước biển, ngút ngàn màu xanh trù phú của biển cả, nhà thơ

không khỏi tự hào. Trong trường ca Người gồng gánh phương Đông, tác giả lý giải về Đảo

bằng một đôi mắt vô cùng thi vị:

Những hòn núi xưa không cần vua chúa

Xa lánh biển Đông

Nghe tiếng đàn ngoái cổ lại trông

Được chỉ tên là Đảo

(Người gồng gánh phương Đông)

Thế nhưng, trong lịch sử, biển đảo quê hương đã bao lần phải oằn mình chịu sự chà đạp

của kẻ thù. Biển, đảo luôn là món mồi ngon mà kẻ thù lăm le xâm chiếm:

Nhưng chùm đảo của ta

38

Miếng mồi ngon chơi vơi trước những mồm giặc cướp

(Badan khát)

Để mất biển tức là mất đi Tổ quốc. Vì vậy, giữ gìn biển đảo là một nhiệm vụ cấp thiết hơn

bao giờ hết:

Chúng ta không muốn nỗi buồn thương

Niềm đau lớn vượt ra ngoài biên giới

Nỗi khổ khoanh vùng trong da thịt ta thôi

Ta muốn biển ta chỉ một sắc cờ

Những hòn đảo xa

Những hòn đảo nóng

Đừng quên nỗi lòng ta sóng xé giữa trùng khơi

(Badan khát)

Ý thức được tầm quan trọng của biển đảo, dân tộc ta đã gửi lên biển đảo quê hương những

tình cảm hồn hậu, chân chất nhất, bởi đơn giản con ở đâu cũng là con của mẹ/ hòn đảo nào

cũng Tổ quốc Việt Nam. Đất liền đã gửi ra biển đảo hồn dân tộc. Đó là giống cây trồng,

sách báo hay chỉ là lời thăm hỏi lên hòn đảo quý yêu. Đó là lời chào tới Hoàng Sa, Trường

Sa để gọi hồn Tổ quốc lạc ngoài khơi:

Chào Hoàng Sa

Chào Trường Sa

Những chùm đảo chim

Những hòn đảo nổi

Những ốc đảo tù và gió thổi

Gọi hồn Tổ quốc lạc ngoài khơi.

(Badan khát)

Trường ca Badan khát được tác giả sáng tác vào năm 1976, ngoài chủ đề chính là đất và

con người Tây Nguyên thì tác giả còn đề cập đến vấn đề biển đảo như người viết đã đề cập

ở trên. Vấn đề ấy đến hôm nay vẫn còn nhức nhối. Để cho đất nước được vẹn toàn, nhiệm

vụ bảo vệ biển đảo trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết, hay đơn giản chỉ để cho bờ Tổ quốc

đâu cũng đầy gió sóng.

2.1.3. Biển đời đầy khó nhọc gian truân

Biển trong trường ca Thu Bồn không chỉ mang nét nghĩa quê hương, đất nước mà nó còn

ám chỉ sự khó khăn, vất vả. Từ lâu, trong kho tàng ca dao tục ngữ, người Việt đã ví nỗi

39

khổ đau, vất vả của đời người với biển: biển khổ, biển đau; Đàn ông đi biển có đôi/ Đàn bà

đi biển mồ côi một mình... Biển với sự bao la, rộng lớn lẫn huyền bí đến tận cùng của mình

đã ám ảnh bao thế hệ. Biển là nỗi ám ảnh về sự gian truân, những khó khăn thử thách khôn

lường trong đời sống con người. Trong trường ca Người gồng gánh phương Đông, Thu

Bồn đã viết:

Những cái gì xanh của biển

Đều lấy ra từ máu con người

Màu xanh của biển là màu của những tháng ngày tự do, cho em thơ vui đùa trên

cát; là màu của sự ấm no, người dân chài trở về với những khoang thuyền đầy cá. Có khi

đơn giản đó là tiếng sóng vỗ bình yên, là hàng dương vi vu theo gió... Nhưng để có được

màu xanh ấy, biết bao thế hệ đã phải hy sinh, biết bao máu xương của dân tộc ta đã phải đổ

xuống. Thật xót xa biết bao!

Nhà thơ còn khát quát: Đất nước tôi có biển Đông/ Vừa đủ mặn bốn nghìn năm lao động.

Bốn nghìn năm ấy, dân tộc ta đã chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc để cho thế hệ sau được bình

yên vui sống. Đó là một khoảng thời gian lịch sử, khoảng thời gian của máu và nước mắt.

Nhưng khoảng thời gian ấy chưa dừng lại, từ phía biển, kẻ thù luôn luôn tìm cách xâm

lược nước ta:

Những trái bom

Giặc Mỹ từ biển vào giật mìn san bằng từng chiếc giếng

(Chim vàng chốt lửa)

Đến hạt muối còn quý hơn vàng: Sáng nay muối đến non ngàn/Tay cầm hạt muối hơn vàng

cầm tay. Để có được hạt muối ấy từ bàn tay giặc, biết bao đồng bào ta đã ngã xuống. Đó

không đơn thuần là hạt muối bình thường, mà nó kết tinh thành tinh thần, sức mạnh của

dân tộc. Đó là những hạt muối thấm máu bao đồng đội hy sinh:

Mẹ giữ muối như giữ từng giọt máu

Đừng tan muối ơi! chất mặn Sa Huỳnh

Muối trắng giằng từ bàn tay giặc

Thấm máu bao đồng đội hy sinh

(Bài ca chim Chơ rao)

Phía đại dương mênh mông còn có một vùng đất quanh năm chua mặn, mưa rơi vào lòng

hạn hán. Cuộc sống của những con người nơi đây khốn khó vô cùng, đêm ngày bán lưng

cho đất, bán mặt cho trời nhưng cái ăn, cái mặc vẫn thiếu thốn, chật vật. Đến lời dặn dò

40

của cô gái với chàng trai trước khi ra trận nghe cũng thật thiết tha, thấy thương đến lạ. Đó

là lời dặn dò của một con người con gái bé nhỏ, quanh năm chịu nhiều nhọc nhằn, vất vả:

Anh là con chim bay về xứ nóng

Đừng quên em trên ruộng lúa nhọc nhằn

Đừng quên dấu chân trâu trên mảnh đất khô cằn

Cơn rét lạnh lá hàng dương không đủ ấm

(Badan khát)

Trong trường ca Badan khát, Thu Bồn đã kể về một vùng đất chết bởi sự xâm thực nặng

nề của biển, làng Lỗ Trường. Ở nơi đó:

Sóng mặn cướp hàng dương

Làng sạt lở ngôi đình chìm đáy biển

Bọt nước cuộc đời trôi

Bao người biệt xứ

(Badan khát)

Trước sự xâm thực nặng nề của biển, vùng quê ấy trở thành một vùng đất chết. Vậy

mà biển còn hùa vào áp đảo để rồi cánh đồng ta mòn mỏi những bờ chua. Những người

con của biển phải chống chọi từng ngày từng giờ với thiên nhiên, con người phơi sức

người trên đồng muối trắng, thế nhưng cuộc sống nghèo khó vẫn bám riết lấy họ:

Nhà rách vách xiêu

Chiếc nong rách

Áo tơi chằm

Nằm vo ăn vã

(Badan khát)

Khó khăn, vất vả là thế nhưng những con người nơi đây vẫn không đầu hàng trước số

phận. Những người lính của ta đã nhảy xuống biển, xiết chặt tay nhau làm thành bức

tường, khuân đá ngăn sóng. Những người lính đã đem tất cả tinh thần, sức lực của mình ra

để ngăn biển dù cho biển gầm thét, biển tràn vào lồng lộn:

Biển hung hăng nhưng biển không thể tràn

Qua lồng ngực những người chiến sĩ

(Badan khát)

41

Để có được màu xanh trù phú, bạt ngàn của những cánh đồng, những người chiến

sĩ đã đem hết tất cả ý chí và tinh thần của mình chống biển. Biển trở thành kẻ thù của

người lính:

Chúng ta dành sức trai đánh Mỹ

Nhưng giờ đây phải thắng trời

Những tàu chiến hải quân kéo còi từ biệt biển khơi

Tự đắm mình dưới chân đê làm lá chắn

(Badan khát)

Đương đầu với kẻ thù hết tuổi thanh xuân, nay hòa bình lập lại, người chiến sĩ tiếp tục

cống hiến sức mình để xây dựng quê hương. Từ sự khó khăn, vất vả của những con người

nơi đầu sóng ngọn gió, chúng ta càng hiểu thêm sự hy sinh thầm lặng của họ và càng thấy

khâm phục, tự hào hơn con người Việt Nam.

Phía biển cả bao la không chỉ chứa đựng bao nổi khó khăn, vất vả mà biển còn ám

chỉ những bấp bênh, khó ngờ của cuộc sống. Trong bài thơ Ông già và biển, nhà thơ viết:

Nay sông đã cạn rồi

Còn lại biển

Sóng bao dung nhưng trò đời ai biết

Lỡ bước sảy chân là biển nuốt phăng đời

Biển lúc này như một con cá mập của số phận, chỉ một chút dao động, một chút chênh

vênh thôi con cá mập ấy sẽ nuốt chửng chúng ta. Và những con sóng không khác gì những

cám dỗ của cuộc đời, chỉ một chút lơ là, mất cảnh giác, chúng ta có thể bị vùi lấp bất cứ

lúc nào. Trong những sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng có viết về một

con sóng vô hình [78] trong tâm thức những người dân miền biển. Đó là nỗi sợ hãi, e dè về

sức mạnh cuồng nộ của thiên nhiên cũng như ám ảnh bởi những con sóng bấp bênh của

biển đời, đầy chông gai mà cũng lắm cám dỗ.

Biển mang trong mình đầy đủ các cung bậc, sắc thái khác nhau. Viết về những khó khăn,

vất vả ở biển để chúng ta thấy được rằng, cuộc sống của đồng bào ta cực khổ đến nhường

nào. Nhưng dù khó khăn, vất vả họ vẫn cố gắng vượt qua, cố gắng chiến đấu tới cùng để

cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn, vững bền hơn.

Bằng tấm lòng của một người con xứ Quảng, Thu Bồn đã viết nên những trang trường ca

về biển đầy sức gợi. Biển hiện lên bình dị, yêu thương trong kí ức của người chiến sĩ yêu

nước. Biển bờ còn là cái nôi hun đúc ý chí, sức mạnh, giúp họ chiến thắng trước kẻ thù,

42

kiên trung với con đường mình đã chọn. Ở phía biển còn nhiều lắm khó khăn, vất vả nhưng

đồng bào ta đã cố gắng vượt qua. Biển dù có hung hăng gầm thét, dù dữ dội khôn cùng thì

trong trái tim người Việt Nam yêu nước, biển đảo là một phần máu thịt của đất Mẹ Việt

Nam, đều là quê hương, xứ sở cần phải bảo vệ và giữ gìn. Qua những gì tác giả thể hiện,

có thể thấy tình yêu biển đảo, cũng như dòng chảy xuyên suốt của biển trong các sáng tác

của nhà thơ Thu Bồn. Đó chính là tấm lòng hướng biển của một người con đất Việt: tự

nhiên mà rất đỗi chân thành. Viết về biển, nhà thơ Thu Bồn đã dẫn lối cho bao trái tim

người Việt Nam tình yêu biển đảo, bảo vệ chủ quyền cho dân tộc hôm nay và mai sau.

2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo

2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo

Sinh ra ở Quảng Ngãi, mảnh đất biển nhưng đến năm 8 tuổi Thanh Thảo mới thực sự thấy

biển, biển Quy Nhơn, khi cùng mẹ xuống tàu Ba Lan tập kết ra Bắc. Trong tâm thức của

một cậu bé 8 tuổi, biển vô cùng đáng sợ. Cộng thêm việc bị say sóng, nhà thơ chỉ mong

sao cho nhanh nhanh thoát biển.

Sau giải phóng, nhà thơ có dịp gặp lại biển khi cùng nhà thơ Ngô Thế Oanh xuống Vũng

Tàu. Từng ngọn sóng tung bọt trắng xóa, tràn qua tuổi ba mươi làm cho nhà thơ cảm thấy

bồi hồi. Lúc này nhà thơ chợt nhận ra, biển không hề đáng sợ hay dữ dằn như những suy

nghĩ thời thơ bé mà biển cũng đẹp và đáng yêu lắm chứ. Từ lúc ấy, biển đã đọng vào kí ức

của nhà thơ, để khi đi qua Tuy Hòa cảm xúc về biển đã dâng trào “Biển trào lên phút chốc

Tuy Hòa” trong bài thơ “Phút chốc Tuy Hòa”.

Năm 1976, để lấy nguồn cảm hứng sáng tác, Thanh Thảo ra ở hẳn Sơn Mỹ. Nhờ vậy ông

có dịp sống cạnh biển để cảm nhận. Hằng ngày ông ra biển Mỹ Khê chơi với trẻ con rồi

cùng bà con thả lưới, kéo chài. Những ngày tháng ở đây đã giúp ông sáng tác thành công

trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ và một vài chương trong trường ca Những người đi tới biển.

Theo tác giả, chính biển đã đẩy nguồn cảm hứng của ông lên cao.

“Ở trường ca đầu tay của tôi, biển đã chiếm hẳn một chương, chương vĩ thanh "Tới biển".

Đó là khúc coda cho trường ca được tôi viết liền một mạch với tất cả niềm hứng khởi như

là kết quả của những ngày tôi lang thang trên bờ biển Mỹ Khê-Sơn Mỹ, nhưng lại có

nguyên nhân sâu hơn từ khát khao suốt những năm chiến tranh của tôi mong một ngày về

với biển:

43

...Cho anh về với em một buổi sáng thường

Đi kéo lưới và đi gánh cá

Nói chuyện lợp nhà trồng lại hàng dương

Hoa muống biển tím lúc mình xúc động

Anh muốn kêu ngược tiếng hò reo của sóng

Phút này đây anh là của biển rồi”...

(Những người đi tới biển) [93]

Nói như vậy có nghĩa, biển đảo đã có một vị trí vững chắc trong lòng nhà thơ, để rồi hình

ảnh của biển, sóng luôn tràn ngập trong những trang trường ca. Biển bờ không chỉ có trong

Những người đi tới biển mà còn có trong Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc…

và mới nhất là có trong trường ca Chân đất, ở chương Chân sóng, tác giả mới hoàn thành

năm 2011.

Nhà thơ Thanh Thảo được mệnh danh là “Ông vua trường ca” bởi số lượng trường

ca đồ sộ cũng như sức sáng tạo không ngừng nghỉ của ông qua những đứa con tinh thần.

Trường ca của ông không chỉ đa dạng về cấu trúc mà còn ẩn chứa nhiều thông điệp sâu

sắc. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo có một ý nghĩa đặc biệt. Dường như nó

bao hàm tất cả các tầng nghĩa, thâu tóm vào trong mình bản chất thế giới hiện hữu. Tìm

hiểu hình tượng biển sẽ cho chúng ta thấy rõ nét đặc sắc trong thơ ông.

Dù “gặp biển” khá muộn nhưng không vì vậy mà nhà thơ không “nặng tình” với biển.

Điểm qua các sáng tác của ông, ta bắt gặp hình ảnh biển, sóng khá nhiều. Qua khảo sát 6

trường ca của nhà thơ Thanh Thảo, từ biển được đề cập đến 71 lần, từ sóng được đề cập 60

lần và rất nhiều từ liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc (xem phần phụ lục 1). Đặc biệt

trong trường ca Những người đi tới biển và Trẻ con ở Sơn Mỹ có hơn 100 từ ngữ nói về

biển và các từ khác liên quan đến biển. Điều đó có thể khẳng định vị thế vững chắc của

biển trong tâm hồn nhà thơ.

Với Thanh Thảo, biển hiện lên với những hình ảnh vô cùng gần gũi, thân thuộc. Đó là hình

ảnh của những khoang thuyền đầy cá; những làng chài lao xao người mua kẻ bán. Đó còn

là bức tranh đầm ấm của gia đình bên bếp lửa vui niềm vui sum họp:

Những con thuyền thở dài trên cát trắng

Nghe da thịt nồng hơi biển mặn

Mùi cá tanh quanh bến cá buổi buổi chiều

Người bán mua gồng gánh lao xao

44

Bao bếp lửa nhóm niềm vui sum họp

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Và hiện lên trên hết là hình ảnh của người mẹ hiền, quanh năm tần tảo. Nhà thơ không ví

mẹ là biển cả bao la, như câu ca quen thuộc: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như

nước ở ngoài biển Đông mà ví mẹ như hàng cây vùng nước mặn, kiên nhẫn vươn lên xanh

tốt, để giữ từng tấc đất phù sa:

Suốt cuộc đời lấn biển thương đau

Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn

Mọc hàng đầu giữ từng tấc phù sa

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Để rồi từ đó biển trong lòng con trở thành biển mẹ mênh mông, biển của tình mẫu

tử thiêng liêng:

Những ngọn sóng bạc đầu trào dâng và chìm lắng

Cả niềm vui, nỗi đau sức mạnh của Người đều vô thủy vô chung.

Biển còn hiện lên trong giấc mơ tuổi thơ với nhiều mơ mộng:

Là trẻ thơ tôi đổi thay

Nhiều giấc mộng

Nhiều sóng biển lắm chân trời

Mang tấm áo cánh chuồn rách tơi

Chạy căng phồng gió ngược

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Ở đó, những đứa trẻ chân trần chạy hồn nhiên trên cát với những trò chơi thơ dại,

tung bọt sóng cười vang trên mặt biển.

Giống như đất liền, biển là không gian sống, không gian văn hóa của biết bao

người. Khi xa biển, chắc chắn trong lòng người sẽ không khỏi bâng khuâng, bởi đơn giản,

biển đã trở thành quê hương. Trong không gian sống ấy, biển hiện thân cho nỗi nhớ, là tình

yêu vô bờ của chàng trai đối với người con gái nước mặn:

Bây giờ trên ngực em muối trắng đọng thành dòng

Sữa của biển mùi oi nồng âu yếm

Tay em mở muôn ngàn trang sóng

Cát dàng dàng… anh là cát của em thôi

(Những người đi tới biển)

45

Câu ca dao mang vị oi nồng của biển đã chứng minh cho tình yêu đôi lứa: Ngó ra

thấy cát dàng dàng/ cát bao nhiêu hạt dạ em thương chàng bấy nhiêu.

Biển gắn bó với mỗi người, mỗi nhà. Biển trở thành một đối tượng thân thuộc, để tác giả

cất lên tiếng gọi trìu mến. Đặc biệt là khi kết hợp với từ ơi:

Biển ơi

Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ

Những đường cong chói sáng

Tự xóa bỏ mình…

Hay chỉ là một tiếng gọi, một câu nói thân thương:

Biển ơi biển ơi biển ơi…

Như vậy, Thanh Thảo đã viết về biển bằng tất cả tình cảm của mình. Biển hiện lên trong

thơ ông tự nhiên, gần gũi nhất. Có lẽ đây vừa là cái duyên, vừa là cái nợ của ông với mảnh

đất vùng đất duyên hải này, mảnh đất Quảng Ngãi quê hương ông.

2.2.2.Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người

Biển thân thuộc, gần gũi là thế nhưng trong sâu thẳm nỗi lòng của những người con

đất Việt, biển còn là hiện thân của bao nỗi khó khăn, nhọc nhằn ở đời. Trong kí ức người

Việt hiện lên hình ảnh của một vùng quê đầy cơ cực. Ở nơi đó, những nóc nhà mất hút:

Người già nhớ vùng quê hao gầy

Đất vặn xoắn giữa hai triền núi biển

Bão phủ đầu người ở xa mới đến

Mưa sầm sập mưa lê thê giận dỗi oán hờn

Đá lở rền vang vùi giấc ngủ

Những nóc nhà mất hút

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Đó còn là nơi mà sự sống được đánh đổi bằng cả tính mạng. Con người vật lộn

từng ngày với thiên nhiên. Ở nơi ấy dấu ấn của chiến tranh còn đậm nét, những trái mìn

còn nổ sau chiến tranh:

Mấy gàu mồ hôi đổi một củ khoai

Máu đỏ thẫm lấn từng thước cát

Trẻ lên bảy lên năm đã mang nặng đầy kí ức

Những trái mìn còn nổ sau chiến tranh

(Những người đi tới biển)

46

Những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, đồng bào ta hướng về biển với nỗi

khao khát muối cháy bỏng. Với một quốc gia biển nhiều hơn đất liền như nước ta, thiếu

muối trở thành một nỗi đau không gì bù đắp được. Khi đồng bào ta chia nhau từng hạt

muối cắn đôi, biển đã hiện lên như một nỗi khao khát:

Anh đã đi qua heo hút những buôn làng

Trẻ con khát muối hơn chúng mình khát nước

Những người già trong buổi chiều tắt lửa

Bàn tay khô gầy vốc từng nắm tàn tro

Nhìn mắt họ xói qua những dãy núi mây mù…

(Những người đi tới biển)

Cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng nhưng đầy gian khổ của nhân dân ta cũng

được biển chứng kiến tất cả. Đó là hình ảnh của làng Tư Cung, nơi diễn ra vụ thảm sát 504

thường dân vô tội của đế quốc Mỹ vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Bọn giặc xả súng vào

bất cứ cái gì chuyển động, đốt sạch những gì đứng yên. Ở nơi đó, những người mẹ khó

nhọc, rặn đẻ trong đường hầm. Phút giây chào đời của những đứa bé cũng không được

bình yên:

Giờ đây

Mẹ rặn đẻ trong đường hầm

Chìm sâu dưới nền nhà mười thước

Biển thắt ruột trời xanh nín thở

Vách hầm trán mẹ mướt mồ hôi

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Nơi đó, không cuộc đời nào còn yên tĩnh, những tâm hồn ngây thơ bị vùi lấp:

Cùng với thủy triều

Nơi đây tiếp liền trảng cát

Đã vùi sâu những cặp mắt trong veo…

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Những ngọn sóng trắng xóa, ngày đêm vỗ bờ không ngừng còn làm cho lòng mẹ

“dậy sóng”. Trong trường ca Chân đất, Thanh Thảo ví mỗi làn sóng như một dải khăn

tang. Nhìn thấy biển với những con sóng xô bờ, lòng người mẹ lại quặn thắt. Nhìn về biển

để nhận rõ hơn biết bao mất mát, hy sinh của dân tộc. Nhìn về biển để chúng ta thấy nỗi

đau ấy vẫn chưa nguôi. Bao chua sót, mất mát, hy sinh đều đọng lại trên mái đầu của mẹ:

47

Con nào biết mẹ bạc đầu vì biển

Mỗi làn sóng như một dải khăn tang

Con nào biết mẹ đau vì biển

Đau vì thiếu biển

Đau vì thừa biển

Đau vì biển thiếu con mình

Đau vì biển thừa hy sinh

Ở nơi đó, cuộc sống không hề dễ dàng. Những đứa trẻ gầy nhom, phơi ra từng dẻ

xương sườn. Dù hòa bình nhưng chứng tích chiến tranh thì còn mãi: Những mộ gió những

hình nhân phơ phất... Những phận người bó chiếu giữa mênh mông (Chân đất). Nhưng

trong không gian ấy, con người vẫn kiên nhẫn vươn lên dù khó khăn, dù vất vả:

Gạt ra ngoài đám bọt bèo giặc giã

Đối đầu biển mênh mông cuồng nộ

Đất lầm lì chuyển động trong đêm

Những cây giá toàn thân hóa đá

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Chiến tranh đã khiến bao gia đình ly tán, bao người khốn khổ. Biển với không gian rộng

lớn của mình dường như không chứa hết được những khó khăn, nhọc nhằn ấy, để rồi từ

đây không cuộc đời nào yên nghỉ/ muối mặn đắng mặt trời gay gắt. Biển trong trường ca

Thanh Thảo không còn vẻ bình yên nữa mà đã “dậy sóng”. Biển hiện thân cho biết bao nỗi

khó khăn, vất vả ở đời nhưng nhờ có những “thử thách” đó mà con người càng ngày càng

vững vàng hơn. Đứng trước những thử thách đó, con người càng phải cố gắng vượt qua, dù

phía trước chân trời mù mịt:

Bãi cát bãi cát dài

Dù phía trước chân trời mù mịt

Dù bước chân dẫn về cõi chết

Không thể không đi

(Đêm trên cát)

2.2.3. Biển- triết lý về sức mạnh của nhân dân

Biển luôn có trong tâm thức của mỗi người, mỗi nhà với nhiều tình cảm. Tuy

nhiên, biển trong trường ca Thanh Thảo không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đó mà biển

trong trường ca của ông còn tiềm ẩn sức mạnh, ý chí của nhân dân.

48

2.2.3.1. Hành trình đi tới biển

“Theo ý kiến của Chu Văn Sơn: Trong các nhà thơ kháng chiến chống Mỹ, Thu Bồn là

người hùng về trường ca với số lượng lớn và sức vạm vỡ của nó. Nhưng Thanh Thảo mới

thực là ông vua trường ca. Nhìn chung, các sáng tác của ông giai đoạn này vẫn hướng về

vùng hiện thực mà văn học cả thời đại quan tâm: hiện thực chiến tranh cùng với những vấn

đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Tuy nhiên, điều mà Thanh Thảo không nhoà lẫn với bất

cứ một nhà thơ nào là cách phản ánh hiện thực với một cái nhìn, một giọng điệu rất riêng.

Là một người nghĩa khí, trung thực, yêu thiết tha quê hương đất nước và quý trọng vô ngần

mạng sống của nhân dân, của đồng đội mình, Thanh Thảo đã chọn cho mình một giọng thơ

trữ tình đằm thắm, giàu “chất thực” và “chất nghĩ” (Chu Văn Sơn). Thơ Thanh Thảo giàu

chất suy tư, chất triết lí và rất trí tuệ. Nói như Thiếu Mai: Thơ Thanh Thảo có dáng riêng.

Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng ấy… Thơ Thanh Thảo có khả năng gợi dậy

những suy nghĩ của người đọc bởi vì thơ ấy là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí

tuệ” [79].

Đi dọc theo các sáng tác của nhà thơ thì câu nhận xét trên hoàn toàn có lý. Không phải

ngẫu nhiên mà ở trường ca đầu tiên tác giả lại đặt tên là Những người đi tới biển. Phải hiểu

và yêu biển nhà thơ mới có được sự so sánh đầy ý nghĩa khi nói về hành trình đi tới thành

công của những người lính trong kháng chiến chống Mĩ cũng giống như hành trình tới

biển.

Hành trình đi tới biển là cuộc hành trình đầy cam go và mất mát. Những người lính ra đi

khi mái đầu còn xanh, trải qua những năm tháng khốc liệt nhất cùng núi rừng, về tới biển

là về với chiến thắng, cất cao lên khúc ca khải hoàn:

Giờ anh về với biển

Ngọn sóng gào từ xa bỗng phủ trắng chân mình

Anh ngấm muối toàn thân

Anh dầm trong gió dầm trong nắng

Câu ca dao vị mùa thu đầm đậm

Những con còng vẽ ngoằn ngèo trên cát

Những dấu hiệu hồn nhiên gửi đến đất trời.

(Những người đi tới biển)

49

Thế nhưng, biển ồn ào nhưng cũng có lúc lặng lẽ, biển dữ dội nhưng cũng có lúc dịu êm,

về tới biển cũng là lúc chúng ta lặng hơn một chút để nhìn rõ sự mất mát hy sinh. Hòa

mình vào biển cả, con người cảm nhận được sự hy sinh của biết bao thế hệ:

Nếu không có các anh

Ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng

Hóa những chiếc neo cắm sâu lòng biển

Đất nước này sẽ trôi dạt về đâu.

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Cuộc hành trình đã có điểm dừng nhưng chưa hẳn là kết thúc. Về với biển chưa phải là

hoàn toàn yên nghỉ mà đó mới chỉ là nơi bắt đầu:

Những dòng sông băng qua những vết thương

Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ

Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió

Những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa

(Những người đi tới biển)

Vẫn viết về đề tài chiến tranh nhưng trường ca Thanh Thảo đã bớt miêu tả không khí hào

hùng của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca mà đi vào những số phận, những con người

riêng. Bên cạnh đó đào sâu sự kiện bằng giọng điệu suy tư, triết lý. Đây cũng là giọng điệu

chung của nền văn học hậu chiến sau 1975. Qua hình ảnh “những người đi tới biển” nhà

thơ xây dựng nên những con người tự ý thức- tự ý thức về bản thân về Tổ quốc, về nhiệm

vụ trước mắt. Những người đi tới biển cũng là một nhan đề đậm chất triết lý. Đi tới biển là

con đường đi đến chiến thắng, là ngày ca lên khúc ca khải hoàn. Nhưng khi đã về đến đích

rồi, những người đi tới biển chưa dừng lại. Bởi tới biển chưa phải là nới kết thúc. Chiến

tranh đã chấm dứt, hòa bình đã về nhưng vẫn còn đó nhiều nỗi lo. Còn đó nhiều khó khăn,

nhiều trở ngại mới. Chúng mang trong mình một dạng thức mới, một hình hài mới mà

người lính từ rừng về biển phải tỉnh táo đương đầu. “Những dòng sông băng qua những vết

thương/ về với biển đâu phải tìm yên nghỉ”. Với những câu thơ đậm tính triết luận, nhà

thơ Thanh Thảo làm cho người đọc trường ca của ông phải suy nghĩ nhiều hơn. Khúc vĩ

thanh Tới biển tưởng chừng là khúc ca cuối, kết thúc bản trường ca, nhưng nó lại mở ra

một chiều kích mới, bao la, rộng lớn như biển cả.

Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình về với nhân dân, hòa vào nhân dân trong một

hành trình lịch sử (vốn khởi sự từ quá khứ và còn tiếp diễn đến tương lai). Những người đó

50

là một thế hệ mới, cùng thế hệ với nhà thơ, đi tới một không gian, tươi mới hơn, rộng mở

hơn và chắc chắn có nhiều lạ lẫm, khó khăn hơn, nhiều thử thách mới… Theo nhà nghiên

cứu Lại Nguyên Ân “đi tới” ở đây là một hành động tự ý thức- tự ý thức bằng một hành

động lịch sử của cả thế hệ: đem xương máu bảo vệ Tổ quốc [6,20].

Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình hòa với nhân dân. Đó là chủ đề xuyên suốt

mà nhà thơ Thanh Thảo nhắc đến bằng những hình ảnh của biển cả trong nhiều tác phẩm:

Những người đi tới biển: Hạt muối nhỏ ngây thơ thuần khiết

Nó sung sướng được hòa trong sóng nước

Trẻ con ở Sơn Mỹ: Tôi lại bắt gặp chân trời ngay trên cát

Cả người tôi hòa trong biển vô cùng

Những nghĩa sĩ Cần Giuộc: Đứng trước người tôi chỉ là đứa trẻ

Mỉm cười dút dát

Như e sợ ngọn sóng kia vùi dập

Cho tới khi tôi hòa nhập cùng người...

Đứng trước biển con người như đối mặt với chính cuộc đời của mình. Có một chút e dè, sợ

hãi nhưng người lính trong cuộc hành trình về với biển sẵn sàng dấn thân vào biển đời như

hạt muối hòa trong sóng nước. Hạt muối nhỏ nhoi nhưng không hề đơn độc, không hề vô

giá trị:

Khi đó tôi thành hạt muối nhỏ nhoi

Đọng mặt trời tan trong nước

Đi lại dễ dàng giữa hai bờ sống chết

Lấp lánh lặng im ca hát mặn mòi…

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Những hạt muối ngây thơ thuần khiết làm cho cuộc sống thêm đủ đầy. Hạt muối nhỏ cũng

góp phần khiến cho biển mặn. Con người cũng như vậy, dấn thân vào biển đời với một tinh

thần sẵn sàng cống hiến, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Điều đó đã khiến cho vẻ đẹp của

người lính trong hành trình đi tới biển bỗng rạng rỡ hẳn lên.

Tìm về với biển để được tan mình ra như con sóng vô minh, để được làm chính con người

mình: tự do, tự tại với đất trời, với biển bao la. Sóng biển cứ mãi xô bờ, vòng tuần hoàn ấy

không bao giờ ngừng lại, tới biển rồi không phải là đến lúc nghỉ ngơi, bởi cuộc sống luôn

luôn tươi mới, vẫy gọi ta không ngừng:

Khi triều lên sóng gào giọng khàn khàn

51

Trên bãi cát những con còng hoảng sợ

Đó là giờ lao xao hàng dương non

Bức thành xanh ngày mai ngăn gió cát

Hát lên nhờ gió cát

Sóng đất chìm từng đợt lấn ra khơi.

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Khí chất của dải đất miền Trung với gió, cát, bão, lốc; với cái gầm gào nhưng có lúc lặng

lẽ của biển làm cho thơ Thanh Thảo mang một vị rất riêng. Hành trình đi tới biển là một

cuộc hành trình dài đầy triết lý. Trường ca của nhà thơ Thanh Thảo vì vậy cũng đậm chất

triết lý. Và điều đó có thể thâu tóm lại trong hai câu thơ: Đừng nghĩ nước chảy xuôi là

buông trôi tất cả/ mỗi dòng sông đều vật vã đến bạc đầu. Quả đúng là như vậy, bởi cuộc

sống là không ngừng và những người đi tới biển không dừng lại ở đó.

2.2.3.2. Sóng- sức mạnh bùng nổ của nhân dân

Biển luôn thể hiện tâm trạng của mình bằng ngọn sóng. Nhà thơ Thanh Thảo cũng nêu bật

lên sức mạnh của quần chúng nhân dân bằng con sóng. Con sóng không hề đơn độc mà có

những con sóng, những đợt sóng, muôn đợt sóng, ngàn con sóng, lớp lớp sóng… Những

con sóng ấy ngày ngày vỗ bờ, không bao giờ ngơi nghỉ ví như sức mạnh của nhân dân. Sức

mạnh ấy cũng không bao giờ ngừng: Những cuộc đời như sóng/ lớp lớp lặng chìm lớp lớp

trào lên hay lớp người sau sẽ đến/ những ngọn sóng trong đêm. Từ những anh hùng từ

thuở xa xưa như Nguyễn Trung Trực, Cao Bá Quát, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đến

những người dân đi kháng chiến với tên gọi anh Sáu Như, anh Tư Tròn, anh Ba Tốt, cậu

Tám Hùng; những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những du kích Ba Tơ… được Thanh Thảo

dựng lên như ngàn ngàn lớp sóng, nối tiếp nhau đến không ngừng. Lớp người này ngã

xuống đã có lớp người khác đứng lên, chiến đấu cho quê hương, Tổ quốc:

Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại

Đã cháy khô tới gọt cuối cùng

Mà trong như thể trong nguồn

Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi

Dò tận đáy cũng xong thôi

Nhưng vô ích. Sóng đời nào yên

Ngàn con sóng chết cuối đêm

Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đông

52

Đẩy thuyền lật thuyền dễ không

Mát mềm mài đá đá mòn thấu xương

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Sóng còn biểu hiện cho sức mạnh bùng nổ dữ dội của nhân dân trước kẻ thù xâm lược,

giống như những ngọn sóng thần có khả năng cuốn trôi tất cả: bao nhiêu rác rưởi/ sóng

thần cuốn phăng. Khi viết về những con sóng, nhà thơ Thanh Thảo đã gắn lên mình con

sóng những tính chất đầy sáng tạo. Đó là những ngọn sóng thiếu nữ, ngọn sóng bình minh,

sóng đời, sóng đen hào hển, ngọn sóng mặt trời… Những ngọn sóng đó là những ngọn

sóng của lòng quyết tâm, ý chí nung nấu, sức mạnh thiêu đốt kẻ thù của quần chúng nhân

dân:

Không ngập ngừng

Từ biển và từ núi

Những ngọn sóng mặt trời

Những ngọn sóng cuộn lên bờ đời sống

Chói chang ánh mặt trời

(Bùng nổ mùa xuân)

Khi biển đã nhập vào tâm thức thì cho dù ở đâu, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, hễ khi thơ tuôn ra

là tất có hơi hớm của sóng, gió, bão, giông và cả loài hoa vùng biển. Lời tâm sự của cụ Đồ

Chiểu với thầy Kỳ Nhân Sư rực sắc hoa xương rồng trên cát: Một đời thầy cay cực và kiên

trì chiến đấu rút ra một điều như cây xương rồng mọc trên cát người ta có thể sống được

nơi tưởng chừng cạn nước mà vẫn lặng lẽ nở hoa. Gió cuốn những bông hoa trên cát gió

cuốn chúng ta chuyến đi sẽ dài và sóng biển âm vang như không hề tham dự vào số phận

con người (Trò chuyện với nhân vật của mình).

Trong trường ca Chân đất nhà thơ mới hoàn thành trong thời gian gần đây (năm 2011), vấn

đề biển đảo được đề cập đến một cách sâu sắc và toàn diện. Biển, đảo là nhân dân, là Tổ

quốc, vì vậy giữ gìn biển đảo quê hương là một nhiệm vụ khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hai

câu thơ:

Không thể sống thiếu Hoàng Sa

Không thể sống thiếu biển

(Chân đất)

53

như một lời tuyên ngôn, là kim chỉ nam cho biết bao trái tim yêu nước Việt Nam đi đúng

hướng. Nhà thơ cũng đưa ra những suy nghĩ của mình về vấn đề biển đảo bằng những câu

thơ lên án thói “đạo đức giả” một cách mạnh mẽ:

Anh yêu biển mà không biết bơi

Anh yêu biển mà đứng trên bờ

(Chân đất)

Bằng duyên nợ với biển, nhà thơ Thanh Thảo đã viết nên những trang trường ca đầy sức

sống và mang một phong cách rất riêng. Biển đối với ông là quê hương nguồn cội với

nhiều sóng biển, lắm chân trời. Biển còn hiện lên trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên, qua tình

mẫu tử thiêng liêng và cả tình yêu đôi lứa. Biển còn là hiện thân của biết bao nỗi khó khăn,

cực khổ của cuộc đời. Nhắc đến biển, ta có cảm giác vừa thương vừa đau, bởi nơi đó thấm

đẫm bao máu xương và nước mắt của đồng bào. Tuy nhiên nhà thơ Thanh Thảo viết về

biển không phải bằng những dòng thơ bi lụy, kể lể dài dòng mà ánh lên niềm tin về một

tương lai tốt đẹp. Những người lính tiến ra biển, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Đó là

cuộc hành trình hướng tới quảng đại quần chúng nhân dân. Biển và các hình ảnh liên quan

đến biển như gió, sóng, cát... còn biểu trưng cho sức mạnh của nhân dân. Đó là một sức

mạnh to lớn không gì có thể ngăn cản được.

2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh

2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính

tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc

Chặng đường sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh đi theo hai nhiệm vụ cơ bản, một là các đề

tài viết về nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và hai là đề tài biển đảo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ

quốc. Hai đề tài ấy xuất hiện xuyên suốt trong các sáng tác của nhà thơ. Hiểu như vậy có

nghĩa, Trường ca Biển chính là mạch cảm hứng tiếp theo từ trường ca Đường tới thành

phố. Từ con đường giải phóng dân tộc, người lính tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ

chủ quyền biển đảo của dân tộc.

Là một người con của vùng đất trung du nhưng biển đảo vẫn canh cánh trong tâm trí nhà

thơ Hữu Thỉnh. Theo lời kể của nhà thơ, ông đã từng đi qua nhiều vùng biển khác nhau

như biển Quảng Bình, biển Sầm Sơn, các vùng biển ở phía Đông Bắc… Những năm 1980,

1981 ông đã sống ở Bạch Long Vĩ và các đảo ở Quảng Ninh. Khoảng thời gian sống và

54

giao lưu với các chiến sĩ bộ đội ở Bạch Long Vĩ để lại nhiều cảm hứng trong lòng nhà thơ

để rồi nhiều bài thơ về biển đảo ra đời, đầy ắp hương vị biển cả.

Trường ca là một thể loại Hữu Thỉnh viết rất tốt. Nếu Thanh Thảo, Thu Bồn với số lượng

trường ca đồ sộ được độc giả đánh giá cao thì trường ca của Hữu Thỉnh cũng có một vị trí

rất riêng. “Hữu Thỉnh đã thành công trong việc khái quát tổng hợp về một giai đoạn lịch

sử, về nhiều mặt đời sống, về thế giới khách quan rộng lớn và chiều sâu tâm lý của con

người… Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp sáng

tác của ông. Chính những bản trường ca này đã khẳng định tư duy khái quát, đồng thời

cũng nói lên được tầm vóc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở cái tôi cá nhân mà còn được

thể hiện trong cái chung của cộng đồng, của cả một dân tộc” [20,65].

Nếu trường ca Đường tới thành phố là bức tranh tổng quát về con đường chiến đấu giành

độc lập của dân tộc với bao mất mát hy sinh thì ở Trường ca Biển, những trăn trở của

người lính được Hữu Thỉnh nâng lên thêm một bậc, nâng lên ở tầng triết lý. Người lính đối

thoại với biển cũng chính là đối thoại với bản thân mình. Chặng đường khó khăn còn ở

phía trước. Dù đất nước đã hòa bình nhưng không vì vậy mà người lính được phép buông

xuôi. “Đó là một bản trường ca gần 1000 câu lại một lần nữa được Hữu Thỉnh dồn sức thổi

vào trong đó những tâm trạng, những suy nghĩ, những dự cảm, những day dứt khôn nguôi

của chính nhà thơ về cuộc sống, về hạnh phúc, về thân phận con người… trước cuộc đời

đầy vất vả, lo toan, với những cám dỗ, bươn trải hằng ngày của cuộc sống thời bình nhưng

chắc gì đã ít khốc liệt hơn những năm tháng chiến tranh” [20,70].

Ngay từ những năm trước giải phóng, vấn đề biển đảo luôn thường trực trong những sáng

tác của ông. Trong trường ca Đường tới thành phố, ở chương cuối, khúc vĩ thanh Hồi âm

nhà thơ đã viết những vấn đề rất nóng về biển đảo. Tiếp sau đó, với thi pháp đối thoại với

biển khá độc đáo, nhà thơ đã viết nên tác phẩm Trường ca Biển mang phong cách rất riêng,

rất Hữu Thỉnh. Trong những vấn đề thuộc đội ngũ, có nhược điểm căn tính của người Việt

là nhạt biển, xa rừng như nhà văn hóa TS Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra. Và Hữu Thỉnh là nhà

thơ nhiều âu lo về căn tính ấy, ông như các sĩ phu tiền nhân, lo trước cái lo của thiên hạ;

ông trở thành tham mưu trưởng trên mặt trận văn học. Chiến lược của ông là quê hương

hóa biển khơi, kéo biển gần lại với mỗi con người [77]. Cùng với sự xuất hiện của sóng,

biển và các hình ảnh liên quan đến biển bờ như gió, cát, bão, lốc… khiến cho những trang

trường ca của ông mang phong vị mằn mặn của gió nắng, dạt dào của sóng vỗ và mênh

mông tha thiết, có lúc lắng dịu của biển cả.

55

2.3.2. Biển- một không gian sống và chiến đấu mới

Sau khi đánh đuổi đế quốc Mỹ khỏi đất nước, dân tộc ta vẫn còn gặp muôn vàn khó khăn.

Mặc dù Bắc – Nam sum họp một nhà nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với tiếng súng ở hai

đầu biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam. Người lính biển, người lính đảo dù còn lạ

lẫm nhưng đã chứng tỏ được ý chí sức mạnh của mình trước thiên nhiên, và hơn hết là

trước kẻ thù. Điểm qua kho tàng thơ ca của dân tộc ta, đề tài viết về người lính bảo vệ biên

cương có khá nhiều nhưng đề tài viết về người lính bảo vệ biển đảo dường như rất ít.

Trường ca Biển đã phác họa chân dung người lính biển, người lính đảo một cách chân thực

nhất.

Mấy chục năm chiến đấu với kẻ thù, có lẽ người lính đã đi hết tất cả ngọn đồi, con dốc, đã

vượt dãy Trường Sơn, đã vượt qua biết bao cánh rừng… Dù rừng sâu, núi thẳm nhưng họ

đều đã nếm trải và vượt qua tất cả. Họ coi núi rừng thân thuộc như ở nhà, thậm chí khi xa

cái không gian ấy thì lại nhớ. Nhà thơ Quang Dũng đã từng thi vị:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi…

(Tây Tiến)

Thế nhưng với biển thì lại hoàn toàn khác. Với biển, đây là lần gặp mặt đầu tiên. Cả một

chặng đường dài đôi chân đã quen với trèo đèo, lội suối, đã quen băng rừng, chạm mình

với cây lá thì với biển, người lính trở nên e dè. Trước mắt không thấy gì khác ngoài bọt

tung trắng xóa, sóng vỗ ì ầm, mênh mông sóng nước đến tận chân trời. Cái lần đầu tiên ấy

không khỏi e dè: Hôm nay tôi thấy biển lần đầu.

Đối với người lính, cái bao la rợn ngợp của biển làm cho họ không khỏi cảm thấy bất an.

Những kinh nghiệm họ có được ở rừng núi, ở đất liền đều phải bỏ lại hết ở trên bờ. Đến

với biển họ hoàn toàn “trắng tay”, hoàn toàn lạ lẫm. Và họ phải học lại tất cả. Nhưng để có

kinh nghiệm sống ở biển, những người lính đã phải học từ sự mất mát, hy sinh của người

đi trước:

Cấm đi câu đi tắm một mình

Xuống nước phải mang theo dao găm

Lũ cá he hay bổ từ trên xuống

Cấm bơi ra miệng vực

56

Ở đấy nhiều sóng ngầm nhiều cá mập

Và nếu chẳng may

Nhất thiết phải bơi đứng

Cá mập không quen săn mồi thẳng

Không được lệnh quân y

Cấm ăn một thứ gì lạ

(Trường ca Biển)

Có khi họ phải trả những cái giá quá đắt. Đó là sự hy sinh đột ngột của đồng đội bởi những

hiểm họa không lường trước được từ biển:

Bạn tôi đang thổi sáo sau hầm

Bỗng ngừng bặt

Giữa chừng réo rắt

Chúng tôi chạy ra

Chấp chới cánh tay ngoài năm sải nước

Tiểu đội xếp hàng chuyển gạo

Sóng lườn quanh thân

Bỗng

Một tiếng thét

Một vũng máu

Một khoảng trống

Tôi gào lên

Im ắng rợn người

Tìm qua sóng

Gặp đàn cá mập

Rong rêu nhiều

Mà mất bạn

Bạn ơi!

(Trường ca biển)

Cái âm điệu dứt khoát của câu thơ: bỗng - một tiếng thét - một vũng máu nghe thật bàng

hoàng. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để diễn tả hết sự khốc liệt ở không gian sống và chiến

đấu ấy! Và khi biển động, bão tố nổi lên, sức mạnh của thiên nhiên không khỏi khiến cho

người lính rợn ngợp:

57

Bão vò cây gào rít điên cuồng

Tóc của bão là lá cây rách tướp

Tay của bão là sóng thần rợn ngợp

Cả đất trời say sóng ở Trường Sa

(Trường ca Biển)

Chống chọi với những hiểm nguy hữu hình từ biển dù sao còn dễ chịu hơn khi phải đối mặt

với những hiểm nguy vô hình. Đó chính là không gian trống trải, là sự đơn độc bởi ngoài

mây trời và biển, người lính chẳng còn thấy gì khác:

Đảo nhỏ quá nói một câu là hết

Có gì đâu chỉ cát với chim thôi

Cát và chim và thêm nữa chúng tôi

Âm điệu ì oạp của những con sóng và sự cô đơn lạ lẫm ở môi trường mới càng dễ làm cho

người lính đảo chán nản và không tránh khỏi những giây phút bấp bênh giữa ý chí và khao

khát cá nhân. Người lính đảo phải tự tạo cho mình một thứ âm thanh nào đó đơn giản chỉ

để nghe cho bớt trống trải, cô đơn:

Đôi khi phải gõ vào một cái gì đó

Để biết đảo có người

Đôi khi phải hát ê a vô nghĩa lý

Nhắc biển ta còn đây

Đôi khi nghe tiếng sét trong đài

Thấy trời đang gõ cửa

Đôi khi tối đèn tắt lửa

Ta bỗng dưng thành hàng xóm của ta.

(Trường ca Biển)

Và hơn hết là nỗi nhớ nhà. Đến với biển người lính phải tạm thời rời xa những gì thân

thuộc của mình. So với sống ở rừng thì việc sống ở biển vắng lặng hơn rất nhiều. Không

gian ấy dễ khiến cho người lính cảm thấy tủi thân, khiến cho nỗi nhớ nhà trong họ day dứt

khôn nguôi.

Lần đầu đến với biển, tất cả âm thanh, màu sắc lẫn những âm điệu từ biển khiến cho người

lính e dè. Họ là những người lính thời bình, tiếp tục nhiệm vụ sau nhiều năm chiến đấu ở

rừng. Biển thì mênh mông sóng nước mà đảo lại quá bé nhỏ. Đôi chân của những người

lính đã quen với hạt đất thì họ lại càng xa lạ với không gian này. Tuy vậy, đây vẫn là môi

58

trường sống và chiến đấu của họ. Dẫu môi trường sống và chiến đấu này đầy xa lạ và hiểm

nguy nhưng những người lính biển, người lính đảo vẫn không đầu hàng, vẫn kiên quyết

bám biển. Dẫu tình cảm cá nhân xâm chiếm thì họ vẫn cố gắng đè nén lại để tiếp tục nhiệm

vụ thiêng liêng của mình. Đối diện với biển, con người như đối diện với chính lòng mình.

Phải vượt qua những khao khát thường nhật họ mới có thể vững vàng trước biển được.

2.3.3. Ý chí người lính đảo

Người lính sau mấy chục năm cầm súng chiến đấu với kẻ thù giải phóng dân tộc lại tiếp

tục cầm súng với nhiệm vụ canh giữ biển đảo. Nhưng môi trường sống và chiến đấu ở đây

quá đơn điệu khiến cho người lính cảm thấy nản lòng. Trong họ, khoảng trống của những

khát khao, mong muốn một cuộc sống thường nhật với gia đình lúc nào cũng chực len lỏi

vào tâm trí. Chỉ cần một chút mềm lòng, cái khoảng trống lạnh tanh, vô nghĩa ấy sẽ đè bẹp

ý chí người lính đảo. Nhưng họ, những người lính đảo đã không đầu hàng. Tinh thần trách

nhiệm với quê hương, Tổ quốc đã nâng đỡ họ, khiến cho họ vững vàng trước mọi cám dỗ.

Và phải bản lĩnh và nghị lực lắm, họ mới làm được như thế. Khi xã hội đương thời đầy rẫy

những con người hám danh, chạy theo phù phiếm thì những phẩm chất ấy của người lính

đảo lại càng đáng khâm phục và trân trọng:

Chúng tôi là lính đảo thời bình

Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất

Để chống lại cái khoảng trống kia

Cái khoảng trống chực len vào đồng đội

Chực len vào giữa bạn và tôi

Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa

Có ngay trong chính bản thân mình

(Trường ca Biển)

Những người lính nghiêm mình với nhiệm vụ canh giữ biển đảo quê hương. Trong họ trào

lên bao nỗi niềm tâm sự nhưng họ cố nén lại. Phải có một tình yêu quê hương đất nước dạt

dào thì người lính biển đảo mới vững vàng đến như vậy.

Để chống chọi với cái khoảng trống ấy, người lính đảo đã hướng suy nghĩ của mình vào

những kỷ niệm, những tình cảm tốt đẹp của mình với biển đảo. Ở phía biển, người lính vẫn

còn đó bao nhiêu là kỷ niệm, có khi, chỉ đơn giản là tiếng bà con gọi cái tên ngày bé của

mình:

Anh đã khóc chỉ vì không sao cả

59

Nghe bà con gọi đích tên anh

Cái tên trèo dừa đánh đu với gió

Cái tên đuổi còng mí biển hát lang thang

(Đường tới thành phố)

Hơn nữa trên mỗi đảo đá, trên mỗi doi cát đẫm sóng ấy lại có một cột mốc chủ quyền vùng

trời, vùng biển của chúng ta. Ở đó còn có những người lính ngã xuống vì đất nước, vì dân

tộc:

Chúng tôi đặt các anh bên cạnh cột mốc chủ quyền

Gió và gió

Xóa đi phần mộ các anh nằm

Chúng tôi lại cùng nhau bới cát

Chôn các anh thêm lần nữa.

(Trường ca Biển)

Biển đã hiện hữu từ rất lâu trong tâm thức người lính. Đó là không gian của tự do, của

ngày toàn thắng của dân tộc. Những năm tháng chiến đấu ở rừng, người lính thèm biết bao

nhiêu cái khoảng chân trời thênh thang trên biển, để được vẫy vùng, được an nhiên, tự do,

tự tại:

Ta sẽ đùa nhau trên thềm cát

Chạy như điên cho bõ lúc ở rừng

Cho bõ lúc nén cơn ho trinh sát

Ta nói cười cuối biển cũng nghe ta

(Đường tới thành phố)

Canh giữ biển đảo, người lính đã ý thức được sự quan trọng của biển. Mất đi chủ quyền

biển, đảo, tức là đã mất đi một phần máu thịt của mình. Trong Đường tới thành phố, người

lính thà hy sinh tính mạng để bảo vệ từng tấc đất phù sa, dù đó chỉ là một gốc sim cằn, bởi

họ hiểu được, khi mất một gốc sim đó quân thù sẽ có đà xông lên chiếm lấy đất nước ta:

Gốc sim cằn nếu kẻ thù chiếm được

Chúng làm đà dũi lấy cánh rừng le

...

Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?

60

Từng tấc đất, dù nhỏ cũng là Tổ quốc của ta. Và như vậy, canh giữ từng cột mốc, từng doi

cát biển quê hương tức là những người lính đang giữ gìn Tổ quốc cho tương lai con Hồng

cháu Lạc sau này.

Biển rình rập bao nguy hiểm, lao ra biển là cầm chắc cái chết, nhưng những người lính sẵn

sàng lao ra biển để quay trở về với Tổ quốc. Đối với những người lính, thà chết còn hơn

sống xa Tổ quốc yêu thương. Phút giây sinh tử ấy đã nói lên hết tất cả bản lĩnh và nghị lực

của người lính biển, người lính đảo:

Con bỗng nhận ra không phải lá cờ ta

Không phải mẹ

Không có cái chết nào nhục nhã hơn là sống không phải mẹ

Bao hiểm nguy con lại xin bắt đầu

Con xin lại bắt đầu bằng lời ru trong suốt

Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

Con lại lao ra biển

Một chiếc phao thoi thóp bơi đi

(Trường ca Biển)

Phải giữ lấy biển, đảo quê hương. Đó là nhiệm vụ khẩn thiết hơn bao giờ hết để cho đất

nước này vươn mãi ra biển lớn:

Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ

Ghì lấy từng con tôm con tép

Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn

Cùng tìm về cuối đất

Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau

(Đường tới thành phố)

Người lính biển, người lính đảo đêm ngày giáp mặt với sóng nước, canh giữ biển trời. Họ

cũng có giây phút khát khao được đoàn tụ gia đình, cùng vợ nuôi con khôn lớn, nhưng

nhiệm vụ mà họ đang gánh vác vượt lên trên hết. Đó là cái tình của người lính đối với biển

đảo quê hương, là ý chí mạnh mẽ, vững chãi như những con sóng ngày đêm xô bờ.

2.3.4. Đối thoại với biển- một cuộc đối thoại của nhân cách sống

Sau mấy chục năm chiến đấu với kẻ thù, giải phóng dân tộc, người lính lại tiếp tục cầm

súng canh giữ biển đảo quê hương. Nhưng khác với rừng, khác với núi, biển hoàn toàn xa

61

lạ. Lần đầu tiên gặp biển, họ không khỏi bối rối, bất an. Đối diện với biển có cảm tưởng

như người lính đang đứng trước một chiếc gương khổng lồ. Nó phản chiếu tất thảy cuộc

đời cũng như những trăn trở, suy tư của người lính.

Cuộc sống thời chiến đã nhào nặn nên những người anh hùng sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

Tình cảm, phẩm chất của họ cao quí và đáng trân trọng. Đó là sự đoàn kết, yêu thương và

đùm bọc, sẵn sàng chia nhau bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Bước ra khỏi cuộc chiến,

những người lính đến với cuộc sống thường ngày cũng bằng chính thái độ đó. Nhưng cuộc

sống đâu hoàn toàn tươi đẹp như họ từng suy nghĩ. Họ tưởng, hòa bình ai cũng sống hạnh

phúc, ai cũng đều là đồng đội, đối xử tốt đẹp với nhau... nhưng họ đã nhầm. Chiến tranh và

hòa bình, cái lằn ranh ấy thì nhỏ mà khoảng cách trong tư tưởng con người lại quá xa xôi:

Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc

Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau

Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế

...

Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa

Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế

(Nghe tiếng cuốc kêu)

Trở về sau chiến tranh, những người lính thấy băn khoăn trước những đổi thay của đời

sống. Và họ cảm thấy lạc lõng trước thời cuộc. Trong họ bao câu hỏi về cuộc sống nhân

sinh ùa về. Phải sống và hành động ra sao trước cuộc đời mới. Liệu con người có vượt qua

được bản ngã của mình để sống đúng là mình, liệu họ có thực sự hạnh phúc, có thỏa mãn

với những gì mình có?... Đó là những câu hỏi rất thực, rất đời, dấy lên nhiều suy nghĩ cho

thế hệ người lính thời bấy giờ cũng như cho cả những con người hôm nay.

Người lính- nhà thơ Thanh Thảo cũng ám ảnh bởi những câu hỏi về hạnh phúc thật sự của

con người. Trong trường ca Khối vuông ru-bích, ông viết: Tôi xoay những ô vuông. Làm

sao tính toán được hạnh phúc? Anh có thể xoay các ô vuông, tìm các màu sắc nhưng anh

hãy chỉ tôi xem: Ô vuông nào cất giữ hạnh phúc, màu sắc nào tượng trưng cho hạnh phúc?

Và những người lính cảm thấy chênh vênh trước cuộc đời. Đối diện với biển cả bao la, bao

trăn trở, khúc mắc được người lính trải lòng ra với biển. Chương Dốc biển gồm những câu

hỏi, câu trả lời đầy tính triết lý. Qua phần đối thoại này, nhiều vấn đề triết lý nhân sinh mở

62

ra, đặc biệt là thái độ của con người nói chung và người lính nói riêng trước trắc trở, bấp

bênh của biển đời.

Hòa bình lập lại, những người lính không chiến đấu với kẻ thù bằng xương bằng thịt mà

phải chiến đấu với thứ kẻ thù vô hình, có khi đó là chính bản thân mình. Hòa bình không

có nghĩa đất nước hoàn toàn bình an, hoàn toàn trong sạch mà còn đó nhiều mối hiểm nguy

do chính bản ngã con người gây ra.

Và biển hỏi anh chỉ đơn giản điều này:

Anh có biết bơi không?

Người lính nói:

Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều huơ tay hãnh tiến

Biển nói:

Họ đang bơi trên số phận của mình

Hãnh tiến, tự mãn với bản thân là những căn bệnh nan y mà những người lính trở về sau

chiến tranh gặp phải. Những lớp người đó, sau thời bình, họ đã xuất hiện mà chúng ta

không hề cảnh giác. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có những câu thơ lên án thói xa hoa mà

quyền lực, đồng tiền đã làm tha hóa đạo đức con người:

Giờ hòa bình tôi vẫn làm thơ-nhặt lá

Không phải đất nước mình còn chiến tranh nghèo khó

Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa

Vì có bọn người thoái hóa

Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá-kẻ làm thơ

(Hốt lá)

“Những khúc đối thoại này đã làm lộ dần từng phần chủ đề tác giả gửi gắm tâm huyết.

Chính ai đó, kẻ hãnh tiến ấy mà tác giả muốn chỉ trích vào những năm cuối thập kỷ 70, đầu

80 đã xuất hiện và họ sẽ thành một lớp người thoái hóa, biến chất mà chúng ta đã không

kịp cảnh giác... Có thể nói đây là những câu thơ độc thoại rất ngắn nhưng hàm súc về

thông tin đời sống và đúc kết thực tiễn mang tính triết học, mở ra những hướng tư duy cho

người đọc tiếp nhận được những chiều không gian biển đảo mà người lính là nhân vật

trung tâm vừa là những chiều không gian suy tư tiếp cận hiện thực cuộc sống” [88].

Đối thoại với biển, người lính như đang tự đối thoại với chính bản ngã của mình. Cuộc

sống là vô tận và người lính phải tự chọn cho mình một con đường đi đúng đắn. Có thể sau

chiến tranh, người lính tự cho phép mình sống buông thả một chút để bù đắp cho chặng

63

đường khó khăn, vất vả đã qua. Làm điều đó, người lính có thể đi đến đích dễ dàng nhưng

những phẩm chất tốt đẹp xây dựng một thời bỗng chốc tiêu tan.

Trước một môi trường sống xa lạ và hoàn toàn mới mẻ, người lính phải bỏ lại hết kinh

nghiệm sống có từ trước để hòa nhập với biển cả. Tình yêu quê hương đất nước, tinh thần

trách nhiệm giúp họ vững vàng hơn trước sóng gió của cuộc đời. Đứng trước biển, trước

những khó khăn, cạm bẫy trước mắt, người lính vẫn không hề lùi bước. Thái độ của họ

trước biển đời đầy chông gai là một tinh thần sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống hiến như-

một – con – tem - người/ dán vào dòng đời. Và đó chính là tư thế kiêu hãnh của người lính

thời bình.

Kết cấu của Trường ca Biển gồm có mười phần: Dốc biển/ Lời sóng 1/ Cát/ Lời sóng 2/ Tự

thuật của người lính/ Lời sóng 3/ Đất này/ Lời sóng 4/ Hóa thạch những dòng sông/ Lời

sóng 5/ Bão biển. Trong mười phần đó, có đến năm phần lời sóng xen kẽ nhau. Cách sắp

xếp như vậy làm cho tác phẩm như một đại dương lớn mà từng lời sóng giống như từng

đợt sóng ngoài khơi xô tới, đều đặn, nhịp nhàng. Hết lớp sóng này xô bờ lại có lớp sóng

khác nối tiếp. Mỗi lớp sóng xô đến lại bắt gặp những nỗi niềm trân quý của nhà thơ với

quê hương, Tổ quốc. Bên cạnh đó, những nỗi niềm, tâm sự của người lính cũng như từng

đợt sóng trào dâng. Đặc biệt ở chương Dốc biển, phần đối thoại với biển với nhiều câu hỏi,

câu trả lời đầy tính triết lý. Có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét, chương Dốc biển là chương

dở nhất của nhà thơ, tuy nhiên, người viết dưới góc độ khảo sát tác phẩm qua hình ảnh

biển cho rằng, đây là một chương quan trọng và cần thiết. Khi con người lần đầu gặp biển

sẽ có nhiều câu hỏi. Biển lạ lẫm nhưng cũng quen thuộc bởi có nguồn nguyên thủy là

nước. Cuộc đối thoại của người lính với biển là cuộc đối thoại của nhân cách sống, của

những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Đối diện với biển đời đầy chông gai, những người lính

phải tôi luyện cho mình một tinh thần, ý chí vững vàng, một trái tim kiên định để có thể

vượt biển an toàn. Đề cao vai trò của biển đảo cũng như muốn truyền ngọn lửa xây dựng

và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có khá nhiều bài thơ viết

về đề tài này. Trong không gian sống và chiến đấu đầy xa lạ và nguy hiểm, những người

lính hiện lên đầy mạnh mẽ và nội lực.

Tiểu kết chương 2: Như vậy, cả ba nhà thơ đều viết về biển cả bằng những tình cảm rất đỗi

chân thành. Biển đối với họ vô cùng gần gũi, thân thuộc. Viết về biển, các nhà thơ đã viết

bằng niềm tự hào của bản thân mình về một quê hương trù phú, giàu mạnh. Tuy vậy, mỗi

nhà thơ đều đề cập đến biển đảo những khía cạnh rất riêng.

64

Qua những trang trường ca, nhà thơ Thu Bồn khẳng định chắc nịch về chủ quyền biển đảo.

Biển đảo là một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam, do đó chúng ta phải có nhiệm vụ

bảo vệ và giữ gìn. Song song đó, trong kí ức của những người con đất Việt biển cả đã trở

thành quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng hun đúc nên ý chí kiên cường cho họ. Biển cả chứa

đựng bao nỗi khó khăn, vất vả lẫn những ẩn số của cuộc đời nhưng không vì vậy mà buông

xuôi. Đối sánh với rừng núi, biển cả mở ra một không gian to lớn trong chiều sâu văn hóa

của con người.

Nhà thơ Thanh Thảo viết về biển bằng suy nghĩ của một người lính. Bằng giọng thơ đầy

tính triết luận, hình ảnh biển cả trong trường ca của ông mở ra một không gian của ngày

chiến thắng. Tới biển là một hành trình đi từ khó khăn, vất vả đến khúc ca khải hoàn, một

cuộc hành trình hòa về với nhân dân. Không những vậy, nhà thơ còn vận dụng linh hoạt

hình ảnh của sóng, cát để toát lên sức mạnh to lớn của nhân dân. Vẫn viết về biển nhưng

trường ca của ông có chút gì đó “lắng” hơn làm ám ảnh người đọc.

Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng viết về biển nhưng ông đề cập đến sự hy sinh của những người

lính đảo thời bình. Để ra biển, họ phải bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân thuộc, êm ả

nhất. Với một không gian sống vô cùng mới mẽ và đầy nguy hiểm, trong họ không khỏi

cảm thấy bất an, e dè, sợ hãi. Bằng tình yêu quê hương, bằng cái tình của người lính thời

bình, họ sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống hiến. Đối diện với biển đời bao la, với tấm

gương phản chiếu nhân cách sống, những người lính đảo hiện lên vô cùng mạnh mẽ và đầy

trân trọng.

Dù viết về biển ở những khía cạnh khác nhau nhưng cả ba nhà thơ đều toát lên được tầm

vóc của những người lính. Dù ở thời chiến hay ở thời bình, họ đều là những con người

đáng khâm phục. Ý chí, sức mạnh của họ sánh ngang với đại dương vừa mênh mông, vừa

hào sảng phong phú.

65

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG

BIỂN TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO,

HỮU THỈNH

3.1. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển mang tính biểu tượng

Theo thống kê, biển trong trường ca Thanh Thảo có 71 từ, trường ca Thu Bồn 71 từ,

trường ca Hữu Thỉnh 90 từ. Ngoài ra còn có khá nhiều các từ ngữ liên quan đến biển như

gió, cát, bão, lốc... Trong trường ca của các tác giả trên còn có sự xuất hiện của từ đảo

(xem phần phụ lục 1). Điều này có thể khẳng định biển đảo đã có trong tâm thức các nhà

thơ. Không những vậy, biển đảo luôn sôi sục trong trái tim những người con Việt Nam yêu

nước.

Biển và các hình ảnh liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc được các nhà thơ miêu tả với

sự lặp lại khá nhiều. Khi hình ảnh thơ được lặp đi lặp lại và mang tính nghệ thuật thì nó đã

trở thành một tín hiệu thẩm mỹ, góp phần truyền tải thông điệp mà các nhà thơ gửi gắm.

Trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo và Hữu Thỉnh ta bắt gặp hình ảnh biển mang dụng

ý nghệ thuật ấy. Như người viết đã đề cập ở chương 2, biển được các nhà thơ sử dụng để

tái hiện hình ảnh đất nước, sức mạnh của nhân dân cũng như tái hiện một biển đời đầy

chông gai với những suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống.

3.1.1. Biểu tượng của Tổ quốc

Trường ca là một thể loại có dung lượng lớn, phản ánh nhịp đập, hơi thở của thời đại, của

dân tộc, do đó, không khó hiểu khi hầu như tác phẩm nào cũng mang dáng vẻ của non

sông, đất nước. Tùy vào cách thể hiện của từng nhà văn mà hình ảnh đất nước có khi lộ

thiên nhưng cũng có khi là mạch ngầm trong dòng chảy trường ca. Các nhà thơ Thu Bồn,

Thanh Thảo, Hữu Thỉnh cũng đã xây dựng khá thành công hình ảnh biển là biểu tượng của

Tổ quốc.

Trong trường ca các nhà thơ xây dựng hình ảnh biển là biểu tượng của Tổ quốc qua những

chi tiết rất đắt và dẫn chứng đầy thuyết phục. Nhà thơ Thu Bồn đã tái hiện hình ảnh Tổ

quốc trong không gian của cha Rồng mẹ Tiên. Đó là biển cả bao la, là nơi khởi nguồn của

dân tộc ta. Trong trường ca Badan khát, nhà thơ Thu Bồn mượn tình mẫu tử thiêng liêng để

khẳng định biển cả bao la là một phần của đất mẹ Việt Nam:

66

Con ở đâu cũng là con của mẹ

Hòn đảo Việt Nam nào cũng Tổ quốc Việt Nam

Biển là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Tổ quốc ấy là của nhân dân

không ai có thể chia cắt hoặc mưu toan chiếm đoạt. Đây là nỗi niềm của thầy Kỳ Nhân Sư

qua lời “trò chuyện” của ông Đồ Chiểu: Giọng ngâm thơ trầm uất sóng lưỡi búa nhấp nhô

đuổi nhau không dứt bàn tay nhạy cảm chạm tới những vết thương trên thân mình Tổ quốc/

Bấy giờ biển hiện trước trang thơ thầy một Tổ quốc thật không còn là sở hữu của ông vua

này ông vua khác (Trò chuyện với nhân vật của mình). Đó là một Tổ quốc tự do, độc lập,

tự chủ. Tổ quốc ấy là của quảng đại quần chúng nhân dân chứ không thuộc về một vì vua,

vị chúa nào khác. Đó còn là lời của một dân tộc luôn luôn mở rộng chân trời khát khao, mở

rộng vòng tay thân hữu, hoà bình dù có phải trải qua trăm cay nghìn đắng:

Bè bạn qua đây con sóng lặng

Cánh chim thay sóng lượn quanh tàu

Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói

Về những hòn đảo xa nối biển liền trời

Con ngọc trai bám vào thềm lục địa

Một loài sao biển sáng lân tinh"

(Campuchia hy vọng)

Không những vậy, Tổ quốc ta không ngừng lớn mạnh, không ngừng vươn xa nhờ những

bước chân xoài ra biển cả:

Nơi trộn lẫn mặt trời muối mặn đời ta

Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển

Ôm những quần đảo trong vòng tay thương mến

Mắt dõi nhìn hút cánh hải âu bay

(Những người đi tới biển)

Nhà thơ Hữu Thỉnh trong Trường ca Biển đã khẳng định chủ quyền đất nước bằng hồn

Việt của dân tộc mình:

Tiếng Việt gọi hồn Việt

Giữ đất Việt ngoài khơi

Ý thức được như vậy nên người lính quyết tâm mang đất ra đảo bởi cần có đất để làm quê

hương.

67

Như vậy, dù viết ở góc độ nào, hình ảnh Tổ quốc vẫn hiện lên tự nhiên giữa những trang

trường ca. Trong trường ca Thu Bồn, đất nước hiện lên trong kí ức của những người con

đất Việt. Bằng cách khẳng định vai trò của biển đảo, tác giả không giấu được những tình

cảm nồng hậu, tin yêu về sự phát triển của đất nước mai sau. Nhà thơ Thanh Thảo lại viết

về biển bằng những hình ảnh gần gũi, thân thuộc của mình. Hình ảnh đất nước trong thơ

ông hiện ra đầy đau thương, mất mát nhưng không hề bi lụy. Đất nước sẽ vụt đứng lên như

những hàng dương quanh năm thẳng tắp. Hàng triệu người con hướng về biển với một

niềm tin về tương lai tươi sáng, về một Tổ quốc phát triển vững bền. Đến lượt nhà thơ Hữu

Thỉnh, đất nước hiện ra qua ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. Biểu tượng Tổ

quốc, đất nước vì vậy mà sâu sắc và ý nghĩa hơn. Một dân tộc phát triển là một dân tộc có

những bước chân chắc chắn ra biển cả, và nhà thơ Hữu Thỉnh đã làm được một việc, đó là

thổi hồn Tổ quốc ra tận hải đảo xa xôi.

Biển đảo cũng như đất liền, đều hòa làm một, đều là Tổ quốc Việt Nam. Xây dựng hình

ảnh biển là biểu tượng của đất nước, các nhà thơ thêm một lần khẳng định chủ quyền của

dân tộc cũng như nêu cao ý chí bảo vệ vùng biển ấy.

3.1.2.Biển là “đại dương nhân dân”

Biển mênh mông và chứa đựng tất cả. Nhân dân cũng đông đảo và chứa đựng tất cả. Biển

được các nhà thơ xây dựng thành biểu tượng của nhân dân là vì vậy. Con đường đi tới biển

của những người lính là con đường hòa vào nhân dân. Con đường đi tới vòng tay rộng mở

của nhân dân. Biển cả bao la chính là vòng tay xiết chặt của quảng đại quần chúng nhân

dân. Hiểu được lý lẽ đó, những người đi tới biển sẽ không cảm thấy cô đơn, sẽ bớt lạ lẫm

khi về với biển.

Biển đảo là của nhân dân. Những con sóng ngày đêm xô bờ không bao giờ ngơi nghỉ được

các nhà thơ ví von như sức mạnh của quần chúng nhân dân. Vòng tuần hoàn ấy không bao

giờ ngừng lại. Sức mạnh của nhân dân cũng vậy, lớp sau xô lớp trước:

Những người chìm xuống hầm sâu

Như nước thấm vào lòng cát

Những người vụt trồi lên

Như đá mọc bất thần

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Sức sống mạnh liệt và ý chí chiến đấu của nhân dân không gì có thể thay thế được. Sức

mạnh ấy, nói như nhà thơ Thanh Thảo, hết lớp này ngã xuống sẽ có lớp khác vùng lên:

68

Những cuộc đời như lớp sóng

Lớp lớp lặng chìm, lớp lớp trào lên

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Chính ở những vùng biển ấy, trên những bãi cát trắng mênh mông kia đã sinh ra những con

người “sống trong cát chết vùi trong cát” (Tố Hữu) mà chẳng mảy may toan tính. Sóng

biển cũng chính là sự sống vĩnh cửu và mạnh mẽ của nội lực cách mạng khởi sự tại lòng

dân. Tất cả đã dồn tụ để khái quát thành những biểu tượng thơ tạo nên một quan điểm thẩm

mỹ mới về nhân dân thầm lặng.

Không những vậy, cát còn thể hiện cho sự tái sinh mạnh mẽ của những con người bị vùi

dập bởi chiến tranh. Trong trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ, những cuộc đời dần dần tái sinh

trên biển cát mênh mông, để đàn em thơ vui đùa trên cát, để những cây xương rồng lặng lẽ

nở hoa:

Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát

Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày

Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát

Biển ầm vang ngọn lửa xanh chói ngời

Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, dù viết về mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ

nhưng ngọn sóng nhân dân ở khắp mọi miền cuồn cuộn trong thơ ông. Cái chết đầy tầm

vóc sử thi của Hùng và Rin lan tỏa một ngọn sóng ý chí và quyết tâm đến quảng đại quần

chúng nhân dân, để rồi từ đây, sức mạnh đấu tranh cứu nước của nhân dân sẽ không ngừng

lớn mạnh.

Nhà thơ Hữu Thỉnh xây dựng hình ảnh nhân dân qua cách cảm, cách nghĩ của người lính

hải đảo. Nhân dân bắt đầu là những con người bình thường, sẵn sàng nhận nhiệm vụ canh

giữ biển đảo cho Tổ quốc, dù nhiệm vụ ấy vô cùng khó khăn và vất vả. Viết về nhân dân,

Hữu Thỉnh cũng đi theo motip, từng con người cụ thể, từng số phận riêng hòa vào nhau

cùng đổ ra biển lớn. Lúc bấy giờ nhân dân hiện lên như là một đại dương mênh mông rộng

lớn, có thể cuốn phăng mọi thứ.

Qua các đặc điểm tương đồng, nhà thơ đã mượn hình ảnh của biển bờ để thể hiện sức

mạnh của nhân dân. Đó là hình ảnh của một đại dương mênh mông, mang sức bền như

ngàn con sóng lại mang sức mạnh của những trận cuồng phong.

69

3.1.3. Biển - biểu tượng của lòng mẹ

Biển là một chủ thể mênh mông, rộng lớn. Hình ảnh biển còn được các nhà thơ ví như tấm

lòng của mẹ. “Lòng mẹ mênh mông như biển Thái bình dạt dào”, một nhạc sĩ đã viết như

thế để về biển, về lòng mẹ. Nhà thơ Thu Bồn viết về người mẹ miền biển diệu hiền, quanh

năm tần tảo, bấm đốt ngón tay từng ngày đợi con trở về. Một người mẹ kiên nhẫn, bền bỉ

đến tận cùng, dành cả một đời để may cho con tấm áo:

Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại

Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may

Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ

Từ buổi con đi bấm đốt từng ngày

Nhà thơ Thanh Thảo thể hiện hình ảnh những người mẹ chịu thương chịu khó, sẵn sàng hy

sinh, suốt một đời lấn biển để giành những gì tốt đẹp nhất cho con, cho cháu:

Suốt cuộc đời lấn biển thương đau

Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn

Mọc hàng đầu giữ từng tấc phù sa

Bồi đắp đến vô cùng mẹ ơi cho biển

Không làm chúng con sợ hãi

Người mẹ nào cũng đều thương con tha thiết, cũng giàu đức hy sinh. Khi ở bờ vực cận kề

với cái chết, hình ảnh người mẹ hiền hiện lên như một lời thúc giục, động viên. Trong

Trường ca Biển, Hữu Thỉnh đã viết:

Con bỗng nhận ra không phải lá cờ ta

Không phải mẹ

Không có cái chết nào nhục nhã hơn là sống không phải mẹ

Bao hiểm nguy con xin lại bắt đầu

(Trường ca Biển)

Trong tâm thức người con, mẹ hiền còn biểu hiện cho sự hồi sinh, bắt đầu một cuộc sống

mới tràn đầy hy vọng. Nhà thơ Thanh Thảo đã viết:

Một người mẹ trẻ chọn hai cây dương gần nhau, có nhiều bóng mát để mắc võng cho hai

đứa con trai vừa tròn tuổi. Chị ngồi vá lưới, êm ả, cháu bé ngủ miệng như mỉm cười, võng

đưa và cả bầu trời mặt đất đều đong đưa, biển lao chao sóng, những bóng nắng nhỏ đùa

nghịch trên cánh võng, bàn tay người mẹ thật êm ả (Cỏ vẫn mọc)

70

Ngoài hình ảnh người mẹ hiền, các tác giả còn miêu tả hình ảnh của những người bà miền

biển bằng tình cảm đôn hậu và thiêng liêng nhất. Nhà thơ Thanh Thảo miêu tả người bà

với bàn tay vá lành những mảnh đời riêng, bàn tay khỏa cát trên mồ con mồ cháu bằng

những câu thơ đầy trân trọng:

Bàn tay bà chưa bao nhiêu tiếng nói

Hàng trăm cơn bão hàng ngàn cơn động biển

Bàn tay thắp sáng lửa chài

Khỏa cát trên mồ con mồ cháu

Giữ lại những gì không thể mất

Bà ngồi đó giữa con và biển

Bàn tay vá lành những mảnh đời riêng

(Những người đi tới biển)

Những gì đau thương nhất bà đã nén chặt trong lòng và tất cả những hy sinh, mất mát chỉ

hiện ra qua đôi bàn tay ấy. Đó là bàn tay của một người mẹ, người vợ, người bà giàu đức

hy sinh. Bà đã cố nén nước mắt để vá lành những mảnh đời riêng, cho dù cuộc đời bà, đôi

bàn tay bà đã khỏa cát trên mồ con mồ cháu mấy bận. Ở phía biển còn có hình ảnh những

người vợ, người chị giàu đức hy sinh. Họ là hậu phương vững chắc nhất của người lính

đảo thời bình.

Xây dựng biển thành biểu tượng của lòng mẹ, bằng những câu thơ đầy sức gợi tả, các nhà

thơ đã xây dựng thành công tượng đài người mẹ và họ đã chạm đến cái chung nhất của tình

mẹ: đó là sự hy sinh thầm lặng.

3.1.4. Biển - biểu tượng của tình yêu đôi lứa

Biển mang trong mình nhiều trạng thái khác nhau, có lúc bình yên, nền nã, có lúc ồn ào dữ

dội. Chính những sắc thái đa dạng ấy mà biển thường gắn với tình yêu đôi lứa.

Biển là nơi kết tinh tình yêu đôi lứa, là không gian hò hẹn của những chàng trai, cô gái

miền biển. Ở phía biển, người lính có người con gái miền biển đợi chờ, khiến anh tự hào

khi nhắc đến:

Tôi có người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng

Ở chót mũi Cà Mau- trên đầu muôn ngọn sóng

Đợi tôi về

(Vách đá Hồ Chí Minh)

71

Ở đó, người con gái có tâm hồn sóng biển, hứa yêu anh trọn đời như muối biển kia không

bao giờ phai nhạt:

Cô gái biển quanh năm chài lưới

Trên bàn tay có nắng mặt trời

Cô gái có tâm hồn sóng biển

Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời

(Bài ca chim Chơ rao)

Biển còn là không gian tình tự, là nơi nhân vật trữ tình trao nhau lời thề thủy chung son sắt

như câu ca dao:

Ngó ra thấy cát dàng dàng

Cát bao nhiêu hạt dạ em thương chàng bấy nhiêu

Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, mối tình của Hùng và cô gái miền biển gây ấn tượng

nơi người đọc. Hùng bị thiêu chết nhưng tình yêu của hai người không chết. Tình yêu đôi

lứa bỗng vụt lớn thành tình yêu quê hương đất nước, thành lòng căm thù giặc sâu sắc. Từ

đây, người con gái miền biển sẽ nhận luôn phần trách nhiệm của Hùng trước quê hương

đất nước.

Nhà thơ Thanh Thảo cũng xây dựng hình ảnh biển là biểu tượng của tình yêu đôi lứa

nhưng vui tươi hơn, rộn ràng hơn. Tình yêu trong trường ca của ông là tình yêu của sự sum

họp. Hòa bình lập lại, người chiến sĩ trở về với người con gái anh thương yêu. Tình yêu ấy

trở thành sức mạnh cho những con người mới, trong thời đại mới.

Trong trường ca Hữu Thỉnh, tình yêu đôi lứa trở thành sức mạnh, giúp người chiến sĩ vượt

qua những khó khăn, vất vả của cuộc sống. Tình yêu ấy nâng đỡ người lính trong những

giây phút sinh tử, để họ trở nên mạnh mẽ hơn:

Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi

Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ

Em làm anh tơ non

Em làm anh mạnh mẽ

Cứ vẫy vùng như đảo của ta

(Đường tới thành phố)

Các đặc tính của biển sóng, cát đều được các nhà thơ sử dụng để diễn tả những tâm trạng,

tình cảm của đôi lứa yêu nhau. Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca, các nhà thơ

trường ca đều viết về tình yêu với một tình cảm trân quý. Dù hạnh phúc hay bất hạnh, tình

72

yêu trong các sáng tác trên đều có một điểm chung, đó chính là tấm lòng thủy chung son

sắt.

73

3.2. Các biện pháp tu từ

3.2.1. So sánh

Trường ca là một thể loại dài hơi và các tác giả thỏa sức mình vẫy vùng trong đó. Các nhà

thơ có thể áp dụng nhiều thể thơ khác nhau, có thể xây dựng kết cấu theo dụng ý riêng

mình để hoàn thiện tác phẩm. Những nỗ lực tìm tòi, đổi mới đó góp phần nâng cao vị thế

của trường ca. Đương nhiên không thể bỏ qua chất liệu ngôn từ. Sử dụng ngôn từ đúng lúc,

đúng chỗ sẽ góp phần nâng tầm bài thơ lên, thậm chí chỉ là một dấu chấm than, một dấu

phẩy đúng chỗ, bài thơ sẽ khác đi rất nhiều.

Nhận biết được điều đó các nhà thơ trường ca hiện đại đã rất lưu ý đến các biện pháp tu từ

sử dụng trong thơ. Đặc biệt là so sánh. Biển và các hình ảnh liên quan đến biển như sóng,

cát, hàng dương, muối... được các nhà thơ sử dụng để ví với tinh thần chiến đấu của người

chiến sĩ, của lòng mẹ bao la hay tâm trạng của con người. Bằng những hình ảnh so sánh

táo bạo, gợi tả, những trang trường ca vì vậy cũng thi vị và sống động hơn.

Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, nhà thơ Thu Bồn đã khắc họa thành công nhân vật

Hùng, đại diện ưu tú cho người con miền biển. Những câu thơ miêu tả Hùng bằng cách sử

dụng biện pháp so sánh tạo nên một hình ảnh ấn tượng, đầy sức gợi tả:

Hùng sẽ chết như người chiến sĩ

Như cành thông reo hát giữa quê hương

Hay trong trường ca Vách đá Hồ Chí Minh, tác giả đã so sánh vách đá với lồng ngực người

chiến sĩ, thể hiện sức mạnh cũng như ý chí của người anh hùng:

Vách đá như lồng ngực người chiến sĩ

Đập vào biển Đông sóng dội trăm lần

Nhờ sử dụng biện pháp so sánh hợp lý mà những câu thơ trở nên góc cạnh và triết lý hơn

hẳn:

Ta đã sống như cây xương rồng trên cát

Đã sống được nơi tưởng chừng cạn nước

Mà lặng lẽ nở hoa

(Những người đi tới biển)

Nếu không có các anh

Ngã xuống như muôn ngàn trang sóng

Đất nước này sẽ trôi dạt về đâu?

74

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Các nhà thơ thường viết về mẹ với sự kính yêu thường trực. Nhiều câu thơ đầy sức gợi tả

ám ảnh người đọc:

Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may

Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ

(Bài ca chim Chơ rao)

Hay câu thơ sau:

Suốt cuộc đời lấn biển thương đau

Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Đôi lúc, các nhà thơ sử dụng biện pháp trùng điệp vế so sánh để diễn tả suy nghĩ của

mình. Nhà thơ Thanh Thảo viết:

Khi con đến với lòng con chân thật

Để trong lành đôi mắt

Trong lành gương mặt

Như luống khoai con khát trận mưa mùa

Như giọt nước con thèm hòa tận biển

Như cánh rừng gió lên và gió lặng

Những tảng đá ven bờ sóng đập mãi ngàn năm

(Những người đi tới biển)

Nhà thơ đã sử dụng ba lần so sánh kế tiếp nhau như muốn thể hiện khát vọng được hòa

mình với các mẹ, các chị, các anh, để được hòa mình với nhân dân, với Tổ quốc. Trong

các trường ca, Thanh Thảo sử dụng biện pháp trùng điệp vế so sánh này khá nhiều, như

trong đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp thanh xuân của những chàng trai mười tám, hai mươi với

các đặc tính của cỏ: sắc như cỏ, dày như cỏ, yếu mềm và mảnh liệt như cỏ:

Dấu chân in trên đời chúng tôi những năm tháng trẻ nhất

Mười tám hai mươi sắc như cỏ

Dày như cỏ

Yếu mềm và mảnh liệt như cỏ

(Những người đi tới biển)

Cũng bằng biện pháp trùng điệp vế so sánh đó, nhà thơ Hữu Thỉnh đã viết:

Em ơi em, em là biển của đời anh

75

Là vụng kín

Là bến bờ nương tựa

(Đường tới thành phố)

Bằng cách so sánh ba lần liên tiếp: là biển, là vụng kín, là bến bờ, nhà thơ đã cho chúng ta

thấy được một hậu phương vững chắc của người lính đảo. Nhờ trùng điệp vế so sánh, Hữu

Thỉnh đã có thể bộc lộ một cách tế nhị và đầy đủ mối quan hệ riêng tư thầm kín của anh và

em. Và cũng nhờ đó chúng ta mới có thể cảm nhận hết được tình cảm của anh dành cho em

một cách sâu sắc, mãnh liệt mà rất đỗi chân thành đến nhường nào:

Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ

Em làm anh tơ non

Em làm anh mạnh mẽ

Cứ vẫy vùng như đảo của ta

(Đường tới thành phố)

Như vậy bằng biện pháp so sánh và trùng điệp vế so sánh, các nhà thơ đã thổi hồn vào câu

thơ, làm cho nó đầy sức gợi và tác động mạnh mẽ đến người đọc hơn. Ngoài ra biện pháp

nghệ thuật này còn góp phần mang lại âm hưởng hào dùng, tha thiết cho trường ca.

3.2.2. Nhân hóa

Để thể hiện những sự kiện mang tầm vóc lớn lao cũng như bày tỏ thái độ của người viết

đối với chủ thể trữ tình, các nhà thơ đã thổi hồn vào biển, để cho biển mang trong mình

nhiều sắc thái tình cảm khác nhau.

Biển là một môi trường sống xa lạ của con người. Chính sự bao la, vô định của biển làm

cho con người cảm thấy bất an. Biển bỗng nhiên trở thành một tên khổng lồ hung bạo qua

những từ ngữ nhân hóa: biển gầm, biển thét, biển ầm vang, biển gào thét, biển hung hăng,

biển hùa vào áp đảo, sóng dữ, sóng mặn cướp hàng dương, nhảy xuống biển nước trào lên

giận dữ, biển nham nhở, biển âm u... Lúc này biển trở thành một đối tượng vô cùng bí ẩn

và hoang dại, mang trong mình những sắc thái dữ dội ám ảnh con người. Nhưng có lúc

biển lại rất dịu dàng khi hóa thành ngọn sóng thiếu nữ:

Biển ơi

Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ

Những đường cong chói sáng

76

Tự xóa bỏ mình

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Biển được miêu tả như một người bạn, sẵn sàng giang tay chờ đón người đi xa trở về xây

dựng quê hương:

Anh có về bắt cá biển sâu

Biển rộng rãi chờ tay giăng lưới

(Badan khát)

Có lúc, biển trở thành một anh lính gác chuông, vui mừng lắc những hồi chuông đoàn tụ:

Biển đang lắc những hồi chuông đoàn tụ

Phù sa nào mát rượi súng và xe

(Đường tới thành phố)

Trong Trường ca Biển, biển được Hữu Thỉnh miêu tả như một ông già hiền minh, hiểu

thấu mọi lẽ ở đời và đưa ra cho người lính nhiều kinh nghiệm quý giá. Có lúc biển trở

thành tấm gương soi phản ánh chân thật cuộc đời người lính, để cho người lính tự chiêm

nghiệm, nhận thức bản thân:

Những chiếc huân chương soi sáng mãi trên bờ

Sống với nước hãy bắt đầu từ nước

3.3. Giọng điệu

Giọng điệu trong văn bản thể hiện cái giọng điệu riêng mang thái độ, tình cảm và đánh giá

của tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư

tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn, quy

định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành

kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…[24,134]. Giọng điệu cần thiết cho việc sắp

xếp, liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho tác phẩm có cùng một âm hưởng,

một khuynh hướng nào đó. Như vậy, giọng điệu không chỉ biểu hiện cảm hứng, cá tính

sáng tạo của nhà văn mà còn bộc lộ quan điểm, cái nhìn và thái độ đánh giá của nhà văn

với các hiện tượng đời sống được miêu tả trong tác phẩm.

Là một thể loại dài hơi, gom chung nhiều chiều kích khác nhau nên giọng điệu trường ca

cũng rất phong phú và đa dạng: có giọng điệu sử thi anh hùng ca, có giọng điệu trầm lắng

xót xa lại có giọng điệu suy tư đầy triết lý... Tìm hiểu giọng điệu trong trường ca sẽ cho

chúng ta thấy rõ hơn thông điệp mà các nhà thơ truyền tải.

77

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, tự hào

Biển đảo là quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng cách mạng và đó cũng chính là nơi đang cần

sự bảo vệ của cả dân tộc. Bởi thế các nhà thơ viết về biển đảo với một giọng điệu đầy tự

hào, ngợi ca. Với giọng điệu hào sảng, ngợi ca, biển đảo Việt Nam qua ngòi bút của các

nhà thơ hiện lên thật đẹp và ý nghĩa:

Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói

Về những hòn đảo xa nối biển liền trời

Con ngọc trai bám vào thềm lục địa

Một loài sao biển sáng lân tinh

(Campuchia hy vọng)

Biển không đơn thuần là biển nữa mà qua ngòi bút Thanh Thảo, biển trở nên thi vị hẳn.

Biển mê hoặc nhà thơ bằng ngọn sóng thiếu nữ, bằng những đường cong của chính mình:

Biển ơi

Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ

Những đường cong chói sáng

Tự xóa bỏ mình

Và lập tức tái sinh

Gào lên khúc ca hoang dại

Trong chương cuối của trường ca Những người đi tới biển, Nhà thơ Thanh Thảo đã kịp bày

tỏ lòng mình với vùng biển quê hương. Đó là nơi mà cả về con người và sản vật đều tuyệt

vời:

Tôi chưa biết có nơi nào trên trái đất

Ánh mặt người lại dịu mát như nơi đây

Củ khoai lang vùng cát ngọt lừ

Tôi ăn như người ốm thèm trả bữa

Nhà thơ Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới thành phố không khỏi tự hào khi thấy rõ

cuộc sống của nhân dân đổi thay từng ngày, đất nước dần dần hồi sinh sau những năm

tháng chiến tranh gian khổ. Bằng ngòi bút tin tưởng, hào sảng, nhà thơ đã tái hiện lại bức

tranh trù phú của quê hương miền biển:

Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước

Nhân dân tự do

Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ

78

Ghì lấy từng con tôm con tép

Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn

Cùng tìm về cuối đất

Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau

Những câu thơ không chỉ thể hiện lòng tự hào về biển đảo quê hương mà còn khẳng định

sự bền vững, thịnh vượng của vùng đất này:

Chúng ta đã lớn lên ở nơi này sẽ lớn lên ở nơi này

Những đứa con của đất và biển

Yêu thương cả dấu chân còng cánh chim âu từng bọt sóng

Hiểu và yêu biển, những người con của biển càng phải quyết tâm nhiều hơn nữa để giữ gìn

biển đảo quê hương:

Nhân dân chia mình ra các đảo

Làm vệ tinh

Yên dạ những con tàu

...

Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét

Dựng lên đảo pháo đài mắt thức

Vùng đất Sơn Mỹ một thời bị kẻ thù hủy diệt nay qua ngòi bút của nhà thơ Thanh Thảo đã

tin tưởng hồi sinh. Ông viết trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ với niềm tự hào bởi một mảnh

đất anh hùng và tái sinh mạnh mẽ bằng sức mạnh tiềm tàng không gì có thể thay thế được:

Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát

Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày

Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát

Biển ầm vang ngọn lửa xanh chói ngời

Bao con thuyền dập dồi trên lửa ấy

Những con thuyền như thể đúc bằng hơi

Ngàn mẻ lưới thả sâu trong lòng biển

Để kéo về chiều bến cá đông vui

Và ngọn lửa chia đều cho mỗi bếp

Mùi cá nướng thơm gió rộng rãi chào mời

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

79

Dọc theo các trường ca chúng ta dễ dàng bắt gặp những câu thơ hồ hởi, ngợi ca và

đầy tự hào như thế. Do đặc điểm của thể loại trường ca: dung lượng lớn, gom chung nhiều

thể loại nên giọng điệu này cũng có nhiều đất để phát huy. Bằng giọng văn hào sảng, đầy

tự hào, biển đảo quê hương hiện lên thật đẹp và trù phú.

3.3.2. Giọng điệu trữ tình, triết lý

Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, tự hào ta còn bắt gặp những câu thơ viết về biển trong trường

ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh một giọng điệu trữ tình triết lý. “Giọng điệu triết lý

trong trường ca hình thành từ nhu cầu nhận thức bản thân và thời đại của mỗi nhà thơ.

Vượt ra khỏi giới hạn của những cảm xúc trực tiếp, các tác giả trường ca đã bộc lộ rõ sự

trăn trở, khao khát đào sâu bản chất, ý nghĩa của những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân

loại. Mỗi trường ca không chỉ biểu hiện tầm vóc tư tưởng và tài năng riêng của nhà thơ mà

còn hàm chứa tư tưởng, nhận thức chung của cả dân tộc” [11,180]. Với những suy nghĩ,

trăn trở riêng về biển đảo quê hương, các nhà thơ đã cho ra đời những dòng thơ đầy chất

trải nghiệm, triết lý, thể hiện những suy ngẫm, khát vọng của nhiều thế hệ.

Trong trường ca Thu Bồn, giọng điệu sử thi mang âm hưởng chính nhưng chúng ta cũng

dễ dàng bắt gặp nhiều câu thơ, đoạn thơ mang giọng điệu trữ tình triết lý. Viết về Quê

hương mặt trời vàng, nhà thơ không khỏi tự hào thốt lên:

Đất nước tôi có biển Đông

Vừa đủ mặn bốn ngàn năm lao động

Trong việc thể hiện hình ảnh Đất nước qua mối quan hệ gữa biển và núi nhà thơ đã đưa ra

những suy nghĩ hết sức tâm huyết và trăn trở của mình. Biển và núi đều là Tổ quốc Việt

Nam, muốn thấu hiểu biển phải trèo lên tận núi:

Hiểu biển nhiều nên ta yêu núi núi ơi

Biển mênh mông và núi cao vời vợi

Nhìn thấu biển phải trèo lên tận núi

(Badan khát)

Bằng một giọng thơ dữ dội đầy triết lý sắc cạnh, trường ca Thanh Thảo vẽ nên một thế hệ

người lính sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng cống hiến. Những năm tháng chiến đấu khốc liệt ở

rừng trở về, những người lính hiểu rằng, về tới biển chưa phải kết thúc mà đó mới chỉ là

nơi bắt đầu:

Những dòng sông băng qua những vết thương

Về tới biển đâu phải tìm yên nghỉ

80

Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió

Những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa

(Những người đi tới biển)

Cuộc sống luôn tươi mới và đều đặn không ngừng, như ngọn sóng ngày đêm xô bờ. Nhắc

đến vòng tuần hoàn ấy của thiên nhiên, nhà thơ đặt trọn niềm tin về tương lai tươi đẹp của

vùng đất Sơn Mỹ:

Muôn ngọn sóng vỗ vào bờ cát

Gió không ngừng reo qua hàng dương

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)

Không những vậy, nhà thơ Thanh Thảo còn có những câu hỏi đầy ý nghĩa triết lý. Nếu

không có những người dám hy sinh tính mạng thì làm sao có đất nước hôm nay:

Nếu không có các anh

Ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng

Hóa những chiếc neo cắm sâu lòng biển

Dải đất này sẽ trôi dạt về đâu?

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Giọng điệu trữ tình triết lý chiếm trọn trong trường ca Biển của nhà thơ Hữu Thỉnh. Ở

chương đầu tiên, đối thoại biển, nhà thơ đã tái hiện lại cuộc đối thoại giữa người lính và

biển cả. Những câu hỏi, câu trả lời đầy triết lý ấy phần nào cho chúng ta thấy được dụng ý

của nhà thơ. Sống với nước hãy bắt đầu từ nước - lời gợi ý tưởng đơn giản nhưng lại quá

đỗi khó khăn. Người lính muốn đến với biển phải bỏ lại hết những kinh nghiệm có từ trước

đó để bắt đầu lại và gian nan cũng bắt đầu từ đó. Bên cạnh đó, Hữu Thỉnh còn có những

câu thơ tưởng chừng đơn giản nhưng khi ngẫm lại thì ý tứ thật sâu xa, triết lý:

Suối cứ thế âm thầm nuôi lớn biển

Cứ âm thầm chảy xiết với thời gian

(Đường tới thành phố)

Đất đi qua biển thì mau

Người đi qua nỗi khổ đau thì dài

(Trường ca Biển)

Hay trong một đoạn thơ-văn xuôi trong Trường ca Biển, trong chương Hóa thạch những

dòng sông, chất trữ tình triết lý khá đậm đặc: khi gặp biển, đó là lúc sông đem cho lần

cuối, một cuộc cho trọn vẹn huy hoàng như thơ cho, như mùa dâng quả, cô gái đi làm mẹ

81

nơi xa để lại sau lưng bao tiếng thở dài. Và khi không còn gì để cho, sông như tráng sĩ

không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết; sông như nghệ

sĩ đã sắm xong vai, một kẻ trắng tay giàu có đo mình bằng kích thước của biển.

Với giọng điệu trữ tình triết lý, những suy nghĩ, băn khoăn của thế hệ hôm nay trở nên thực

và gần với độc giả hơn. Những giọng điệu đó góp phần tạo nên văn phong của nhà thơ một

cách rõ nét.

3.4. Sự liên tưởng

Trong thơ ca, ngoài những yếu tố nghệ thuật trên thì không thể không nhắc tới liên tưởng,

tưởng tượng. Chính sự liên tưởng, tưởng tượng này chắp đôi cánh cho thi nhân, giúp họ

thỏa sức vẫy vùng trên bầu trời nghệ thuật. Sự liên tưởng, tưởng tượng còn giúp cho những

áng thơ thi vị và giàu hình tượng hơn. “Những trường ca giàu tính triết lý chính luận và trữ

tình thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng cao, góp thêm những dòng nước mát vào suối

nguồn trường ca sử thi hiện đại” [57,168].

Mặc dù đã lăn lộn nhiều năm cùng đồng đội chiến đấu ở rừng nhưng những người lính

miền biển vẫn nhớ tha thiết quê hương ầm ào tiếng sóng của mình:

Ăn trái gắm nhớ trái dừa da diết

Tắm vũng suối nhớ biển biếc bao la

Những đêm mưa rừng sấm động

Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà

(Bài ca chim Chơ rao)

Những hình ảnh vùng cao lại gợi lên trong tâm trí người lính miền biển nỗi nhớ nhà: ăn trái

gắm lại nhớ đến trái dừa quê hương, tắm vũng suối vùng cao nhớ đến vùng biển bao la,

nghe tiếng mưa rơi lại nhớ tiếng sóng vỗ quê nhà.

Nhà thơ Thu Bồn còn có những dòng thơ gợi lên sự liên tưởng về một Tây Nguyên anh

hùng giàu đẹp:

Đất nước Tây Nguyên anh hùng bất khuất

Màu xanh lớp lớp vô tận dấy lên

Đầu đỡ vòm trời chân xoài biển cả

Vai vắt khăn mây dải lụa mềm

(Bài ca chim Chơ rao)

82

Xuyên suốt trường ca Bài ca chim Chơ rao, Thu Bồn đã xây dựng một mạch liên tưởng

khép kín. Xây dựng hai nhận vật anh hùng Hùng và Rin, hai người con Kinh Thượng, đại

diện ưu tú cho hai vùng đất biển và núi để toát lên ý chính: đó là sự đoàn kết của các dân

tộc từ đó gợi lên Kinh và Thượng, núi và biển đều là Đất nước. Trong trường ca Những

người đi tới biển, nhà thơ Thanh Thảo cũng xây dựng mạch liên tưởng đó. Những người

lính tự nguyện dấn thân vào công cuộc bảo vệ đất nước, trải qua biết bao gian khổ, khó

khăn để rồi từng bước, từng bước hòa mình về với nhân dân và con đường đi tới biển là

một con đường chủ đạo.

Trong Trường ca Biển, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng có nhiều câu thơ gợi liên tưởng về sự hy

sinh một cách đột ngột và chua xót. Đó là những câu thơ viết về sự hy sinh của người lính

trước một không gian sống vô cùng lạ lẫm:

Bạn tôi thổi sáo sau hầm

Bỗng ngừng bặt

Giữa chừng réo rắt

Chúng tôi chạy ra

chấp chới cánh tay ngoài năm sải nước

hay:

Tiểu đội xếp hàng chuyển gạo

Sóng lườn quanh thân

Bỗng

Một tiếng thét

Một vũng máu

Một khoảng trống

Nhịp thơ nhanh, gọn gợi liên tưởng về một sự mất mát đột ngột, bất ngờ. Qua cách viết của

nhà thơ, người đọc dễ dàng hình dung môi trường sống và chiến đấu của người lính lúc bấy

giờ là như thế nào.

Quan điểm về sức mạnh của nước và dân được Thanh Thảo thể hiện trong trường ca

Những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bằng cách nêu bật lên sức mạnh của nước, tác giả hướng người

đọc đến sức mạnh của nhân dân. Từ đó nêu lên quan điểm chính trị, về cách dùng binh, dù

xưa hay nay vẫn còn đúng: nước có thể nâng thuyền, cũng có thể làm lật thuyền. Nhân dân

cũng như nước. Nhân dân cũng có thể đoàn kết một lòng, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc nhưng

nếu chính sách không phù hợp thì nhân dân cũng có thể lật đổ cả chế độ đó:

83

Ngàn con sóng chết cuối đêm

Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đông

Đẩy thuyền lật thuyền dễ không

Nát mềm mài đá đá mòn thấu xương

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Ngoài ra, nhà thơ Thanh Thảo còn gợi sự liên tưởng về sức mạnh của nhân dân bằng cách

miêu tả những con sóng, đặc biệt là khi kết hợp với một loại từ khác. Những ngọn sóng

thiếu nữ, ngọn sóng bình minh, sóng đen hào hển, sóng đời, ngọn sóng mặt trời... mở ra

trước mắt người đọc sự da dạng, biến hóa khôn lường của những con sóng. Đồng thời qua

đó thể hiện rõ hơn ý chí, sức mạnh của nhân dân qua sự tinh khôi của ngọn sóng bình

minh, thiêu đốt như ngọn sóng mặt trời.

Như vậy, cách thức liên tưởng là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Nhờ nó mà câu thơ có

thể hay hơn, thi vị hơn; cũng có thể mang một ý nghĩa khác. Cách thức liên tưởng này tạo

nên phong cách riêng cho nhà thơ. Và người đọc có thể phán đoán, liên tưởng một cách

sáng tạo theo trí tưởng tượng của cá nhân, góp phần làm nên sức hút cho tác phẩm.

3.5. Không gian - thời gian nghệ thuật

Không gian và thời gian trong tác phẩm là không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.

Nó không chỉ là thời gian – không gian vật chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới

tinh thần, hiện thực đời sống. Thời gian và không gian luôn là một trong những yếu tố làm

nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Nhờ thời gian, không gian nghệ thuật, chúng ta sẽ dễ

dàng tìm ra những ẩn ý về mặt nội dung mà tác giả đan cài trong tác phẩm.

3.5.1. Không gian nghệ thuật

Biển trong trường ca không đơn thuần là một vùng đất với đầy đủ các tọa độ vị trí địa lý

mà nó trở thành không gian nghệ thuật. Trong không gian ấy ẩn chứa nhiều nỗi niềm tâm

sự của nhân vật trữ tình.

Biển cũng giống như bao vùng đất khác, cũng là một môi trường chiến đấu đầy ác liệt của

dân tộc ta. Đó là hình ảnh của làng Tư Cung, một làng quê êm đềm ven biển đã phải hứng

chịu thảm họa khủng khiếp khi bị lính Mỹ thẳng tay chém giết 504 thường dân vô tội.

Trong 504 thường dân đó chỉ có người già, phụ nữ và trẻ em. Vụ thảm sát này không chỉ

gây đau thương, mất mát cho những người trong cuộc mà nó còn làm cho biết bao thế hệ

84

phải bật khóc. Không những vậy, phía biển còn là hướng mà quân thù lăm le tràn vào xâm

chiếm nước ta:

Một buổi sáng ngoài bán đảo Sơn Trà

Vào lúc thủy triều lên

Người lính canh trên vọng hải đài

Bỗng dựng ngược tóc

Trước mặt anh hiện lù lù con quái vật

Mũi nó thở cuồn cuộn khói đen

Miệng thèm thuồng hướng vào bãi cát

(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc- Thanh Thảo)

Biển còn là một không gian sống mới mẽ và đầy lạ lẫm đối với những người lính đảo. Họ

đến với biển lần đầu, tất cả mọi thứ từ biển đều vô cùng lạ lẫm nhưng họ vẫn cố gắng vượt

qua.

Biển là một không gian sinh hoạt với những công việc hằng ngày: kéo lưới, đánh cá, lợp

mái nhà, trồng hàng dương... Ở đó có những người mẹ, người chị, người em sớm hôm tần

tảo. Đó còn là một không gian với vùng cát bỏng rát, những luống khoai lang ngọt lừ hay

tím biếc màu hoa muống biển.

Trong không gian đó, con người còn giành giật từng tấc đất với biển. Họ khuân đá, ngăn

sóng, cố gắng kìm hãm sự xâm thực nặng nề của biển để cho đay cói về xanh lại đất giấc

mơ (Badan khát- Thu Bồn).

Trong kí ức của những người lính, biển đã trở thành một không gian trong tâm tưởng. Đó

là không gian của những kỷ niệm và lòng tự hào về quê hương. Đó cũng chính là nơi mà

mỗi người lính luôn đặt niềm tin về một ngày mai tất thắng của dân tộc khi nghĩ đến.

Đối với những người lính, biển là quê hương, là tuổi thơ gắn với bãi cát dài, với hàng dừa

sai trái. Tiếng sóng vỗ cũng trở thành bài hát ru êm đềm. Những năm chiến đấu xa nhà,

biển hiện ra trong tâm hồn người lính qua nổi nhớ nhà da diết. Và biển trong lòng họ trở

thành một không gian nghệ thuật với những từ ngữ đầy sức gợi tả.

Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, quê hương miền biển của nhân vật Hùng hiện ra đầy

thân thương. Đó là một miền biển trù phú với những con người chất phác, thật thà. Nơi đó

có chân trời sóng vỗ, có chiếc thuyền con ghé lại trước nhà anh. Hay trong chương vĩ

thanh của trường ca Vách đá Hồ Chí Minh, nhân vật trữ tình nhớ về biển qua hình ảnh của

một người con gái có tấm lòng thủy chung son sắt:

85

Tôi có một người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng

Ở chót mũi Cà Mau- trên đầu muôn ngọn sóng

Đợi tôi về

Đối với những người lính làm nhiệm vụ bên nước bạn Campuchia, không gian

miền biển quê nhà càng hiện ra rõ nét. Ở đó, những người lính mang trong mình không chỉ

tình yêu quê hương, đất nước mà còn có cả niềm tự hào về một đất nước giàu có, hào sảng:

Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói

Về những hòn đảo xa nối biển liền trời

Con ngọc trai bám vào thềm lục địa

Một loài sao biển sáng lân tinh

(Campuchia hy vọng)

Không gian ấy còn có trong nỗi mong nhớ, khát khao về một ngày hòa bình, độc lập của

dân tộc. Nhà thơ Thanh Thảo đã từng nói, thế hệ những người lính như ông hướng về biển

với một niềm tin chiến thắng. Những người lính mong về một ngày chiến thắng, được chạy

ào ra biển, hòa mình cùng sóng nước mênh mông. Trong không gian ấy, họ sẽ sống cho

thật thỏa thích, cho “bõ” những ngày tháng gian khó ở rừng:

Ta sẽ về dùa nhau trên thềm cát

Chạy như điên cho bõ lúc ở rừng

Cho bõ lúc nén cơn ho trinh sát

Ta cười nói cuối biển cũng nghe ta

(Đường tới thành phố)

Như vậy, biển trong trường ca của các tác giả trên đã trở thành một không gian nghệ thuật

đầy thi vị, đầy sức gợi tả. Đó là không gian sinh hoạt, lao động hăng say, khỏe khoắn;

không gian của môi trường chiến đầu đầy khó khăn, gian khổ hay không gian trong tâm

tưởng nhân vật trữ tình. Tất cả những không gian nghệ thuật ấy đã góp phần làm nên sức

hấp dẫn cho những trang trường ca.

3.5.2. Thời gian nghệ thuật

“Thời gian là một hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Tác phẩm cần một lượng thời

gian để mở ra trước mắt người đọc. Tuy nhiên, thời gian nghệ thuật không đồng nhất với

thời gian vật chất thực tại. Thời gian trong thế giới nghệ thuật có độ dài, nhịp độ, tốc độ, có

ba chiều quá khứ, hiện tại, tương lai khác với thời gian thực tại” [55,85].

86

Là một thể loại dài hơi, có sức chứa lớn, do đó, nhiều sự kiện, thông điệp được các nhà thơ

trải ra trong trường ca. Nhiều sự kiện không đi theo trình tự thời gian mà có lúc đảo chiều,

từ hiện tại, mạch cảm hứng lại quay về quá khứ, rồi tiếp tục liên tưởng đến tương lai, hoặc

từ tương lai nghĩ về hiện tại... Chính sự ứng biến linh hoạt của thời gian làm cho các tác

phẩm trường ca có chiều sâu và bao quát hơn.

Mạch suy nghĩ từ hiện tại-quá khứ-tương lai được các nhà thơ đặc biệt sử dụng. Người

chiến sĩ trong Bài ca chim Chơ rao, người lính đảo trong Trường ca Biển hay nhân vật trữ

tình tôi trong Trẻ con ở Sơn Mỹ đều đi theo mạch thời gian này. Từ điểm nhìn hiện tại,

nhân vật trữ tình nhớ về quá khứ với bao mất mát, hy sinh của đồng bào, dân tộc, từ đó,

phóng chiếu vào một tương lai toàn thắng, hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc. Bên cạnh đó thời

gian đảo chiều từ quá khứ-tương lai hay hiện tại-tương lai được các nhà thơ áp dụng triệt

để. Đề tài trường ca hầu như là những đề tài về cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc, do

đó không khó hiểu khi các tác giả xây dựng thời gian như trên. Từ con đường chiến đấu

của dân tộc trong hiện tại và sâu xa hơn là trong quá khứ, nhân dân đặt niềm tin vào sức

mạnh quật khởi của dân tộc, vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Mỗi tác giả xây dựng thời gian nghệ thuật theo cách riêng của mình. Nhà thơ Hữu Thỉnh

cho thời gian lặp đi, lặp lại để thể hiện những khó khăn, bí bách trong cuộc sống của người

lính đảo. Cụm từ: ngày ngày lại đến/ ngày ngày lại mới/ ngày ngày lại trắng như những âm

thanh dồn tụ, luẩn quẩn trong tâm trí người lính, khiến họ cảm thấy ngột ngạt. Trước sự

mất mát, hy sinh của người lính đảo, thời gian như ngưng tụ lại. Trong Trường ca Biển,

Hữu Thỉnh viết:

Đời bao nhiêu trớ trêu mà đêm còn quá rộng

Đêm như là vắt kiệt các vì sao

Có lúc thời gian của cả một quá trình được cô đọng lại. Người lính đảo trong Trường ca

Biển đã bốn mươi năm mưa nắng xa nhà và thời gian ấy dường như chưa dừng lại, người

lính vẫn tiếp tục với nhiệm vụ bảo vệ biển đảo của mình cho quê hương, cho đất nước.

Nhà thơ Thanh Thảo lại xây dựng cho mình thời gian của lịch sử. Có nghĩa là, nhà thơ đã

xây dựng nên một khung thời gian của lịch sử với những sự kiện lịch sử và con người lịch

sử. Trong trường ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Đêm trên cát, Trò chuyện với nhân vật của

mình, tác giả đã xây dựng thời gian nghệ thuật theo cách như thế. Một đêm của nhà thơ

Cao Bá Quát chứa đựng bao nỗi niềm, tâm sự của cả dân tộc và cả thời đại. Tất cả những

87

sự kiện lịch sử ấy hiện lên, tác động mạnh mẽ tới tâm trí người đọc, để rồi từ đó cuộc sống

tương lai hiện ra nhiều ý nghĩa hơn.

Thu Bồn lại xây dựng thời gian nghệ thuật trong trường ca mang một tầm vóc sử thi. Chỉ

trong một đêm, những giá trị tốt đẹp của con người được nâng lên tầm cao mới. Sau một

đêm, khi nghe tiếng hát trong tù ngục của Sao, biết bao con người đã biết quay đầu, làm lại

cuộc đời :

Sao đã gọi tâm hồn người lính

Quay súng trở về với quê hương

(Bài ca chim Chơ rao)

Sau một đêm ngắn ngủi, tầm vóc của những người anh hùng như Hùng và Rin vụt lớn lao,

mạnh mẽ. Sau một đêm thần thánh ấy, sức mạnh của nhân dân được củng cố và lan tỏa

rộng khắp. Nhà thơ đã thành công khi khắc họa được ý chí, tinh thần dân tộc qua khoảng

thời gian ấy. Có thể nói, thời gian nghệ thuật mà Thu Bồn xây dựng cũng mang một tầm

vóc sử thi tráng kiện.

Khi các sự kiện được đặt trong một bối cảnh và thời điểm cụ thể thì người đọc sẽ tiếp nhận

một cách dễ dàng hơn. Cách xây dựng một không gian – thời gian nghệ thuật ấn tượng,

độc đáo đã góp phần tạo nên sức hút cho tác phẩm. Qua không gian và thời gian nghệ thuật

người đọc có thể cảm nhận rõ ràng hơn ý nghĩa, nội dung tác phẩm mà tác giả thể hiện.

Tiểu kết chương 3: Như vậy, bằng cách sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật, các

nhà thơ đã xây dựng thành công hình tượng biển trong trường ca. Biển đảo được xây dựng

thành biểu tượng của tổ quốc, của đại dương nhân dân không ngừng vươn xa và lớn mạnh.

Biển cả còn là biểu tượng của lòng mẹ và tình yêu đôi lứa. Xây dựng hình ảnh biển thành

biểu tượng của các tầng nghĩa trên, các nhà thơ đã góp phần làm cho những tác phẩm của

mình trở nên phong phú hơn. Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật như thời gian, không

gian nghệ thuật; so sánh, nhân hóa hay liên tưởng mà các nhà thơ sử dụng đã xây dựng nên

một hình ảnh biển đảo sống động, chân thực và gần gũi với độc giả hơn.

88

KẾT LUẬN

Trường ca là một thể loại đặc biệt, ra đời vào những năm 70 và thực sự nở rộ vào những

năm 80 của thế kỷ XX. Đề tài chủ yếu vẫn là đề tài chiến tranh với những suy nghĩ, trăn

trở về cuộc đời. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp: "Khi cuộc chiến tranh đi qua,

nhu cầu viết trường ca xuất hiện ở nhiều nhà thơ. Điều này không có gì lạ. Thứ nhất, độ dài

của trường ca cho phép các nhà thơ có điều kiện miêu tả, tái hiện những vùng hiện thực

rộng lớn. Thứ hai, các trường ca thường dung nạp trong nó yếu tố tự sự rõ nét, thông qua

các sự kiện, biến cố xảy ra trong đời sống để trình bày những suy ngẫm của nhà thơ về dân

tộc, con người. Thứ ba, trong trường ca, các nhà thơ có “đất” để cùng lúc sử dụng nhiều

thể thơ khác nhau như một hình thức phô diễn các cung bậc của cảm xúc, tạo dựng tiết tấu

và âm hưởng thơ" [79]. Nhưng dù vì lý do gì đi chăng nữa thì sự phát triển của trường ca

trong giai đoạn này cũng góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà.

Lúc này, lực lượng sáng tác trường ca khá đông đảo, có thể kể tên như: Nguyễn Khoa

Điềm, Anh Ngọc, Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu,

Thi Hoàng... Trong đó các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những tác giả

trường ca lớn, có nhiều đóng góp. Các sáng tác của các tác giả trên được độc giả đón nhận

và gặt hái không ít giải thưởng trong và ngoài nước.

Trong tâm thức người Việt, biển đã hiện diện từ rất lâu. Những câu chuyện trong kho tàng

văn học dân gian đã chứng minh điều đó. Không những vậy, biển trở thành đối tượng của

nhiều loại hình nghệ thuật, từ điêu khắc, hội họa cho đến văn học. Biển là một đối tượng

lớn của thơ ca và trường ca cũng không hề ngoại lệ. Điểm qua sáng tác của Thu Bồn,

Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ngay rằng, chất biển luôn thường

trực trong những trang trường ca của họ. Biển luôn hiện hữu trong tâm thức các nhà thơ, có

lẽ bởi đơn giản, họ đều là người con của vùng đất duyên hải nhiều gió nắng. Riêng nhà thơ

Hữu Thỉnh, mặc dù quê ở vùng trung du Vĩnh Phúc nhưng qua những năm tham gia kháng

chiến, lăn lộn ở các chiến trường miền duyên hải, cũng như thời gian sống và lao động

cùng các chiến sĩ hải đảo đã để lại trong ông nhiều kỷ niệm.

Về mặt nội dung: Mỗi nhà thơ viết về biển bằng một cảm quan khác nhau, nhưng tựu trung

lại vẫn là một tình yêu đối với biển đảo quê hương, là những kí ức không thể phai mờ

trong tâm thức. Trường ca Thu Bồn xây dựng hình ảnh biển trong kí ức những người con

89

đất Việt trong cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc. Đó là một miền quê đầy gió nắng, là

cái nôi nuôi dưỡng, hun đúc ý chí cho người chiến sĩ trưởng thành. Tác giả đã xây dựng

hình tượng biển trong mối tương quan với núi, giữa Kinh và Thượng, giữa hai người con

đất Việt, Hùng và Rin để toát lên hình ảnh của dân tộc, Tổ quốc. Bên cạnh đó nhà thơ

không khỏi tự hào khi nhắc đến đảo. Đảo là một phần máu thịt của đất mẹ Việt Nam, là nơi

chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ. Bởi vì đơn giản, mất đảo tức là mất đi đất nước.

Nhà thơ Thanh Thảo viết về biển bằng tấm lòng của một người con đối với mẹ. Trong ông

biển là những gì gần gũi và thân thuộc nhất, từ bãi cát dài với chân còng ngoằn ngoèo trên

cát cho đến những người con vùng biển chân chất, thật thà. Nhà thơ cũng không quên nhắc

lại bao nỗi khó khăn, vất vả của con người. Để rồi từ chính vùng đất đau thương đó, nhà

thơ viết lên những trang trường ca đầy tính triết lý về sức mạnh của nhân dân. Sóng, gió,

bão, cát... những hình ảnh thân thuộc từ biển là sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, là sức

sống mãnh liệt trước khó khăn. Đó còn là hạt mầm tái sinh mãnh liệt hơn bao giờ hết. Vẫn

viết về đề tài chiến tranh nhưng trường ca Thanh Thảo đã bớt miêu tả không khí hào hùng

của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca mà đi vào những số phận, những con người riêng: đó

là anh Sáu Như, anh Tư Tròn, anh Ba Tốt, Tám Hùng; là những vị anh hùng như Nguyễn

Trung Trực, Cao Bá Quát,… Bên cạnh đó đào sâu sự kiện bằng giọng điệu suy tư, triết lý.

Đây cũng là giọng điệu chung của nền văn học hậu chiến sau 1975.

Nhà thơ Hữu Thỉnh viết về biển bằng cách cảm nhận của một người lính ra đảo làm nhiệm

vụ canh giữ, bảo vệ biển đảo của dân tộc. Những suy nghĩ, trăn trở về một môi trường sống

đầy xa lạ và hiểm nguy được những người lính gạt sang một bên, nhường lại cho tinh thần

trách nhiệm trước nhiệm vụ mới, trong thời đại mới. Chính không gian ấy đã tôi luyện ý

chí người lính đảo, khiến họ trở nên mạnh mẽ, vững vàng hơn trước một cuộc đời đầy cám

dỗ.

Về mặt nghệ thuật: Các tác giả cũng đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật để xây dựng

hình ảnh biển. Biển được xây dựng thành những biểu tượng có sức gợi rất lớn như biểu

tượng của Tổ quốc; biển là đại dương nhân dân; biểu tượng của lòng Mẹ; biểu tượng của

tình yêu đôi lứa. Những hình ảnh biểu tượng ấy làm cho tác phẩm có sức khái quát cao, tác

động mãnh liệt hơn tới độc giả. Ngoài ra các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, liên

tưởng được sử dụng với tần xuất khá nhiều, góp phần thể hiện được ý nghĩa mà tác giả

muốn truyền tải. Bằng giọng điệu ngợi ca hay trữ tình triết lý, hình ảnh biển bờ được các

nhà thơ nâng lên ở một tầm cao hơn và giàu ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó, biển còn được

90

“đặt” trong một không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Đó không chỉ là không gian

sống và chiến đấu thường thấy mà còn là một không gian trong tâm tưởng của những

người con đất Việt. Không những vậy, bằng cách xây dựng một khung thời gian nghệ thuật

linh hoạt, đảo chiều, những trang trường ca trở nên có chiều sâu và ý nghĩa hơn.

Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là một đề tài

mới. Dù đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ khoa học đề ra cho đề tài nhưng do năng lực của

người thực hiện nên chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, hy vọng hướng tiếp

cận của người viết sẽ mở ra hướng nghiên cứu về biển trong trường ca nói riêng hoặc trong

thơ ca nói chung mang tính hệ thống hơn.

Chúng tôi mong muốn có thêm nhiều ý kiến đóng góp cũng như các công trình nghiên cứu

khác để đề tài nghiên cứu của chúng tôi được hoàn thiện hơn.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (1988), “Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”,

Tạp chí Văn học (3).

3. Arixtot (1999), Nghệ thuật thơ ca (nhiều người dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học (4).

5. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp về trường ca”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (1)

6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm Mới.

7. Mai Bá Ấn (2004), Đặc điểm trường ca Thanh Thảo, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Sư phạm,

ĐH Huế.

8. Mai Bá Ấn (2009), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo,

Nxb Hội nhà văn.

9. Mai Bá Ấn (2008), “Trường ca Thu Bồn- thể loại và cấu trúc, Tạp chí Nghiên cứu văn

học” (2).

10. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca hiện đại, Nxb Văn hóa Dân tộc,

Hà Nội.

11. Đào Thị Bình (2009), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ

XX, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.

12. Ngô Vĩnh Bình (2009), 65 bài thơ-nhà thơ quân đội: Một thời đánh giặc, một thời làm

thơ, Nxb Kim Đồng.

13. Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao-tuyển tập trường ca, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ

Chí Minh.

14. Nhị Ca (2010), Tiểu luận, phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.

15. Phạm Quốc Ca (2002), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975-2000, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội

16. Nguyễn Xuân Cổn (2005), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Luận văn thạc sĩ, Thư viện

ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh

17. Nguyễn Văn Dân (2008), “Trường ca với tư cách là một thể loại mới”, Tạp chí Sông

Hương (4)

92

18. Ngô Quý Dương (2010), Trường ca Thu Bồn dưới góc nhìn thể loại, Luận văn Thạc sĩ

trường ĐH Sư phạm Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975-từ cái nhìn toàn cảnh”, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học (11).

20. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học

(3).

21. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (1967), Thơ ca Việt Nam- Hình thức và thể loại, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

23. Lê Thị Thu Hà (2007), “Giọt nước mắt hát cho người viết trường ca”, Tạp chí Văn

nghệ (662)

24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb

Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.

25. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, Nhà xuất bản Giáo Dục.

26. Nguyễn Thị Hậu (2010), “Tính phức hợp của trường ca Việt Nam hiện đại”, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học (8)

27. Hoàng Ngọc Hiến (1984), “Về đặc trưng của trường ca”, Tạp chí văn học (3)

28. Hội văn học dân gian Việt Nam (2010), Làng biển Cảnh Dương, Nhà xuất bản Văn

hóa Thông tin.

29. Hội văn học dân gian Việt Nam (2010), Yếu tố biển trầm tích trong văn hóa Raglai,

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

30. Hà Minh Hồng (chủ biên) (2011), Nhìn ra biển khơi, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh

31. Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, Nxb Trẻ.

32. Nguyễn Thị Thu Hương (2002), Một số trường ca tiêu biểu về cuộc kháng chiến

chống Mĩ cứu nước, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội

33. Hoàng Thị Thu Hương (2009), Chất triết luận trong trường ca Thanh Thảo, luận văn

Thạc sĩ trường ĐH Sư phạm Hà Nội

34. Trần Thị Thu Hương (2002), Trường ca Thanh Thảo, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Sư phạm

Hà Nội.

35. Nguyễn Thụy Kha (19990, Thanh Thảo, người lính, những khúc ca lính Việt- Lời quê

góp nhặt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

93

36. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Heghen đến trường ca hiện

đại của ta”, Tạp chí Văn học (6)

37. Đinh Gia Khánh (chủ biên (2006), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X-nửa đầu thế kỷ

XVIII), Nxb Văn học.

38. Nguyễn Văn Kim (2011), Người Việt với biển, Nxb Thế giới Hà Nội

39. Trần Phương Lan (1976), “Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng”, Tạp

chí Văn học (5)

40. Nguyễn Văn Lãm (1965), “Bài ca chim Chơ Rao, một bản trường ca hay”, Tạp chí

Văn học (5)

41. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6)

42. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài”, Tạp chí

Văn học (5)

43. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, vấn đề-tác giả, Nxb Giáo dục.

45. Nguyễn Thị Hải Lê (2009), Biển trong văn hóa người Việt, Nxb Quân đội nhân dân.

46. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học (2).

47. Hồ Quốc Nhạc tuyển chọn (2000), Thơ về biển, Nxb Đồng Nai

48. Phùng Quý Nhâm (1992), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ Tp. HCM

49. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Diệp (1990), Văn học Việt Nam-

Văn học Dân gian, những công trình chọn lọc, Nxb Giáo dục

50. Nhiều tác giả (2012), Văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa, Nxb Nha Trang.

51. Nhiều tác giả (2009), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.

52. Võ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, Nxb Khoa học Xã hội.

53. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội.

54. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật của thơ, Nxb Giáo dục Hà Nội

55. Trần Đình Sử (tuyển tập) (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục

56. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh

57. Nguyễn Thị Liên Tâm (2009), Trường ca về thời chống Mĩ trong văn học hiện đại

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh

58. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội

59. Thanh Thảo (2004), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

60. Thanh Thảo (2004), Mãi mãi là bí mật, Nxb Lao Động, Hà Nội.

94

61. Thanh Thảo (2007), 1,2,3, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

62. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Hữu Thỉnh (2004), Trường ca Biển, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội

64. Nguyễn Huy Thông (2009), Cảm nhận văn chương (tiểu luận, phê bình văn học), Nxb

Thanh niên.

65. Phạm Huy Thông (1983), “Trường ca”, Tạp chí Văn học (1)

66. Lưu Khánh Thơ (1988), “Hữu Thỉnh, một phong cách thơ sáng tạo”, Tạp chí văn học

(2)

67. Bích Thu (1985), “Thanh Thảo- Một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau 1975”, Tạp

chí Văn học (5)

68. Lý Hoài Thu (1999), “Thơ Hữu Thỉnh, một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến

hiện đại”, Tạp chí Văn học (12)

69. Dương Lệ Thủy (2011), Đặc điểm trường ca Thanh Thảo, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư

phạm Tp.Hồ Chí Minh

70. Lê Ngọc Trà (1998), Lý luận văn học, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

71. Đào Thị Khánh Vân (2009), Trường ca Thanh Thảo, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm,

Đại học Thái Nguyên.

Tài liệu Internet

72. Lại Nguyên Ân (2012), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”,

lainguyenan.free.fr

73. Mai Bá Ấn, "Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại",

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13086.

74. Mai Bá Ấn," Thu Bồn, Một dặm dài trường ca"

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13000.

75. Mai Bá Ấn, "Tâm thức biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa

Điềm", http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=14149.

76. Nguyễn Việt Chiến, “Thơ Việt Nam 30 năm cách tân”,

http://vn.360plus.yahoo.com.

77. Văn Chinh (2012), “Vài nét Hữu Thỉnh”,

http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/11/11/94673/vai-net-huu-thinh.

78. Con người miền trung trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu (2011),

file:///F:/1563-con-ng.htm

95

79. Nguyễn Văn Dũng, “Thanh Thảo, những chặng đường thơ”,

http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/thanh-thao-nhung-chang-

duong-tho.html.

80. Nguyễn Đăng Điệp, “Hành trình đổi mới thơ Việt Nam đương đại”,

http://www.phatgiaobaclieu.com.

81. Quang Đức, "Văn hóa biển đảo Việt Nam: “Xuống biển” từ hàng ngàn năm

trước", http://thethaovanhoa.vn/133N20110616084048762T0/van-hoa-bien-

dao-viet-nam-xuong-bien-tu-hang-ngan-nam-truoc.htm.

82. Phạm Đương, "Tôi đặt tên tôi là cỏ",

http://baoquangngai.com.vn/channel/2028/201111/Toi-dat-ten-toi-la-co-

2114105/.

83. Trần Thiện Khanh, “Cấu trúc nhịp thơ và nhạc âm của thơ”,

http://tapchisonghuong.com.vn.

84. Trần Thiện Khanh, "Đối thoại về trường ca và trường ca Việt Nam hiện đại",

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=7645.

85. Hoàng Thị Minh Hóa, "Kết cấu và ngôn ngữ thơ Thanh Thảo, nhìn từ lý

thuyết thi pháp học của Roman Jakobson",

http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2134.

(2009), "Văn học là một nghệ thuật", 86. Nguyễn Thị Xuân Hương

http://xuanhuong1964.violet.vn/entry/show/entry_id/1849980

87. Nguyễn Văn Kim (2010), “Biển với người Việt”,

http://www.baomoi.com/Bien-voi-nguoi-Viet/122/7359340.epi

88. Lê Thị Mây (2011), “Hữu Thỉnh với trường ca Biển”,

http://www.vanvn.net/news/11/1124-huu-thinh-voi-truong-ca-bien.html

89. Nguyễn Hữu Quý (2010), "Biển đảo trong thơ hôm nay",

http://www.baomoi.com/Home/SachBaoVanTho/sggp.org.vn/Bien-dao- trong-

tho-hom-nay/4046337.epi

90. Thái Nguyễn Hồng Sương, "Quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo",

http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2465.

91. Tạ Văn Sĩ (2012), "Biển - đảo và thơ",

http://www.bienphong.com.vn/BaoBienPhong/32/352/352/15683/Biendao-

va-tho/bbp.aspx

96

92. Thanh Thảo (2011), "Chân sóng - Thơ của Thanh Thảo",

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110827/chan-song-tho-cua-thanh-

thao.aspx

93. Thanh Thảo (2012), "Biển trong tôi",

http://baoquangngai.com.vn/channel/7942/201201/Bien-trong-toi-2126951/

94. Nguyễn Thị Ngọc Trâm, "Thanh Thảo và con đường thơ mới sau 1975",

http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=1412.

95. Đài truyền hình Việt Nam (VTV4) (2012), Ký sự biển đảo, youtube.com

97

PHỤ LỤC 1

(Bảng thống kê các từ ngữ liên quan đến biển)

THANH THẢO

Biển Sóng Thuyền Muối Gió Bão Cát Hàng Cánh Đảo

dương buồm

Những người đi tới biển 18 14 - 39 5 10 1 1 1 7

Trẻ con ở Sơn Mỹ 27 19 8 22 2 35 5 1 - 1

Đêm trên cát 1 4 2 12 3 6 - - 1 -

Những nghĩa sĩ Cần 14 16 - - - 8 - - 1 2

Giuộc

Bùng nổ mùa xuân 7 3 2 12 4 7 - - - 3

Trò chuyện với nhân vật 4 4 4 12 1 2 - - - -

của mình

Tổng cộng 71 60 16 13 97 15 68 6 2 3

THU BỒN

Biển Sóng Thuyền Muối Gió Bão Cát Hàng Cánh Đảo

dương buồm

Bài ca chim chơ rao 15 12 4 23 4 - 1 - - 4

Vách đá Hồ Chí Minh 1 2 - 1 - - - - - -

Chim vàng chốt lửa 7 1 1 4 9 - - - - -

Quê hương mặt trời vàng 1 1 - 3 1 - - - - -

25 11 5 Badan khát 13 3 2 2 13 2

6 - Người gồng gánh phương 22 16 3 2 - 1 - -

Đông

Tổng cộng 71 33 10 60 20 4 3 1 13 6

98

HỮU THỈNH

Biển sóng Thuyền Muối Gió Bão Cát Hàng Cánh Đảo

dươn buồm

g

Đường tới thành 17 6 24 2 5 - 1 - - 11

phố

Trường ca Biển 73 33 14 16 50 5 3 - 1 23

Tổng cộng 90 39 38 18 55 5 4 - 1 34

99

PHỤ LỤC 2

(Chân dung các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh)

Nhà thơ Thu Bồn

Nhà thơ Thu Bồn Bìa tuyển tập trường ca Thu Bồn

Bản đánh máy và chỉnh sửa bài thơ Ngưỡng cửa lời ru của nhà thơ Thu Bồn

100

Nhà thơ Thanh Thảo Bìa tuyển tập trường ca Thanh Thảo

Trang bìa trường ca Chân Đất (2011)

Bài thơ: Ở quê nhà (Thủ bút của nhà thơ Thanh Thảo)

101

Nhà thơ Hữu Thỉnh Trang bìa tuyển tập trường ca của nhà thơ Hữu Thỉnh