ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––
BÙI THỊ KIỀU
HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG
SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––
BÙI THỊ KIỀU
HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG
SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi trong
quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên cứu. Tôi xin
chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Kiều
Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của người hướng dẫn
TS. Hoàng Điệp
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình truyền
đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: TS. Hoàng Điệp đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã hướng dẫn, đóng góp những ý
kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học sư phạm
Thái Nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã động viên, giúp đỡ
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Bùi Thị Kiều
ii
MỤC LỤC
Trang Lời cam đoan ................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................. 7
4.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 8
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................. 8
NỘI DUNG ................................................................................................................... 9
Chương 1: SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH TRONG HÀNH TRÌNH THƠ
VIỆT NAM TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ĐẾN NAY ................................... 9
1.1. Diện mạo thơ Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ đến nay .................................. 9
1.1.1. Sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ
đến nay ........................................................................................................................... 9
1.1.2. Những thay đổi trong cảm hứng sáng tác và hình thức biểu hiện ..................... 12
1.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh thời kì kháng chiến chống Mỹ đến nay ......................... 21
1.2.1. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm chống Mỹ ................................................ 21
1.2.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm sau kháng chiến chống Mỹ đến nay ........ 24
Chương 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH ............................................................... 28
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống trong sáng tác của Hữu Thỉnh ............................... 28
2.1.1. Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mỹ ........................................... 29
2.1.2. Hiện thực cuộc sống sau kháng chiến đến nay .................................................. 35
2.2. Hình tượng con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh .......................................... 41
iii
2.2.1. Hình tượng con người trong kháng chiến chống Mỹ ........................................ 42
2.2.2. Hình tượng con người những năm sau kháng chiến đến nay ............................ 53
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA
HỮU THỈNH ................................................................................................. 66
3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................................. 66
3.1.1. Vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ dân gian .......................... 66
3.1.2. Lạ hóa ngôn ngữ thơ .......................................................................................... 70
3.2. Giọng điệu ............................................................................................................. 73
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi ....................................................... 73
3.2.2. Giọng điệu tâm tình ........................................................................................... 76
3.2.3. Giọng điệu suy tư, triết lí ................................................................................... 80
3.3. Hệ thống biểu tượng ............................................................................................. 84
3.3.1. Biểu tượng con đường ....................................................................................... 84
3.3.2. Biểu tượng ngọn lửa .......................................................................................... 87
3.3.3. Biểu tượng biển .................................................................................................. 89
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 95
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thời kì chống Mỹ có nhiều nhà thơ đã khẳng định được tên tuổi của
mình góp phần làm cho thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước trở thành điểm sáng
của văn học nghệ thuật Việt Nam. Những tên tuổi như: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến
Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo,
Hữu Thỉnh, Bằng Việt,… đã ghi dấu ấn riêng của thế hệ mình trong dàn đồng ca thời
chống Mỹ. Trong số nhà các nhà thơ đó, dẫu không phải là người xuất hiện và gây ấn
tượng sớm nhưng bằng tài năng thực sự của mình Hữu Thỉnh đã khẳng định được vị
trí riêng trên thi đàn với một giọng thơ mới mẻ và có cảm xúc mãnh liệt. Đến nay,
Hữu Thỉnh vẫn hiện diện là nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ mình, một thế hệ nhà thơ
bước ra từ chiến tranh đã từng ghi lấy cuộc đời mình, ghi lấy cả một thời đại vẻ vang
của đất nước. Sáng tác của Hữu Thỉnh có vị trí riêng trong lòng người đọc bởi sự
chân tình, giản dị của một con người hết lòng suy tư về cuộc sống.
1.2. Thơ Hữu Thỉnh được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Nhiều tác
phẩm của ông đã được phổ nhạc làm say đắm lòng người như: Thơ viết ở biển, Trên
một chiếc xe tăng, Chiều sông Thương. Hữu Thỉnh đã nhận được nhiều giải thưởng
văn học có giá trị: giải ba cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1973, giải A cuộc thi
thơ trên báo Văn nghệ năm 1975 - 1976, giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm
1980, giải thưởng xuất sắc của Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca biển, giải A
của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và giải thơ ASEAN năm 1999 với tập thơ Thư
mùa đông,...
Trong suốt những năm tháng sáng tác văn chương, Hữu Thỉnh luôn quan tâm
đến hiện thực đời sống và con người. Nhiều tác phẩm của nhà thơ phản ánh hiện thực
của đất nước và con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ và sau kháng
chiến. Giai đoạn sáng tác trước năm 1975, thơ ca của Hữu Thỉnh khám phá hiện thực
cuộc chiến tranh với nỗi đau thương, bất hạnh, những thiệt thòi hi sinh và niềm tin
vào kháng chiến. Ở giai đoạn sáng tác sau, trong bối cảnh mới của xã hội và trên tinh
thần dân chủ, quan niệm về hiện thực và con người của ông đã có những chuyển biến
sâu sắc: thay vì quan niệm văn chương là một hoạt động tuyên truyền cách mạng, giờ
đây văn chương có thể bàn về nhiều vấn đề đa dạng của hiện thực hướng tới đời
thường, với số phận cá nhân. Đây là những đổi mới trong quan niệm về hiện thực và
1
cách nhìn nhận về con người trong cuộc sống của nhà thơ. Chính sự chuyển biến sâu
sắc như vậy đã giúp Hữu Thỉnh có được sức sáng tác lâu bền và có nhiều đóng góp
cho nền văn học dân tộc.
1.3. Nhận thấy được những chuyển biến trong sáng tác của Hữu Thỉnh khi
phản ánh về hiện thực đời sống và con người, chúng tôi chọn “Hiện thực và con
người trong sáng tác của Hữu Thỉnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
Nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi mong muốn được trau dồi thêm kiến thức về sự
nghiệp văn học của Hữu Thỉnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại và hi vọng sẽ
đóng góp một phần khám phá của mình để bạn đọc có thể hiểu sâu hơn về việc phản
ánh hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.
2. Lịch sử vấn đề
Trong sự nghiệp sáng tác, Hữu Thỉnh đã gặt hái được nhiều thành công và
nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình. Số lượng
các bài báo, công trình nghiên cứu về thơ của Hữu Thỉnh khá phong phú, có nhiều bài
viết đã đánh giá sâu sắc về sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của
nhà thơ.
Thiếu Mai có lẽ là một trong những người đầu tiên tiếp xúc và khám phá thơ
Hữu Thỉnh đã có nhận xét về sự thành công của nhà thơ khá sâu sắc: “Thành công
chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu, vừa tinh, vừa khái quát,
vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm, những suy ngẫm của người chiến sĩ trong cuộc chiến
đấu chống Mỹ…” [33]. Người viết thấy được điểm đặc sắc của Hữu Thỉnh ở chỗ cho
dù miêu tả cụ thể những mất mát của cuộc kháng chiến nhưng vẫn không hề gợi
lên không khí bi thương mà trái lại vẫn thể hiện được ý chí quyết tâm trong cuộc
kháng chiến.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2003, tác giả Nguyễn Đăng Điệp có
bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ. Tác giả đã thấy được những thay đổi
cơ bản về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh những năm chiến tranh và sau chiến tranh: “Cái
chất ru vỗ, ngọt ngào mang tính sử thi trong “Đường tới thành phố” và giai đoạn
trước đó đã nhường chỗ cho giọng ưu tư, chua chát đau đời” [14]. Sự chuyển biến
này có thể nhìn nhận qua phương diện tư duy và cấu trúc hình tượng cái tôi trữ tình.
Về phương diện tư duy, nhà phê bình khẳng định: “Nếu trước đây, điều quan tâm lớn
nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ nói chung là lời tâm niệm “Chúng tôi làm
thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng sau, cái nhìn của nhà thơ mang tính hướng
2
nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những lo âu khắc khoải, những bể dâu cuộc
đời được nói đến một cách riết róng qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn
của chúng tôi mà là cái nhìn của chính tôi” [14]. Còn về sự thay đổi trong cấu trúc
của hình tượng cái tôi trữ tình, người viết chỉ rõ: “Đó là cái tôi đa diện mà mặt trội
của nó là những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện quầng sáng sử thi
mà là hiện lên trong chính cuộc sống thô ráp thường ngày” [14]. Nguyễn Đăng Điệp
tiếp tục nhận xét về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh: “Thơ Hữu Thỉnh không nghiêng về
gam giọng sôi nổi, hào hùng mà nghiêng về trầm lắng” [14]. Cái trầm lắng đó người
ta bắt gặp ở những cảm xúc xót xa, đau đớn luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ.
Tác giả nhấn mạnh: “…chiều sâu và nét riêng trong cái nhìn nghệ thuật của Hữu
Thỉnh chính là những suy tư không ngừng về nhân thế bằng giọng trầm lắng” [14].
Trong bài viết Hữu Thỉnh- một phong cách thơ sáng tạo, Lưu Khánh Thơ cũng
đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá về sự tìm tòi sáng tạo và những ảnh hưởng của chất
liệu văn học dân gian ở thơ Hữu Thỉnh. Sự vận dụng những yếu tố dân gian đó đã làm
nên nét đặc sắc trong thơ Hữu Thỉnh và làm cho thơ ông mang tính truyền thống dân
tộc. Đồng thời, sự vận dụng các yếu tố dân gian đó cũng mang đến cho nhà thơ tính
sáng tạo cao, nhà phê bình còn nhấn mạnh: “Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc
nhưng không những chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở cách tư duy,
cách liên tưởng độc đáo, ở âm hưởng xa xôi khó nhận biết. Phải chăng sự ảnh hưởng
đó là nguyên nhân khiến cho Hữu Thỉnh có được những câu thơ đa nghĩa, có tính
hàm ẩn cao, mới lạ trong diễn đạt, bất ngờ trong cảm xúc …” [62, tr.410]. Người
viết đã chỉ ra được điểm mạnh của nhà thơ là ở sự quan sát tinh tế và sự sâu sắc trong
cảm xúc. Cuối cùng, tác giả rút ra kết luận khá xác đáng về phong cách thơ Hữu
Thỉnh: “dù viết ở nhiều thể loại khác nhau nhưng phẩm chất thơ Hữu Thỉnh là đằm
thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát. Cái trầm lắng yêu thương lẫn át cái ồn ào
sôi sục. Với thơ anh, người đọc cảm nhận ít khi qua khâu suy xét, nghĩ ngợi, có thể
hiểu ngay và rung động với tâm tình của tác giả” [62, tr.421].
Có thể kể đến công trình nghiên cứu Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn
Nguyên Tản. Người viết đã tìm thấy ở thơ Hữu Thỉnh có ba kiểu loại con người: con
người đồng cảm, con người tình nghĩa và con người cô đơn.
Ở con người đồng cảm, Nguyễn Nguyên Tản thấy được chiều sâu đồng cảm được
thống nhất trong tác phẩm trữ tình trên cơ sở gắn bó giữa nhân tố tự sự và nhân tố
nhập vai: “nhà thơ tìm thấy sự đồng cảm của mọi người với những tâm tình của anh
3
và thế hệ. Nhà thơ không ngần ngại bộc lộ thân phận và những nỗi niềm của thế hệ
mình, thế hệ nhà thơ tự ý thức…” [48, tr.20]. Đồng thời, tác giả nêu ra nét đặc sắc
nhất trong cách thể hiện của Hữu Thỉnh là những cảm xúc hình thành của chiều sâu
tư tưởng, tình cảm: “Nhà thơ đồng cảm da diết đến cháy lòng với con người ở mọi
chiều cảm xúc, nỗi niềm hạnh phúc và đau khổ, nhẫn nại hi sinh mà chan chứa hi
vọng, nhưng chủ yếu là sự đồng cảm với nỗi đau thương, bất hạnh, thiệt thòi, hi
sinh…” [48, tr.34].
Con người tình nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang tấm lòng yêu quê
hương, đất nước, sống có nghĩa có tình. Có thể nói mọi hình ảnh của quê hương, đất
nước từ con suối, bờ tre, cánh rừng đến ngôi nhà, ngọn lửa rộng lớn hơn là bầu trời,
biển cả… đều trở thành đối tượng để nhà thơ thể hiện tiếng nói tri ân.
Nguyễn Nguyên Tản cho rằng con người cô đơn xuất hiện nhiều trong thơ
Hữu Thỉnh và chỉ ra những biểu hiện cụ thể: “Con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh
xuất hiện trên cái nền chung ấy, nhưng cô đơn cũng cô đơn hơn, thất vọng cũng thất
vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn…” [48, tr.53]. Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân
khách quan và chủ quan của sự hình thành con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh.
Người viết đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan do nhà thơ là người luôn có
những khát vọng được đồng cảm đến da diết, cháy bỏng. Có lẽ sự cô đơn đó đã tạo
nên tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh.
Trong bài viết Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ, Trần Đăng có những
đánh giá về tập thơ Thương lượng với thời gian. Tác giả cho rằng dòng chảy xuyên
suốt tập thơ là “sự tiếc nuối thời gian đã mất, hay đúng hơn là sự tự ý thức về cái hữu
hạn của chính mình”. Đến với tập thơ này, chúng ta sẽ thấy được những trăn trở,
chiêm nghiệm, khổ tâm của Hữu Thỉnh. Đây không phải là quãng thời gian sau chiến
tranh “con người vừa thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của đạn bom chết chóc nên ùa vỡ
mừng vui, sống tử tế với nhau hơn, nhân hậu với nhau hơn, mà là quãng thời gian
của mấy mươi năm vật lộn với gian khó, trong đó có biết bao sự "phản thùng, thớ lợ",
biết bao cặn lắng của những oan khuất…” [10] nên không ít khi nhà thơ cảm thấy
bức bối ngột ngạt. Từ đó, người viết nhấn mạnh về cách tư duy, giọng điệu thơ Hữu
Thỉnh: “Trong thế hệ thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh là nhà thơ tạo được một giọng riêng.
Cho đến tập thơ này, dù có riết róng hơn hay quặn thắt hơn, ông vẫn giữ được cái
giọng riêng ấy. Thơ ông được neo lại trong lòng người đọc nhiều chục năm qua là
nhờ ở cái cách tư duy không lẫn với ai này. Nói ra cái điều ai cũng nghĩ, ai cũng biết
4
nhưng không phải ai cũng viết thành thơ như Hữu Thỉnh được…” [10]. Từ đánh giá
này, ta thấy Hữu Thỉnh là một nhà thơ có phong cách độc đáo. Ông không chỉ thành
công trong giai đoạn thơ ca chống Mỹ mà còn có vị trí xứng đáng và góp phần đổi
mới nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Tiếp nối sự phát hiện tính truyền thống và hiện đại trong thơ Hữu Thỉnh, nhà
phê bình Lý Hoài Thu tìm thấy được phong vị dân gian trong thơ Hữu Thỉnh, nhìn
nhận thơ ông gần gũi với tiếng nói của dân tộc và mang tính sáng tạo: “…với sự nhạy
cảm của một ngòi bút có kinh nghiệm, Hữu Thỉnh vừa rất có ý thức trong việc đi sâu
khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, dân tộc, vừa biết dồn tâm lực, tài năng cho
việc tìm kiếm, sáng tạo cái mới” [65]. Dù viết về thiên nhiên, chiến tranh hay tình
yêu, thơ Hữu Thỉnh luôn bắt nguồn từ đời sống, song vẫn có những khám phá, rung
động mới mẻ để tạo nên tính truyền thống và hiện đại: “Thơ Hữu Thỉnh giàu sức
mạnh nội lực, gắn bó máu thịt với đời sống tâm linh và truyền thống thơ ca của dân
tộc Việt Nam. Đó là hành trang vô cùng quý giá cho mọi tìm kiếm theo hướng hiện
đại của thơ anh” [65].
Tác giả Hoàng Điệp với bài viết Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh đã
khẳng định: “Hữu Thỉnh đến với thơ cũng tự nhiên và giản dị như chính phong cách
sống của ông vậy. Thơ Hữu Thỉnh lôi cuốn, hấp dẫn người đọc bởi lối diễn đạt tự
nhiên không chút cầu kỳ khó hiểu nhưng qua đó toát lên sự cảm nhận tinh tế mà sâu
sắc” [12, tr.113]. Trong thơ Hữu Thỉnh, giữa cảm xúc và suy nghĩ luôn có sự gắn bó
hài hòa, sâu sắc, đặc biệt ngôn ngữ trong thơ ông giàu hình ảnh và giàu giá trị biểu
cảm. Người viết tiếp tục khẳng định: “Dưới góc độ ngôn ngữ, Hữu Thỉnh đã tạo cho
những sáng tác của mình cái hay, cái đẹp ở ngay trong đời sống thường nhật. Ông đã
góp cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại một tiếng thơ trữ tình đằm thắm, luôn hướng về
cội nguồn với những cảm xúc và ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, nhưng thấm đượm hồn
dân tộc” [12, tr.116]. Đặc biệt, trong bài viết Hữu Thỉnh với thể loại trường ca,
Hoàng Điệp đã đánh giá cao về những đóng góp của nhà thơ với thể loại trường ca:
“Hữu Thỉnh là một trong những người có đóng góp nhiều và chiếm vị trí quan trọng
đối với thể loại trường ca… Trường ca của ông không những nhiều về số lượng mà
còn đạt giá trị về chất lượng” [11, tr.65]. Người viết đã thấy được sự thành công của
nhà thơ trong việc khái quát tổng hợp về giai đoạn lịch sử, về nhiều mặt của đời sống
cũng như chiều sâu tâm lí con người. Hơn nữa, khi viết về Trường ca biển, tác giả
còn nhấn mạnh đến những suy nghĩ của nhà thơ về cuộc sống và tầm quan trọng của
5
thơ đối với con người: “…Hữu Thỉnh dồn sức thổi vào trong đó những tâm trạng,
những suy nghĩ, những dự cảm, những day dứt khôn nguôi của chính nhà thơ về cuộc
sống, về hạnh phúc, về thân phận con người… Vì vậy, với Hữu Thỉnh -“thơ là kinh
nghiệm sống”, thơ của ông không đơn thuần là một niềm yêu, mà thơ - đôi khi là thứ
“vũ khí” bênh vực con người” [11, tr.70]. Có thể thấy thơ Hữu Thỉnh rất giản dị và
chân thực gần gũi với tiếng nói của con người Việt Nam. Vì vậy, thơ ông luôn sống
trong lòng người đọc và đã nhận được những lời ngợi ca.
Như vậy, các tác giả trên đã đánh giá khái quát về những sự nghiệp thơ ca của
Hữu Thỉnh tập trung ở hai phương diện giá trị nội dung và nghệ thuật. Điều đó góp
phần khẳng định Hữu Thỉnh là một nhà thơ có sức sáng tạo lâu bền và có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua khảo sát, chúng tôi chưa thấy có bài viết,
công trình nghiên cứu nào đi sâu khám phá, tìm hiểu một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề hiện thực cuộc sống và con người trong các sáng tác của nhà thơ. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hiện thực và con người trong sáng tác của
Hữu Thỉnh” để có cái nhìn bao quát về quá trình sáng tác văn chương của Hữu Thỉnh.
Trên cơ sở đó, người viết mong góp một phần tiếng nói của mình cùng với các bài
viết, các công trình nghiên cứu đã có để tiếp tục khẳng định đầy đủ, sâu sắc hơn về sự
nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là: Hiện thực và
con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh ở giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và thời kì
sau kháng chiến đến nay. Trong đó, người viết tập trung khảo sát về bức tranh hiện
thực đời sống, con người trong thơ Hữu Thỉnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là những sáng tác của Hữu Thỉnh đã
được xuất bản:
- Âm vang chiến hào (thơ, in chung) (1975) - Sức bền của đất (trường ca) (1977) - Đường tới thành phố (trường ca) (1980) - Từ chiến hào tới thành phố (1985)
- Thư mùa đông (1994)
- Trường ca biển (1994)
- Thương lượng với thời gian (2005)
6
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát, nghiên cứu một số thơ và trường ca hiện đại
của các tác giả khác để có cái nhìn đối sánh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn muốn hướng tới khám phá, nghiên cứu một cách hệ thống về hiện
thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật phản ánh hiện thực đời sống và con
người trong sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh.
- Nghiên cứu sáng tác của Hữu Thỉnh để chỉ ra những đóng góp tiêu biểu và
khẳng định vị trí của nhà văn trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây được xác định là phương pháp chủ đạo
của đề tài. Trên cơ sở phân tích những tập thơ đã được chọn làm đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi sẽ tổng hợp để chỉ ra những đặc điểm nổi bật về hiện thực và con người trong
sáng tác của Hữu Thỉnh.
- Phương pháp hệ thống: Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác
phẩm. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu hiện thực và con người trong
thơ Hữu Thỉnh đạt đến cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát -
thống kê những biểu tượng tiêu biểu trong một số tập thơ của Hữu Thỉnh để từ đó tìm
hiểu thấu đáo hơn về hiện thực và con người trong sáng tác của nhà thơ.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để tìm ra những nét chung mang tính thời
đại và những nét đặc sắc, riêng biệt, độc đáo cùng những biến đổi trong sáng tác của
Hữu Thỉnh. Chúng tôi vận dụng so sánh, đối chiếu giữa các tập thơ của Hữu Thỉnh
với nhau; so sánh, đối chiếu giữa thơ của Hữu Thỉnh với một số nhà thơ cùng thời.
- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp văn chương: Để khảo sát những vấn đề có
tính quy luật nói chung của nghệ thuật thơ ca, những vấn đề mang tính quan niệm để
từ đây chỉ ra những đặc trưng tiêu biểu của thơ Hữu Thỉnh.
7
- Phương pháp lịch sử xã hội: Đặt đối tượng nghiên cứu trong tiến trình lịch sử
để xem xét quá trình sáng tác qua các thời kỳ khác nhau của Hữu Thỉnh, chỉ ra sự vận
động, chuyển đổi tư tưởng cũng như quan niệm và phương thức biểu hiện, từ đó tìm
hiểu những đóng góp riêng về phản ánh hiện thực và con người trong sáng tác của
Hữu Thỉnh đối với văn học dân tộc.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu những sáng tác của Hữu Thỉnh ở quan niệm
về hiện thực đời sống và con người. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định vị
trí và những đóng góp của Hữu Thỉnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận
văn này còn làm tài liệu tham khảo cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Hữu
Thỉnh và cho việc dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Sáng tác của Hữu Thỉnh trong hành trình thơ Việt Nam từ kháng
chiến chỗng Mỹ đến nay.
Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và con người trong sáng tác của
Hữu Thỉnh
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống và
con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.
8
NỘI DUNG
Chương 1
SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH TRONG HÀNH TRÌNH THƠ
VIỆT NAM TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ĐẾN NAY
1.1. Diện mạo thơ Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ đến nay
1.1.1. Sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ
đến nay Vào năm 1964, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cả nước ta
bước vào thời kì kháng chiến chống Mỹ. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã trải
qua nhiều gay go, căng thẳng, khốc liệt để đi tới thắng lợi trọn vẹn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chính cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của nền thơ ca Việt Nam, chiến tranh càng gay go, ác liệt càng đem đến nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho thơ ca: “Chiến tranh càng mở rộng, càng ác
liệt, thơ càng mở rộng kích thước phát triển” [37, tr.117]. Ở thời kì này, thơ được coi
là mũi nhọn có tính xung kích phản ánh cuộc kháng chiến của dân tộc. Thơ đã bám
sát hiện thực cuộc sống và phản ánh chân thực những sự kiện lịch sử của đất nước,
phản ánh tinh thần đấu tranh anh dũng, hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Thơ đã ghi lại những hình ảnh về con người, dân tộc Việt Nam trong những năm
tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian nan mà hào hùng, vẻ vang. Có thể nói lịch sử
thơ ca dân tộc chưa từng biết đến thời kì nào mà thơ lại có được một cuộc sống
phong phú và sôi nổi đến thế [37, tr.117].
Sự phát triển mạnh mẽ của thơ ca thời kì này nhờ vào đội ngũ các nhà thơ. Thế
hệ các nhà thơ xuất hiện từ trước năm 1945 như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Tố Hữu,... vẫn tiếp tục sáng tác và nhiều người đạt được những thành tựu nổi
bật, tạo ra chặng đường mới trên con đường thơ của mình. Thế hệ kháng chiến chống
Pháp như: Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu,… cũng thực sự khởi sắc. Những nhà thơ đó đã tiếp tục sự nghiệp của cha ông, hòa mình vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Đặc biệt có sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ trong thời kì chiến tranh chống Mỹ như: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,… Lớp nhà thơ “vừa làm thơ vừa đánh giặc” cũng đã đã đem đến cho thơ sức sáng tạo mới mẻ, đầy nhiệt
huyết. Họ là những nhà thơ - chiến sĩ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến đầy gian nan mà vẻ vang của dân tộc. Nhiều cây bút đã khẳng định được tên tuổi mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền thơ ca hiện đại. Các nhà thơ trẻ đã chủ động tìm
9
đến những thử thách quyết liệt nhất của cuộc sống để có nguồn cảm hứng sáng tạo
dồi dào, ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian lao mà vẻ vang của dân tộc. Họ đem đến cho thơ chất hiện thực nóng bỏng của
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, tìm thấy chất thơ trong chiến tranh khắc
nghiệt và nâng cao tầm nhận thức của mình về các vấn đề của cuộc sống một cách
chính xác và sâu sắc. Với tâm hồn đầy nhạy cảm và sự am hiểu cuộc sống người lính nơi chiến trường, các nhà thơ trẻ đã phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà ở đó là chân dung những người cầm súng bảo vệ đất nước. Đó chính là những con
người mang đậm dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời đại. Những trang thơ của họ giàu chất hiện thực và có sự sáng tạo về nội dung và hình thức nghệ thuật.
Cùng thời với các nhà thơ - chiến sĩ đó, các nhà thơ nữ: Xuân Quỳnh, Phan
Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát... cũng cất lên tiếng thơ từ
hậu phương góp phần tạo nên hào khí của thời đại anh hùng. Có thể khẳng định chưa
bao giờ lực lượng sáng tác thơ lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách,
vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này.
Thơ kháng chiến chống Mỹ thực sự là vũ khí tinh thần to lớn cho việc khơi
dậy lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc
Việt Nam. Thơ ca kháng chiến chống Mỹ đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình là
cổ vũ, động viên con người Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách, những mất mát
hi sinh trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Giá trị lớn nhất, không thể phủ nhận
được của thơ ca kháng chiến là nó đã thực sự bồi đắp cho phẩm chất, nhân cách con
người cao đẹp hơn, vượt lên “cái tôi” bé nhỏ để vươn tới, hòa vào “cái ta” rộng lớn.
Thơ ca chống Mỹ góp phần hun đúc thêm khí phách ngoan cường, bản lĩnh vững
vàng của con người Việt Nam.
Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn giải phóng, giang sơn
thu về một mối. Đây là thời kì mở đầu cho một chặng đường mới của đất nước trên
tất cả mọi phương diện nhưng dân tộc ta vẫn phải trải qua nhiều khó khăn thử thách
do hậu quả của chiến tranh để lại. Do cơ chế bao cấp kéo dài rồi chuyển sang giai
đoạn đổi mới, nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển khiến cho mối quan hệ giữa
con người với con người cũng có những thay đổi khác với thời kì trước. Nếu như
trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, con người luôn hướng tới cái chung, sống đùm
bọc yêu thương, đồng lòng, góp sức vì sự nghiệp chung giải phóng đất nước thì đến
thời kì này mối quan hệ giữa con người với con người trở nên phức tạp, đa diện. Người
10
lính vừa bước ra khỏi chiến trường với bao vinh quang của thế hệ cống hiến, hi sinh vì
đất nước thì giờ đây bản thân họ nhiều khi cảm thấy lạc lõng giữa cuộc sống đời
thường. Sau năm 1975, thơ ca Việt Nam có những chuyển động mạnh mẽ và đa dạng,
phong phú cả về nội dung và hình thức. Thơ không còn chỉ tập trung trong nội dung
chiến đấu và xây dựng như thời trước năm 1975 nữa mà dường như thơ diễn tả mọi
lĩnh vực của đời sống, phản ánh sự phong phú nhưng cũng vô cùng bề bộn và phức tạp
hiện thực đời thường.
Công cuộc đổi mới của Đảng vào năm 1986 ở nước ta là sự kiện chính trị và
xã hội có ý nghĩa quan trọng. Sau ba mươi năm chiến tranh, mười năm hậu chiến,
cuộc sống hòa bình và cơ chế thị trường đưa con người Việt Nam trở về với quỹ đạo
bình thường của cuộc sống mưu sinh. Xu hướng dân chủ hóa, ý thức cá nhân và cơ chế thị
trường,… đã tác động sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Chính điều
này đã thúc đẩy sự đổi mới văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Nhà phê bình Đỗ Lai
Thuý đã khẳng định: “Nếu xét như một hệ thống thể loại, thì thơ bao giờ cũng là một thể
loại mạnh, luôn chiếm ngôi vị đầu bảng. Khác với văn xuôi, thơ một phần gắn chặt hơn
với những yếu tố tự nhiên trong con người như cảm xúc, trực giác, phần khác tư duy thơ
lại thuộc tư duy lựa chọn, theo trục dọc, trục của không gian” [66, tr.43]. Sự chuyển biến
của đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng đã dẫn đến nhu cầu đổi mới thơ ca, mà trước tiên là
đổi mới quan niệm thẩm mĩ về hiện thực và con người.
Sau năm 1975, thơ Việt Nam hội tụ nhiều thế hệ nhà thơ giàu nhiệt huyết sáng
tạo. Bên cạnh những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến vẫn tiếp tục cầm bút
sáng tác như: Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh,…
xuất hiện lớp nhà thơ có tuổi đời còn trẻ như: Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy
Linh, Trương Quế Chi, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Tuyết Nga, Chu Thị Thơm,... Họ đều
cố gắng đi tìm những cách thức phong phú để thể hiện giọng điệu mới, phục vụ cho việc
tái hiện chân thành cảm xúc tâm trạng và hiện thực đời sống. Có những nhà thơ trẻ đã thể
hiện lối nói mạnh bạo, thể hiện khát khao mãnh liệt gửi gắm trong thơ:
“Trong bóng tối mới tinh, vẫn bài ca hoang dã
Tôi ứa máu những câu thơ cầu siêu
Rách cằm ngã đêm đơn độc
…Làm đóa Linh mẫu đơn
Nở tận cùng đến chết”
(Vi Thùy Linh - Sinh năm 1980).
11
Họ từ chối những khuôn mẫu sẵn có trong thơ, đưa vào những trang thơ của
mình những cái hiện đại của đời sống để tạo ra những tứ thơ khác lạ: Ngoài đường cái quan
xe rác chạy rầm rập
đống lửa bao nilon đựng rác
đôi tình nhân khét lẹt chàng thương binh ngực đầy huân chương vẫn hô một hai hành quân không chịu nghỉ
nàng thất tình hoa mướp bồng áo bông
ru hời
(Phan Huyền Thư - Rỗng ngực)
Cách tổ chức các hình ảnh thơ cùng với cấu trúc câu thơ, nhịp thơ và cảm
xúc cho thấy Phan Huyền Thư đã khước từ những kinh nghiệm, quan niệm thẩm mĩ
truyền thống, đưa những chất liệu mới vào thơ. Thơ lúc này được xem là thể loại tiên
phong cho tâm hồn và nghệ thuật nhanh nhạy, đa dạng nhất, các nhà thơ ý thức được
các bước ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội và đời sống văn học.
Như vậy, thơ sau năm 1975 đến nay đang tiếp tục phát triển trên con đường
hiện đại hóa, hội nhập với thơ ca nhân loại. Chính sự cách tân đổi mới trong thơ ca
đã có những đóng góp vào văn hóa tinh thần dân tộc, làm phong phú, đa dạng thêm
nền văn học Việt đương đại. Các nhà thơ đem đến cho tâm hồn con người Việt những
cảm xúc, ẩn ức, lịch sử, hiện thực Việt, cùng những khao khát của con người đương
thời để tạo nên những thành quả mới, giá trị mới.
1.1.2. Những thay đổi trong cảm hứng sáng tác và hình thức biểu hiện
Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt, vận mệnh của đất nước, tự do và độc lập của dân tộc đứng trước nguy
cơ một mất một còn. Trong những năm tháng đó, đời sống và số phận của mỗi người tất yếu phải gắn chặt với vận mệnh của đất nước, với cuộc chiến đấu của dân tộc. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, thơ đã trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm chung rộng lớn và thống nhất của mọi người, của toàn dân tộc. Vì vậy, một trong những nguồn cảm hứng sáng tác của giai đoạn này là cảm hứng sử thi. Nguồn cảm hứng này tạo cho nhà thơ một chỗ đứng ở tầm cao để
bao quát thời đại, lịch sử và cũng định hướng cho sự suy ngẫm, phát hiện, liên tưởng
của nhà thơ trước mọi hiện tượng và vấn đề, kể cả đời sống riêng tư, cá nhân hay thế
sự. Nhờ thế mà thơ kháng chiến chống Mỹ đã tạo dựng được nhiều hình tượng đẹp, kì
12
vĩ, mới mẻ về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu của dân tộc mang tầm thời đại.
Cũng nhờ đó mà trong thơ thời kì này có nhiều phát hiện, liên tưởng, mở rộng và đào sâu ý nghĩa khái quát, biểu tượng của những chi tiết, hình ảnh hiện thực.
Cảm hứng sử thi là yếu tố chủ đạo của thơ ca cách mạng. Thơ thời kì này
thường thể hiện tiếng nói của cộng đồng, của dân tộc trước thử thách quyết liệt. Nhân
vật trung tâm thường không thể hiện cái tôi cá nhân mà là cái tôi công dân đại diện
cho giai cấp, dân tộc, thời đại, hội tụ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Trong
thơ thường xuất hiện hình tượng đẹp về người chiến sĩ cách mạng:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên gác trực thăng
Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
(Lê Anh Xuân - Dáng đứng Việt Nam)
Người chiến sĩ giải phóng quân hiện lên ở đầu bài thơ mang dáng dấp của
những anh hùng thần thoại với các động tác: “ngã”, “tì”, “gượng”. Lê Anh Xuân đã
kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, giữa chất sử thi và cảm hứng bay bổng để khắc
hoạ dáng đứng Việt Nam anh hùng giữa chiến trường đầy bom đạn, sẵn sàng hi sinh
bản thân mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự hi sinh thầm lặng mà cao cả.
Cái tôi trữ tình sử thi chiếm một vị trí đáng kể trong cảm hứng và giọng điệu
của hầu hết các nhà thơ chống Mỹ. Đất nước ta lúc này phải đương đầu với kẻ thù
hung ác, hùng mạnh, nham hiểm nhất của thời đại và chính điều đó đã khiến cả dân
tộc phải thống nhất muôn người như một:
Những năm toàn đất nước có một tâm hồn có chung khuôn mặt
Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau
Những mắt sáng vì toàn dân tỉnh thức
Dáng lao nhanh theo trận tuyến dời mau
Núi Bắc sông Nam đều giống Bác
Nhìn một người, ta nhìn ra cả nước …
(Chế Lan Viên - Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa)
13
Nhà thơ nhìn Tổ quốc không phải bằng con mắt cá nhân mà bằng con mắt của
lịch sử, của dân tộc, của thời đại, “Con mắt Bạch Đằng, Đống Đa”. Đó là một cái
nhìn mang tính sử thi hoành tránh. Với những đặc điểm này, tinh thần yêu nước, hành
động anh hùng, phẩm chất ngời sáng thông qua sự thể hiện của cái tôi trữ tình sử thi
đã mang tầm vóc khái quát: đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Vì vậy, tình cảm yêu nước luôn được thể hiện trong trạng thái cảm xúc mãnh
liệt nhất:
Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
(Chế Lan Viên - Sao chiến thắng)
Tình yêu Tổ quốc gắn liền với ý thức trách nhiệm của mỗi người. Trữ tình - sử
thi trở thành phương thức chủ đạo của thơ thời kỳ chống Mỹ. Cái tôi sử thi cũng
chiếm một vị trí đáng kể trong cảm hứng và trong giọng điệu của nhiều nhà thơ thời
chống Mỹ. Sức mạnh toàn dân tộc được soi chiếu bởi tầm nhìn sử thi. Sự nghiệp anh
hùng trong những năm tháng hào hùng thời đánh Mỹ được nhà thơ Chế Lan Viên
khái quát, cùng niềm tự hào: “Ta đánh giặc suốt ba mươi năm trời chẳng cần có ai
thay/ Cả dân tộc không một ai làm quân dự bị” (Ngày vĩ đại).
Cái tôi sử thi có thể thấy rõ qua những câu thơ có tính chất tuyên ngôn của
Xuân Diệu:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao
(Những đêm hành quân)
Cái tôi sử thi đã đại diện cái ta cộng đồng, tiếng nói của cái tôi trữ tình có sức
âm vang của tiếng nói chung, có sức thuyết phục của chân lí chung mang tính phổ
biến. Cái tôi sử thi tạo cho nhà thơ tâm thế trữ tình cao rộng với tư cách là người phát
ngôn cho cả nhân dân, cả dân tộc. Do vậy, những cái gì thuộc về cá nhân dường như
thường ít được đề cập trong thơ. Trong âm hưởng hùng ca, say sưa với chiến thắng,
thơ chống Mỹ thường tránh nói nỗi đau nếu phải đối diện với hiện thực nghiệt ngã thì
các nhà thơ vẫn cố gắng “xoa dịu” vết đau bằng sức mạnh tinh thần:
14
Một tháng vã hành quân Hai chân phồng rộp cả Quấn băng rồi vẫn đau Nhiều lúc đi bằng đầu (Hữu Thỉnh - Mùa xuân đi đón)
Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì lợi ích của dân tộc và nhân dân hòa làm một, sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời là sự nghiệp giải phóng con người. Như một lẽ tự nhiên, thơ ca đã ưu tiên cho vấn đề tự do độc lập, vì lợi ích của Tổ quốc, vì nhiều nhiệm vụ khác lớn hơn cho nên, cái tôi cá nhân tạm thời “nén lại”.
Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh có những đổi khác so với thời chiến tranh. Điều đó đòi hỏi nghệ sĩ nhận nhìn hướng sáng tác của mình sao cho thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây cảm hứng sử thi đã dần phai nhạt và thay dần vào đó là cảm hứng thế sự. Các nhà thơ nhận thức sâu sắc về đời sống thực, nói về những cái quen thuộc bình thường, về những cái thiết thực, về sự thực mà con người nếm trải. Các nhà thơ đã thực sự cảm thông với nỗi đau của con người và thân phận của họ. Người viết đã nhìn lại sự khắc nghệt của chiến tranh, thấy được sự mất mát không gì bù đắp nổi cho dù con người có cuộc sống thời bình:
Chiến tranh đã tắt từ lâu Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon Nửa đêm gió lạnh, trăng mòn Có người nghe tiếng ru con... khóc thầm (Nguyễn Đức Mậu - Người ấy)
Những người lính trở về từ chiến trường, trong tâm tư không thể nào quên được những năm tháng ở chiến trường gian khổ. Trước cuộc sống nhiều ngang trái, họ muốn tìm quên, muốn hòa nhập, nhưng rồi tận sâu trong đáy lòng vẫn cứ đau đáu nỗi niềm:
Muốn nguôi quên những xót xa Hát cùng trời đất bài ca thanh bình Thế nhưng trong thịt xương mình Mảnh kim loại vẫn khối tình vẹn nguyên … Dù cho vết sẹo ngày xưa Đã chai lì với nắng mưa dãi dầu Vẫn không chai được nỗi đau Khi qua ngõ chợ, gầm cầu, bánh xe Khi trên bàn tiệc hả hê Người ta uống cả lời thề chiến tranh
(Phạm Doanh - Vẫn còn mảnh đạn )
15
Chiến tranh xảy ra con người đã phải chịu biết bao đau thương mất mát. Mọi
người đều hướng tới cuộc sống hòa bình, tự do, hạnh phúc. Thế nhưng bước vào cuộc
sống hòa bình, những nhà thơ đã trải qua những ngày tháng kháng chiến chống Mỹ
lại rơi vào tâm trạng suy tư, trăn trở. Họ nhìn nhận lại tất cả giá trị của cuộc sống, ý
thức sâu sắc cuộc sống trong hoàn cảnh thực tại. Trước đây, hiện thực hiện lên trong
tác phẩm thường là hiện thực “nhìn thấy” thì trong thơ sau 1975, chiến tranh chủ yếu
hiện lên trong ký ức. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn
từ phía sau với bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Chất giọng xót xa, nỗi
buồn được nói nhiều trong thơ.
Các nhà thơ bước ra từ chiến trường đã nhìn nhận cuộc sống có cái gì đó lắng
đọng trong nỗi trăn trở, suy tư. Họ thấu hiểu những mặt được - mất của chiến tranh:
Mậu Thân hai nghìn người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi.
…Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ !
(Chế Lan Viên - Ai ? Tôi !)
Tố Hữu là nhà thơ sáng tác theo nguồn cảm hứng sử thi tiêu biểu trong thời kì
kháng chiến cũng chuyển dòng cảm hứng. Trong hai tập thơ Một tiếng đờn, Ta với ta,
có rất nhiều bài được viết bằng giọng điệu thế sự. Ông than thở tình người đen bạc,
thay đổi khôn lường và băn khoăn, trăn trở trước lối sống thực dụng đang diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày:
Đời đâu phải thị trường nhân phẩm
Gian ác mang mặt nạ thánh hiền
Tình nghĩa cũng theo thời lạnh ấm
Bạc vàng đo giá trị, sang hèn?
(Chân trời mới)
Thời chiến tranh, thơ Việt Nam phổ biến cái tôi công dân mang những phẩm
chất chung của cộng đồng thì đến thời kì này chủ thể trữ tình đã tách mình ra khỏi
cộng đồng. Nó thường mang cảm giác cô đơn, sầu bi, không thể tâm sự cùng ai
những nỗi cảm thương của mình. Thơ cách mạng thời chiến tranh không mang âm
hưởng buồn nhưng thơ sau đổi mới thường mang âm hưởng buồn. Nhưng nỗi sầu của
16
con người rất đa dạng. Có những nỗi buồn rất khó gọi tên, khó diễn tả, phức tạp, bí ẩn
như Nỗi buồn của chiếc bóng của Phạm Thị Ngọc Liên: “Nhiều khi nỗi buồn của tôi
như sợi len dài/ quấn xiết vào trái tim hỗn loạn”.
Các nhà thơ đã thực sự nói lên cảm giác bế tắc và chán nản. Từ xa nhìn về Tổ
quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ
nghèo và bất hạnh của con người trong cuộc sống đầy khốn khó, nói về nhân dân, về
Tổ quốc với những câu hỏi đau đáu như lời tự vấn:
Xứ sở thông minh
Sao thật lắm trẻ con thất học
Lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương...
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa
vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ…
(Nhìn từ xa...Tổ quốc!)
Những năm cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX xuất hiện
nhiều bài thơ gần gũi với cuộc sống đời thường. Chiến tranh kết thúc, nhiều bi kịch
của cuộc sống đời thường hiện ra trong xã hội, thậm chí dẫn đến cảm giác bế tắc, bi
quan, chán nản trong tâm trạng của con người:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi
(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống )
Đáng chú ý là sự xuất hiện của các trường ca vào những năm cuối thập kỷ 70
đầu thập kỷ 80 và vào những năm cuối thế kỷ XX. Sự xuất hiện của các tập trường ca
cho thấy nhu cầu tổng kết về chiến tranh và lịch sử trong thơ là một nhu cầu có thật.
Từ điểm nhìn hiện tại, các nhà thơ mang đến cái nhìn sâu xa về lịch sử đất nước - một
lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít đau thương và bất hạnh. Ý thức nói nhiều hơn
về bi kịch khiến cho các trường ca này không rơi vào giọng điệu tụng ca dễ dãi mà
thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về nhân tình thế thái trong sự chuyển động
không ngừng của lịch sử. Bên cạnh những cây bút thành danh ở thể loại trường ca
như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,… là sự xuất hiện của Trần Anh Thái
với Đổ bóng xuống mặt trời, Hoàng Trần Cương với Trầm tích,… Những trải nghiệm
17
cá nhân và những suy tư mang tính khái quát cao đã khiến cho thơ ca giai đoạn này
có được những khúc ca giàu tính nghệ thuật về số phận đất nước, nhân dân.
Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật là
xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau kháng chiến. Nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn
nhân sinh, về những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Nếu như
trước đây, các nhà thơ có sự e ngại nói về nỗi buồn thì trong thơ sau 1975, nhiều nhà
thơ trực tiếp bày tỏ nỗi buồn. Đó không hẳn là nỗi buồn kiểu Thơ mới mà là nỗi buồn
gắn chặt với một thực tại mới, một cảm quan nghệ thuật mới. Có nỗi buồn về thần
tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng bị tan vỡ khi nhận ra “Chúa chỉ bằng đất đá” (Nguyễn
Trọng Tạo), có nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý chuyện
tồn tại mà “xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những trắc ẩn về riêng
tư, đôi lứa: “Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành
tiếng” (Lâm Thị Mỹ Dạ). Chất giọng tự thú, tự bạch trở thành gam giọng phổ biến.
Sở dĩ có nỗi buồn như vậy vì nó xuất phát từ thời thế, sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất
an trước thời cuộc; đồng thời, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng
lẻo, con người sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng thấy cô đơn hơn. Câu
hỏi “Người sống với người như thế nào?” (Hữu Thỉnh, Hỏi) thể hiện rất rõ tâm trạng của
một thời đoạn lịch sử cụ thể. Nét nổi bật của xu hướng này là các nhà thơ rung động
trước những biến thái tâm lý tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như thật mong manh.
Trong cuộc sống thời bình, con người phải đối diện với biết bao điều ngổn ngang,
bề bộn, tốc độ sống nhanh và các quan hệ sống cũng trở nên trần tục hơn. Điều đó buộc
các nhà thơ phải chuyển đổi cách tư duy. Thơ cần đến một sự tỉnh táo hơn:
Tôi xoay những ô vuông
Có nhà thơ than rằng đời bây giờ tỉnh táo quá
Tôi, ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo
Vì tôi biết cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn được của đam mê
(Thanh Thảo - Khối vuông ru bích)
Công cuộc đổi mới của Đảng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại làm thay
đổi cuộc sống nước ta. Đất nước đổi mới đã thúc đẩy văn học trong đó có thơ ca cũng
bước vào thời kì đổi mới. Các nhà thơ dám nói ra về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều sự
thật đau lòng, dám khẳng định cá tính sáng tạo của mình. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ cả nước vào
tháng 10 năm 1987 có tác động rất lớn đến tinh thần của những người cầm bút, nhất
18
là ý thức tự cởi trói trong lĩnh vực sáng tạo. Chính cơ chế thị trường, bối cảnh lịch sử
và văn hóa mới trong đó có cả mặt phải và mặt trái của nó đã khiến cho các nhà thơ
không thể nhìn nhận cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những
thay đổi của cuộc sống. Điều này dẫn đến thay đổi về cảm hứng sáng tác, tư duy nghệ
thuật. Họ đã nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và không ngừng tự vấn về đời sống,
khám phá đời sống nội tâm và phơi bày nhưng bi kịch, những hoài nghi về những giá trị
ổn định để đi tìm những giá trị mới. Có nhà thơ đã sáng tác theo cảm hứng “giải thiêng”
và mong muốn tìm đến những hình thức tổ chức ngôn từ mới lạ để tạo ra quan niệm
riêng về đời sống.
Về thể loại, mặc dù thơ tự do và thơ văn xuôi là hai thể thơ chiếm ưu thế trong
đời sống thơ ca sau 1975 nhưng trên thực tế, các thể thơ truyền thống như thơ lục bát,
thơ năm chữ, bảy chữ vẫn tồn tại. Song so với trước đây, các thể thơ trên đã có những
thay đổi đáng kể về cấu trúc bên trong. Thơ năm chữ và bảy chữ trước đây gắn chặt
với cách gieo vần và nhịp điệu thơ thường khá êm ả. Đến thời đoạn sau 1975, giọng
điệu thơ gân guốc hơn, các liên tưởng thơ ít tuân theo quan hệ nhân - quả hơn. Riêng
về lục bát, đã có những cách tân về cách trình bày, có những bài thơ lục bát được bố
trí theo kiểu thơ tự do.
Thơ ca thời kì đổi mới không còn êm mượt như thơ ca giai đoạn chống Mỹ mà
trở nên trúc trắc hơn, ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ phong phú, đa dạng hơn. Thậm
chí, tính trong suốt và sáng rõ của ngôn ngữ thơ nhiều khi được cố ý mờ hóa nhằm
tạo nên tính đa nghĩa trong thơ. Tính đa ngôn ngữ trong thơ ca đã được thể hiện rõ ở
giai đoạn sau năm 1986. Bên cạnh xu hướng đưa thơ gần với đời sống còn có xu
hướng ý thức tạo ra tính nhòe mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn
gia tăng chất ảo trong thơ, buộc người đọc phải ngẫm nghĩ, giải mã hình tượng nghệ
thuật qua nhiều chiều liên tưởng văn hóa khác nhau.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ đậm đời thường đã được không ít nhà thơ có sử
dụng để sáng tác thơ ca. Nhiều nhà thơ thích sử dụng cách nói dân gian, khiến cho
thơ dễ dàng đến với người đọc. Người đọc sẽ tìm thấy sự gần gũi, tếu táo trong cách
thể hiện của nhà thơ Nguyễn Duy: “Tạnh men là tạnh la đà/ tạnh cơn một bóng ảo ra
chính hình/ Phàm trần bớt chút lung linh/ các em bớt xỉnh xình xinh mấy phần”
(Kiêng). Màu sắc đời thường trong thơ đã giúp cho thơ trở nên gần gũi hơn với cuộc
sống. Tuy nhiên, không ít người cho rằng việc đưa ngôn ngữ thơ quá gần với tiếng
cười dân gian và ngôn ngữ đời thường sẽ làm giảm tính nghệ thuật của thi ca. Sự lo
lắng này không phải không có cơ sở. Vận dụng cách nói thường ngày vào thơ, gia
19
tăng tính giễu nhại trong thơ là một nhu cầu của đời sống dân chủ nhưng nếu rơi vào
lạm dụng, thơ sẽ trở thành dễ dãi và quay trở lại với tính đơn nghĩa trong khi bản chất
của ngôn ngữ thi ca là đa nghĩa, mơ hồ.
Ngôn ngữ thơ giàu chất tượng trưng cũng thường gặp trong những nhà thơ có ý hướng cách tân, hiện đại thơ. Tiêu biểu là nhà thơ Lê Đạt, một trong những cây bút chủ trương tạo sinh ngữ nghĩa, tỉnh lược từ ngữ tối đa để gia tăng tính biểu đạt của ngôn ngữ và buộc người đọc phải suy ngẫm. Ngôn ngữ tượng trưng khiến cho nghĩa thơ trở nên mờ nhòe, độ mở của hình tượng thơ được nhân lên.
Công cuộc đổi mới đã mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới và thơ ca, trước vận hội này cũng thay đổi chứ không theo mô hình nghệ thuật cũ. Bắt đầu xuất hiện những giọng thơ mới lạ như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Với các thi sĩ này, ngôn ngữ/ chữ là hiện thực trực tiếp và thứ nhất của tư duy thơ. Chữ khơi gợi tư duy và mĩ cảm. Khi tuyên bố làm thơ là làm chữ, các thi sĩ đã đi đến tận cùng chiều năng nghĩa của chữ. Cấu trúc của thơ dòng chữ là cấu trúc của những tiền giả định (Lê Đạt gọi là vân chữ, bóng chữ), xuất hiện do chính khả năng vẫy gọi, tụ nghĩa, liên tưởng của từ, chữ, âm, hình... trong quá trình vỡ ra và tái thiết một trật tự, một khả năng biểu nghĩa mới:
Nắng tạnh heo mày hoa lạnh Mimôza chiều khép cánh mi môi xa (Lê Đạt - Mimôza)
Màu sắc lạ hóa trong ngôn ngữ trở nên nổi bật. Có thể thấy rõ điều đó trong
một đoạn thơ của Nguyễn Quang Thiều:
Trên cánh đồng mênh mông, cỏ không đặt ra nghi lễ bốn mùa Tôi trở về tìm nơi không có tiếng người, không có bóng cây Bền bỉ hơn sự lặng im, lưỡi cày từ tháng giêng thuở trước Dựng lên những luống đất của cơn mơ, người lạ đến gieo trồng (Độc thoại)
Tuy nhiên, trong sự cách tân đổi mới, có những nhà thơ vẫn trên cơ sở kế thừa
và phát huy các ưu thế của truyền thống thơ trữ tình Việt Nam:
Anh không còn gì ngoài bàn tay em vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời thời gian rơi qua từng kẽ ngón tay em vất vả không giữ được đâu em anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ (Trương Đăng Dung - Anh không còn gì ngoài em )
20
Thời gian trôi qua nhanh, sự vô thường của kiếp người thực ra là quy luật. Nhà
thơ đã ý thức một cách sâu sắc giới hạn của đời người và ý nghĩa của kiếp người.
Song dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở, băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh
chóng tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư vô.
Trương Đăng Dung gửi gắm trong thơ một tấm lòng để đau nỗi đau của số phận con
người; để trăn trở, suy tư trước bao nghịch cảnh của cuộc đời.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 và thời kì đổi mới đã vận
động một cách mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Với sự thay đổi cảm hứng sáng tác,
về tư duy nghệ thuật, sự nhận thức toàn diện hơn về bản chất thơ ca và cấu trúc thể
loại, thơ Việt Nam đã thực hiện một cuộc tạo đà mạnh mẽ cho những kết tinh nghệ
thuật trong chặng đường sắp tới.
1.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh thời kì kháng chiến chống Mỹ đến nay
1.2.1. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm chống Mỹ
Hữu Thỉnh đã từng phải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở sáu năm với bác
ruột, lên mười tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân
Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân. Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, ông mới
được đến trường. Năm 1963, Hữu Thỉnh tốt nghiệp phổ thông và tham gia nhập ngũ,
trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây, ông gắn bó với cuộc đời
người lính, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm
cán bộ tuyên huấn,… Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, trải qua hầu khắp
các chiến trường máu lửa, bàn chân người lính đã trải qua chiến trường Nam Lào,
Quảng Trị, Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh với tư cách là phóng viên mặt trận.
Chính nhiều năm tham gia kháng chiến đã giúp cho Hữu Thỉnh có nguồn cảm hứng
sáng tác thơ ca và có những vần thơ đậm chất lính. Từ cuộc đời người lính Hữu
Thỉnh bước vào con đường thơ ca bằng tấm lòng chân thành và đầy nhiệt huyết.
Được sống chiến đấu và cảm bút sáng tác trong những năm tháng khốc liệt và đầy
bão lửa của chiến tranh, thơ Hữu Thỉnh đã phản ánh chân thực hiện thực và con
người trong kháng chiến. Bằng con mắt của người trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận
và bằng tâm hồn nhạy cảm của một người chiến sĩ, Hữu Thỉnh luôn quan tâm đến
cuộc sống chiến đấu với không khí chiến tranh, những cam go ác liệt đau thương mà
đầy hào hùng, vẻ vang. Bản thân nhà thơ cũng có ảnh hưởng của lớp các nhà thơ cách
mạng thời kì chống Pháp, lớp người từng tham gia kháng chiến cống hiến cho dân
tộc. Vì vậy, khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hữu Thỉnh đã dấn thân và
21
hành động để cống hiến: “Một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hoà giữa chủ
thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ. Nói gọn, trong một anh bộ đội có một thi nhân
(…) Nhập cuộc và hành động có đòi hỏi phải hy sinh không ? Có. Đó là có vụn vặt,
quẩn quanh, lạc điệu và nguy cơ cạn kiệt tâm hồn (…) Nhập cuộc và hành động,
được gì ? Rất nhiều: Cả một đời thơ. Cuộc sống cho anh bao nhiêu thứ, kể cả sự đào
luyện nghiêm khắc để anh có thể trở thành “Con của vạn nhà” đã là cái lớn, chiến
lược cho cả đời thơ” [58, tr.5]
Có thể nói những năm kháng chiến chống Mĩ, thơ Hữu Thỉnh luôn bám sát
cuộc sống và phản ánh chân thành những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh tinh
thần chiến đấu anh dũng, hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông
luôn ý thức rõ được vai trò, trách nhiệm của thế hệ mình:
Chúng tôi còn biết xoay xở ra sao
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Mang bao nhiêu tai biến dọc đường
Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn
Chúng tôi đành mang đạn trước tiên
Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường
Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt.
(Đường tới thành phố)
Nhà thơ đã miêu tả chiến tranh với con mắt nhìn từ chiến trường, những câu
thơ được gợi lên từ đời sống hiện thực. Những thiếu thốn, gian khổ không thể làm
nhụt chí những người lính mà trái lại từ trong đau thương gian khổ họ vẫn quyết tâm
chiến đấu và đó cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tác thơ. Mảng thơ viết về chiến
tranh của Hữu Thỉnh gồm tập thơ Âm vang chiến hào (thơ in chung), Tiếng hát trong
rừng, trường ca Sức bền của đất và Đường tới thành phố. Cảm hứng chủ đạo trong
các sáng tác về chiến tranh là cảm hứng về đất nước, con người, về cuộc chiến đấu
chống Mỹ cứu nước. Những vần thơ của Hữu Thỉnh mang cảm hứng ngợi ca, tự hào
về Tổ quốc đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc.
22
Sự khốc liệt và thơ mộng của Trường Sơn đã giúp Hữu Thỉnh tìm đến nguồn
cảm hứng về đất nước, về nhân dân và các thế hệ những người cầm súng kháng chiến
thật giản dị và trung thực. Thơ ông đề cập đến những vấn đề trọng đại của dân tộc,
ngợi ca những con người lí tưởng của thời đại, những con người dám xả thân vì nhân
dân, vì Tổ quốc:
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt
Yêu tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi
Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa
(Đường tới thành phố)
Thơ Hữu Thỉnh thể hiện một cách chân thực, tự nhiên về cuộc sống với hồn
thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn qua hình ảnh người lính nơi chiến trường:
Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
Cây mát cho người người mát cho nhau
(Tiếng hát trong rừng)
Những người lính đã quên đi những thiếu thốn, bệnh tật của mình để hát với
tâm hồn trẻ trung, sôi nổi và tràn đầy tình yêu thương. Họ truyền cho nhau tình yêu
cùng sự quan tâm chia sẻ để vượt qua khó khăn thử thách. Tình đồng chí đồng đội
tiếp thêm sức mạnh để biến những gian nan thành niềm tận hưởng của cuộc sống.
Chính những gian khổ đã trở thành kí ức đẹp trong mỗi người lính. Những hình ảnh
của quê hương, đất nước, những tình cảm quê hương, làng xóm, tình quân dân, hình
ảnh của người mẹ, người vợ, người chị, người em,… đều hiện lên thật thân quen và
xúc động.
Thơ Hữu Thỉnh giàu chất suy tưởng, riêng mảng thơ viết về chiến tranh của
nhà thơ có sự kết hợp giữa giọng chính luận với giọng trữ tình đằm thắm. Hữu Thỉnh
luôn đặt tiêu chí giản dị và trung thực lên hàng đầu nên khi thể hiện cảm xúc, tình
cảm của mình đối với Tổ quốc nhà thơ luôn chú ý khắc họa những hình ảnh gần gũi
thân thương mà vẫn mang nét riêng không hề lẫn với bất cứ nhà thơ nào. Điều đó
mang đến cho thơ ông những nét vừa gần gũi, quen thuộc lại vừa độc đáo, mới mẻ.
Quen ở cách cảm, cách nghĩ gần gũi với tiếng nói chung của dân tộc và mới lạ ở cách
nhìn, cách diễn tả độc đáo; nhà thơ đã diễn tả chiều sâu tâm hồn mình với những cảm
xúc, suy nghĩ lắng đọng khơi gợi sâu xa.
23
Như vậy, thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh mang hơi thở của dân tộc, là
tiếng nói của nhân dân thấm nhuần chất sử thi và dạt dào chất trữ tình. Cái tôi của nhà
thơ lúc này đã hòa nhập với cái ta chung của dân tộc, thể hiện cái tôi của thơ ca cách
mạng. Chính điều đó đã tạo nên trong thơ Hữu Thỉnh một giọng thơ độc đáo, kết hợp
giữa giọng chính luận và giọng trữ tình đằm thắm. Bên cạnh đó giọng điệu chủ đạo
còn có sự bổ sung của nhiều chất giọng: chân thành mà bay bổng, sôi nổi, hào sảng
mà lại không kém phần sâu lắng, vừa hướng tới hiện thực chiến tranh lại vừa chất
chứa đầy kỉ niệm. Đó chính là những yếu tố tạo nên sự thành công trong sự nghiệp
sáng tác của Hữu Thỉnh ở thời kì kháng chiến chống Mỹ.
1.2.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm sau kháng chiến chống Mỹ đến nay
Sau những năm tập trung quan liêu bao cấp, đất nước bước sang thời kì đổi
mới. Sự phát triển của cơ chế thị trường và nhu cầu hội nhập khiến cho văn học cũng
có sự đổi mới. Cùng với sự đổi mới văn học nói chung và thơ ca nói riêng, thơ Hữu
Thỉnh cũng mang đến một nguồn cảm hứng và phong cách sáng tạo mới. Cảm hứng
về đất nước, về nhân dân trong thơ Hữu Thỉnh dần chuyển thành cảm hứng về cuộc
sống đời thường. Cuộc sống đã được nhìn nhận với phương diện đa chiều, chính
nguồn cảm xúc phong phú trong cuộc sống đã tạo cho thơ Hữu Thỉnh hướng nhìn
nhận, suy tư sâu lắng, ở thơ ông vẫn có sự chân thành, giản dị mà tinh tế với tâm hồn
đa cảm. Gần mười lăm năm tìm đoạn đường phát triển tiếp theo cho thơ mình để rồi
Hữu Thỉnh đã cho ra mắt hai tập thơ Trường ca Biển, Thư mùa đông và đến năm
2005 xuất bản tập thơ Thương lượng với thời gian đã khẳng định được vị trí của nhà
thơ trong nền thơ ca đương đại Việt Nam.
Những sáng tác của Hữu Thỉnh trong thời kỳ này đã thể hiện cách nhìn nhận
đánh giá về cuộc đời với những suy ngẫm của một con người đang trăn trở trước cuộc
sống đầy những biến động. Thơ Hữu Thỉnh mang dấu ấn của sự từng trải trong cuộc
sống. Trong cái tôi trữ tình của nhà thơ vẫn có cái tôi của người lính và có cả cái tôi
cá nhân cô đơn, xót xa, nhiều âu lo và dự cảm buồn đau trước hiện thực cuộc sống.
Hữu Thỉnh vẫn kế tiếp giai đoạn sáng tác trước đây ở đề tài về Tổ quốc, vận mệnh đất
nước vẫn được đề cập, hình tượng người lính vẫn được nhà thơ quan tâm, ngợi ca
nhưng từ góc nhìn mới, từ một cảm quan nghệ thuật mới.
Trường ca biển được hoàn thành sau mười ba năm trong sáng tạo của Hữu
Thỉnh (1981-1994). Tác phẩm càng có giá trị hiện hữu với hôm nay khi cả nước đang
24
đồng lòng, dốc sức hướng ra biển đảo trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Nhà thơ đã nối tiếp đề tài về vận mệnh tổ quốc và xen vào đó
là tình cảm quê hương, gia đình và tình cảm cá nhân trong tâm hồn người lính. Người
lính đã trải qua tuổi ấu thơ vất vả cay đắng dưới chế độ cũ và lớn lên trở thành người
lính “kết bạn suốt chiến trường ngang dọc”, tuổi trẻ sung mãn có mặt trên trận tuyến
đánh Mỹ Ngụy và rồi người lính đó lại đến với biển đảo:
Trước mặt tôi bây giờ là biển cả
Lại gặp núi non trong những chóp sóng thần…
Người lính được nhân dân trao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của đất nước với
vai trò là người lính đảo. Khác với những người lính năm xưa trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Trường ca biển phản ánh số phận cá nhân người lính cách mạng “Họ
đang bơi trên số phận của mình”. Họ đã phải chịu đựng sự hi sinh trong cảm giác
thiệt thòi như những “dòng sông hóa thạch” dưới đáy biển khơi. Họ phải gồng mình
lên để lấp khoảng trống trong tâm hồn, đắn đo giữa được và mất, giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa hi sinh và cái giá phải trả cho sự quên mình:
Chúng tôi là những người lính đảo thời bình
Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất
Để chống lại cái khoảng trống kia
Cái khoảng trống chực len vào đồng đội
Chực len vào giữa bạn và tôi
Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa
Cáo ngay trong chính bản thân mình
(Trường ca biển)
Người lính trên đảo xa đã phải đối diện với những khắc nghiệt, nghịch lý góc
cạnh của số phận, những con người trả giá đến cùng để giữ lấy cho cuộc sống một ý
nghĩa, một lãnh thổ toàn vẹn, một đội ngũ bền vững để chống lại sự cô đơn và sự hoà
tan. Người lính sống không phải chỉ để thoát hiểm khỏi những hàm răng cá mập,
thoát khỏi bão biển, thoát khỏi cái chết bủa vây từng giây, mà sống là để khẳng định
một ranh giới hoàn chỉnh, một diện mạo cho Tổ quốc. Số phận của họ là hiện thân
của số phận dân tộc trong những thử thách của lịch sử.
Nếu Trường ca biển là hành trình đầy gian lao của người lính khi đến với biển
thì Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian là hành trình đi “tìm người”, tìm
25
trong thất vọng để rồi hi vọng những giá trị nhân bản mà cuộc sống xô bồ trước mắt
đang làm mờ đi, chìm lấp đi. Giá trị nhân bản mà nhà thơ tìm thấy là sự đồng cảm, là
niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con người với con người. Hữu Thỉnh viết thơ về
tình yêu không nhiều nhưng tình riêng trong thơ ông đã cảm hóa được lòng người bởi dư
vị xót xa, cay đắng. Nhà thơ nhạy cảm trước sự đơn lẻ trong tình yêu, cách nghĩ cách
cảm của nhà thơ cũng gần gũi với diễn biến tình cảm và cách ứng xử của con người Việt
Nam. Trong tình yêu, nhà thơ cũng có lúc thể hiện nỗi niềm tương tư, thương nhớ:
Không giữ nổi một mình
Nhớ em chia cho sóng
Nhấp phải chút tương tư
Thế là chiều biển động.
(Tám câu)
Hữu Thỉnh có cách cảm nhận về tình yêu thật xúc động, đằm thắm, truyền
thống mà cũng rất hiện đại, vừa chân thành vừa tinh tế. Có lẽ xưa cũ là phần văn hoá,
tính cách dân tộc, là “nếp cảm, nếp nghĩ của anh cũng gần gũi với diễn biến tình cảm,
sức chịu đựng và ứng xử của con người Việt Nam” [24, tr.56]. Lời thơ như lời bộc
bạch, tâm sự nỗi lòng của mình. Nhà thơ lấy cái mênh mông của biển cả với sóng, để
biến thành môi trường suy tư, để thi vị hóa những khát vọng của tình yêu. Tình yêu là
một đề tài quen thuộc nhưng đến với thơ Hữu Thỉnh, người đọc cảm nhận được sự
rung động mới mẻ, rất riêng. Không trẻ trung, sôi nổi, ồn ào mà nhà thơ nhận ra sự
chông chênh, trống vắng của lòng mình và đưa ra triết lí tình yêu của riêng mình:
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em.
(Thơ viết ở biển)
26
Với Hữu Thỉnh, "biển" và "cánh buồm" - thiên nhiên, vũ trụ và con người như
một thể thống nhất không thể tách rời. Cái tài của nhà thơ là dùng ngoại cảnh để khắc
hoạ thật sâu tâm trạng mình. Lời thơ giản dị mà tinh tế gợi nhiều liên tưởng sâu xa
trong lòng người đọc. Tình yêu trong thơ của Hữu Thỉnh trước đây mới chỉ là những
ý nghĩ thấp thoáng trong dòng hồi tưởng của người lính về quê hương trước giờ xuất
kích thì đến giờ nhà thơ đã có những bài thơ tình trọn vẹn có sức lay động lòng người
ở sự đa sầu, đa cảm của người từng trải. Thơ Hữu Thỉnh tiêu biểu cho một hướng đi
nhiều triển vọng, giàu sức sống như một mạch nguồn không cạn giữa một nền thơ
thời kì đổi mới.
Trước đây khi viết về chiến tranh, cảm hứng chủ đạo trong thơ Hữu Thỉnh là
cảm hứng sử thi, đề cao cái cao cả, hướng tới Tổ quốc trong niềm say mê khẳng định
một lẽ sống lớn, một tình yêu lớn thì khi viết viết cuộc sống thời bình ông lại tìm đến
cảm hứng thế sự, hướng tới đời tư với nhiều nỗi buồn, cô đơn trước sự đổi thay, trước
số phận con người mà ở đó chưa thể tìm thấy được sự đồng cảm. Nhà thơ thường
phản ánh cuộc sống đời thường, nhìn nhận về tình đời, lẽ sống và thân phận cá nhân
trong cõi nhân gian đôi lúc tìm về nương tựa vào những giá trị truyền thống. Hàng
loạt các bài thơ: Hạnh phúc, Tự thú, Nghe tiếng cuốc kêu, Tìm người, Một thoáng làm
người, Năm tháng trên vai…đã thể hiện rõ hiện thực đời thường với biết bao trăn trở,
suy tư, tự vấn về nhân tình thế thái và về bản thân.
Như vậy, sáng tác của Hữu Thỉnh từ kháng chiến đến thời kì đổi mới về văn
học đã cho thấy sự chuyển biến trong hồn thơ: từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế
sự hướng về đời thường. Trong thời kì chiến tranh, nhà thơ từng viết xúc động về tinh
thần chiến đấu và đức hi sinh của dân tộc Việt Nam. Khi hòa bình lập lại, vận mệnh
của đất nước vẫn được nhà thơ phản ánh đồng thời với đó là những trăn trở, lo âu
khắc khoải trước cuộc đời. Thơ Hữu Thỉnh có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại, giữa chiều sâu triết lí với cảm xúc mãnh liệt sục sôi. Hữu Thỉnh - một trong
những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca chống Mỹ đã khẳng định được bản lĩnh sáng
tạo và vị trí của mình trong nền thơ ca đương đại Việt Nam.
27
Chương 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống trong sáng tác của Hữu Thỉnh
Văn học là một tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống. Qua tác phẩm văn
học, người tiếp nhận có thể thấy được những khía cạnh khác nhau của đời sống xã
hội. Không nằm ngoài quy luật đó, thơ là sản phẩm của tưởng tượng nhưng sự tưởng
tượng trong thơ bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực. Người sáng tác bao giờ cũng
thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhưng
khác với văn xuôi, thơ phần nhiều thuộc thể loại trữ tình, trong đó thế giới nội tâm
với những sắc thái tình cảm của con người được bộc lộ trực tiếp và trở thành nội dung
chủ yếu trong thơ. Theo cách thức riêng, thơ phản ánh hiện thực đời sống thông qua
những biến cố, sự kiện thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống. Vì vậy,
nhà phê bình văn học Nga V. Bielinxki đã viết: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó
mới là nghệ thuật”. Dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn cuộc đời và
nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết, họ phải là người cảm nhận
cuộc sống tinh tế, mãnh liệt nhất. Bielinxki đã cho rằng: “Bất cứ thi sĩ nào cũng
không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình, và chỉ miêu tả mình- dù là miêu tả
những nỗi đau khổ của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào,
sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu
thẳm của lịch sử xã hội; bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và
của nhân loại”.
Trong sáng tác văn chương, người cầm bút không phải đưa vào tác phẩm mọi
vấn đề của hiện thực mà chọn cho mình một cách nhìn riêng, tạo ra giá trị nhất định
khi phản ánh hiện thực. Quan niệm về hiện thực như thế nào tùy thuộc vào cách suy
nghĩ, nhìn nhận, cách cảm của người sáng tác. Bởi “văn học phản ánh thực tại không
phải là sao chép giản đơn các sự thực mà là nắm bắt các ý nghĩa giá trị của thực tại
bằng những hình tượng sáng tạo trong tác phẩm. Ý nghĩa và giá trị của các hiện
tượng thực tại tản mạn, không nổi bật. Tác phẩm nghệ thuật là một thế giới đặc thù
được sáng tạo ra nhằm làm cho các ý nghĩa và giá trị cuộc sống trở nên tập trung, nổi
bật. Do đó, các hiện tượng trong tác phẩm mang một nội dung ý nghĩa khác so với thực
tại.” [42, tr.17]. Đây là một đặc điểm chung mà bất kì người cầm bút nào cũng phải tuân
thủ khi phản ánh hiện thực nếu muốn sáng tạo ra một tác phẩm có giá trị.
28
Trong những năm chống Mỹ, cả dân tộc dồn sức vào công cuộc đấu tranh giữ
nước. Do đó, văn học phải đặt nhiệm vụ chính trị lên hàng đầu. Người cầm bút phải
sáng tác ra những tác phẩm cổ vũ tinh thần chiến đấu và xây dựng một niềm tin mãnh
liệt vào thắng lợi ở tương lai. Hiện thực tàn khốc của chiến tranh qua cái nhìn lãng
mạn và ngòi bút có phần thi vị hóa, lí tưởng hóa. Cuộc sống hiện lên trang viết không
như nó vốn có mà như nó cần phải có trong niềm tin, ước mơ và khát vọng cháy bỏng
của mọi người. Khi đất nước sạch bóng quân thù, hoàn cảnh đổi thay, quan niệm
nghệ thuật về con người cũng có sự biến chuyển. Văn học không thể giữ nguyên quan
niệm của thời chiến mà phải đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước thời bình.
Các nhà văn phải đi sâu vào mọi ngóc ngách của hiện thực để nhận biết và phản ánh
một cách chân thực. Người viết không thể chỉ nói đến những điều tốt đẹp mà bỏ qua
những cái xấu xa. Nếu không nhìn nhận những mặt trái của xã hội thì con người rất dễ
bằng lòng với thực tại. Điều này sẽ làm cho đất nước ngày càng trì trệ hơn. Do đó, các
văn nghệ sĩ cần phải thay đổi tư duy và quan niệm sáng tác cho phù hợp với nhu cầu
của thời đại. Theo đó, bức tranh hiện thực trong sáng tác của Hữu Thỉnh ở mỗi chặng
đường xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước cũng mang màu sắc riêng.
2.1.1. Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mỹ
Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Đó không chỉ là đòi hỏi của
thời đại mà còn là sự thôi thúc bên trong của chính các nhà thơ. Sự phản ánh phải
nhanh nhạy và kịp thời, có tính thời sự, phải thể hiện được tinh thần chiến đấu của
toàn dân tộc. Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau
trên những mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam. Không gian sáng tạo của thơ
thời kì này thật đa dạng, phong phú, nhờ thế đã tạo ra một chân trời rộng mở cho sự
sáng tạo của thi ca nói riêng, văn học nói chung. Nhưng tìm và xác định cho mình
một cách nhìn riêng thì không phải dễ dàng. Xuất hiện trong chặng cuối cùng của
phong trào thơ trẻ chống Mỹ, trước một đội ngũ các nhà thơ tài năng và nổi tiếng,
Hữu Thỉnh đứng trước một thách thức lớn. Hoặc là thơ được thừa nhận hoặc là sẽ bị
rơi vào quên lãng. Điều đáng nói là bằng tài năng tâm huyết của mình, nhà thơ không
những vượt qua thử thách này mà còn tạo ra những vần thơ có sức sống bền bỉ với
thời gian. Điểm lại những sáng tác của Hữu Thỉnh, chúng ta nhận thấy rằng ông thực
sự là một tài năng văn học. Đó là kết quả của quá trình “nhập cuộc, dấn thân” sâu sắc
vào đời sống, không ngừng mài giũa tài năng và lao động sáng tạo.
29
Vậy, Hữu Thỉnh đã khai thác và tiếp cận hiện thực đời sống bằng cách nào?
Nhà thơ có cách riêng trong việc tiếp cận hiện thực và bày tỏ cảm xúc của mình. Thơ Hữu Thỉnh nghiêng về suy tư, triết lí. Đó là lý do khiến thơ Hữu Thỉnh mang cái nhìn
chiêm nghiệm về cuộc đời. Mặt khác, do từng trải qua cuộc chiến tranh gian khổ, ác
liệt nên thơ Hữu Thỉnh là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống, là sự ngân vọng của
những kỷ niệm sâu sắc về một thời đạn bom.
Sinh trưởng trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nhà thơ đã dấn thân vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc với tư cách là người lính trực tiếp cầm súng chiến
đấu. Thực tế sinh động nơi chiến trường cùng với cảm quan nghệ thuật của mình, Hữu Thỉnh đã để lại những dòng thơ về hiện thực cuộc sống khá thành công. Hồn thơ
Hữu Thỉnh thường tìm đến với những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, nhân dân, về
thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ. Ông từng viết “chúng tôi làm thơ để
ghi lấy cuộc đời mình”. Khi đọc thơ của ông, ta thấy được quan điểm của một nhà
chiến sĩ làm thơ trong thời kì đó là để ghi lại cuộc đời chiến đấu của mình cũng chính
là của dân tộc. Hữu Thỉnh cho rằng: Chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất. Ở
đó lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa là
niềm say mê của mỗi chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử
thách lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu, sống hết mình
trong thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm bút trung thực. Thơ thế
hệ chống Mỹ là tiếng nói sống động và tự tin của những người trong cuộc. Người ta
bắt gặp khá nhiều sự nhân danh nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông
của người đọc vì nó được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được
đảm bảo bằng máu” [18, tr.417]. Với góc nhìn của người lính về chiến tranh ông đã
ghi nhận và phản ánh chân thực cuộc sống khốc liệt chiến trường bằng những vần thơ
giàu nhiệt huyết với những thanh âm sôi nổi, trẻ trung, xông xáo. Trang thơ của Hữu Thỉnh đã ghi lại vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ chân thực về hiện thực những năm
tháng chống Mỹ. Người chiến sĩ ấy vừa trực tiếp cầm súng tham gia chiến đấu lại vừa cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời mình:
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng Còn mang thuốc Còn mang nhau Mang bao nhiêu tai biến dọc đường.
(Đường tới thành phố)
Những câu thơ trên đã minh chứng rất rõ cho quan niệm làm thơ của Hữu
Thỉnh. Đọc thơ Hữu Thỉnh, người đọc dễ dàng nhận thấy thơ ông là tấm gương phản
30
ánh hiện thực đời sống mà ở đó nhà thơ đóng vai trò như một họa sĩ quan sát để vẽ
bức tranh cuộc sống nhưng không phải bằng màu sắc mà bằng ngôn từ. Hữu Thỉnh đã chuyển “sự sống chung thành nỗi niềm riêng của chính mình”. Qua thơ Hữu Thỉnh,
hiện thực cuộc chiến tranh đã hiện lên thật cụ thể và chân thật nhất. Nhà thơ không
phải là người đứng ngoài tưởng tượng về chiến tranh mà thực sự sống giữa chiến
trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến chính là chiếc nôi nuôi dưỡng hồn thơ Hữu Thỉnh, cho nhà thơ những cảm nhận nghệ thuật phong phú để làm nên những hình ảnh thơ đa dạng, trong sáng, đậm màu sắc dân gian. Ông tự thấy “Lòng tôi mắc nợ
chiến khu một đời”. Chính cái nôi khắc nghiệt ấy đã in đậm trong tâm trí nhà thơ để những năm sau này Hữu Thỉnh vẫn còn mang những hồi ức về cuộc chiến: Tiếng hát
trong rừng, Giấc ngủ trên đường ra trận,…
Cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt cho nên là người trực tiếp cầm
súng, Hữu Thỉnh có điều kiện thấm thía ý nghĩa của thơ ca đối với cuộc đời, nhất là
thơ ca trong kháng chiến. Với Hữu Thỉnh, thơ như ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn người
lính trên những chặng đường hành quân đánh giặc:
Chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy
Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa
(Đường tới thành phố)
Trong chiến tranh, hoàn cảnh đôi khi bắt họ phải lựa chọn giữa đạn và sách,
người lính đã chọn đạn. Nhưng như thế không có nghĩa là họ đoạn tuyệt với sách vở,
thi ca “Không có sách chúng tôi làm ra sách”. Không thể mang theo sách, họ tự làm
ra sách riêng của mình bằng cách:
Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường
Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt.
(Đường tới thành phố)
Chính thơ ca đã giúp người lính quên đi những khó khăn, nhọc nhằn, vất vả
của cuộc chiến. Người lính và thơ đã hòa làm một. Họ viết về mình, về những đồng đội của mình, về một thời điểm lịch sử oanh liệt của dân tộc để thấy tự hào về sự có mặt của mình trong dòng chảy lịch sử đó. Hữu Thỉnh luôn cho rằng thơ có được là do “nhập cuộc, dấn thân, chắt lọc kinh nghiệm”. Vì vậy người đọc dễ nhận thấy thơ ông “ngồn ngộn cuộc sống”. Làm thơ là cách tốt nhất để Hữu Thỉnh ghi lại những hình ảnh, những màu sắc, những thanh âm đa dạng của cuộc đời.
Trong cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi những đau thương, mất mát. Sự
hi sinh của người lính ở thời khắc lịch sử nào cũng oanh liệt bởi mục đích cao cả vì
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Ở mỗi thời điểm lịch sử, với điều kiện, tính
31
chất của cuộc chiến tranh và nhận thức của cộng đồng lại đem tới một sắc thái khác
nhau. Trong Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác của Đặng Trần Côn, diễn Nôm Đoàn Thị Điểm), là sự thê lương dưới cái nhìn phản chiến của người chinh phụ: “Hồn tử sĩ
gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.” Nếu như với văn chương trung đại, cái
chết của người chinh phu còn mang màu sắc ước lệ, tượng trưng thì đến với thơ
chống Pháp, đó là những hình ảnh, cảm xúc chân thực. Chân thực từ tình huống đến cách khâm niệm, chôn cất người chiến binh:
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán
(Hoàng Lộc - Viếng bạn)
Bước sang thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tính chất, quy mô của
cuộc chiến lại trở nên khốc liệt hơn rất nhiều. Sự hi sinh quả cảm không thể chỉ đơn
giản bằng sự xả thân với tấm thân chèn pháo hay lấy thân mình lấp lỗ châu mai,…
Ngược lại, đó là những sự hi sinh, tổn thất nhiều hơn. Đến với thơ Hữu Thỉnh, hình
ảnh những người lính hi sinh trong lửa đạn được khái quát hóa bằng hình tượng
người anh, người đồng chí vừa gần gũi vừa thiêng liêng:
Biển ùa ra xoắn lấy mọi người
Vì yêu biển mà họ thành sơ hở
Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ
Mặt anh còn cách nước một vài gang.
(Phan Thiết có anh tôi)
Đây là lời tâm tình của nhà thơ gửi đến người anh ruột, người lính đã ngã
xuống cho sự bình yên của Tổ quốc. Nhà thơ khóc người anh đã nằm xuống cũng là
khóc cho biết bao nhiêu liệt sĩ đã anh dũng hi sinh. Sự hi sinh ở thời điểm này dưới
cái nhìn của những người cầm bút trẻ tuổi mang một sắc thái mới. Nó không đơn giản
như việc kể lại một tình huống hi sinh mà được nâng lên tầm khái quát. Những thời
khắc hi sinh như được “đóng băng” với thực tại lịch sử, đó là lúc nghiệt ngã nhất:
Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya
Những người lính mở đường đi lấy nước
Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp
Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi.
(Phan Thiết có anh tôi)
32
Họ mất khi vẫn đang cháy bỏng khát khao, đang trong tư thế vươn tới, những
cái chết đến như tia chớp lóe của lửa đạn thời chiến tranh hiện đại, sự dũng cảm xả thân mình đều nhanh gấp bằng từng ý nghĩ.
Nhắc đến những hi sinh cũng không thể không hướng tới một điểm nhìn, đó là
sự thiếu vắng bóng dáng những người chồng trong cõi lòng của người vợ thủy chung
nơi quê nhà. Điều đó như một sự cảm thông, chia sẻ, một nỗi đau không phải để giày vò mà luôn lắng đọng như sự chiêm nghiệm qua thời gian:
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch.
(Đường tới thành phố)
Sự hi sinh mất mát trong thơ góp phần tôn thêm tầm vóc người chiến sĩ với
muôn đời. Đối với Hữu Thỉnh, “thơ là kinh nghiệm sống được chắt lọc”. Ông cho
rằng để làm nên những vần thơ hay chính là “kinh nghiệm sống”, điều quyết định là
ở khả năng biến những kinh nghiệm đời sống thành thơ. Có thể thấy Hữu Thỉnh luôn
thể hiện mình là người trong cuộc khi viết về chiến tranh nên vần thơ của ông đã thể
hiện đầy đủ những trải nghiệm của cuộc sống, chiến đấu.
Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ mở rộng từ Bắc vào Nam cũng là lúc Hữu
Thỉnh cùng nhiều nhà thơ trẻ khoác ba lô nhập cuộc. Sống giữa chiến trường nên Hữu
Thỉnh cũng như các nhà thơ trẻ lúc bấy giờ tận mắt chững kiến những cảnh tượng dữ
dội, ác liệt của chiến tranh, những ngổn ngang, bề bộn của chiến trường. Nhà thơ đã
miêu tả chiến tranh với cái nhìn trực tiếp từ trong chiến hào. Chiến tranh gắn liền với
căn bệnh sốt rét rừng cũng được nhà thơ khẳng định, nhưng con người lạc quan quên
đi những thiếu thốn, bệnh tật của mình để hát với tâm hồn trẻ trung, sôi nổi và tràn đầy tình yêu thương: “Người sốt rét hát cho người sốt rét”. Những cảnh mưa bão,
thiên nhiên khắc nghiệt cũng là một trong những thử thách của cuộc chiến đấu:
Mưa bão liên miên, giặc giã cũng liên miên ta nhạy cảm với trái tim chiến sĩ cuộc chiến đấu nên thơ mà cũng khe khắt thế để sống một nghìn năm, ta gắng vượt một ngày (Đêm chuẩn bị)
Trong bài thơ Ý nghĩ không vần của Hữu Thỉnh, người đọc cảm động trước
những ý nghĩ về cuộc chiến đấu không hề đơn giản mà chứa đựng đầy khó khăn,
gian khổ:
33
Anh viết cho em những ý nghĩ không vần
đường Trường Sơn khúc khuỷu xích xe tăng quay không êm ả chút nào
chúng nó đang nhắm bắn anh và đồng đội
em thấy không ?
Nếu như Phạm Tiến Duật nhìn con đường ra trận đẹp, đầy chất lãng mạn: “Ðường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây” thì Hữu Thỉnh lại thấy một hiện thực “khúc khuỷu”, “không êm ả chút nào” của con đường ra
trận. Đọc những vần thơ thời chống Mỹ, ta thấy ngay sự vững vàng trong suy tưởng của nhà thơ. Cái hùng là cái thích hợp hơn cả với không khí chiến trận của thời ấy.
Bởi, thực tế chiến đấu thật khắc nghiệt:
Trên tháp pháo xe tăng
những ý nghĩ cứ xóc nảy lên và chắp vá
núi chạy đến gần lại mỏng manh như sương
trăng thân mật lại mập mờ xa lạ
nhưng con đường chỉ một con đường thôi
(Ý nghĩ không vần)
Hữu Thỉnh đã diễn tả được “Ý nghĩ hằn lên theo vết xích”, một người chiến sĩ
ra mặt trận mọi ý nghĩ đều gắn với nhiệm vụ của mình. Có những lúc người đọc cảm
phục hơn bởi ý nghĩ: “Chúng tôi bơi trong thương nhớ của riêng mình”. Sự sống là
cái chung nhà thơ là người biết chuyển sự sống chung thành nỗi niềm riêng của chính
mình. Không những vậy, nhà thơ còn nhìn nhận được sức mạnh của dân tộc trong sự
gắn bó keo sơn giữa tiền tuyến và hậu phương:
Chiến dịch mở ra thời vụ bắt đầu
Mang cái rét giêng hai đi đánh giặc Mang chất thép định hình trên bàn cát
Qua những cánh dồngđang sủi tăm phù sa Ta chao chân trên những mảnh bờ Lặng lẽ nhận sức bần của đất Đạp cứ điểm Lần theo từng dấu dép Ta nhận ra màu bùn qua những cánh đồng chiêm.
(Sức bền của đất)
Hiện thực cuộc sống trong chiến tranh gắn liền với những cuộc hành quân
không nghỉ. Những con đường hành quân là những chặng đường đầy gian khổ, lý trí
34
đã thôi thúc bước chân của người lính, họ đi với một niềm tin và chiến trường đang
gọi. Một cách nói thật lạ trong thơ Hữu Thỉnh, người lính không phải đi bằng chân mà “đi bằng đầu” hé mở cho ta biết gian nan không thể kể hết mà cũng quyết tâm
đến tột bậc:
Một tháng và hành quân
Hai chân phồng dộp cả Quấn băng vẫn còn đau Nhiều lúc đi bằng đầu
(Mùa xuân đi đón) Thơ Hữu Thỉnh luôn biểu hiện một cách tự nhiên về cuộc sống, điều này đã
tạo nên sức sống cho hồn thơ của ông. Thơ ông luôn thể hiện rõ hiện thực cuộc sống
và chiến đấu của dân tộc. Bằng những vần thơ của mình, Hữu Thỉnh đã thay mặt biết
bao người con của Việt Nam phản ánh thời điểm lịch sử đầy gian nan mà cũng vô
cùng vẻ vang của đất nước.
2.1.2. Hiện thực cuộc sống sau kháng chiến đến nay
Thời kì sau chiến tranh, bối cảnh xã hội thay đổi, quan niệm sáng tạo của nhà
thơ đã có những chuyển biến sâu sắc: thay vì quan niệm thơ như một hoạt động tuyên
truyền chính trị, giờ đây thơ được nhấn mạnh, đề cao trước hết với tư cách là một
hoạt động sáng tạo - nhận thức; thơ không được phép quay lưng trước những vấn đề
nóng bỏng của hiện thực đời sống, thơ phải gắn liền với thời đại và thời cuộc, thơ
phải là tiếng nói trách nhiệm và ý thức xã hội tỉnh táo, trung thực của nghệ sỹ. Thơ có
thể bàn về nhiều vấn đề đa dạng của hiện thực song cách thể hiện phải giàu tính tư
tưởng, hướng thơ trở về với đời thường, với số phận cá nhân, đào sâu vào tiếng nói
nội tâm, đi sâu phân tích, lý giải thế giới cảm xúc, tâm linh sâu kín bí ẩn. Nếu trước
đây, điều quan tâm lớn nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ chống Mỹ nói chung là tâm niệm “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng sau, cái
nhìn của nhà thơ mang tính hướng nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những lo âu khắc khoải, những bể dâu cuộc đời được nói đến một cách rõ ràng qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn của chúng tôi mà là cái nhìn của “chính tôi”. Cái tôi vì thế trở nên đa diện mà mặt trội của nó là những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện lên trong quầng sáng sử thi mà là hiện lên trong chính cuộc sống nhiều chiều thường ngày.
Hữu Thỉnh viết dưới góc nhìn của con người đi qua những năm tháng chiến
tranh giờ có thời gian nhìn nhận và đánh giá về chính hiện thực cuộc chiến một cách
toàn diện hơn. Thơ ông vẫn cất lên tiếng nói của thời đại như thơ ca trước 1975
35
nhưng đã có những “độ chênh” nhất định về giọng điệu, về cách suy cảm tạo nên
dáng vẻ mới cho ngôn ngữ thi ca. Trải qua chiến thắng và chứng kiến những mất mát, ông ý thức được nỗi đau của đất nước, con người. Hữu Thỉnh đã gửi vào trong thơ
những suy tư, trăn trở về thân phận, buồn đau khi phải chứng kiến những cảnh ngang
trái ở đời và nhiều khi cả nỗi cô đơn, thất vọng về cuộc đời, về con người, khắc khoải
lo âu trước sự “mất mùa nhân nghĩa” như Bóng mát, Nghẹn,…Nhà thơ đã cảm nhận được lẽ sống của cuộc đời không hề đơn giản, dễ dàng:
Đời chẳng dễ dàng đâu
Sau bao nhiêu lời chúc Ta chẳng dễ dàng đâu
Sau bao người đi trước
(Trường ca biển)
Đọc thơ Hữu Thỉnh ta quan tâm trước hết đến những gì nhà thơ muốn phản
ánh. Có hai mảng thật sâu đậm trong thơ Hữu Thỉnh: Đất nước, nhân dân, cuộc
chiến,... trải nghiệm ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và thế sự, nhân tình thế thái,...
chiêm nghiệm ở thời kỳ đổi mới, như hai mặt thống nhất trong sáng tác của nhà thơ,
như thể nếu không có sự trải nghiệm này, thì cũng chắc gì đã có sự chiêm nghiệm kia.
Trong hai mặt đó, mặt thì lắng sâu, mặt thì ám ảnh.
Như bất cứ một nhà thơ nào khác, sống và sáng tác trong một thời điểm đất
nước đã được giải phóng, Hữu Thỉnh cũng đặc biệt nhạy cảm với những vấn đề liên
quan đến hiện thực cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng cho dù hòa bình, vẫn cần có
những người hi sinh thầm lặng vì đất nước, vẫn cần những con người cống hiến cho
đất nước. Đề tài về đất nước, về người lính vẫn được nhà thơ tiếp tục sáng tác. Đất
nước trong thơ Hữu Thỉnh không phải là những khái niệm mà là những gì rất cụ thể,
cạnh sát con người, như trời ở trên đầu, đất ở dưới chân, giản dị như đôi khi chỉ là bãi "cát non" ẩn dụ dưới bàn chân người lính:
- Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình Đảo có lính cát non thành Tổ quốc - Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc - Bóng chúng tôi che lên Đất Nước (Trường ca biển)
Bên cạnh hiện thực chiến tranh, Hữu Thỉnh đem đến trong thơ mình một bức
tranh hiện thực khác, cũng hết sức sâu sắc. Đó là hiện thực cuộc sống sau chiến tranh
và nhất là hiện thực cuộc sống sau những năm đổi mới đất nước. Có rất những suy tư,
trăn trở, những vỡ nhẽ,... bất ngờ như chính cuộc sống, như chính "cõi nhân gian ",
36
như chính thế giới nội tâm của con người... đã được nhà thơ ghi lại sau những "cặn
lắng", những va đập của cuộc đời, với những số phận của con người "đa đoan, chìm nổi". Có thể có cái phiền muộn, xót xa hiện lên từ năm tháng, từ thân phận bất hạnh
của con người. Sau khi chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, với một dân tộc vừa trải
qua mấy chục năm bom đạn, chiến tranh ác liệt đã quen, vì thế, chiến tranh không có
gì đáng sợ, nhưng nỗi đau nhân tình thế thái thì không quen và ám ảnh vô tận:
Trời đang chớp gió trên đầu Nụ cười ẩn giữa binh đao, nói gì?
(Trước tượng Bayon)
Tôi nép dưới mái hiên
Cố tin rằng hôm nay không còn ai bất hạnh
(Thơ dưới mái hiên)
Trước thực tại cuộc sống, con người vẫn trăn trở, khao khát đi tìm hạnh phúc.
Nhưng, ngay dưới mái hiên nhà mình, Hữu Thỉnh xót xa nhận ra niềm suy tư, trăn trở
của những người thân yêu:
Mẹ tôi hát nghìn câu có câu chưa hát
Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp
Hạnh phúc
Cây rơm vẫn mơ thành đám mây vàng
(Hạnh phúc)
Khi đất nước được hòa bình, chúng ta vẫn phải trải qua những năm tháng khó
khăn chưa từng thấy. Sự gồng mình của một dân tộc trong chiến tranh đã đem lại
chiến thắng vẻ vang, tưởng chừng ta được thảnh thơi, tự do, sung sướng nhưng cái
giá phải trả do chiến tranh gây nên rất lớn: kinh tế suy kiệt, nghèo nàn, lạc hậu, kéo
theo những nổi chìm của nhân tình thế thái, tác động đến mọi người, mọi nơi. Hữu Thỉnh đã trăn trở, muốn tìm ra lẽ sống cho cuộc đời:
Tôi như cây biết giấu lá vào đâu Trong gió bụi cõi người Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát Bóng mát mà không che nổi chính tôi. (Bóng mát)
Hữu Thỉnh là người hay suy tư, trăn trở, luôn linh cảm được rất sớm điều có
thể đến. Những gì khả dĩ giấu được phần nào trong chiến tranh, có lá rừng che, lại rất
có thể bị phơi bày trước một tình thế khắc nghiệt mới. Như cái cây vô tri vô cảm kia,
mới "một thoáng làm người", đã buộc phải "đòi bóng lại" chỉ vì: “Bão trời ta coi
37
khinh/ Bão người không chịu nổi” (Một thoáng làm người). “Bão người” ở đây là
nhân tình thế thái.
Cũng như bao trí thức và văn nghệ sĩ khác, khi cuộc sống bước sang thời kỳ
đổi mới, Hữu Thỉnh đã nhận thức thêm, đôi khi phải nhận thức lại những giá trị đời
sống. Những bài thơ Hữu Thỉnh viết từ cuối những năm 80 thế kỷ XX cho đến mấy
năm đầu thế kỷ XXI, in trong tập Thương lượng với thời gian, phản ánh khá rõ điều đó. Nhà thơ có nhận thức sâu sắc về đời sống hiện tại: Sang thế kỷ với con tàu quá rộng
Hoa hồng sang, gai nhọn cũng sang …Thương cảm, phản thùng, khoan dung, thớ lợ
Vé trên tay thanh thản bước lên tàu.
(Sang thế kỷ)
Lúc này nhân loại chuẩn bị lên tàu để tiến sang thế kỷ mới. Nhà thơ đã dùng biểu tượng “con tàu” với ý nghĩa khái quát rất rộng. Thế kỷ XX đã bàn giao cho thế kỷ XXI cả hoa hồng và gai nhọn. Hành trang của đoàn tàu này có đủ cả tốt, xấu, cao
cả và thấp hèn, người khoan dung và kẻ phản thùng, thớ lợ,... Tất cả đều có vé lên
tàu, đều được chuyển giao sang thế kỷ. Viết lên điều đó nhà thơ muốn nhắn gửi một
điều: Sang thế kỷ mới, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến đời sống văn hóa tinh
thần của con người, không được để nền văn minh vật chất xua đuổi những vẻ đẹp
vĩnh hằng của tạo hóa, của tâm hồn con người.
Nhà thơ đau đớn nhận ra mặt trái của xã hội, nhận ra giữa thực tế và lí tưởng
một thời là khoảng cách xa tắp đến mù mịt, khát vọng về sự tốt đẹp, con người sống
lương thiện không ngăn nổi nghịch lí trớ trêu, giữa cái thiện cái đẹp thì cái ác cái xấu
vẫn đang tồn tại. Không những vậy nếu không giữ được mình cũng có thể trong cuộc
sống con người bị nhiễm phải cái xấu:
Vừa trong mơ cùng tôi
Cây ra đường đã bụi Vừa dạt dào cùng tôi Biển đã thành sương khói. (Vừa trong mơ cùng tôi)
Nhà thơ đi trên đường đời vẫn luôn day dứt, luôn hướng tới phẩm giá con người, về một hạnh phúc thực sự không hề tô vẽ. Đây chính là tiến trình thơ Hữu
Thỉnh vươn tới hiện thực, nói đúng bản chất cuộc sống và có ích cho đời sống. Trong
guồng quay của cuộc sống mưu sinh, tâm hồn con người cũng bộc lộ nhiều chiều sâu
mới. Nhà văn có thể mô tả rất nhiều nhân vật qua cá tính và số phận của các nhân vật
38
ấy. Còn nhà thơ chỉ mô tả tâm hồn mình để người đọc thấy được cuộc sống xã hội. Vì
vậy, cái tôi của Hữu Thỉnh mới dằn vặt cũng như biết bao các nhà thơ hiện đại. Nhà thơ đã thể hiện rõ những những trăn trở trước cuộc sống hiện tại. Cái guồng quay của
cuộc sống khiến con người phải trải qua biết bao lo toan để tồn tại:
Buổi sáng lo kiếm sống
Buổi chiều tìm công danh Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc (Thương lượng với thời gian)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ cũng giống biết bao nhiêu người ở cuộc sống
đã tỉnh thức, giật mình sau những ngày lo kiếm sống, tìm công danh, tiền bạc. Thông
qua những vần thơ của mình, nhà thơ luôn muốn truy tìm ý nghĩa, bản chất của đời
sống và các vấn đề nhân sinh thế sự để rút ra triết lí về cuộc sống.
Công cuộc đổi mới đất nước đã làm cho cuộc sống khởi sắc hơn, mặt khác,
con người dường như sống với nhau lạnh lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân
trong xã hội lỏng lẻo hơn. Bối cảnh lịch sử và văn hóa mới có cả mặt phải và mặt trái
của nó khiến nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc nhà thơ phải
thích ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Ý thức nhìn cuộc
đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng
về đời sống. Hữu Thỉnh đã sẵn sàng chỉ ra hiện thực cuộc sống thời hậu chiến khi
niềm vui chiến thắng đã lắng lại, hiện thực đất nước khó khăn lại đặt ra những nghiệt
ngã. Thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào những ưu tư, nhận thức mới về thời cuộc:
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế
…Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế (Nghe tiếng cuốc kêu)
Nhà thơ đau đớn nhận ra có những mảng đen sau màu hồng, có những điều xấu trong xã hội vẫn tồn tại như một sự hiển nhiên, đau đớn về cách ứng xử lật lọng
tráo trở của con người với nhau trong xã hội. Nhà thơ đã băn khoăn về lòng thương
người, về tình người trong cuộc sống liệu có bền vững: Có gì bền? Nhân nghĩa có
còn đây?(Nghẹn).
39
Đồng thời với đó là nhà thơ nhận ra những đổi thay, sự hiện hình của những
bụi bặm, thớ lợ, những mặt trái của cuộc sống:
Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ
Cười súng sính
Trong bộ cánh thớ lợ
Xe máy rú rồ dại Chậu cảnh biến thành vật lót tay Hè phố bị hắt nước loang lổ
Càng cố chứng minh là kẻ vô can Càng thú nhận là nạn nhân kế tiếp
Luật nhân quả
Ngủ gật trên bậc cửa
(Bất hạnh)
Lời thơ đã thể hiện bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tế và lý tưởng
một thời là một khoảng cách xa tắp đến mù mịt; khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện
không ngăn nổi cái nghịch lý, trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành. Đọc những câu thơ
trên, mỗi con người chúng ta cũng cảm nhận được mặt trái của xã hội hiện đại, dường
như nhiều cái tốt đẹp đã bị đảo lộn. Đây cũng chính là những trăn trở chung của con
người khi mong muốn tìm được lẽ sống đích thực.
Sau năm 1986, các nhà thơ nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn
giấu”, họ đã dám phơi bày những hoài nghi, đau thương, mất mát trong cuộc
sống. Hữu Thỉnh cũng bộc lộ ngay cả góc khuất của tâm hồn, đào sâu, lí giải,
trăn trở của cái tôi. Trong đó còn có cả quá trình nhà thơ tự làm thanh khiết tâm
hồn mình. Cảm nhận được sự thay đổi của cuộc sống, Hữu Thỉnh luôn đi tìm cõi
thiện trong con người:
Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc
Mây vừa đi vừa ngoái lại trông người (Ngẫu cảm)
Trong nhiều bài thơ khác, ta cũng thấy những triết lí hướng thiện này. Nó trở thành bình phong che chở con người trước sự cô đơn, đau buồn của cuộc đời. Vì lẽ đó, thơ Hữu Thỉnh, dù chất chứa tâm trạng buồn nhưng vẫn không lạnh lẽo, mà vẫn toát lên vẻ hồn hậu của một tâm hồn luôn biết gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của cuộc sống:
Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình
Dưới đáy cốc của hy vọng
(Cặn lắng)
40
Có lẽ đó là chỗ con người cần đến thơ nhất, con người cần sự bao dung trong những lầm lạc, rất nhiều lầm lạc, và thơ, với tư cách là "lời của trái tim" thường tìm ra lối đi của mình. Trong cuộc sống ấy, tác giả lại càng ý thức về phẩm giá, về cách sống của con người:
Tôi hỏi đất: - Đất sống với đất như thế nào? - Chúng tôi tôn cao nhau Tôi hỏi nước: - Nước sống với nước như thế nào? - Chúng tôi làm đầy nhau Tôi hỏi cỏ: - Cỏ sống với cỏ như thế nào? - Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào? (Hỏi)
Các sự vật khách quan đều mang tính biểu tượng cho lối sống nương tựa, cùng nhau sinh tồn và phát triển, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” để “làm nên” những điều tốt đẹp. Nhưng có câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu mà tác giả không trả lời được. Đó là câu hỏi về người sống với người. Hơn bao giờ hết, ý nghĩa của câu hỏi này đặt ra vấn đề muôn thuở con người phải sống thế nào cho đúng. Qua đây, tác giả muốn nhắn nhủ mọi người về triết lí sống vượt ra khỏi chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, biết vị tha và biết sống vì người khác để cùng nhau tiến bộ, biết đoàn kết để cùng vươn tới những điều kì diệu trong cuộc sống.
Như vậy, thơ Hữu Thỉnh luôn hướng về hiện thực đời sống, mỗi bài thơ ông là một chiêm nghiệm, một suy tư về thế thái nhân tình. Có thể khẳng định thơ Hữu Thỉnh mang đậm những suy tư về cõi người. Những vần thơ của ông luôn ở trong trí nhớ của người yêu thơ đương thời, tham dự vào những vui buồn của họ. 2.2. Hình tượng con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh
Chúng ta đều biết “Văn học là nhân học”, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người chính là đối tượng chủ yếu trong sáng tác văn học. Dù có miêu tả về thần linh, ma quỷ hay đồ vật, con vật cũng đều thể hiện dụng ý của con người, thắp sáng lòng nhân ái, lối sống nhân văn trong bản thân một cá nhân. Con người là cầu nối giữa văn học nghệ thuật và cuộc sống. Vì thế nên con người trở thành đối tượng miêu tả chủ yếu để văn học có một điểm tựa nhìn ra thế giới bên ngoài.
41
Trong cuốn Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, Trần Đình Sử đưa ra khái
niệm quan niệm nghệ thuật về con người thật xác đáng: “Quan niệm nghệ thuật về
con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo
nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó” [42, tr. 55].
Từ đây, ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải,
cảm thụ của chủ thể. Chính sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm nhận về con người của người
sáng tác đã tạo nên giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ cho tác phẩm. Trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học, thuật ngữ này được định nghĩa : "Quan niệm nghệ thuật về
con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm
trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù, phương pháp sáng tác, phong
cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ
thuật" [19, tr.275].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan
niệm nghệ thuật về con người. Từ đó chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan
niệm nghệ thuật về con người như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu
là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn.
Quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ, gắn
liền với cái nhìn đầy tính phát hiện độc đáo của người nghệ sĩ.
Từ việc xem xét quan niệm nghệ thuật về con người, có thể khẳng định rằng:
chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh
cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của
con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật của tác giả về con
người. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan
trọng. Nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Hữu Thỉnh chính là
xem xét từ cách tư duy, cách cảm nhận và cắt nghĩa về con người trong thơ ông.
2.2.1. Hình tượng con người trong kháng chiến chống Mỹ
2.2.1.1. Hình tượng người lính
Bối cảnh lịch sử dân tộc ta ở giai đoạn 1945 - 1975 đã tạo cho nền văn học
một luồng sinh khí mới mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Trong bối
cảnh đó, hình tượng người lính đã trở thành một hình tượng trung tâm của thời đại.
Văn học nói chung và thơ ca nói riêng chủ yếu khám phá hình tượng người lính từ
phương diện xã hội, từ trách nhiệm của công dân đối với tổ quốc trong hoàn cảnh
chiến tranh.
42
Hiện thực đời sống chiến trường dù có ác liệt, tàn khốc đến đâu cũng chỉ là cái phông, cái nền để nổi lên chân dung những con người cầm súng chiến đấu. Nguyễn Bá Thành trong công trình nghiên cứu Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách mạng Việt Nam (1945- 1975) đã nhận xét: “Hình ảnh anh bộ đội là hình ảnh đặc trưng nhất của con người Việt Nam trong chiến đấu” [49, tr.73]. Khi tìm hiểu về đời sống tinh thần của những người lính thơ trong thơ ca giai đoạn này, tác giả đã khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong tâm trạng người chiến sĩ quân đội mà thơ ca thể hiện là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến đấu, là tinh thần chịu đựng gian khổ, hi sinh và quyết tâm đánh giặc đến cùng” [49, tr.73].
Hữu Thỉnh sống và sáng tác thơ với tư cách một người lính trong binh chủng xe tăng qua suốt cuộc chiến tranh. Chính vì vậy hình tượng người lính, tình cảm người lính là chủ đề xuyên suốt trong thơ Hữu Thỉnh, từ Trên một chiếc xe tăng hào hứng, từ niềm vui trong trẻo “Mùa xuân cho cỏ biếc/ Đi đón ta dọc đường” cho đến bài thơ xúc động cuối chiến tranh khóc người anh đã hi sinh Phan Thiết có anh tôi. Thơ Hữu Thỉnh luôn phơi bày một đời sống nội tâm phong phú, nhiều nghĩ suy và giàu sức cộng hưởng với người đọc. Thơ Hữu Thỉnh là một quá trình hoàn thiện chân dung tinh thần của người lính cũng như làm đầy đặn một phong cách thơ trong chiến tranh: “Chúng tôi đang đi để đạt tới chính mình” (Ngã ba Chân Vạc).
Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên với những vẻ đẹp quen thuộc của thơ ca chống Mỹ nhưng vẫn có những nét riêng độc đáo. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp hào hùng, tràn đầy khí phách, đẹp trong sự thống nhất của người lính:
Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Như năm bông hoa nở cùng một cội, Như năm ngón tay trên một bàn tay, Đã xung trận cả năm người như một (Trên một chiếc xe tăng)
Cùng viết người lính lái xe thời kì chống Mỹ, thơ Phạm Tiến Duật cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm của người lính. Hình ảnh người lính được khắc họa qua việc lái những chiếc xe không có kính với tư thế thật ung dung, bình tĩnh, tự tin, hiên ngang. Họ đã biến cái thiếu thốn đó trở thành một sự hưởng thụ, biến những khó khăn, thách thức thành gia vị hấp dẫn cho cuộc sống:
Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. (Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
43
Thơ ca thời chống Mỹ không chỉ thơ Hữu Thỉnh có chất lính mà các thế hệ
cùng thời như Nguyễn Duy, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm,… đều
khắc họa chất lính trong thơ. Nhưng mỗi nhà thơ có cách sáng tạo riêng. Thơ Hữu
Thỉnh lấy đời sống chân thực ở chiến trường làm cốt lõi, thơ ông là tiếng nói của
người trong cuộc. Có lẽ vì thế mà người đọc nhận ra những nét riêng, độc đáo về người
lính trong thơ ông. Đúng như nhà thơ từng nói: “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời
mình” (Đường đến thành phố). Vì vậy, có thể thấy người lính trong thơ Hữu Thỉnh là
một phương tiện để nhà thơ bộc lộ cái tôi trữ tình trong các sự kiện của đất nước.
Khi khắc họa hình tượng người lính, Hữu Thỉnh đặc biệt chú ý đến sự trẻ trung
hồn nhiên và vẻ đẹp cao cả của ý chí, niềm tin sắt đá vào chiến thắng của họ. Đọc thơ
Hữu Thỉnh, ta thấy tính cách của người lính thường được khắc họa qua hoàn cảnh
sống, sinh hoạt của họ nơi chiến trường. Đó có thể là cảnh ăn cơm đứng của người
chiến sĩ: “Không còn chỗ nào khô mấy đứa đành ăn đứng/ Trở đũa một đầu, mưa
lạnh mất đầu kia” (Kỷ niệm về bữa cơm đứng), và người lính đã có những giấc ngủ
đặc biệt trên đường ra trận:
Đèo nặng thế mà khi vào giấc ngủ
Cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu
Võng ta nằm thao thức bên nhau
Giấc ngủ sâu, tắm đoạn đường nóng bỏng
Mặc bom Mỹ cắn vào đêm mơ mộng
Con suối dài cứ hát để đi xa.
(Giấc ngủ trên đường ra trận)
Hay cảnh tắm mưa: “Kì lưng nhau ríu rít đùa vui/ Chẳng ai biết đã qua trăm
trận đánh/ Chỉ thấy như úp cá ở đâu về” (Tắm mưa),…Nhờ sự hồn nhiên đó, người
lính đã chủ động vượt qua những gian khó của hoàn cảnh để chiến đấu chống kẻ thù.
Sống trong một môi trường chiến đấu đầy khắc nghiệt, cái chết luôn rình rập, ranh
giới giữa sống và chết chỉ cách nhau trong gang tấc, nếu không có chất nghệ sĩ tồn tại
trong mỗi chiến sĩ thì khó có thể vượt qua. Những người lính trong thơ Hữu Thỉnh
thấy được sự hiện diện của cái đẹp, của sự sống đang tồn tại trong hoàn cảnh khắc
nghiệt của chiến trường. Nhà thơ đã dựng lại khá thành công phẩm chất nghệ sĩ trong
tâm hồn người lính.
Những người lính đã đặt tình cảm riêng tư, tình cảm gia đình sang một bên để
sẵn sàng lên đường nhập ngũ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, chiến đấu vì độc lập tự
do của Tổ quốc. Đi đánh giặc đã trở thành ước mơ suốt một thời trai trẻ của họ:
44
Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ
đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng quen nhớ nhà quen nhạt muối
khúc dân ca hát đi hát lại
qua nhịp cầu, chân ta bước so le.
(Đêm chuẩn bị)
Ước mơ đánh giặc của những người lính hiện lên thật cụ thể và cũng thật lớn lao, cao đẹp vô cùng. Những khó khăn gian khổ mà họ thường xuyên chịu đựng đã
trở thành thói quen của người lính. Họ sẵn sàng hi sinh cho đất nước sinh tồn. Trong giây phút lâm nguy, hình ảnh Tổ quốc vẫn chiếm trọn vẹn tâm trí người lính:
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao ? Tổ quốc ?
(Đường tới thành phố)
Câu hỏi Tổ quốc ra sao nếu rơi vào tay kẻ thù cho thấy tấm lòng yêu nước sâu
sắc của người lính. Từ tình cảm với đất nước, không cần nhiều thời gian họ đã có
ngay câu trả lời bằng hành động ôm súng quyết tâm chiến đấu với kẻ thù :
Nhưng trước mặt là Tổ quốc
Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện
(Đường tới thành phố)
Nếu ở các nhà thơ khác, Tổ quốc được nhìn từ phương diện địa lí, văn hóa và
những trang sử hào hùng thì ở thơ Hữu Thỉnh, Tổ quốc được nhìn ở những hình ảnh gần
gũi. Người lính chiến đấu với kẻ thù để giành giật từng gốc sim cằn chính là giành lại
từng tấc đất thiêng liêng của đất nước, chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Họ ý thức được trách nhiệm của mình với hoàn cảnh của đất nước có chiến tranh. Trong
trường ca của Thanh Thảo, ta cũng bắt gặp lời tâm tình của người lính:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
(Thanh Thảo - Những người đi tới biển) Người lính phải đối diện với bao đau thương, mất mát nhưng họ đã tìm thấy
điểm tựa để cân bằng cuộc sống. Đó chính là những người thân đang chờ đợi, mong ngóng. Khi bước chân vào chiến trường, đối mặt với bao khó khăn, có đôi lúc được thảnh thơi người lính lại nhớ về hình ảnh người mẹ. Có khi chỉ một ánh
45
đom đóm bay, một màu hoa gạo đỏ vào hè cũng làm ý nghĩ anh trở về với người
mẹ nơi quê nhà:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ Mẹ ở nhà có cất áo bông Mẹ có ra bờ sông Qua bến đò tiễn con dạo trước Đường xuống bến có mười sáu bậc Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu (Sức bền của đất)
Một khía cạnh khác cũng đáng được trân trọng ở hình tượng người lính là những suy nghĩ của họ về tình yêu thời chiến. Bên cạnh những trách nhiệm chiến đấu bảo vệ đất nước, người lính vẫn mang theo trong tâm tưởng những tình cảm lứa đôi. Cho dù hoàn cảnh của chiến tranh nhiều khi con người phải gạt tình cảm riêng tư sang một bên để toàn tâm toàn ý phục vụ cho cách mạng. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn người lính, hình ảnh người thân yêu vẫn tồn tại và trở thành niềm thương cảm vô bờ. Từ chiến trường người lính nhớ về người yêu ở hậu phương, hồi tưởng lại kỉ niệm lứa đôi:
Anh viết cho em những ý nghĩ không vần đường Trường Sơn khúc khuỷu… trước em, anh vụng về giờ thành ra khôn khéo. Từ chỗ hẹn của đôi ta thầm hứa với nhau và chính từ đất mình, em nhỉ? (Ý nghĩ không vần)
Hình ảnh người yêu luôn là đối tượng tâm tình của người lính, nhớ về người
yêu để rồi lại nghĩ về hiện tại về trách nhiệm với quê hương, đất nước:
Đi trong mây anh thấy ấm em à Tiếng suối giục nghe khi mờ khi tỏ …Đi trong mây anh nghe tiếng chim Hồn hậu quá như bàn tay em ấy Đi trong mây nghe tiếng bom nhỏ lại Để nhường cho tiếng gậy trùng vang (Đi trong mây)
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận xét: “Tình thương và anh hùng là hai mặt không thể tách rời của hình tượng con người trong văn học chống Mỹ”[45, tr.259]. Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh thật kiên cường, anh dũng mà cũng thật giàu tình yêu thương.
46
Qua việc khắc họa hình tượng người lính trong chiến trận, ta thấy Hữu Thỉnh
có cái nhìn chân thực về người lính. Nhà thơ diễn tả tâm trạng thật nhất mà người lính đã trải qua. Không cầu kì tô vẽ, Hữu Thỉnh đã nói hộ tâm tư biết bao người lính khi
tham gia chiến trận. Có những hồi tưởng về kỉ niệm, những giây phút nhớ những
người thân, có những niềm vui chiến thắng. Tất cả những điều đó là nguồn động lực
lớn giúp người lính chiến thắng kẻ thù. 2.2.1.2. Hình tượng người phụ nữ
Bên cạnh hình tượng người lính trong chiến tranh, hình tượng người phụ nữ
thời chiến cũng được khắc họa rõ nét. Khi nói về văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Lại Nguyên Ân đã khẳng định vai trò của người phụ nữ trong kháng
chiến:“ta lại thấy ưu thế không thuộc về các nhân vật có cương vị xã hội cao (các
nhân vật của lịch sử) như trong sử thi cổ điển mà là thuộc về các nhân vật bình
thường: người mẹ, người vợ, người con gái, người du kích, giao liên, cán bộ vận tải
…” [4, tr.23]. Chiến tranh qua đi để lại cả dư vị vinh quang và cay đắng. Bên cạnh
niềm vui chiến thắng, cái giá phải trả cho cuộc chiến còn là số phận bất hạnh của
những người phụ nữ.
Trong chiến tranh chống Mỹ, hình tượng người mẹ luôn là cảm hứng lớn cho
thơ ca. Các nhà thơ đã dành nhiều cảm xúc cho những người mẹ vừa cao cả vừa bình
dị. Hóa thân vào người mẹ, nhà thơ dường như thấu hiểu hết những nỗi đắng cay, hy
sinh vất vả trong cuộc đời người mẹ. Hữu Thỉnh đã khắc họa hình ảnh người mẹ lam
lũ, bình dị dành trọn cuộc đời cho chồng con, cho đất nước, một mình gánh chịu bao
khổ đau:
Mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã
Nhem nhuốc cả ngày xanh
(Đường tới thành phố)
Người mẹ thật tần tảo, hi sinh, chấp nhận mọi nỗi cực nhọc, gánh trên vai bao
nỗi vất vả, gian nan:
Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió
(Đường tới thành phố)
Dù vất vả, nhưng mẹ luôn là những người sống hết mình vì cách mạng, vì lẽ phải, giàu đức hi sinh. Mẹ âm thầm hi sinh để có ngày đoàn tụ. Chiến tranh đã gây
nên bao cảnh ly tan, mẹ đã xúc động cầm tay tiễn đưa những đứa con thân yêu ra mặt
trận mà không biết bao giờ gặp lại và có thể sẽ không có ngày trở lại, lòng mẹ quặn
thắt, đớn đau:
47
Ba đứa con có mặt ở trong này Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc (Đường tới thành phố)
Trong cuộc chiến tranh trường kì của dân tộc, những người mẹ phải gánh chịu nhiều hi sinh, đau đớn nhất. Đất nước gửi những người con ra chiến trường, mẹ là người hết tiễn chồng, lại tiễn con ra trận. Hình ảnh những người mẹ “gánh cùng một lúc” mấy cuộc chiến tranh làm trào dâng trong lòng người đọc lòng thương cảm. Vị đắng của cuộc đời như chỉ có mẹ mới là người gánh chịu hết. Hơn ai hết, chính những người lính là người thấu hiểu hết nỗi lòng của mẹ:
Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi Áo tân binh xanh thẫm bến phà Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã …Mẹ nén đau Dấu tờ báo tử Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên (Đường tới thành phố)
Khi nghe tin đứa con thân yêu của mẹ không về, mẹ lại gạt nước mắt, nén nỗi đau, tiếp tục động viên những đứa con còn lại vào chiến trường. Và những nỗi đau chồng chất đã làm mẹ mất ngủ:
Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya Đêm nào cũng dài Căn nhà có mười mấy mét vuông Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật (Đường tới thành phố)
Hình ảnh mẹ già cô đơn cảm nhận đêm dài khiến ta thấm thía hơn sự trầm luân của dân tộc mình. Đó cũng chính là nỗi đau tột cùng của người mẹ trong thơ Lê Anh Dũng:
Trên thế giới xưa nay Bao cuộc chiến tranh Có người nào như mẹ Chín con đẻ Một con rể Một cháu ngoại Lần lượt lên đường cầm súng Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh (Thưa mẹ)
48
Hình ảnh những người mẹ trong chiến tranh thật giàu đức hi sinh, có tình yêu thương bao la. Tác giả không chú ý miêu tả ngoại hình mà chủ yếu khắc họa hành động, lời nói và vẻ đẹp tâm hồn. Có lẽ vì thế mà những người mẹ có thể khác nhau nhưng tấm lòng của họ thì muôn đời giống nhau.
Viết về người mẹ, Hữu Thỉnh không có ý định tạo nên những vần thơ bất hủ bằng cách nói lạ hóa, hùng hồn để tô đậm vẻ đẹp của họ. Nhà thơ chỉ gần như đóng vai trò là người kể lại những hình ảnh, những sự việc gần gũi, bình thường trong cảm nghĩ, việc làm của mẹ, song cũng chính vì vậy mà gần gũi thân thiết biết bao:
Mẹ đang xếp cho anh bộn bề giá sách Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu Những điểm 9, điểm 10 không còn an ủi mẹ
Trong những năm kháng chiến, người mẹ luôn dành cho những người lính một tình cảm nồng hậu. Những món quà ra trận mà người mẹ dành cho con là những kỉ niệm đẹp, những dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm thức của người chiến sĩ:
Hạt cốm xanh mặc áo lá sen xanh Mẹ dành cho con làm quà ra trận Cam quýt vào mùa đông; chớm hè:mơ mận Tháng ba về hồi hộp bắp ngô non (Hương cốm)
Tấm lòng thương con của người mẹ được thể hiện qua những thức ăn, những món quà dân dã, bình dị mà vô cùng ý nghĩa. Đó là hiện thân của tình thân yêu và niềm hi vọng. Có thể nói tình cảm của người mẹ dành cho những đứa con được Hữu Thỉnh chú ý khai thác nhiều ở khía cạnh vật chất. Trong thơ Xuân Quỳnh cũng nói về người mẹ, nhưng tình cảm của người mẹ dành cho con lại được chú ý nhiều ở khía cạnh tinh thần. Lời ru của mẹ trong thơ Xuân Quỳnh có sức khơi gợi từ kí ức tuổi thơ:
Con sẽ đi trên khắp miền Tổ quốc Những người chưa quen, những đất mới tinh khôi Và con sẽ ngỡ ngàng như gặp Cảnh, người kia từ đã lâu rồi Dẫn con đi đến suốt đời Vẫn không đi hết những lời mẹ ru (Lời ru)
Viết về người mẹ trong chiến tranh, các nhà thơ thường ngợi ca phẩm chất của mẹ: giàu đức hi sinh, thương chồng con, thủy chung son sắt,… Điều đó đã góp phần làm cho hình ảnh người mẹ có những đóng góp lớn lao đối với đất nước. Hình ảnh người mẹ còn là sự biểu hiện cho niềm tin bất diệt:
49
Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau
(Sức bền của đất)
Người mẹ là điểm tựa vững vàng, là hậu phương vững chắc chở che cho
những đứa con đi đánh giặc. Mẹ là nguồn sức mạnh thôi thúc con vượt qua thử thách
để làm nên chiến thắng.
Nối tiếp hình ảnh người mẹ là người vợ, người chị cũng sẵn sàng hi sinh tuổi
thanh xuân vì Tổ quốc. Nhà nghiên cứu Vũ Nho đã nhận xét rất xác đáng về hình ảnh
người chị trong thơ Hữu Thỉnh: “Có lẽ Hữu Thỉnh là nhà thơ chiến sĩ hiếm hoi đã viết
về “chị tôi” một người phụ nữ tiêu biểu cho những năm kháng chiến … vừa xúc động
vừa ám ảnh vừa hết sức lung linh trong cảm hứng mến mộ, ngợi ca” [35].
Trong trường ca Đường tới thành phố hình tượng người phụ nữ đã trở thành
một biểu tượng của sự chịu đựng. Đây là tâm sự, là số phận của một người vợ khi chị
viết thư cho chồng:
Chúng em chẳng sợ địch lùng
Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài
Chị đi hoạt động bị địch bắt và bị tù đầy nên mắc bệnh động kinh nhưng giấu
không cho anh biết:
Tù về mắc bệnh động kinh
Mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài
Hình ảnh người chị, người vợ luôn hiện lên với đức hi sinh và lòng dũng cảm.
Hoạt động trong lòng địch, đối diện với bao hiểm nguy để đánh lừa bọn địch, nhập
vai vào nhân vật, tác giả nhận ra cảnh ngộ đầy trớ trêu của chị:
Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai
Chị cười cợt với thằng chỉ điểm
Người nó thắt y chiếc còng số tám
Cứ hau háu rình chộp chị mang đi
Chị cố làm cho thật lẳng lơ
Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị
Tác giả như thấu hiểu nỗi lòng của nhân vật khi nói về sự nhẫn nhịn của chị
trước bao lời dị nghị, những định kiến của bà con xóm làng khi giả làm người lẳng lơ
để bí mật nuôi cán bộ dưới hầm mà người cán bộ là chồng chị:
50
Chị nuôi anh dưới đất
Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm
Chị gặp anh mà không hay ốm mập
Gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao
Chị nghe giọng anh mỗi ngày lặng xuống
Anh còn sống mà tưởng như đã chết, ngay cả khi tưởng như khoảng cách xa
nhau không còn nữa nhưng trong chiến tranh giây phút vợ chồng bên nhau bỗng trở
nên xa vời. Còn gì đau buồn hơn khi thời gian không phải được tính bằng ngày, tháng
mà phải tính bằng “năm năm” dài dằng dặc. Chị chỉ có thể gặp anh qua giọng nói, đến
nỗi chị gặp anh thường xuyên mà “không hay ốm mập, không hay anh đen trắng” ra
sao. Anh phải chấp nhận bí mật hi sinh, chị làm cơm cúng chồng nhưng khấn xong lại
mang xôi trái xuống hầm: “mỗi năm một lần cúng kị, khấn anh xong mang xôi trái
xuống hầm”. Đó là những hi sinh lớn lao không gì bù đắp nổi mà chị phải gánh chịu.
Chị chấp nhận điều đó bởi tình yêu chị dành cho nhân dân, cho Tổ quốc.
Những người chị, người vợ trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là những người
giàu sức chịu đựng, hi sinh gian khổ mà còn là những người có những khát khao rất
đỗi đời thường. Đó là khát khao được làm vợ, làm mẹ luôn cháy âm ỉ trong lòng họ.
Hữu Thỉnh như đã đi sâu vào trong tâm can của họ, thấy được những góc khuất của
họ do chiến tranh gây ra. Nhập thân vào nhân vật để tập trung thể hiện sự khắc khoải
nội tâm để từ đó Hữu Thỉnh nhằm làm nổi bật lên lòng chung thủy của những người
vợ, người chị:
Chị chờ đợi quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi...
(Đường tới thành phố)
Khoảng thời gian đằng đẵng “hai mươi năm” lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả
sự khắc khoải chờ đợi chồng. Nỗi nhớ như khắc, như chạm vào tim chị, như hối thúc
tuổi trẻ. Thấu hiểu cảnh ngộ của chị, nhà thơ đã dựng lên chân dung một người vợ trẻ
suốt bao nhiêu năm phải quay mặt vào bóng tối, quay lưng lại với nhiều cám dỗ, chấp
nhận một cuộc sống cô đơn, âm thầm chung thủy chờ chồng cho đến ngày toàn thắng.
Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng người khốn khổ nhất trong cuộc chiến tranh này
là người phụ nữ. Họ là người gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cay đắng trong suốt
cuộc chiến tranh. Những khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn luôn âm ỉ cháy trong lòng họ:
51
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ Tết họ hàng nội ngoại Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình
Những đêm trở trời trái gió
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh người vợ “côi cút một mình” gợi trong lòng người đọc một cảm giác cô đơn, buồn tẻ. Nhập thân vào cảnh ngộ người vợ và đi vào tận cùng ngõ sâu tâm hồn họ, Hữu Thỉnh đã diễn tả tâm trạng ngập chìm trong nỗi buồn, mất mát không gì
bù đắp nổi trong tình cảnh của người vợ xa chồng.
Có người vợ, chồng hi sinh phải sống cuộc đời cô đơn, lẻ loi. Con người ta có
đủ sức mạnh để chịu đựng những hi sinh mất mát về vật chất, nhưng làm sao chịu
đựng được sự cô đơn, làm sao sống được cả cuộc đời quạnh quẽ. Người phụ nữ đó
“mong trời chóng tối” để một ngày trôi đi thật nhanh, để khỏi chứng kiến cảnh tết
đến, xuân về. Cho dù xóm làng rất ý tứ “không khoe con trước mặt” mà vẫn ám ảnh,
vật vã trong lòng chị. Khoảng thời gian ấy chị chịu nhiều thiệt thòi về tình cảm, phải
sống trong nỗi cô đơn:
Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Súng thon thót ngoài đồn dân vệ
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Đường tới thành phố)
Có một điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ nữ
trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan và tin tưởng vào ngày mai. Dù sự tin tưởng ấy đôi lúc chỉ là ảo vọng:
Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều Hoa mai nở hai lần hoa có hậu Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu Vẫn tin có ngày hái quả cho anh (Đường tới thành phố)
Ngày anh không về đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai trong chị,
mặc dù chị đã từng tin “chữ hợp cuối trang Kiều”, nhưng chiến tranh là vậy, người
vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách trong cuộc sống để
chờ anh về. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất trong cõi lòng họ.
52
Có thể nói những dòng thơ viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc động,
day dứt cho người đọc. Hóa thân vào những người mẹ, người vợ, người chị, tác giả đã khẳng định vai trò, sự đóng góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi
cuối cùng của cuộc kháng chiến. Với sự chân thật trong cảm xúc, tác giả đã khắc họa
khá thành công chân dung người mẹ, người vợ trong thời kì đất nước có chiến tranh.
Họ chính là những người hi sinh thầm lặng góp phần làm nên trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
2.2.2. Hình tượng con người những năm sau kháng chiến đến nay 2.2.2.1. Hình tượng người lính
Chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm sâu lắng từ những dòng ký ức, những di
chứng về một thời đạn bom với bao đau thương mất mát, đói nghèo, khổ nhục,... vẫn
còn hiện hữu quanh chúng ta. Nếu như trong thời kì kháng chiến, hình tượng người
lính thường gắn với lí tưởng cao đẹp với cái nhìn sử thi, được nhìn từ phương diện xã
hội, từ trách nhiệm với công dân đối với đất nước thì sau chiến tranh hình tượng
người lính có sự thay đổi, người viết đã có cái nhìn về hình tượng người lính đa dạng
hơn, khai thác đời tư cá nhân, tìm hiểu góc khuất trong tâm hồn người lính. Với sự
đổi mới văn học, các nhà thơ có cái nhìn về chiến tranh và người lính từ vận mệnh
chung của dân tộc đến số phận riêng của cá nhân. Các nhà thơ đã thoát khỏi những
khuôn khổ tư tưởng đã định sẵn và thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Tư thế người
lính không còn là tư thế cao vời vợi để ngợi ca, chiêm ngưỡng bằng những từ ngữ đẹp
nhất. Con người lúc này nhìn nhận thực tế hơn, họ đã thấy được những đói khổ, bất
hạnh và thậm chí cả bi kịch của người lính khi trở về sau chiến tranh:
Mười mấy năm trận mạc
Anh lính trở về làng
Mẹ già thì mới mất Nhà cửa thì tang hoang.
(Văn Lê - Khúc bi ca) Hình tượng người lính sau chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh cũng nằm trong sự dịch chuyển chung của thời đại. Phản ánh chân dung của người lính sau chiến tranh, Hữu Thỉnh không chủ đích vẽ lên những bi kịch giằng xé đau đớn về tinh thần của người lính trước sự thay đổi của thời cuộc mà nhà thơ quan tâm ghi lại số phận cá nhân người lính cách mạng, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người lính. Nhà thơ vẫn
dõi theo và ghi lại những đóng góp thầm lặng của họ. Trường ca biển là tác phẩm tiêu
biểu của Hữu Thỉnh viết về người lính sau chiến tranh. Khi nghiên cứu về tác phẩm
này, Nguyễn Nguyên Tản đã có nhận xét: “…Điểm khác nhau quan trọng trong nội
53
dung phản ánh của Trường ca Biển là số phận cá nhân người lính Cách mạng, về căn
bản đã có ý nghĩa độc lập, nói như nhà thơ: Họ bơi trên số phận riêng mình… Khác với thời chống Mỹ, giờ đây, họ sống cùng gian lao, lòng không thanh thản. Họ gồng
mình lên để cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa được mất,
cống hiến và hưởng thụ, giữa hi sinh và cái giá phải trả cho sự hi sinh…” [48, tr.12].
Thế nhưng sự đắn đo của người lính đảo đó không phải là thiết yếu mà họ luôn xác định nhiệm vụ của mình là bảo vệ biển đảo. Sứ mệnh lịch sử của người lính trong chiến tranh lúc này lại được duy trì và phát huy trong hoàn cảnh thời bình. Khi đất
nước hòa bình, người lính lại đặt gia đình sang một bên để nhận lấy nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà không kém phần gian nan, nguy hiểm là giữ biển đảo Trường Sa của
Tổ quốc. Họ đã coi biển đảo là phần máu thịt của sự sống:
Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình
Đảo có lính cát non thành Tổ quốc.
…Đảo hiện ra thử thách bạc mầu
Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc
Người lính đảo đã canh giữ biển trời Tổ quốc, từng tấc đất, từng cột mốc biên
cương. Đánh đuổi giặc ngoại xâm rồi nhưng vẫn rất cần giữ nước trong thời bình.
Những người lính biển đảo vẫn phải chịu những khó khăn, giông gió trong khảnh
khắc như lật bàn tay, biển hiền hòa là vậy nhưng có lúc trở thành hung thần, thù địch
với người lính, giăng bao nguy cơ muốn nuốt chửng họ trong từng sa sẩy nhỏ. Đâu
chỉ những khó khăn, mất mát hi sinh xuất hiện nơi chiến trường ác liệt, khi trở về thời
bình người lính vẫn phải đối mặt với bao hiểm nguy, đau thương:
Chưa kịp đặt ba lô
Chúng tôi cùng nhau bới cát
Dọn một chỗ nằm cho đồng chí hi sinh Chúng tôi đặt anh cạnh mốc chủ quyền
Cát và cát Ầm ào sóng biển Gió và gió Ngày ngày lại đến Xóa đi phần mộ của anh nằm Chúng tôi lại cùng nhau bới cát
Chôn anh thêm một lần
Người lính thời bình vẫn phải thường xuyên đối diện với những khó khăn, mất
mát, hi sinh. Ngay cả khi đặt chân lên đảo những người lính đã phải ngồi bới cát để
54
hôn đồng đội mình, thậm chí còn chôn thêm lần nữa khi mộ bị gió và cát xóa bằng
hết. Hữu Thỉnh đã không hề né tránh khi nói về những mất mát, đau thương của người lính. Song, những mất mát, đau thương càng làm cho người lính trở nên kiên
cường, bản lĩnh hơn. Ngay sau phút đau thương mất đồng đội, những người lính đảo
lại tiếp tục sống, chiến đấu. Chính “cát” là nơi chôn đồng đội để rồi những ngày tiếp
theo họ lại tiếp tục đối diện với “cát” để tiếp tục bảo vệ biển đảo quê hương:
Sống cát là bệ tì Chết cát là hoa tươi là nước mắt
Sống cát che mắt địch Chết cát là màu tang
Hình ảnh “cát” được nhân cách hóa như một người đồng hành cùng người lính
Trường Sa cô đơn giữa biển, làm rõ hơn nỗi nhọc nhằn, mọi sức chịu đựng phi thường
của người lính đảo trên tất cả các cung bậc cảm xúc. Người lính sống với cát, ăn nằm với
cát. Những người lính kiên cường là vậy nhưng có những khi trong tâm hồn họ vẫn ẩn
chứa khoảng trống, họ vẫn phải gồng mình lên để sống, để chống lại khoảng trống giữa
đồng đội với nhau và chống lại khoảng trống ở ngay trong chính mình:
Chúng tôi là lính đảo thời bình
Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất
Để chống lại cái khoảng trống kia
Cái khoảng trống chực len vào đồng đội
Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa
Có ngay trong chính bản thân mình
Những người lính đến với vùng đảo Trường Sa xa xôi, ngày đêm vật lộn với
gió, bão, cát,… để canh giữ vùng biển của Tổ quốc. Vì sự bình yên của Tổ quốc họ
vẫn tiếp tục phải chịu đựng những mất mát hi sinh, cuộc sống khốc liệt không kém gì trong chiến tranh. Họ phải gồng mình “để chống lại khoảng trống kia”, khoảng trống
vắng trong tâm hồn mỗi con người trước sự hy sinh của đồng đội mình không có gì lấp đầy vào nó được. Và chính bản thân nhà thơ đã thấu hiểu và nói hộ tâm trạng và tình cảm của những người lính đảo xa nhà:
Trên bãi cát những người lính đảo Ngồi chép nhau bao nỗi nhớ nhà Chiều áo rộng vài hạt mây hờ hững
Họ cứ ngồi như chum vại hứng mưa
Đặc biệt trong trường ca này, Hữu Thỉnh dành cả chương ba Tự thuật của
người lính để nhân vật người lính nói về chính mình. Nhân vật xưng “tôi” tự kể về
55
mình sinh ra trong một gia đình nhà nông nghèo khó: “Trong căn nhà đất… Nhà khó
con đàn gió lọt qua phên”, trải qua tuổi ấu thơ với những nhọc nhằn, khốn khó cùng với bất công của xã hội và lớn lên nhân vật đã nhận biết rõ những bất công, ấn tượng
đậm với bữa no đầu tiên là lúc cha phá kho thóc Nhật. Với nhận thức rõ về khốn khó,
ý thức được về trách nhiệm với đất nước, nhân vật “tôi” đã trở thành người lính: “Tôi
đã lớn lên để trở thành người lính/ Thọc đôi tay vào chiếc túi của rừng” và kết bạn với “suốt chiến trường ngang dọc”. Đến lúc nghĩa vụ của người lính thời chiến hoàn thành, tưởng chừng người lính được về với mái nhà thân yêu, thế nhưng chưa kịp về thăm nhà,
nhân vật “tôi” lại khoác ba lô lên đường làm nhiệm vụ của người lính thời bình:
Tôi chưa kịp về thăm căn nhà mái thấp
Trên đôi kèo có một tổ chim
Và tôi chưa kịp nói với em
Đường lắm cát làng mình thương nhớ quá
Trước mặt tôi bây giờ là biển cả
Lại gặp núi non những chop song thần…
Người lính đảo đã xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Cuộc đối
mặt để gìn giữ từng tấc đảo xa của Tổ quốc đã buộc con người phải một sống, hai
chết, phải quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh:
Biển chưa thu xong những mảnh vỡ của mình
Anh le lói bơi đi bằng sức mạnh bí mật của hy vọng
Rất nhiều lần anh chạm chân vào đáy quan tài
Lại cố sức ngoi lên
…Cả vũ trụ so găng đấu với một mình anh
Nghìn cái chết kéo co với một sinh linh bé nhỏ
Tất cả những gì chưa sống nói với anh không thể chết
Tất cả những gì đã chết nói với anh phải sống
Và anh bơi bơi mãi
Mịt mù biển mịt mù trời
Đây là một trong những câu thơ bi tráng nhất, khí phách nhất của trường ca.
Trường ca biển vẫn có một tầm vóc đích thực của nó. Nó càng có giá trị hiện hữu với
hôm nay hơn bao giờ hết, khi cả nước đang đồng lòng, dốc sức hướng ra biển đảo
trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.
Trong thời bình, người lính vẫn giữa được vẻ đẹp của lí tưởng cống hiến, sẵn
sàng hi sinh vì Tổ quốc. Họ luôn tự nguyện dấn thân vào mối nguy hiểm mới để góp
56
một phần công sức vào sự nghiệp bảo vệ đất nước. Họ phải hi sinh hạnh phúc cá
nhân, gia đình để thực hiện nhiệm vụ của mình:
Nhưng với một người lính như con
Muốn gặp mẹ phải vươn lên lên phía trước
…Bước chân con chưa kín mảnh sân nhà
Phía biên giới lại những ngày súng nổ
Ngôi nhà của mẹ là chiếc ga bé nhỏ
Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình
(Ngôi nhà của mẹ)
Hữu Thỉnh không đi vào sự hụt hẫng, bi kịch tinh thần và thể xác của người
lính với những vết thương sau chiến tranh của bản thân, gia đình, không viết về sự
mặc cảm, bế tắc, nghèo đói của người lính trước sự thay đổi của thời cuộc như nhà
thơ Thi Hoàng khi viết về sự thiếu thốn, bế tắc của người lính trở về sau chiến tranh:
Thời tem phiếu thời phân quần áo lót
Còn nhân phẩm thì tự tìm, thứ ấy chẳng ai cho
Đất nước bấm ngón chân rịn mồ hôi hột
Trên bãi lầy nắng cháy vào gan ruột
Cây lúa tong teo thức ngủ cùng người
Lời nói thật nằm im trong miệng
(Thi Hoàng - Gọi nhau qua vách núi)
Hữu Thỉnh luôn theo sát hành trình của người lính từ trong chiến tranh đến khi
người lính sống trong thời bình. Nhà thơ vẫn dĩ theo bước đường đời của người lính
để ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của họ. Người lính thật kiên cường, anh dũng trong
chiến tranh và trong cuộc sống đời thường họ vẫn kiên cường một cách thầm lặng.
Đây là hình ảnh người lính gỡ mìn:
anh đã thắng từng nấc ren phấp phỏng
trong chiến trường chật chội
đấu tay đôi
anh vất lại đằng sau những quả mìn chống tăng
những quả mìn hộp díp
như người ta vất những quân cờ sau một nước cao tay
đất cứ thế tự do, cứ vì người chăm bẵm
trong âm âm điệp khúc máy cày
(Phút giải lao của đồng chí gỡ mìn)
57
Anh đã trải qua những công việc đầy nguy hiểm, làm việc một cách thầm lặng.
Nhà thơ so sánh động tác anh vất “những quả mìn” như “người ta vất những quân cờ
sau một nước cờ cao tay”. Điều đó chứng tỏ việc gỡ mìn đòi hỏi cũng thật cẩn thật,
tính toán từng bước một nếu không sẽ không thể thành công. Người lính trong thời
bình đã hòa nhập với cuộc sống. Họ có thể kiếm sống với nghề gỡ mìn đầy nguy
hiểm, thậm chí trở thành những anh nông dân chân lấm tay bùn. Họ vẫn giữ được
niềm tin vào cuộc sống, hài lòng với hạnh phúc đơn sơ mà không hề than vãn:
Bạn trở về làm lụng dọc triền sông
Nước mấp mé mây vần ô mạ trũng
Căn nhà đất ánh đèn dầu cuối xóm
Bạn đi về khuya sớm lo toan
Bạn trở về lấy vợ sinh con
Hạnh phúc nhỏ hai bàn tay che chúm
Lớp trẻ lớn lên. Bạn ngỡ ngàng kết bạn
Tâm sự nào áo lính vẫn sờn kia?
(Gửi bạn triền sông)
Hữu Thỉnh đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng thành công hình tượng người
lính. Hình tượng người lính trong thơ ông có chiều sâu về nội tâm, phong phú về tâm
hồn, kiên cường vượt lên mọi gian khó, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, là con người của
thời đại mới. Thơ Hữu Thỉnh thực sự là những lời ca về cuộc đời của người lính.
2.2.2.2. Hình tượng người phụ nữ
Sau kháng chiến, hình tượng người phụ nữ vẫn tiếp tục được Hữu Thỉnh quan
tâm và thể hiện trong thơ ca. Trong kháng chiến, nhà thơ khẳng định vai trò, sự đóng
góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc. Hình
ảnh người mẹ, người vợ, người chị…là những người hi sinh thầm lặng góp phần làm
nên trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Hòa bình lập lại, người phụ nữ tiếp tục
đảm nhiệm vai trò với gia đình, với xã hội. Họ vẫn luôn giữa trọng trách quan trọng
trong cuộc sống. Nhưng họ cũng phải gánh chị những hậu quả do chiến tranh để lại.
Hữu Thỉnh đã thấu hiểu nội tâm của người mẹ, người chị, người vợ và tiếp tục khắc
họa cuộc sống, con người họ sau chiến tranh.
Người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh thật gần gũi, thân thiết, vẫn đức tính cần cù,
chịu thương chịu khó làm công việc nhà nông:
58
Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen
Mẹ tôi nón lá bước lên
Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu.
Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Mẹ tôi gạt cỏ bước lên
Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn.
(Trông ra bờ ruộng)
Trong Trường ca biển, người mẹ đóng vai trò là người chỉ dẫn người con trên
đường đời. Mẹ có cả một kho tri thức, có lối đối nhân xử thế thật khéo léo để dạy cho con:
Mẹ đã nuôi con lớn
Mẹ đã dạy con khôn
Sống sướng vui và đau khổ với con người
Sống dễ dàng và khó khăn với con người
Sống cởi mở và phòng xa với con người
Biết đem cho mà không làm người được cho cảm thấy mắc nợ
Biết nhận mà không sợ bị coi là tham lam
Và khó nhất là biết từ chối
Lời dặn dò của người mẹ luôn khắc sâu trong lòng người lính:
- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Nếu như thời kì chiến tranh, hình tượng người mẹ xuất hiện như một niềm an
ủi, động viên lớn từ hậu phương, là niềm tin, niềm khích lệ to lớn đối với người lính
vượt qua khó khăn thì đến thời kì hòa bình, đặc biệt là những năm đổi mới, người
mẹ trong thơ Hữu Thỉnh lại có cái nhìn khác. Người mẹ được nhìn nhận với góc độ
đời tư, thực tế hơn, dạy con biết ứng xử trước những đổi thay của thời cuộc. Còn
người con những lúc cô đơn lại tìm đến mẹ như một niềm động viên, an ủi lớn lao
để giãi bày tâm sự:
Mẹ ơi mây héo con xin mẹ
Cho con lên an ủi mặt trăng buồn
Chợ tan đường cũng tan như chợ
Bán được buồn hay mua được buồn hơn
(Đất ngày thường)
59
Nhân vật trữ tình thường thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít với mẹ. Trong bước đường đời mỗi khi gặp trở ngại hay những điều nằm ngoài ước đoán đều quay về hỏi mẹ:
Tôi bước ra ngoài ngõ Gió thổi. Nước triều lên Đi hoài không gặp tiên Đành quay về hỏi mẹ - Hãy yêu lấy con người Dù trăm cay nghìn đắng Đến với ai gặp nạn Xong rồi. chơi với cây!
(Lời mẹ) Hữu Thỉnh nhìn nhận con người cũng như người mẹ với tư cách một người bình thường chiêm nghiệm về thân phận, nhân tình, thế thái. Hay có khi trở thành nỗi “ám ảnh” về cách sống trong cuộc đời: “Miếng cơm manh áo che khuất mẹ tôi/ Sự vô tình che khuất mẹ/ Người thường vắng mặt trong các cuộc vui/ Tóc bay trắng trong buổi chiều gió bạc” (Chạm cốc với Xa-in). So sánh về sự phản ánh con người trong hai giai đoạn sáng tác của Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản có đánh giá: “…thơ Hữu Thỉnh giai đoạn trước thiên về phản ánh con người và đời sống đơn nhất, trong hệ quy chiếu lí tưởng độc lập tự do…, có thiên hướng tổng kết chiến tranh. Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau thể hiện con người và cuộc sống đa dạng, muôn mặt, con người day dứt và trăn trở trước cuộc đời” [48, tr.64]. Nhưng dù ở giai đoạn sáng tác nào người mẹ vẫn mang phẩm chất đáng quý: cần cù, chịu thương chịu khó, hết mực yêu thương con. Hình tượng người mẹ đã trở thành điểm tựa quan trọng để nhân vật trữ tình tâm sự về tình đời, về nỗi niềm của cuộc sống.
Bên cạnh hình ảnh người mẹ, Hữu Thỉnh còn khắc họa hình ảnh người chị, người vợ sau chiến tranh. Nhà thơ tập trung diễn tả rất tinh tế chiều sâu tâm lí người phụ nữ với những khao khát đời thường. Từ đó ta thấy được những trạng thái trong chiều sâu tâm hồn mỗi con người, sự thủy chung và tin tưởng, khát khao và dồn nén, cam chịu nhưng ẩn sau đó là một sức sống mãnh liệt:
Ngày anh về Lúa đồng cúi hạt Nước mắt đi trước người Mộ anh đặt nơi chăn trâu thuở nhở …Mãn tang anh chị vẫn chưa già ...Trời còn bao nhiêu thu Tóc chị thắm làm thắt lòng nội ngoại (Trường ca biển)
60
Ngày anh không về đó là một nỗi đau đớn không thể nào nguôi ngoai trong lòng chị, mặc dù chị đã từng tin “chữ hợp cuối trang Kiều” được đoàn tụ, hạnh phúc. Nhưng chiến tranh là vậy, người vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách trong cuộc sống để chờ anh về và giờ đây chị lại phải chịu thêm một lần thử thách: “Mãn tang anh chị vẫn chưa già”. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất luôn đi theo suốt cuộc đời thành một nỗi ám ảnh không thể nguôi ngoai. Khai thác vấn đề này, nhà thơ thể hiện một cái nhìn đầy đồng cảm, chia sẻ và thấu hiểu những người phụ nữ. Chị đã tìm được người cảm thông, đồng hành. Chính điều đó đã góp phần làm xoa dịu bớt những nỗi cay cực mà người phụ nữ phải gánh chịu:
Hôm nay tái giá chị tôi Liền anh cùng với bao người đứng trông Chị tôi đi thửa hương vòng Ngậm ngùi trên mộ cũ Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang (Trường ca biển)
Có thể nói những dòng thơ Hữu Thỉnh viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc động trong lòng người đọc. Nhà thơ đã hóa thân vào những người mẹ, người vợ, người chị để đã khẳng định vai trò, sự đóng góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ. 2.2.2.3. Hình tượng con người cá nhân
Văn học luôn lấy con người làm trọng tâm để phản ánh. Vậy con người cá nhân trong văn học là gì ? Đó chính là sự phản ánh cái tôi của tác giả, là hình tượng của tác giả, là sự diễn tả, giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nhìn từ góc độ nhận thức luận thì hình tượng con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa, tâm tư, tình cảm, ý chí của bản thân tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Đó có thể gọi là cái tôi của nhà thơ.
Trong thơ Hữu Thỉnh, luôn hiện diện một cái tôi cá nhân tự ý thức và cái tôi cá nhân tôi luôn tìm kiếm ý nghĩa và bản chất của đời sống con người. Trước hết là cái tôi cá nhân tự ý thức. Cái tôi ấy luôn thể hiện sự tự dằn vặt và những nghi vấn về cuộc đời. Trong guồng quay của cuộc sống, tâm hồn con người cũng bộc lộ nhiều biến thái mới, nhiều chiều sâu mới.
Cuộc sống hiện đại nhiều khi khiến cho con người bất chợt có những lo âu trước biến động bất trắc của cuộc sống đời thường. Những khoảnh khắc tâm trạng này tác động vào thơ làm cho thơ trực cảm hơn, thảng thốt hơn và trải nghiệm hơn. Sự phát triển của thời kinh tế thị trường phá vỡ tính cân đối mực thước bình ổn buộc thơ quan tâm đến từng số phận éo le, những khía cạnh của đời thường. Hữu Thỉnh đã ghi lại những ngẫu cảm khi làm thơ:
61
Chưa viết giấy đã cũ
Chưa viết sông đã đầy Đám cưới chưa qua có người đứng khóc.
Chưa viết chợ đã đông
Chưa viết đồng đã bạc
Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa (Tạp cảm)
Giấy cũ, sông đầy là thời gian của tâm trạng để đẩy tới một thảng thốt bất
chợt: “Đám cưới đi qua có người đứng khóc”. Đây là nghịch lý của đời thường thật trớ trêu mà thương cảm, cảnh ngộ: người khóc trong đám cưới gợi nỗi niềm xót xa.
Những day dứt, trăn trở ấy cứ đeo đẳng. Chất lượng sống thay đổi, chất lượng giá trị
tiêu dùng có sự can thiệp của con người làm biến đổi cả cung bậc tình cảm, đến nỗi:
“Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa”. Vòng quay của nhịp điệu cuộc sống, của
các mối quan hệ xã hội cộng đồng đã bị phá vỡ cấu trúc từ trong thẳm sâu tâm hồn
con người.
Thời cuộc thay đổi, con người cũng phải thay đổi. Nhà thơ đã diễn tả sự thay
đổi bản thân qua những hình ảnh khá riêng biệt:
Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi
Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp
…Tôi thường bị đám gai của hoa hồng xua đuổi
Không có cách chi lọt vào mắt vô tình
(Lời thưa)
Giọng thơ chậm, buồn như lời tâm sự. Nó đã cơ bản hé mở những tâm trạng
đau buồn, cô đơn, những u ẩn, trăn trở về thân phận - một thân phận còn nhiều vất vả,
lo toan. Nhà thơ tự cảm thấy mình bơ vơ, lạc lõng trước dòng đời: “Tôi ấy mà, cánh diều nhỏ cô đơn/ Với hạnh phúc tôi đứng ngoài song cửa/ Với chia tan tôi là khúc ca
buồn” (Lời thưa). Dường nỗi cô đơn đang xâm chiến trong tâm hồn nhà thơ, càng khát vọng được đồng cảm thì nỗi cô đơn càng da diết:
Tôi lặng bước dưới cây Hồi hộp với món quà lạ mặt Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt Ngõ đứng trông người…
(Đi dưới cây)
Song, càng cô đơn nhà thơ lại càng suy nghĩ sâu sắc thêm về cuộc đời, con
người. Chính sự cô đơn dày đặc ấy đã làm giàu có thêm tính triết lí của thơ Hữu
62
Thỉnh. Tác giả đã tự soi vào bản thân để phát hiện ra nỗi cô đơn để đi sâu khám phá
sự phong phú trong những cung bậc tâm hồn con người và từ đó đưa ra những triết lí sâu sắc về chính nỗi cô đơn. Cô đơn đâu phải chỉ do thiếu hòa hợp với xã hội mà còn
do người thi sĩ muốn sẻ chia song không được:
Chỉ còn một mình anh
Với chiều ngoài cửa sổ.
Mùa thu cũng bỏ trời
Đi về miền tiếc nuối
Có con tàu mệt mỏi
Thét còi trong tim anh.
(Ước)
Câu thơ ẩn chứa nỗi buồn của người trên cuộc hành trình tìm tới hạnh phúc
trọn vẹn. Ở đó có một niềm khao khát và chứa đựng cả sự nuối tiếc.
Trong chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản cũng đã
nhắc tới cái tôi cá nhân tự ý thức này trong hình bóng người cô đơn: “Con người cô
đơn trong thơ Hữu Thỉnh xuất hiện trên cái nền chung ấy, nhưng cô đơn cũng cô đơn
hơn, thất vọng cũng thất vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn. Bởi như đã nêu ở trên,
anh là người của khát vọng được đồng cảm, cháy bỏng, da diết, bức xúc” [48, tr. 53].
Cái tôi tác giả cô đơn nhưng không hề bi lụy hay yếu đuối. Cô đơn mà vẫn luôn chất
chứa niềm hy vọng về đời, và niềm tin về sự gắn bó, chia sẻ với đời. Chính vì vậy,
thơ Hữu Thỉnh, dù về sau này chất chứa tâm trạng buồn nhưng vẫn toát lên vẻ hồn
hậu của một tâm hồn luôn biết gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của cuộc sống:
Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình
Dưới đáy cốc của hy vọng
(Cặn lắng)
Sau năm 1986, các nhà thơ nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn
giấu”, dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn ổn định để
đi tìm những giá trị mới. Cái tôi cá nhân của Hữu Thỉnh cũng không ngần ngại bộc lộ
góc khuất của tâm hồn, luôn đào sâu, lí giải, trăn trở trước cuộc đời:
Lọc hết bùn đi
Còn chút gì sót lại
Đấy là anh sau những vui buồn
(Lọc)
63
Tác giả đã dùng hình ảnh mang tính biểu tượng để nói về một chân lí: con
người ta bị vấy quá nhiều “bùn đen” trong tâm hồn, cần sàng lọc đi mới thấy được
bản chất.
Nếu như trước đây trong thời kì kháng chiến, cái tôi cá nhân của nhà thơ
thường hòa chung với dân tộc với nhân dân thì ở giai đoạn sau kháng chiến, đặc biệt
là thời kì đổi mới, cái tôi cá nhân đã được bộc lộ rõ nét. Cái tôi cá nhân đó trở nên đa
diện mà mặt trội của nó là những suy tư về con người, hiện lên trong chính cuộc sống
đa chiều thường ngày.
Cùng với sự hiện diện của cái tôi cá nhân tự ý thức còn có cái tôi cá nhân tôi
luôn tìm kiếm ý nghĩa và bản chất của đời sống con người. Thơ Hữu Thỉnh đi sâu
khám phá những ưu tư, tìm kiến và phản ánh những sự kiện mới về thời cuộc để rồi
nhà thơ nhận ra mặt trái của xã hội và đau đớn về cách ứng xử lật lọng tráo trở của
con người với nhau:
Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ
Cười súng sính
Trong bộ cánh thớ lợ
...Luật nhân quả
Ngủ gật trên bậc cửa
(Bất hạnh)
Lời thơ đã thể hiện bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tế và lí tưởng
một thời là một khoảng cách xa tắp đến mù mịt. Khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện
không ngăn nổi cái nghịch lí, trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành. Trong cuộc sống ấy,
tác giả lại càng ý thức về phẩm giá con người.
Cái tôi cá nhân không chỉ khám phá, ý thức về cuộc sống mà còn ưa phân tích,
lí giải và khái quát hóa vấn đề. Sự phân tích, khái quát này dựa trên một năng lực cảm
nhận và mô tả đời sống sâu sắc và tinh tế. Hữu Thỉnh xây dựng cái tôi với bút pháp
riêng, bao giờ cũng để cái tôi được sống thật, gắn với những cảm giác thật. Một trong
những tiềm năng của hồn thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm trực giác. Nhà thơ có cảm
nhận về thời khắc giao mùa từ hạ sang thu rất tinh tế:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Sang thu)
64
Mùa thu có chút se se lạnh của gió đầu mùa với hương ổi đặc trưng của vùng
quê Việt Nam. Cảm nhận về thiên nhiên để rồi nhà thơ đưa đến một triết lí sâu sắc về đời sống:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi (Sang thu)
Nắng, mưa, sấm là những biến động bất thường của ngoại cảnh, là vất vả lo toan của của cuộc đời nhưng với con người từng trải thì họ đón nhận những thử thách
ấy một cách bình tĩnh, vững vàng. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” biểu tượng cho
những người đã trưởng thành, chín chắn, từng trải. Từ hình ảnh thực của thiên nhiên,
tác giả gợi lên một ý nghĩa xâu xa: con người đã đứng tuổi, đã từng trải thì ít bị chấn
động bởi những biến cố bất thường của cuộc đời.
Như vậy, Hữu Thỉnh đã xây dựng trong thơ mình hình tượng con người cá nhân,
cái tôi cá nhân. Cái tôi đó vừa truy vấn chính bản thân vừa truy vấn xã hội. Hữu Thỉnh
luôn hướng đến cuộc đời và mỗi bài thơ ông là một tâm niệm, một suy tư về nhân tình
thế thái. Nhờ đó, nhà thơ đã dâng tặng bạn đọc những cảm xúc đặc biệt, những nhận
thức mới mẻ về thế giới tâm hồn con người ẩn chứa bao điều bất ngờ thú vị.
65
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN HIỆN THỰC
ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH
3.1. Ngôn ngữ
3.1.1. Vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ dân gian
Trong các sáng tác của Hữu Thỉnh, lớp từ ngữ gần với ngôn ngữ đời sống
được nhà thơ sử dụng rất phổ biến. Nó mang đến cho thơ ông một cách diễn đạt gần
gũi, thân quen. Đặc biệt, nhà thơ sử dụng những từ ngữ mang tính khẩu ngữ, mang
đậm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:
Mẹ tôi đã già rồi
Đời không ai biết cả
Tôi bước vào thành phố
Vết sẹo dìu tôi đi
(Tôi bước vào thành phố)
Lớp từ thuần Việt vốn giản dị, mộc mạc nhưng thuyết phục và làm rung động
lòng người đọc bởi chính vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên. Hữu Thỉnh đã tiếp nhận ưu
điểm lớn này của ngôn ngữ đời sống sử dụng trong nhiều tác phẩm. Mượn cách nói
giàu hình ảnh của dân chúng, nhà thơ đã khoác lên những từ ngữ vốn thông dụng
trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân một vẻ đẹp riêng vừa tự nhiên, vừa
thú vị: “Chớp nhì nhằng lô cốt méo bên sông” (Chuyến đò giáp ranh); “gió như chạy
chân trần trên đất”, “Ông bà đi xa ruộng nương để lại / Làm sẵn ca dao dạy cách ở ăn” (Sức bền của đất); “Lá thư chữ đứng chữ ngồi”,“Sáng úp mặt ngoài đồng/ Chiều còng
lưng cuốc đất” (Đường tới thanh phố); “Mây đen một mảnh nhỡ nhàng về quê”, “Chiếc
nón mê thui thủi giữa đồng”, “Cha nhễ nhại trước cỏ lau cỏ lác” (Trường ca biển),...
Trong thơ Hữu Thỉnh, lớp từ ngữ dân dã trong sinh hoạt đời thường xuất hiện
nhiều để bộc lộ một cái nhìn hiện thực đối với cuộc chiến tranh gian khổ và khắc họa hình ảnh người lính trở nên chân thực, giản dị đúng với chân dung nhân vật hơn:
Xạ thủ trung liên Lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi Đang chở che, đang âu yếm mọi người Tiếp thêm củi bằng bàn tay thô nháp
Những ngòn bằng như cây bài tam cúc Từng bàng hoàng trên mái tóc người yêu
(Đường tới thành phố)
66
Ngôn ngữ mộc mạc toát lên từ những đoạn thơ giới thiệu về hình ảnh những
người lính làm cho lời kể càng thêm chân thực, giản dị. Có thể khẳng định rằng yếu
tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, được đưa vào lời kể khiến cho cuộc sống chiến trường
với biết bao sự kiện ngổn ngang, bề bộn được hiện lên rõ nét:
Chính mơ ước cho chúng tôi bóng mát
Qua bãi bom cây cối cộc cằn
Nhìn ngọn lửa lại nhìn nhau
Bỗng lạ
Lòng cứ đầy những Bình Định, Nha Trang...
(Đường tới thành phố)
Để miêu tả cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa biển và người lính trong Trường ca
biển, Hữu Thỉnh đã sử dụng thể thơ văn xuôi. Cuộc đối thoại giữa biển với người lính
thực chất là một cuộc độc thoại nội tâm, nhờ những dòng thơ văn xuôi mà tâm tư của
người lính hiện lên một cách chân thực và sâu sắc:
Người lính nói:
- Tôi phải làm gì.
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Đó là nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng.
Người lính nói:
- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin.
Đối thoại với biển, người lính như đang tự đối thoại với chính bản thân của
mình. Trước một môi trường sống xa lạ và hoàn toàn mới mẻ, người lính phải bỏ lại
hết kinh nghiệm sống có từ trước để hòa nhập với biển cả. Đứng trước biển, trước
những khó khăn, cạm bẫy trước mắt, người lính vẫn không hề lùi bước. Thái độ của
họ trước biển đời đầy chông gai là một tinh thần sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống
hiến. Đó chính là tư thế kiêu hãnh của người lính thời bình.
Nhờ có lớp từ sinh hoạt đời thường, bình dị, sinh động, ta thấy được hiện thực
cuộc sống được miêu tả như nó vốn có và hình ảnh con người, quê hương trở nên
thân quen, gần gũi và đẹp đẽ:
67
Tôi sinh ra quả trám đã bùi
Rễ si buông cước lá sòi rưng rưng
Tôi chưa với tới trái bòng
Kiễng chân chóng mặt cầu vồng lên năm
Cầu vồng xanh đỏ tím vàng
Chim cu toan đổi chuỗi cườm trời cho
(Trường ca biển)
Trong thơ Hữu Thỉnh có sự dung nạp số lượng khá lớn ngôn ngữ của đời sống
hàng ngày, tiếng nói của người bình dân, cho phép nhà thơ phản ánh sát đúng thần
thái của hiện thực và con người được miêu tả. Ta có thể thấy Hữu Thỉnh không hề tô
điểm cho lời thơ, để cho bản thân sự vật, sự việc hiện lên với đúng dáng vẻ, đặc điểm
của nó. Chẳng hạn, tác giả diễn tả tâm trạng một người lính sau trận chiến với kẻ thù:
Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao
Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó
Cái lặng im hoàn toàn
Anh nằm nghe anh thở
(Đường tới thành phố)
Các từ ngữ đời thường đã giúp cho thơ Hữu Thỉnh thấm đẫm hơi thở cuộc
sống. Đối với Hữu Thỉnh, chất thơ không phải ở đâu xa mà nó được chắt lọc từ
chính lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chính điều này đã tạo nên sự gần gũi, thân thiết,
dễ đi vào lòng người.
Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, Hữu Thỉnh còn sử dụng ngôn
ngữ mang sắc thái dân gian. Khi nghiên cứu về thơ Hữu Thỉnh, Lưu Khánh Thơ
khẳng định: “Trong làng thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục
ngữ...Hữu Thỉnh có thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu
đáo, cặn kẽ, hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một người
chuyên nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã làm Hữu
Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh. Hữu Thỉnh
tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh mà
còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết”
[28, tr. 411].
68
Để làm nên thành công trong thơ Hữu Thỉnh không thể không kể đến yếu tố
ngôn ngữ dân gian. Yếu tố này được nhà thơ vận dụng khá nhuần nhuyễn, sáng tạo và
đạt được giá trị nghệ thuật cao. Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta thấy được những ngôn từ được
chắt lọc từ nên văn học dân như ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Chẳng hạn, trong bài thơ Trên một chiếc xe tăng, nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn,
biến đổi hợp lí, linh hoạt, ghi lại những gì tinh túy, cái hồn câu tục ngữ dân gian:
Vào lính xe tăng anh trước anh sau
Nết ăn ở người thì lạnh nóng
Khi đã hát hòa cùng một giọng
Một người đau tất cả quên ăn
Cách ứng xử trong dân gian đã được nhà thơ vận dụng sáng tạo trong hoàn
cảnh chiến tranh để nói lên tinh thần yêu thương, đoàn kết của những người lính:
Ăn trông nồi, là nhường nhịn anh em,
Ngồi trông hướng, là biết thù bóng tối
(Sức bền của đất)
Vốn văn hóa dân gian, những câu ca dao đã ăn sâu, thấm đẫm trong thơ Hữu
Thỉnh. Nhà thơ mượn ca dao để nói lên phép đối nhân xử thế, triết lí nhân sinh của
con người Việt Nam:
…Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
(Trường ca biển)
Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía, con người phải biết thích
nghi với hoàn cảnh, làm chủ hoàn cảnh: ra sông phải yêu sóng, đi đường xa gặp núi
thì lấy đèo mà tin. Thì ra để đi đến chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ
được hoàn cảnh và làm chủ được chính mình. Đây chính là “chìa khóa” giúp người
lính tìm được con đường sống, tự do và hạnh phúc.
Không chỉ vậy, giọng điệu thơ Hữu Thỉnh cũng chịu nhiều ảnh hưởng của thơ
dân gian. Câu thơ của ông còn nguyên âm hưởng lời ru:
À ơi tình cũ nghẹn lời
Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh
(Trường ca Biển)
69
Đặc biệt, ở trường ca Sức bền của đất, nhà thơ diễn tả cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc bằng những chất liệu dân dã, gần gũi với người dân nơi xóm mạc. Vốn là
một người lính xuất thân từ nông dân, hơn ai hết Hữu Thỉnh cảm nhận rõ cuộc sống
của chính mình, của những người thân nơi quê hương. Trước những vấn đề lớn của
đất nước, nhà thơ đã lí giải bằng cách nói riêng, giản dị mà sâu lắng:
Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt đầu
Mang cái rét riêng hai đi bám giặc
Mang chất thép định hình trên bàn cát
Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa
Ta chao chân trên những mảng bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
(Sức bền của đất)
Dù sử dụng những thi liệu dân gian quen thuộc nhưng Hữu Thỉnh vẫn thể hiện
được lối tư duy thơ hiện đại mới mẻ của mình. Hình ảnh “chuyến đò đầy” trong ca
dao: “Mình về anh dặn câu này/ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” đã được nhà thơ
vận dụng sáng tạo và tài tình để tạo dựng một“chuyến đò” số phận của một người
phụ nữ nhan sắc từng đằng đẵng suốt hai mươi năm “chôn tuổi xuân trong má lúm
đồng tiền”, khắc khoải chờ chồng:
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh “đò đầy” trong ca dao khi đi vào trong thơ Hữu Thỉnh đã trở thành
một biểu tượng đầy ám ảnh về sự mất mát hy sinh thầm lặng mà vô cùng lớn lao của
người phụ nữ trong chiến tranh. Đó là sự vận dụng tài hoa, tinh tế văn học dân gian
để tạo nên vẻ hấp dẫn, độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh.
Việc tiếp thu chất liệu dân gian đã tạo cho thơ Hữu Thỉnh mang tính truyền
thống. Nhà thơ đã làm cho kho tàng văn học dân gian thêm phong phú, góp phần giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
3.1.2. Lạ hóa ngôn ngữ thơ
Cùng với ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ mang sắc thái dân gian, thơ Hữu
Thỉnh còn cho ta thấy một lối viết mới mẻ mang tính sáng tạo trong sử dụng ngôn từ.
70
Trong suốt chặng đường thơ của mình, ông luôn tìm tòi, sáng tạo về ngôn từ để góp
phần hoàn thiện ngôn ngữ thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh việc khai thác cái hay,
cái đẹp của ngôn ngữ đời thường, của văn học dân gian, Hữu Thỉnh còn không ngừng
trau chuốt, sáng tạo ngôn từ để có thể phản ánh một cách sâu sắc về hiện thực đời
sống xã hội và con người, nhất là việc tác giả sáng tạo cái mới làm “lạ hóa” ngôn
ngữ thơ, mang đậm dấu ấn cá nhân.
Hữu Thỉnh luôn có ý thức trong việc lạ hóa ngôn ngữ thơ để gợi ra sức mạnh
liên tưởng trong lòng người đọc. Nhà thơ có thể cụ thể hóa một cách tài tình những
sắc thái xúc cảm mơ hồ nhất. Khi quê hương yên bình, nhà thơ nhận ra sự đổi mới
ngay từ những cảm nhận tinh tế, từ sự chuyển giao của đất trời, những tín hiệu
chuyển mùa từ hạ sang thu. Từ một mùi hương, một làn gió, một đám mây cũng được
ngòi bút của Hữu Thỉnh phác họa thật đẹp và gợi cảm:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
... Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
(Sang thu)
Nhờ có ý thức trong việc tạo ra ngôn ngữ lạ, độc đáo, thơ Hữu Thỉnh tạo được
sức mạnh liên tưởng, kích thích rất mạnh vào mọi giác quan và trí tưởng tượng của
người đọc. Là một người giàu trải nghiệm, Hữu Thỉnh muốn am hiểu các sự kiện của
hiện thực đời sống và con người để mong có lối viết riêng. Nhà thơ đã tạo cho mình
một lớp ngôn từ khó lẫn giữa những tiếng thơ trên thi đàn hiện nay. Đó là ngôn ngữ
giàu sáng tạo và có giá trị thẩm mỹ cao với những nét phong cách đặc trưng. Dễ thấy
nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh là cảm xúc tinh tế, đôn hậu. Hữu Thỉnh là một hồn thơ
nhạy cảm, biết rung động những cảm xúc tinh tế, mạnh về trực giác, trực cảm. Tạo
vật thiên nhiên đi vào trong thơ Hữu Thỉnh bằng một lối cảm nhận rất riêng:
gió thổi dài ẩm ướt về khuya
con sóng nói nhịp chèo cũng nói
…đêm giáp ranh có gì đầm đậm
ở đầu môi, ở trong tóc, khắp làn da
(Chuyến đò đêm giáp ranh)
71
Có khi nhà thơ gắn giữa cái thực với cái ảo, cái hữu hình với cái vô hình và
ngược lại để tạo những hình ảnh thơ mới lạ, độc đáo: “Chim đầy mùi trời/ Trời đầy
mùi thiên hạ” (Trường ca biển); “Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt/ Ngõ đứng
trông người” (Đi dưới cây). Những câu thơ có sự kết hợp giữa cái hữu hình và cái vô
hình đã tạo được giá trị biểu cảm và giá trị thẩm mĩ cao: “Tôi gọi những căn nhà trơ
trọi hàng hiên/ Xiêu vẹo đỡ một hoàng hôn rách rưới”(Đường tới thành phố); “Trời
đang chớp gió trên đầu/ Nụ cười ẩn giữa binh đao, nói gì?”(Trước tượng Bay-on);
“Bắt gặp tình thương đi đưa đám hận thù”(Buổi sáng thức dậy); “Cả đất trời say
sóng ở Trường Sa”(Trường ca biển),… Việc kết hợp những ngôn từ mới lạ, đầy sáng
tạo đã đem đến sự nổi trội, một ưu thế của thơ Hữu Thỉnh.
Có thể thấy, thơ Hữu Thỉnh tái hiện thiên nhiên, cuộc sống, con người bằng
thứ ngôn ngữ mới lạ, giàu hình ảnh và giàu giá trị biểu cảm: “Chúng tôi bơi trong
thương nhớ của riêng mình” (Chuyến đò đêm giáp ranh); “em vừa gỡ gió ngoài sân/
anh vừa góp được một lần vu vơ” (Vu vơ); “đất nước theo em ra ngõ một mình”
(Đường tới thành phố). Hữu Thỉnh luôn chú trọng việc xây dựng giá trị ngôn ngữ
nghệ thuật của mình. Khi nghiên cứu về sự đổi mới, sáng tạo trong ngôn ngữ, tác giả
Hoàng Điệp đã đánh giá: “Hữu Thỉnh có biệt tài trong việc xây dựng giá trị ngôn ngữ
nghệ thuật của mình. Ông đã khéo kết hợp được cái có lý và cái vô lý, giữa cái vô
hạn và cái hữu hạn, nhiều khi Hữu Thỉnh khiến người đọc sững sờ bởi cách nhìn và
cách cảm mang màu sắc siêu thực” [12, tr.115]. Phải chăng chính những năm tháng
dày công chiêm nghiệm cuộc sống đã làm nên trong thơ Hữu Thỉnh những phép so
sánh, đối chiếu bất ngờ thú vị đó, phần nhiều là những câu thơ mang ngôn ngữ rất
hay và gợi cảm: “Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao” (Tiếng hát trong rừng); “ý
nghĩ hằn lên theo từng vết xích, Trên tháp pháo xe tăng/ những ý nghĩ cứ xóc nảy lên
và chắp vá” (Ý nghĩ không vần); “đêm căng như từ giấy/ chia sang đều hai bên”
(Chuyến đò đêm giáp ranh); “Tôi ngồi buồn như lá sen rách” (Nghe tiếng cuốc kêu);
“nhem nhuốc cả ngày xanh”, “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, “Trận
rét rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành phố);“Bàn chân lính đánh vần trên
đất đai tổ quốc” (Trường ca biển),... Việc sử dụng những ngôn từ đó làm cho sự vật
mô tả trở nên cụ thể hóa, giàu giá trị tạo hình, gợi cảm kích thích mạnh vào giác
quan, trí tưởng tượng đối với người đọc.
72
Qua việc khảo sát trên, chúng ta thấy ngôn ngữ trong thơ Hữu Thỉnh vừa mang
tính truyền thống lại vừa mang tính hiện đại. Hữu Thỉnh đã tự tạo cho mình một hình
thức ngôn ngữ riêng, vừa thông dụng, gần gũi với đời sống mà vẫn không đánh mất
chất thơ của chúng. Mượn ngôn ngữ dân gian nhưng ngôn ngữ đó được vận dụng
sáng tạo qua một tư duy thơ hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ sáng tạo ra những từ ngữ mới
lạ, độc đáo tạo được ấn tượng và sự hấp dẫn đối với người đọc. Hữu Thỉnh đã thành
công khi mở ra cho người đọc một cách nhìn cách cảm về hiện thực cuộc sống và con
người bằng một ngôn ngữ riêng của mình. Trên hành trình đến với độc giả, nhà thơ
đã thể hiện một chân lí nghệ thuật độc đáo với ngôn ngữ trong sáng của tiếng Việt,
góp phần quan trọng cho sự phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam.
3.2. Giọng điệu
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi
Khi viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, các nhà văn nhà thơ
thường sử dụng giọng ngợi ca, hào hùng mang âm hưởng sử thi. Ngay cả khi chiến
tranh kết thúc giọng điệu này vẫn được sử dụng trong sáng tác nhưng càng về sau
càng nhạt dần. Những sáng tác của Hữu Thỉnh, đặc biệt là thể loại trường ca cũng
vậy. Giọng điệu mang âm hưởng anh hùng ca thấm đẫm trong trường ca của ông.
Cuộc chiến tranh sẽ bi thương nếu ta chỉ nhìn thấy chết chóc, đau khổ; hơn thế, nếu
không có chất anh hùng ca thì tự nó sẽ rơi vào nhàm chán. Hữu Thỉnh đến với trường
ca cũng không nằm ngoài khao khát tổng kết, nhận diện lại lịch sử, bộc lộ trách
nhiệm và tình cảm của mình với dân tộc. Tất cả những điều lớn lao ấy tự bản thân nó
đã mang tính sử thi và nội dung anh hùng ca.
Có thể khẳng định các trường ca của Hữu Thỉnh đều có cảm xúc chủ đạo là
ngợi ca và mang âm hưởng sử thi. Đó là những khúc ca ngợi ca dân tộc anh hùng,
trong đó có những con người anh hùng, quê hương, hậu phương anh hùng. Đọc
trường ca Sức bền của đất, ta như lại được sống lại với những trang sử vẻ vang của
dân tộc. Đây chính là một động lực thôi thúc người lính hành quân ra trận:
Ngô Quyền nhìn người dân binh cuối cùng trước giáo gươm giặc tới
Người lệnh cho thủy triều đầu quân
Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc.
Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước
Kế đầu tiên là kế nhân hòa
Lệnh đầu tiên: người hiền không bỏ sót
Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm muối vừng
73
Hữu Thỉnh đã nhắc lại những trang sử hào hùng, truyền thống anh dũng của
dân tộc được viết bằng máu của chính cha ông ta. Nó như một niềm thôi thúc thế hệ
sau không quên truyền thống đó. Từ lịch sử của dân tộc, nhà thơ ghi lại giây phút
hành quân âm thầm mà ngùn ngụt sức mạnh ở bên trong:
Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm
(Sức bền của đất)
Đến với trường ca của Hữu Thỉnh, ta như được hòa mình vào chặng đường
hành quân hối hả trong không khí dầu sôi, lửa bỏng của cuộc chiến tranh:
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta
Làng gọi ta
Nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên
(Sức bền của đất)
Trong trường ca Đường tới thành phố, giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử
thi được thể hiện rõ với những cung bậc cảm xúc đa dạng, phong phú. Chặng đường
hành quân hối hả của những binh đoàn đã thể hiện bằng giọng anh hùng ca:
Đất nước đổ ra đường
Tiềm lực lớn những binh đoàn chiến lược
Binh đoàn hướng Đông, binh đoàn hướng Nam, hướng Bắc
Lướt qua đoàn dân vệ, bảo an
Lướt qua các chi khu, căn cứ
…Đêm thần tốc
Đo thủy triều chiến dịch
Đường rập rang
Điệp khúc những bàn chân
74
Con đường hành quân sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người lính với bao buồn vui,
gian khổ. Tất cả sẽ “hóa thành thơ” khi người lính luôn hướng về lí tưởng cách
mạng, về ngày mai tươi sáng:
Đường ta đi, gian khó chẳng mau quên
Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ
(Giấc ngủ trên đường ra trận)
Nhà thơ rất trân trọng ngợi ca những cá nhân anh hùng trong cuộc kháng
chiến. Đó là hình ảnh người tư lệnh, người chiến sĩ lái xe tăng, đôi vợ chồng hoạt
động ở vùng địch hậu, anh bộc phá viên giỏi toán. Họ là những con người luôn yêu
đất nước như máu thịt của mình:
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt
Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi
(Đường tới thành phố)
Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi còn được biểu hiện qua giây phút tự
hào, với bao nỗi niềm sung sướng trong ngày Sài Gòn toàn thắng:
Những mặt người như cờ đỏ mới may
Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ
(Đường tới thành phố)
Niềm hạnh phúc của chiến thắng hiện hình trên gương mặt mỗi con người. Cả
thành phố vui mừng, náo nức lạ thường, người nào cũng đều vui vẻ như trẻ nhỏ được
tặng quần áo mới. Niềm vui chiến thắng khó có thể diễn tả hết được bằng lời. Không
khí hào hùng vào ngày giải phóng đất nước 30 tháng 4 như một mốc son chói lọi của
lịch sử dân tộc, nó đã trở thành sự kiện quan trọng, không thể thiếu trong trường ca của
Hữu Thỉnh cũng như của Thanh Thảo, Thu Bồn... Có thể khẳng định răng: nhờ giọng
điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho thơ Hữu Thỉnh, giúp
cho thơ ông gợi được không khí thực nóng bỏng của những tháng ngày bom đạn chiến
trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày đất nước giải phóng.
Trong Trường ca biển, Hữu Thỉnh lại tiếp tục ngợi ca hình ảnh đất nước với
giá trị văn hóa dân tộc. Những giá trị đó là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để
con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:
75
Tiếng Việt gọi hồn Việt
Giữa đất Việt ngoài khơi
Tiếng Việt là ngọn cờ
Hội quân trong đêm tối
Tiếng Việt để nhận nhau
Giữa bao nhiêu rắc rối
Tiếng Việt giống như ngọn cờ ngoài khơi, trên những con tàu đang bảo vệ chủ
quyền của Tổ quốc, nó thật thiêng liêng và hùng vĩ biết bao. Hữu Thỉnh viết về đất
nước bằng những nét văn hóa dân gian với niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc:
Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp Trương Chi cắm sào đứng hát
Mỵ Nương vẫn đang ngồi khóc
Nước mắt thành ngọc trai
…Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp nàng Tiên Dung đội cát
Giọng điệu ngợi ca, mang đậm chất sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho thơ
Hữu Thỉnh. Đó chính là không khí thời đại với những nội dung lớn lao: tình cảm
thiêng liêng, trong sáng đối với đất nước trong những tháng ngày gian lao, là suy
tưởng của cả một thế hệ được sinh ra và thử thách trong chiến tranh; đó là sự ngợi ca
về những mất mát, sống còn của cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc,... Chính vì
vậy, khi đọc thơ Hữu Thỉnh, người đọc như được sống trong không khí thực của
những tháng ngày bom đạn chiến trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày
đất nước giải phóng.
3.2.2. Giọng điệu tâm tình
Không chỉ mang giọng điệu ngợi ca, mang tính sử thi, thơ Hữu Thỉnh còn có
giọng điệu tâm tình. Nhận xét về giọng điệu của Hữu Thỉnh ở trường ca “Đường tới
thành phố” trong tương quan với trường ca của Thanh Thảo, Đào Thái Tôn cho rằng:
“Nếu Thanh Thảo trong trường ca của mình cho bạn đọc một cách nói mới, thậm chí
táo bạo trong thơ so với trước đó- một cách nói thông minh táo bạo làm cho người
đọc có cảm giác rằng anh viết rồi mới cảm thì Hữu Thỉnh dân dã, đằm thắm, mượt
76
mà và thủ thỉ như quê mùa làm cho người đọc cảm nhận ít khi qua khâu nghĩ ngợi.
Nếu Thanh Thảo hát bè cao thì Hữu Thỉnh Hát bè trầm” [68].
Giọng điệu thơ Hữu Thỉnh nghiêng về phía tâm tình một cách ngọt ngào, trầm
lắng. Giọng điệu này giữ vai trò chủ đạo ở giai đoạn sáng tác trong chiến tranh. Khi
viết về chiến tranh, ta thấy nhân vật trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh thường đại diện cho
những người chiến sĩ trực tiếp bày tỏ về hiện thực cuộc sống và con người nơi mà họ
đã từng gắn bó. Nhân vật trữ tình thường xưng hô bằng các đại từ “tôi”, “con”, “anh”
để giãi bày tâm sự, tình cảm về bản thân, những suy nghĩ về tình yêu trong thời chiến,
tình cảm với mẹ, với quê hương: “Sau bản Đông giải phóng vài ngày/ Tôi với chiến
sĩ xe tăng cầu Chaki tắm mát” (Sau trận đánh); “Anh viết cho em những ý nghĩ
không vần/ đường Trường Sơn khúc khuỷu” (Ý nghĩ không vần); “con lại ngồi vào
chiếc chõng tre xưa/ nơi mẹ vẫn ngồi khâu cha thường chẻ lạt” (Ngôi nhà của mẹ).
Chính nhờ giọng điệu tâm tình đó đã giúp cho thơ Hữu Thỉnh thật chân thực
và cảm động:
Đường ta đi, gian khó chẳng mau quên
Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ
Đèo nặng thế mà khi vào giấc ngủ
Cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu
(Giấc ngủ trên đường ra trận)
Giọng tâm tình trong sáng tác của Hữu Thỉnh không thể vắng bóng nhân vật
đối thoại. Nhân vật này xuất hiện khá đa dạng qua cách sử dụng nhiều hô ngữ: “Bà ơi
mùa hạ đi đâu ?” (Mùa hạ đi đâu); “Đi trong mây anh thấy ấm em à” (Đi trong
mây); “Em ở đâu ? Cây thưa và bến rộng” (Trở lại mùa xuân); “Em có nghe thấy
không ?...Sài Gòn ơi, ta đã về đây, Em ơi em, em là biển của đời anh” (Đường tới
thành phố); “Hoàng ơi, Vũ ơi, Vân ơi…Song Tử đâu? Nam Yết đâu? Sinh Tồn đâu?”
(Trường ca biển),…Việc sử dụng những từ hô ngữ đó có tác dụng giúp cho chủ thể
trữ tình giống như đang tâm sự với ai và làm cho mọi người, mọi vật trở nên gần gũi,
thân thiết hơn. Thậm chí ngay cả nhan đề bài thơ cũng có dấu hiệu của lời bộc bạch,
tâm sự như: “Lời thưa”, “Tự thú”, “Hỏi”, “Em còn nhớ chăng”, “Chăn-đa em ơi”,
“Thưa thầy”, “Gửi bạn triền sông”, “Gửi người bộ hành lặng lẽ”,…
77
Đề tài chủ yếu của giọng điệu tâm tình trong sáng tác của Hữu Thỉnh là người
lính, người mẹ, đất nước và tình yêu. Chất giọng tâm tình được hun đúc bằng cái nhìn
lang mạn. Khi viết về chiến tranh, thơ Hữu Thỉnh vẫn phản ánh hiện thực nhưng
không vì thế mà khô cứng, gân guốc về ngôn từ cũng như giọng điệu. Sự đa sắc màu
trong giọng điệu đã tạo nhịp điệu vừa hào hùng mang tính sử thi vừa tâm tình, tha
thiết. Đó là giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tự nhiên:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu
(Sức bền của đất)
Đến với Trường ca biển, giọng điệu tâm tình được thể hiện gắn với kỉ niệm
tuổi thơ ngọt ngào, gắn với những sắc màu dân gian trong lời tự thuật của người lính:
Châu chấu cào cào xanh tím rủ tôi đi
Những đồi cỏ may những bờ trống ếch
Cây bưởi ca dao cây cau cổ tích
Tôi âm thầm nuôi bống trong chai
Giọng điệu tâm tình còn được thể hiện ở những lời tâm sự ân tình, thủ thỉ về
chuyện tình yêu của đôi lứa trong chiến tranh:
- Nắng mưa làm ảnh mờ đi
Hình như anh chụp trước khi xuống tàu ?
Hình như ở xóm Vườn Trầu
Có người chị, mối tình đầu của anh ?
- Mình đang làm sử chiến tranh
Có cần nghe một mối tình dở dang ?
(Đường tới thành phố)
Chất giọng tâm tình cũng đem lại những khác biệt rõ nét trong đề tài tình yêu
đôi lứa. Trong chiến tranh, tình yêu trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu đặt trong mối quan
78
hệ với cái ta chung của cộng đồng, dân tộc và ít nhiều bị chi phối bởi quyền lợi của
dân tộc. Thơ viết về tình yêu giai đoạn sáng tác sau chiến tranh của Hữu Thỉnh chủ
yếu xoáy sâu vào cái tôi cá thể của nhân vật trữ tình, giọng tâm tình lúc này vẫn có sự
đúc kết, chiêm nghiệm về cuộc sống:
Anh phải nói vòng vo anh yêu biển
Anh yêu trời để thú nhận yêu em
Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa
Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm
(Tạm biệt Sầm Sơn)
Đến với bài thơ Thưa thầy, lời thưa cũng chính là lời tâm sự đầy tình cảm.
Nhân vật trữ tình đã nhận ra sự vấp ngã ngay giữa cuộc đời và thấu hiểu về
người thầy:
Đã vấp ngã, thưa thầy nhiều vấp ngã
Không ở đâu xa ở giữa con người
Em bước đi hoảng hốt nghĩ về thầy
Đời nhanh quá vui buồn chưa kịp cũ
Đời nhanh quá tóc thầy khói phủ
Giáo án chông chênh bão giật đời thường
Cây trước cửa gió ở ngoài tay với
Thầy một mình vật vã với văn chương.
Sự vấp ngã ngay giữa con người là cách nhìn sâu sắc nhiều trực cảm. Chỉ vài
nét chấm phá chan chứa sự cảm thông, nhà thơ đã khắc họa chân dung người thầy
giáo trong gian khó đời thường. Trong lời tâm tình về người thầy đó vẫn chứa đựng
một triết lí về cuộc đời. Cây có thể là cây đời, cây người, là cây thầy gieo trồng với
bao hy vọng. Bài học không chỉ khuôn trong trang vở, rõ ràng văn chương đích thực
bao giờ cũng hướng tới cuộc đời. Người sáng tạo vật vã đã đành người chuyển tải qua
từng trang giáo án cũng vật vã không kém: "Thầy một mình vật vã với văn chương".
Nhà thơ sử dụng chất giọng tâm tình mang tính tự sự, bộc bạch để rồi khái quát lên
thành triết lí. Đây là hình thức tồn tại hiếm thấy trong chất giọng tâm tình của thơ
Hữu Thỉnh trong giai đoạn chiến tranh.
79
3.2.3. Giọng điệu suy tư, triết lí
Thơ Hữu Thỉnh không chỉ là những lời trữ tình mềm mại mà còn hàm chứa
những suy tư, triết lí về nhân sinh, lẽ đời. Trong sáng tác của mình, Hữu Thỉnh thể
hiện những suy ngẫm, khái quát về lịch sử, những suy tư và chiêm nghiệm sâu sắc về
số phận con người. Số phận ấy hiện lên với những vấn đề nhân sinh muôn thủa như:
Sự sống và cái chết, niềm hạnh phúc và sự đau khổ. Vì thế, nhức nhối trong tâm thức
nhà thơ là con đường tìm kiếm và khám phá hạnh phúc thật sự của con người. Đó là
niềm khao khát, là mục đích sống của con người bao thế hệ và cũng xuất phát từ
chiêm nghiệm thực tế của nhân vật trữ tình. Đến với thơ Hữu Thỉnh, ta có thể thấy
được những triết lí bình dị mà sâu sắc vô cùng:
…Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
(Trường ca biển)
Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía. Chúng ta đã giành được
chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ được
chính mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp được người lính tìm được con đường sống,
tự do và hạnh phúc.
Đến với trường ca Đường tới thành phố, chất triết lí về cuộc đời, đặc biệt là về
lẽ sống đã được diễn đạt một cách đầy đủ và sâu sắc:
Sống làm người chiến thắng
Cho mẹ mình, cho đời mình đỡ khổ
Còn ao ước nào hơn
Tự do và Đoàn tụ
Trong thơ Hữu Thỉnh, ta còn bắt gặp những suy tư, triết lí sâu đậm về quê
hương, đất nước. Đọc bất cứ một sáng tác nào từ tác phẩm đầu tay cho đến những thi
phẩm gần đây nhất, triết lí này luôn thể hiện một ý thức sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ
nói riêng cũng như quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia của tác giả. Điều đó được
nhà thơ khắc họa qua hình ảnh quen thuộc:
Đất đi đến đâu quê hương theo đến đấy
Quê hương đi đến đâu máu đi theo đến đấy
(Trường ca biển)
80
Nhưng suy tư, trăn trở luôn theo suốt chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh.
Đến với bài thơ Lời thưa, ta thấy được những u buồn, trăn trở về thân phận của nhà
thơ trước cuộc đời:
Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi
Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp
Hữu Thỉnh luôn quan tâm đến thân phận con người và không ngừng suy tư về
nhân thế. Nhà thơ hay nói về sự cô đơn, sự xuống cấp về đạo đức của xã hội, sự nhạt
nhẽo của tình đời của lòng người,… Hữu Thỉnh thường quan tâm đến những vấn đề
đạo đức của con người, nói đến mùa nhân nghĩa, luật nhân quả, sự tráo trở, vô cảm
của lòng người, của tình đời. Các bài thơ tiêu biểu có thể kể ra như: Tạp cảm, Chạm
cốc với Xa-in, Tôi bước vào thành phố, Những kẻ chặt cây, Đi dưới cây, Hỏi, Bất
hạnh,… Chính điều đó đã khiến Nguyễn Nguyên Tản nhìn nhận: “Cảm hứng đời tư -
thế sự trong mảng thơ viết về cuộc sống thời bình của Hữu Thỉnh dẫn tới xu hướng
bao trùm là tự bày tỏ những trăn trở về cuộc sống thời bình của Hữu Thỉnh dẫn tới
xu hướng bao trùm là sự bày tỏ những trăn trở về thân phận người lính, về nhân dân
sau chiến tranh, về hạnh phúc, thế thái nhân tinh” [48, tr.45].
Đến với Trường ca biển, ta thấy cái tôi trữ tình với bao suy tư, trăn trở về một
đời, về cuộc sống bộn bề, phức tạp. Nó như một niềm hối thúc ta hãy sống thật với
lòng mình, xóa bỏ cái ác, cái xấu để cho cái đẹp, cái thiện được tồn tại vĩnh hằng.
Phải chăng đó là điều người lính biển day dứt nhất khi nói lời tâm sự với mẹ:
Mẹ ơi con nhận ra cái ác vô cùng
Cũng là lúc con nhận ra sự hữu hạn của lòng tốt
Mảnh ván con bơi là lòng tốt vô cùng
Trên thế gian đầy bắt trắc
(Trường ca biển)
Mượn hình tượng người lính nhà thơ đã nói lên những suy tư, triết lí về cuộc
đời. Có thể nói thân phận con người luôn giữ vai trò là đối tượng suy tư trong suốt
quá trình sáng tác của Hữu Thỉnh. Bên cạnh hình tượng người lính, hình tượng người
mẹ cũng để lại những suy tư, chiêm nghiệm trong lòng người đọc. Nếu như trong thời
kì chiến tranh, người mẹ được ngợi ca với đức hi sinh, chịu đựng thầm lặng, với tấm
81
lòng cao cả bao la thì ở gian đoạn sau, hình tượng người mẹ hiện lên với những suy
tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Người mẹ trở thành đối tượng để nhân vật trữ tình bộc
bạch những nỗi niềm suy tư:
Mẹ ơi mây héo con xin mẹ
Cho con lên an ủi mặt trăng buồn
Chợ tan đường cũng tan như chợ
Bán được buồn hay mua được buồn hơn
(Đất ngày thường)
Thậm chí, điều đó trở thành nỗi ám ảnh theo suốt quãng đời của nhân vật trữ
tình. Sự xuống cấp của những chuẩn mực giá trị tốt đẹp đã kéo người mẹ vào những
cuộc phiêu lưu ảm đạm của tình đời:
Anh hiểu vì sao tôi hay nhắc mẹ tôi
Nỗi ám ảnh suốt cuộc đời day dứt
…Miếng cớm manh áo che khuất mẹ tôi
Sự vô tình che khuất mẹ
(Chạm cốc với Xa-in)
Tuy nhiên, nét nổi bật, đáng trân trọng nhất là tình cảm của nhân vật trữ tình dành
cho người mẹ. Đây có thể là điều mà chúng ta chưa từng nghe thấy ở các nhà thơ khác:
Thơ mỗi ngày người càng đọc ít hơn
Nhưng con chọn vũ khí này bênh vực mẹ
(Chạm cốc với Xa-in)
Giọng điệu suy tư đó đã làm nổi bật tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh. Đọc thơ
Hữu Thỉnh, ta thấy có nhiều trường hợp tính triết lí hòa vào chất giọng suy tư. Đối
tượng để nhà thơ chiêm nghiệm có thể là những chi tiết nhỏ, bình dị của cuộc sống.
Trong bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ, Nguyễn Đăng Điệp luôn chú ý
đến tính triết trong thơ Hữu Thỉnh: “Triết lí trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát
từ những chi tiết rất nhỏ nhoi, bình dị”, và nó “được nảy sinh từ những suy ngẫm
không ngừng về lẽ sống, về cách xử thế, về quan hệ người, về cái cao cả mong manh
đang bị bủa vây bởi cái thấp hèn, hung bạo…” [14].
82
Quả thực vậy, chất triết lí trong thơ ông toát lên từ những trải nghiệm sâu sắc,
giản dị, chân thành về hiện thực đời sống và con người. Đó có thể là những cảm
nhận, đúc kết về thân phận con người, về tình yêu, lẽ đời:
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
…Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
(Tự thú)
Cuộc sống sau chiến tranh không hề bình lặng, những thay đổi của thời cuộc
kéo theo cả những toan tính, bon chen vụ lợi. Hữu Thỉnh đã giúp chúng ta hiểu thấm
thía hơn điều đó. Lí giải cuộc đời và số phận con người cũng như bản chất thực của
cuộc sống là điều cốt yếu trong dòng suy tư, triết lí của nhà thơ.
Giọng điệu suy tư, triết lí được nhiều nhà thơ sử dụng như: Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Duy, Thanh Thảo,…Nhưng mỗi nhà thơ khi sử dụng giọng điệu này đều có
sự sáng tạo. Trong tầm nhìn của mình, Hữu Thỉnh hay nói về thân phận, về sự xuống
cấp của những giá trị tinh thần, đạo đức của con người. Còn đến với thơ của Phạm
Tiến Duật, ta thấy chất giọng này được nhà thơ sử dụng để diễn tả về lẽ đời, về những
đổi thay của giá trị: “Việc mới thì luật chơi mới/ Cứ gì cờ tướng cờ vua” (Luật chơi).
Hay giọng điệu thơ Nguyễn Duy lại chứa đựng chất giọng ghẹo đùa: “nghêu ngao
hát ngọng nghẹo chơi/ người cười nói xúc phạm người ngậm tăm” (Xẩm ngọng).
Ở giai đoạn sáng tác trong chiến tranh, Hữu Thỉnh thường suy tư về dân tộc,
về những lẽ sống lớn. Ở giai đoạn sau chiến tranh, nhà thơ thường suy tư về sự tồn tại
của các số phận cá nhân, về sự suy thoái của các giá trị nhân sinh. Đây chính là
những trăn trở thường trực trong một trái tim đa cảm, luôn quan tâm đến hiện thực
đời sống và con người.
Như vậy, một trong những thành công của thơ Hữu Thỉnh là giọng điệu suy tư,
triết lí. Có được giọng điệu này cũng là điều dễ hiểu bởi nhà thơ đã từng là người lính
đi qua chiến tranh, trực tiếp chứng kiến những được, mất của dân tộc. Chúng ta hình
dung ra một Hữu Thỉnh với bao suy tư, trăn trở, một tư duy luôn đấu tranh, vật lộn
giữa cái ác, cái xấu với cái chân, thiện, mĩ. Những vấn đề suy tư, triết lý trong thơ
83
Hữu Thỉnh không gì khác là những vấn đề nhân sinh muôn thuở của con người: sự
sống, cái chết, niềm hạnh phúc và sự khổ đau. Nhức nhối trong tâm thức nhà thơ là
con đường tìm kiếm và khám phá hạnh phúc thật của con người. Đó là sự khao khát
và là mục đích sống của bao thế hệ. Chính vấn đề này đã đem lại sắc thái biểu cảm,
tránh lối sáo mòn về hình thức thể hiện, đi sâu vào bản chất của cuộc sống, từ đó
khẳng định giá trị nhân văn trong thơ Hữu Thỉnh.
3.3. Hệ thống biểu tượng
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã xem xét biểu tượng theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp: “Theo nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh đời
sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một
phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả
năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa
thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc
đời” [19, tr.24]. Trên hành trình tìm kiếm sự đổi mới, nỗ lực cách tân thơ, Hữu Thỉnh
đã góp tiếng nói đầy nhiệt huyết của mình bằng những biểu tượng thơ giàu sức gợi,
giàu vốn văn hóa và giàu chất suy tưởng. Đó là biểu tượng cho hành trình tìm kiếm
và khai mở (con đường), biểu tượng cho sự hồi sinh (ngọn lửa), biểu tượng cho dòng
chảy vô thường của đời sống với vô vàn những đổi thay và thăng trầm (biển),...
3.3.1. Biểu tượng con đường
Đây là một trong những biểu tượng phổ biến của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Con đường là biểu tượng của sự thống nhất không gian và thời gian để con người
vươn lên, đến với cách mạng.
Thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thuộc phạm trù "cái cao cả", muốn trở
thành cao cả thì không gian không chỉ cần bao la mà còn phải có phương hướng và
con người trong đó phải vận động về một mục đích. Không gian đó chính là con
đường mà nhà thơ thường nhắc đến. Con đường được Hữu Thỉnh khắc họa trong thơ
là con đường Trường Sơn. Trong chiến tranh chống Mỹ, con đường Trường Sơn luôn
gánh chịu những trận bom đạn của kẻ thù. Con đường đó đã đi vào trong thơ ca của
nhiều nhà thơ thời kì này. Ở thơ Hữu Thỉnh, nó hiện lên với những khúc khuỷu, ngổn
ngang đất cát, bốc mùi cháy khét bởi bom đạn của quân thù: “Anh viết cho em những
84
ý nghĩ không vần/ đường Trường Sơn khúc khuỷu/ xích xe tăng quay không êm ả chút
nào” (Ý nghĩ không vần); “Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn/…Đường
ngổn ngang đường đất còn cháy khét” (Tiếng hát trong rừng).
Đường Trường Sơn cũng như các con đường khác trong chiến tranh được ví
như huyết mạch trong cơ thể con người. Để giữ cho con đường huyết mạch được
thông suốt, những người lính làm nhiệm vụ bảo vệ đường luôn phải đối mặt với
những hiểm nguy khó lường trước:
Để có được con đường
Mở vào lúc chiến trường vơi tiếng súng
Anh xa lạ với cầu an, nghe ngóng
Đường với anh là cách hiểu kẻ thù
(Đường tới thành phố)
Chỉ cần tiếng bom đạn vừa chấm dứt là người lính lại làm nhiệm vụ. Họ lao ra
đường, nơi vừa bị bom đạn cày xới để san bằng mặt đường, kịp cho các chuyến xe lăn
bánh. Con đường giúp cho những người lính hiểu hơn về kẻ thù, chúng không từ thủ
đoạn nào để thực hiện âm mưu của mình.
Cuộc chiến tranh trở nên rõ nét hơn thông qua sự hiện diện của những con
đường mà người lính ra trận. Con đường ấy mang tâm hồn tươi trẻ của người lính,
với đầy âm thanh và màu sắc:
Tiếng hát nâng nhẹ bước chân ta
Qua mỗi cung đường chân trời lại mới
Tim ta đập ở bên kia trái núi
Chân bồn chồn bước lên sườn non
(Giấc ngủ trên đường ra trận)
Ở trường ca Đường tới thành phố còn xuất hiện con đường “30 tháng 4”:
“Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con đường” và con đường mang tên Bác - đường Hồ
Chí Minh. Đây là con đường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử, là mốc
chiến thắng vinh quang của dân tộc. Hình ảnh những con đường trong thơ Hữu Thỉnh
biểu tượng cho con đường đấu tranh của dân tộc để đi đến thắng lợi cuối cùng, thống
nhất đất nước. Trong bài thơ Ý nghĩ không vần, người lính đã nhắc đền con đường:
85
“Con đường chỉ một con đường thôi”. Có lẽ người lính muốn khẳng định sự lựa chọn
duy nhất của mình là đi theo con đường cách mạng, con đường đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc. Trong chương IV của trường ca Đường tới thành phố có đến hai lần
lặp lại điệp khúc “Ngữ tư, đường Tự do, rẽ trái”. Con đường “Tự do” là biểu tượng
cho đích chiến thắng của cả dân tộc.
Dùng biểu tượng con đường làm phương thức tổ chức, kết cấu là một hiện
tượng phổ biến trong các trường ca. Trong trường ca Những người đi tới biển của
Thanh Thảo, ta thấy rõ nét “con đường” trưởng thành của một người lính từ hồn
nhiên tươi trẻ tới chín chắn từng trải trong chiến tranh. Ở trường ca Mặt đường khát
vọng của Nguyễn Khoa Điềm lại là con đường từ nhận mặt kẻ thù tới đối mặt với kẻ
thù. Biểu tượng con đường đã trở thành phương thức tổ chức kết cấu các trường ca
chiến trận. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sự kiện được mô tả trong tác phẩm, là định
hướng triển khai ý đồ sáng tác của các nhà thơ. Có thể nói hình tượng con đường đã
trở thành một nội dung phản ánh hiện thực. Nó là hình ảnh xuyên suốt các sự kiện
được miêu tả trong tác phẩm, là định hướng triển khai ý đồ sáng tạo của tác giả. Trên
con đường đó biết bao con người được xuất hiện cùng với bao cảnh ngộ, tâm tư, chịu
đựng khổ đau, khát vọng, niềm vui, hạnh phúc. Những con người ấy là người lính
thuộc nhiều thế hệ, từ vị chỉ huy cho đến người chiến sĩ, từ người cộng sản nằm vùng
đến người mẹ, người chị và nhân dân rộng lớn. Nhà thơ vừa là người tham dự, vừa là
người trực tiếp quan sát đã bộc lộ đầy đủ, trọn vẹn tâm tư, cảm xúc, nghĩ suy triết lý
của mình về cuộc sống.
Thời kì sau kháng chiến, thơ Hữu Thỉnh cũng xuất hiện hình ảnh con đường.
Con đường thời kì này không hàm nghĩa là con đường đấu tranh của dân tộc mà
mang nghĩa chỉ đường đời của con người. Con đường lầy lội mà nhân vật trữ tình
bước đi dưới mưa không nón trong bài thơ Mưa đá chính là con đường đời đầy gian
khổ của mỗi người: “Đường lầy lội tôi bước không tơi nón”. Sau chiến tranh, người
lính trở về với cuộc sống đời thường, phải đối mặt với những vấn đề của đời sống
hàng ngày đầy bon chen. Vì vậy, những day dứt, trăn trở của người lính sau chiến
tranh là vấn đề đạo đức suy thoái, những tính toán trong mối quan hệ giữa con người
với con người. Hữu Thỉnh đã dùng con đường gập gềnh, người đi lại đông đúc để
86
diễn tả nỗi bơ vơ, cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Bước vào thành phố, nhân
vật “tôi” cảm thấy bất ngờ, hụt hẫng trước sự thờ ơ của những người xung quanh:
Gập gềnh đường tôi đi
Không một ai ngó tới
Bỗng nhiên họ xúm lại
Gặp bùn tôi trượt chân
Không phải đỡ tôi lên
Họ xem cho đỡ tẻ
(Tôi bước vào thành phố)
Chắc chắn, nhân vật “tôi” cảm thấy đau đớn vô cùng không phải vì cú trượt
chân ngã mà vì sự dửng dưng vô cảm của những người xung quanh. Trên đường đời
đông đúc thế nhưng nhân vật trữ tình luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Hữu Thỉnh đã
thành công khi chọn biểu tượng con đường để thể hiện đường đời của mỗi người.
Quả thực, hành trình cuộc sống và hành trình thơ của Hữu Thỉnh là một cuộc
hành trình trên con đường lớn lao vô cùng, con đường tình yêu cuộc sống, nó lớn hơn
bản thân nhà thơ rất nhiều lần. Nó là đất nước, là sự tiến triển của tâm hồn dân tộc.
3.3.2. Biểu tượng ngọn lửa
Ngọn lửa trở thành biểu tượng quen thuộc trong thơ ca. Trong thơ Nguyễn
Quang Thiều, ngọn lửa luôn xuất hiện sóng đôi cùng với bóng tối để biểu hiện cho sự
sống, cho khát vọng. Thơ của Thanh Thảo ngọn lửa cũng xuất hiện với tần số khá
nhiều, nó vừa là biểu tượng cho ý chí, sức mạnh của nhân dân đồng thời vừa là biểu
tượng cho tình yêu đôi lứa. Hình ảnh ngọn lửa trong thơ Hữu Thỉnh cũng được nâng
lên thành biểu tượng. Nó mang ý nghĩ tượng trưng cho lí tưởng cách mạng, cho niềm
tin vào tương lai, lòng yêu nước của nhân dân trong thời kì kháng chiến gian khổ và
tình yêu đôi lứa.
Mở đầu trường ca Đường tới thành phố là chương một Ngọn lửa chiến trường
đã tạo dựng không gian, thời gian cho nhân vật người lính xuất hiện. Trong 21 trang
thơ của chương này có đến 15 câu thơ chứa từ “lửa”,” ngọn lửa” và 24 lần xuất hiện
từ, cụm từ liên quan đến lửa “nhóm lên”, “cháy”, “đốm tàn hoa cải”, “bay lên”,
“vun cao ấm”, “lại hơ”, “sưởi”, “ném tàn”,… Ngọn lửa có ý nghĩa tượng trưng cho
87
lí tưởng cách mạng, cho tình yêu Tổ quốc, cho niềm tin bất diệt về tương lai hòa bình,
hạnh phúc của dân tộc. Ngọn lửa được diễn tả chính là ngọn lửa của lòng yêu nước
của ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù. Không ai biết ngọn lửa được nhóm lên từ
khi nào. Chỉ biết khi đất nước có giặc ngoại xâm, ngọn lửa yêu nước đồng loạt được
thắp lên trong lòng mỗi con người, ngay từ chính làng quê:
Không biết bằng cách nào lửa đã nhóm lên
…Trước mặt là bao nhiêu miền quê
Sau lưng là bao nhiêu miền quê
Ngọn lửa ta đốt lên ở giữa
Đây là ngọn lửa trong căn hầm giấu quân giữa rừng Trường Sơn những đêm
chuẩn bị chiến dịch mùa xuân 1975. Ngọn lửa có dáng hình cụ thể "đốm tàn hoa cải,
vun cao vách đất bóng người, ném tàn xua muỗi, bập bùng".
Ngọn lửa của tình yêu nước được thắp lên giúp cho những người có cùng một
chí hướng, lí tưởng sống tìm đến với nhau để thực hiện mục đích cao cả là giành lấy
tự do cho đất nước:
Chúng tôi người chủ những căn hầm
Đốt ngọn lửa để tìm vào tri kỷ
Ngọn lửa ấy luôn được thắp sáng, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Những người lính đã cảm nhận được hơi ấm của những người đi trước: “Chúng
tôi sưởi bằng ngọn lửa của mình, lại thấy ấm từ các anh đi trước”. Trong cuộc chiến
tranh đầy ác liệt, ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc,
người lính vẫn vững vàng chiến đấu bởi trong tâm hồn họ luôn rực sáng ngọn lửa của
niềm tin, hi vọng:
Ngọn lửa này
Và hi vọng của anh
Của chúng tôi những người mới đến
(Đường tới thành phố)
Ngọn lửa còn liên kết những người lính với quê hương, với người thân. Nó
biểu tượng cho tình yêu đôi lứa: “Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa/ Lửa đang soi
mặt đất mấy tầng đêm”. Tình yêu đôi lứa đã gắn bó với tình yêu đất nước và khát
88
vọng giải phóng dân tộc. Ngọn lửa của tình yêu chỉ tỏa sáng khi anh và em cùng
chung một hướng và hòa chung với mọi người, chung tay giải phóng quê hương đất
nước, và khi đó tình yêu cá nhân đã hòa vào cùng nhịp chung của tình yêu lớn , tình
yêu Tổ quốc.
Như vậy, ngọn lửa đã trở thành một biểu tượng đẹp, giàu lí tưởng trong thơ
Hữu Thỉnh. Ngọn lửa biểu tượng cho ý chí dân tộc, cho niềm tin mãnh liệt vào chiến
thắng, cho tình yêu bất diệt của con người. Nó giúp nhà thơ nói lên lòng yêu nước
không chỉ riêng mình mà của cả thế hệ trẻ trong thời kì chống Mỹ cứu nước.
3.3.3. Biểu tượng biển
Biển cũng là một hình ảnh biểu tượng tiêu biểu trong thơ Hữu Thỉnh. Dù là khi
còn chiến tranh hay khi hoà bình, biển cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Trong
sáng tác của Hữu Thỉnh, sự xuất hiện của biển đảo thường gắn liền với người lính. Ở
chương V của trường ca Đường tới thành phố và toàn bộ Trường ca biển biển đảo là
hình tượng bao trùm, trong đó biển được nhắc tới 43 lần. Ngoài ra còn nhiều lần nhắc
đến “cát”, “sóng”, “gió”, “nước”,… Biển đảo cũng là một bộ phận quan trọng của
đất nước. Đất nước chưa thể được độc lập hoàn toàn nếu như vùng biển đảo chưa trọn
vẹn thuộc về chúng ta:
Giữ cho được nước mình
Từ vồng khoai, ngọn mướp
Cả những gì chưa biết dưới lòng sông của đất
Chưa đo xong ngoài biển
Cũng rạch ròi trong vạch vẽ ông cha
(Đường tới thành phố)
Việt Nam là một trong những nước tự hào có bờ biển dài và cả những hòn đảo đã
đi vào lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa...Biển đảo với đất liền tuy xa mà gần bởi đó là một
phần lãnh thổ của Tổ quốc. Theo quan niệm của nhà thơ, biển đảo là một bộ phận của đất
nước và người lính rất tự hào khi được làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc:
Những đảo xa
Những quả trứng dập dờn giữa sóng
Những nhớ thương không ở ngoài tầm
Đất nước
(Trường ca biển)
89
Mặt khác, biển cũng như một người bạn, trò chuyện với lính đảo xa. Trong
cuộc trò chuyện ấy, biển hiện lên như một bậc hiền triết, biết hết mọi điều trên thế
gian; có lúc biển lại như một Thổ công chỉ dẫn cho người lính nhiều điều:
Biển nói:
- Kẻ thù nói ngoài khơi có vàng và tìm cách cướp vàng
Bạn bè nói ngoài khơi có sóng dữ và chia sóng cùng anh
Hãy gọi ai không biến sóng dữ của kẻ khác thành quà tặng cho mình
(Trường ca biển)
Khi sạch bóng quân thù, cả nước chuyển mình sang một thời kỳ mới, trách
nhiệm mới. Cuộc“Đối thoại biển” chính là cuộc đối thoại giữa lịch sử với dân tộc,
con người về con đường đi lên của dân tộc trong hiện tại và tương lai. Con người ta
không thể sống mãi với kinh nghiệm cũ, với hào quang quá khứ và với một dân tộc
cũng vậy:
Người lính nói:
- Bao vốn liếng cả đời góp nhặt
Bước xuống tàu bỗng thành kẻ tay không
Biển nói:
- Những chiếc huân chương còn soi sáng trên bờ
Sống với nước hãy bắt đầu từ nước
…- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
(Trường ca biển)
Thông qua cuộc đối thoại giữa người lính và biển, tác giả muốn gửi đến một
triết lí sâu sắc về cuộc sống: Đất nước muốn phát triển không thể chỉ dựa vào kinh
nghiệm cũ, không chỉ sống mãi với ánh hào quang chiến thắng mà còn phải dựa vào
bản thân và thực tiễn cuộc sống mà vươn lên. Hình tượng biển đảo không chỉ là bối
cảnh nơi người lính đang sống, chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước mà đó còn là
những đòi hỏi của lịch sử dân tộc vẻ vang trước đây với nhiệm vụ của đất nước trong
thời đại mới. Bài học lịch sử đúng đắn nhất đã được biển rút ra:
Sống với nước hãy bắt đầu từ nước
Đó là nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng
(Trường ca biển)
90
Với người lính, biển mãi là đất mẹ bao bọc các anh trong giờ phút khó khăn và
cả khi đã hy sinh:
Anh không ngủ người đi câu không ngủ
Biển đêm đêm trò chuyện với hai người
(Phan Thiết có anh tôi)
Ở hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian hình tượng biển có
sự thay đổi ý nghĩa so với các trường ca trước đó. Biển lúc này gắn với cuộc sống đời
thường, với những tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình. Tuy không xuất hiện nhiều như
hình tượng con đường nhưng hình tượng biển thể hiện được những vận động, biến đổi
trong quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Hình tượng biển với cuộc sống chiến đấu của
người lính được coi là sự tiếp mạch một phần cảm hứng ở Trường ca Biển:
Biển luôn ở cạnh mình
Bao điều còn cửa khép
(Tiếng gà trên đảo)
Đối với Hữu Thỉnh, biển còn là nơi gắn bó với không gian đời tư. Đứng trước
biển, đôi lúc tác giả đã suy tư, trăn trở về lẽ sống tình đời, lấy biển để biểu tượng cho
lẽ sống cuộc đời. Việc lấy sự mênh mông của biển cả để làm tiền đề suy tư và khát
vọng tình yêu không còn xa lạ trong thơ. Ta đã từng bắt gặp trong thơ Xuân Diệu có
biển mang tình yêu mạnh mẽ, mãnh liệt. Xuân Quỳnh mượn sóng, mượn thuyền và
biển để nói hộ những khao khát tình yêu vĩnh cửu của lòng mình,…Nhưng đọc thơ
Hữu Thỉnh, ta vẫn thấy được nét mới mẻ, bất ngờ. Cũng có khi đứng trước biển mênh
mông, nhà thơ nhận ra sự chông chênh, trống vắng của con người và đưa ra cách triết
lí về tình yêu của riêng mình:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.
(Thơ viết ở biển)
Cũng có khi biển nhuốm đầy tâm trạng bởi nó chứa biết bao kỷ niệm buồn vui,
lưu luyến.“Tạm biệt nhé thôi đành tạm biệt/ Tán bàng ven biển đôi mắt nước
mưa”(Tạm biệt Sầm Sơn). Đặc biệt khi nhớ nhung, biển là không gian giúp con người
dễ chia sẻ lòng mình nhất:
91
Không giữ nổi một mình
Nhớ em, chia cho sóng
Nhấp phải chút tương tư
Thế là chiều biển động.
(Tám câu)
Có thể nói, các hình tượng con đường, ngọn lửa và biển là những hình tượng
thơ khá nổi bật trong sáng tác của Hữu Thỉnh. Qua những hình tượng này, ta thấy
được hiện thực và con người trong thơ Hữu Thỉnh. Đây chính là cách sáng tạo nhà
thơ thể hiện triết lí sâu sắc về dân tộc, đất nước, những chiêm nghiệm về cuộc sống
của con người, lẽ đời.
92
KẾT LUẬN
1. Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mặc dù xuất hiện có muộn hơn so
với một số tác giả đồng lứa, nhưng Hữu Thỉnh đã có đóng góp rất đáng quý cho thơ ca
Việt Nam hiện đại. Thơ ông luôn phản ánh hiện thực cuộc sống và con người Việt
Nam. Là một người lính được tôi luyện trong cuộc kháng chiến, Hữu Thỉnh đã góp
tiếng nói quan trong trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước. Sau chiến tranh đến
nay, thơ Hữu Thỉnh vận động theo chiều hướng đổi mới văn học. Nhà thơ từng bước
thay đổi theo hướng tập trung phản ánh hiện thực đời thường đến việc chú ý vào những
trải nghiệm của cá nhân trước cuộc đời. Dù viết về chiến tranh hay cuộc sống thời bình,
thơ Hữu Thỉnh vẫn là tiếng lòng tha thiết với đời của người nghệ sĩ đầy ý thức nghề
nghiệp và trách nhiệm xã hội. Vì vậy, tuy thơ là tiếng nói trữ tình cá nhân nhưng nó lại
có sức khái quát sâu rộng, gây nên sự đồng cảm rộng rãi của nhiều thế hệ độc giả.
Nghiên cứu “Hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh” giúp ta
có được cái nhìn khái quát về những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của
Hữu Thỉnh, đồng thời hình dung được tính độc đáo về cách nhìn hiện thực cuộc sống
và con người Việt Nam của nhà thơ. Thông qua những thay đổi vận động của thơ
Hữu Thỉnh giữa hai thời kỳ thơ chống Mỹ và thơ sau kháng chiến đến nay, người đọc
có thể hình dung những biến chuyển chung trong tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca
Việt Nam trong những thập niên gần đây.
2. Trong quá trình sáng tác, Hữu Thỉnh luôn dồn hết tâm trí và tài năng cho
nghệ thuật để có những tìm tòi, trải nghiệm, đổi mới cho thơ. Với Hữu Thỉnh, tiếp nối
mạch truyền thống, phản ánh tinh thần chung của thời đại, là nguồn sống tạo nên bản
sắc thơ. Thơ ông luôn tìm thấy cái lớn lao trong cái bình thường nhỏ bé, cái kì diệu
trong cái mộc mạc, đơn sơ. Cùng với hành trình sáng tạo của các nhà thơ kháng chiến
chống Mỹ, Hữu Thỉnh đã mang đến cho thơ ca một cái nhìn mới mẻ, riêng biệt và
khá độc đáo khi viết về cuộc chiến cũng như về con người trong cái nhìn toàn diện và
theo nhiều chiều hướng. Nhà thơ từ việc hướng vào hiện thực cuộc kháng chiến để
nói về thế hệ mình, nói về cái tôi người chiến sĩ giàu lý tưởng, luôn khát khao được
cống hiến, không quản ngại hi sinh bản thân mình vì Tổ quốc. Nhà thơ ngợi ca những
vẻ đẹp bình dị dân dã, gắn với cội nguồn về quê hương đất nước, ca ngợi con người
Việt Nam trong kháng chiến. Những sáng tác sau chiến tranh và thời kì đổi mới đất
93
nước lại thích hợp cho việc diễn tả tâm trạng cá nhân nhiều ẩn ức, mang tính triết lý
cao, thuyết phục người đọc ở tầm sâu trí tuệ. Thơ Hữu Thỉnh luôn bám sát nguồn
mạch cuộc sống, luôn phản ánh hiện thực và con người Việt Nam qua các thời kì
khác nhau. Nhà thơ đề cập đến nhiều vấn đề của hiện thực cuộc sống và con người
nhưng đều là những đúc rút có ý nghĩa tư tưởng cao, đem đến giá trị nhân văn sâu
sắc, khẳng định cái đẹp nằm ngay ở cuộc sống.
3. Để phán ánh hiện thực và con người trong sáng tác của mình, Hữu Thỉnh đã
rất thành công trong cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu và hệ thống biểu tượng.
Ngôn từ trong thơ Hữu Thỉnh phong phúc, đa dạng vừa mang những nét đời thường,
vừa thấm đẫm màu sắc dân tộc lại vừa mang những nét mới mẻ của thơ ca hiện đại.
Giọng điệu trong sáng tác của Hữu Thỉnh thì đa thanh mang chiều sâu tư duy triết
luận. Viết về đề tài chiến tranh với quan điểm “Nhìn thẳng, nói thật” nên bên cạnh
giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi. Khi viết về thời kì hòa bình lập lại, thơ
Hữu Thỉnh thể hiện rõ giọng điệu suy tư, triết lí. Bên cạnh đó thơ ông còn có giọng
điệu tâm tình, thiết tha. Biểu tượng trong thơ Hữu Thỉnh là những sự vật bình thường,
gần gũi trong thế giới tự nhiên bao quanh con người như: con đường, ngọn lửa,
biển,... Sự xuất hiện của những biểu tượng đó đã mang đến cho thơ Hữu Thỉnh một
chiều sâu tâm tư, tư tưởng triết lý, cái nhìn sâu sắc về những vấn đề con người và
cuộc sống mà nhà thơ thường trăn trở, trải nghiệm. Qua đó người đọc thấy được khả
năng liên tưởng, tưởng tượng khá độc đáo của nhà thơ.
Qua việc tìm hiểu về hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh, ta
thấy Hữu Thỉnh một gương mặt thơ tiêu biểu, một cá tính thơ độc đáo của nền thơ ca
hiện đại Việt Nam. Vị trí ấy là kết quả của một quá trình lắng nghe và “sống đầy”
cùng những vang động, biến chuyển của đời sống và không ngừng học hỏi, sáng tạo
của tác giả. Ghi lại những tình cảm máu thịt về quê hương, đất nước, về những con
người đang sống quanh mình, thơ Hữu Thỉnh đã đến được với trái tim người đọc,
thấm sâu vào đời sống xã hội, Với Hữu Thỉnh, làm thơ không chỉ để “ghi lại cuộc đời
mình” mà đó còn là quá trình không ngừng sáng tạo, không ngừng đổi mới vì sự phát
triển của thơ nói riêng và của nền văn học dân tộc nói chung. Sức bền của thơ ông
không chỉ được khẳng định ở việc tạo ra chỗ đứng trong lòng người đọc mà còn thể
hiện ở việc Hữu Thỉnh đã tìm cho mình một phong cách thật riêng thâm trầm, sâu
lắng, đậm chất dân tộc nhưng cũng rất hiện đại.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1999), “Hữu Thỉnh - nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời”, Tạp chí Văn
hóa - Văn nghệ Công an (4).
2. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945
đến nay, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Viện văn học.
3. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Khoa học xã hội.
4. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám, một nền
sử thi hiện đại”, Tạp chí Văn học số 5.
5. Lại Nguyên Ân (1998), Văn học và phê binh, Nhà xuất bản TP mới, Hội Văn học.
6. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ Văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Mai Bá Ân (1997), Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại, Tuyển
tập Trường ca, Nxb Quân đội, Hà Nội.
8. Xuân Diệu (1981), “Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố”, Báo Văn
nghệ (19).
9. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.
10. Trần Đăng (2006), “Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ”, Báo Bình Định.
11. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học (3).
12. Hoàng Điệp (2010), “Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam (1).
13. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.
14. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Tạp chí
Văn học (9).
15. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, Nxb Văn học.
16. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
18. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
95
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Minh Hạnh (1985), “Chất dân gian- điểm sáng trong thơ Hữu Thỉnh”, Báo Quân
đội nhân dân.
21. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - vấn đề và suy
nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục.
22. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội (4).
23. Mai Hương (2000), “Hữu Thỉnh với trường ca Đường tới thành phố”, Tạp chí
Nhà văn - Hội nhà văn số 2.
24. Mai Hương (2000), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”, Tạp chí
Văn học số 06.
25. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6).
26. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục Hà Nội.
27. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
28. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Lao động, Hà Nội.
29. Nguyễn Ngọc Linh (2011), Tư duy thơ Hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ ĐHSP
Thái Nguyên.
30. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội
32. Trường Lưu (2001), “Mấy ghi nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh”, Báo Diễn
đàn Văn nghệ, (6)
33. Thiếu Mai (1980), “Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (3)
34. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nhà xuất bản Giáo dục.
35. Vũ Nho (2000), “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, Tạp chí Nhà văn-
Hội nhà văn (3).
36. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
96
37. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội.
38. Nhiều tác giả (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
39. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
40. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975- 1990. Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
41. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu. Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hội
Văn học.
42. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, BGD-ĐT, Vụ giáo
viên, Hà Nội.
43. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Giáo dục.
44. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
45. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
46. Trần Đình Sử (2005), (Giáo trình) Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục.
47. Trần Đỉnh Sử (2007), Thi pháp truyện Kiều , Tái bản lần thứ hai, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
48. Nguyễn Nguyên Tản (2005), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
49. Nguyễn Bá Thành (1990), Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách mạng
Việt Nam 1945- 1975, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn trường Đại học tổng hợp
Hà Nội.
50. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội.
51. Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam 1965 - 1975, Nhà
xuất bản ĐH&THCN, Hà Nội.
52. Hữu Thỉnh, Lâm Huy Nhuận (1975), Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội Nhân dân.
53. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn nghệ.
54. Hữu Thỉnh (1985), “Thêm những đóng góp mới vào thơ bộ đội”, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, 1.
55. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, Nxb Văn học.
56. Hữu Thỉnh (1998), Thơ Hữu Thỉnh, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội.
57. Hữu Thỉnh (1998), Trường ca Sức bền của đất, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
97
58. Hữu Thỉnh (2000), “Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến”,
Tạp chí Văn học số 2.
59. Hữu Thỉnh (2000), “Yên lặng trong tâm hồn người lính”, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 8.
60. Hữu Thỉnh (2005), Thương lượng với thời gian, Nxb Hội nhà văn.
61. Lưu Khánh Thơ (1999), “Diện mạo thơ 1998”, Tạp chí Văn học số 1.
62. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in trong cuốn
Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Lý Hoài Thu (1997), Đồng cảm và sáng tạo. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
64. Lý Hoài Thu (2001), “Thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn hoá - Văn
nghệ Công an số 2.
65. Lý Hoài Thu (2010), “Thơ Hữu Thỉnh - một hướng tìm tòi từ sáng tạo dân tộc đến
hiện đại”, Tạp chí Sông Hương, số 142.
66. Đỗ Lai Thuý (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Thương (2010), Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, Luận văn Đại
học sư phạm TPHCM.
68. Đào Thái Tôn (1986), “Nhân đọc Từ chiến hào tới thành phố”, Tạp chí Văn học
số 6.
69. Phạm Quang Trung (2003), “Quan niệm thơ của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội số 587.
70. Nguyễn Thị Tuyền (2014), Trường ca Hữu Thỉnh nhìn từ góc độ thể loại, Luận
văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
71. Đỗ Quang Vinh (2007), “Đọc tập thơ “Thương lượng với thời gian” của nhà thơ
Hữu Thỉnh”, Báo Bình Thuận.
98