ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

BÙI THỊ KIỀU

HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG

SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

BÙI THỊ KIỀU

HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG

SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ĐIỆP

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi trong

quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên cứu. Tôi xin

chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Kiều

Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của người hướng dẫn

TS. Hoàng Điệp

i

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình truyền

đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: TS. Hoàng Điệp đã giúp

đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã hướng dẫn, đóng góp những ý

kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học sư phạm

Thái Nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã động viên, giúp đỡ

tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Thái Nguyên, ngày 23 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Bùi Thị Kiều

ii

MỤC LỤC

Trang Lời cam đoan ................................................................................................................. i

Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 6

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................. 7

4.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 7

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 8

7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................. 8

NỘI DUNG ................................................................................................................... 9

Chương 1: SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH TRONG HÀNH TRÌNH THƠ

VIỆT NAM TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ĐẾN NAY ................................... 9

1.1. Diện mạo thơ Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ đến nay .................................. 9

1.1.1. Sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ

đến nay ........................................................................................................................... 9

1.1.2. Những thay đổi trong cảm hứng sáng tác và hình thức biểu hiện ..................... 12

1.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh thời kì kháng chiến chống Mỹ đến nay ......................... 21

1.2.1. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm chống Mỹ ................................................ 21

1.2.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm sau kháng chiến chống Mỹ đến nay ........ 24

Chương 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI

TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH ............................................................... 28

2.1. Bức tranh hiện thực đời sống trong sáng tác của Hữu Thỉnh ............................... 28

2.1.1. Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mỹ ........................................... 29

2.1.2. Hiện thực cuộc sống sau kháng chiến đến nay .................................................. 35

2.2. Hình tượng con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh .......................................... 41

iii

2.2.1. Hình tượng con người trong kháng chiến chống Mỹ ........................................ 42

2.2.2. Hình tượng con người những năm sau kháng chiến đến nay ............................ 53

Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA

HỮU THỈNH ................................................................................................. 66

3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................................. 66

3.1.1. Vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ dân gian .......................... 66

3.1.2. Lạ hóa ngôn ngữ thơ .......................................................................................... 70

3.2. Giọng điệu ............................................................................................................. 73

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi ....................................................... 73

3.2.2. Giọng điệu tâm tình ........................................................................................... 76

3.2.3. Giọng điệu suy tư, triết lí ................................................................................... 80

3.3. Hệ thống biểu tượng ............................................................................................. 84

3.3.1. Biểu tượng con đường ....................................................................................... 84

3.3.2. Biểu tượng ngọn lửa .......................................................................................... 87

3.3.3. Biểu tượng biển .................................................................................................. 89

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 95

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong thời kì chống Mỹ có nhiều nhà thơ đã khẳng định được tên tuổi của

mình góp phần làm cho thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước trở thành điểm sáng

của văn học nghệ thuật Việt Nam. Những tên tuổi như: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến

Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo,

Hữu Thỉnh, Bằng Việt,… đã ghi dấu ấn riêng của thế hệ mình trong dàn đồng ca thời

chống Mỹ. Trong số nhà các nhà thơ đó, dẫu không phải là người xuất hiện và gây ấn

tượng sớm nhưng bằng tài năng thực sự của mình Hữu Thỉnh đã khẳng định được vị

trí riêng trên thi đàn với một giọng thơ mới mẻ và có cảm xúc mãnh liệt. Đến nay,

Hữu Thỉnh vẫn hiện diện là nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ mình, một thế hệ nhà thơ

bước ra từ chiến tranh đã từng ghi lấy cuộc đời mình, ghi lấy cả một thời đại vẻ vang

của đất nước. Sáng tác của Hữu Thỉnh có vị trí riêng trong lòng người đọc bởi sự

chân tình, giản dị của một con người hết lòng suy tư về cuộc sống.

1.2. Thơ Hữu Thỉnh được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Nhiều tác

phẩm của ông đã được phổ nhạc làm say đắm lòng người như: Thơ viết ở biển, Trên

một chiếc xe tăng, Chiều sông Thương. Hữu Thỉnh đã nhận được nhiều giải thưởng

văn học có giá trị: giải ba cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1973, giải A cuộc thi

thơ trên báo Văn nghệ năm 1975 - 1976, giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm

1980, giải thưởng xuất sắc của Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca biển, giải A

của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và giải thơ ASEAN năm 1999 với tập thơ Thư

mùa đông,...

Trong suốt những năm tháng sáng tác văn chương, Hữu Thỉnh luôn quan tâm

đến hiện thực đời sống và con người. Nhiều tác phẩm của nhà thơ phản ánh hiện thực

của đất nước và con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ và sau kháng

chiến. Giai đoạn sáng tác trước năm 1975, thơ ca của Hữu Thỉnh khám phá hiện thực

cuộc chiến tranh với nỗi đau thương, bất hạnh, những thiệt thòi hi sinh và niềm tin

vào kháng chiến. Ở giai đoạn sáng tác sau, trong bối cảnh mới của xã hội và trên tinh

thần dân chủ, quan niệm về hiện thực và con người của ông đã có những chuyển biến

sâu sắc: thay vì quan niệm văn chương là một hoạt động tuyên truyền cách mạng, giờ

đây văn chương có thể bàn về nhiều vấn đề đa dạng của hiện thực hướng tới đời

thường, với số phận cá nhân. Đây là những đổi mới trong quan niệm về hiện thực và

1

cách nhìn nhận về con người trong cuộc sống của nhà thơ. Chính sự chuyển biến sâu

sắc như vậy đã giúp Hữu Thỉnh có được sức sáng tác lâu bền và có nhiều đóng góp

cho nền văn học dân tộc.

1.3. Nhận thấy được những chuyển biến trong sáng tác của Hữu Thỉnh khi

phản ánh về hiện thực đời sống và con người, chúng tôi chọn “Hiện thực và con

người trong sáng tác của Hữu Thỉnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

Nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi mong muốn được trau dồi thêm kiến thức về sự

nghiệp văn học của Hữu Thỉnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại và hi vọng sẽ

đóng góp một phần khám phá của mình để bạn đọc có thể hiểu sâu hơn về việc phản

ánh hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.

2. Lịch sử vấn đề

Trong sự nghiệp sáng tác, Hữu Thỉnh đã gặt hái được nhiều thành công và

nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình. Số lượng

các bài báo, công trình nghiên cứu về thơ của Hữu Thỉnh khá phong phú, có nhiều bài

viết đã đánh giá sâu sắc về sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của

nhà thơ.

Thiếu Mai có lẽ là một trong những người đầu tiên tiếp xúc và khám phá thơ

Hữu Thỉnh đã có nhận xét về sự thành công của nhà thơ khá sâu sắc: “Thành công

chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu, vừa tinh, vừa khái quát,

vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm, những suy ngẫm của người chiến sĩ trong cuộc chiến

đấu chống Mỹ…” [33]. Người viết thấy được điểm đặc sắc của Hữu Thỉnh ở chỗ cho

dù miêu tả cụ thể những mất mát của cuộc kháng chiến nhưng vẫn không hề gợi

lên không khí bi thương mà trái lại vẫn thể hiện được ý chí quyết tâm trong cuộc

kháng chiến.

Trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2003, tác giả Nguyễn Đăng Điệp có

bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ. Tác giả đã thấy được những thay đổi

cơ bản về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh những năm chiến tranh và sau chiến tranh: “Cái

chất ru vỗ, ngọt ngào mang tính sử thi trong “Đường tới thành phố” và giai đoạn

trước đó đã nhường chỗ cho giọng ưu tư, chua chát đau đời” [14]. Sự chuyển biến

này có thể nhìn nhận qua phương diện tư duy và cấu trúc hình tượng cái tôi trữ tình.

Về phương diện tư duy, nhà phê bình khẳng định: “Nếu trước đây, điều quan tâm lớn

nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ nói chung là lời tâm niệm “Chúng tôi làm

thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng sau, cái nhìn của nhà thơ mang tính hướng

2

nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những lo âu khắc khoải, những bể dâu cuộc

đời được nói đến một cách riết róng qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn

của chúng tôi mà là cái nhìn của chính tôi” [14]. Còn về sự thay đổi trong cấu trúc

của hình tượng cái tôi trữ tình, người viết chỉ rõ: “Đó là cái tôi đa diện mà mặt trội

của nó là những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện quầng sáng sử thi

mà là hiện lên trong chính cuộc sống thô ráp thường ngày” [14]. Nguyễn Đăng Điệp

tiếp tục nhận xét về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh: “Thơ Hữu Thỉnh không nghiêng về

gam giọng sôi nổi, hào hùng mà nghiêng về trầm lắng” [14]. Cái trầm lắng đó người

ta bắt gặp ở những cảm xúc xót xa, đau đớn luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ.

Tác giả nhấn mạnh: “…chiều sâu và nét riêng trong cái nhìn nghệ thuật của Hữu

Thỉnh chính là những suy tư không ngừng về nhân thế bằng giọng trầm lắng” [14].

Trong bài viết Hữu Thỉnh- một phong cách thơ sáng tạo, Lưu Khánh Thơ cũng

đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá về sự tìm tòi sáng tạo và những ảnh hưởng của chất

liệu văn học dân gian ở thơ Hữu Thỉnh. Sự vận dụng những yếu tố dân gian đó đã làm

nên nét đặc sắc trong thơ Hữu Thỉnh và làm cho thơ ông mang tính truyền thống dân

tộc. Đồng thời, sự vận dụng các yếu tố dân gian đó cũng mang đến cho nhà thơ tính

sáng tạo cao, nhà phê bình còn nhấn mạnh: “Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc

nhưng không những chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở cách tư duy,

cách liên tưởng độc đáo, ở âm hưởng xa xôi khó nhận biết. Phải chăng sự ảnh hưởng

đó là nguyên nhân khiến cho Hữu Thỉnh có được những câu thơ đa nghĩa, có tính

hàm ẩn cao, mới lạ trong diễn đạt, bất ngờ trong cảm xúc …” [62, tr.410]. Người

viết đã chỉ ra được điểm mạnh của nhà thơ là ở sự quan sát tinh tế và sự sâu sắc trong

cảm xúc. Cuối cùng, tác giả rút ra kết luận khá xác đáng về phong cách thơ Hữu

Thỉnh: “dù viết ở nhiều thể loại khác nhau nhưng phẩm chất thơ Hữu Thỉnh là đằm

thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát. Cái trầm lắng yêu thương lẫn át cái ồn ào

sôi sục. Với thơ anh, người đọc cảm nhận ít khi qua khâu suy xét, nghĩ ngợi, có thể

hiểu ngay và rung động với tâm tình của tác giả” [62, tr.421].

Có thể kể đến công trình nghiên cứu Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn

Nguyên Tản. Người viết đã tìm thấy ở thơ Hữu Thỉnh có ba kiểu loại con người: con

người đồng cảm, con người tình nghĩa và con người cô đơn.

Ở con người đồng cảm, Nguyễn Nguyên Tản thấy được chiều sâu đồng cảm được

thống nhất trong tác phẩm trữ tình trên cơ sở gắn bó giữa nhân tố tự sự và nhân tố

nhập vai: “nhà thơ tìm thấy sự đồng cảm của mọi người với những tâm tình của anh

3

và thế hệ. Nhà thơ không ngần ngại bộc lộ thân phận và những nỗi niềm của thế hệ

mình, thế hệ nhà thơ tự ý thức…” [48, tr.20]. Đồng thời, tác giả nêu ra nét đặc sắc

nhất trong cách thể hiện của Hữu Thỉnh là những cảm xúc hình thành của chiều sâu

tư tưởng, tình cảm: “Nhà thơ đồng cảm da diết đến cháy lòng với con người ở mọi

chiều cảm xúc, nỗi niềm hạnh phúc và đau khổ, nhẫn nại hi sinh mà chan chứa hi

vọng, nhưng chủ yếu là sự đồng cảm với nỗi đau thương, bất hạnh, thiệt thòi, hi

sinh…” [48, tr.34].

Con người tình nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang tấm lòng yêu quê

hương, đất nước, sống có nghĩa có tình. Có thể nói mọi hình ảnh của quê hương, đất

nước từ con suối, bờ tre, cánh rừng đến ngôi nhà, ngọn lửa rộng lớn hơn là bầu trời,

biển cả… đều trở thành đối tượng để nhà thơ thể hiện tiếng nói tri ân.

Nguyễn Nguyên Tản cho rằng con người cô đơn xuất hiện nhiều trong thơ

Hữu Thỉnh và chỉ ra những biểu hiện cụ thể: “Con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh

xuất hiện trên cái nền chung ấy, nhưng cô đơn cũng cô đơn hơn, thất vọng cũng thất

vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn…” [48, tr.53]. Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân

khách quan và chủ quan của sự hình thành con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh.

Người viết đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan do nhà thơ là người luôn có

những khát vọng được đồng cảm đến da diết, cháy bỏng. Có lẽ sự cô đơn đó đã tạo

nên tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh.

Trong bài viết Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ, Trần Đăng có những

đánh giá về tập thơ Thương lượng với thời gian. Tác giả cho rằng dòng chảy xuyên

suốt tập thơ là “sự tiếc nuối thời gian đã mất, hay đúng hơn là sự tự ý thức về cái hữu

hạn của chính mình”. Đến với tập thơ này, chúng ta sẽ thấy được những trăn trở,

chiêm nghiệm, khổ tâm của Hữu Thỉnh. Đây không phải là quãng thời gian sau chiến

tranh “con người vừa thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của đạn bom chết chóc nên ùa vỡ

mừng vui, sống tử tế với nhau hơn, nhân hậu với nhau hơn, mà là quãng thời gian

của mấy mươi năm vật lộn với gian khó, trong đó có biết bao sự "phản thùng, thớ lợ",

biết bao cặn lắng của những oan khuất…” [10] nên không ít khi nhà thơ cảm thấy

bức bối ngột ngạt. Từ đó, người viết nhấn mạnh về cách tư duy, giọng điệu thơ Hữu

Thỉnh: “Trong thế hệ thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh là nhà thơ tạo được một giọng riêng.

Cho đến tập thơ này, dù có riết róng hơn hay quặn thắt hơn, ông vẫn giữ được cái

giọng riêng ấy. Thơ ông được neo lại trong lòng người đọc nhiều chục năm qua là

nhờ ở cái cách tư duy không lẫn với ai này. Nói ra cái điều ai cũng nghĩ, ai cũng biết

4

nhưng không phải ai cũng viết thành thơ như Hữu Thỉnh được…” [10]. Từ đánh giá

này, ta thấy Hữu Thỉnh là một nhà thơ có phong cách độc đáo. Ông không chỉ thành

công trong giai đoạn thơ ca chống Mỹ mà còn có vị trí xứng đáng và góp phần đổi

mới nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Tiếp nối sự phát hiện tính truyền thống và hiện đại trong thơ Hữu Thỉnh, nhà

phê bình Lý Hoài Thu tìm thấy được phong vị dân gian trong thơ Hữu Thỉnh, nhìn

nhận thơ ông gần gũi với tiếng nói của dân tộc và mang tính sáng tạo: “…với sự nhạy

cảm của một ngòi bút có kinh nghiệm, Hữu Thỉnh vừa rất có ý thức trong việc đi sâu

khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, dân tộc, vừa biết dồn tâm lực, tài năng cho

việc tìm kiếm, sáng tạo cái mới” [65]. Dù viết về thiên nhiên, chiến tranh hay tình

yêu, thơ Hữu Thỉnh luôn bắt nguồn từ đời sống, song vẫn có những khám phá, rung

động mới mẻ để tạo nên tính truyền thống và hiện đại: “Thơ Hữu Thỉnh giàu sức

mạnh nội lực, gắn bó máu thịt với đời sống tâm linh và truyền thống thơ ca của dân

tộc Việt Nam. Đó là hành trang vô cùng quý giá cho mọi tìm kiếm theo hướng hiện

đại của thơ anh” [65].

Tác giả Hoàng Điệp với bài viết Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh đã

khẳng định: “Hữu Thỉnh đến với thơ cũng tự nhiên và giản dị như chính phong cách

sống của ông vậy. Thơ Hữu Thỉnh lôi cuốn, hấp dẫn người đọc bởi lối diễn đạt tự

nhiên không chút cầu kỳ khó hiểu nhưng qua đó toát lên sự cảm nhận tinh tế mà sâu

sắc” [12, tr.113]. Trong thơ Hữu Thỉnh, giữa cảm xúc và suy nghĩ luôn có sự gắn bó

hài hòa, sâu sắc, đặc biệt ngôn ngữ trong thơ ông giàu hình ảnh và giàu giá trị biểu

cảm. Người viết tiếp tục khẳng định: “Dưới góc độ ngôn ngữ, Hữu Thỉnh đã tạo cho

những sáng tác của mình cái hay, cái đẹp ở ngay trong đời sống thường nhật. Ông đã

góp cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại một tiếng thơ trữ tình đằm thắm, luôn hướng về

cội nguồn với những cảm xúc và ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, nhưng thấm đượm hồn

dân tộc” [12, tr.116]. Đặc biệt, trong bài viết Hữu Thỉnh với thể loại trường ca,

Hoàng Điệp đã đánh giá cao về những đóng góp của nhà thơ với thể loại trường ca:

“Hữu Thỉnh là một trong những người có đóng góp nhiều và chiếm vị trí quan trọng

đối với thể loại trường ca… Trường ca của ông không những nhiều về số lượng mà

còn đạt giá trị về chất lượng” [11, tr.65]. Người viết đã thấy được sự thành công của

nhà thơ trong việc khái quát tổng hợp về giai đoạn lịch sử, về nhiều mặt của đời sống

cũng như chiều sâu tâm lí con người. Hơn nữa, khi viết về Trường ca biển, tác giả

còn nhấn mạnh đến những suy nghĩ của nhà thơ về cuộc sống và tầm quan trọng của

5

thơ đối với con người: “…Hữu Thỉnh dồn sức thổi vào trong đó những tâm trạng,

những suy nghĩ, những dự cảm, những day dứt khôn nguôi của chính nhà thơ về cuộc

sống, về hạnh phúc, về thân phận con người… Vì vậy, với Hữu Thỉnh -“thơ là kinh

nghiệm sống”, thơ của ông không đơn thuần là một niềm yêu, mà thơ - đôi khi là thứ

“vũ khí” bênh vực con người” [11, tr.70]. Có thể thấy thơ Hữu Thỉnh rất giản dị và

chân thực gần gũi với tiếng nói của con người Việt Nam. Vì vậy, thơ ông luôn sống

trong lòng người đọc và đã nhận được những lời ngợi ca.

Như vậy, các tác giả trên đã đánh giá khái quát về những sự nghiệp thơ ca của

Hữu Thỉnh tập trung ở hai phương diện giá trị nội dung và nghệ thuật. Điều đó góp

phần khẳng định Hữu Thỉnh là một nhà thơ có sức sáng tạo lâu bền và có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua khảo sát, chúng tôi chưa thấy có bài viết,

công trình nghiên cứu nào đi sâu khám phá, tìm hiểu một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề hiện thực cuộc sống và con người trong các sáng tác của nhà thơ. Vì vậy,

chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hiện thực và con người trong sáng tác của

Hữu Thỉnh” để có cái nhìn bao quát về quá trình sáng tác văn chương của Hữu Thỉnh.

Trên cơ sở đó, người viết mong góp một phần tiếng nói của mình cùng với các bài

viết, các công trình nghiên cứu đã có để tiếp tục khẳng định đầy đủ, sâu sắc hơn về sự

nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Lựa chọn đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là: Hiện thực và

con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh ở giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và thời kì

sau kháng chiến đến nay. Trong đó, người viết tập trung khảo sát về bức tranh hiện

thực đời sống, con người trong thơ Hữu Thỉnh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là những sáng tác của Hữu Thỉnh đã

được xuất bản:

- Âm vang chiến hào (thơ, in chung) (1975) - Sức bền của đất (trường ca) (1977) - Đường tới thành phố (trường ca) (1980) - Từ chiến hào tới thành phố (1985)

- Thư mùa đông (1994)

- Trường ca biển (1994)

- Thương lượng với thời gian (2005)

6

Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát, nghiên cứu một số thơ và trường ca hiện đại

của các tác giả khác để có cái nhìn đối sánh.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn muốn hướng tới khám phá, nghiên cứu một cách hệ thống về hiện

thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật phản ánh hiện thực đời sống và con

người trong sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh.

- Nghiên cứu sáng tác của Hữu Thỉnh để chỉ ra những đóng góp tiêu biểu và

khẳng định vị trí của nhà văn trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

chính sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây được xác định là phương pháp chủ đạo

của đề tài. Trên cơ sở phân tích những tập thơ đã được chọn làm đối tượng nghiên cứu,

chúng tôi sẽ tổng hợp để chỉ ra những đặc điểm nổi bật về hiện thực và con người trong

sáng tác của Hữu Thỉnh.

- Phương pháp hệ thống: Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác

phẩm. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu hiện thực và con người trong

thơ Hữu Thỉnh đạt đến cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.

- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát -

thống kê những biểu tượng tiêu biểu trong một số tập thơ của Hữu Thỉnh để từ đó tìm

hiểu thấu đáo hơn về hiện thực và con người trong sáng tác của nhà thơ.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để tìm ra những nét chung mang tính thời

đại và những nét đặc sắc, riêng biệt, độc đáo cùng những biến đổi trong sáng tác của

Hữu Thỉnh. Chúng tôi vận dụng so sánh, đối chiếu giữa các tập thơ của Hữu Thỉnh

với nhau; so sánh, đối chiếu giữa thơ của Hữu Thỉnh với một số nhà thơ cùng thời.

- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học.

- Phương pháp nghiên cứu thi pháp văn chương: Để khảo sát những vấn đề có

tính quy luật nói chung của nghệ thuật thơ ca, những vấn đề mang tính quan niệm để

từ đây chỉ ra những đặc trưng tiêu biểu của thơ Hữu Thỉnh.

7

- Phương pháp lịch sử xã hội: Đặt đối tượng nghiên cứu trong tiến trình lịch sử

để xem xét quá trình sáng tác qua các thời kỳ khác nhau của Hữu Thỉnh, chỉ ra sự vận

động, chuyển đổi tư tưởng cũng như quan niệm và phương thức biểu hiện, từ đó tìm

hiểu những đóng góp riêng về phản ánh hiện thực và con người trong sáng tác của

Hữu Thỉnh đối với văn học dân tộc.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu những sáng tác của Hữu Thỉnh ở quan niệm

về hiện thực đời sống và con người. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định vị

trí và những đóng góp của Hữu Thỉnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận

văn này còn làm tài liệu tham khảo cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Hữu

Thỉnh và cho việc dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm ba chương:

Chương 1: Sáng tác của Hữu Thỉnh trong hành trình thơ Việt Nam từ kháng

chiến chỗng Mỹ đến nay.

Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và con người trong sáng tác của

Hữu Thỉnh

Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống và

con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh.

8

NỘI DUNG

Chương 1

SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH TRONG HÀNH TRÌNH THƠ

VIỆT NAM TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ĐẾN NAY

1.1. Diện mạo thơ Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ đến nay

1.1.1. Sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam từ kháng chiến chống Mỹ

đến nay Vào năm 1964, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cả nước ta

bước vào thời kì kháng chiến chống Mỹ. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã trải

qua nhiều gay go, căng thẳng, khốc liệt để đi tới thắng lợi trọn vẹn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chính cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thúc đẩy sự phát triển

mạnh mẽ của nền thơ ca Việt Nam, chiến tranh càng gay go, ác liệt càng đem đến nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho thơ ca: “Chiến tranh càng mở rộng, càng ác

liệt, thơ càng mở rộng kích thước phát triển” [37, tr.117]. Ở thời kì này, thơ được coi

là mũi nhọn có tính xung kích phản ánh cuộc kháng chiến của dân tộc. Thơ đã bám

sát hiện thực cuộc sống và phản ánh chân thực những sự kiện lịch sử của đất nước,

phản ánh tinh thần đấu tranh anh dũng, hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân

tộc. Thơ đã ghi lại những hình ảnh về con người, dân tộc Việt Nam trong những năm

tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian nan mà hào hùng, vẻ vang. Có thể nói lịch sử

thơ ca dân tộc chưa từng biết đến thời kì nào mà thơ lại có được một cuộc sống

phong phú và sôi nổi đến thế [37, tr.117].

Sự phát triển mạnh mẽ của thơ ca thời kì này nhờ vào đội ngũ các nhà thơ. Thế

hệ các nhà thơ xuất hiện từ trước năm 1945 như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan

Viên, Tố Hữu,... vẫn tiếp tục sáng tác và nhiều người đạt được những thành tựu nổi

bật, tạo ra chặng đường mới trên con đường thơ của mình. Thế hệ kháng chiến chống

Pháp như: Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu,… cũng thực sự khởi sắc. Những nhà thơ đó đã tiếp tục sự nghiệp của cha ông, hòa mình vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Đặc biệt có sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ trong thời kì chiến tranh chống Mỹ như: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,… Lớp nhà thơ “vừa làm thơ vừa đánh giặc” cũng đã đã đem đến cho thơ sức sáng tạo mới mẻ, đầy nhiệt

huyết. Họ là những nhà thơ - chiến sĩ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến đầy gian nan mà vẻ vang của dân tộc. Nhiều cây bút đã khẳng định được tên tuổi mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền thơ ca hiện đại. Các nhà thơ trẻ đã chủ động tìm

9

đến những thử thách quyết liệt nhất của cuộc sống để có nguồn cảm hứng sáng tạo

dồi dào, ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian lao mà vẻ vang của dân tộc. Họ đem đến cho thơ chất hiện thực nóng bỏng của

cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, tìm thấy chất thơ trong chiến tranh khắc

nghiệt và nâng cao tầm nhận thức của mình về các vấn đề của cuộc sống một cách

chính xác và sâu sắc. Với tâm hồn đầy nhạy cảm và sự am hiểu cuộc sống người lính nơi chiến trường, các nhà thơ trẻ đã phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà ở đó là chân dung những người cầm súng bảo vệ đất nước. Đó chính là những con

người mang đậm dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời đại. Những trang thơ của họ giàu chất hiện thực và có sự sáng tạo về nội dung và hình thức nghệ thuật.

Cùng thời với các nhà thơ - chiến sĩ đó, các nhà thơ nữ: Xuân Quỳnh, Phan

Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát... cũng cất lên tiếng thơ từ

hậu phương góp phần tạo nên hào khí của thời đại anh hùng. Có thể khẳng định chưa

bao giờ lực lượng sáng tác thơ lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách,

vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này.

Thơ kháng chiến chống Mỹ thực sự là vũ khí tinh thần to lớn cho việc khơi

dậy lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc

Việt Nam. Thơ ca kháng chiến chống Mỹ đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình là

cổ vũ, động viên con người Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách, những mất mát

hi sinh trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Giá trị lớn nhất, không thể phủ nhận

được của thơ ca kháng chiến là nó đã thực sự bồi đắp cho phẩm chất, nhân cách con

người cao đẹp hơn, vượt lên “cái tôi” bé nhỏ để vươn tới, hòa vào “cái ta” rộng lớn.

Thơ ca chống Mỹ góp phần hun đúc thêm khí phách ngoan cường, bản lĩnh vững

vàng của con người Việt Nam.

Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn giải phóng, giang sơn

thu về một mối. Đây là thời kì mở đầu cho một chặng đường mới của đất nước trên

tất cả mọi phương diện nhưng dân tộc ta vẫn phải trải qua nhiều khó khăn thử thách

do hậu quả của chiến tranh để lại. Do cơ chế bao cấp kéo dài rồi chuyển sang giai

đoạn đổi mới, nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển khiến cho mối quan hệ giữa

con người với con người cũng có những thay đổi khác với thời kì trước. Nếu như

trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, con người luôn hướng tới cái chung, sống đùm

bọc yêu thương, đồng lòng, góp sức vì sự nghiệp chung giải phóng đất nước thì đến

thời kì này mối quan hệ giữa con người với con người trở nên phức tạp, đa diện. Người

10

lính vừa bước ra khỏi chiến trường với bao vinh quang của thế hệ cống hiến, hi sinh vì

đất nước thì giờ đây bản thân họ nhiều khi cảm thấy lạc lõng giữa cuộc sống đời

thường. Sau năm 1975, thơ ca Việt Nam có những chuyển động mạnh mẽ và đa dạng,

phong phú cả về nội dung và hình thức. Thơ không còn chỉ tập trung trong nội dung

chiến đấu và xây dựng như thời trước năm 1975 nữa mà dường như thơ diễn tả mọi

lĩnh vực của đời sống, phản ánh sự phong phú nhưng cũng vô cùng bề bộn và phức tạp

hiện thực đời thường.

Công cuộc đổi mới của Đảng vào năm 1986 ở nước ta là sự kiện chính trị và

xã hội có ý nghĩa quan trọng. Sau ba mươi năm chiến tranh, mười năm hậu chiến,

cuộc sống hòa bình và cơ chế thị trường đưa con người Việt Nam trở về với quỹ đạo

bình thường của cuộc sống mưu sinh. Xu hướng dân chủ hóa, ý thức cá nhân và cơ chế thị

trường,… đã tác động sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Chính điều

này đã thúc đẩy sự đổi mới văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Nhà phê bình Đỗ Lai

Thuý đã khẳng định: “Nếu xét như một hệ thống thể loại, thì thơ bao giờ cũng là một thể

loại mạnh, luôn chiếm ngôi vị đầu bảng. Khác với văn xuôi, thơ một phần gắn chặt hơn

với những yếu tố tự nhiên trong con người như cảm xúc, trực giác, phần khác tư duy thơ

lại thuộc tư duy lựa chọn, theo trục dọc, trục của không gian” [66, tr.43]. Sự chuyển biến

của đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng đã dẫn đến nhu cầu đổi mới thơ ca, mà trước tiên là

đổi mới quan niệm thẩm mĩ về hiện thực và con người.

Sau năm 1975, thơ Việt Nam hội tụ nhiều thế hệ nhà thơ giàu nhiệt huyết sáng

tạo. Bên cạnh những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến vẫn tiếp tục cầm bút

sáng tác như: Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh,…

xuất hiện lớp nhà thơ có tuổi đời còn trẻ như: Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy

Linh, Trương Quế Chi, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Tuyết Nga, Chu Thị Thơm,... Họ đều

cố gắng đi tìm những cách thức phong phú để thể hiện giọng điệu mới, phục vụ cho việc

tái hiện chân thành cảm xúc tâm trạng và hiện thực đời sống. Có những nhà thơ trẻ đã thể

hiện lối nói mạnh bạo, thể hiện khát khao mãnh liệt gửi gắm trong thơ:

“Trong bóng tối mới tinh, vẫn bài ca hoang dã

Tôi ứa máu những câu thơ cầu siêu

Rách cằm ngã đêm đơn độc

…Làm đóa Linh mẫu đơn

Nở tận cùng đến chết”

(Vi Thùy Linh - Sinh năm 1980).

11

Họ từ chối những khuôn mẫu sẵn có trong thơ, đưa vào những trang thơ của

mình những cái hiện đại của đời sống để tạo ra những tứ thơ khác lạ: Ngoài đường cái quan

xe rác chạy rầm rập

đống lửa bao nilon đựng rác

đôi tình nhân khét lẹt chàng thương binh ngực đầy huân chương vẫn hô một hai hành quân không chịu nghỉ

nàng thất tình hoa mướp bồng áo bông

ru hời

(Phan Huyền Thư - Rỗng ngực)

Cách tổ chức các hình ảnh thơ cùng với cấu trúc câu thơ, nhịp thơ và cảm

xúc cho thấy Phan Huyền Thư đã khước từ những kinh nghiệm, quan niệm thẩm mĩ

truyền thống, đưa những chất liệu mới vào thơ. Thơ lúc này được xem là thể loại tiên

phong cho tâm hồn và nghệ thuật nhanh nhạy, đa dạng nhất, các nhà thơ ý thức được

các bước ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội và đời sống văn học.

Như vậy, thơ sau năm 1975 đến nay đang tiếp tục phát triển trên con đường

hiện đại hóa, hội nhập với thơ ca nhân loại. Chính sự cách tân đổi mới trong thơ ca

đã có những đóng góp vào văn hóa tinh thần dân tộc, làm phong phú, đa dạng thêm

nền văn học Việt đương đại. Các nhà thơ đem đến cho tâm hồn con người Việt những

cảm xúc, ẩn ức, lịch sử, hiện thực Việt, cùng những khao khát của con người đương

thời để tạo nên những thành quả mới, giá trị mới.

1.1.2. Những thay đổi trong cảm hứng sáng tác và hình thức biểu hiện

Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt, vận mệnh của đất nước, tự do và độc lập của dân tộc đứng trước nguy

cơ một mất một còn. Trong những năm tháng đó, đời sống và số phận của mỗi người tất yếu phải gắn chặt với vận mệnh của đất nước, với cuộc chiến đấu của dân tộc. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, thơ đã trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm chung rộng lớn và thống nhất của mọi người, của toàn dân tộc. Vì vậy, một trong những nguồn cảm hứng sáng tác của giai đoạn này là cảm hứng sử thi. Nguồn cảm hứng này tạo cho nhà thơ một chỗ đứng ở tầm cao để

bao quát thời đại, lịch sử và cũng định hướng cho sự suy ngẫm, phát hiện, liên tưởng

của nhà thơ trước mọi hiện tượng và vấn đề, kể cả đời sống riêng tư, cá nhân hay thế

sự. Nhờ thế mà thơ kháng chiến chống Mỹ đã tạo dựng được nhiều hình tượng đẹp, kì

12

vĩ, mới mẻ về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu của dân tộc mang tầm thời đại.

Cũng nhờ đó mà trong thơ thời kì này có nhiều phát hiện, liên tưởng, mở rộng và đào sâu ý nghĩa khái quát, biểu tượng của những chi tiết, hình ảnh hiện thực.

Cảm hứng sử thi là yếu tố chủ đạo của thơ ca cách mạng. Thơ thời kì này

thường thể hiện tiếng nói của cộng đồng, của dân tộc trước thử thách quyết liệt. Nhân

vật trung tâm thường không thể hiện cái tôi cá nhân mà là cái tôi công dân đại diện

cho giai cấp, dân tộc, thời đại, hội tụ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Trong

thơ thường xuất hiện hình tượng đẹp về người chiến sĩ cách mạng:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên gác trực thăng

Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng

Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

(Lê Anh Xuân - Dáng đứng Việt Nam)

Người chiến sĩ giải phóng quân hiện lên ở đầu bài thơ mang dáng dấp của

những anh hùng thần thoại với các động tác: “ngã”, “tì”, “gượng”. Lê Anh Xuân đã

kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, giữa chất sử thi và cảm hứng bay bổng để khắc

hoạ dáng đứng Việt Nam anh hùng giữa chiến trường đầy bom đạn, sẵn sàng hi sinh

bản thân mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự hi sinh thầm lặng mà cao cả.

Cái tôi trữ tình sử thi chiếm một vị trí đáng kể trong cảm hứng và giọng điệu

của hầu hết các nhà thơ chống Mỹ. Đất nước ta lúc này phải đương đầu với kẻ thù

hung ác, hùng mạnh, nham hiểm nhất của thời đại và chính điều đó đã khiến cả dân

tộc phải thống nhất muôn người như một:

Những năm toàn đất nước có một tâm hồn có chung khuôn mặt

Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau

Những mắt sáng vì toàn dân tỉnh thức

Dáng lao nhanh theo trận tuyến dời mau

Núi Bắc sông Nam đều giống Bác

Nhìn một người, ta nhìn ra cả nước …

(Chế Lan Viên - Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa)

13

Nhà thơ nhìn Tổ quốc không phải bằng con mắt cá nhân mà bằng con mắt của

lịch sử, của dân tộc, của thời đại, “Con mắt Bạch Đằng, Đống Đa”. Đó là một cái

nhìn mang tính sử thi hoành tránh. Với những đặc điểm này, tinh thần yêu nước, hành

động anh hùng, phẩm chất ngời sáng thông qua sự thể hiện của cái tôi trữ tình sử thi

đã mang tầm vóc khái quát: đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách

mạng. Vì vậy, tình cảm yêu nước luôn được thể hiện trong trạng thái cảm xúc mãnh

liệt nhất:

Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt,

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...

(Chế Lan Viên - Sao chiến thắng)

Tình yêu Tổ quốc gắn liền với ý thức trách nhiệm của mỗi người. Trữ tình - sử

thi trở thành phương thức chủ đạo của thơ thời kỳ chống Mỹ. Cái tôi sử thi cũng

chiếm một vị trí đáng kể trong cảm hứng và trong giọng điệu của nhiều nhà thơ thời

chống Mỹ. Sức mạnh toàn dân tộc được soi chiếu bởi tầm nhìn sử thi. Sự nghiệp anh

hùng trong những năm tháng hào hùng thời đánh Mỹ được nhà thơ Chế Lan Viên

khái quát, cùng niềm tự hào: “Ta đánh giặc suốt ba mươi năm trời chẳng cần có ai

thay/ Cả dân tộc không một ai làm quân dự bị” (Ngày vĩ đại).

Cái tôi sử thi có thể thấy rõ qua những câu thơ có tính chất tuyên ngôn của

Xuân Diệu:

Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao

(Những đêm hành quân)

Cái tôi sử thi đã đại diện cái ta cộng đồng, tiếng nói của cái tôi trữ tình có sức

âm vang của tiếng nói chung, có sức thuyết phục của chân lí chung mang tính phổ

biến. Cái tôi sử thi tạo cho nhà thơ tâm thế trữ tình cao rộng với tư cách là người phát

ngôn cho cả nhân dân, cả dân tộc. Do vậy, những cái gì thuộc về cá nhân dường như

thường ít được đề cập trong thơ. Trong âm hưởng hùng ca, say sưa với chiến thắng,

thơ chống Mỹ thường tránh nói nỗi đau nếu phải đối diện với hiện thực nghiệt ngã thì

các nhà thơ vẫn cố gắng “xoa dịu” vết đau bằng sức mạnh tinh thần:

14

Một tháng vã hành quân Hai chân phồng rộp cả Quấn băng rồi vẫn đau Nhiều lúc đi bằng đầu (Hữu Thỉnh - Mùa xuân đi đón)

Khi đất nước có giặc ngoại xâm thì lợi ích của dân tộc và nhân dân hòa làm một, sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời là sự nghiệp giải phóng con người. Như một lẽ tự nhiên, thơ ca đã ưu tiên cho vấn đề tự do độc lập, vì lợi ích của Tổ quốc, vì nhiều nhiệm vụ khác lớn hơn cho nên, cái tôi cá nhân tạm thời “nén lại”.

Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh có những đổi khác so với thời chiến tranh. Điều đó đòi hỏi nghệ sĩ nhận nhìn hướng sáng tác của mình sao cho thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây cảm hứng sử thi đã dần phai nhạt và thay dần vào đó là cảm hứng thế sự. Các nhà thơ nhận thức sâu sắc về đời sống thực, nói về những cái quen thuộc bình thường, về những cái thiết thực, về sự thực mà con người nếm trải. Các nhà thơ đã thực sự cảm thông với nỗi đau của con người và thân phận của họ. Người viết đã nhìn lại sự khắc nghệt của chiến tranh, thấy được sự mất mát không gì bù đắp nổi cho dù con người có cuộc sống thời bình:

Chiến tranh đã tắt từ lâu Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon Nửa đêm gió lạnh, trăng mòn Có người nghe tiếng ru con... khóc thầm (Nguyễn Đức Mậu - Người ấy)

Những người lính trở về từ chiến trường, trong tâm tư không thể nào quên được những năm tháng ở chiến trường gian khổ. Trước cuộc sống nhiều ngang trái, họ muốn tìm quên, muốn hòa nhập, nhưng rồi tận sâu trong đáy lòng vẫn cứ đau đáu nỗi niềm:

Muốn nguôi quên những xót xa Hát cùng trời đất bài ca thanh bình Thế nhưng trong thịt xương mình Mảnh kim loại vẫn khối tình vẹn nguyên … Dù cho vết sẹo ngày xưa Đã chai lì với nắng mưa dãi dầu Vẫn không chai được nỗi đau Khi qua ngõ chợ, gầm cầu, bánh xe Khi trên bàn tiệc hả hê Người ta uống cả lời thề chiến tranh

(Phạm Doanh - Vẫn còn mảnh đạn )

15

Chiến tranh xảy ra con người đã phải chịu biết bao đau thương mất mát. Mọi

người đều hướng tới cuộc sống hòa bình, tự do, hạnh phúc. Thế nhưng bước vào cuộc

sống hòa bình, những nhà thơ đã trải qua những ngày tháng kháng chiến chống Mỹ

lại rơi vào tâm trạng suy tư, trăn trở. Họ nhìn nhận lại tất cả giá trị của cuộc sống, ý

thức sâu sắc cuộc sống trong hoàn cảnh thực tại. Trước đây, hiện thực hiện lên trong

tác phẩm thường là hiện thực “nhìn thấy” thì trong thơ sau 1975, chiến tranh chủ yếu

hiện lên trong ký ức. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn

từ phía sau với bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Chất giọng xót xa, nỗi

buồn được nói nhiều trong thơ.

Các nhà thơ bước ra từ chiến trường đã nhìn nhận cuộc sống có cái gì đó lắng

đọng trong nỗi trăn trở, suy tư. Họ thấu hiểu những mặt được - mất của chiến tranh:

Mậu Thân hai nghìn người xuống đồng bằng

Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi.

…Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm

Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ

Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ

Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ !

(Chế Lan Viên - Ai ? Tôi !)

Tố Hữu là nhà thơ sáng tác theo nguồn cảm hứng sử thi tiêu biểu trong thời kì

kháng chiến cũng chuyển dòng cảm hứng. Trong hai tập thơ Một tiếng đờn, Ta với ta,

có rất nhiều bài được viết bằng giọng điệu thế sự. Ông than thở tình người đen bạc,

thay đổi khôn lường và băn khoăn, trăn trở trước lối sống thực dụng đang diễn ra

trong cuộc sống hàng ngày:

Đời đâu phải thị trường nhân phẩm

Gian ác mang mặt nạ thánh hiền

Tình nghĩa cũng theo thời lạnh ấm

Bạc vàng đo giá trị, sang hèn?

(Chân trời mới)

Thời chiến tranh, thơ Việt Nam phổ biến cái tôi công dân mang những phẩm

chất chung của cộng đồng thì đến thời kì này chủ thể trữ tình đã tách mình ra khỏi

cộng đồng. Nó thường mang cảm giác cô đơn, sầu bi, không thể tâm sự cùng ai

những nỗi cảm thương của mình. Thơ cách mạng thời chiến tranh không mang âm

hưởng buồn nhưng thơ sau đổi mới thường mang âm hưởng buồn. Nhưng nỗi sầu của

16

con người rất đa dạng. Có những nỗi buồn rất khó gọi tên, khó diễn tả, phức tạp, bí ẩn

như Nỗi buồn của chiếc bóng của Phạm Thị Ngọc Liên: “Nhiều khi nỗi buồn của tôi

như sợi len dài/ quấn xiết vào trái tim hỗn loạn”.

Các nhà thơ đã thực sự nói lên cảm giác bế tắc và chán nản. Từ xa nhìn về Tổ

quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ

nghèo và bất hạnh của con người trong cuộc sống đầy khốn khó, nói về nhân dân, về

Tổ quốc với những câu hỏi đau đáu như lời tự vấn:

Xứ sở thông minh

Sao thật lắm trẻ con thất học

Lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương...

Xứ sở kỷ cương

sao thật lắm thứ vua

vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa

vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ…

(Nhìn từ xa...Tổ quốc!)

Những năm cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX xuất hiện

nhiều bài thơ gần gũi với cuộc sống đời thường. Chiến tranh kết thúc, nhiều bi kịch

của cuộc sống đời thường hiện ra trong xã hội, thậm chí dẫn đến cảm giác bế tắc, bi

quan, chán nản trong tâm trạng của con người:

Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi

Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi

(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống )

Đáng chú ý là sự xuất hiện của các trường ca vào những năm cuối thập kỷ 70

đầu thập kỷ 80 và vào những năm cuối thế kỷ XX. Sự xuất hiện của các tập trường ca

cho thấy nhu cầu tổng kết về chiến tranh và lịch sử trong thơ là một nhu cầu có thật.

Từ điểm nhìn hiện tại, các nhà thơ mang đến cái nhìn sâu xa về lịch sử đất nước - một

lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít đau thương và bất hạnh. Ý thức nói nhiều hơn

về bi kịch khiến cho các trường ca này không rơi vào giọng điệu tụng ca dễ dãi mà

thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về nhân tình thế thái trong sự chuyển động

không ngừng của lịch sử. Bên cạnh những cây bút thành danh ở thể loại trường ca

như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,… là sự xuất hiện của Trần Anh Thái

với Đổ bóng xuống mặt trời, Hoàng Trần Cương với Trầm tích,… Những trải nghiệm

17

cá nhân và những suy tư mang tính khái quát cao đã khiến cho thơ ca giai đoạn này

có được những khúc ca giàu tính nghệ thuật về số phận đất nước, nhân dân.

Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật là

xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau kháng chiến. Nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn

nhân sinh, về những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Nếu như

trước đây, các nhà thơ có sự e ngại nói về nỗi buồn thì trong thơ sau 1975, nhiều nhà

thơ trực tiếp bày tỏ nỗi buồn. Đó không hẳn là nỗi buồn kiểu Thơ mới mà là nỗi buồn

gắn chặt với một thực tại mới, một cảm quan nghệ thuật mới. Có nỗi buồn về thần

tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng bị tan vỡ khi nhận ra “Chúa chỉ bằng đất đá” (Nguyễn

Trọng Tạo), có nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý chuyện

tồn tại mà “xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những trắc ẩn về riêng

tư, đôi lứa: “Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành

tiếng” (Lâm Thị Mỹ Dạ). Chất giọng tự thú, tự bạch trở thành gam giọng phổ biến.

Sở dĩ có nỗi buồn như vậy vì nó xuất phát từ thời thế, sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất

an trước thời cuộc; đồng thời, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng

lẻo, con người sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng thấy cô đơn hơn. Câu

hỏi “Người sống với người như thế nào?” (Hữu Thỉnh, Hỏi) thể hiện rất rõ tâm trạng của

một thời đoạn lịch sử cụ thể. Nét nổi bật của xu hướng này là các nhà thơ rung động

trước những biến thái tâm lý tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như thật mong manh.

Trong cuộc sống thời bình, con người phải đối diện với biết bao điều ngổn ngang,

bề bộn, tốc độ sống nhanh và các quan hệ sống cũng trở nên trần tục hơn. Điều đó buộc

các nhà thơ phải chuyển đổi cách tư duy. Thơ cần đến một sự tỉnh táo hơn:

Tôi xoay những ô vuông

Có nhà thơ than rằng đời bây giờ tỉnh táo quá

Tôi, ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo

Vì tôi biết cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn được của đam mê

(Thanh Thảo - Khối vuông ru bích)

Công cuộc đổi mới của Đảng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại làm thay

đổi cuộc sống nước ta. Đất nước đổi mới đã thúc đẩy văn học trong đó có thơ ca cũng

bước vào thời kì đổi mới. Các nhà thơ dám nói ra về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều sự

thật đau lòng, dám khẳng định cá tính sáng tạo của mình. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí

thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ cả nước vào

tháng 10 năm 1987 có tác động rất lớn đến tinh thần của những người cầm bút, nhất

18

là ý thức tự cởi trói trong lĩnh vực sáng tạo. Chính cơ chế thị trường, bối cảnh lịch sử

và văn hóa mới trong đó có cả mặt phải và mặt trái của nó đã khiến cho các nhà thơ

không thể nhìn nhận cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những

thay đổi của cuộc sống. Điều này dẫn đến thay đổi về cảm hứng sáng tác, tư duy nghệ

thuật. Họ đã nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và không ngừng tự vấn về đời sống,

khám phá đời sống nội tâm và phơi bày nhưng bi kịch, những hoài nghi về những giá trị

ổn định để đi tìm những giá trị mới. Có nhà thơ đã sáng tác theo cảm hứng “giải thiêng”

và mong muốn tìm đến những hình thức tổ chức ngôn từ mới lạ để tạo ra quan niệm

riêng về đời sống.

Về thể loại, mặc dù thơ tự do và thơ văn xuôi là hai thể thơ chiếm ưu thế trong

đời sống thơ ca sau 1975 nhưng trên thực tế, các thể thơ truyền thống như thơ lục bát,

thơ năm chữ, bảy chữ vẫn tồn tại. Song so với trước đây, các thể thơ trên đã có những

thay đổi đáng kể về cấu trúc bên trong. Thơ năm chữ và bảy chữ trước đây gắn chặt

với cách gieo vần và nhịp điệu thơ thường khá êm ả. Đến thời đoạn sau 1975, giọng

điệu thơ gân guốc hơn, các liên tưởng thơ ít tuân theo quan hệ nhân - quả hơn. Riêng

về lục bát, đã có những cách tân về cách trình bày, có những bài thơ lục bát được bố

trí theo kiểu thơ tự do.

Thơ ca thời kì đổi mới không còn êm mượt như thơ ca giai đoạn chống Mỹ mà

trở nên trúc trắc hơn, ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ phong phú, đa dạng hơn. Thậm

chí, tính trong suốt và sáng rõ của ngôn ngữ thơ nhiều khi được cố ý mờ hóa nhằm

tạo nên tính đa nghĩa trong thơ. Tính đa ngôn ngữ trong thơ ca đã được thể hiện rõ ở

giai đoạn sau năm 1986. Bên cạnh xu hướng đưa thơ gần với đời sống còn có xu

hướng ý thức tạo ra tính nhòe mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn

gia tăng chất ảo trong thơ, buộc người đọc phải ngẫm nghĩ, giải mã hình tượng nghệ

thuật qua nhiều chiều liên tưởng văn hóa khác nhau.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ đậm đời thường đã được không ít nhà thơ có sử

dụng để sáng tác thơ ca. Nhiều nhà thơ thích sử dụng cách nói dân gian, khiến cho

thơ dễ dàng đến với người đọc. Người đọc sẽ tìm thấy sự gần gũi, tếu táo trong cách

thể hiện của nhà thơ Nguyễn Duy: “Tạnh men là tạnh la đà/ tạnh cơn một bóng ảo ra

chính hình/ Phàm trần bớt chút lung linh/ các em bớt xỉnh xình xinh mấy phần”

(Kiêng). Màu sắc đời thường trong thơ đã giúp cho thơ trở nên gần gũi hơn với cuộc

sống. Tuy nhiên, không ít người cho rằng việc đưa ngôn ngữ thơ quá gần với tiếng

cười dân gian và ngôn ngữ đời thường sẽ làm giảm tính nghệ thuật của thi ca. Sự lo

lắng này không phải không có cơ sở. Vận dụng cách nói thường ngày vào thơ, gia

19

tăng tính giễu nhại trong thơ là một nhu cầu của đời sống dân chủ nhưng nếu rơi vào

lạm dụng, thơ sẽ trở thành dễ dãi và quay trở lại với tính đơn nghĩa trong khi bản chất

của ngôn ngữ thi ca là đa nghĩa, mơ hồ.

Ngôn ngữ thơ giàu chất tượng trưng cũng thường gặp trong những nhà thơ có ý hướng cách tân, hiện đại thơ. Tiêu biểu là nhà thơ Lê Đạt, một trong những cây bút chủ trương tạo sinh ngữ nghĩa, tỉnh lược từ ngữ tối đa để gia tăng tính biểu đạt của ngôn ngữ và buộc người đọc phải suy ngẫm. Ngôn ngữ tượng trưng khiến cho nghĩa thơ trở nên mờ nhòe, độ mở của hình tượng thơ được nhân lên.

Công cuộc đổi mới đã mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới và thơ ca, trước vận hội này cũng thay đổi chứ không theo mô hình nghệ thuật cũ. Bắt đầu xuất hiện những giọng thơ mới lạ như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Với các thi sĩ này, ngôn ngữ/ chữ là hiện thực trực tiếp và thứ nhất của tư duy thơ. Chữ khơi gợi tư duy và mĩ cảm. Khi tuyên bố làm thơ là làm chữ, các thi sĩ đã đi đến tận cùng chiều năng nghĩa của chữ. Cấu trúc của thơ dòng chữ là cấu trúc của những tiền giả định (Lê Đạt gọi là vân chữ, bóng chữ), xuất hiện do chính khả năng vẫy gọi, tụ nghĩa, liên tưởng của từ, chữ, âm, hình... trong quá trình vỡ ra và tái thiết một trật tự, một khả năng biểu nghĩa mới:

Nắng tạnh heo mày hoa lạnh Mimôza chiều khép cánh mi môi xa (Lê Đạt - Mimôza)

Màu sắc lạ hóa trong ngôn ngữ trở nên nổi bật. Có thể thấy rõ điều đó trong

một đoạn thơ của Nguyễn Quang Thiều:

Trên cánh đồng mênh mông, cỏ không đặt ra nghi lễ bốn mùa Tôi trở về tìm nơi không có tiếng người, không có bóng cây Bền bỉ hơn sự lặng im, lưỡi cày từ tháng giêng thuở trước Dựng lên những luống đất của cơn mơ, người lạ đến gieo trồng (Độc thoại)

Tuy nhiên, trong sự cách tân đổi mới, có những nhà thơ vẫn trên cơ sở kế thừa

và phát huy các ưu thế của truyền thống thơ trữ tình Việt Nam:

Anh không còn gì ngoài bàn tay em vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời thời gian rơi qua từng kẽ ngón tay em vất vả không giữ được đâu em anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ (Trương Đăng Dung - Anh không còn gì ngoài em )

20

Thời gian trôi qua nhanh, sự vô thường của kiếp người thực ra là quy luật. Nhà

thơ đã ý thức một cách sâu sắc giới hạn của đời người và ý nghĩa của kiếp người.

Song dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở, băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh

chóng tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư vô.

Trương Đăng Dung gửi gắm trong thơ một tấm lòng để đau nỗi đau của số phận con

người; để trăn trở, suy tư trước bao nghịch cảnh của cuộc đời.

Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 và thời kì đổi mới đã vận

động một cách mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Với sự thay đổi cảm hứng sáng tác,

về tư duy nghệ thuật, sự nhận thức toàn diện hơn về bản chất thơ ca và cấu trúc thể

loại, thơ Việt Nam đã thực hiện một cuộc tạo đà mạnh mẽ cho những kết tinh nghệ

thuật trong chặng đường sắp tới.

1.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh thời kì kháng chiến chống Mỹ đến nay

1.2.1. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm chống Mỹ

Hữu Thỉnh đã từng phải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở sáu năm với bác

ruột, lên mười tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân

Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân. Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, ông mới

được đến trường. Năm 1963, Hữu Thỉnh tốt nghiệp phổ thông và tham gia nhập ngũ,

trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây, ông gắn bó với cuộc đời

người lính, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm

cán bộ tuyên huấn,… Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, trải qua hầu khắp

các chiến trường máu lửa, bàn chân người lính đã trải qua chiến trường Nam Lào,

Quảng Trị, Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh với tư cách là phóng viên mặt trận.

Chính nhiều năm tham gia kháng chiến đã giúp cho Hữu Thỉnh có nguồn cảm hứng

sáng tác thơ ca và có những vần thơ đậm chất lính. Từ cuộc đời người lính Hữu

Thỉnh bước vào con đường thơ ca bằng tấm lòng chân thành và đầy nhiệt huyết.

Được sống chiến đấu và cảm bút sáng tác trong những năm tháng khốc liệt và đầy

bão lửa của chiến tranh, thơ Hữu Thỉnh đã phản ánh chân thực hiện thực và con

người trong kháng chiến. Bằng con mắt của người trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận

và bằng tâm hồn nhạy cảm của một người chiến sĩ, Hữu Thỉnh luôn quan tâm đến

cuộc sống chiến đấu với không khí chiến tranh, những cam go ác liệt đau thương mà

đầy hào hùng, vẻ vang. Bản thân nhà thơ cũng có ảnh hưởng của lớp các nhà thơ cách

mạng thời kì chống Pháp, lớp người từng tham gia kháng chiến cống hiến cho dân

tộc. Vì vậy, khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hữu Thỉnh đã dấn thân và

21

hành động để cống hiến: “Một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hoà giữa chủ

thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ. Nói gọn, trong một anh bộ đội có một thi nhân

(…) Nhập cuộc và hành động có đòi hỏi phải hy sinh không ? Có. Đó là có vụn vặt,

quẩn quanh, lạc điệu và nguy cơ cạn kiệt tâm hồn (…) Nhập cuộc và hành động,

được gì ? Rất nhiều: Cả một đời thơ. Cuộc sống cho anh bao nhiêu thứ, kể cả sự đào

luyện nghiêm khắc để anh có thể trở thành “Con của vạn nhà” đã là cái lớn, chiến

lược cho cả đời thơ” [58, tr.5]

Có thể nói những năm kháng chiến chống Mĩ, thơ Hữu Thỉnh luôn bám sát

cuộc sống và phản ánh chân thành những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh tinh

thần chiến đấu anh dũng, hi sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông

luôn ý thức rõ được vai trò, trách nhiệm của thế hệ mình:

Chúng tôi còn biết xoay xở ra sao

Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng

Còn mang thuốc

Còn mang nhau

Mang bao nhiêu tai biến dọc đường

Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn

Chúng tôi đành mang đạn trước tiên

Không có sách chúng tôi làm ra sách

Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình

Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường

Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt.

(Đường tới thành phố)

Nhà thơ đã miêu tả chiến tranh với con mắt nhìn từ chiến trường, những câu

thơ được gợi lên từ đời sống hiện thực. Những thiếu thốn, gian khổ không thể làm

nhụt chí những người lính mà trái lại từ trong đau thương gian khổ họ vẫn quyết tâm

chiến đấu và đó cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tác thơ. Mảng thơ viết về chiến

tranh của Hữu Thỉnh gồm tập thơ Âm vang chiến hào (thơ in chung), Tiếng hát trong

rừng, trường ca Sức bền của đất và Đường tới thành phố. Cảm hứng chủ đạo trong

các sáng tác về chiến tranh là cảm hứng về đất nước, con người, về cuộc chiến đấu

chống Mỹ cứu nước. Những vần thơ của Hữu Thỉnh mang cảm hứng ngợi ca, tự hào

về Tổ quốc đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc.

22

Sự khốc liệt và thơ mộng của Trường Sơn đã giúp Hữu Thỉnh tìm đến nguồn

cảm hứng về đất nước, về nhân dân và các thế hệ những người cầm súng kháng chiến

thật giản dị và trung thực. Thơ ông đề cập đến những vấn đề trọng đại của dân tộc,

ngợi ca những con người lí tưởng của thời đại, những con người dám xả thân vì nhân

dân, vì Tổ quốc:

Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt

Yêu tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi

Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa

(Đường tới thành phố)

Thơ Hữu Thỉnh thể hiện một cách chân thực, tự nhiên về cuộc sống với hồn

thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn qua hình ảnh người lính nơi chiến trường:

Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn

Người sốt rét hát cho người sốt rét

Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét

Cây mát cho người người mát cho nhau

(Tiếng hát trong rừng)

Những người lính đã quên đi những thiếu thốn, bệnh tật của mình để hát với

tâm hồn trẻ trung, sôi nổi và tràn đầy tình yêu thương. Họ truyền cho nhau tình yêu

cùng sự quan tâm chia sẻ để vượt qua khó khăn thử thách. Tình đồng chí đồng đội

tiếp thêm sức mạnh để biến những gian nan thành niềm tận hưởng của cuộc sống.

Chính những gian khổ đã trở thành kí ức đẹp trong mỗi người lính. Những hình ảnh

của quê hương, đất nước, những tình cảm quê hương, làng xóm, tình quân dân, hình

ảnh của người mẹ, người vợ, người chị, người em,… đều hiện lên thật thân quen và

xúc động.

Thơ Hữu Thỉnh giàu chất suy tưởng, riêng mảng thơ viết về chiến tranh của

nhà thơ có sự kết hợp giữa giọng chính luận với giọng trữ tình đằm thắm. Hữu Thỉnh

luôn đặt tiêu chí giản dị và trung thực lên hàng đầu nên khi thể hiện cảm xúc, tình

cảm của mình đối với Tổ quốc nhà thơ luôn chú ý khắc họa những hình ảnh gần gũi

thân thương mà vẫn mang nét riêng không hề lẫn với bất cứ nhà thơ nào. Điều đó

mang đến cho thơ ông những nét vừa gần gũi, quen thuộc lại vừa độc đáo, mới mẻ.

Quen ở cách cảm, cách nghĩ gần gũi với tiếng nói chung của dân tộc và mới lạ ở cách

nhìn, cách diễn tả độc đáo; nhà thơ đã diễn tả chiều sâu tâm hồn mình với những cảm

xúc, suy nghĩ lắng đọng khơi gợi sâu xa.

23

Như vậy, thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh mang hơi thở của dân tộc, là

tiếng nói của nhân dân thấm nhuần chất sử thi và dạt dào chất trữ tình. Cái tôi của nhà

thơ lúc này đã hòa nhập với cái ta chung của dân tộc, thể hiện cái tôi của thơ ca cách

mạng. Chính điều đó đã tạo nên trong thơ Hữu Thỉnh một giọng thơ độc đáo, kết hợp

giữa giọng chính luận và giọng trữ tình đằm thắm. Bên cạnh đó giọng điệu chủ đạo

còn có sự bổ sung của nhiều chất giọng: chân thành mà bay bổng, sôi nổi, hào sảng

mà lại không kém phần sâu lắng, vừa hướng tới hiện thực chiến tranh lại vừa chất

chứa đầy kỉ niệm. Đó chính là những yếu tố tạo nên sự thành công trong sự nghiệp

sáng tác của Hữu Thỉnh ở thời kì kháng chiến chống Mỹ.

1.2.2. Sáng tác của Hữu Thỉnh những năm sau kháng chiến chống Mỹ đến nay

Sau những năm tập trung quan liêu bao cấp, đất nước bước sang thời kì đổi

mới. Sự phát triển của cơ chế thị trường và nhu cầu hội nhập khiến cho văn học cũng

có sự đổi mới. Cùng với sự đổi mới văn học nói chung và thơ ca nói riêng, thơ Hữu

Thỉnh cũng mang đến một nguồn cảm hứng và phong cách sáng tạo mới. Cảm hứng

về đất nước, về nhân dân trong thơ Hữu Thỉnh dần chuyển thành cảm hứng về cuộc

sống đời thường. Cuộc sống đã được nhìn nhận với phương diện đa chiều, chính

nguồn cảm xúc phong phú trong cuộc sống đã tạo cho thơ Hữu Thỉnh hướng nhìn

nhận, suy tư sâu lắng, ở thơ ông vẫn có sự chân thành, giản dị mà tinh tế với tâm hồn

đa cảm. Gần mười lăm năm tìm đoạn đường phát triển tiếp theo cho thơ mình để rồi

Hữu Thỉnh đã cho ra mắt hai tập thơ Trường ca Biển, Thư mùa đông và đến năm

2005 xuất bản tập thơ Thương lượng với thời gian đã khẳng định được vị trí của nhà

thơ trong nền thơ ca đương đại Việt Nam.

Những sáng tác của Hữu Thỉnh trong thời kỳ này đã thể hiện cách nhìn nhận

đánh giá về cuộc đời với những suy ngẫm của một con người đang trăn trở trước cuộc

sống đầy những biến động. Thơ Hữu Thỉnh mang dấu ấn của sự từng trải trong cuộc

sống. Trong cái tôi trữ tình của nhà thơ vẫn có cái tôi của người lính và có cả cái tôi

cá nhân cô đơn, xót xa, nhiều âu lo và dự cảm buồn đau trước hiện thực cuộc sống.

Hữu Thỉnh vẫn kế tiếp giai đoạn sáng tác trước đây ở đề tài về Tổ quốc, vận mệnh đất

nước vẫn được đề cập, hình tượng người lính vẫn được nhà thơ quan tâm, ngợi ca

nhưng từ góc nhìn mới, từ một cảm quan nghệ thuật mới.

Trường ca biển được hoàn thành sau mười ba năm trong sáng tạo của Hữu

Thỉnh (1981-1994). Tác phẩm càng có giá trị hiện hữu với hôm nay khi cả nước đang

24

đồng lòng, dốc sức hướng ra biển đảo trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc. Nhà thơ đã nối tiếp đề tài về vận mệnh tổ quốc và xen vào đó

là tình cảm quê hương, gia đình và tình cảm cá nhân trong tâm hồn người lính. Người

lính đã trải qua tuổi ấu thơ vất vả cay đắng dưới chế độ cũ và lớn lên trở thành người

lính “kết bạn suốt chiến trường ngang dọc”, tuổi trẻ sung mãn có mặt trên trận tuyến

đánh Mỹ Ngụy và rồi người lính đó lại đến với biển đảo:

Trước mặt tôi bây giờ là biển cả

Lại gặp núi non trong những chóp sóng thần…

Người lính được nhân dân trao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của đất nước với

vai trò là người lính đảo. Khác với những người lính năm xưa trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ, Trường ca biển phản ánh số phận cá nhân người lính cách mạng “Họ

đang bơi trên số phận của mình”. Họ đã phải chịu đựng sự hi sinh trong cảm giác

thiệt thòi như những “dòng sông hóa thạch” dưới đáy biển khơi. Họ phải gồng mình

lên để lấp khoảng trống trong tâm hồn, đắn đo giữa được và mất, giữa cống hiến và

hưởng thụ, giữa hi sinh và cái giá phải trả cho sự quên mình:

Chúng tôi là những người lính đảo thời bình

Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất

Để chống lại cái khoảng trống kia

Cái khoảng trống chực len vào đồng đội

Chực len vào giữa bạn và tôi

Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa

Cáo ngay trong chính bản thân mình

(Trường ca biển)

Người lính trên đảo xa đã phải đối diện với những khắc nghiệt, nghịch lý góc

cạnh của số phận, những con người trả giá đến cùng để giữ lấy cho cuộc sống một ý

nghĩa, một lãnh thổ toàn vẹn, một đội ngũ bền vững để chống lại sự cô đơn và sự hoà

tan. Người lính sống không phải chỉ để thoát hiểm khỏi những hàm răng cá mập,

thoát khỏi bão biển, thoát khỏi cái chết bủa vây từng giây, mà sống là để khẳng định

một ranh giới hoàn chỉnh, một diện mạo cho Tổ quốc. Số phận của họ là hiện thân

của số phận dân tộc trong những thử thách của lịch sử.

Nếu Trường ca biển là hành trình đầy gian lao của người lính khi đến với biển

thì Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian là hành trình đi “tìm người”, tìm

25

trong thất vọng để rồi hi vọng những giá trị nhân bản mà cuộc sống xô bồ trước mắt

đang làm mờ đi, chìm lấp đi. Giá trị nhân bản mà nhà thơ tìm thấy là sự đồng cảm, là

niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con người với con người. Hữu Thỉnh viết thơ về

tình yêu không nhiều nhưng tình riêng trong thơ ông đã cảm hóa được lòng người bởi dư

vị xót xa, cay đắng. Nhà thơ nhạy cảm trước sự đơn lẻ trong tình yêu, cách nghĩ cách

cảm của nhà thơ cũng gần gũi với diễn biến tình cảm và cách ứng xử của con người Việt

Nam. Trong tình yêu, nhà thơ cũng có lúc thể hiện nỗi niềm tương tư, thương nhớ:

Không giữ nổi một mình

Nhớ em chia cho sóng

Nhấp phải chút tương tư

Thế là chiều biển động.

(Tám câu)

Hữu Thỉnh có cách cảm nhận về tình yêu thật xúc động, đằm thắm, truyền

thống mà cũng rất hiện đại, vừa chân thành vừa tinh tế. Có lẽ xưa cũ là phần văn hoá,

tính cách dân tộc, là “nếp cảm, nếp nghĩ của anh cũng gần gũi với diễn biến tình cảm,

sức chịu đựng và ứng xử của con người Việt Nam” [24, tr.56]. Lời thơ như lời bộc

bạch, tâm sự nỗi lòng của mình. Nhà thơ lấy cái mênh mông của biển cả với sóng, để

biến thành môi trường suy tư, để thi vị hóa những khát vọng của tình yêu. Tình yêu là

một đề tài quen thuộc nhưng đến với thơ Hữu Thỉnh, người đọc cảm nhận được sự

rung động mới mẻ, rất riêng. Không trẻ trung, sôi nổi, ồn ào mà nhà thơ nhận ra sự

chông chênh, trống vắng của lòng mình và đưa ra triết lí tình yêu của riêng mình:

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.

Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Dù sóng đã làm anh

Nghiêng ngả

Vì em.

(Thơ viết ở biển)

26

Với Hữu Thỉnh, "biển" và "cánh buồm" - thiên nhiên, vũ trụ và con người như

một thể thống nhất không thể tách rời. Cái tài của nhà thơ là dùng ngoại cảnh để khắc

hoạ thật sâu tâm trạng mình. Lời thơ giản dị mà tinh tế gợi nhiều liên tưởng sâu xa

trong lòng người đọc. Tình yêu trong thơ của Hữu Thỉnh trước đây mới chỉ là những

ý nghĩ thấp thoáng trong dòng hồi tưởng của người lính về quê hương trước giờ xuất

kích thì đến giờ nhà thơ đã có những bài thơ tình trọn vẹn có sức lay động lòng người

ở sự đa sầu, đa cảm của người từng trải. Thơ Hữu Thỉnh tiêu biểu cho một hướng đi

nhiều triển vọng, giàu sức sống như một mạch nguồn không cạn giữa một nền thơ

thời kì đổi mới.

Trước đây khi viết về chiến tranh, cảm hứng chủ đạo trong thơ Hữu Thỉnh là

cảm hứng sử thi, đề cao cái cao cả, hướng tới Tổ quốc trong niềm say mê khẳng định

một lẽ sống lớn, một tình yêu lớn thì khi viết viết cuộc sống thời bình ông lại tìm đến

cảm hứng thế sự, hướng tới đời tư với nhiều nỗi buồn, cô đơn trước sự đổi thay, trước

số phận con người mà ở đó chưa thể tìm thấy được sự đồng cảm. Nhà thơ thường

phản ánh cuộc sống đời thường, nhìn nhận về tình đời, lẽ sống và thân phận cá nhân

trong cõi nhân gian đôi lúc tìm về nương tựa vào những giá trị truyền thống. Hàng

loạt các bài thơ: Hạnh phúc, Tự thú, Nghe tiếng cuốc kêu, Tìm người, Một thoáng làm

người, Năm tháng trên vai…đã thể hiện rõ hiện thực đời thường với biết bao trăn trở,

suy tư, tự vấn về nhân tình thế thái và về bản thân.

Như vậy, sáng tác của Hữu Thỉnh từ kháng chiến đến thời kì đổi mới về văn

học đã cho thấy sự chuyển biến trong hồn thơ: từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế

sự hướng về đời thường. Trong thời kì chiến tranh, nhà thơ từng viết xúc động về tinh

thần chiến đấu và đức hi sinh của dân tộc Việt Nam. Khi hòa bình lập lại, vận mệnh

của đất nước vẫn được nhà thơ phản ánh đồng thời với đó là những trăn trở, lo âu

khắc khoải trước cuộc đời. Thơ Hữu Thỉnh có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện

đại, giữa chiều sâu triết lí với cảm xúc mãnh liệt sục sôi. Hữu Thỉnh - một trong

những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca chống Mỹ đã khẳng định được bản lĩnh sáng

tạo và vị trí của mình trong nền thơ ca đương đại Việt Nam.

27

Chương 2

BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI

TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH

2.1. Bức tranh hiện thực đời sống trong sáng tác của Hữu Thỉnh

Văn học là một tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống. Qua tác phẩm văn

học, người tiếp nhận có thể thấy được những khía cạnh khác nhau của đời sống xã

hội. Không nằm ngoài quy luật đó, thơ là sản phẩm của tưởng tượng nhưng sự tưởng

tượng trong thơ bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực. Người sáng tác bao giờ cũng

thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhưng

khác với văn xuôi, thơ phần nhiều thuộc thể loại trữ tình, trong đó thế giới nội tâm

với những sắc thái tình cảm của con người được bộc lộ trực tiếp và trở thành nội dung

chủ yếu trong thơ. Theo cách thức riêng, thơ phản ánh hiện thực đời sống thông qua

những biến cố, sự kiện thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống. Vì vậy,

nhà phê bình văn học Nga V. Bielinxki đã viết: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó

mới là nghệ thuật”. Dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn cuộc đời và

nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết, họ phải là người cảm nhận

cuộc sống tinh tế, mãnh liệt nhất. Bielinxki đã cho rằng: “Bất cứ thi sĩ nào cũng

không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình, và chỉ miêu tả mình- dù là miêu tả

những nỗi đau khổ của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào,

sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu

thẳm của lịch sử xã hội; bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và

của nhân loại”.

Trong sáng tác văn chương, người cầm bút không phải đưa vào tác phẩm mọi

vấn đề của hiện thực mà chọn cho mình một cách nhìn riêng, tạo ra giá trị nhất định

khi phản ánh hiện thực. Quan niệm về hiện thực như thế nào tùy thuộc vào cách suy

nghĩ, nhìn nhận, cách cảm của người sáng tác. Bởi “văn học phản ánh thực tại không

phải là sao chép giản đơn các sự thực mà là nắm bắt các ý nghĩa giá trị của thực tại

bằng những hình tượng sáng tạo trong tác phẩm. Ý nghĩa và giá trị của các hiện

tượng thực tại tản mạn, không nổi bật. Tác phẩm nghệ thuật là một thế giới đặc thù

được sáng tạo ra nhằm làm cho các ý nghĩa và giá trị cuộc sống trở nên tập trung, nổi

bật. Do đó, các hiện tượng trong tác phẩm mang một nội dung ý nghĩa khác so với thực

tại.” [42, tr.17]. Đây là một đặc điểm chung mà bất kì người cầm bút nào cũng phải tuân

thủ khi phản ánh hiện thực nếu muốn sáng tạo ra một tác phẩm có giá trị.

28

Trong những năm chống Mỹ, cả dân tộc dồn sức vào công cuộc đấu tranh giữ

nước. Do đó, văn học phải đặt nhiệm vụ chính trị lên hàng đầu. Người cầm bút phải

sáng tác ra những tác phẩm cổ vũ tinh thần chiến đấu và xây dựng một niềm tin mãnh

liệt vào thắng lợi ở tương lai. Hiện thực tàn khốc của chiến tranh qua cái nhìn lãng

mạn và ngòi bút có phần thi vị hóa, lí tưởng hóa. Cuộc sống hiện lên trang viết không

như nó vốn có mà như nó cần phải có trong niềm tin, ước mơ và khát vọng cháy bỏng

của mọi người. Khi đất nước sạch bóng quân thù, hoàn cảnh đổi thay, quan niệm

nghệ thuật về con người cũng có sự biến chuyển. Văn học không thể giữ nguyên quan

niệm của thời chiến mà phải đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước thời bình.

Các nhà văn phải đi sâu vào mọi ngóc ngách của hiện thực để nhận biết và phản ánh

một cách chân thực. Người viết không thể chỉ nói đến những điều tốt đẹp mà bỏ qua

những cái xấu xa. Nếu không nhìn nhận những mặt trái của xã hội thì con người rất dễ

bằng lòng với thực tại. Điều này sẽ làm cho đất nước ngày càng trì trệ hơn. Do đó, các

văn nghệ sĩ cần phải thay đổi tư duy và quan niệm sáng tác cho phù hợp với nhu cầu

của thời đại. Theo đó, bức tranh hiện thực trong sáng tác của Hữu Thỉnh ở mỗi chặng

đường xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước cũng mang màu sắc riêng.

2.1.1. Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mỹ

Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những nhiệm vụ

hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Đó không chỉ là đòi hỏi của

thời đại mà còn là sự thôi thúc bên trong của chính các nhà thơ. Sự phản ánh phải

nhanh nhạy và kịp thời, có tính thời sự, phải thể hiện được tinh thần chiến đấu của

toàn dân tộc. Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau

trên những mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ

nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam. Không gian sáng tạo của thơ

thời kì này thật đa dạng, phong phú, nhờ thế đã tạo ra một chân trời rộng mở cho sự

sáng tạo của thi ca nói riêng, văn học nói chung. Nhưng tìm và xác định cho mình

một cách nhìn riêng thì không phải dễ dàng. Xuất hiện trong chặng cuối cùng của

phong trào thơ trẻ chống Mỹ, trước một đội ngũ các nhà thơ tài năng và nổi tiếng,

Hữu Thỉnh đứng trước một thách thức lớn. Hoặc là thơ được thừa nhận hoặc là sẽ bị

rơi vào quên lãng. Điều đáng nói là bằng tài năng tâm huyết của mình, nhà thơ không

những vượt qua thử thách này mà còn tạo ra những vần thơ có sức sống bền bỉ với

thời gian. Điểm lại những sáng tác của Hữu Thỉnh, chúng ta nhận thấy rằng ông thực

sự là một tài năng văn học. Đó là kết quả của quá trình “nhập cuộc, dấn thân” sâu sắc

vào đời sống, không ngừng mài giũa tài năng và lao động sáng tạo.

29

Vậy, Hữu Thỉnh đã khai thác và tiếp cận hiện thực đời sống bằng cách nào?

Nhà thơ có cách riêng trong việc tiếp cận hiện thực và bày tỏ cảm xúc của mình. Thơ Hữu Thỉnh nghiêng về suy tư, triết lí. Đó là lý do khiến thơ Hữu Thỉnh mang cái nhìn

chiêm nghiệm về cuộc đời. Mặt khác, do từng trải qua cuộc chiến tranh gian khổ, ác

liệt nên thơ Hữu Thỉnh là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống, là sự ngân vọng của

những kỷ niệm sâu sắc về một thời đạn bom.

Sinh trưởng trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nhà thơ đã dấn thân vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc với tư cách là người lính trực tiếp cầm súng chiến

đấu. Thực tế sinh động nơi chiến trường cùng với cảm quan nghệ thuật của mình, Hữu Thỉnh đã để lại những dòng thơ về hiện thực cuộc sống khá thành công. Hồn thơ

Hữu Thỉnh thường tìm đến với những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, nhân dân, về

thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ. Ông từng viết “chúng tôi làm thơ để

ghi lấy cuộc đời mình”. Khi đọc thơ của ông, ta thấy được quan điểm của một nhà

chiến sĩ làm thơ trong thời kì đó là để ghi lại cuộc đời chiến đấu của mình cũng chính

là của dân tộc. Hữu Thỉnh cho rằng: Chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất. Ở

đó lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa là

niềm say mê của mỗi chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử

thách lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu, sống hết mình

trong thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm bút trung thực. Thơ thế

hệ chống Mỹ là tiếng nói sống động và tự tin của những người trong cuộc. Người ta

bắt gặp khá nhiều sự nhân danh nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông

của người đọc vì nó được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được

đảm bảo bằng máu” [18, tr.417]. Với góc nhìn của người lính về chiến tranh ông đã

ghi nhận và phản ánh chân thực cuộc sống khốc liệt chiến trường bằng những vần thơ

giàu nhiệt huyết với những thanh âm sôi nổi, trẻ trung, xông xáo. Trang thơ của Hữu Thỉnh đã ghi lại vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ chân thực về hiện thực những năm

tháng chống Mỹ. Người chiến sĩ ấy vừa trực tiếp cầm súng tham gia chiến đấu lại vừa cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời mình:

Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng Còn mang thuốc Còn mang nhau Mang bao nhiêu tai biến dọc đường.

(Đường tới thành phố)

Những câu thơ trên đã minh chứng rất rõ cho quan niệm làm thơ của Hữu

Thỉnh. Đọc thơ Hữu Thỉnh, người đọc dễ dàng nhận thấy thơ ông là tấm gương phản

30

ánh hiện thực đời sống mà ở đó nhà thơ đóng vai trò như một họa sĩ quan sát để vẽ

bức tranh cuộc sống nhưng không phải bằng màu sắc mà bằng ngôn từ. Hữu Thỉnh đã chuyển “sự sống chung thành nỗi niềm riêng của chính mình”. Qua thơ Hữu Thỉnh,

hiện thực cuộc chiến tranh đã hiện lên thật cụ thể và chân thật nhất. Nhà thơ không

phải là người đứng ngoài tưởng tượng về chiến tranh mà thực sự sống giữa chiến

trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến chính là chiếc nôi nuôi dưỡng hồn thơ Hữu Thỉnh, cho nhà thơ những cảm nhận nghệ thuật phong phú để làm nên những hình ảnh thơ đa dạng, trong sáng, đậm màu sắc dân gian. Ông tự thấy “Lòng tôi mắc nợ

chiến khu một đời”. Chính cái nôi khắc nghiệt ấy đã in đậm trong tâm trí nhà thơ để những năm sau này Hữu Thỉnh vẫn còn mang những hồi ức về cuộc chiến: Tiếng hát

trong rừng, Giấc ngủ trên đường ra trận,…

Cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt cho nên là người trực tiếp cầm

súng, Hữu Thỉnh có điều kiện thấm thía ý nghĩa của thơ ca đối với cuộc đời, nhất là

thơ ca trong kháng chiến. Với Hữu Thỉnh, thơ như ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn người

lính trên những chặng đường hành quân đánh giặc:

Chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy

Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa

(Đường tới thành phố)

Trong chiến tranh, hoàn cảnh đôi khi bắt họ phải lựa chọn giữa đạn và sách,

người lính đã chọn đạn. Nhưng như thế không có nghĩa là họ đoạn tuyệt với sách vở,

thi ca “Không có sách chúng tôi làm ra sách”. Không thể mang theo sách, họ tự làm

ra sách riêng của mình bằng cách:

Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường

Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt.

(Đường tới thành phố)

Chính thơ ca đã giúp người lính quên đi những khó khăn, nhọc nhằn, vất vả

của cuộc chiến. Người lính và thơ đã hòa làm một. Họ viết về mình, về những đồng đội của mình, về một thời điểm lịch sử oanh liệt của dân tộc để thấy tự hào về sự có mặt của mình trong dòng chảy lịch sử đó. Hữu Thỉnh luôn cho rằng thơ có được là do “nhập cuộc, dấn thân, chắt lọc kinh nghiệm”. Vì vậy người đọc dễ nhận thấy thơ ông “ngồn ngộn cuộc sống”. Làm thơ là cách tốt nhất để Hữu Thỉnh ghi lại những hình ảnh, những màu sắc, những thanh âm đa dạng của cuộc đời.

Trong cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi những đau thương, mất mát. Sự

hi sinh của người lính ở thời khắc lịch sử nào cũng oanh liệt bởi mục đích cao cả vì

từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Ở mỗi thời điểm lịch sử, với điều kiện, tính

31

chất của cuộc chiến tranh và nhận thức của cộng đồng lại đem tới một sắc thái khác

nhau. Trong Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác của Đặng Trần Côn, diễn Nôm Đoàn Thị Điểm), là sự thê lương dưới cái nhìn phản chiến của người chinh phụ: “Hồn tử sĩ

gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.” Nếu như với văn chương trung đại, cái

chết của người chinh phu còn mang màu sắc ước lệ, tượng trưng thì đến với thơ

chống Pháp, đó là những hình ảnh, cảm xúc chân thực. Chân thực từ tình huống đến cách khâm niệm, chôn cất người chiến binh:

Ở đây không gỗ ván

Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán

(Hoàng Lộc - Viếng bạn)

Bước sang thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tính chất, quy mô của

cuộc chiến lại trở nên khốc liệt hơn rất nhiều. Sự hi sinh quả cảm không thể chỉ đơn

giản bằng sự xả thân với tấm thân chèn pháo hay lấy thân mình lấp lỗ châu mai,…

Ngược lại, đó là những sự hi sinh, tổn thất nhiều hơn. Đến với thơ Hữu Thỉnh, hình

ảnh những người lính hi sinh trong lửa đạn được khái quát hóa bằng hình tượng

người anh, người đồng chí vừa gần gũi vừa thiêng liêng:

Biển ùa ra xoắn lấy mọi người

Vì yêu biển mà họ thành sơ hở

Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ

Mặt anh còn cách nước một vài gang.

(Phan Thiết có anh tôi)

Đây là lời tâm tình của nhà thơ gửi đến người anh ruột, người lính đã ngã

xuống cho sự bình yên của Tổ quốc. Nhà thơ khóc người anh đã nằm xuống cũng là

khóc cho biết bao nhiêu liệt sĩ đã anh dũng hi sinh. Sự hi sinh ở thời điểm này dưới

cái nhìn của những người cầm bút trẻ tuổi mang một sắc thái mới. Nó không đơn giản

như việc kể lại một tình huống hi sinh mà được nâng lên tầm khái quát. Những thời

khắc hi sinh như được “đóng băng” với thực tại lịch sử, đó là lúc nghiệt ngã nhất:

Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya

Những người lính mở đường đi lấy nước

Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp

Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi.

(Phan Thiết có anh tôi)

32

Họ mất khi vẫn đang cháy bỏng khát khao, đang trong tư thế vươn tới, những

cái chết đến như tia chớp lóe của lửa đạn thời chiến tranh hiện đại, sự dũng cảm xả thân mình đều nhanh gấp bằng từng ý nghĩ.

Nhắc đến những hi sinh cũng không thể không hướng tới một điểm nhìn, đó là

sự thiếu vắng bóng dáng những người chồng trong cõi lòng của người vợ thủy chung

nơi quê nhà. Điều đó như một sự cảm thông, chia sẻ, một nỗi đau không phải để giày vò mà luôn lắng đọng như sự chiêm nghiệm qua thời gian:

Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra

Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch.

(Đường tới thành phố)

Sự hi sinh mất mát trong thơ góp phần tôn thêm tầm vóc người chiến sĩ với

muôn đời. Đối với Hữu Thỉnh, “thơ là kinh nghiệm sống được chắt lọc”. Ông cho

rằng để làm nên những vần thơ hay chính là “kinh nghiệm sống”, điều quyết định là

ở khả năng biến những kinh nghiệm đời sống thành thơ. Có thể thấy Hữu Thỉnh luôn

thể hiện mình là người trong cuộc khi viết về chiến tranh nên vần thơ của ông đã thể

hiện đầy đủ những trải nghiệm của cuộc sống, chiến đấu.

Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ mở rộng từ Bắc vào Nam cũng là lúc Hữu

Thỉnh cùng nhiều nhà thơ trẻ khoác ba lô nhập cuộc. Sống giữa chiến trường nên Hữu

Thỉnh cũng như các nhà thơ trẻ lúc bấy giờ tận mắt chững kiến những cảnh tượng dữ

dội, ác liệt của chiến tranh, những ngổn ngang, bề bộn của chiến trường. Nhà thơ đã

miêu tả chiến tranh với cái nhìn trực tiếp từ trong chiến hào. Chiến tranh gắn liền với

căn bệnh sốt rét rừng cũng được nhà thơ khẳng định, nhưng con người lạc quan quên

đi những thiếu thốn, bệnh tật của mình để hát với tâm hồn trẻ trung, sôi nổi và tràn đầy tình yêu thương: “Người sốt rét hát cho người sốt rét”. Những cảnh mưa bão,

thiên nhiên khắc nghiệt cũng là một trong những thử thách của cuộc chiến đấu:

Mưa bão liên miên, giặc giã cũng liên miên ta nhạy cảm với trái tim chiến sĩ cuộc chiến đấu nên thơ mà cũng khe khắt thế để sống một nghìn năm, ta gắng vượt một ngày (Đêm chuẩn bị)

Trong bài thơ Ý nghĩ không vần của Hữu Thỉnh, người đọc cảm động trước

những ý nghĩ về cuộc chiến đấu không hề đơn giản mà chứa đựng đầy khó khăn,

gian khổ:

33

Anh viết cho em những ý nghĩ không vần

đường Trường Sơn khúc khuỷu xích xe tăng quay không êm ả chút nào

chúng nó đang nhắm bắn anh và đồng đội

em thấy không ?

Nếu như Phạm Tiến Duật nhìn con đường ra trận đẹp, đầy chất lãng mạn: “Ðường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây” thì Hữu Thỉnh lại thấy một hiện thực “khúc khuỷu”, “không êm ả chút nào” của con đường ra

trận. Đọc những vần thơ thời chống Mỹ, ta thấy ngay sự vững vàng trong suy tưởng của nhà thơ. Cái hùng là cái thích hợp hơn cả với không khí chiến trận của thời ấy.

Bởi, thực tế chiến đấu thật khắc nghiệt:

Trên tháp pháo xe tăng

những ý nghĩ cứ xóc nảy lên và chắp vá

núi chạy đến gần lại mỏng manh như sương

trăng thân mật lại mập mờ xa lạ

nhưng con đường chỉ một con đường thôi

(Ý nghĩ không vần)

Hữu Thỉnh đã diễn tả được “Ý nghĩ hằn lên theo vết xích”, một người chiến sĩ

ra mặt trận mọi ý nghĩ đều gắn với nhiệm vụ của mình. Có những lúc người đọc cảm

phục hơn bởi ý nghĩ: “Chúng tôi bơi trong thương nhớ của riêng mình”. Sự sống là

cái chung nhà thơ là người biết chuyển sự sống chung thành nỗi niềm riêng của chính

mình. Không những vậy, nhà thơ còn nhìn nhận được sức mạnh của dân tộc trong sự

gắn bó keo sơn giữa tiền tuyến và hậu phương:

Chiến dịch mở ra thời vụ bắt đầu

Mang cái rét giêng hai đi đánh giặc Mang chất thép định hình trên bàn cát

Qua những cánh dồngđang sủi tăm phù sa Ta chao chân trên những mảnh bờ Lặng lẽ nhận sức bần của đất Đạp cứ điểm Lần theo từng dấu dép Ta nhận ra màu bùn qua những cánh đồng chiêm.

(Sức bền của đất)

Hiện thực cuộc sống trong chiến tranh gắn liền với những cuộc hành quân

không nghỉ. Những con đường hành quân là những chặng đường đầy gian khổ, lý trí

34

đã thôi thúc bước chân của người lính, họ đi với một niềm tin và chiến trường đang

gọi. Một cách nói thật lạ trong thơ Hữu Thỉnh, người lính không phải đi bằng chân mà “đi bằng đầu” hé mở cho ta biết gian nan không thể kể hết mà cũng quyết tâm

đến tột bậc:

Một tháng và hành quân

Hai chân phồng dộp cả Quấn băng vẫn còn đau Nhiều lúc đi bằng đầu

(Mùa xuân đi đón) Thơ Hữu Thỉnh luôn biểu hiện một cách tự nhiên về cuộc sống, điều này đã

tạo nên sức sống cho hồn thơ của ông. Thơ ông luôn thể hiện rõ hiện thực cuộc sống

và chiến đấu của dân tộc. Bằng những vần thơ của mình, Hữu Thỉnh đã thay mặt biết

bao người con của Việt Nam phản ánh thời điểm lịch sử đầy gian nan mà cũng vô

cùng vẻ vang của đất nước.

2.1.2. Hiện thực cuộc sống sau kháng chiến đến nay

Thời kì sau chiến tranh, bối cảnh xã hội thay đổi, quan niệm sáng tạo của nhà

thơ đã có những chuyển biến sâu sắc: thay vì quan niệm thơ như một hoạt động tuyên

truyền chính trị, giờ đây thơ được nhấn mạnh, đề cao trước hết với tư cách là một

hoạt động sáng tạo - nhận thức; thơ không được phép quay lưng trước những vấn đề

nóng bỏng của hiện thực đời sống, thơ phải gắn liền với thời đại và thời cuộc, thơ

phải là tiếng nói trách nhiệm và ý thức xã hội tỉnh táo, trung thực của nghệ sỹ. Thơ có

thể bàn về nhiều vấn đề đa dạng của hiện thực song cách thể hiện phải giàu tính tư

tưởng, hướng thơ trở về với đời thường, với số phận cá nhân, đào sâu vào tiếng nói

nội tâm, đi sâu phân tích, lý giải thế giới cảm xúc, tâm linh sâu kín bí ẩn. Nếu trước

đây, điều quan tâm lớn nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ chống Mỹ nói chung là tâm niệm “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng sau, cái

nhìn của nhà thơ mang tính hướng nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những lo âu khắc khoải, những bể dâu cuộc đời được nói đến một cách rõ ràng qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn của chúng tôi mà là cái nhìn của “chính tôi”. Cái tôi vì thế trở nên đa diện mà mặt trội của nó là những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện lên trong quầng sáng sử thi mà là hiện lên trong chính cuộc sống nhiều chiều thường ngày.

Hữu Thỉnh viết dưới góc nhìn của con người đi qua những năm tháng chiến

tranh giờ có thời gian nhìn nhận và đánh giá về chính hiện thực cuộc chiến một cách

toàn diện hơn. Thơ ông vẫn cất lên tiếng nói của thời đại như thơ ca trước 1975

35

nhưng đã có những “độ chênh” nhất định về giọng điệu, về cách suy cảm tạo nên

dáng vẻ mới cho ngôn ngữ thi ca. Trải qua chiến thắng và chứng kiến những mất mát, ông ý thức được nỗi đau của đất nước, con người. Hữu Thỉnh đã gửi vào trong thơ

những suy tư, trăn trở về thân phận, buồn đau khi phải chứng kiến những cảnh ngang

trái ở đời và nhiều khi cả nỗi cô đơn, thất vọng về cuộc đời, về con người, khắc khoải

lo âu trước sự “mất mùa nhân nghĩa” như Bóng mát, Nghẹn,…Nhà thơ đã cảm nhận được lẽ sống của cuộc đời không hề đơn giản, dễ dàng:

Đời chẳng dễ dàng đâu

Sau bao nhiêu lời chúc Ta chẳng dễ dàng đâu

Sau bao người đi trước

(Trường ca biển)

Đọc thơ Hữu Thỉnh ta quan tâm trước hết đến những gì nhà thơ muốn phản

ánh. Có hai mảng thật sâu đậm trong thơ Hữu Thỉnh: Đất nước, nhân dân, cuộc

chiến,... trải nghiệm ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và thế sự, nhân tình thế thái,...

chiêm nghiệm ở thời kỳ đổi mới, như hai mặt thống nhất trong sáng tác của nhà thơ,

như thể nếu không có sự trải nghiệm này, thì cũng chắc gì đã có sự chiêm nghiệm kia.

Trong hai mặt đó, mặt thì lắng sâu, mặt thì ám ảnh.

Như bất cứ một nhà thơ nào khác, sống và sáng tác trong một thời điểm đất

nước đã được giải phóng, Hữu Thỉnh cũng đặc biệt nhạy cảm với những vấn đề liên

quan đến hiện thực cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng cho dù hòa bình, vẫn cần có

những người hi sinh thầm lặng vì đất nước, vẫn cần những con người cống hiến cho

đất nước. Đề tài về đất nước, về người lính vẫn được nhà thơ tiếp tục sáng tác. Đất

nước trong thơ Hữu Thỉnh không phải là những khái niệm mà là những gì rất cụ thể,

cạnh sát con người, như trời ở trên đầu, đất ở dưới chân, giản dị như đôi khi chỉ là bãi "cát non" ẩn dụ dưới bàn chân người lính:

- Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình Đảo có lính cát non thành Tổ quốc - Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc - Bóng chúng tôi che lên Đất Nước (Trường ca biển)

Bên cạnh hiện thực chiến tranh, Hữu Thỉnh đem đến trong thơ mình một bức

tranh hiện thực khác, cũng hết sức sâu sắc. Đó là hiện thực cuộc sống sau chiến tranh

và nhất là hiện thực cuộc sống sau những năm đổi mới đất nước. Có rất những suy tư,

trăn trở, những vỡ nhẽ,... bất ngờ như chính cuộc sống, như chính "cõi nhân gian ",

36

như chính thế giới nội tâm của con người... đã được nhà thơ ghi lại sau những "cặn

lắng", những va đập của cuộc đời, với những số phận của con người "đa đoan, chìm nổi". Có thể có cái phiền muộn, xót xa hiện lên từ năm tháng, từ thân phận bất hạnh

của con người. Sau khi chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, với một dân tộc vừa trải

qua mấy chục năm bom đạn, chiến tranh ác liệt đã quen, vì thế, chiến tranh không có

gì đáng sợ, nhưng nỗi đau nhân tình thế thái thì không quen và ám ảnh vô tận:

Trời đang chớp gió trên đầu Nụ cười ẩn giữa binh đao, nói gì?

(Trước tượng Bayon)

Tôi nép dưới mái hiên

Cố tin rằng hôm nay không còn ai bất hạnh

(Thơ dưới mái hiên)

Trước thực tại cuộc sống, con người vẫn trăn trở, khao khát đi tìm hạnh phúc.

Nhưng, ngay dưới mái hiên nhà mình, Hữu Thỉnh xót xa nhận ra niềm suy tư, trăn trở

của những người thân yêu:

Mẹ tôi hát nghìn câu có câu chưa hát

Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp

Hạnh phúc

Cây rơm vẫn mơ thành đám mây vàng

(Hạnh phúc)

Khi đất nước được hòa bình, chúng ta vẫn phải trải qua những năm tháng khó

khăn chưa từng thấy. Sự gồng mình của một dân tộc trong chiến tranh đã đem lại

chiến thắng vẻ vang, tưởng chừng ta được thảnh thơi, tự do, sung sướng nhưng cái

giá phải trả do chiến tranh gây nên rất lớn: kinh tế suy kiệt, nghèo nàn, lạc hậu, kéo

theo những nổi chìm của nhân tình thế thái, tác động đến mọi người, mọi nơi. Hữu Thỉnh đã trăn trở, muốn tìm ra lẽ sống cho cuộc đời:

Tôi như cây biết giấu lá vào đâu Trong gió bụi cõi người Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát Bóng mát mà không che nổi chính tôi. (Bóng mát)

Hữu Thỉnh là người hay suy tư, trăn trở, luôn linh cảm được rất sớm điều có

thể đến. Những gì khả dĩ giấu được phần nào trong chiến tranh, có lá rừng che, lại rất

có thể bị phơi bày trước một tình thế khắc nghiệt mới. Như cái cây vô tri vô cảm kia,

mới "một thoáng làm người", đã buộc phải "đòi bóng lại" chỉ vì: “Bão trời ta coi

37

khinh/ Bão người không chịu nổi” (Một thoáng làm người). “Bão người” ở đây là

nhân tình thế thái.

Cũng như bao trí thức và văn nghệ sĩ khác, khi cuộc sống bước sang thời kỳ

đổi mới, Hữu Thỉnh đã nhận thức thêm, đôi khi phải nhận thức lại những giá trị đời

sống. Những bài thơ Hữu Thỉnh viết từ cuối những năm 80 thế kỷ XX cho đến mấy

năm đầu thế kỷ XXI, in trong tập Thương lượng với thời gian, phản ánh khá rõ điều đó. Nhà thơ có nhận thức sâu sắc về đời sống hiện tại: Sang thế kỷ với con tàu quá rộng

Hoa hồng sang, gai nhọn cũng sang …Thương cảm, phản thùng, khoan dung, thớ lợ

Vé trên tay thanh thản bước lên tàu.

(Sang thế kỷ)

Lúc này nhân loại chuẩn bị lên tàu để tiến sang thế kỷ mới. Nhà thơ đã dùng biểu tượng “con tàu” với ý nghĩa khái quát rất rộng. Thế kỷ XX đã bàn giao cho thế kỷ XXI cả hoa hồng và gai nhọn. Hành trang của đoàn tàu này có đủ cả tốt, xấu, cao

cả và thấp hèn, người khoan dung và kẻ phản thùng, thớ lợ,... Tất cả đều có vé lên

tàu, đều được chuyển giao sang thế kỷ. Viết lên điều đó nhà thơ muốn nhắn gửi một

điều: Sang thế kỷ mới, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến đời sống văn hóa tinh

thần của con người, không được để nền văn minh vật chất xua đuổi những vẻ đẹp

vĩnh hằng của tạo hóa, của tâm hồn con người.

Nhà thơ đau đớn nhận ra mặt trái của xã hội, nhận ra giữa thực tế và lí tưởng

một thời là khoảng cách xa tắp đến mù mịt, khát vọng về sự tốt đẹp, con người sống

lương thiện không ngăn nổi nghịch lí trớ trêu, giữa cái thiện cái đẹp thì cái ác cái xấu

vẫn đang tồn tại. Không những vậy nếu không giữ được mình cũng có thể trong cuộc

sống con người bị nhiễm phải cái xấu:

Vừa trong mơ cùng tôi

Cây ra đường đã bụi Vừa dạt dào cùng tôi Biển đã thành sương khói. (Vừa trong mơ cùng tôi)

Nhà thơ đi trên đường đời vẫn luôn day dứt, luôn hướng tới phẩm giá con người, về một hạnh phúc thực sự không hề tô vẽ. Đây chính là tiến trình thơ Hữu

Thỉnh vươn tới hiện thực, nói đúng bản chất cuộc sống và có ích cho đời sống. Trong

guồng quay của cuộc sống mưu sinh, tâm hồn con người cũng bộc lộ nhiều chiều sâu

mới. Nhà văn có thể mô tả rất nhiều nhân vật qua cá tính và số phận của các nhân vật

38

ấy. Còn nhà thơ chỉ mô tả tâm hồn mình để người đọc thấy được cuộc sống xã hội. Vì

vậy, cái tôi của Hữu Thỉnh mới dằn vặt cũng như biết bao các nhà thơ hiện đại. Nhà thơ đã thể hiện rõ những những trăn trở trước cuộc sống hiện tại. Cái guồng quay của

cuộc sống khiến con người phải trải qua biết bao lo toan để tồn tại:

Buổi sáng lo kiếm sống

Buổi chiều tìm công danh Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa Tỉnh thức

Những hàng cây bật khóc (Thương lượng với thời gian)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ cũng giống biết bao nhiêu người ở cuộc sống

đã tỉnh thức, giật mình sau những ngày lo kiếm sống, tìm công danh, tiền bạc. Thông

qua những vần thơ của mình, nhà thơ luôn muốn truy tìm ý nghĩa, bản chất của đời

sống và các vấn đề nhân sinh thế sự để rút ra triết lí về cuộc sống.

Công cuộc đổi mới đất nước đã làm cho cuộc sống khởi sắc hơn, mặt khác,

con người dường như sống với nhau lạnh lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân

trong xã hội lỏng lẻo hơn. Bối cảnh lịch sử và văn hóa mới có cả mặt phải và mặt trái

của nó khiến nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc nhà thơ phải

thích ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Ý thức nhìn cuộc

đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng

về đời sống. Hữu Thỉnh đã sẵn sàng chỉ ra hiện thực cuộc sống thời hậu chiến khi

niềm vui chiến thắng đã lắng lại, hiện thực đất nước khó khăn lại đặt ra những nghiệt

ngã. Thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào những ưu tư, nhận thức mới về thời cuộc:

Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc

Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế

…Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế (Nghe tiếng cuốc kêu)

Nhà thơ đau đớn nhận ra có những mảng đen sau màu hồng, có những điều xấu trong xã hội vẫn tồn tại như một sự hiển nhiên, đau đớn về cách ứng xử lật lọng

tráo trở của con người với nhau trong xã hội. Nhà thơ đã băn khoăn về lòng thương

người, về tình người trong cuộc sống liệu có bền vững: Có gì bền? Nhân nghĩa có

còn đây?(Nghẹn).

39

Đồng thời với đó là nhà thơ nhận ra những đổi thay, sự hiện hình của những

bụi bặm, thớ lợ, những mặt trái của cuộc sống:

Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ

Cười súng sính

Trong bộ cánh thớ lợ

Xe máy rú rồ dại Chậu cảnh biến thành vật lót tay Hè phố bị hắt nước loang lổ

Càng cố chứng minh là kẻ vô can Càng thú nhận là nạn nhân kế tiếp

Luật nhân quả

Ngủ gật trên bậc cửa

(Bất hạnh)

Lời thơ đã thể hiện bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tế và lý tưởng

một thời là một khoảng cách xa tắp đến mù mịt; khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện

không ngăn nổi cái nghịch lý, trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành. Đọc những câu thơ

trên, mỗi con người chúng ta cũng cảm nhận được mặt trái của xã hội hiện đại, dường

như nhiều cái tốt đẹp đã bị đảo lộn. Đây cũng chính là những trăn trở chung của con

người khi mong muốn tìm được lẽ sống đích thực.

Sau năm 1986, các nhà thơ nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn

giấu”, họ đã dám phơi bày những hoài nghi, đau thương, mất mát trong cuộc

sống. Hữu Thỉnh cũng bộc lộ ngay cả góc khuất của tâm hồn, đào sâu, lí giải,

trăn trở của cái tôi. Trong đó còn có cả quá trình nhà thơ tự làm thanh khiết tâm

hồn mình. Cảm nhận được sự thay đổi của cuộc sống, Hữu Thỉnh luôn đi tìm cõi

thiện trong con người:

Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc

Mây vừa đi vừa ngoái lại trông người (Ngẫu cảm)

Trong nhiều bài thơ khác, ta cũng thấy những triết lí hướng thiện này. Nó trở thành bình phong che chở con người trước sự cô đơn, đau buồn của cuộc đời. Vì lẽ đó, thơ Hữu Thỉnh, dù chất chứa tâm trạng buồn nhưng vẫn không lạnh lẽo, mà vẫn toát lên vẻ hồn hậu của một tâm hồn luôn biết gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của cuộc sống:

Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình

Dưới đáy cốc của hy vọng

(Cặn lắng)

40

Có lẽ đó là chỗ con người cần đến thơ nhất, con người cần sự bao dung trong những lầm lạc, rất nhiều lầm lạc, và thơ, với tư cách là "lời của trái tim" thường tìm ra lối đi của mình. Trong cuộc sống ấy, tác giả lại càng ý thức về phẩm giá, về cách sống của con người:

Tôi hỏi đất: - Đất sống với đất như thế nào? - Chúng tôi tôn cao nhau Tôi hỏi nước: - Nước sống với nước như thế nào? - Chúng tôi làm đầy nhau Tôi hỏi cỏ: - Cỏ sống với cỏ như thế nào? - Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào? (Hỏi)

Các sự vật khách quan đều mang tính biểu tượng cho lối sống nương tựa, cùng nhau sinh tồn và phát triển, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” để “làm nên” những điều tốt đẹp. Nhưng có câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu mà tác giả không trả lời được. Đó là câu hỏi về người sống với người. Hơn bao giờ hết, ý nghĩa của câu hỏi này đặt ra vấn đề muôn thuở con người phải sống thế nào cho đúng. Qua đây, tác giả muốn nhắn nhủ mọi người về triết lí sống vượt ra khỏi chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, biết vị tha và biết sống vì người khác để cùng nhau tiến bộ, biết đoàn kết để cùng vươn tới những điều kì diệu trong cuộc sống.

Như vậy, thơ Hữu Thỉnh luôn hướng về hiện thực đời sống, mỗi bài thơ ông là một chiêm nghiệm, một suy tư về thế thái nhân tình. Có thể khẳng định thơ Hữu Thỉnh mang đậm những suy tư về cõi người. Những vần thơ của ông luôn ở trong trí nhớ của người yêu thơ đương thời, tham dự vào những vui buồn của họ. 2.2. Hình tượng con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh

Chúng ta đều biết “Văn học là nhân học”, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người chính là đối tượng chủ yếu trong sáng tác văn học. Dù có miêu tả về thần linh, ma quỷ hay đồ vật, con vật cũng đều thể hiện dụng ý của con người, thắp sáng lòng nhân ái, lối sống nhân văn trong bản thân một cá nhân. Con người là cầu nối giữa văn học nghệ thuật và cuộc sống. Vì thế nên con người trở thành đối tượng miêu tả chủ yếu để văn học có một điểm tựa nhìn ra thế giới bên ngoài.

41

Trong cuốn Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, Trần Đình Sử đưa ra khái

niệm quan niệm nghệ thuật về con người thật xác đáng: “Quan niệm nghệ thuật về

con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các

nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo

nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó” [42, tr. 55].

Từ đây, ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải,

cảm thụ của chủ thể. Chính sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm nhận về con người của người

sáng tác đã tạo nên giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ cho tác phẩm. Trong cuốn Từ

điển thuật ngữ văn học, thuật ngữ này được định nghĩa : "Quan niệm nghệ thuật về

con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm

trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù, phương pháp sáng tác, phong

cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ

thuật" [19, tr.275].

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan

niệm nghệ thuật về con người. Từ đó chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan

niệm nghệ thuật về con người như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu

là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn.

Quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ, gắn

liền với cái nhìn đầy tính phát hiện độc đáo của người nghệ sĩ.

Từ việc xem xét quan niệm nghệ thuật về con người, có thể khẳng định rằng:

chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh

cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của

con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật của tác giả về con

người. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan

trọng. Nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Hữu Thỉnh chính là

xem xét từ cách tư duy, cách cảm nhận và cắt nghĩa về con người trong thơ ông.

2.2.1. Hình tượng con người trong kháng chiến chống Mỹ

2.2.1.1. Hình tượng người lính

Bối cảnh lịch sử dân tộc ta ở giai đoạn 1945 - 1975 đã tạo cho nền văn học

một luồng sinh khí mới mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Trong bối

cảnh đó, hình tượng người lính đã trở thành một hình tượng trung tâm của thời đại.

Văn học nói chung và thơ ca nói riêng chủ yếu khám phá hình tượng người lính từ

phương diện xã hội, từ trách nhiệm của công dân đối với tổ quốc trong hoàn cảnh

chiến tranh.

42

Hiện thực đời sống chiến trường dù có ác liệt, tàn khốc đến đâu cũng chỉ là cái phông, cái nền để nổi lên chân dung những con người cầm súng chiến đấu. Nguyễn Bá Thành trong công trình nghiên cứu Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách mạng Việt Nam (1945- 1975) đã nhận xét: “Hình ảnh anh bộ đội là hình ảnh đặc trưng nhất của con người Việt Nam trong chiến đấu” [49, tr.73]. Khi tìm hiểu về đời sống tinh thần của những người lính thơ trong thơ ca giai đoạn này, tác giả đã khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong tâm trạng người chiến sĩ quân đội mà thơ ca thể hiện là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến đấu, là tinh thần chịu đựng gian khổ, hi sinh và quyết tâm đánh giặc đến cùng” [49, tr.73].

Hữu Thỉnh sống và sáng tác thơ với tư cách một người lính trong binh chủng xe tăng qua suốt cuộc chiến tranh. Chính vì vậy hình tượng người lính, tình cảm người lính là chủ đề xuyên suốt trong thơ Hữu Thỉnh, từ Trên một chiếc xe tăng hào hứng, từ niềm vui trong trẻo “Mùa xuân cho cỏ biếc/ Đi đón ta dọc đường” cho đến bài thơ xúc động cuối chiến tranh khóc người anh đã hi sinh Phan Thiết có anh tôi. Thơ Hữu Thỉnh luôn phơi bày một đời sống nội tâm phong phú, nhiều nghĩ suy và giàu sức cộng hưởng với người đọc. Thơ Hữu Thỉnh là một quá trình hoàn thiện chân dung tinh thần của người lính cũng như làm đầy đặn một phong cách thơ trong chiến tranh: “Chúng tôi đang đi để đạt tới chính mình” (Ngã ba Chân Vạc).

Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên với những vẻ đẹp quen thuộc của thơ ca chống Mỹ nhưng vẫn có những nét riêng độc đáo. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp hào hùng, tràn đầy khí phách, đẹp trong sự thống nhất của người lính:

Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Như năm bông hoa nở cùng một cội, Như năm ngón tay trên một bàn tay, Đã xung trận cả năm người như một (Trên một chiếc xe tăng)

Cùng viết người lính lái xe thời kì chống Mỹ, thơ Phạm Tiến Duật cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm của người lính. Hình ảnh người lính được khắc họa qua việc lái những chiếc xe không có kính với tư thế thật ung dung, bình tĩnh, tự tin, hiên ngang. Họ đã biến cái thiếu thốn đó trở thành một sự hưởng thụ, biến những khó khăn, thách thức thành gia vị hấp dẫn cho cuộc sống:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. (Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

43

Thơ ca thời chống Mỹ không chỉ thơ Hữu Thỉnh có chất lính mà các thế hệ

cùng thời như Nguyễn Duy, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm,… đều

khắc họa chất lính trong thơ. Nhưng mỗi nhà thơ có cách sáng tạo riêng. Thơ Hữu

Thỉnh lấy đời sống chân thực ở chiến trường làm cốt lõi, thơ ông là tiếng nói của

người trong cuộc. Có lẽ vì thế mà người đọc nhận ra những nét riêng, độc đáo về người

lính trong thơ ông. Đúng như nhà thơ từng nói: “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời

mình” (Đường đến thành phố). Vì vậy, có thể thấy người lính trong thơ Hữu Thỉnh là

một phương tiện để nhà thơ bộc lộ cái tôi trữ tình trong các sự kiện của đất nước.

Khi khắc họa hình tượng người lính, Hữu Thỉnh đặc biệt chú ý đến sự trẻ trung

hồn nhiên và vẻ đẹp cao cả của ý chí, niềm tin sắt đá vào chiến thắng của họ. Đọc thơ

Hữu Thỉnh, ta thấy tính cách của người lính thường được khắc họa qua hoàn cảnh

sống, sinh hoạt của họ nơi chiến trường. Đó có thể là cảnh ăn cơm đứng của người

chiến sĩ: “Không còn chỗ nào khô mấy đứa đành ăn đứng/ Trở đũa một đầu, mưa

lạnh mất đầu kia” (Kỷ niệm về bữa cơm đứng), và người lính đã có những giấc ngủ

đặc biệt trên đường ra trận:

Đèo nặng thế mà khi vào giấc ngủ

Cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu

Võng ta nằm thao thức bên nhau

Giấc ngủ sâu, tắm đoạn đường nóng bỏng

Mặc bom Mỹ cắn vào đêm mơ mộng

Con suối dài cứ hát để đi xa.

(Giấc ngủ trên đường ra trận)

Hay cảnh tắm mưa: “Kì lưng nhau ríu rít đùa vui/ Chẳng ai biết đã qua trăm

trận đánh/ Chỉ thấy như úp cá ở đâu về” (Tắm mưa),…Nhờ sự hồn nhiên đó, người

lính đã chủ động vượt qua những gian khó của hoàn cảnh để chiến đấu chống kẻ thù.

Sống trong một môi trường chiến đấu đầy khắc nghiệt, cái chết luôn rình rập, ranh

giới giữa sống và chết chỉ cách nhau trong gang tấc, nếu không có chất nghệ sĩ tồn tại

trong mỗi chiến sĩ thì khó có thể vượt qua. Những người lính trong thơ Hữu Thỉnh

thấy được sự hiện diện của cái đẹp, của sự sống đang tồn tại trong hoàn cảnh khắc

nghiệt của chiến trường. Nhà thơ đã dựng lại khá thành công phẩm chất nghệ sĩ trong

tâm hồn người lính.

Những người lính đã đặt tình cảm riêng tư, tình cảm gia đình sang một bên để

sẵn sàng lên đường nhập ngũ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, chiến đấu vì độc lập tự

do của Tổ quốc. Đi đánh giặc đã trở thành ước mơ suốt một thời trai trẻ của họ:

44

Ta đi trong rừng suốt một thời trai trẻ

đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng quen nhớ nhà quen nhạt muối

khúc dân ca hát đi hát lại

qua nhịp cầu, chân ta bước so le.

(Đêm chuẩn bị)

Ước mơ đánh giặc của những người lính hiện lên thật cụ thể và cũng thật lớn lao, cao đẹp vô cùng. Những khó khăn gian khổ mà họ thường xuyên chịu đựng đã

trở thành thói quen của người lính. Họ sẵn sàng hi sinh cho đất nước sinh tồn. Trong giây phút lâm nguy, hình ảnh Tổ quốc vẫn chiếm trọn vẹn tâm trí người lính:

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao ? Tổ quốc ?

(Đường tới thành phố)

Câu hỏi Tổ quốc ra sao nếu rơi vào tay kẻ thù cho thấy tấm lòng yêu nước sâu

sắc của người lính. Từ tình cảm với đất nước, không cần nhiều thời gian họ đã có

ngay câu trả lời bằng hành động ôm súng quyết tâm chiến đấu với kẻ thù :

Nhưng trước mặt là Tổ quốc

Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện

(Đường tới thành phố)

Nếu ở các nhà thơ khác, Tổ quốc được nhìn từ phương diện địa lí, văn hóa và

những trang sử hào hùng thì ở thơ Hữu Thỉnh, Tổ quốc được nhìn ở những hình ảnh gần

gũi. Người lính chiến đấu với kẻ thù để giành giật từng gốc sim cằn chính là giành lại

từng tấc đất thiêng liêng của đất nước, chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Họ ý thức được trách nhiệm của mình với hoàn cảnh của đất nước có chiến tranh. Trong

trường ca của Thanh Thảo, ta cũng bắt gặp lời tâm tình của người lính:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

(Thanh Thảo - Những người đi tới biển) Người lính phải đối diện với bao đau thương, mất mát nhưng họ đã tìm thấy

điểm tựa để cân bằng cuộc sống. Đó chính là những người thân đang chờ đợi, mong ngóng. Khi bước chân vào chiến trường, đối mặt với bao khó khăn, có đôi lúc được thảnh thơi người lính lại nhớ về hình ảnh người mẹ. Có khi chỉ một ánh

45

đom đóm bay, một màu hoa gạo đỏ vào hè cũng làm ý nghĩ anh trở về với người

mẹ nơi quê nhà:

Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ Mẹ ở nhà có cất áo bông Mẹ có ra bờ sông Qua bến đò tiễn con dạo trước Đường xuống bến có mười sáu bậc Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu (Sức bền của đất)

Một khía cạnh khác cũng đáng được trân trọng ở hình tượng người lính là những suy nghĩ của họ về tình yêu thời chiến. Bên cạnh những trách nhiệm chiến đấu bảo vệ đất nước, người lính vẫn mang theo trong tâm tưởng những tình cảm lứa đôi. Cho dù hoàn cảnh của chiến tranh nhiều khi con người phải gạt tình cảm riêng tư sang một bên để toàn tâm toàn ý phục vụ cho cách mạng. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn người lính, hình ảnh người thân yêu vẫn tồn tại và trở thành niềm thương cảm vô bờ. Từ chiến trường người lính nhớ về người yêu ở hậu phương, hồi tưởng lại kỉ niệm lứa đôi:

Anh viết cho em những ý nghĩ không vần đường Trường Sơn khúc khuỷu… trước em, anh vụng về giờ thành ra khôn khéo. Từ chỗ hẹn của đôi ta thầm hứa với nhau và chính từ đất mình, em nhỉ? (Ý nghĩ không vần)

Hình ảnh người yêu luôn là đối tượng tâm tình của người lính, nhớ về người

yêu để rồi lại nghĩ về hiện tại về trách nhiệm với quê hương, đất nước:

Đi trong mây anh thấy ấm em à Tiếng suối giục nghe khi mờ khi tỏ …Đi trong mây anh nghe tiếng chim Hồn hậu quá như bàn tay em ấy Đi trong mây nghe tiếng bom nhỏ lại Để nhường cho tiếng gậy trùng vang (Đi trong mây)

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận xét: “Tình thương và anh hùng là hai mặt không thể tách rời của hình tượng con người trong văn học chống Mỹ”[45, tr.259]. Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh thật kiên cường, anh dũng mà cũng thật giàu tình yêu thương.

46

Qua việc khắc họa hình tượng người lính trong chiến trận, ta thấy Hữu Thỉnh

có cái nhìn chân thực về người lính. Nhà thơ diễn tả tâm trạng thật nhất mà người lính đã trải qua. Không cầu kì tô vẽ, Hữu Thỉnh đã nói hộ tâm tư biết bao người lính khi

tham gia chiến trận. Có những hồi tưởng về kỉ niệm, những giây phút nhớ những

người thân, có những niềm vui chiến thắng. Tất cả những điều đó là nguồn động lực

lớn giúp người lính chiến thắng kẻ thù. 2.2.1.2. Hình tượng người phụ nữ

Bên cạnh hình tượng người lính trong chiến tranh, hình tượng người phụ nữ

thời chiến cũng được khắc họa rõ nét. Khi nói về văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Lại Nguyên Ân đã khẳng định vai trò của người phụ nữ trong kháng

chiến:“ta lại thấy ưu thế không thuộc về các nhân vật có cương vị xã hội cao (các

nhân vật của lịch sử) như trong sử thi cổ điển mà là thuộc về các nhân vật bình

thường: người mẹ, người vợ, người con gái, người du kích, giao liên, cán bộ vận tải

…” [4, tr.23]. Chiến tranh qua đi để lại cả dư vị vinh quang và cay đắng. Bên cạnh

niềm vui chiến thắng, cái giá phải trả cho cuộc chiến còn là số phận bất hạnh của

những người phụ nữ.

Trong chiến tranh chống Mỹ, hình tượng người mẹ luôn là cảm hứng lớn cho

thơ ca. Các nhà thơ đã dành nhiều cảm xúc cho những người mẹ vừa cao cả vừa bình

dị. Hóa thân vào người mẹ, nhà thơ dường như thấu hiểu hết những nỗi đắng cay, hy

sinh vất vả trong cuộc đời người mẹ. Hữu Thỉnh đã khắc họa hình ảnh người mẹ lam

lũ, bình dị dành trọn cuộc đời cho chồng con, cho đất nước, một mình gánh chịu bao

khổ đau:

Mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã

Nhem nhuốc cả ngày xanh

(Đường tới thành phố)

Người mẹ thật tần tảo, hi sinh, chấp nhận mọi nỗi cực nhọc, gánh trên vai bao

nỗi vất vả, gian nan:

Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió

(Đường tới thành phố)

Dù vất vả, nhưng mẹ luôn là những người sống hết mình vì cách mạng, vì lẽ phải, giàu đức hi sinh. Mẹ âm thầm hi sinh để có ngày đoàn tụ. Chiến tranh đã gây

nên bao cảnh ly tan, mẹ đã xúc động cầm tay tiễn đưa những đứa con thân yêu ra mặt

trận mà không biết bao giờ gặp lại và có thể sẽ không có ngày trở lại, lòng mẹ quặn

thắt, đớn đau:

47

Ba đứa con có mặt ở trong này Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc (Đường tới thành phố)

Trong cuộc chiến tranh trường kì của dân tộc, những người mẹ phải gánh chịu nhiều hi sinh, đau đớn nhất. Đất nước gửi những người con ra chiến trường, mẹ là người hết tiễn chồng, lại tiễn con ra trận. Hình ảnh những người mẹ “gánh cùng một lúc” mấy cuộc chiến tranh làm trào dâng trong lòng người đọc lòng thương cảm. Vị đắng của cuộc đời như chỉ có mẹ mới là người gánh chịu hết. Hơn ai hết, chính những người lính là người thấu hiểu hết nỗi lòng của mẹ:

Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi Áo tân binh xanh thẫm bến phà Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã …Mẹ nén đau Dấu tờ báo tử Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên (Đường tới thành phố)

Khi nghe tin đứa con thân yêu của mẹ không về, mẹ lại gạt nước mắt, nén nỗi đau, tiếp tục động viên những đứa con còn lại vào chiến trường. Và những nỗi đau chồng chất đã làm mẹ mất ngủ:

Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya Đêm nào cũng dài Căn nhà có mười mấy mét vuông Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật (Đường tới thành phố)

Hình ảnh mẹ già cô đơn cảm nhận đêm dài khiến ta thấm thía hơn sự trầm luân của dân tộc mình. Đó cũng chính là nỗi đau tột cùng của người mẹ trong thơ Lê Anh Dũng:

Trên thế giới xưa nay Bao cuộc chiến tranh Có người nào như mẹ Chín con đẻ Một con rể Một cháu ngoại Lần lượt lên đường cầm súng Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh (Thưa mẹ)

48

Hình ảnh những người mẹ trong chiến tranh thật giàu đức hi sinh, có tình yêu thương bao la. Tác giả không chú ý miêu tả ngoại hình mà chủ yếu khắc họa hành động, lời nói và vẻ đẹp tâm hồn. Có lẽ vì thế mà những người mẹ có thể khác nhau nhưng tấm lòng của họ thì muôn đời giống nhau.

Viết về người mẹ, Hữu Thỉnh không có ý định tạo nên những vần thơ bất hủ bằng cách nói lạ hóa, hùng hồn để tô đậm vẻ đẹp của họ. Nhà thơ chỉ gần như đóng vai trò là người kể lại những hình ảnh, những sự việc gần gũi, bình thường trong cảm nghĩ, việc làm của mẹ, song cũng chính vì vậy mà gần gũi thân thiết biết bao:

Mẹ đang xếp cho anh bộn bề giá sách Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu Những điểm 9, điểm 10 không còn an ủi mẹ

Trong những năm kháng chiến, người mẹ luôn dành cho những người lính một tình cảm nồng hậu. Những món quà ra trận mà người mẹ dành cho con là những kỉ niệm đẹp, những dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm thức của người chiến sĩ:

Hạt cốm xanh mặc áo lá sen xanh Mẹ dành cho con làm quà ra trận Cam quýt vào mùa đông; chớm hè:mơ mận Tháng ba về hồi hộp bắp ngô non (Hương cốm)

Tấm lòng thương con của người mẹ được thể hiện qua những thức ăn, những món quà dân dã, bình dị mà vô cùng ý nghĩa. Đó là hiện thân của tình thân yêu và niềm hi vọng. Có thể nói tình cảm của người mẹ dành cho những đứa con được Hữu Thỉnh chú ý khai thác nhiều ở khía cạnh vật chất. Trong thơ Xuân Quỳnh cũng nói về người mẹ, nhưng tình cảm của người mẹ dành cho con lại được chú ý nhiều ở khía cạnh tinh thần. Lời ru của mẹ trong thơ Xuân Quỳnh có sức khơi gợi từ kí ức tuổi thơ:

Con sẽ đi trên khắp miền Tổ quốc Những người chưa quen, những đất mới tinh khôi Và con sẽ ngỡ ngàng như gặp Cảnh, người kia từ đã lâu rồi Dẫn con đi đến suốt đời Vẫn không đi hết những lời mẹ ru (Lời ru)

Viết về người mẹ trong chiến tranh, các nhà thơ thường ngợi ca phẩm chất của mẹ: giàu đức hi sinh, thương chồng con, thủy chung son sắt,… Điều đó đã góp phần làm cho hình ảnh người mẹ có những đóng góp lớn lao đối với đất nước. Hình ảnh người mẹ còn là sự biểu hiện cho niềm tin bất diệt:

49

Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất

Đất nước ngày có giặc

Mẹ vẫn đỏ miếng trầu

Ấm một vùng tin cậy phía sau

(Sức bền của đất)

Người mẹ là điểm tựa vững vàng, là hậu phương vững chắc chở che cho

những đứa con đi đánh giặc. Mẹ là nguồn sức mạnh thôi thúc con vượt qua thử thách

để làm nên chiến thắng.

Nối tiếp hình ảnh người mẹ là người vợ, người chị cũng sẵn sàng hi sinh tuổi

thanh xuân vì Tổ quốc. Nhà nghiên cứu Vũ Nho đã nhận xét rất xác đáng về hình ảnh

người chị trong thơ Hữu Thỉnh: “Có lẽ Hữu Thỉnh là nhà thơ chiến sĩ hiếm hoi đã viết

về “chị tôi” một người phụ nữ tiêu biểu cho những năm kháng chiến … vừa xúc động

vừa ám ảnh vừa hết sức lung linh trong cảm hứng mến mộ, ngợi ca” [35].

Trong trường ca Đường tới thành phố hình tượng người phụ nữ đã trở thành

một biểu tượng của sự chịu đựng. Đây là tâm sự, là số phận của một người vợ khi chị

viết thư cho chồng:

Chúng em chẳng sợ địch lùng

Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài

Chị đi hoạt động bị địch bắt và bị tù đầy nên mắc bệnh động kinh nhưng giấu

không cho anh biết:

Tù về mắc bệnh động kinh

Mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài

Hình ảnh người chị, người vợ luôn hiện lên với đức hi sinh và lòng dũng cảm.

Hoạt động trong lòng địch, đối diện với bao hiểm nguy để đánh lừa bọn địch, nhập

vai vào nhân vật, tác giả nhận ra cảnh ngộ đầy trớ trêu của chị:

Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai

Chị cười cợt với thằng chỉ điểm

Người nó thắt y chiếc còng số tám

Cứ hau háu rình chộp chị mang đi

Chị cố làm cho thật lẳng lơ

Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị

Tác giả như thấu hiểu nỗi lòng của nhân vật khi nói về sự nhẫn nhịn của chị

trước bao lời dị nghị, những định kiến của bà con xóm làng khi giả làm người lẳng lơ

để bí mật nuôi cán bộ dưới hầm mà người cán bộ là chồng chị:

50

Chị nuôi anh dưới đất

Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm

Chị gặp anh mà không hay ốm mập

Gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao

Chị nghe giọng anh mỗi ngày lặng xuống

Anh còn sống mà tưởng như đã chết, ngay cả khi tưởng như khoảng cách xa

nhau không còn nữa nhưng trong chiến tranh giây phút vợ chồng bên nhau bỗng trở

nên xa vời. Còn gì đau buồn hơn khi thời gian không phải được tính bằng ngày, tháng

mà phải tính bằng “năm năm” dài dằng dặc. Chị chỉ có thể gặp anh qua giọng nói, đến

nỗi chị gặp anh thường xuyên mà “không hay ốm mập, không hay anh đen trắng” ra

sao. Anh phải chấp nhận bí mật hi sinh, chị làm cơm cúng chồng nhưng khấn xong lại

mang xôi trái xuống hầm: “mỗi năm một lần cúng kị, khấn anh xong mang xôi trái

xuống hầm”. Đó là những hi sinh lớn lao không gì bù đắp nổi mà chị phải gánh chịu.

Chị chấp nhận điều đó bởi tình yêu chị dành cho nhân dân, cho Tổ quốc.

Những người chị, người vợ trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là những người

giàu sức chịu đựng, hi sinh gian khổ mà còn là những người có những khát khao rất

đỗi đời thường. Đó là khát khao được làm vợ, làm mẹ luôn cháy âm ỉ trong lòng họ.

Hữu Thỉnh như đã đi sâu vào trong tâm can của họ, thấy được những góc khuất của

họ do chiến tranh gây ra. Nhập thân vào nhân vật để tập trung thể hiện sự khắc khoải

nội tâm để từ đó Hữu Thỉnh nhằm làm nổi bật lên lòng chung thủy của những người

vợ, người chị:

Chị chờ đợi quay mặt vào đêm

Hai mươi năm mong trời chóng tối

Hai mươi năm cơm phần để nguội

Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi...

(Đường tới thành phố)

Khoảng thời gian đằng đẵng “hai mươi năm” lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả

sự khắc khoải chờ đợi chồng. Nỗi nhớ như khắc, như chạm vào tim chị, như hối thúc

tuổi trẻ. Thấu hiểu cảnh ngộ của chị, nhà thơ đã dựng lên chân dung một người vợ trẻ

suốt bao nhiêu năm phải quay mặt vào bóng tối, quay lưng lại với nhiều cám dỗ, chấp

nhận một cuộc sống cô đơn, âm thầm chung thủy chờ chồng cho đến ngày toàn thắng.

Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng người khốn khổ nhất trong cuộc chiến tranh này

là người phụ nữ. Họ là người gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cay đắng trong suốt

cuộc chiến tranh. Những khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn luôn âm ỉ cháy trong lòng họ:

51

Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra

Trong giỗ Tết họ hàng nội ngoại Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình

Những đêm trở trời trái gió

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh người vợ “côi cút một mình” gợi trong lòng người đọc một cảm giác cô đơn, buồn tẻ. Nhập thân vào cảnh ngộ người vợ và đi vào tận cùng ngõ sâu tâm hồn họ, Hữu Thỉnh đã diễn tả tâm trạng ngập chìm trong nỗi buồn, mất mát không gì

bù đắp nổi trong tình cảnh của người vợ xa chồng.

Có người vợ, chồng hi sinh phải sống cuộc đời cô đơn, lẻ loi. Con người ta có

đủ sức mạnh để chịu đựng những hi sinh mất mát về vật chất, nhưng làm sao chịu

đựng được sự cô đơn, làm sao sống được cả cuộc đời quạnh quẽ. Người phụ nữ đó

“mong trời chóng tối” để một ngày trôi đi thật nhanh, để khỏi chứng kiến cảnh tết

đến, xuân về. Cho dù xóm làng rất ý tứ “không khoe con trước mặt” mà vẫn ám ảnh,

vật vã trong lòng chị. Khoảng thời gian ấy chị chịu nhiều thiệt thòi về tình cảm, phải

sống trong nỗi cô đơn:

Những đêm trở trời trái gió

Tay nọ ấp tay kia

Súng thon thót ngoài đồn dân vệ

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

(Đường tới thành phố)

Có một điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ nữ

trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan và tin tưởng vào ngày mai. Dù sự tin tưởng ấy đôi lúc chỉ là ảo vọng:

Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều Hoa mai nở hai lần hoa có hậu Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu Vẫn tin có ngày hái quả cho anh (Đường tới thành phố)

Ngày anh không về đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai trong chị,

mặc dù chị đã từng tin “chữ hợp cuối trang Kiều”, nhưng chiến tranh là vậy, người

vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách trong cuộc sống để

chờ anh về. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất trong cõi lòng họ.

52

Có thể nói những dòng thơ viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc động,

day dứt cho người đọc. Hóa thân vào những người mẹ, người vợ, người chị, tác giả đã khẳng định vai trò, sự đóng góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi

cuối cùng của cuộc kháng chiến. Với sự chân thật trong cảm xúc, tác giả đã khắc họa

khá thành công chân dung người mẹ, người vợ trong thời kì đất nước có chiến tranh.

Họ chính là những người hi sinh thầm lặng góp phần làm nên trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

2.2.2. Hình tượng con người những năm sau kháng chiến đến nay 2.2.2.1. Hình tượng người lính

Chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm sâu lắng từ những dòng ký ức, những di

chứng về một thời đạn bom với bao đau thương mất mát, đói nghèo, khổ nhục,... vẫn

còn hiện hữu quanh chúng ta. Nếu như trong thời kì kháng chiến, hình tượng người

lính thường gắn với lí tưởng cao đẹp với cái nhìn sử thi, được nhìn từ phương diện xã

hội, từ trách nhiệm với công dân đối với đất nước thì sau chiến tranh hình tượng

người lính có sự thay đổi, người viết đã có cái nhìn về hình tượng người lính đa dạng

hơn, khai thác đời tư cá nhân, tìm hiểu góc khuất trong tâm hồn người lính. Với sự

đổi mới văn học, các nhà thơ có cái nhìn về chiến tranh và người lính từ vận mệnh

chung của dân tộc đến số phận riêng của cá nhân. Các nhà thơ đã thoát khỏi những

khuôn khổ tư tưởng đã định sẵn và thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Tư thế người

lính không còn là tư thế cao vời vợi để ngợi ca, chiêm ngưỡng bằng những từ ngữ đẹp

nhất. Con người lúc này nhìn nhận thực tế hơn, họ đã thấy được những đói khổ, bất

hạnh và thậm chí cả bi kịch của người lính khi trở về sau chiến tranh:

Mười mấy năm trận mạc

Anh lính trở về làng

Mẹ già thì mới mất Nhà cửa thì tang hoang.

(Văn Lê - Khúc bi ca) Hình tượng người lính sau chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh cũng nằm trong sự dịch chuyển chung của thời đại. Phản ánh chân dung của người lính sau chiến tranh, Hữu Thỉnh không chủ đích vẽ lên những bi kịch giằng xé đau đớn về tinh thần của người lính trước sự thay đổi của thời cuộc mà nhà thơ quan tâm ghi lại số phận cá nhân người lính cách mạng, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người lính. Nhà thơ vẫn

dõi theo và ghi lại những đóng góp thầm lặng của họ. Trường ca biển là tác phẩm tiêu

biểu của Hữu Thỉnh viết về người lính sau chiến tranh. Khi nghiên cứu về tác phẩm

này, Nguyễn Nguyên Tản đã có nhận xét: “…Điểm khác nhau quan trọng trong nội

53

dung phản ánh của Trường ca Biển là số phận cá nhân người lính Cách mạng, về căn

bản đã có ý nghĩa độc lập, nói như nhà thơ: Họ bơi trên số phận riêng mình… Khác với thời chống Mỹ, giờ đây, họ sống cùng gian lao, lòng không thanh thản. Họ gồng

mình lên để cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa được mất,

cống hiến và hưởng thụ, giữa hi sinh và cái giá phải trả cho sự hi sinh…” [48, tr.12].

Thế nhưng sự đắn đo của người lính đảo đó không phải là thiết yếu mà họ luôn xác định nhiệm vụ của mình là bảo vệ biển đảo. Sứ mệnh lịch sử của người lính trong chiến tranh lúc này lại được duy trì và phát huy trong hoàn cảnh thời bình. Khi đất

nước hòa bình, người lính lại đặt gia đình sang một bên để nhận lấy nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà không kém phần gian nan, nguy hiểm là giữ biển đảo Trường Sa của

Tổ quốc. Họ đã coi biển đảo là phần máu thịt của sự sống:

Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình

Đảo có lính cát non thành Tổ quốc.

…Đảo hiện ra thử thách bạc mầu

Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc

Người lính đảo đã canh giữ biển trời Tổ quốc, từng tấc đất, từng cột mốc biên

cương. Đánh đuổi giặc ngoại xâm rồi nhưng vẫn rất cần giữ nước trong thời bình.

Những người lính biển đảo vẫn phải chịu những khó khăn, giông gió trong khảnh

khắc như lật bàn tay, biển hiền hòa là vậy nhưng có lúc trở thành hung thần, thù địch

với người lính, giăng bao nguy cơ muốn nuốt chửng họ trong từng sa sẩy nhỏ. Đâu

chỉ những khó khăn, mất mát hi sinh xuất hiện nơi chiến trường ác liệt, khi trở về thời

bình người lính vẫn phải đối mặt với bao hiểm nguy, đau thương:

Chưa kịp đặt ba lô

Chúng tôi cùng nhau bới cát

Dọn một chỗ nằm cho đồng chí hi sinh Chúng tôi đặt anh cạnh mốc chủ quyền

Cát và cát Ầm ào sóng biển Gió và gió Ngày ngày lại đến Xóa đi phần mộ của anh nằm Chúng tôi lại cùng nhau bới cát

Chôn anh thêm một lần

Người lính thời bình vẫn phải thường xuyên đối diện với những khó khăn, mất

mát, hi sinh. Ngay cả khi đặt chân lên đảo những người lính đã phải ngồi bới cát để

54

hôn đồng đội mình, thậm chí còn chôn thêm lần nữa khi mộ bị gió và cát xóa bằng

hết. Hữu Thỉnh đã không hề né tránh khi nói về những mất mát, đau thương của người lính. Song, những mất mát, đau thương càng làm cho người lính trở nên kiên

cường, bản lĩnh hơn. Ngay sau phút đau thương mất đồng đội, những người lính đảo

lại tiếp tục sống, chiến đấu. Chính “cát” là nơi chôn đồng đội để rồi những ngày tiếp

theo họ lại tiếp tục đối diện với “cát” để tiếp tục bảo vệ biển đảo quê hương:

Sống cát là bệ tì Chết cát là hoa tươi là nước mắt

Sống cát che mắt địch Chết cát là màu tang

Hình ảnh “cát” được nhân cách hóa như một người đồng hành cùng người lính

Trường Sa cô đơn giữa biển, làm rõ hơn nỗi nhọc nhằn, mọi sức chịu đựng phi thường

của người lính đảo trên tất cả các cung bậc cảm xúc. Người lính sống với cát, ăn nằm với

cát. Những người lính kiên cường là vậy nhưng có những khi trong tâm hồn họ vẫn ẩn

chứa khoảng trống, họ vẫn phải gồng mình lên để sống, để chống lại khoảng trống giữa

đồng đội với nhau và chống lại khoảng trống ở ngay trong chính mình:

Chúng tôi là lính đảo thời bình

Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất

Để chống lại cái khoảng trống kia

Cái khoảng trống chực len vào đồng đội

Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa

Có ngay trong chính bản thân mình

Những người lính đến với vùng đảo Trường Sa xa xôi, ngày đêm vật lộn với

gió, bão, cát,… để canh giữ vùng biển của Tổ quốc. Vì sự bình yên của Tổ quốc họ

vẫn tiếp tục phải chịu đựng những mất mát hi sinh, cuộc sống khốc liệt không kém gì trong chiến tranh. Họ phải gồng mình “để chống lại khoảng trống kia”, khoảng trống

vắng trong tâm hồn mỗi con người trước sự hy sinh của đồng đội mình không có gì lấp đầy vào nó được. Và chính bản thân nhà thơ đã thấu hiểu và nói hộ tâm trạng và tình cảm của những người lính đảo xa nhà:

Trên bãi cát những người lính đảo Ngồi chép nhau bao nỗi nhớ nhà Chiều áo rộng vài hạt mây hờ hững

Họ cứ ngồi như chum vại hứng mưa

Đặc biệt trong trường ca này, Hữu Thỉnh dành cả chương ba Tự thuật của

người lính để nhân vật người lính nói về chính mình. Nhân vật xưng “tôi” tự kể về

55

mình sinh ra trong một gia đình nhà nông nghèo khó: “Trong căn nhà đất… Nhà khó

con đàn gió lọt qua phên”, trải qua tuổi ấu thơ với những nhọc nhằn, khốn khó cùng với bất công của xã hội và lớn lên nhân vật đã nhận biết rõ những bất công, ấn tượng

đậm với bữa no đầu tiên là lúc cha phá kho thóc Nhật. Với nhận thức rõ về khốn khó,

ý thức được về trách nhiệm với đất nước, nhân vật “tôi” đã trở thành người lính: “Tôi

đã lớn lên để trở thành người lính/ Thọc đôi tay vào chiếc túi của rừng” và kết bạn với “suốt chiến trường ngang dọc”. Đến lúc nghĩa vụ của người lính thời chiến hoàn thành, tưởng chừng người lính được về với mái nhà thân yêu, thế nhưng chưa kịp về thăm nhà,

nhân vật “tôi” lại khoác ba lô lên đường làm nhiệm vụ của người lính thời bình:

Tôi chưa kịp về thăm căn nhà mái thấp

Trên đôi kèo có một tổ chim

Và tôi chưa kịp nói với em

Đường lắm cát làng mình thương nhớ quá

Trước mặt tôi bây giờ là biển cả

Lại gặp núi non những chop song thần…

Người lính đảo đã xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Cuộc đối

mặt để gìn giữ từng tấc đảo xa của Tổ quốc đã buộc con người phải một sống, hai

chết, phải quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh:

Biển chưa thu xong những mảnh vỡ của mình

Anh le lói bơi đi bằng sức mạnh bí mật của hy vọng

Rất nhiều lần anh chạm chân vào đáy quan tài

Lại cố sức ngoi lên

…Cả vũ trụ so găng đấu với một mình anh

Nghìn cái chết kéo co với một sinh linh bé nhỏ

Tất cả những gì chưa sống nói với anh không thể chết

Tất cả những gì đã chết nói với anh phải sống

Và anh bơi bơi mãi

Mịt mù biển mịt mù trời

Đây là một trong những câu thơ bi tráng nhất, khí phách nhất của trường ca.

Trường ca biển vẫn có một tầm vóc đích thực của nó. Nó càng có giá trị hiện hữu với

hôm nay hơn bao giờ hết, khi cả nước đang đồng lòng, dốc sức hướng ra biển đảo

trong chiến lược bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.

Trong thời bình, người lính vẫn giữa được vẻ đẹp của lí tưởng cống hiến, sẵn

sàng hi sinh vì Tổ quốc. Họ luôn tự nguyện dấn thân vào mối nguy hiểm mới để góp

56

một phần công sức vào sự nghiệp bảo vệ đất nước. Họ phải hi sinh hạnh phúc cá

nhân, gia đình để thực hiện nhiệm vụ của mình:

Nhưng với một người lính như con

Muốn gặp mẹ phải vươn lên lên phía trước

…Bước chân con chưa kín mảnh sân nhà

Phía biên giới lại những ngày súng nổ

Ngôi nhà của mẹ là chiếc ga bé nhỏ

Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình

(Ngôi nhà của mẹ)

Hữu Thỉnh không đi vào sự hụt hẫng, bi kịch tinh thần và thể xác của người

lính với những vết thương sau chiến tranh của bản thân, gia đình, không viết về sự

mặc cảm, bế tắc, nghèo đói của người lính trước sự thay đổi của thời cuộc như nhà

thơ Thi Hoàng khi viết về sự thiếu thốn, bế tắc của người lính trở về sau chiến tranh:

Thời tem phiếu thời phân quần áo lót

Còn nhân phẩm thì tự tìm, thứ ấy chẳng ai cho

Đất nước bấm ngón chân rịn mồ hôi hột

Trên bãi lầy nắng cháy vào gan ruột

Cây lúa tong teo thức ngủ cùng người

Lời nói thật nằm im trong miệng

(Thi Hoàng - Gọi nhau qua vách núi)

Hữu Thỉnh luôn theo sát hành trình của người lính từ trong chiến tranh đến khi

người lính sống trong thời bình. Nhà thơ vẫn dĩ theo bước đường đời của người lính

để ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của họ. Người lính thật kiên cường, anh dũng trong

chiến tranh và trong cuộc sống đời thường họ vẫn kiên cường một cách thầm lặng.

Đây là hình ảnh người lính gỡ mìn:

anh đã thắng từng nấc ren phấp phỏng

trong chiến trường chật chội

đấu tay đôi

anh vất lại đằng sau những quả mìn chống tăng

những quả mìn hộp díp

như người ta vất những quân cờ sau một nước cao tay

đất cứ thế tự do, cứ vì người chăm bẵm

trong âm âm điệp khúc máy cày

(Phút giải lao của đồng chí gỡ mìn)

57

Anh đã trải qua những công việc đầy nguy hiểm, làm việc một cách thầm lặng.

Nhà thơ so sánh động tác anh vất “những quả mìn” như “người ta vất những quân cờ

sau một nước cờ cao tay”. Điều đó chứng tỏ việc gỡ mìn đòi hỏi cũng thật cẩn thật,

tính toán từng bước một nếu không sẽ không thể thành công. Người lính trong thời

bình đã hòa nhập với cuộc sống. Họ có thể kiếm sống với nghề gỡ mìn đầy nguy

hiểm, thậm chí trở thành những anh nông dân chân lấm tay bùn. Họ vẫn giữ được

niềm tin vào cuộc sống, hài lòng với hạnh phúc đơn sơ mà không hề than vãn:

Bạn trở về làm lụng dọc triền sông

Nước mấp mé mây vần ô mạ trũng

Căn nhà đất ánh đèn dầu cuối xóm

Bạn đi về khuya sớm lo toan

Bạn trở về lấy vợ sinh con

Hạnh phúc nhỏ hai bàn tay che chúm

Lớp trẻ lớn lên. Bạn ngỡ ngàng kết bạn

Tâm sự nào áo lính vẫn sờn kia?

(Gửi bạn triền sông)

Hữu Thỉnh đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng thành công hình tượng người

lính. Hình tượng người lính trong thơ ông có chiều sâu về nội tâm, phong phú về tâm

hồn, kiên cường vượt lên mọi gian khó, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, là con người của

thời đại mới. Thơ Hữu Thỉnh thực sự là những lời ca về cuộc đời của người lính.

2.2.2.2. Hình tượng người phụ nữ

Sau kháng chiến, hình tượng người phụ nữ vẫn tiếp tục được Hữu Thỉnh quan

tâm và thể hiện trong thơ ca. Trong kháng chiến, nhà thơ khẳng định vai trò, sự đóng

góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc. Hình

ảnh người mẹ, người vợ, người chị…là những người hi sinh thầm lặng góp phần làm

nên trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Hòa bình lập lại, người phụ nữ tiếp tục

đảm nhiệm vai trò với gia đình, với xã hội. Họ vẫn luôn giữa trọng trách quan trọng

trong cuộc sống. Nhưng họ cũng phải gánh chị những hậu quả do chiến tranh để lại.

Hữu Thỉnh đã thấu hiểu nội tâm của người mẹ, người chị, người vợ và tiếp tục khắc

họa cuộc sống, con người họ sau chiến tranh.

Người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh thật gần gũi, thân thiết, vẫn đức tính cần cù,

chịu thương chịu khó làm công việc nhà nông:

58

Trông ra bờ ruộng năm nào

Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen

Mẹ tôi nón lá bước lên

Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu.

Quanh quanh vẫn một mảnh bờ

Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên

Mẹ tôi gạt cỏ bước lên

Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn.

(Trông ra bờ ruộng)

Trong Trường ca biển, người mẹ đóng vai trò là người chỉ dẫn người con trên

đường đời. Mẹ có cả một kho tri thức, có lối đối nhân xử thế thật khéo léo để dạy cho con:

Mẹ đã nuôi con lớn

Mẹ đã dạy con khôn

Sống sướng vui và đau khổ với con người

Sống dễ dàng và khó khăn với con người

Sống cởi mở và phòng xa với con người

Biết đem cho mà không làm người được cho cảm thấy mắc nợ

Biết nhận mà không sợ bị coi là tham lam

Và khó nhất là biết từ chối

Lời dặn dò của người mẹ luôn khắc sâu trong lòng người lính:

- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

Nếu như thời kì chiến tranh, hình tượng người mẹ xuất hiện như một niềm an

ủi, động viên lớn từ hậu phương, là niềm tin, niềm khích lệ to lớn đối với người lính

vượt qua khó khăn thì đến thời kì hòa bình, đặc biệt là những năm đổi mới, người

mẹ trong thơ Hữu Thỉnh lại có cái nhìn khác. Người mẹ được nhìn nhận với góc độ

đời tư, thực tế hơn, dạy con biết ứng xử trước những đổi thay của thời cuộc. Còn

người con những lúc cô đơn lại tìm đến mẹ như một niềm động viên, an ủi lớn lao

để giãi bày tâm sự:

Mẹ ơi mây héo con xin mẹ

Cho con lên an ủi mặt trăng buồn

Chợ tan đường cũng tan như chợ

Bán được buồn hay mua được buồn hơn

(Đất ngày thường)

59

Nhân vật trữ tình thường thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít với mẹ. Trong bước đường đời mỗi khi gặp trở ngại hay những điều nằm ngoài ước đoán đều quay về hỏi mẹ:

Tôi bước ra ngoài ngõ Gió thổi. Nước triều lên Đi hoài không gặp tiên Đành quay về hỏi mẹ - Hãy yêu lấy con người Dù trăm cay nghìn đắng Đến với ai gặp nạn Xong rồi. chơi với cây!

(Lời mẹ) Hữu Thỉnh nhìn nhận con người cũng như người mẹ với tư cách một người bình thường chiêm nghiệm về thân phận, nhân tình, thế thái. Hay có khi trở thành nỗi “ám ảnh” về cách sống trong cuộc đời: “Miếng cơm manh áo che khuất mẹ tôi/ Sự vô tình che khuất mẹ/ Người thường vắng mặt trong các cuộc vui/ Tóc bay trắng trong buổi chiều gió bạc” (Chạm cốc với Xa-in). So sánh về sự phản ánh con người trong hai giai đoạn sáng tác của Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản có đánh giá: “…thơ Hữu Thỉnh giai đoạn trước thiên về phản ánh con người và đời sống đơn nhất, trong hệ quy chiếu lí tưởng độc lập tự do…, có thiên hướng tổng kết chiến tranh. Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau thể hiện con người và cuộc sống đa dạng, muôn mặt, con người day dứt và trăn trở trước cuộc đời” [48, tr.64]. Nhưng dù ở giai đoạn sáng tác nào người mẹ vẫn mang phẩm chất đáng quý: cần cù, chịu thương chịu khó, hết mực yêu thương con. Hình tượng người mẹ đã trở thành điểm tựa quan trọng để nhân vật trữ tình tâm sự về tình đời, về nỗi niềm của cuộc sống.

Bên cạnh hình ảnh người mẹ, Hữu Thỉnh còn khắc họa hình ảnh người chị, người vợ sau chiến tranh. Nhà thơ tập trung diễn tả rất tinh tế chiều sâu tâm lí người phụ nữ với những khao khát đời thường. Từ đó ta thấy được những trạng thái trong chiều sâu tâm hồn mỗi con người, sự thủy chung và tin tưởng, khát khao và dồn nén, cam chịu nhưng ẩn sau đó là một sức sống mãnh liệt:

Ngày anh về Lúa đồng cúi hạt Nước mắt đi trước người Mộ anh đặt nơi chăn trâu thuở nhở …Mãn tang anh chị vẫn chưa già ...Trời còn bao nhiêu thu Tóc chị thắm làm thắt lòng nội ngoại (Trường ca biển)

60

Ngày anh không về đó là một nỗi đau đớn không thể nào nguôi ngoai trong lòng chị, mặc dù chị đã từng tin “chữ hợp cuối trang Kiều” được đoàn tụ, hạnh phúc. Nhưng chiến tranh là vậy, người vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách trong cuộc sống để chờ anh về và giờ đây chị lại phải chịu thêm một lần thử thách: “Mãn tang anh chị vẫn chưa già”. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất luôn đi theo suốt cuộc đời thành một nỗi ám ảnh không thể nguôi ngoai. Khai thác vấn đề này, nhà thơ thể hiện một cái nhìn đầy đồng cảm, chia sẻ và thấu hiểu những người phụ nữ. Chị đã tìm được người cảm thông, đồng hành. Chính điều đó đã góp phần làm xoa dịu bớt những nỗi cay cực mà người phụ nữ phải gánh chịu:

Hôm nay tái giá chị tôi Liền anh cùng với bao người đứng trông Chị tôi đi thửa hương vòng Ngậm ngùi trên mộ cũ Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang (Trường ca biển)

Có thể nói những dòng thơ Hữu Thỉnh viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc động trong lòng người đọc. Nhà thơ đã hóa thân vào những người mẹ, người vợ, người chị để đã khẳng định vai trò, sự đóng góp, đức hi sinh to lớn của người phụ nữ. 2.2.2.3. Hình tượng con người cá nhân

Văn học luôn lấy con người làm trọng tâm để phản ánh. Vậy con người cá nhân trong văn học là gì ? Đó chính là sự phản ánh cái tôi của tác giả, là hình tượng của tác giả, là sự diễn tả, giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nhìn từ góc độ nhận thức luận thì hình tượng con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa, tâm tư, tình cảm, ý chí của bản thân tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Đó có thể gọi là cái tôi của nhà thơ.

Trong thơ Hữu Thỉnh, luôn hiện diện một cái tôi cá nhân tự ý thức và cái tôi cá nhân tôi luôn tìm kiếm ý nghĩa và bản chất của đời sống con người. Trước hết là cái tôi cá nhân tự ý thức. Cái tôi ấy luôn thể hiện sự tự dằn vặt và những nghi vấn về cuộc đời. Trong guồng quay của cuộc sống, tâm hồn con người cũng bộc lộ nhiều biến thái mới, nhiều chiều sâu mới.

Cuộc sống hiện đại nhiều khi khiến cho con người bất chợt có những lo âu trước biến động bất trắc của cuộc sống đời thường. Những khoảnh khắc tâm trạng này tác động vào thơ làm cho thơ trực cảm hơn, thảng thốt hơn và trải nghiệm hơn. Sự phát triển của thời kinh tế thị trường phá vỡ tính cân đối mực thước bình ổn buộc thơ quan tâm đến từng số phận éo le, những khía cạnh của đời thường. Hữu Thỉnh đã ghi lại những ngẫu cảm khi làm thơ:

61

Chưa viết giấy đã cũ

Chưa viết sông đã đầy Đám cưới chưa qua có người đứng khóc.

Chưa viết chợ đã đông

Chưa viết đồng đã bạc

Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa (Tạp cảm)

Giấy cũ, sông đầy là thời gian của tâm trạng để đẩy tới một thảng thốt bất

chợt: “Đám cưới đi qua có người đứng khóc”. Đây là nghịch lý của đời thường thật trớ trêu mà thương cảm, cảnh ngộ: người khóc trong đám cưới gợi nỗi niềm xót xa.

Những day dứt, trăn trở ấy cứ đeo đẳng. Chất lượng sống thay đổi, chất lượng giá trị

tiêu dùng có sự can thiệp của con người làm biến đổi cả cung bậc tình cảm, đến nỗi:

“Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa”. Vòng quay của nhịp điệu cuộc sống, của

các mối quan hệ xã hội cộng đồng đã bị phá vỡ cấu trúc từ trong thẳm sâu tâm hồn

con người.

Thời cuộc thay đổi, con người cũng phải thay đổi. Nhà thơ đã diễn tả sự thay

đổi bản thân qua những hình ảnh khá riêng biệt:

Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi

Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp

…Tôi thường bị đám gai của hoa hồng xua đuổi

Không có cách chi lọt vào mắt vô tình

(Lời thưa)

Giọng thơ chậm, buồn như lời tâm sự. Nó đã cơ bản hé mở những tâm trạng

đau buồn, cô đơn, những u ẩn, trăn trở về thân phận - một thân phận còn nhiều vất vả,

lo toan. Nhà thơ tự cảm thấy mình bơ vơ, lạc lõng trước dòng đời: “Tôi ấy mà, cánh diều nhỏ cô đơn/ Với hạnh phúc tôi đứng ngoài song cửa/ Với chia tan tôi là khúc ca

buồn” (Lời thưa). Dường nỗi cô đơn đang xâm chiến trong tâm hồn nhà thơ, càng khát vọng được đồng cảm thì nỗi cô đơn càng da diết:

Tôi lặng bước dưới cây Hồi hộp với món quà lạ mặt Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt Ngõ đứng trông người…

(Đi dưới cây)

Song, càng cô đơn nhà thơ lại càng suy nghĩ sâu sắc thêm về cuộc đời, con

người. Chính sự cô đơn dày đặc ấy đã làm giàu có thêm tính triết lí của thơ Hữu

62

Thỉnh. Tác giả đã tự soi vào bản thân để phát hiện ra nỗi cô đơn để đi sâu khám phá

sự phong phú trong những cung bậc tâm hồn con người và từ đó đưa ra những triết lí sâu sắc về chính nỗi cô đơn. Cô đơn đâu phải chỉ do thiếu hòa hợp với xã hội mà còn

do người thi sĩ muốn sẻ chia song không được:

Chỉ còn một mình anh

Với chiều ngoài cửa sổ.

Mùa thu cũng bỏ trời

Đi về miền tiếc nuối

Có con tàu mệt mỏi

Thét còi trong tim anh.

(Ước)

Câu thơ ẩn chứa nỗi buồn của người trên cuộc hành trình tìm tới hạnh phúc

trọn vẹn. Ở đó có một niềm khao khát và chứa đựng cả sự nuối tiếc.

Trong chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản cũng đã

nhắc tới cái tôi cá nhân tự ý thức này trong hình bóng người cô đơn: “Con người cô

đơn trong thơ Hữu Thỉnh xuất hiện trên cái nền chung ấy, nhưng cô đơn cũng cô đơn

hơn, thất vọng cũng thất vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn. Bởi như đã nêu ở trên,

anh là người của khát vọng được đồng cảm, cháy bỏng, da diết, bức xúc” [48, tr. 53].

Cái tôi tác giả cô đơn nhưng không hề bi lụy hay yếu đuối. Cô đơn mà vẫn luôn chất

chứa niềm hy vọng về đời, và niềm tin về sự gắn bó, chia sẻ với đời. Chính vì vậy,

thơ Hữu Thỉnh, dù về sau này chất chứa tâm trạng buồn nhưng vẫn toát lên vẻ hồn

hậu của một tâm hồn luôn biết gạn lọc để vượt lên trên bùn lầy của cuộc sống:

Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình

Dưới đáy cốc của hy vọng

(Cặn lắng)

Sau năm 1986, các nhà thơ nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn

giấu”, dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn ổn định để

đi tìm những giá trị mới. Cái tôi cá nhân của Hữu Thỉnh cũng không ngần ngại bộc lộ

góc khuất của tâm hồn, luôn đào sâu, lí giải, trăn trở trước cuộc đời:

Lọc hết bùn đi

Còn chút gì sót lại

Đấy là anh sau những vui buồn

(Lọc)

63

Tác giả đã dùng hình ảnh mang tính biểu tượng để nói về một chân lí: con

người ta bị vấy quá nhiều “bùn đen” trong tâm hồn, cần sàng lọc đi mới thấy được

bản chất.

Nếu như trước đây trong thời kì kháng chiến, cái tôi cá nhân của nhà thơ

thường hòa chung với dân tộc với nhân dân thì ở giai đoạn sau kháng chiến, đặc biệt

là thời kì đổi mới, cái tôi cá nhân đã được bộc lộ rõ nét. Cái tôi cá nhân đó trở nên đa

diện mà mặt trội của nó là những suy tư về con người, hiện lên trong chính cuộc sống

đa chiều thường ngày.

Cùng với sự hiện diện của cái tôi cá nhân tự ý thức còn có cái tôi cá nhân tôi

luôn tìm kiếm ý nghĩa và bản chất của đời sống con người. Thơ Hữu Thỉnh đi sâu

khám phá những ưu tư, tìm kiến và phản ánh những sự kiện mới về thời cuộc để rồi

nhà thơ nhận ra mặt trái của xã hội và đau đớn về cách ứng xử lật lọng tráo trở của

con người với nhau:

Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ

Cười súng sính

Trong bộ cánh thớ lợ

...Luật nhân quả

Ngủ gật trên bậc cửa

(Bất hạnh)

Lời thơ đã thể hiện bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tế và lí tưởng

một thời là một khoảng cách xa tắp đến mù mịt. Khát vọng về sự tốt đẹp, lương thiện

không ngăn nổi cái nghịch lí, trớ trêu, cái xấu cái ác hoành hành. Trong cuộc sống ấy,

tác giả lại càng ý thức về phẩm giá con người.

Cái tôi cá nhân không chỉ khám phá, ý thức về cuộc sống mà còn ưa phân tích,

lí giải và khái quát hóa vấn đề. Sự phân tích, khái quát này dựa trên một năng lực cảm

nhận và mô tả đời sống sâu sắc và tinh tế. Hữu Thỉnh xây dựng cái tôi với bút pháp

riêng, bao giờ cũng để cái tôi được sống thật, gắn với những cảm giác thật. Một trong

những tiềm năng của hồn thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm trực giác. Nhà thơ có cảm

nhận về thời khắc giao mùa từ hạ sang thu rất tinh tế:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

(Sang thu)

64

Mùa thu có chút se se lạnh của gió đầu mùa với hương ổi đặc trưng của vùng

quê Việt Nam. Cảm nhận về thiên nhiên để rồi nhà thơ đưa đến một triết lí sâu sắc về đời sống:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi (Sang thu)

Nắng, mưa, sấm là những biến động bất thường của ngoại cảnh, là vất vả lo toan của của cuộc đời nhưng với con người từng trải thì họ đón nhận những thử thách

ấy một cách bình tĩnh, vững vàng. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” biểu tượng cho

những người đã trưởng thành, chín chắn, từng trải. Từ hình ảnh thực của thiên nhiên,

tác giả gợi lên một ý nghĩa xâu xa: con người đã đứng tuổi, đã từng trải thì ít bị chấn

động bởi những biến cố bất thường của cuộc đời.

Như vậy, Hữu Thỉnh đã xây dựng trong thơ mình hình tượng con người cá nhân,

cái tôi cá nhân. Cái tôi đó vừa truy vấn chính bản thân vừa truy vấn xã hội. Hữu Thỉnh

luôn hướng đến cuộc đời và mỗi bài thơ ông là một tâm niệm, một suy tư về nhân tình

thế thái. Nhờ đó, nhà thơ đã dâng tặng bạn đọc những cảm xúc đặc biệt, những nhận

thức mới mẻ về thế giới tâm hồn con người ẩn chứa bao điều bất ngờ thú vị.

65

Chương 3

MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN HIỆN THỰC

ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH

3.1. Ngôn ngữ

3.1.1. Vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ dân gian

Trong các sáng tác của Hữu Thỉnh, lớp từ ngữ gần với ngôn ngữ đời sống

được nhà thơ sử dụng rất phổ biến. Nó mang đến cho thơ ông một cách diễn đạt gần

gũi, thân quen. Đặc biệt, nhà thơ sử dụng những từ ngữ mang tính khẩu ngữ, mang

đậm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:

Mẹ tôi đã già rồi

Đời không ai biết cả

Tôi bước vào thành phố

Vết sẹo dìu tôi đi

(Tôi bước vào thành phố)

Lớp từ thuần Việt vốn giản dị, mộc mạc nhưng thuyết phục và làm rung động

lòng người đọc bởi chính vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên. Hữu Thỉnh đã tiếp nhận ưu

điểm lớn này của ngôn ngữ đời sống sử dụng trong nhiều tác phẩm. Mượn cách nói

giàu hình ảnh của dân chúng, nhà thơ đã khoác lên những từ ngữ vốn thông dụng

trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân một vẻ đẹp riêng vừa tự nhiên, vừa

thú vị: “Chớp nhì nhằng lô cốt méo bên sông” (Chuyến đò giáp ranh); “gió như chạy

chân trần trên đất”, “Ông bà đi xa ruộng nương để lại / Làm sẵn ca dao dạy cách ở ăn” (Sức bền của đất); “Lá thư chữ đứng chữ ngồi”,“Sáng úp mặt ngoài đồng/ Chiều còng

lưng cuốc đất” (Đường tới thanh phố); “Mây đen một mảnh nhỡ nhàng về quê”, “Chiếc

nón mê thui thủi giữa đồng”, “Cha nhễ nhại trước cỏ lau cỏ lác” (Trường ca biển),...

Trong thơ Hữu Thỉnh, lớp từ ngữ dân dã trong sinh hoạt đời thường xuất hiện

nhiều để bộc lộ một cái nhìn hiện thực đối với cuộc chiến tranh gian khổ và khắc họa hình ảnh người lính trở nên chân thực, giản dị đúng với chân dung nhân vật hơn:

Xạ thủ trung liên Lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi Đang chở che, đang âu yếm mọi người Tiếp thêm củi bằng bàn tay thô nháp

Những ngòn bằng như cây bài tam cúc Từng bàng hoàng trên mái tóc người yêu

(Đường tới thành phố)

66

Ngôn ngữ mộc mạc toát lên từ những đoạn thơ giới thiệu về hình ảnh những

người lính làm cho lời kể càng thêm chân thực, giản dị. Có thể khẳng định rằng yếu

tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, được đưa vào lời kể khiến cho cuộc sống chiến trường

với biết bao sự kiện ngổn ngang, bề bộn được hiện lên rõ nét:

Chính mơ ước cho chúng tôi bóng mát

Qua bãi bom cây cối cộc cằn

Nhìn ngọn lửa lại nhìn nhau

Bỗng lạ

Lòng cứ đầy những Bình Định, Nha Trang...

(Đường tới thành phố)

Để miêu tả cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa biển và người lính trong Trường ca

biển, Hữu Thỉnh đã sử dụng thể thơ văn xuôi. Cuộc đối thoại giữa biển với người lính

thực chất là một cuộc độc thoại nội tâm, nhờ những dòng thơ văn xuôi mà tâm tư của

người lính hiện lên một cách chân thực và sâu sắc:

Người lính nói:

- Tôi phải làm gì.

Biển nói:

- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.

Đó là nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng.

Người lính nói:

- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin.

Đối thoại với biển, người lính như đang tự đối thoại với chính bản thân của

mình. Trước một môi trường sống xa lạ và hoàn toàn mới mẻ, người lính phải bỏ lại

hết kinh nghiệm sống có từ trước để hòa nhập với biển cả. Đứng trước biển, trước

những khó khăn, cạm bẫy trước mắt, người lính vẫn không hề lùi bước. Thái độ của

họ trước biển đời đầy chông gai là một tinh thần sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống

hiến. Đó chính là tư thế kiêu hãnh của người lính thời bình.

Nhờ có lớp từ sinh hoạt đời thường, bình dị, sinh động, ta thấy được hiện thực

cuộc sống được miêu tả như nó vốn có và hình ảnh con người, quê hương trở nên

thân quen, gần gũi và đẹp đẽ:

67

Tôi sinh ra quả trám đã bùi

Rễ si buông cước lá sòi rưng rưng

Tôi chưa với tới trái bòng

Kiễng chân chóng mặt cầu vồng lên năm

Cầu vồng xanh đỏ tím vàng

Chim cu toan đổi chuỗi cườm trời cho

(Trường ca biển)

Trong thơ Hữu Thỉnh có sự dung nạp số lượng khá lớn ngôn ngữ của đời sống

hàng ngày, tiếng nói của người bình dân, cho phép nhà thơ phản ánh sát đúng thần

thái của hiện thực và con người được miêu tả. Ta có thể thấy Hữu Thỉnh không hề tô

điểm cho lời thơ, để cho bản thân sự vật, sự việc hiện lên với đúng dáng vẻ, đặc điểm

của nó. Chẳng hạn, tác giả diễn tả tâm trạng một người lính sau trận chiến với kẻ thù:

Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao

Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó

Cái lặng im hoàn toàn

Anh nằm nghe anh thở

(Đường tới thành phố)

Các từ ngữ đời thường đã giúp cho thơ Hữu Thỉnh thấm đẫm hơi thở cuộc

sống. Đối với Hữu Thỉnh, chất thơ không phải ở đâu xa mà nó được chắt lọc từ

chính lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chính điều này đã tạo nên sự gần gũi, thân thiết,

dễ đi vào lòng người.

Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, Hữu Thỉnh còn sử dụng ngôn

ngữ mang sắc thái dân gian. Khi nghiên cứu về thơ Hữu Thỉnh, Lưu Khánh Thơ

khẳng định: “Trong làng thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục

ngữ...Hữu Thỉnh có thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu

đáo, cặn kẽ, hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một người

chuyên nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã làm Hữu

Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh. Hữu Thỉnh

tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh mà

còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết”

[28, tr. 411].

68

Để làm nên thành công trong thơ Hữu Thỉnh không thể không kể đến yếu tố

ngôn ngữ dân gian. Yếu tố này được nhà thơ vận dụng khá nhuần nhuyễn, sáng tạo và

đạt được giá trị nghệ thuật cao. Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta thấy được những ngôn từ được

chắt lọc từ nên văn học dân như ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Chẳng hạn, trong bài thơ Trên một chiếc xe tăng, nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn,

biến đổi hợp lí, linh hoạt, ghi lại những gì tinh túy, cái hồn câu tục ngữ dân gian:

Vào lính xe tăng anh trước anh sau

Nết ăn ở người thì lạnh nóng

Khi đã hát hòa cùng một giọng

Một người đau tất cả quên ăn

Cách ứng xử trong dân gian đã được nhà thơ vận dụng sáng tạo trong hoàn

cảnh chiến tranh để nói lên tinh thần yêu thương, đoàn kết của những người lính:

Ăn trông nồi, là nhường nhịn anh em,

Ngồi trông hướng, là biết thù bóng tối

(Sức bền của đất)

Vốn văn hóa dân gian, những câu ca dao đã ăn sâu, thấm đẫm trong thơ Hữu

Thỉnh. Nhà thơ mượn ca dao để nói lên phép đối nhân xử thế, triết lí nhân sinh của

con người Việt Nam:

…Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

(Trường ca biển)

Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía, con người phải biết thích

nghi với hoàn cảnh, làm chủ hoàn cảnh: ra sông phải yêu sóng, đi đường xa gặp núi

thì lấy đèo mà tin. Thì ra để đi đến chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ

được hoàn cảnh và làm chủ được chính mình. Đây chính là “chìa khóa” giúp người

lính tìm được con đường sống, tự do và hạnh phúc.

Không chỉ vậy, giọng điệu thơ Hữu Thỉnh cũng chịu nhiều ảnh hưởng của thơ

dân gian. Câu thơ của ông còn nguyên âm hưởng lời ru:

À ơi tình cũ nghẹn lời

Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh

(Trường ca Biển)

69

Đặc biệt, ở trường ca Sức bền của đất, nhà thơ diễn tả cuộc kháng chiến vĩ đại

của dân tộc bằng những chất liệu dân dã, gần gũi với người dân nơi xóm mạc. Vốn là

một người lính xuất thân từ nông dân, hơn ai hết Hữu Thỉnh cảm nhận rõ cuộc sống

của chính mình, của những người thân nơi quê hương. Trước những vấn đề lớn của

đất nước, nhà thơ đã lí giải bằng cách nói riêng, giản dị mà sâu lắng:

Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt đầu

Mang cái rét riêng hai đi bám giặc

Mang chất thép định hình trên bàn cát

Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa

Ta chao chân trên những mảng bờ

Lặng lẽ nhận sức bền của đất

(Sức bền của đất)

Dù sử dụng những thi liệu dân gian quen thuộc nhưng Hữu Thỉnh vẫn thể hiện

được lối tư duy thơ hiện đại mới mẻ của mình. Hình ảnh “chuyến đò đầy” trong ca

dao: “Mình về anh dặn câu này/ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” đã được nhà thơ

vận dụng sáng tạo và tài tình để tạo dựng một“chuyến đò” số phận của một người

phụ nữ nhan sắc từng đằng đẵng suốt hai mươi năm “chôn tuổi xuân trong má lúm

đồng tiền”, khắc khoải chờ chồng:

Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy

Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh “đò đầy” trong ca dao khi đi vào trong thơ Hữu Thỉnh đã trở thành

một biểu tượng đầy ám ảnh về sự mất mát hy sinh thầm lặng mà vô cùng lớn lao của

người phụ nữ trong chiến tranh. Đó là sự vận dụng tài hoa, tinh tế văn học dân gian

để tạo nên vẻ hấp dẫn, độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh.

Việc tiếp thu chất liệu dân gian đã tạo cho thơ Hữu Thỉnh mang tính truyền

thống. Nhà thơ đã làm cho kho tàng văn học dân gian thêm phong phú, góp phần giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

3.1.2. Lạ hóa ngôn ngữ thơ

Cùng với ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ mang sắc thái dân gian, thơ Hữu

Thỉnh còn cho ta thấy một lối viết mới mẻ mang tính sáng tạo trong sử dụng ngôn từ.

70

Trong suốt chặng đường thơ của mình, ông luôn tìm tòi, sáng tạo về ngôn từ để góp

phần hoàn thiện ngôn ngữ thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh việc khai thác cái hay,

cái đẹp của ngôn ngữ đời thường, của văn học dân gian, Hữu Thỉnh còn không ngừng

trau chuốt, sáng tạo ngôn từ để có thể phản ánh một cách sâu sắc về hiện thực đời

sống xã hội và con người, nhất là việc tác giả sáng tạo cái mới làm “lạ hóa” ngôn

ngữ thơ, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Hữu Thỉnh luôn có ý thức trong việc lạ hóa ngôn ngữ thơ để gợi ra sức mạnh

liên tưởng trong lòng người đọc. Nhà thơ có thể cụ thể hóa một cách tài tình những

sắc thái xúc cảm mơ hồ nhất. Khi quê hương yên bình, nhà thơ nhận ra sự đổi mới

ngay từ những cảm nhận tinh tế, từ sự chuyển giao của đất trời, những tín hiệu

chuyển mùa từ hạ sang thu. Từ một mùi hương, một làn gió, một đám mây cũng được

ngòi bút của Hữu Thỉnh phác họa thật đẹp và gợi cảm:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

... Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

(Sang thu)

Nhờ có ý thức trong việc tạo ra ngôn ngữ lạ, độc đáo, thơ Hữu Thỉnh tạo được

sức mạnh liên tưởng, kích thích rất mạnh vào mọi giác quan và trí tưởng tượng của

người đọc. Là một người giàu trải nghiệm, Hữu Thỉnh muốn am hiểu các sự kiện của

hiện thực đời sống và con người để mong có lối viết riêng. Nhà thơ đã tạo cho mình

một lớp ngôn từ khó lẫn giữa những tiếng thơ trên thi đàn hiện nay. Đó là ngôn ngữ

giàu sáng tạo và có giá trị thẩm mỹ cao với những nét phong cách đặc trưng. Dễ thấy

nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh là cảm xúc tinh tế, đôn hậu. Hữu Thỉnh là một hồn thơ

nhạy cảm, biết rung động những cảm xúc tinh tế, mạnh về trực giác, trực cảm. Tạo

vật thiên nhiên đi vào trong thơ Hữu Thỉnh bằng một lối cảm nhận rất riêng:

gió thổi dài ẩm ướt về khuya

con sóng nói nhịp chèo cũng nói

…đêm giáp ranh có gì đầm đậm

ở đầu môi, ở trong tóc, khắp làn da

(Chuyến đò đêm giáp ranh)

71

Có khi nhà thơ gắn giữa cái thực với cái ảo, cái hữu hình với cái vô hình và

ngược lại để tạo những hình ảnh thơ mới lạ, độc đáo: “Chim đầy mùi trời/ Trời đầy

mùi thiên hạ” (Trường ca biển); “Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt/ Ngõ đứng

trông người” (Đi dưới cây). Những câu thơ có sự kết hợp giữa cái hữu hình và cái vô

hình đã tạo được giá trị biểu cảm và giá trị thẩm mĩ cao: “Tôi gọi những căn nhà trơ

trọi hàng hiên/ Xiêu vẹo đỡ một hoàng hôn rách rưới”(Đường tới thành phố); “Trời

đang chớp gió trên đầu/ Nụ cười ẩn giữa binh đao, nói gì?”(Trước tượng Bay-on);

“Bắt gặp tình thương đi đưa đám hận thù”(Buổi sáng thức dậy); “Cả đất trời say

sóng ở Trường Sa”(Trường ca biển),… Việc kết hợp những ngôn từ mới lạ, đầy sáng

tạo đã đem đến sự nổi trội, một ưu thế của thơ Hữu Thỉnh.

Có thể thấy, thơ Hữu Thỉnh tái hiện thiên nhiên, cuộc sống, con người bằng

thứ ngôn ngữ mới lạ, giàu hình ảnh và giàu giá trị biểu cảm: “Chúng tôi bơi trong

thương nhớ của riêng mình” (Chuyến đò đêm giáp ranh); “em vừa gỡ gió ngoài sân/

anh vừa góp được một lần vu vơ” (Vu vơ); “đất nước theo em ra ngõ một mình”

(Đường tới thành phố). Hữu Thỉnh luôn chú trọng việc xây dựng giá trị ngôn ngữ

nghệ thuật của mình. Khi nghiên cứu về sự đổi mới, sáng tạo trong ngôn ngữ, tác giả

Hoàng Điệp đã đánh giá: “Hữu Thỉnh có biệt tài trong việc xây dựng giá trị ngôn ngữ

nghệ thuật của mình. Ông đã khéo kết hợp được cái có lý và cái vô lý, giữa cái vô

hạn và cái hữu hạn, nhiều khi Hữu Thỉnh khiến người đọc sững sờ bởi cách nhìn và

cách cảm mang màu sắc siêu thực” [12, tr.115]. Phải chăng chính những năm tháng

dày công chiêm nghiệm cuộc sống đã làm nên trong thơ Hữu Thỉnh những phép so

sánh, đối chiếu bất ngờ thú vị đó, phần nhiều là những câu thơ mang ngôn ngữ rất

hay và gợi cảm: “Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao” (Tiếng hát trong rừng); “ý

nghĩ hằn lên theo từng vết xích, Trên tháp pháo xe tăng/ những ý nghĩ cứ xóc nảy lên

và chắp vá” (Ý nghĩ không vần); “đêm căng như từ giấy/ chia sang đều hai bên”

(Chuyến đò đêm giáp ranh); “Tôi ngồi buồn như lá sen rách” (Nghe tiếng cuốc kêu);

“nhem nhuốc cả ngày xanh”, “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, “Trận

rét rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành phố);“Bàn chân lính đánh vần trên

đất đai tổ quốc” (Trường ca biển),... Việc sử dụng những ngôn từ đó làm cho sự vật

mô tả trở nên cụ thể hóa, giàu giá trị tạo hình, gợi cảm kích thích mạnh vào giác

quan, trí tưởng tượng đối với người đọc.

72

Qua việc khảo sát trên, chúng ta thấy ngôn ngữ trong thơ Hữu Thỉnh vừa mang

tính truyền thống lại vừa mang tính hiện đại. Hữu Thỉnh đã tự tạo cho mình một hình

thức ngôn ngữ riêng, vừa thông dụng, gần gũi với đời sống mà vẫn không đánh mất

chất thơ của chúng. Mượn ngôn ngữ dân gian nhưng ngôn ngữ đó được vận dụng

sáng tạo qua một tư duy thơ hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ sáng tạo ra những từ ngữ mới

lạ, độc đáo tạo được ấn tượng và sự hấp dẫn đối với người đọc. Hữu Thỉnh đã thành

công khi mở ra cho người đọc một cách nhìn cách cảm về hiện thực cuộc sống và con

người bằng một ngôn ngữ riêng của mình. Trên hành trình đến với độc giả, nhà thơ

đã thể hiện một chân lí nghệ thuật độc đáo với ngôn ngữ trong sáng của tiếng Việt,

góp phần quan trọng cho sự phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam.

3.2. Giọng điệu

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi

Khi viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, các nhà văn nhà thơ

thường sử dụng giọng ngợi ca, hào hùng mang âm hưởng sử thi. Ngay cả khi chiến

tranh kết thúc giọng điệu này vẫn được sử dụng trong sáng tác nhưng càng về sau

càng nhạt dần. Những sáng tác của Hữu Thỉnh, đặc biệt là thể loại trường ca cũng

vậy. Giọng điệu mang âm hưởng anh hùng ca thấm đẫm trong trường ca của ông.

Cuộc chiến tranh sẽ bi thương nếu ta chỉ nhìn thấy chết chóc, đau khổ; hơn thế, nếu

không có chất anh hùng ca thì tự nó sẽ rơi vào nhàm chán. Hữu Thỉnh đến với trường

ca cũng không nằm ngoài khao khát tổng kết, nhận diện lại lịch sử, bộc lộ trách

nhiệm và tình cảm của mình với dân tộc. Tất cả những điều lớn lao ấy tự bản thân nó

đã mang tính sử thi và nội dung anh hùng ca.

Có thể khẳng định các trường ca của Hữu Thỉnh đều có cảm xúc chủ đạo là

ngợi ca và mang âm hưởng sử thi. Đó là những khúc ca ngợi ca dân tộc anh hùng,

trong đó có những con người anh hùng, quê hương, hậu phương anh hùng. Đọc

trường ca Sức bền của đất, ta như lại được sống lại với những trang sử vẻ vang của

dân tộc. Đây chính là một động lực thôi thúc người lính hành quân ra trận:

Ngô Quyền nhìn người dân binh cuối cùng trước giáo gươm giặc tới

Người lệnh cho thủy triều đầu quân

Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc.

Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước

Kế đầu tiên là kế nhân hòa

Lệnh đầu tiên: người hiền không bỏ sót

Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm muối vừng

73

Hữu Thỉnh đã nhắc lại những trang sử hào hùng, truyền thống anh dũng của

dân tộc được viết bằng máu của chính cha ông ta. Nó như một niềm thôi thúc thế hệ

sau không quên truyền thống đó. Từ lịch sử của dân tộc, nhà thơ ghi lại giây phút

hành quân âm thầm mà ngùn ngụt sức mạnh ở bên trong:

Ta chao chân trên những mảnh bờ

Lặng lẽ nhận sức bền của đất

Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép

Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm

(Sức bền của đất)

Đến với trường ca của Hữu Thỉnh, ta như được hòa mình vào chặng đường

hành quân hối hả trong không khí dầu sôi, lửa bỏng của cuộc chiến tranh:

Con đường tấy lên như một lời thề

Đất gọi ta

Làng gọi ta

Nóng bỏng

Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng

Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên

(Sức bền của đất)

Trong trường ca Đường tới thành phố, giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử

thi được thể hiện rõ với những cung bậc cảm xúc đa dạng, phong phú. Chặng đường

hành quân hối hả của những binh đoàn đã thể hiện bằng giọng anh hùng ca:

Đất nước đổ ra đường

Tiềm lực lớn những binh đoàn chiến lược

Binh đoàn hướng Đông, binh đoàn hướng Nam, hướng Bắc

Lướt qua đoàn dân vệ, bảo an

Lướt qua các chi khu, căn cứ

…Đêm thần tốc

Đo thủy triều chiến dịch

Đường rập rang

Điệp khúc những bàn chân

74

Con đường hành quân sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người lính với bao buồn vui,

gian khổ. Tất cả sẽ “hóa thành thơ” khi người lính luôn hướng về lí tưởng cách

mạng, về ngày mai tươi sáng:

Đường ta đi, gian khó chẳng mau quên

Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ

(Giấc ngủ trên đường ra trận)

Nhà thơ rất trân trọng ngợi ca những cá nhân anh hùng trong cuộc kháng

chiến. Đó là hình ảnh người tư lệnh, người chiến sĩ lái xe tăng, đôi vợ chồng hoạt

động ở vùng địch hậu, anh bộc phá viên giỏi toán. Họ là những con người luôn yêu

đất nước như máu thịt của mình:

Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt

Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi

(Đường tới thành phố)

Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi còn được biểu hiện qua giây phút tự

hào, với bao nỗi niềm sung sướng trong ngày Sài Gòn toàn thắng:

Những mặt người như cờ đỏ mới may

Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ

(Đường tới thành phố)

Niềm hạnh phúc của chiến thắng hiện hình trên gương mặt mỗi con người. Cả

thành phố vui mừng, náo nức lạ thường, người nào cũng đều vui vẻ như trẻ nhỏ được

tặng quần áo mới. Niềm vui chiến thắng khó có thể diễn tả hết được bằng lời. Không

khí hào hùng vào ngày giải phóng đất nước 30 tháng 4 như một mốc son chói lọi của

lịch sử dân tộc, nó đã trở thành sự kiện quan trọng, không thể thiếu trong trường ca của

Hữu Thỉnh cũng như của Thanh Thảo, Thu Bồn... Có thể khẳng định răng: nhờ giọng

điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho thơ Hữu Thỉnh, giúp

cho thơ ông gợi được không khí thực nóng bỏng của những tháng ngày bom đạn chiến

trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày đất nước giải phóng.

Trong Trường ca biển, Hữu Thỉnh lại tiếp tục ngợi ca hình ảnh đất nước với

giá trị văn hóa dân tộc. Những giá trị đó là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để

con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

75

Tiếng Việt gọi hồn Việt

Giữa đất Việt ngoài khơi

Tiếng Việt là ngọn cờ

Hội quân trong đêm tối

Tiếng Việt để nhận nhau

Giữa bao nhiêu rắc rối

Tiếng Việt giống như ngọn cờ ngoài khơi, trên những con tàu đang bảo vệ chủ

quyền của Tổ quốc, nó thật thiêng liêng và hùng vĩ biết bao. Hữu Thỉnh viết về đất

nước bằng những nét văn hóa dân gian với niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc:

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Gặp Trương Chi cắm sào đứng hát

Mỵ Nương vẫn đang ngồi khóc

Nước mắt thành ngọc trai

…Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Gặp nàng Tiên Dung đội cát

Giọng điệu ngợi ca, mang đậm chất sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho thơ

Hữu Thỉnh. Đó chính là không khí thời đại với những nội dung lớn lao: tình cảm

thiêng liêng, trong sáng đối với đất nước trong những tháng ngày gian lao, là suy

tưởng của cả một thế hệ được sinh ra và thử thách trong chiến tranh; đó là sự ngợi ca

về những mất mát, sống còn của cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc,... Chính vì

vậy, khi đọc thơ Hữu Thỉnh, người đọc như được sống trong không khí thực của

những tháng ngày bom đạn chiến trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày

đất nước giải phóng.

3.2.2. Giọng điệu tâm tình

Không chỉ mang giọng điệu ngợi ca, mang tính sử thi, thơ Hữu Thỉnh còn có

giọng điệu tâm tình. Nhận xét về giọng điệu của Hữu Thỉnh ở trường ca “Đường tới

thành phố” trong tương quan với trường ca của Thanh Thảo, Đào Thái Tôn cho rằng:

“Nếu Thanh Thảo trong trường ca của mình cho bạn đọc một cách nói mới, thậm chí

táo bạo trong thơ so với trước đó- một cách nói thông minh táo bạo làm cho người

đọc có cảm giác rằng anh viết rồi mới cảm thì Hữu Thỉnh dân dã, đằm thắm, mượt

76

mà và thủ thỉ như quê mùa làm cho người đọc cảm nhận ít khi qua khâu nghĩ ngợi.

Nếu Thanh Thảo hát bè cao thì Hữu Thỉnh Hát bè trầm” [68].

Giọng điệu thơ Hữu Thỉnh nghiêng về phía tâm tình một cách ngọt ngào, trầm

lắng. Giọng điệu này giữ vai trò chủ đạo ở giai đoạn sáng tác trong chiến tranh. Khi

viết về chiến tranh, ta thấy nhân vật trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh thường đại diện cho

những người chiến sĩ trực tiếp bày tỏ về hiện thực cuộc sống và con người nơi mà họ

đã từng gắn bó. Nhân vật trữ tình thường xưng hô bằng các đại từ “tôi”, “con”, “anh”

để giãi bày tâm sự, tình cảm về bản thân, những suy nghĩ về tình yêu trong thời chiến,

tình cảm với mẹ, với quê hương: “Sau bản Đông giải phóng vài ngày/ Tôi với chiến

sĩ xe tăng cầu Chaki tắm mát” (Sau trận đánh); “Anh viết cho em những ý nghĩ

không vần/ đường Trường Sơn khúc khuỷu” (Ý nghĩ không vần); “con lại ngồi vào

chiếc chõng tre xưa/ nơi mẹ vẫn ngồi khâu cha thường chẻ lạt” (Ngôi nhà của mẹ).

Chính nhờ giọng điệu tâm tình đó đã giúp cho thơ Hữu Thỉnh thật chân thực

và cảm động:

Đường ta đi, gian khó chẳng mau quên

Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ

Đèo nặng thế mà khi vào giấc ngủ

Cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu

(Giấc ngủ trên đường ra trận)

Giọng tâm tình trong sáng tác của Hữu Thỉnh không thể vắng bóng nhân vật

đối thoại. Nhân vật này xuất hiện khá đa dạng qua cách sử dụng nhiều hô ngữ: “Bà ơi

mùa hạ đi đâu ?” (Mùa hạ đi đâu); “Đi trong mây anh thấy ấm em à” (Đi trong

mây); “Em ở đâu ? Cây thưa và bến rộng” (Trở lại mùa xuân); “Em có nghe thấy

không ?...Sài Gòn ơi, ta đã về đây, Em ơi em, em là biển của đời anh” (Đường tới

thành phố); “Hoàng ơi, Vũ ơi, Vân ơi…Song Tử đâu? Nam Yết đâu? Sinh Tồn đâu?”

(Trường ca biển),…Việc sử dụng những từ hô ngữ đó có tác dụng giúp cho chủ thể

trữ tình giống như đang tâm sự với ai và làm cho mọi người, mọi vật trở nên gần gũi,

thân thiết hơn. Thậm chí ngay cả nhan đề bài thơ cũng có dấu hiệu của lời bộc bạch,

tâm sự như: “Lời thưa”, “Tự thú”, “Hỏi”, “Em còn nhớ chăng”, “Chăn-đa em ơi”,

“Thưa thầy”, “Gửi bạn triền sông”, “Gửi người bộ hành lặng lẽ”,…

77

Đề tài chủ yếu của giọng điệu tâm tình trong sáng tác của Hữu Thỉnh là người

lính, người mẹ, đất nước và tình yêu. Chất giọng tâm tình được hun đúc bằng cái nhìn

lang mạn. Khi viết về chiến tranh, thơ Hữu Thỉnh vẫn phản ánh hiện thực nhưng

không vì thế mà khô cứng, gân guốc về ngôn từ cũng như giọng điệu. Sự đa sắc màu

trong giọng điệu đã tạo nhịp điệu vừa hào hùng mang tính sử thi vừa tâm tình, tha

thiết. Đó là giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tự nhiên:

Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ

Mẹ ở nhà đã cất áo bông

Mẹ có ra bờ sông

Qua bến đò tiễn con dạo trước

Đường xuống bến có mười sáu bậc

Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu

(Sức bền của đất)

Đến với Trường ca biển, giọng điệu tâm tình được thể hiện gắn với kỉ niệm

tuổi thơ ngọt ngào, gắn với những sắc màu dân gian trong lời tự thuật của người lính:

Châu chấu cào cào xanh tím rủ tôi đi

Những đồi cỏ may những bờ trống ếch

Cây bưởi ca dao cây cau cổ tích

Tôi âm thầm nuôi bống trong chai

Giọng điệu tâm tình còn được thể hiện ở những lời tâm sự ân tình, thủ thỉ về

chuyện tình yêu của đôi lứa trong chiến tranh:

- Nắng mưa làm ảnh mờ đi

Hình như anh chụp trước khi xuống tàu ?

Hình như ở xóm Vườn Trầu

Có người chị, mối tình đầu của anh ?

- Mình đang làm sử chiến tranh

Có cần nghe một mối tình dở dang ?

(Đường tới thành phố)

Chất giọng tâm tình cũng đem lại những khác biệt rõ nét trong đề tài tình yêu

đôi lứa. Trong chiến tranh, tình yêu trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu đặt trong mối quan

78

hệ với cái ta chung của cộng đồng, dân tộc và ít nhiều bị chi phối bởi quyền lợi của

dân tộc. Thơ viết về tình yêu giai đoạn sáng tác sau chiến tranh của Hữu Thỉnh chủ

yếu xoáy sâu vào cái tôi cá thể của nhân vật trữ tình, giọng tâm tình lúc này vẫn có sự

đúc kết, chiêm nghiệm về cuộc sống:

Anh phải nói vòng vo anh yêu biển

Anh yêu trời để thú nhận yêu em

Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa

Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm

(Tạm biệt Sầm Sơn)

Đến với bài thơ Thưa thầy, lời thưa cũng chính là lời tâm sự đầy tình cảm.

Nhân vật trữ tình đã nhận ra sự vấp ngã ngay giữa cuộc đời và thấu hiểu về

người thầy:

Đã vấp ngã, thưa thầy nhiều vấp ngã

Không ở đâu xa ở giữa con người

Em bước đi hoảng hốt nghĩ về thầy

Đời nhanh quá vui buồn chưa kịp cũ

Đời nhanh quá tóc thầy khói phủ

Giáo án chông chênh bão giật đời thường

Cây trước cửa gió ở ngoài tay với

Thầy một mình vật vã với văn chương.

Sự vấp ngã ngay giữa con người là cách nhìn sâu sắc nhiều trực cảm. Chỉ vài

nét chấm phá chan chứa sự cảm thông, nhà thơ đã khắc họa chân dung người thầy

giáo trong gian khó đời thường. Trong lời tâm tình về người thầy đó vẫn chứa đựng

một triết lí về cuộc đời. Cây có thể là cây đời, cây người, là cây thầy gieo trồng với

bao hy vọng. Bài học không chỉ khuôn trong trang vở, rõ ràng văn chương đích thực

bao giờ cũng hướng tới cuộc đời. Người sáng tạo vật vã đã đành người chuyển tải qua

từng trang giáo án cũng vật vã không kém: "Thầy một mình vật vã với văn chương".

Nhà thơ sử dụng chất giọng tâm tình mang tính tự sự, bộc bạch để rồi khái quát lên

thành triết lí. Đây là hình thức tồn tại hiếm thấy trong chất giọng tâm tình của thơ

Hữu Thỉnh trong giai đoạn chiến tranh.

79

3.2.3. Giọng điệu suy tư, triết lí

Thơ Hữu Thỉnh không chỉ là những lời trữ tình mềm mại mà còn hàm chứa

những suy tư, triết lí về nhân sinh, lẽ đời. Trong sáng tác của mình, Hữu Thỉnh thể

hiện những suy ngẫm, khái quát về lịch sử, những suy tư và chiêm nghiệm sâu sắc về

số phận con người. Số phận ấy hiện lên với những vấn đề nhân sinh muôn thủa như:

Sự sống và cái chết, niềm hạnh phúc và sự đau khổ. Vì thế, nhức nhối trong tâm thức

nhà thơ là con đường tìm kiếm và khám phá hạnh phúc thật sự của con người. Đó là

niềm khao khát, là mục đích sống của con người bao thế hệ và cũng xuất phát từ

chiêm nghiệm thực tế của nhân vật trữ tình. Đến với thơ Hữu Thỉnh, ta có thể thấy

được những triết lí bình dị mà sâu sắc vô cùng:

…Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

(Trường ca biển)

Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía. Chúng ta đã giành được

chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ được

chính mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp được người lính tìm được con đường sống,

tự do và hạnh phúc.

Đến với trường ca Đường tới thành phố, chất triết lí về cuộc đời, đặc biệt là về

lẽ sống đã được diễn đạt một cách đầy đủ và sâu sắc:

Sống làm người chiến thắng

Cho mẹ mình, cho đời mình đỡ khổ

Còn ao ước nào hơn

Tự do và Đoàn tụ

Trong thơ Hữu Thỉnh, ta còn bắt gặp những suy tư, triết lí sâu đậm về quê

hương, đất nước. Đọc bất cứ một sáng tác nào từ tác phẩm đầu tay cho đến những thi

phẩm gần đây nhất, triết lí này luôn thể hiện một ý thức sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ

nói riêng cũng như quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia của tác giả. Điều đó được

nhà thơ khắc họa qua hình ảnh quen thuộc:

Đất đi đến đâu quê hương theo đến đấy

Quê hương đi đến đâu máu đi theo đến đấy

(Trường ca biển)

80

Nhưng suy tư, trăn trở luôn theo suốt chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh.

Đến với bài thơ Lời thưa, ta thấy được những u buồn, trăn trở về thân phận của nhà

thơ trước cuộc đời:

Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi

Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp

Hữu Thỉnh luôn quan tâm đến thân phận con người và không ngừng suy tư về

nhân thế. Nhà thơ hay nói về sự cô đơn, sự xuống cấp về đạo đức của xã hội, sự nhạt

nhẽo của tình đời của lòng người,… Hữu Thỉnh thường quan tâm đến những vấn đề

đạo đức của con người, nói đến mùa nhân nghĩa, luật nhân quả, sự tráo trở, vô cảm

của lòng người, của tình đời. Các bài thơ tiêu biểu có thể kể ra như: Tạp cảm, Chạm

cốc với Xa-in, Tôi bước vào thành phố, Những kẻ chặt cây, Đi dưới cây, Hỏi, Bất

hạnh,… Chính điều đó đã khiến Nguyễn Nguyên Tản nhìn nhận: “Cảm hứng đời tư -

thế sự trong mảng thơ viết về cuộc sống thời bình của Hữu Thỉnh dẫn tới xu hướng

bao trùm là tự bày tỏ những trăn trở về cuộc sống thời bình của Hữu Thỉnh dẫn tới

xu hướng bao trùm là sự bày tỏ những trăn trở về thân phận người lính, về nhân dân

sau chiến tranh, về hạnh phúc, thế thái nhân tinh” [48, tr.45].

Đến với Trường ca biển, ta thấy cái tôi trữ tình với bao suy tư, trăn trở về một

đời, về cuộc sống bộn bề, phức tạp. Nó như một niềm hối thúc ta hãy sống thật với

lòng mình, xóa bỏ cái ác, cái xấu để cho cái đẹp, cái thiện được tồn tại vĩnh hằng.

Phải chăng đó là điều người lính biển day dứt nhất khi nói lời tâm sự với mẹ:

Mẹ ơi con nhận ra cái ác vô cùng

Cũng là lúc con nhận ra sự hữu hạn của lòng tốt

Mảnh ván con bơi là lòng tốt vô cùng

Trên thế gian đầy bắt trắc

(Trường ca biển)

Mượn hình tượng người lính nhà thơ đã nói lên những suy tư, triết lí về cuộc

đời. Có thể nói thân phận con người luôn giữ vai trò là đối tượng suy tư trong suốt

quá trình sáng tác của Hữu Thỉnh. Bên cạnh hình tượng người lính, hình tượng người

mẹ cũng để lại những suy tư, chiêm nghiệm trong lòng người đọc. Nếu như trong thời

kì chiến tranh, người mẹ được ngợi ca với đức hi sinh, chịu đựng thầm lặng, với tấm

81

lòng cao cả bao la thì ở gian đoạn sau, hình tượng người mẹ hiện lên với những suy

tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Người mẹ trở thành đối tượng để nhân vật trữ tình bộc

bạch những nỗi niềm suy tư:

Mẹ ơi mây héo con xin mẹ

Cho con lên an ủi mặt trăng buồn

Chợ tan đường cũng tan như chợ

Bán được buồn hay mua được buồn hơn

(Đất ngày thường)

Thậm chí, điều đó trở thành nỗi ám ảnh theo suốt quãng đời của nhân vật trữ

tình. Sự xuống cấp của những chuẩn mực giá trị tốt đẹp đã kéo người mẹ vào những

cuộc phiêu lưu ảm đạm của tình đời:

Anh hiểu vì sao tôi hay nhắc mẹ tôi

Nỗi ám ảnh suốt cuộc đời day dứt

…Miếng cớm manh áo che khuất mẹ tôi

Sự vô tình che khuất mẹ

(Chạm cốc với Xa-in)

Tuy nhiên, nét nổi bật, đáng trân trọng nhất là tình cảm của nhân vật trữ tình dành

cho người mẹ. Đây có thể là điều mà chúng ta chưa từng nghe thấy ở các nhà thơ khác:

Thơ mỗi ngày người càng đọc ít hơn

Nhưng con chọn vũ khí này bênh vực mẹ

(Chạm cốc với Xa-in)

Giọng điệu suy tư đó đã làm nổi bật tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh. Đọc thơ

Hữu Thỉnh, ta thấy có nhiều trường hợp tính triết lí hòa vào chất giọng suy tư. Đối

tượng để nhà thơ chiêm nghiệm có thể là những chi tiết nhỏ, bình dị của cuộc sống.

Trong bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ, Nguyễn Đăng Điệp luôn chú ý

đến tính triết trong thơ Hữu Thỉnh: “Triết lí trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát

từ những chi tiết rất nhỏ nhoi, bình dị”, và nó “được nảy sinh từ những suy ngẫm

không ngừng về lẽ sống, về cách xử thế, về quan hệ người, về cái cao cả mong manh

đang bị bủa vây bởi cái thấp hèn, hung bạo…” [14].

82

Quả thực vậy, chất triết lí trong thơ ông toát lên từ những trải nghiệm sâu sắc,

giản dị, chân thành về hiện thực đời sống và con người. Đó có thể là những cảm

nhận, đúc kết về thân phận con người, về tình yêu, lẽ đời:

Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu

Cây đổ về nơi không có vết rìu

…Người yêu thơ chết vì những đòn văn

Người say biển bị dập vùi trong sóng

(Tự thú)

Cuộc sống sau chiến tranh không hề bình lặng, những thay đổi của thời cuộc

kéo theo cả những toan tính, bon chen vụ lợi. Hữu Thỉnh đã giúp chúng ta hiểu thấm

thía hơn điều đó. Lí giải cuộc đời và số phận con người cũng như bản chất thực của

cuộc sống là điều cốt yếu trong dòng suy tư, triết lí của nhà thơ.

Giọng điệu suy tư, triết lí được nhiều nhà thơ sử dụng như: Phạm Tiến Duật,

Nguyễn Duy, Thanh Thảo,…Nhưng mỗi nhà thơ khi sử dụng giọng điệu này đều có

sự sáng tạo. Trong tầm nhìn của mình, Hữu Thỉnh hay nói về thân phận, về sự xuống

cấp của những giá trị tinh thần, đạo đức của con người. Còn đến với thơ của Phạm

Tiến Duật, ta thấy chất giọng này được nhà thơ sử dụng để diễn tả về lẽ đời, về những

đổi thay của giá trị: “Việc mới thì luật chơi mới/ Cứ gì cờ tướng cờ vua” (Luật chơi).

Hay giọng điệu thơ Nguyễn Duy lại chứa đựng chất giọng ghẹo đùa: “nghêu ngao

hát ngọng nghẹo chơi/ người cười nói xúc phạm người ngậm tăm” (Xẩm ngọng).

Ở giai đoạn sáng tác trong chiến tranh, Hữu Thỉnh thường suy tư về dân tộc,

về những lẽ sống lớn. Ở giai đoạn sau chiến tranh, nhà thơ thường suy tư về sự tồn tại

của các số phận cá nhân, về sự suy thoái của các giá trị nhân sinh. Đây chính là

những trăn trở thường trực trong một trái tim đa cảm, luôn quan tâm đến hiện thực

đời sống và con người.

Như vậy, một trong những thành công của thơ Hữu Thỉnh là giọng điệu suy tư,

triết lí. Có được giọng điệu này cũng là điều dễ hiểu bởi nhà thơ đã từng là người lính

đi qua chiến tranh, trực tiếp chứng kiến những được, mất của dân tộc. Chúng ta hình

dung ra một Hữu Thỉnh với bao suy tư, trăn trở, một tư duy luôn đấu tranh, vật lộn

giữa cái ác, cái xấu với cái chân, thiện, mĩ. Những vấn đề suy tư, triết lý trong thơ

83

Hữu Thỉnh không gì khác là những vấn đề nhân sinh muôn thuở của con người: sự

sống, cái chết, niềm hạnh phúc và sự khổ đau. Nhức nhối trong tâm thức nhà thơ là

con đường tìm kiếm và khám phá hạnh phúc thật của con người. Đó là sự khao khát

và là mục đích sống của bao thế hệ. Chính vấn đề này đã đem lại sắc thái biểu cảm,

tránh lối sáo mòn về hình thức thể hiện, đi sâu vào bản chất của cuộc sống, từ đó

khẳng định giá trị nhân văn trong thơ Hữu Thỉnh.

3.3. Hệ thống biểu tượng

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã xem xét biểu tượng theo

nghĩa rộng và nghĩa hẹp: “Theo nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh đời

sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một

phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả

năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa

thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc

đời” [19, tr.24]. Trên hành trình tìm kiếm sự đổi mới, nỗ lực cách tân thơ, Hữu Thỉnh

đã góp tiếng nói đầy nhiệt huyết của mình bằng những biểu tượng thơ giàu sức gợi,

giàu vốn văn hóa và giàu chất suy tưởng. Đó là biểu tượng cho hành trình tìm kiếm

và khai mở (con đường), biểu tượng cho sự hồi sinh (ngọn lửa), biểu tượng cho dòng

chảy vô thường của đời sống với vô vàn những đổi thay và thăng trầm (biển),...

3.3.1. Biểu tượng con đường

Đây là một trong những biểu tượng phổ biến của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Con đường là biểu tượng của sự thống nhất không gian và thời gian để con người

vươn lên, đến với cách mạng.

Thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thuộc phạm trù "cái cao cả", muốn trở

thành cao cả thì không gian không chỉ cần bao la mà còn phải có phương hướng và

con người trong đó phải vận động về một mục đích. Không gian đó chính là con

đường mà nhà thơ thường nhắc đến. Con đường được Hữu Thỉnh khắc họa trong thơ

là con đường Trường Sơn. Trong chiến tranh chống Mỹ, con đường Trường Sơn luôn

gánh chịu những trận bom đạn của kẻ thù. Con đường đó đã đi vào trong thơ ca của

nhiều nhà thơ thời kì này. Ở thơ Hữu Thỉnh, nó hiện lên với những khúc khuỷu, ngổn

ngang đất cát, bốc mùi cháy khét bởi bom đạn của quân thù: “Anh viết cho em những

84

ý nghĩ không vần/ đường Trường Sơn khúc khuỷu/ xích xe tăng quay không êm ả chút

nào” (Ý nghĩ không vần); “Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn/…Đường

ngổn ngang đường đất còn cháy khét” (Tiếng hát trong rừng).

Đường Trường Sơn cũng như các con đường khác trong chiến tranh được ví

như huyết mạch trong cơ thể con người. Để giữ cho con đường huyết mạch được

thông suốt, những người lính làm nhiệm vụ bảo vệ đường luôn phải đối mặt với

những hiểm nguy khó lường trước:

Để có được con đường

Mở vào lúc chiến trường vơi tiếng súng

Anh xa lạ với cầu an, nghe ngóng

Đường với anh là cách hiểu kẻ thù

(Đường tới thành phố)

Chỉ cần tiếng bom đạn vừa chấm dứt là người lính lại làm nhiệm vụ. Họ lao ra

đường, nơi vừa bị bom đạn cày xới để san bằng mặt đường, kịp cho các chuyến xe lăn

bánh. Con đường giúp cho những người lính hiểu hơn về kẻ thù, chúng không từ thủ

đoạn nào để thực hiện âm mưu của mình.

Cuộc chiến tranh trở nên rõ nét hơn thông qua sự hiện diện của những con

đường mà người lính ra trận. Con đường ấy mang tâm hồn tươi trẻ của người lính,

với đầy âm thanh và màu sắc:

Tiếng hát nâng nhẹ bước chân ta

Qua mỗi cung đường chân trời lại mới

Tim ta đập ở bên kia trái núi

Chân bồn chồn bước lên sườn non

(Giấc ngủ trên đường ra trận)

Ở trường ca Đường tới thành phố còn xuất hiện con đường “30 tháng 4”:

“Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con đường” và con đường mang tên Bác - đường Hồ

Chí Minh. Đây là con đường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử, là mốc

chiến thắng vinh quang của dân tộc. Hình ảnh những con đường trong thơ Hữu Thỉnh

biểu tượng cho con đường đấu tranh của dân tộc để đi đến thắng lợi cuối cùng, thống

nhất đất nước. Trong bài thơ Ý nghĩ không vần, người lính đã nhắc đền con đường:

85

“Con đường chỉ một con đường thôi”. Có lẽ người lính muốn khẳng định sự lựa chọn

duy nhất của mình là đi theo con đường cách mạng, con đường đấu tranh giành độc

lập cho dân tộc. Trong chương IV của trường ca Đường tới thành phố có đến hai lần

lặp lại điệp khúc “Ngữ tư, đường Tự do, rẽ trái”. Con đường “Tự do” là biểu tượng

cho đích chiến thắng của cả dân tộc.

Dùng biểu tượng con đường làm phương thức tổ chức, kết cấu là một hiện

tượng phổ biến trong các trường ca. Trong trường ca Những người đi tới biển của

Thanh Thảo, ta thấy rõ nét “con đường” trưởng thành của một người lính từ hồn

nhiên tươi trẻ tới chín chắn từng trải trong chiến tranh. Ở trường ca Mặt đường khát

vọng của Nguyễn Khoa Điềm lại là con đường từ nhận mặt kẻ thù tới đối mặt với kẻ

thù. Biểu tượng con đường đã trở thành phương thức tổ chức kết cấu các trường ca

chiến trận. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sự kiện được mô tả trong tác phẩm, là định

hướng triển khai ý đồ sáng tác của các nhà thơ. Có thể nói hình tượng con đường đã

trở thành một nội dung phản ánh hiện thực. Nó là hình ảnh xuyên suốt các sự kiện

được miêu tả trong tác phẩm, là định hướng triển khai ý đồ sáng tạo của tác giả. Trên

con đường đó biết bao con người được xuất hiện cùng với bao cảnh ngộ, tâm tư, chịu

đựng khổ đau, khát vọng, niềm vui, hạnh phúc. Những con người ấy là người lính

thuộc nhiều thế hệ, từ vị chỉ huy cho đến người chiến sĩ, từ người cộng sản nằm vùng

đến người mẹ, người chị và nhân dân rộng lớn. Nhà thơ vừa là người tham dự, vừa là

người trực tiếp quan sát đã bộc lộ đầy đủ, trọn vẹn tâm tư, cảm xúc, nghĩ suy triết lý

của mình về cuộc sống.

Thời kì sau kháng chiến, thơ Hữu Thỉnh cũng xuất hiện hình ảnh con đường.

Con đường thời kì này không hàm nghĩa là con đường đấu tranh của dân tộc mà

mang nghĩa chỉ đường đời của con người. Con đường lầy lội mà nhân vật trữ tình

bước đi dưới mưa không nón trong bài thơ Mưa đá chính là con đường đời đầy gian

khổ của mỗi người: “Đường lầy lội tôi bước không tơi nón”. Sau chiến tranh, người

lính trở về với cuộc sống đời thường, phải đối mặt với những vấn đề của đời sống

hàng ngày đầy bon chen. Vì vậy, những day dứt, trăn trở của người lính sau chiến

tranh là vấn đề đạo đức suy thoái, những tính toán trong mối quan hệ giữa con người

với con người. Hữu Thỉnh đã dùng con đường gập gềnh, người đi lại đông đúc để

86

diễn tả nỗi bơ vơ, cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Bước vào thành phố, nhân

vật “tôi” cảm thấy bất ngờ, hụt hẫng trước sự thờ ơ của những người xung quanh:

Gập gềnh đường tôi đi

Không một ai ngó tới

Bỗng nhiên họ xúm lại

Gặp bùn tôi trượt chân

Không phải đỡ tôi lên

Họ xem cho đỡ tẻ

(Tôi bước vào thành phố)

Chắc chắn, nhân vật “tôi” cảm thấy đau đớn vô cùng không phải vì cú trượt

chân ngã mà vì sự dửng dưng vô cảm của những người xung quanh. Trên đường đời

đông đúc thế nhưng nhân vật trữ tình luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Hữu Thỉnh đã

thành công khi chọn biểu tượng con đường để thể hiện đường đời của mỗi người.

Quả thực, hành trình cuộc sống và hành trình thơ của Hữu Thỉnh là một cuộc

hành trình trên con đường lớn lao vô cùng, con đường tình yêu cuộc sống, nó lớn hơn

bản thân nhà thơ rất nhiều lần. Nó là đất nước, là sự tiến triển của tâm hồn dân tộc.

3.3.2. Biểu tượng ngọn lửa

Ngọn lửa trở thành biểu tượng quen thuộc trong thơ ca. Trong thơ Nguyễn

Quang Thiều, ngọn lửa luôn xuất hiện sóng đôi cùng với bóng tối để biểu hiện cho sự

sống, cho khát vọng. Thơ của Thanh Thảo ngọn lửa cũng xuất hiện với tần số khá

nhiều, nó vừa là biểu tượng cho ý chí, sức mạnh của nhân dân đồng thời vừa là biểu

tượng cho tình yêu đôi lứa. Hình ảnh ngọn lửa trong thơ Hữu Thỉnh cũng được nâng

lên thành biểu tượng. Nó mang ý nghĩ tượng trưng cho lí tưởng cách mạng, cho niềm

tin vào tương lai, lòng yêu nước của nhân dân trong thời kì kháng chiến gian khổ và

tình yêu đôi lứa.

Mở đầu trường ca Đường tới thành phố là chương một Ngọn lửa chiến trường

đã tạo dựng không gian, thời gian cho nhân vật người lính xuất hiện. Trong 21 trang

thơ của chương này có đến 15 câu thơ chứa từ “lửa”,” ngọn lửa” và 24 lần xuất hiện

từ, cụm từ liên quan đến lửa “nhóm lên”, “cháy”, “đốm tàn hoa cải”, “bay lên”,

“vun cao ấm”, “lại hơ”, “sưởi”, “ném tàn”,… Ngọn lửa có ý nghĩa tượng trưng cho

87

lí tưởng cách mạng, cho tình yêu Tổ quốc, cho niềm tin bất diệt về tương lai hòa bình,

hạnh phúc của dân tộc. Ngọn lửa được diễn tả chính là ngọn lửa của lòng yêu nước

của ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù. Không ai biết ngọn lửa được nhóm lên từ

khi nào. Chỉ biết khi đất nước có giặc ngoại xâm, ngọn lửa yêu nước đồng loạt được

thắp lên trong lòng mỗi con người, ngay từ chính làng quê:

Không biết bằng cách nào lửa đã nhóm lên

…Trước mặt là bao nhiêu miền quê

Sau lưng là bao nhiêu miền quê

Ngọn lửa ta đốt lên ở giữa

Đây là ngọn lửa trong căn hầm giấu quân giữa rừng Trường Sơn những đêm

chuẩn bị chiến dịch mùa xuân 1975. Ngọn lửa có dáng hình cụ thể "đốm tàn hoa cải,

vun cao vách đất bóng người, ném tàn xua muỗi, bập bùng".

Ngọn lửa của tình yêu nước được thắp lên giúp cho những người có cùng một

chí hướng, lí tưởng sống tìm đến với nhau để thực hiện mục đích cao cả là giành lấy

tự do cho đất nước:

Chúng tôi người chủ những căn hầm

Đốt ngọn lửa để tìm vào tri kỷ

Ngọn lửa ấy luôn được thắp sáng, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Những người lính đã cảm nhận được hơi ấm của những người đi trước: “Chúng

tôi sưởi bằng ngọn lửa của mình, lại thấy ấm từ các anh đi trước”. Trong cuộc chiến

tranh đầy ác liệt, ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc,

người lính vẫn vững vàng chiến đấu bởi trong tâm hồn họ luôn rực sáng ngọn lửa của

niềm tin, hi vọng:

Ngọn lửa này

Và hi vọng của anh

Của chúng tôi những người mới đến

(Đường tới thành phố)

Ngọn lửa còn liên kết những người lính với quê hương, với người thân. Nó

biểu tượng cho tình yêu đôi lứa: “Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa/ Lửa đang soi

mặt đất mấy tầng đêm”. Tình yêu đôi lứa đã gắn bó với tình yêu đất nước và khát

88

vọng giải phóng dân tộc. Ngọn lửa của tình yêu chỉ tỏa sáng khi anh và em cùng

chung một hướng và hòa chung với mọi người, chung tay giải phóng quê hương đất

nước, và khi đó tình yêu cá nhân đã hòa vào cùng nhịp chung của tình yêu lớn , tình

yêu Tổ quốc.

Như vậy, ngọn lửa đã trở thành một biểu tượng đẹp, giàu lí tưởng trong thơ

Hữu Thỉnh. Ngọn lửa biểu tượng cho ý chí dân tộc, cho niềm tin mãnh liệt vào chiến

thắng, cho tình yêu bất diệt của con người. Nó giúp nhà thơ nói lên lòng yêu nước

không chỉ riêng mình mà của cả thế hệ trẻ trong thời kì chống Mỹ cứu nước.

3.3.3. Biểu tượng biển

Biển cũng là một hình ảnh biểu tượng tiêu biểu trong thơ Hữu Thỉnh. Dù là khi

còn chiến tranh hay khi hoà bình, biển cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Trong

sáng tác của Hữu Thỉnh, sự xuất hiện của biển đảo thường gắn liền với người lính. Ở

chương V của trường ca Đường tới thành phố và toàn bộ Trường ca biển biển đảo là

hình tượng bao trùm, trong đó biển được nhắc tới 43 lần. Ngoài ra còn nhiều lần nhắc

đến “cát”, “sóng”, “gió”, “nước”,… Biển đảo cũng là một bộ phận quan trọng của

đất nước. Đất nước chưa thể được độc lập hoàn toàn nếu như vùng biển đảo chưa trọn

vẹn thuộc về chúng ta:

Giữ cho được nước mình

Từ vồng khoai, ngọn mướp

Cả những gì chưa biết dưới lòng sông của đất

Chưa đo xong ngoài biển

Cũng rạch ròi trong vạch vẽ ông cha

(Đường tới thành phố)

Việt Nam là một trong những nước tự hào có bờ biển dài và cả những hòn đảo đã

đi vào lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa...Biển đảo với đất liền tuy xa mà gần bởi đó là một

phần lãnh thổ của Tổ quốc. Theo quan niệm của nhà thơ, biển đảo là một bộ phận của đất

nước và người lính rất tự hào khi được làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc:

Những đảo xa

Những quả trứng dập dờn giữa sóng

Những nhớ thương không ở ngoài tầm

Đất nước

(Trường ca biển)

89

Mặt khác, biển cũng như một người bạn, trò chuyện với lính đảo xa. Trong

cuộc trò chuyện ấy, biển hiện lên như một bậc hiền triết, biết hết mọi điều trên thế

gian; có lúc biển lại như một Thổ công chỉ dẫn cho người lính nhiều điều:

Biển nói:

- Kẻ thù nói ngoài khơi có vàng và tìm cách cướp vàng

Bạn bè nói ngoài khơi có sóng dữ và chia sóng cùng anh

Hãy gọi ai không biến sóng dữ của kẻ khác thành quà tặng cho mình

(Trường ca biển)

Khi sạch bóng quân thù, cả nước chuyển mình sang một thời kỳ mới, trách

nhiệm mới. Cuộc“Đối thoại biển” chính là cuộc đối thoại giữa lịch sử với dân tộc,

con người về con đường đi lên của dân tộc trong hiện tại và tương lai. Con người ta

không thể sống mãi với kinh nghiệm cũ, với hào quang quá khứ và với một dân tộc

cũng vậy:

Người lính nói:

- Bao vốn liếng cả đời góp nhặt

Bước xuống tàu bỗng thành kẻ tay không

Biển nói:

- Những chiếc huân chương còn soi sáng trên bờ

Sống với nước hãy bắt đầu từ nước

…- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời

(Trường ca biển)

Thông qua cuộc đối thoại giữa người lính và biển, tác giả muốn gửi đến một

triết lí sâu sắc về cuộc sống: Đất nước muốn phát triển không thể chỉ dựa vào kinh

nghiệm cũ, không chỉ sống mãi với ánh hào quang chiến thắng mà còn phải dựa vào

bản thân và thực tiễn cuộc sống mà vươn lên. Hình tượng biển đảo không chỉ là bối

cảnh nơi người lính đang sống, chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước mà đó còn là

những đòi hỏi của lịch sử dân tộc vẻ vang trước đây với nhiệm vụ của đất nước trong

thời đại mới. Bài học lịch sử đúng đắn nhất đã được biển rút ra:

Sống với nước hãy bắt đầu từ nước

Đó là nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng

(Trường ca biển)

90

Với người lính, biển mãi là đất mẹ bao bọc các anh trong giờ phút khó khăn và

cả khi đã hy sinh:

Anh không ngủ người đi câu không ngủ

Biển đêm đêm trò chuyện với hai người

(Phan Thiết có anh tôi)

Ở hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian hình tượng biển có

sự thay đổi ý nghĩa so với các trường ca trước đó. Biển lúc này gắn với cuộc sống đời

thường, với những tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình. Tuy không xuất hiện nhiều như

hình tượng con đường nhưng hình tượng biển thể hiện được những vận động, biến đổi

trong quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Hình tượng biển với cuộc sống chiến đấu của

người lính được coi là sự tiếp mạch một phần cảm hứng ở Trường ca Biển:

Biển luôn ở cạnh mình

Bao điều còn cửa khép

(Tiếng gà trên đảo)

Đối với Hữu Thỉnh, biển còn là nơi gắn bó với không gian đời tư. Đứng trước

biển, đôi lúc tác giả đã suy tư, trăn trở về lẽ sống tình đời, lấy biển để biểu tượng cho

lẽ sống cuộc đời. Việc lấy sự mênh mông của biển cả để làm tiền đề suy tư và khát

vọng tình yêu không còn xa lạ trong thơ. Ta đã từng bắt gặp trong thơ Xuân Diệu có

biển mang tình yêu mạnh mẽ, mãnh liệt. Xuân Quỳnh mượn sóng, mượn thuyền và

biển để nói hộ những khao khát tình yêu vĩnh cửu của lòng mình,…Nhưng đọc thơ

Hữu Thỉnh, ta vẫn thấy được nét mới mẻ, bất ngờ. Cũng có khi đứng trước biển mênh

mông, nhà thơ nhận ra sự chông chênh, trống vắng của con người và đưa ra cách triết

lí về tình yêu của riêng mình:

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.

(Thơ viết ở biển)

Cũng có khi biển nhuốm đầy tâm trạng bởi nó chứa biết bao kỷ niệm buồn vui,

lưu luyến.“Tạm biệt nhé thôi đành tạm biệt/ Tán bàng ven biển đôi mắt nước

mưa”(Tạm biệt Sầm Sơn). Đặc biệt khi nhớ nhung, biển là không gian giúp con người

dễ chia sẻ lòng mình nhất:

91

Không giữ nổi một mình

Nhớ em, chia cho sóng

Nhấp phải chút tương tư

Thế là chiều biển động.

(Tám câu)

Có thể nói, các hình tượng con đường, ngọn lửa và biển là những hình tượng

thơ khá nổi bật trong sáng tác của Hữu Thỉnh. Qua những hình tượng này, ta thấy

được hiện thực và con người trong thơ Hữu Thỉnh. Đây chính là cách sáng tạo nhà

thơ thể hiện triết lí sâu sắc về dân tộc, đất nước, những chiêm nghiệm về cuộc sống

của con người, lẽ đời.

92

KẾT LUẬN

1. Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ

trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mặc dù xuất hiện có muộn hơn so

với một số tác giả đồng lứa, nhưng Hữu Thỉnh đã có đóng góp rất đáng quý cho thơ ca

Việt Nam hiện đại. Thơ ông luôn phản ánh hiện thực cuộc sống và con người Việt

Nam. Là một người lính được tôi luyện trong cuộc kháng chiến, Hữu Thỉnh đã góp

tiếng nói quan trong trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước. Sau chiến tranh đến

nay, thơ Hữu Thỉnh vận động theo chiều hướng đổi mới văn học. Nhà thơ từng bước

thay đổi theo hướng tập trung phản ánh hiện thực đời thường đến việc chú ý vào những

trải nghiệm của cá nhân trước cuộc đời. Dù viết về chiến tranh hay cuộc sống thời bình,

thơ Hữu Thỉnh vẫn là tiếng lòng tha thiết với đời của người nghệ sĩ đầy ý thức nghề

nghiệp và trách nhiệm xã hội. Vì vậy, tuy thơ là tiếng nói trữ tình cá nhân nhưng nó lại

có sức khái quát sâu rộng, gây nên sự đồng cảm rộng rãi của nhiều thế hệ độc giả.

Nghiên cứu “Hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh” giúp ta

có được cái nhìn khái quát về những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của

Hữu Thỉnh, đồng thời hình dung được tính độc đáo về cách nhìn hiện thực cuộc sống

và con người Việt Nam của nhà thơ. Thông qua những thay đổi vận động của thơ

Hữu Thỉnh giữa hai thời kỳ thơ chống Mỹ và thơ sau kháng chiến đến nay, người đọc

có thể hình dung những biến chuyển chung trong tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca

Việt Nam trong những thập niên gần đây.

2. Trong quá trình sáng tác, Hữu Thỉnh luôn dồn hết tâm trí và tài năng cho

nghệ thuật để có những tìm tòi, trải nghiệm, đổi mới cho thơ. Với Hữu Thỉnh, tiếp nối

mạch truyền thống, phản ánh tinh thần chung của thời đại, là nguồn sống tạo nên bản

sắc thơ. Thơ ông luôn tìm thấy cái lớn lao trong cái bình thường nhỏ bé, cái kì diệu

trong cái mộc mạc, đơn sơ. Cùng với hành trình sáng tạo của các nhà thơ kháng chiến

chống Mỹ, Hữu Thỉnh đã mang đến cho thơ ca một cái nhìn mới mẻ, riêng biệt và

khá độc đáo khi viết về cuộc chiến cũng như về con người trong cái nhìn toàn diện và

theo nhiều chiều hướng. Nhà thơ từ việc hướng vào hiện thực cuộc kháng chiến để

nói về thế hệ mình, nói về cái tôi người chiến sĩ giàu lý tưởng, luôn khát khao được

cống hiến, không quản ngại hi sinh bản thân mình vì Tổ quốc. Nhà thơ ngợi ca những

vẻ đẹp bình dị dân dã, gắn với cội nguồn về quê hương đất nước, ca ngợi con người

Việt Nam trong kháng chiến. Những sáng tác sau chiến tranh và thời kì đổi mới đất

93

nước lại thích hợp cho việc diễn tả tâm trạng cá nhân nhiều ẩn ức, mang tính triết lý

cao, thuyết phục người đọc ở tầm sâu trí tuệ. Thơ Hữu Thỉnh luôn bám sát nguồn

mạch cuộc sống, luôn phản ánh hiện thực và con người Việt Nam qua các thời kì

khác nhau. Nhà thơ đề cập đến nhiều vấn đề của hiện thực cuộc sống và con người

nhưng đều là những đúc rút có ý nghĩa tư tưởng cao, đem đến giá trị nhân văn sâu

sắc, khẳng định cái đẹp nằm ngay ở cuộc sống.

3. Để phán ánh hiện thực và con người trong sáng tác của mình, Hữu Thỉnh đã

rất thành công trong cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu và hệ thống biểu tượng.

Ngôn từ trong thơ Hữu Thỉnh phong phúc, đa dạng vừa mang những nét đời thường,

vừa thấm đẫm màu sắc dân tộc lại vừa mang những nét mới mẻ của thơ ca hiện đại.

Giọng điệu trong sáng tác của Hữu Thỉnh thì đa thanh mang chiều sâu tư duy triết

luận. Viết về đề tài chiến tranh với quan điểm “Nhìn thẳng, nói thật” nên bên cạnh

giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi. Khi viết về thời kì hòa bình lập lại, thơ

Hữu Thỉnh thể hiện rõ giọng điệu suy tư, triết lí. Bên cạnh đó thơ ông còn có giọng

điệu tâm tình, thiết tha. Biểu tượng trong thơ Hữu Thỉnh là những sự vật bình thường,

gần gũi trong thế giới tự nhiên bao quanh con người như: con đường, ngọn lửa,

biển,... Sự xuất hiện của những biểu tượng đó đã mang đến cho thơ Hữu Thỉnh một

chiều sâu tâm tư, tư tưởng triết lý, cái nhìn sâu sắc về những vấn đề con người và

cuộc sống mà nhà thơ thường trăn trở, trải nghiệm. Qua đó người đọc thấy được khả

năng liên tưởng, tưởng tượng khá độc đáo của nhà thơ.

Qua việc tìm hiểu về hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh, ta

thấy Hữu Thỉnh một gương mặt thơ tiêu biểu, một cá tính thơ độc đáo của nền thơ ca

hiện đại Việt Nam. Vị trí ấy là kết quả của một quá trình lắng nghe và “sống đầy”

cùng những vang động, biến chuyển của đời sống và không ngừng học hỏi, sáng tạo

của tác giả. Ghi lại những tình cảm máu thịt về quê hương, đất nước, về những con

người đang sống quanh mình, thơ Hữu Thỉnh đã đến được với trái tim người đọc,

thấm sâu vào đời sống xã hội, Với Hữu Thỉnh, làm thơ không chỉ để “ghi lại cuộc đời

mình” mà đó còn là quá trình không ngừng sáng tạo, không ngừng đổi mới vì sự phát

triển của thơ nói riêng và của nền văn học dân tộc nói chung. Sức bền của thơ ông

không chỉ được khẳng định ở việc tạo ra chỗ đứng trong lòng người đọc mà còn thể

hiện ở việc Hữu Thỉnh đã tìm cho mình một phong cách thật riêng thâm trầm, sâu

lắng, đậm chất dân tộc nhưng cũng rất hiện đại.

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh (1999), “Hữu Thỉnh - nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời”, Tạp chí Văn

hóa - Văn nghệ Công an (4).

2. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945

đến nay, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trung tâm khoa học xã hội và nhân

văn quốc gia, Viện văn học.

3. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Khoa học xã hội.

4. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám, một nền

sử thi hiện đại”, Tạp chí Văn học số 5.

5. Lại Nguyên Ân (1998), Văn học và phê binh, Nhà xuất bản TP mới, Hội Văn học.

6. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ Văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Mai Bá Ân (1997), Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại, Tuyển

tập Trường ca, Nxb Quân đội, Hà Nội.

8. Xuân Diệu (1981), “Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố”, Báo Văn

nghệ (19).

9. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.

10. Trần Đăng (2006), “Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ”, Báo Bình Định.

11. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn

học (3).

12. Hoàng Điệp (2010), “Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí Khoa

học Xã hội Việt Nam (1).

13. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.

14. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Tạp chí

Văn học (9).

15. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, Nxb Văn học.

16. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

18. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

95

19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Minh Hạnh (1985), “Chất dân gian- điểm sáng trong thơ Hữu Thỉnh”, Báo Quân

đội nhân dân.

21. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - vấn đề và suy

nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục.

22. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội (4).

23. Mai Hương (2000), “Hữu Thỉnh với trường ca Đường tới thành phố”, Tạp chí

Nhà văn - Hội nhà văn số 2.

24. Mai Hương (2000), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”, Tạp chí

Văn học số 06.

25. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6).

26. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục Hà Nội.

27. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

28. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Lao động, Hà Nội.

29. Nguyễn Ngọc Linh (2011), Tư duy thơ Hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ ĐHSP

Thái Nguyên.

30. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội

32. Trường Lưu (2001), “Mấy ghi nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh”, Báo Diễn

đàn Văn nghệ, (6)

33. Thiếu Mai (1980), “Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội (3)

34. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nhà xuất bản Giáo dục.

35. Vũ Nho (2000), “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, Tạp chí Nhà văn-

Hội nhà văn (3).

36. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.

96

37. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội.

38. Nhiều tác giả (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

39. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.

40. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975- 1990. Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội.

41. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu. Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hội

Văn học.

42. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, BGD-ĐT, Vụ giáo

viên, Hà Nội.

43. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Giáo dục.

44. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

45. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

46. Trần Đình Sử (2005), (Giáo trình) Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục.

47. Trần Đỉnh Sử (2007), Thi pháp truyện Kiều , Tái bản lần thứ hai, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

48. Nguyễn Nguyên Tản (2005), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

49. Nguyễn Bá Thành (1990), Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách mạng

Việt Nam 1945- 1975, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn trường Đại học tổng hợp

Hà Nội.

50. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nhà xuất

bản Văn học, Hà Nội.

51. Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam 1965 - 1975, Nhà

xuất bản ĐH&THCN, Hà Nội.

52. Hữu Thỉnh, Lâm Huy Nhuận (1975), Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội Nhân dân.

53. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn nghệ.

54. Hữu Thỉnh (1985), “Thêm những đóng góp mới vào thơ bộ đội”, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội, 1.

55. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, Nxb Văn học.

56. Hữu Thỉnh (1998), Thơ Hữu Thỉnh, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội.

57. Hữu Thỉnh (1998), Trường ca Sức bền của đất, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

97

58. Hữu Thỉnh (2000), “Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến”,

Tạp chí Văn học số 2.

59. Hữu Thỉnh (2000), “Yên lặng trong tâm hồn người lính”, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội, số 8.

60. Hữu Thỉnh (2005), Thương lượng với thời gian, Nxb Hội nhà văn.

61. Lưu Khánh Thơ (1999), “Diện mạo thơ 1998”, Tạp chí Văn học số 1.

62. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in trong cuốn

Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Lý Hoài Thu (1997), Đồng cảm và sáng tạo. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

64. Lý Hoài Thu (2001), “Thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn hoá - Văn

nghệ Công an số 2.

65. Lý Hoài Thu (2010), “Thơ Hữu Thỉnh - một hướng tìm tòi từ sáng tạo dân tộc đến

hiện đại”, Tạp chí Sông Hương, số 142.

66. Đỗ Lai Thuý (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Thương (2010), Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, Luận văn Đại

học sư phạm TPHCM.

68. Đào Thái Tôn (1986), “Nhân đọc Từ chiến hào tới thành phố”, Tạp chí Văn học

số 6.

69. Phạm Quang Trung (2003), “Quan niệm thơ của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội số 587.

70. Nguyễn Thị Tuyền (2014), Trường ca Hữu Thỉnh nhìn từ góc độ thể loại, Luận

văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.

71. Đỗ Quang Vinh (2007), “Đọc tập thơ “Thương lượng với thời gian” của nhà thơ

Hữu Thỉnh”, Báo Bình Thuận.

98