ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------

TRẦN THỊ KIM DUNG

TRƢỜNG CA THU BỒN

VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------

TRẦN THỊ KIM DUNG

TRƢỜNG CA THU BỒN

VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. LÊ VĂN LÂN

Hà Nội – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Trường ca Thu Bồn về đề tài

chiến tranh là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là

trung thực. Nếu có gì sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2016

Ngƣời cam đoan

Trần Thị Kim Dung

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành tại Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học xã hội

và nhân văn. Em xin chân thành cảm ơn GS. TS. Lê Văn Lân đã tận tình hướng dẫn,

giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên cứu để thực hiện luận văn này!

Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong Khoa Văn học và các

anh chị trong phòng Đào tạo sau đại học - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn đã giảng dạy, trang bị cho em những nền tảng kiến thức bổ ích, giúp đỡ em

hoàn thành khóa học và tạo điều kiện để em nghiên cứu, thực hiện đề tài và được

tiến hành bảo vệ luận văn.

Cuối cùng em xin cảm ơn gia đình, đơn vị công tác, người thân và bạn bè đã

giúp đỡ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện về thời gian, giúp đỡ về mọi mặt

trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để em hoàn thành được bản luận văn!

Với trình độ và kiến văn còn hạn chế của người viết, luận văn chắc chắn

không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận được những

nhận xét, góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và những người có quan tâm

đến vấn đề được thực hiện trong luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 18/01/2016

Tác giả luận văn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 2

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 7

6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 7

NỘI DUNG ................................................................................................................ 8

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƢỜNG CA VÀ TRƢỜNG CA THU

BỒN ............................................................................................................................. 8

1.1. Những vấn đề chung về trƣờng ca ................................................................ 8

1.1.1. Nội hàm của khái niệm trường ca ............................................................ 8

1.1.2. Phân biệt trường ca với thơ dài và truyện thơ ......................................... 9

1.2. Trƣờng ca Thu Bồn trong dòng chảy trƣờng ca Việt Nam hiện đại........ 12

1.2.1. Trường ca Việt Nam hiện đại ................................................................. 12

1.2.2. Trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn .......................................... 18

Chƣơng 2: NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG TRƢỜNG CA VIẾT VỀ

CHIẾN TRANH CỦA THU BỒN ......................................................................... 24

2.1. Cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc .............................................................. 24

2.1.1. Quê hương đất nước tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa ................... 24

2.1.2. Quê hương đất nước đau thương nhưng anh dũng quật cường .......... 29

2.2. Cảm hứng về con ngƣời và cuộc sống trong chiến tranh .......................... 43

2.2.1. Con người anh hùng và nhân ái ............................................................ 43

2.2.2. Cuộc sống chiến tranh khốc liệt và khát vọng bình yên ........................ 49

2.3. Cảm hứng triết luận ..................................................................................... 53

Chƣơng 3: NHỮNG PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG TRƢỜNG

CA VIẾT VỀ CHIẾN TRANH CỦA THU BỒN ................................................. 59

3.1. Về kết cấu tác phẩm ..................................................................................... 59

3.1.1. Kết cấu theo cốt truyện ............................................................................ 60

3.1.2. Kết cấu theo mạch cảm xúc trữ tình ...................................................... 66

3.2. Đặc trƣng ngôn ngữ và giọng điệu .............................................................. 69

3.2.1. Ngôn ngữ cường điệu, mang âm hưởng sử thi ...................................... 69

3.2.2. Giọng điệu sử thi hào hùng .................................................................... 75

3.3. Phƣơng pháp tạo nghĩa linh hoạt ................................................................ 82

3.3.1. Sử dụng hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng ............................... 82

3.3.2. Những so sánh, ẩn dụ gợi nhiều liên tưởng độc đáo, mới lạ ................ 88

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 95

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử Việt Nam, chính âm ba của những chiến thắng chống ngoại

xâm hào hùng trong truyền thống quá khứ của dân tộc, cùng hai cuộc kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ và cuộc chiến chống bè lũ diệt chủng ở Campuchia đã trở

thành một mạch nguồn cảm xúc vô tận cho nền văn học nói chung và thể loại

trường ca nói riêng. Trường ca hiện đại Việt Nam đã thật sự “bùng nổ” khi đề cập

đến những cuộc kháng chiến vĩ đại này. Có thể nói, không gì khác hơn, chính

trường ca là thể loại làm nên gương mặt riêng biệt của văn học hiện đại Việt Nam từ

sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay. Trường ca phản ánh sự vận động của lịch

sử, dân tộc và thời đại thông qua những biến động lớn lao. Khó có thể loại văn học

nào vừa khái quát lịch sử, khái quát cuộc sống rộng lớn lại vừa đằm thắm trữ tình,

đi vào lòng người như trường ca. Do đó, nghiên cứu trường ca chính là góp phần

nghiên cứu đời sống tâm hồn tươi đẹp, lý tưởng anh hùng cao cả cũng như cuộc đấu

tranh anh dũng bền bỉ của dân tộc Việt Nam.

Với vai trò là người “khôi phục lại thể loại trường ca”, Thu Bồn có nhiều

trường ca xuất sắc, có tiếng vang, đạt giải thưởng cao. Những trường ca của ông,

đặc biệt là trường ca viết về chiến tranh, thấm đẫm chất sử thi, giàu tính tư tưởng và

tầm khái quát, triết lý về sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình; về nguồn cội sức mạnh

của dân tộc; về những giá trị tinh thần cao cả tiềm ẩn trong lịch sử đấu tranh dựng

nước và giữ nước. Nhưng điều quan trọng làm nên sức sống bền bỉ của trường ca

Thu Bồn trong lòng độc giả đó chính là ông luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng và

để lại dấu ấn riêng trong mỗi tác phẩm của mình. Càng đi sâu vào nghiên cứu những

trường ca về chiến tranh của Thu Bồn, ta càng thấy được vai trò to lớn của nó,

không chỉ trong trường ca hiện đại Việt Nam mà còn cả trong việc thể hiển bước đi

của thơ ca dân tộc. Xuất phát từ ý nghĩa đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Trƣờng ca

Thu Bồn về đề tài chiến tranh” cho luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu và

khẳng định những nét độc đáo cũng như đóng góp của Thu Bồn trên cả phương diện

nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong các trường ca viết về chiến tranh của ông.

1

2. Lịch sử vấn đề

Thu Bồn có một sự nghiệp thơ văn khá bề thế, dày dặn, thể hiện một bút lực

dồi dào, tinh tế và có những đóng góp nhất định cho văn học chống Mỹ nói riêng,

văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Năm 2003, tác giả Ngô Thế Oanh đã tuyển

chọn và giới thiệu đến bạn đọc những sáng tác nổi tiếng nhất, khẳng định tên tuổi

của Thu Bồn trong lòng độc giả qua tuyển tập: Thu Bồn – thơ và trƣờng ca do nhà

xuất bản Đà Nẵng phát hành. Qua ấn phẩm này, một lần nữa công chúng và độc giả

lại có thêm điều kiện thưởng thức, cảm nhận những tác phẩm của ông một cách đầy

đủ, toàn diện.

Là một cây bút viết trường ca đã được thời gian và bạn đọc khẳng định, tác

phẩm của Thu Bồn ở thể loại này rất đáng được nghiên cứu một cách có hệ thống.

Đã có nhiều ý kiến nhận xét cũng như công trình nghiên cứu về sáng tác của ông,

đặc biệt là trường ca. Tuy nhiên, hầu hết vẫn chỉ dừng lại ở những bài viết ngắn,

nêu những cảm nhận chung về thơ văn Thu Bồn. Một số bài viết lại là những dòng

cảm xúc rất xúc động ghi lại kí ức của những người cùng thời về con người và đời

thơ Thu Bồn như một lời đưa tiễn. Trong nghĩa cử đối với nhà thơ Thu Bồn khi ông

vừa qua đời, trong sự cần thiết đối với một đời thơ có nhiều đóng góp cho văn nghệ

kháng chiến, văn học hiện đại, Hoàng Minh Nhân đã sưu tầm, biên soạn và in lại

hầu hết những bài viết, bài nghiên cứu về Thu Bồn trong một cuốn sách có tên: Thu

Bồn - gói nhân tình. Trong sách này, phần lớn các bài viết là tình cảm tiếc thương

đau xót của bạn bè, chiến hữu, đồng nghiệp khi nghe tin ông qua đời vào ngày

17/06/2003. Xen ở trong đó là những dòng, những trang nêu lên cảm nhận của

người viết về sự nghiệp cầm bút, về thơ văn và trường ca của ông. Có thể phân các

bài viết đã có về Thu Bồn ra thành các nhóm sau:

2.1. Nhóm bài viết về con người và sáng tác của Thu Bồn nói chung:

2.1.1. Trong bài viết “Thu Bồn - niềm khát vọng khôn nguôi”, trích tiểu luận phê

bình Tìm hoa quá bƣớc của Hoài Anh đã dựng lại hình ảnh Thu Bồn - con người và

thơ - trong ký ức của tác giả, đan xen, không tách rời. Tuy vậy, bài viết cũng đã

thấy được không khí Tây Nguyên, “chất sử thi và tính kịch” cùng với “cái mạch trữ

2

tình nồng nàn thắm thiết của Bài ca chim Chơrao” và “những hình tượng khắc hoạ

đẹp, lạ được đan xen với những hình ảnh chân thực, giản dị đời thường” [1, tr.50].

2.1.2. “Chim Chơrao đến từ núi lạ” của tác giả Nguyễn Chiến cũng là những cảm nhận

ban đầu về thơ Thu Bồn: “Nồng nhiệt, chân thành, hào sảng, có nhiều niềm thương, ít

nỗi ghét”, một hồn thơ “không bao giờ chịu tầm thường vút lên như cánh chim Chơrao

đến từ núi lạ” và “đã làm nên một cõi Thu Bồn tài hoa” [22, tr.503-510].

2.1.3. Viết về “Cảm hứng quê hương trong thơ ca Thu Bồn”, Hồ Hoàng Thanh đặc

biệt nhấn mạnh: “Chủ đề xuyên suốt, nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ ca Thu

Bồn chính là nỗi niềm ngợi ca quê hương đất nước Việt Nam” [67, tr.821]. Ở bài

viết này, tác giả đã có công khảo sát và chứng minh cho luận điểm đã nêu trên ba

lĩnh vực sáng tác của Thu Bồn: Thơ, trường ca và bình luận văn học. Tuy nhiên,

trong phần nói về trường ca, dường như tác giả chỉ tóm lược nội dung là chủ đề quê

hương trong bốn trường ca: Bài ca chim Chơrao, Oran 76 ngọn, Badan khát, Thông

điệp mùa xuân và trích dẫn một số đoạn làm dẫn chứng.

2.1.4. Trong bài viết “Nhà thơ Thu Bồn - tráng sĩ hề… dâu bể”, Trung Trung Đỉnh đã

nêu lên những suy nghĩ, nhận định về con người và đặc biệt là sáng tác của Thu Bồn.

Bài viết không có ý thức tách rời mà đan xen giữa cuộc đời, con người Thu Bồn với

thơ ca của ông. Tác giả nhận định: “Ở thời điểm nào, ông cũng có những trường ca

hay, những bài thơ hay, những câu thơ cực hay” [27, tr.533]. Đồng thời, tác giả cũng

nhìn ra được: “Đối với Thu Bồn, ông viết như một nhu cầu sống. Trường ca hay thơ

trữ tình, tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống, chính vì thế

cảm xúc thơ ông lúc nào cũng tươi, cũng mới” [27, tr.536]. Rõ ràng đây là những

nhận định, đánh giá đúng và hay. Song, mới chỉ là những gì rất chung về con người

Thu Bồn và sự thể hiện nó - chủ thể sáng tạo - qua thơ ca của ông.

2.1.5. “Thu Bồn qua sông Thu Bồn” của Phùng Tấn Đông là những cảm nhận, đánh

giá về phong cách nghệ thuật thơ Thu Bồn, đặc biệt vấn đề được khảo sát qua hai

tác phẩm Bài ca chim Chơrao và Quê hƣơng mặt trời vàng. Ông viết: “Riêng mảng

thơ, Thu Bồn là nhà thơ của những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ” [30, tr.547].

Nhận xét cụ thể hơn, tác giả cho rằng: “Thơ Thu Bồn chính vì thế luôn có một hệ

3

thống từ ngữ mang tính thi pháp riêng biệt - tạm gọi là tính hoành tráng, hết mình”

[30, tr.555]. Song, đấy vẫn chỉ là những nhận xét khái quát về bút lực, đặc sắc nghệ

thuật của sáng tác Thu Bồn trong cả thơ và trường ca, chưa có sự phân tách giữa hai

thể loại này, đồng nghĩa với việc chưa phân biệt khái niệm thơ và trường ca để có

cái nhìn hệ thống, chuyên sâu hơn.

2.1.6. Tác giả Ngô Thế Oanh thì lại ví “Thu Bồn như dòng sông cuộn xiết”. Những

hồi ức, ấn tượng, xúc cảm của tác giả trước người thơ và đời thơ Thu Bồn “mạnh

mẽ và cảm động đến gần như có một chút gì sửng sốt mà Bài ca chim Chơrao đã

mang đến” và “sự mở đầu cho một giai đoạn phát triển có tính chất quyết định” cho

thể loại trường ca Việt Nam hiện đại của Thu Bồn [56, tr.731]. Mặt khác, tác giả

cũng thấy được “Thu Bồn là một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ tình say đắm

nhất” [56, tr.738]. Như vậy, trong bài viết này, bên cạnh những hồi ức đẹp đẽ về

Thu Bồn, tác giả chú ý đến hai vấn đề về đời thơ Thu Bồn: Vị trí của trường ca Thu

Bồn và cái mãnh liệt, đắm say của thơ tình Thu Bồn.

2.2. Nhóm bài nhận xét đánh giá về trường ca Thu Bồn nói riêng:

2.2.1. Bài viết “Thu Bồn - từ thơ đến trường ca” của nhà nghiên cứu văn học Bích

Thu, in trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại và được in lại trong Thu Bồn - gói nhân

tình của Hoàng Minh Nhân có lẽ là bài viết bao quát nhất sự nghiệp sáng tác của

Thu Bồn: “Thu Bồn có khả năng mở rộng sự sáng tạo sang nhiều lĩnh vực, thể loại,

như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết” [73, tr.853]. Đương nhiên, trong quan niệm của

Bích Thu, “thơ” ở đây bao gồm cả trường ca - bên cạnh mảng thơ trữ tình [73,

tr.857]. Trong bài viết, sau khi điểm qua những chặng đường sáng tác và những tác

phẩm thơ trữ tình, tác giả đã có những nhìn nhận, đánh giá xác đáng về trường ca

Thu Bồn nói chung và những trường ca xuất sắc của ông nói riêng: “Thu Bồn là

người có sở trường về trường ca và viết trường ca vào loại khoẻ, sự vận động của sự

kiện, nhân vật thường dồn dập, khẩn trương. Vì vậy, trường ca Thu Bồn thường

mang vẻ đẹp trong một chỉnh thể, có dáng vóc bề thế, khỏe mạnh” [73, tr.858]. Đặc

biệt, ở bài viết này, Bích Thu đã khai thác khá cụ thể những đặc sắc nghệ thuật của

trường ca Thu Bồn: nghệ thuật xây dựng nhân vật, sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và

4

trữ tình, tạo dựng khung cảnh bi tráng, những biểu tượng mang ý nghĩa tượng trưng,

sự kết hợp những thủ pháp nghệ thuật của điện ảnh, sân khấu, kết cấu luôn biến đổi.

Sau nữa, tác giả cũng đã nêu một vài hạn chế nhỏ trong trường ca Thu Bồn, ví như

chất liệu hiện thực nhiều khi còn bề bộn, ngổn ngang, đôi khi còn cầu kì, chuộng lạ

trong cách đặt tên cho các tiêu đề của trường ca [73, tr.873]. Rõ ràng, bài viết của

nhà nghiên cứu Bích Thu khá bao quát và cụ thể trong nhận định, đánh giá, phát

hiện những đặc sắc nghệ thuật của trường ca Thu Bồn. Tuy nhiên, do tính chất là

một bài viết chứ chưa phải là một công trình khoa học lớn nên chưa thể đi sâu vào

phân tích, lý giải những nét độc đáo trong nghệ thuật và đặc biệt là khía cạnh nội

dung của trường ca Thu Bồn.

2.2.2. Bài viết “Người viết những trường ca” của Nguyễn Đức Mậu in trong Tạp chí

Nhà văn, số 7, là những nhận xét bao quát về trường ca Thu Bồn, từ nghệ thuật đến

nội dung. Ông đánh giá: “Ở giai đoạn đánh Mỹ cứu nước, có nhiều trường ca hay,

Thu Bồn là một cây bút tiên phong, có nhiều thành quả rất đáng ghi nhận trong thể

loại này” [51, tr.60].

2.2.3. “Thu Bồn - bơi qua biển lửa ta về lại” của tác giả Ngô Thị Kim Cúc, đăng

trên báo Thanh niên, là cảm nghĩ về thơ Thu Bồn - một hồn thơ chan chứa tình yêu

quê hương, đất Mẹ. Khi nói về mảng trường ca, tác giả đặc biệt chú ý đến sự xuất

hiện với tần số cao “hình ảnh con người không khuất phục” [23, tr.65-66].

2.2.4. Tác giả Nguyễn Viết Lãm trong bài viết: “Bài ca chim Chơrao, một bản

trường ca hay” in trên Tạp chí Văn học, số 5 (1965) là bài viết đầu tiên về trường ca

Thu Bồn nói chung. Song, đấy cũng chỉ là đánh giá sơ lược về nội dung và nghệ

thuật trường ca đầu tay của Thu Bồn: “Bài ca chim Chơrao”.

2.2.5. Phải đến Mai Bá Ấn với những công trình nghiên cứu công phu, kỹ lưỡng

như: “Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo”, “Người

lính trong trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo” hay “Trường ca

Thu Bồn – thể loại và cấu trúc”… thì các trường ca của Thu Bồn mới phần nào

được nghiên cứu một cách toàn diện. Mặc dù tác giả đã bước đầu đi vào tìm hiểu

người lính – hình tượng nhân vật chính trong các trường ca viết về chiến tranh,

5

nhưng hướng nghiên cứu lại đi vào khảo sát tác phẩm của nhiều tác giả tiêu biểu

chứ chưa tập trung lại ở một tác giả hay một đề tài cụ thể nào. Tuy nhiên, đây vẫn là

những công trình hết sức quý giá và đáng được ghi nhận của Mai Bá Ấn.

Tóm lại, các tác giả đã khẳng định đúng vai trò, vị trí của Thu Bồn đối với

thể loại trường ca hiện đại; có những đánh giá, nhận định khái quát về đặc sắc của

trường ca Thu Bồn. Song, từ trước tới nay chưa có một công trình khoa học nào

nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu đặc điểm nội dung, nghệ thuật những trường ca viết

về chiến tranh của ông. Tình hình trên đặt ra một vấn đề: Cần phải đi sâu tìm hiểu,

lý giải và phân tích cụ thể, hệ thống từng khía cạnh: nội dung, nghệ thuật, để từ đó

khẳng định những đóng góp của trường ca Thu Bồn về đề tài chiến tranh đối với

văn học Việt Nam hiện đại . Luận văn này thừa kế những nhận định, những thành

quả nghiên cứu trước đó về trường ca Thu Bồn. Các bài viết trên là những gợi ý hết

sức quan trọng cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi sâu vào tìm hiểu và phân tích những điểm nổi bật về phương

diện nội dung và nghệ thuật những trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những trường ca của Thu Bồn, đặc biệt là những

trường ca viết về chiến tranh. Cụ thể:

- “Bài ca chim Chơrao” (1963).

- “Vách đá Hồ Chí Minh” (1970).

- “Chim vàng chốt lửa” (1973 - 1975).

- “Badan khát” (1976).

- “Campuchia hy vọng” (1978).

- “Người vắt sữa bầu trời” (1986).

- "Oran 76 ngọn" (1980 - 1989).

6

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Chỉ ra được những đặc điểm nổi bật về nội dung và hình thức thể hiện của

trường ca Thu Bồn về đề tài chiến tranh.

- Khẳng định sự đóng góp của Thu Bồn đối với sự phát triển của trường ca

Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca viết về chiến tranh nói riêng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các thao tác và phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: tìm đọc tất cả các trường ca của Thu Bồn,

các bài viết, các công trình nghiên cứu bàn về thể loại trường ca nói chung và

trường ca Thu Bồn nói riêng; các bài viết của chính tác giả thổ lộ xung quanh việc

sáng tác trường ca của mình.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: trước hết tiến hành khảo sát từng trường

ca, sau đó khái quát thành những đặc điểm tiêu biểu và phân tích để làm rõ những

điểm nổi bật đó.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh với một số tác giả viết cùng thể

loại, cùng thời.

- Ngoài ra, phương pháp khảo sát, thống kê cũng được sử dụng để đưa ra

những số liệu minh họa, tạo sức thuyết phục cho các luận điểm được đưa ra.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn

gồm có ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về trường ca và trường ca Thu Bồn

Chương 2: Những cảm hứng lớn trong trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn

Chương 3: Những phương thức nghệ thuật trong trường ca viết về chiến tranh của

Thu Bồn

7

NỘI DUNG

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƢỜNG CA

VÀ TRƢỜNG CA THU BỒN

1.1. Những vấn đề chung về trƣờng ca

1.1.1. Nội hàm của khái niệm trường ca

Trường ca là một phạm trù thể loại có nội hàm rất rộng. Xung quanh việc

xác định nội hàm khái niệm “trường ca”, ý kiến của các nhà nghiên cứu trong và

ngoài nước hầu như vẫn chưa nhất quán, bởi lẽ, trường ca có dung lượng rất lớn, có

khả năng tích hợp nhiều thể loại văn học, nghệ thuật khác. Theo X.I. Kormilov:

“Trường ca (tiếng Hy Lạp: poèma- sáng tác) theo quan điểm hiện đại là các tác

phẩm thơ ca có dung lượng lớn và vừa”. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến trong

Năm bài giảng về thể loại cũng có ý kiến tượng tự: “Thể loại ta vẫn quen gọi là

“trường ca” trong thuật ngữ văn học Liên Xô cũ gọi là Poèma, được hiểu với nghĩa

rất rộng, nội hàm không xác định, thậm chí mông lung.“Trường ca” chỉ có nghĩa là

tác phẩm thơ dài, số lượng câu thơ lớn: hàng trăm, hàng ngàn câu” [36, tr.44].

Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi đồng chủ biên, các tác giả dường như cũng tán thành ý kiến này khi họ

cũng cho trường ca là “Tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự

hoặc trữ tình – Trường ca cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi (espopée) thời

cổ và thời trung đại, khuyết danh hoặc có tác giả” [33, tr.319]. Chẳng hạn, ở Việt

Nam, tên gọi trường ca một thời dùng để chỉ các sử thi dân gian như Đam San, nay

dùng để chỉ các sáng tác như Bài ca chim Chơ- rao của Thu Bồn, hay Đƣờng tới

thành phố của Hữu Thỉnh...

Tương tự như vậy, cuốn 150 thuật ngữ văn học, 1999, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội do Lại Nguyên Ân biên soạn cũng định nghĩa: “Trường ca là tác phẩm thơ có

dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca cũng được dùng

để gọi các tác phẩm sử thi (espopée) thời cổ và thời trung đại, khuyết danh hoặc có

tác giả, mà theo các nhà nghiên cứu khác nhau, chúng được soạn bằng cách xâu chuỗi

các bài hát sử thi và truyện kể (theo A.Veselovski), hoặc bằng cách “nới rộng” một

8

hoặc một vài truyền thuyết dân gian (theo A. Hoysles), hoặc bằng cách cải biên các

cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian (theo A. Lord, M.

Pary). Trường ca được phát triển từ những thiên sử thi miêu tả những sự kiện mang ý

nghĩa lịch sử toàn dân (Iliade, Mahalharata, Bài ca chàng Roland…)” [11].

Nhà thơ Thu Bồn thì lại cho rằng: “Trường ca là một thể loại thơ dài nhằm

thể hiện một chủ đề tư tưởng thông qua hình tượng thơ ca, sử dụng ngôn ngữ, nhân

vật, âm điệu, bố cục… một cách điêu luyện và tinh xảo nhất của toàn bộ nghệ thuật

thơ ca” [55, tr.536] và “Trường ca là một tòa lâu đài của thơ ca, là một kiến trúc

tổng hợp của thơ ca” [55, tr.538].

Như vậy, nhìn bao quát thì những định nghĩa, quan niệm trên cùng có một

điểm chung, đó là khẳng định: trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn. Tuy

nhiên, việc xác định trường ca là “tác phẩm thơ ca có dung lượng lớn và vừa”, “tác

phẩm thơ dài, số lượng câu thơ lớn”… như trên, thực chất mới chỉ xác định được

những dấu hiệu bề ngoài, dễ nhận thấy của thể loại đặc biệt này. Nét đặc trưng thể

loại của trường ca là một tác phẩm thuộc loại hình trữ tình, hay chính xác hơn là

một tác phẩm tự sự được thể hiện bằng phương thức trữ tình và cái quyết định “nội

dung lớn” trong trường ca chính là tư tưởng lớn, tình cảm lớn, cảm hứng lớn của tác

giả thể hiện trong trường ca.

1.1.2. Phân biệt trường ca với thơ dài và truyện thơ

Từ trước đến nay, chúng ta thường hiểu trường ca theo khái niệm rộng nên

nhiều tác phẩm thực chất là truyện thơ hoặc thơ dài, thậm chí là diễn ca vẫn được gọi là

trường ca. Tuy nhiên, thể loại trường ca mà chúng ta nghiên cứu ở đây chính là những

tác phẩm thơ theo hướng trữ tình hóa yếu tố tự sự bằng một cấu trúc nghệ thuật phức

tạp và hoành tráng về cả phương diện nội dung và hình thức. Do đó, dựa trên một số

đặc điểm về phương thức sáng tác, đã có nhiều nhà nghiên cứu tiến hành phân biệt

trường ca với các thể loại có cùng đặc điểm hình thức như thơ dài và truyện thơ.

1.1.2.1. Trƣờng ca và thơ dài

Thơ dài (còn gọi là thơ trường thiên) thực chất là thơ trữ tình nhưng mở rộng

phạm vi phản ánh hiện thực bằng cách tăng cường yếu tố tự sự. Vì thế, nhiều năm

qua chúng ta vẫn có sự đánh đồng giữa trường ca và thơ dài. Để phân biệt rõ giữa

9

trường ca với thơ dài, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã chỉ ra sự khu biệt giữa hai

thể loại này qua ba bình diện: 1. Về âm hưởng sử thi; 2. Về kết cấu tác phẩm; 3. Về

phương thức biểu hiện. [45, tr.108-109]. Những ý kiến khu biệt này, ở cái nhìn khái

quát, chúng ta dễ dàng chia sẻ và thống nhất, tuy nhiên, nếu lấy hai tác phẩm bất kỳ

ra để đối chiếu cụ thể thì những khu biệt trên cũng chưa đủ sức tạo lập một đường

biên rõ rệt. Ở đây, chúng ta có thể thống nhất rằng: thơ dài là thơ trữ tình nới rộng

mà thôi, nghĩa là, suy cho cùng, nó là thơ, cũng như ở thể loại truyện, ta có truyện

ngắn và truyện dài. Chính độ ngắn dài đó làm cho chúng có sự khác biệt về nội

dung phản ánh. Vì muốn phản ánh nội dung lớn, nhà thơ phải nới dài độ rộng lớn

của hình thức thơ cho phù hợp với hiện thực được phản ánh, mà đã mở rộng hiện

thực phản ánh, tất phải nghiêng nặng hơn về phía tự sự mới giữ được “độ trường”.

Nhưng dù có cố gắng thế nào thì độ nông của một bài thơ, dù là thơ dài, cũng có

giới hạn của nó theo dòng sự kiện (vì ở thơ dài, hình bóng “nhân vật” không lấn át

được cái tôi của thơ trữ tình). Theo chân Bác của Tố Hữu thực chất là một bài thơ

dài, hình tượng Bác được phản ánh qua cảm xúc chủ quan của tác giả, chưa trở

thành nhân vật khách quan của thời đại như ở trường ca Vách đá Hồ Chí Minh của

Thu Bồn hay hình tượng Tôn Đức Thắng trong Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình

Thi, hoặc hình tượng Cao Bá Quát trong Đêm trên cát của Thanh Thảo…

Như vậy, giữa trường ca và thơ dài, chúng ta có thể phân biệt qua một đường

biên mang tính lô-gic như sau: Nếu thơ dài là sự mở rộng dung lượng của thơ trữ

tình ở mức độ vẫn còn được gọi là thơ thì trường ca cũng là sự mở rộng dung lượng

của thơ trữ tình nhưng lượng mở rộng này đã tích lũy đủ để biến thành một chất mới

có tên là: trường ca.

1.1.2.2. Trƣờng ca với truyện thơ

Trong lịch sử văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm đã trở thành một thể loại

phát triển rầm rộ và đạt đến đỉnh cao, làm nên diện mạo văn học trung đại Việt

Nam. Người Việt vốn là cư dân nông nghiệp lúa nước thuộc loại hình văn hóa gốc

nông nghiệp điển hình, cho nên vốn rất mạnh về tư duy tổng hợp và yếu trong tư

duy phân tích. Vì lẽ đó, người Việt xem trọng thơ hơn văn, xem thơ là thể loại nghệ

10

thuật siêu phàm nhất trong mọi loại hình văn học nghệ thuật. Chữ viết của người

Việt cổ sớm bị hủy diệt vì âm mưu đồng hóa của ngoại xâm, các loại chữ Hán, Nôm

sau này lại quá khó học, khó phổ cập nên từ Cách mạng tháng Tám (1945) trở về

trước, số lượng người Việt biết chữ để đọc được không nhiều, cho nên họ thích

nghe. Mà đã nghe thì phải nhớ để mà kể lại, vì thế, họ thích chuyện được viết bằng

thơ, có vần. Cũng do xuất phát từ đặc trưng văn hóa này mà trong tiến trình hiện đại

hóa nền văn học Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, thể loại truyện thơ đã được hồi sinh

sau khi truyện ngắn bằng văn xuôi hiện đại đầu tiên là Truyện thầy Lazarô Phiền

của Nguyễn Trọng Quản vừa ra đời đã không được người đọc chấp nhận và lập tức

chìm vào quên lãng. Mãi đến khi văn xuôi Tự lực văn đoàn ra đời và chiếm lĩnh văn

đàn, truyện thơ mới lại lui vào im lặng. Thực ra, văn xuôi Tự lực văn đoàn thắng thế

do lượng người đọc ở đô thị (trí thức tiểu tư sản, tiểu thương thành thị) chứ quảng

đại quần chúng công nông thì vẫn còn mê truyện thơ. Vì thế, khi bước vào kháng

chiến với khẩu hiệu “đại chúng hóa” văn học để phục vụ công nông binh, truyện thơ

đột nhiên sống lại. Đặc biệt là lần này nó được hồi sinh bằng chính sáng tác của

những nhà thơ hiện đại như Việt Ánh, Nguyễn Đình Thi, Hoài Giao, Trần Hữu

Thung… Điều này cho ta thấy, chức năng thể loại trước yêu cầu hiện thực quả là

yếu tố quyết định đối với đời sống văn học như đã nói ở trên. Nghĩa là, do tính bảo

thủ của các giá trị văn hóa mà trong lịch sử văn học nước ta, truyện thơ cứ sống

dấm dẳng trong khi thực tế nó đã hoàn thành “sứ mạng thể loại” từ văn học trung

đại. Vì lẽ đó mà cho đến nay, tất cả các truyện thơ hiện đại đều không còn sống

được mà duy chỉ có truyện thơ Nôm truyền thống là tồn tại vĩnh viễn với thời gian.

Như vậy, sự giống nhau và khác nhau của truyện thơ và trường ca là dễ dàng nhìn

thấy. Cả hai đều được viết bằng thơ, những truyện thơ nghiêng về phía tự sự kết

hợp trữ tình trên nền một cốt truyện và có nhân vật hẳn hoi, được kể lại theo cách kể

chuyện của ngôi thứ ba. Trong khi trường ca lại trữ tình hóa các yếu tố tự sự mà

không cần cốt truyện hoàn chỉnh, không cần hình tượng nhân vật điển hình, chỉ khơi

gợi những số phận nhân vật trong những lóe sáng tính cách đậm chất thơ. Có thể ví

truyện thơ như là những truyện (văn xuôi) có cốt truyện, có nhân vật hoàn chỉnh

11

theo lối truyền thống; còn trường ca như là những truyện không có cốt truyện, có

nhân vật hoặc không có nhân vật và nhân vật đôi khi chính là “cái tôi” tác giả.

1.2. Trƣờng ca Thu Bồn trong dòng chảy trƣờng ca Việt Nam hiện đại

1.2.1. Trường ca Việt Nam hiện đại

Văn học Việt Nam 1945- 1975 là giai đoạn văn học đã theo sát mỗi bước

chuyển của lịch sử dân tộc. Thế hệ các nhà văn, nhà thơ đã thực hiện sứ mệnh cao cả

của mình, phản ánh một cách chân thực và lãng mạn đời sống chiến đấu, lao động của

chiến sỹ, nhân dân ta qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. Ở thời điểm nào, văn học cũng “lấy được cái

hồn”, những đường nét cơ bản, không khí hào hùng mang đậm hơi thở của cuộc sống.

Thực tế đời sống đã cung cấp cho người nghệ sỹ cả tài liệu và cảm hứng, đến lượt

mình, nó đòi hỏi nhà thơ phải phản ánh được không chỉ cái không khí tinh thần, mà

còn cả chiều dài, chiều sâu của hiện thực. Sự thể hiện trực tiếp cảm xúc, suy ngẫm

trong khuôn khổ các bài thơ thông thường trở nên chật hẹp, thơ cần có thêm tiếng nói

anh hùng ca, cần khai thác triệt để mặt mạnh của phương thức tự sự để xây dựng cái

nền vững chắc và cụ thể cho việc thể hiện những suy nghĩ và tình cảm lớn, tức là cần

một thể loại tổng hợp của các thể thơ, tổng hợp của phương thức tự sự và phương

thức trữ tình, tổng hợp tính chất của nhiều thể loại văn học, nghệ thuật khác như

truyện, ký, kịch, âm nhạc, hội họa…Thể loại đó chỉ có thể là trường ca.

Trong không khí hào hùng đầy chất sử thi của thời đại mới, những người lính

– nhà thơ đã vào sinh ra tử ở chiến trường lại cũng có một nhu cầu hết sức tự

nhiên là muốn tổng kết, nhận diện lại lịch sử một cách sâu sắc hơn, trọn vẹn hơn

mà dung lượng ngôn từ của một bài thơ trữ tình nhỏ không thể đủ để nhà thơ “giãi

bày” tất cả nội dung hiện thực đồ sộ đó. Các nhà thơ trẻ đã tìm đến thể loại trường

ca như một cuộc hội ngộ của tư tưởng sáng tạo bởi đây là một thể loại nghệ thuật

tổng hợp, có nhiều ưu thế trong việc chiếm lĩnh và phản ánh cả một không gian,

thời gian rộng lớn, dựng lên những chân dung và tính cách hoàn chỉnh của người

anh hùng, của nhân dân, đất nước trong thời đại chống Mỹ. Cũng có thể nói, nhu

cầu mở rộng dung lượng và quy mô của cảm xúc trong tác phẩm thơ trữ tình sau

12

này vẫn khiến cho trường ca trở thành sự lựa chọn của nhiều nhà thơ khi phản ánh

các vấn đề nhân sinh, thế sự, gắn mạch cảm xúc của tác giả với nhịp đập đa dạng,

muôn màu của cuộc sống.

Sự định hướng tự giác của nền văn học chiến tranh và cách mạng đối với thể

tài lịch sử - dân tộc đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của từng thể loại và cơ

cấu hệ thống thể loại văn học từ sau Cách mạng tháng Tám - 1945 cho đến nay. Sự

hình thành thể loại trường ca và sự nở rộ của những sáng tác trường ca vào những

năm 1970- 1985 gắn liền với sự phát triển của hệ thống thể loại của nền văn học dân

tộc. Mặt khác, sự ra đời và phát triển của thể loại trường ca là kết quả của quá trình

tự vận động theo xu hướng phát triển, hòa nhập và hoàn thiện tất yếu của các thể

loại văn học. Có thể nói, văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 không thiếu một

thể loại nào: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, các loại ký: ký sự, bút ký, tùy bút,

truyện ký, các thể thơ: thơ tứ tuyệt, thơ trào phúng, truyện thơ, trường ca…” . Do

đó, sự xuất hiện của trường ca là một tất yếu nằm trong hệ thống các thể loại văn

học Việt Nam nói chung và thơ Việt Nam nói riêng. Có thể trường ca không phải là

thể sau cùng của thơ trên con đường phát triển của nó, song, với tư cách là một thể

tổng hợp được những ưu trội của nhiều thể thơ khác, trường ca có khả năng thâu

tóm, khái quát được và thể hiện một cách sinh động, phong phú, hấp dẫn, phù hợp

với việc chuyển tải quy mô, tầm vóc lớn lao của những vấn đề lịch sử - thời đại;

đồng thời đáp ứng được đòi hỏi cao của bản thân thể loại trong quá trình phát triển

của nó. Ở nước ta, văn học trước thế kỷ XX vẫn được gọi là văn học trung đại với

đặc trưng là tính quy phạm, mẫu mực, việc sáng tác hầu như phải tuân thủ chặt chẽ

theo khuôn khổ nhất định. Vì thế cơ hội cho các thi sĩ, văn sĩ “sáng tạo” các thể loại

mới và bộc lộ cá tính cá nhân là không nhiều. Cho đến khi làn gió đổi mới từ

phương Tây thổi đến (cùng với sự kiện Pháp xâm lược nước ta) thì nền văn học

Việt Nam lập tức có những sự cách tân nhanh chóng mà như Vũ Ngọc Phan đã nói

trong Nhà văn hiện đại: “Ở nước ta, một năm có thể kể như ba mươi năm của

người”. Thời kỳ này các thể loại văn học, đặc biệt là văn xuôi và thơ ca đồng loạt

phát triển và gặt hái được những thành tựu không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trường

13

ca hầu như vẫn vắng mặt. Nguyên nhân thì có nhiều, song, công bằng mà nói, ở thời

điểm đó, nền văn học Việt Nam tuy đã thoát khỏi quy phạm trung đại và tính chất

khu vực, được hiện đại hóa một cách toàn diện, song nó chưa đủ để gọi là trường ca

với đặc trưng cơ bản là khả năng khái quát, tổng hợp phát triển. Sau 1945, cùng với

thực tế sôi động của cuộc kháng chống Pháp, các nhà thơ đã bắt nhịp được với xu

thế lịch sử và hòa cùng với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc mà bộc lộ tầm

cảm xúc, sức khái quát của mình. Trường ca lẻ tẻ xuất hiện cùng các sáng tác dài

hơi của Xuân Diệu, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy Cận. Và phải chờ đến

cuộc kháng chiến Mỹ và sau chống Mỹ, với sự xuất hiện của hàng loạt những nhà

thơ trẻ tài năng, có thực tế, được rèn luyện trong môi trường cách mạng, trường ca

mới thực sự phát triển cả về số lượng và chất lượng.

V.Maiacôvxki đã từng nói “Người làm thơ là người sáng tạo ra luật lệ, cũng

sáng tạo ra các thể loại thơ ca. Việc sáng tạo ra thể loại đòi hỏi những tài năng

lớn...”. Các nhà thơ trẻ, những cây bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ có đầy đủ các phẩm chất ấy, đồng thời bản thân họ cũng có nhu cầu bộc lộ tư

tưởng cảm xúc của mình. Chính họ cùng với tài năng, niềm say mê đã đem đến diện

mạo hoàn chỉnh mới của thể trường ca trong thơ ca dân tộc.

Tóm lại, với tư cách là một thể loại hoàn chỉnh, sự ra đời của trường ca là kết

quả của sự tìm tòi, sáng tạo của rất nhiều thế hệ nhà thơ; nó đồng thời cần có một hệ

số thời gian để thử thách, hoàn thiện; nó là một phần gắn bó chặt chẽ với các thể loại

khác của nền văn học dân tộc từ đó cùng với các thể loại khác, trường ca tạo nên diện

mạo phong phú, đa dạng, hấp dẫn cho nền văn học Việt Nam. Sự ra đời của trường ca

là phù hợp với đòi hỏi thúc bách của thực tế đời sống. Và một thể loại như vậy sẽ có

chỗ đứng vững chắc trong sự phát triển chung của toàn bộ nền văn học.

Về các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại, có thể thấy

trường ca xuất hiện lẻ tẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khởi sắc từ những

năm 60, phát triển mạnh những năm 70 và nở rộ sau những năm chiến tranh, bắt đầu

lắng xuống khi bước vào thời kỳ đổi mới rồi xuất hiện trở lại vào những năm 90 của

thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Giai đoạn mở đầu của thể loại trường ca trong văn học

14

Việt nam có thể lấy mốc từ những năm 1945 cho đến 1965. Ở chặng đường mở đầu

này, đội ngũ sáng tác không nhiều, số lượng các trường ca cũng tương đối ít ỏi, sự

phân định giữa thể loại trường ca với thơ dài cũng chưa thật rạch ròi. Có thể kể đến

các tên tuổi tiêu biểu như: Xuân Diệu với Ngọn Quốc kỳ và Hội nghị non sông,

Khương Hữu Dụng với Từ đêm mƣời chín (1948), Hà Thanh Đẩu với Việt Nam hùng

sử ca (1949), Phùng Quán với Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (1954), Văn Cao với

Những ngƣời trên cửa biển (1956), Thu Bồn với Bài ca chim chơrao (1963), Xuân

Thiêm với Xuôi dòng Nậm Na (1964)… Về cơ bản, các trường ca trên đã phản ánh

được một số sự kiện, nhân vật tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống pháp, chống

Mỹ. Đó là những anh du kích, những người chiến sĩ cách mạng…Tuy nhiên, tầm khái

quát và chất lượng nghệ thuật của các trường ca này chưa cao.

Sang giai đoạn từ 1965 đến 1985, trường ca bước vào thời kỳ phát triển

mạnh mẽ và trở thành hiện tượng văn học đáng chú ý trong những năm kháng chiến

chống Mỹ và sau giải phóng. Đề tài chủ yếu trong trường ca giai đoạn này chính là

đề tài chiến tranh. Dưới các góc nhìn khác nhau, các tác giả trường ca đã đem đến

cho thể loại này sự phong phú về nội dung, sức khái quát của thể loại và một hình

thức, kết cấu tương đối hoàn chỉnh cho thể loại trường ca. Mười năm đầu của giai

đoạn thứ hai này (1965- 1975), chính là thời kỳ khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước. Đội ngũ sáng tác chính là những người lính trực tiếp cầm súng

chiến đấu. Họ được tôi luyện và trưởng thành trong không khí sôi nổi của thời đại.

Có thể kể đến một số tên tuổi tiêu biểu như: Lê Anh Xuân, Thu Bồn, Thái Giang,

Vương Trung, Nguyễn Khoa Điềm… đã kịp thời có mặt và tiếp nối truyền thống

của đàn anh lớp trước. Sự bổ sung lực lượng này làm cho đội ngũ sáng tác trường ca

giai đoạn này đông đảo hơn, số lượng các trường ca cũng nhiều hơn, phong phú hơn

đáp ứng được nhiệm vụ phản ánh hiện thực rộng lớn của giai đoạn cách mạng mới,

đồng thời làm thay đổi diện mạo thơ ca nói chung, thể loại trường ca nói riêng. Nếu

như các trường ca sáng tác trước năm 1964 sự phản ánh hiện thực thường bị bó hẹp

trong những phạm vi không gian, thời gian, địa điểm, hoặc chỉ gói gọn trong một số

đối tượng cụ thể thì ở giai đoạn sau, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã mang tính

15

toàn dân, toàn diện, các tác giả trường ca được sống trong không khí sôi động nên

phản ánh được nhiều phương diện của cuộc chiến. Đặc biệt, vấn đề của tuổi trẻ và

phong trào đấu tranh của tuổi trẻ với vận mệnh của đất nước được đề cập đến trên

một diện rộng hơn. Đa số các trường ca giai đoạn này, thể hiện rõ ý thức về bản

chất và cấu trúc thể loại trường ca. Có thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như:

Những anh hùng Đồng Tháp (Giang Nam), Bài ca chim Chơrao (Thu Bồn), Mặt

đƣờng khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Kể chuyện ăn cốm giữa sân (Nguyễn Khắc

Phục)… Các tác giả trường ca giai đoạn này chủ yếu là các nhà thơ trẻ, đồng thời là

những người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu, họ viết trong hoàn cảnh chiến tranh

cho nên các sáng tác của họ thường bề bộn ít sự chọn lọc, tính chất liệt kê phác thảo

vẫn là chủ yếu.

Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn được giải phóng, các nhà thơ đã tích lũy

những điều kiện cần thiết để nhận thức rõ về giá trị bản thân, về sự lớn lao, vĩ đại của

dân tộc, về niềm vui chiến thắng và cả những mất mát đau thương. Từ những nền

tảng đó những bản trường ca ra đời. Số lượng và chất lượng trường ca viết sau chiến

tranh đã có bước tiến rõ rệt. Khuynh hướng chung của các bản trường ca là muốn

tổng kết, khái quát về chiến tranh thông qua sự trải nghiệm của bản thân mỗi nhà thơ.

Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, hàng loạt trường ca có dung lượng lớn, phong phú

về nội dung, sâu sắc về tư tưởng, nhuần nhuyễn về nghệ thuật thể hiện đã lần lượt

“trình làng”. Có thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như: Những ngƣời đi tới biển

của Thanh Thảo (1976), Hữu Thỉnh có Đƣờng tới thành phố (1977), Anh Ngọc với

tác phẩm Sông núi trên vai (1977) và năm 1983 xuất bản tiếp Điệp khúc vô danh,

Nguyễn Đức Mậu với Trƣờng ca sƣ đoàn (1978), Nguyễn Trọng Tạo với Con đƣờng

của những vì sao (1978), Trần Mạnh Hảo thì có Mặt trời trong lòng đất (1979)…

Những năm đầu thập kỷ 80, nối tiếp những thành công trước đó, các nhà thơ

tiếp tục viết thêm rất nhiều trường ca nữa, thậm chí có những người còn sáng tác cả

một sê ri trường ca như: Thanh Thảo với Những ngọn sóng mặt trời (1982 - bao

gồm 3 tác phẩm), sau đó là Khối vuông ru- bích (1985) và sau này là Trò chuyện với

nhân vật của mình (2002), Vĩnh Quang Lê từ 1981 đến 1986 xuất bản liền 4 trường

16

ca: Những lời ca chƣa đủ, Một vé đi về ánh sáng, Thức dậy lúc 0 giờ, Những câu trả

lời ngắn nhất. Ngoài ra còn phải kể đến: Thu Bồn với O Ran 76 ngọn (1980), Anh

Ngọc có Sông Mê Công bốn mặt (1981), Võ Văn Trực với Hành khúc mùa xuân

(1980)… Sau một thời gian dài được thử nghiệm, các cây bút viết trường ca đã có

sự thẩm thấu, sàng lọc về cả tư tưởng lẫn cảm xúc cho nên các tác phẩm trường ca

giai đoạn này không chỉ tiếp tục phát huy tính năng động của thể loại mà còn đánh

dấu sự chín muồi về tư tưởng, nhận thức và trình độ nghệ thuật. Trong tất cả các

trường ca kể trên, dù ít dù nhiều đã có sự huy động chất xám của các tác giả để tạo

ra sự phối hợp nhuần nhuyễn trong lòng tác phẩm các thể loại văn học khác nhau,

các thủ pháp nghệ thuật cũng như mọi khả năng biểu đạt của thơ ca. Đồng thời sự

phối hợp cảm xúc và tổ chức kết cấu, giọng điệu, ngôn từ… của các tác giả cũng

ngày càng tinh tế, nhịp nhàng, đưa trường ca bước vào độ chín của thể loại. Phạm vi

hiện thực trong các trường ca viết sau chiến tranh cũng đã được nâng lên một tầm

cao mới thể hiện được sự khái quát, tổng hợp trên nhiều phương diện khác nhau của

lịch sử cũng như đời sống nhân dân. Có thể nói, phạm vi hiện thực trong trường ca

được mở rộng đến tận cùng của chiều sâu suy ngẫm triết luận, chiều dài thời gian và

chiều rộng của không gian. Đi sâu vào các sáng tác trường ca giai đoạn này chúng

ta không chỉ thấy con đường giải phóng đất nước mà ở đó còn có mẹ, có chị, có

anh, có người chiến sỹ, có cô thanh niên xung phong… mỗi người một cuộc đời,

một tâm trạng. Những con người ấy đi từ ngày qua đêm, từ quá khứ đến hiện tại,

đồng hành cùng lịch sử và chính họ đã làm nên cuộc đời chung của đất nước

(Đƣờng tới thành phố - Hữu Thỉnh). Không chỉ có vậy, trong Những ngƣời đi tới

biển của Thanh Thảo đã phản ánh hành trình đi tới biển của không chỉ một thế hệ

mà còn làm sáng tỏ những cội nguồn sâu xa nhất làm nên sức mạnh thúc đẩy cuộc

chiến đấu trường kỳ của nhân dân ta tới chiến thắng…

Từ sau năm 1985 đến nay, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ tác

giả viết trường ca được bổ sung không nhiều, số lượng các tác phẩm cũng thưa thớt

hơn trước, song vẫn có những trường ca tương đối đặc sắc. Có thể kể một vài gương

mặt tiêu biểu như Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Trần Anh Thái, Thi Hoàng,

Hoàng Trần Cương… Nội dung phản ánh của trường ca đã được mở rộng trở nên

17

phong phú và đa dạng hơn. Bên cạnh chủ đề chiến tranh và những hậu quả của nó,

các tác giả trường ca còn đồng thời chú ý đến các vấn đề thường nhật của cuộc

sống. Khuynh hướng triết luận, mở rộng trường liên tưởng, tính ẩn dụ, giọng điệu

cắt nghĩa, biện giải và xây dựng các biểu tượng mang tính biểu trưng cao… là

những đặc điểm nổi bật của trường ca giai đoạn này. Trường ca Việt Nam hiện đại

đã có một con đường phát triển riêng cùng với các thể loại khác trong lòng nền văn

học dân tộc. Từ hiện thực đau thương của đất nước trong chiến tranh, qua bước

chuyển tiếp của thời kỳ sau giải phóng, bước một bước dài đến cuộc sống của con

người hiện đại, trường ca đã mang trong mình sức mạnh của hiện thực, sự nâng đỡ

của cảm xúc dạt dào, sôi nổi của những nhà thơ trẻ sống, chiêm nghiệm qua hiện

thực chiến tranh cũng như những xô bồ của cuộc sống thị trường thời kỳ đổi mới.

Vì thế, trường ca vừa có được sức bao quát, ôm chứa một hiện thực rộng lớn đồng

thời vẫn thấm đẫm cảm xúc của người viết, qua từng thời kỳ mà có sự hoàn thiện

dần và đạt đến sự chín muồi của một thể loại hoàn chỉnh.

1.2.2. Trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn

Như đã trình bày, trường ca nếu hiểu một cách “thông thoáng” là một thể xuất

hiện từ rất sớm, trong văn học dân gian. Song, cả một thời gian dài, trong văn học

viết, thể loại này hầu như bị phai mờ, quên lãng. Thảng hoặc, người ta có nhắc đến nó

thì cũng chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng vào những tác phẩm thơ dài, truyện thơ hoặc

để gọi tên cho những quyển sách hay, những tập sách hay mang tính anh hùng ca.

Cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào những năm 60 của

thế kỷ XX đã bước sang một giai đoạn mới: miền Bắc vừa hàn gắn vết thương chiến

tranh, xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa chi viện, góp sức cùng miền Nam ruột thịt tiếp

tục chiến đấu chống Mỹ - Ngụy. Cuộc sống của dân tộc Việt Nam những năm tháng

này hết sức vĩ đại, con người Việt Nam lớn hẳn lên về lý trí, tư tưởng, tình cảm:

Tâm hồn lớn lên với thời gian

Ta không để tháng ngày thành nƣớc chảy

Sống sao cho xứng đáng với miền Nam

Nửa nƣớc anh hùng đang rực cháy!

(Tế Hanh)

18

Một thời đại như vậy đòi hỏi phải có những bản trường ca hùng tráng, tương

xứng để ngợi ca cuộc chiến đấu đầy dũng khí, ca ngợi công cuộc lao động đầy sáng

tạo và không biết mệt mỏi của quân dân ta trên cả hai miền đất nước. Trong bối

cảnh ấy, từ miền Nam khói lửa, từ miền Nam đau thương nhưng anh dũng quật

cường, năm 1963, Thu Bồn đã cho ra đời bản trường ca Bài ca chim Chơrao – một

sự khởi đầu ngoạn mục. Theo hồi ức của Thu Bồn, Bài ca chim Chơrao được ông

viết trong một mùa rẫy ở Tây Nguyên. Đêm xuống, khi mọi nhiệm vụ của người

chiến sĩ đã hoàn thành, khi đồng đội đã chợp mắt, ông bắt đầu viết. Một cô bé Tây

Nguyên dễ thương có tên là Hơ Tó ở làng Đepapơlênh sát căn cứ giặc ở Pleime – đã

thức suốt nhiều đêm cầm ngọn đuốc lồ ô soi cho nhà thơ viết từng trang, từng trang

bản thảo. Sau khi ra đời, Bài ca chim Chơrao cũng có một hành trình hết sức vất vả,

bền bỉ. Nó được “hành quân” cùng bước chân đi bộ của nhà thơ Thanh Hải từ miền

Nam ra miền Bắc. Về tới báo Văn nghệ, ngay lập tức tác phẩm được in trang trọng

thành một tờ phụ trương. Sự xuất hiện của trường ca Bài ca chim Chơrao trở thành

một hiện tượng văn học độc đáo, gây tiếng vang lớn trong nước và quốc tế. Nhà văn

Trung Trung Đỉnh khẳng định Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn đã đánh thức đúng

lúc một thể loại văn học nhiều năm trước đó gần như bị bỏ quên. Nó được đón nhận

nồng nhiệt không chỉ đối với giới sáng tác mà ngay lập tức được giới trí thức, đặc

biệt là học sinh, sinh viên vô cùng ngưỡng mộ.

Qủa thực, Bài ca chim Chơrao không những là bài ca hùng tráng ca ngợi tình

đoàn kết Kinh – Thượng và tinh thần quyết tâm đánh bại kẻ thù của nhân dân vùng

địch tạm chiếm ở miền Nam, mà còn là động lực mạnh mẽ, đánh thức một thể loại

văn học nhiều năm còn ngủ quên. Nó khiến cho văn đàn thời đó sôi động hẳn lên,

mang đến ấn tượng hết sức mạnh mẽ, cảm động đến sửng sốt cho những độc giả

miền Bắc vào nửa đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Nó rung cảm người đọc bởi vẻ

đẹp rực rỡ vừa bi tráng, vừa sôi sục ý chí, lại vừa đằm thắm nghĩa tình. Có thể nói,

đây là bản trường ca đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến từ

miền Nam đau thương. Số phận của Hùng, Rin đồng thời cũng là số phận của bao

con người miền Nam trong cảnh kẻ thù chiếm đóng. Ý chí kiên cường, lý tưởng cao

19

cả của Hùng, Rin đồng thời cũng là ý chí, là lý tưởng của nhân dân miền Nam, của

dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu trường kỳ, anh dũng. Bài ca chim Chơrao

cũng là bản trường ca duy nhất của Việt Nam được trao giải thưởng Lotus của Hội

Nhà văn Á – Phi (1973).

Tiếp sau Bài ca chim Chơrao là sự ra đời hàng chục trường ca khác của Thu

Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Trần Đăng Khoa, Trần Vũ Mai,

Ngô Văn Phú, Anh Ngọc, Vĩnh Quang Lê… Xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp, những

tác phẩm trường ca được viết ở giai đoạn những năm 70, 80 của thế kỷ XX đều bắt

nguồn từ sự khởi đầu đầy ấn tượng và gần gũi trong cảm hứng hiện thực với Bài ca

chim Chơrao của Thu Bồn. Như vậy, sự ra đời của Bài ca chim Chơrao không những

được đón nhận, được yêu mến, được ngợi ca mà còn có tác động rất lớn đến văn học

nước nhà trong những năm chống Mỹ, trở thành một dấu son trong những trang thơ

kháng chiến lẫn nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đây là sự khởi đầu, đặt nền móng

và là sự khẳng định cho thể loại trường ca trong giai đoạn mới của lịch sử, của văn học.

Thành công này không hề đơn giản, ngẫu nhiên bởi nghệ thuật là cả một quá trình lao

động không mệt mỏi, không ngừng nghỉ với bao tìm tòi, trăn trở, sáng tạo của người

nghệ sĩ. Thu Bồn đến với văn học nghệ thuật, xuất hiện trên văn đàn một cách bất ngờ,

độc đáo bằng một tác phẩm là kết quả của sự dày công tìm kiếm một thể loại vừa phù

hợp tương xứng, vừa có ưu thế nhất trong việc chuyển tải hiện thực đời sống lớn lao,

cao cả bấy giờ. Đây là kết quả của sự trưởng thành trong nhận thức, trong tư duy, trong

khả năng thẩm mỹ của một nghệ sỹ chân chính đang cùng nhân dân đi trong đau

thương mà hào hùng của cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại; đồng thời cũng là một sự lựa

chọn đầy trách nhiệm với nhân dân, với dân tộc, với thơ, với nền văn học nước nhà.

Một sự lựa chọn, sự khởi đầu thật có ý nghĩa và đáng ghi nhận!

Phải nhấn mạnh rằng, việc lựa chọn thể loại sáng tác là một lẽ, việc khẳng

định mình bằng một thể loại nào đấy trên văn đàn mới là cả một vấn đề lớn lao và

không hề đơn giản đối với người nghệ sỹ bởi chỉ yêu thích thôi thì chưa đủ. Người

cầm bút phải có khả năng, sở trường thuần thục, nhuần nhị. Thể loại là dấu hiệu của

đặc điểm tâm lý, thẩm mỹ và cảm hứng sáng tạo của người nghệ sỹ. Nó không phải

20

được tạo ra một cách cơ học theo kiểu lựa chọn hoàn toàn chủ quan mà bắt nguồn từ

cảm xúc tự nhiên đã được ấp ủ chín muồi từ trong tâm thức, từ trong thi hứng. Thi

hứng của thi nhân là một phức thể vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy vậy, mỗi

một tác giả tùy thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan của mình mà có những

mặt nổi trội riêng trong cảm thức cuộc đời một cách nghệ thuật. Với Thu Bồn, từ

cảm thức gần gũi, thấu hiểu đến độ hòa mình vào cuộc sống, chiến đấu và lao động

của nhân dân, từ lẽ sống “khi Tổ quốc lâm nguy thì nhà văn cũng phải biết phơi

mình trên chiến địa…”, từ quan niệm “trường ca là đỉnh cao của thơ ca, nhằm một

thời điểm biến động nhất của lịch sử, nó xuất hiện như một điều tất yếu”, ông đã lựa

chọn, đã say mê, đã thành công và khẳng định vị thế của mình trên văn đàn bằng thể

loại trường ca mà mở đầu là Bài ca chim Chơrao.

Sau Bài ca chim Chơrao, Thu Bồn đã sáng tác một loạt các trường ca khác,

đa số là các trường ca viết về đề tài chiến tranh. Trong đó, phải kể đến những tác

phẩm tiêu biểu như: Vách đá Hồ Chí Minh (1970), Chim vàng chốt lửa (1973 -

1975), Badan khát (1976), Campuchia hy vọng (1978), Ngƣời vắt sữa bầu trời

(1986), Oran 76 ngọn (1980 - 1989). Rõ ràng, không chỉ là người khai mở, Thu

Bồn còn là một trong những tác giả dẫn đầu về mặt số lượng tác phẩm trường ca.

Trước Thu Bồn và cùng thời với ông, cũng đã có nhiều tác giả tìm đến thể loại này

và đã có những thành công nhất định. Nhưng về số lượng thì cho đến thời điểm Thu

Bồn qua đời, chưa có tác giả nào vượt được ông. Có lẽ cũng vì điều đó mà nhắc đến

tác giả của những trường ca, đặc biệt là trường ca về đề tài chiến tranh, người đọc sẽ

nghĩ ngay đến Thu Bồn.

Vẫn biết số lượng tác phẩm, tất nhiên, chưa phải là tất cả, chưa khẳng định

được điều gì, song, điều muốn nói ở đây là với một thể loại gai góc, hóc búa và

phức điệu như trường ca mà Thu Bồn vẫn miệt mài sáng tác - sáng tác dồn dập,

cuồn cuộn nhiệt huyết, bản năng như thế thì quả là một điều đáng khâm phục. Có

những thời điểm như 1975, 1985, ông đã sáng tác hai trường ca trong một năm cùng

với nhiều tác phẩm thuộc thể loại khác. Điều đáng nói là hầu hết trường ca nào cũng

dày dặn, ngồn ngộn hiện thực, căng tràn cảm xúc. Vượt lên trên số lượng tác phẩm,

21

vượt lên số trang của từng trường ca, tác phẩm của ông thật sự đã đạt đến “chất”, ấy

là chất hiện thực nóng bỏng và chất sáng tạo nghệ thuật đích thực. Độc giả đến với

trường ca Thu Bồn từ thuở Bài ca chim Chơrao ngày ấy cho đến bây giờ đều thống

nhất trong ý kiến đánh giá: trường ca chính là sở trường, là năng khiếu, bản năng và

tài nghệ của ông. Chính sức sáng tạo dồi dào, tuôn chảy liên tục để cho ra đời hàng

loạt trường ca như thế đã tạo nên hình ảnh một Thu Bồn “vạm vỡ”, tràn đầy sinh

lực trong sáng tạo và trong đời sống, xứng đáng là một trong những nhà thơ xuất

sắc của thế hệ chống Mỹ, nhà thơ hàng đầu của mảng văn học chiến tranh nhân dân

và quân đội cách mạng.

Tuy nhiên, sự lựa chọn thể loại không phải là thao tác đầu tiên của người

nghệ sỹ sáng tác văn chương, mà cái quyết định thể loại cho tác phẩm phải là cảm

hứng sáng tạo. Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều có một vốn sống riêng tạo nên tính

cách và cảm hứng sáng tác. Qúa trình sáng tác là sự kiểm nghiệm tư duy nghệ thuật

của mỗi cá nhân nghệ sỹ. Thơ khác với văn xuôi trong cảm xúc thẩm mỹ ở chỗ một

bên là trực tiếp, một bên là gián tiếp. Có xúc cảm, nhà thơ có thể sáng tác, song,

theo thể loại nào thì còn phải có sự can thiệp của thời gian. Nói như vậy có nghĩa là

tìm được một thể loại thích hợp cho cảm xúc trong sáng tạo thơ ca quả là một vấn

đề quan trọng mang tính quyết định tới sự thành công của tác phẩm. Cảm hứng sáng

tác thường nảy sinh cảm hứng thể loại. Song, sự nảy sinh đó luôn luôn đòi hỏi một

sự tìm tòi, thể nghiệm, làm sao cho vừa phù hợp với mình, vừa phù hợp với yêu cầu

của thời đại, vừa là tiếng nói độc đáo của cá nhân, vừa nói lên tiếng nói của cộng

đồng. Đối với một thời đại lịch sử đau thương nhưng hào hùng, khi tất cả mọi

người, mọi nơi, mọi lúc đều dốc sức cho chiến trường, cho cuộc chiến tranh ái quốc

vĩ đại thì vấn đề trên đặt ra với người nghệ sỹ càng trở nên nghiêm khắc, khắt khe

hơn. Với Thu Bồn - Hà Đức Trọng, dường như ông đã làm một thử nghiệm nghiêm

túc qua các thể loại: thơ ngắn, truyện và tiểu thuyết. Nhưng độc giả đã ghi nhận sự

thành công của ông đặc biệt ở thể trường ca. Chính nhà thơ cũng đã có lần phát

biểu: “Bắt đầu từ hiện thực hùng vĩ của Tây Nguyên bất khuất, mình gắn bó với Tây

Nguyên, với đồng bào, được tiếp xúc với kho tàng đồ sộ những trường ca bất hủ

22

như Đam San, Xing Nhã… với truyền thống Folklore đậm đà từ trong lời ăn tiếng

nói. Mình nghĩ, chỉ có trường ca mới có đủ khả năng hiện thực và trữ tình để

chuyển tải nội dung, lượng cảm xúc của mình về Tây Nguyên, về cuộc chiến đấu

thần thánh của đồng bào chiến sĩ”. Song, công bằng mà nói, bên cạnh trường ca,

Thu Bồn còn sáng tác thơ tự do, thơ bảy chữ, tám chữ và cũng được công chúng

yêu thơ quan tâm. Những bài thơ như: Gửi lòng con đến cùng Cha, Hôn mảnh đất

quê hƣơng, Tre xanh, hay Tạm biệt Huế… thực sự đã đi vào tâm thức người đọc

bao thế hệ. Đặc biệt, bài thơ Tạm biệt Huế sáng tác năm 1980, sau được khắc lên

một tấm bia ở Huế, được những cô hướng dẫn viên với giọng Huế trầm ấm, ngọt

ngào đọc lên trong mỗi dịp tiễn khách sau những ngày thăm Huế ra về. Tuy vậy, thơ

ngắn Thu Bồn vẫn chưa thực sự tạo nên một khối màu riêng biệt, nổi trội trên thi

đàn đương đại trong suốt hành trình sáng tác của ông. Điều này không chỉ căn cứ

vào tác phẩm mà chính bạn bè đồng nghiệp và cả bản thân nhà thơ cũng từng khẳng

định. Khi tìm được thể loại phù hợp là trường ca, Thu Bồn đã lao vào sáng tác với

tất cả trí tuệ, tâm huyết của mình. Với những gì đã làm được, Thu Bồn có quyền tự

hào về tài năng của mình trong việc phát hiện và phát huy thế mạnh của một thể loại

tưởng chừng đã bị lãng quên trong văn học dân tộc. Và, trong sự trở lại sôi nổi, rầm

rộ của trường ca những năm 70, 80 thế kỷ XX, Thu Bồn đã tạo được tiếng nói riêng,

dấu ấn riêng, sắc thái riêng cho những bản trường ca của mình.

23

Chƣơng 2: NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG TRƢỜNG CA

VIẾT VỀ CHIẾN TRANH CỦA THU BỒN

2.1. Cảm hứng về quê hƣơng đất nƣớc

Xưa nay, hình tượng Tổ quốc, dân tộc đã được nhiều nhà thơ khai thác,

nhưng có lẽ, với một chủ đề lớn lao và thiêng liêng như thế, trường ca chính là thể

loại có thể thực hiện tốt nhất chức năng phản ánh đầy đủ tầm cỡ của chủ đề này. Tổ

quốc dân tộc trong trường ca được khai thác ở nhiều góc độ, khi cụ thể ở phạm vi

quê hương, làng mạc; khi khái quát bao trùm cả văn hiến lẫn văn vật. Nhưng dẫu có

khái quát, các nhà thơ vẫn luôn đi từ những chi tiết cụ thể đảm bảo sức lay động thơ

khi nói về Tổ quốc thiêng liêng. Với Thu Bồn cũng không phải là ngoại lệ, trong

trường ca của ông, hình ảnh quê hương đất nước luôn được thể hiện bằng nhiều góc

độ, rất phong phú và đa dạng. Có thể nói, cảm hứng về quê hương đất nước là một

trong những cảm hứng chủ đạo và xuyên suốt trong văn thơ Thu Bồn, ghi một dấu

ấn rõ rệt trong các sáng tác của ông và đã góp phần quan trọng trong việc hình

thành nên một diện mạo phong cách Thu Bồn.

2.1.1. Quê hương đất nước tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa

Ca ngợi hình ảnh thiên nhiên đất nước tươi đẹp, trước Thu Bồn, đã có rất nhiều

tác giả, trường ca tái hiện mà Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi là một ví dụ:

Việt Nam đất nƣớc ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trƣờng Sơn sớm chiều…

Những dòng thơ đằm thắm, mượt mà, những hình ảnh thân thương, thơ

mộng cũng chính là niềm tự hào sâu sắc của người lính, của nhà thơ về quê hương

đất nước mình - một quê hương thanh bình yên ả, phì nhiêu màu mỡ, nên thơ và

tràn trề nhựa sống.

Đến Thu Bồn, cái tươi đẹp, trù phú, nên thơ ấy vẫn tiếp tục được khai thác,

tái hiện. Ngay từ trường ca đầu tiên - Bài ca chim Chơrao - mượn hồi ức của Hùng

24

về đồng bằng quê nhà, về mẹ, nhà thơ đã viết lên những lời thơ ca ngợi quê hương

thật chân thật, đầy tự hào và thiết tha:

Quê hƣơng ơi! Những chiều biển lặng

Con cá chuồn lao phóng nhƣ tên

Ánh đèn xanh đêm hè soi mực

Con sứa rập rình chờ nƣớc biển lên

Nắng vẫn chói trời quê hƣơng cũ

Con cá ngừ xanh biếc làn da

Qủa là một vùng quê trù phú, yên bình. Nơi ấy, biển vẫn chiều chiều ca hát,

sóng vỗ vào bờ tựa lời ru êm ái, ngọt ngào. Những hình ảnh “con cá ngừ xanh biếc

làn da”, “con cá chuồn lao phóng như tên” nối tiếp nhau đi vào giấc mơ con. Biển

vừa là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, vừa cho ta sự sống mỗi ngày. Nhớ biển, nhớ nắng,

nhớ trời…để rồi đọng lại trong nỗi nhớ bóng dáng mẹ yêu:

Bữa ăn sum vầy bên bếp lửa

Mẹ so đũa thừa lại nhắc tên ta.

Những câu thơ mộc mạc, bình dị mà sức gợi, sức ngân vang lại xoáy sâu vào gan

ruột mỗi người. Quê hương dân dã với “bữa ăn sum vầy bên bếp lửa” nhưng dù có đi xa,

có ở trong hoàn cảnh lao tù xiêng xích, lòng con vẫn không nguôi nhớ, không nguôi yêu

thương. Nhớ bữa cơm đạm bạc nhưng lại đem đến cho ta cảm giác ấm áp, an lành khi

được sum họp, quây quần bên những người thân yêu trong gia đình. Nhớ người mẹ suốt

đời tần tảo nhưng vẫn yêu thương, hy sinh cho các con hết mình, mặc dù con đi vắng

nhưng ngày ngày “so đũa thừa lại nhắc” đến tên con. Một chi tiết nhỏ bé thôi mà sao có

sức chứa, sức nặng thật lớn, nói lên được cả tấm lòng người mẹ thương con vĩ đại. Phải

có một tình yêu sâu sắc của tâm hồn người nghệ sỹ gắn bó với quê hương thì mới nói lên

được những điều giản dị mà vô cùng thiêng liêng như thế này.

Từ không gian vùng biển yên bình, nhà thơ chuyển tiếp đến không gian Tây

Nguyên núi rừng rộng lớn một cách thật tự nhiên, linh hoạt. Đơn giản bởi đó cũng

là một phần của Tổ quốc yêu thương, một vùng quê yên bình như bao vùng quê

khác trên mọi miền đất nước:

25

Hỡi bầy chim chơ rao trong mây trắng

Hỡi con chim Pơxe trong nắng phất cờ

Hỡi con Xemđum Xemtơrăng lấy mật

Rộn ràng cây Kơtơđáp sáng tinh mơ

Hoa Tapơkô nhụy vàng năm cánh trắng

Tinh khiết vô cùng màu trắng lơpang

Hoa patdu nở hồng bên suối

Đồi khoác roong reng ngát màu vàng.

(Bài ca chim Chơrao)

Một Tây Nguyên rực rỡ sắc màu, rộn rã âm thanh, bạt ngàn hoa và nắng gió.

Sự quyện hòa giữa cây cối và muông thú, giữa sắc màu và âm thanh cho ta một cảm

giác ngọt ngào đến tinh khiết, mộng mơ đến an bình, đắm say đến mê hoặc. Biện

pháp liệt kê nhưng không cứng nhắc mà đầy sức gợi của ngòi bút Thu Bồn đã cho ta

men say với cảnh sắc nơi này. Đọc những dòng thơ: “Thác mãi cùng ca hát/ Con cá

hồng vờn nước thảnh thơi” (Bài ca chim Chơrao) thì dẫu chưa một lần đến Tây

Nguyên - quê hương thứ hai của Thu Bồn, ta vẫn thiết tha yêu một vùng đất hữu

tình, tự nhiên nơi ấy. Tâm hồn ta như cùng ngân lên bản nhạc yêu đời, yêu cuộc

sống, yêu quê hương trong sự dâng tặng, sự bao bọc và giao hòa tuyệt vời của thiên

nhiên chốn này. Thu Bồn được mệnh danh là “nhà thơ của núi rừng Tây Nguyên”

quả không sai một chút nào. Đến Badan khát, một bản hùng ca về công cuộc khôi

phục và xây dựng kinh tế trên địa bàn Tây Nguyên, vùng đất ấy lại được hiện ra với

một dáng vẻ khác:

Phía Tây

ngọn Chgiangxin

nơi ngọn núi với trời

khoảng cách ấy tƣởng đƣa tay là níu đƣợc

đỉnh Ngọc Linh những cánh chim ngang ngƣợc

con đại bang màu đất nâu

26

Chiều kích Tây Nguyên cao vời vợi, không gian Tây Nguyên bao la phóng

khoáng, thế đứng Tây Nguyên vững chãi vô vùng. Sau một hình ảnh nhân hóa là

một sự so sánh rất gần, rất cụ thể, Thu Bồn đã cho người đọc cảm nhận được rõ

ràng cái chiều kích, cái tầm thước hùng vĩ của Tây Nguyên. Bởi thế mà:

Tôi thấy mình đƣơng đi trên vỏ hành tinh ánh sáng

Núi dẫn chân ngƣời tít tắp trên cao

Mặt trái đất ngọt lành ấm áp

(…) Vòng tay lớn ôm đầy bao khát vọng

Những khu rừng đầy nắng

Mùi cỏ nồng nàn man dại những loài hoa.

Đất trời, núi rừng, cây cỏ Tây Nguyên vừa hòa quyện vào hồn người, vừa

bao bọc, nâng đỡ, làm điểm tựa vững chắc cho con người. Một nơi mà vừa mang

đến những phút giây thanh thản, an lành, mộng mơ lại vừa tiếp sức cho con người,

hẳn khó tìm đâu ra bằng chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ, tươi đẹp này:

Đất nƣớc Tây Nguyên anh hùng bất khuất

Màu xanh lớp lớp vô tận dấy lên

Đầu đỡ vòm trời chân xoài biển cả

Vai vắt khăn mây dải lụa mềm.

(Bài ca chim Chơrao)

Qủa là một sự kết hợp tuyệt vời giữa hai cực tưởng như đối lập nhau: cứng

cỏi, vững chãi với trữ tình, nên thơ. Không gắn bó với Tây Nguyên, không yêu Tây

Nguyên từ trong mạch sống mỗi ngày, hẳn Thu Bồn đã không cảm hết và không

viết nên được những dòng thơ đẹp như thế này về Tây Nguyên. Thu Bồn yêu mảnh

đất ấy không chỉ vì nó hùng vĩ và nên thơ mà còn bởi nơi đây là một kho báu văn

hóa dân gian khổng lồ, đặc biệt là “kho báu” trường ca. Đi tới buôn làng nào, ta

cũng gặp các nghệ nhân hát khan bằng thơ. Họ có thể hát về những câu chuyện bi

tráng diễn tả sức mạnh phi thường của các trang anh hùng dân tộc đánh lui thần

linh, quỷ dữ, đánh bại kẻ thù xâm lăng hết ngày nọ qua ngày kia, bên đống lửa, bên

ché rượu cần và bên những người thân trong cộng đồng buôn làng. Thu Bồn là trai

27

người Kinh, là anh bộ đội cụ Hồ, là người nghệ sỹ của nhân dân. Mỗi khi nhân dân

vui hội hè, ông hòa nhập vào cuộc sống của bà con dễ dàng như chính ông được

sinh ra và lớn lên từ những buôn làng này:

Cô gái Bana rông chiêng gióng trống

Trai Giarai nhảy chật nhà rông

(Bài ca chim Chơrao)

Đó là lúc mà người ta tạm quên đi những nhọc nhằn, vất vả của một ngày

nương rẫy, là lúc hòa mình vào nhịp thở của cộng đồng, buôn làng, hay thăng hoa

với những điệu nhảy miên man, những lời hát mê hoặc, tỏ tình dịu êm của đôi lứa

trong nhịp chiêng, trống giục giã, ngân vang. Đến Tây Nguyên chỉ một lần thôi,

chứng kiến một đêm hội nhà rông, hẳn sẽ không bao giờ người ta quên được men

say ngất ngây của riêng nó và đặc biệt là cả “pho sử sống nằm im trong đất” cũng

mê hoặc không kém:

Bạn đến đây muốn hiểu chốn này

Xin khơi lại những lớp đất nâu đầy ải

B52 cày xới biết bao lần

Pho sử sống nằm im trong đất

Vòng cung lửa cuối cùng đã tắt

Bao nhiêu ngƣời còn thuộc chuyện Đam San

Bạn đến đây mời bạn nghe chiêng Mơnông

Chiêng sẽ kể về gƣơng thần hỏa xá

Bạn sẽ nghe âm vang đàn đá

Mở đầu những vũ điệu Tây Nguyên…

(Badan khát)

Cái “pho sử” tưởng chừng “nằm im trong đất” ấy vẫn ngân vang trong thanh

âm cuộc sống buôn làng, vẫn hiện hữu đâu đây trong lời kể, lời hát, lời truyền tụng

của nhiều lớp người Tây Nguyên. Lại một lần nữa, dưới ngòi bút phóng túng, hào

sảng mà trữ tình, giàu cảm xúc của Thu Bồn, Tây Nguyên với những đặc sắc văn

hóa muôn đời được dựng lên sinh động, say lòng.

28

2.1.2. Quê hương đất nước đau thương nhưng anh dũng quật cường

Đất nước Việt Nam bên cạnh những trang sử đau thương thấm đầy nước mắt

qua bao cuộc chiến tranh là biết bao trang sử hào hùng chói lọi của sức mạnh quật

khởi, của ý thức đấu tranh bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc. Lịch sử bốn nghìn

năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã tạo nên một truyền thống đáng tự hào

của dân tộc: đau thương lắm song cũng rất đỗi hào hùng, oanh liệt. Thời đại nào

cũng thế, hễ có gót chân của quân xâm lược thì đời sống nhân dân lại chìm trong

khổ ải, máu và nước mắt với bao nỗi nhục nhằn, đắng cay. Song, con người Việt

Nam không hèn yếu, không dễ cúi đầu khuất phục, trái lại, họ là những con người

giàu tự trọng, tự tôn dân tộc và hết sức kiên cường, bất khuất. Thẳm sâu trong họ là

một tình yêu nước nồng nàn, quý báu được tôi luyện từ ngàn đời, ăn sâu vào trong

tiềm thức của mỗi người dân Việt. Từ những trang văn học viết đầu tiên của dân tộc

ở thế kỷ X, truyền thống ấy đã được khẳng định mạnh mẽ, hùng hồn:

Nam quốc sơn hà Nam đế cƣ

Tiệt nhiên định phận tại thiên thƣ

Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ

(Nam quốc sơn hà)

Qủa là một lời tuyên ngôn hùng hồn, thể hiện một ý chí quyết tâm mãnh liệt,

một sức mạnh quật cường, một tinh thần dân tộc cao cả. Một lời thề mãi mãi khắc

sâu trong lòng người dân nước Nam. Đó là lời thề sẽ đánh tan tác kẻ thù càn quấy

để giữ yên quê hương xứ sở. Bốn câu thơ, mỗi câu chỉ có bảy chữ nhưng lại có sức

gợi rất lớn. Nó khiến ta liên tưởng đến cả một truyền thống bất khuất hào hùng cảu

dân tộc. Truyền thống ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu nặng đã nhấn chìm mọi kẻ

thù xâm lược. Lịch sử Việt Nam rạng ngời những chiến công Lý Thường Kiệt thắng

Tống, Trần Hưng Đạo với hào khí Đông A phá tan giặc Mông Nguyên, Lê Lợi đánh

đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi... Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ dõng

dạc, đanh thép, Nam quốc sơn hà xứng đáng là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên

khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nuớc và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ

29

chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.

Đến với Tây Nguyên, mảnh đất giàu truyền thống này luôn không ngừng sản

sinh ra những con người vĩ đại và những tác phẩm ngợi ca các bậc anh hùng có sức

mạnh phi thường, tiêu biểu cho cả cộng đồng dân tộc. Từ thời xa xưa, trong các tác

phẩm văn học dân gian, người ta đã thấy được cái hào khí bừng bừng, ngùn ngụt

của cha ông trong cái thuở tưởng như còn rất sơ khai, mông muội. Chắc hẳn chúng

ta đều không thể quên được sử thi Đam San, một pho sử thi đồ sộ biểu dương, ca

ngợi ý chí, sức mạnh phi thường của con người trong trận chiến chống lại những thế

lực bạo tàn đen tối để nhằm hướng tới một cuộc sống bình yên, no ấm cho buôn

làng. Người nghệ sỹ dân gian Tây Nguyên bằng tài năng và niềm tự hào của mình

đã xây dựng lên một hình tượng nhân vật anh hùng đậm màu sắc thần kỳ, huyền

thoại, đó là người tù trưởng Đam San. Đam San có sức mạnh lay trời, chuyển đất,

chặt núi làm đường; có ý chí gan góc, giết tê giác, hùm beo, mãnh thú, ma quỷ; có

tài năng và lòng dũng cảm, đánh bại tất cả các tù trưởng hùng bạo, độc ác khác. Đặc

biệt, người anh hùng ở đây còn mang một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: đi bắt

Nữ thần Mặt trời, cũng là đồng nghĩa với khát vọng chinh phục thiên nhiên to lớn,

vĩ đại. Rõ ràng, sức mạnh cộng đồng, tập thể đã dồn tụ vào một con người - một

lãnh tụ tiêu biểu và đại diện cho tất cả bộ tộc để thể hiện sức mạnh, ý chí, khát vọng

chiến thắng mọi thế lực đen tối, vươn tới một cuộc sống to lớn, tốt đẹp hơn.

Với Thu Bồn, một người đã trải qua hai trận chiến, đã chứng kiến bao cảnh

tang thương của quê hương đất nước trong khói lửa chiến tranh, đã từng đau nỗi đau

của người dân mất nước, từng chịu nỗi căm hờn của một dân tộc bị chà đạp, giày

xéo thì hình ảnh quê hương đau thương nhưng anh dũng quật cường lại càng trở

thành một ám ảnh, một biểu tượng cao cả, thiêng liêng. Ngay trong những bài thơ

ngắn, ta đã bắt gặp những câu thơ viết về quê hương đầy bi tráng, xúc động:

Đất hỡi đất! Ngƣời vẹn lòng yêu nƣớc

Viên đạn bây giờ cày lên viên đạn năm xƣa

(Hôn mảnh đất quê hƣơng)

30

Một đất nước vừa thoát khỏi cuộc chiến chống thực dân, chưa kịp hàn gắn

thương tích trên mình lại phải đối đầu với một cuộc chiến mới của đế quốc xâm

lăng, có lẽ không thể có cách nói nào sâu sắc hơn, thấm thía hơn và ấn tượng hơn

cách nói của Thu Bồn: “Viên đạn bây giờ cày lên viên đạn năm xưa”. Hay đó là

hình ảnh mảnh “vườn xanh” ngày xưa mướt xanh sự sống, lấp lánh bao kỷ niệm

thiếu thời, thì hôm nay:

Hai mƣơi năm… anh trở về quê mẹ

Thuốc độc quân thù rải chết những đƣờng thôn

Rụng lá lìa cành cây cỏ héo hon…

(Vƣờn xanh)

Héo tàn là thế, tang thương là thế, song, quê hương ấy cũng rất đỗi anh hùng:

Nay sóng dậy âm vang triều lịch sử

Ngƣời em đã trở thành quân cảm tử

Tà áo bay đỏ máu vẫy đồng bào

Chiếc khăn tay nhuộm máu hóa cờ hoa…

(Gửi ngƣời em Bình Định)

Đặc biệt, hình ảnh cây tre Việt Nam dẻo dai, kiên cường, vươn thẳng đã trở

thành biểu tượng cho sự bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam:

Quê hƣơng ta có những hàng tre chống Mỹ

Cha ông ta xƣa khéo trồng tre thành chiến lũy

Lớp lớp trùng trùng xanh thẳm giữa quê hƣơng

… Che chở bảo vệ làng mạc quê hƣơng

(Tre xanh)

Có thể thấy, đánh giặc giữ nước là truyền thống nổi bật làm nên phẩm giá

Việt Nam. Tuy nhiên, ngoại trừ những diễn ca lịch sử, trong thơ trữ tình, trường ca

chính là thể loại thuận lợi nhất để trường liên tưởng “dài hơi” của nhà thơ thả sức

thể hiện cảm hứng sử thi bay bổng của mình khi nói về truyền thống. Theo Thu

Bồn, “trường ca là sự mở rộng chức năng yếu tố tự sự trong thơ trữ tình, là một hiện

tượng thâm nhập của các thể loại thơ, là một kết cấu mềm dẻo mà đa tiện”. Không

31

những thế, “trường ca còn có thể xông xáo với hiện thực cuộc sống với tất cả sức

mạnh của nó (…) trường ca dám xông vào những chỗ hắc búa, những vỉa đá ngầm

của cuộc sống…” [55, tr.553-534]. Vì thế, ta bắt gặp trong những trường ca vạm vỡ

của Thu Bồn từ Bài ca chim Chơrao, Quê hƣơng mặt trời vàng đến Campuchia hy

vọng, Oran 76 ngọn, Badan khát… đều ngập tràn hình ảnh quê hương đất nước -

một quê hương đau thương nhưng anh dũng quật cường trong khói lửa chiến tranh,

kiên cường bất khuất dưới mưa bom bão đạn quân thù.

Từ nhỏ, Thu Bồn đã tham gia thiếu sinh quân, vào chiến trường miền Nam,

ông là quân giải phóng. Chiến tranh đã đeo bám và để lại nhiều dấu ấn đau thương

trong gia đình ông: Vợ chồng ông lấy nhau ở chiến trường, sinh ra hai con cũng trên

chiến trường để rồi đều bị di chứng chiến tranh, một chết vì bệnh máu trắng, một

mắc bệnh thần kinh… Với ông, chiến tranh có ngay từ khi ông mới lọt lòng:

Mẹ sinh con ra vào năm tuổi Hợi

Cắt rốn cho con bằng một mảnh bom

Dúm nhau mẹ và rốn con chon một chỗ

Máu bào thai mẹ và rốn con chảy một lần.

(Quê hƣơng mặt trời vàng)

Bởi thế, Thu Bồn quá thấu hiểu, quá thấm thía nỗi đau thương, tủi nhục của

người dân mất nước và cũng thấy rõ ý chí quyết tâm trả thù để bảo vệ cuộc sống

yên bình cho quê hương của họ. Đầu tiên và nổi bật nhất là bản hùng ca chống Mỹ

Bài ca chim Chơrao. Mở đầu bản trường ca là hình ảnh một Tây Nguyên chìm

trong bóng đêm, trong sự vây hãm, giày xéo của quân thù:

Làng mạc xa chòi canh thấp thoáng

Rào vi giăng bong tối đen ngòm

Tiếng mõ điểm canh khua nhức óc

Dân vệ đi tuần chó sủa om

Mây đen đè nặng trăng không sáng

Loang lổ trời đêm máu tím bầm

Rặng núi nặng nề ôm mây ngủ

Nghe vẳng phƣơng xa tiếng sấm gầm…

32

Đấy là không khí của Tây Nguyên nói riêng, miền Nam nói chung trong thời

điểm cam go nhất của lịch sử. Đâu đâu cũng là “chòi canh”, “rào vi” thành lũy quân

giặc, đâu đâu cũng chỉ tra tấn, chết chóc, đổ máu… Cảnh tượng ấy không chỉ được

tái hiện bẳng những hình ảnh, âm thanh cụ thể “chòi canh thấp thoáng”, “rào vi

giăng bóng tối đen ngòm”, “tiếng mõ điểm canh khua nhức óc”, bằng lối tả thực với

ngôn ngữ mộc mạc, chân thực “dân vệ đi tuần chó sủa om” mà còn được dựng lên

bằng hàng loạt hình ảnh mang tính chất tượng trưng: “mây đen đè nặng trăng không

sáng”, “loang lổ trời đêm máu tím bầm”, “rặng núi nặng nề ôm mây ngủ”. Tượng

trưng mà không trừu tượng, cái tài của ngòi bút Thu Bồn là ở chỗ những chi tiết cụ

thể thường có sức khái quát cao, còn những hình ảnh tượng trưng lại có sức gợi mở,

gợi cảm lớn. Ở đây, những hình ảnh tượng trưng liên tiếp xuất hiện, gợi lên một bầu

không khí ngột ngạt, tịch mịch, u uẩn, nặng nề, đau thương, song cũng chất ngất

hờn căm, bi phẫn. Cả hai khổ thơ đều được viết ra từ một tâm trạng sục sôi căm

phẫn nhưng điều đáng quý là Thu Bồn luôn biết làm chủ cảm xúc của mình, dù cảm

xúc ấy luôn ở mức độ căng tràn, mãnh liệt. Quê hương dưới gót giày xâm lược tàn

tạ là thế, đau thương là thế, song không phải không có dấu hiệu của sự đổi thay. Sau

một loạt hình ảnh đen tối, mờ mịt là một câu kết với âm thanh: “Nghe vẳng phương

xa tiếng sấm gầm”. Âm thanh “sấm gầm” dù mới chỉ là “nghe vẳng” từ phương xa

thôi nhưng đó là một âm thanh dữ dội, hùng hồn. Phải chăng, đấy là âm thanh dự

báo về một ngày mới, một sự vùng lên quật khởi của những người con Tây Nguyên,

buôn làng Tây Nguyên không cam chịu đọa đày, chà đạp của quân thù. Qủa thật

như thế, sau cái âm thanh vang vọng từ xa ấy là một thanh âm rất thật, rất gần và cụ

thể “vút cao” lên – “tiếng hát trong ngần” của cô gái “chân đeo xiềng bước thấp

bước cao” trong nhà lao:

Tiếng hát trong xà lim sao tha thiết

Nhắn nhủ ai chiến đấu trọn đời

Hỡi bạn khốn cùng kề vai sát cánh

Mất xiềng gông ta đƣợc cả đất trời.

Tiếng hát vút lên, trong trẻo, thiết tha như gợi thức, lay động, nhắn nhủ và

thúc giục mọi người vùng lên tranh đấu. Tiếng hát ấy lại được cất lên trong hoàn

33

cảnh tù đày, giam hãm, từ trái tim một người thiếu nữ của buôn làng nên càng có ý

nghĩa hơn, đặc biệt là đối với những người bạn tù, những chàng trai đầy dũng khí

trong chốn lao ngục kia. Tiếng hát ấy càng tiếp thêm sức mạnh, ý chí, niềm tin cho

Rin – người yêu của cô gái và đồng đội của anh – Hùng. Vì thế, trong phút giây gặp

gỡ ngắn ngủi nơi buồng giam, Y Rin đã thúc giục cô gái:

Hãy về đi ngƣời em thiếu nữ

Đi con đƣờng chiến đấu dài lâu

Thế phải đứng anh đứng cho quân thù run sợ

Anh không bao giờ còn gặp lại em đâu!

Sau lời thúc giục là lời khẳng định dứt khoát một ý chí đối mặt với quân thù,

một bản lĩnh cứng cỏi lạ thường và một sự lựa chọn đầy quyết tâm cho Tổ quốc:

“Thế phải đứng anh đứng cho quân thù run sợ/ Anh không bao giờ còn gặp lại em

đâu!”. Thế đứng ấy là của Y Rin – một chàng trai đang tay cùm chân khóa, đang

đứng trước sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Thế đứng ấy cũng là thế đứng hiên ngang,

bất khuất của đồng bào Tây Nguyên nói riêng, của cả dân tộc ta nói chung từ ngàn

đời nay. Ở đây, Y Rin cũng chính là sự kết tinh cao cả, là biểu tượng cho sức mạnh,

ý chí và lý tưởng của Tây Nguyên. Bởi thế, dù quân thù dung mọi thủ đoạn xấu xa

từ dụ dỗ, mua chuộc đến tra tấn dã man thì anh vẫn một lòng kiên định, rắn rỏi:

Khai gì tao là ngƣời chiến sĩ

Còn tao, sẽ không có chúng mày

Giết đi, tao sợ gì cái chết

Xẻo đi, lồng ngực của tao đây

Những lời đối thoại chắc nịch, đanh thép đầy kiêu hãnh và thách thức. Đó

là tâm thế sẵn sang đối đầu với cái xấu, cái chết. Và cao hơn nữa, đứng trước sự

bạo tàn, trước cái chết, anh vẫn giữ một bản lĩnh can trường, một niềm lạc quan

vô bờ bến:

Rin hát, giữa phòng tra Rin hát

Đứng hiên ngang đối mặt kẻ thù

Bài hát ngợi ca lòng dũng cảm

Ca ngợi lá cờ bay đẹp giữa mùa thu.

34

Có thể nói, Thu Bồn đã dựng lên một hình tượng sáng ngời, kì vĩ về người

chiến sỹ cách mạng – người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất trong kháng

chiến. Cũng trong tác phẩm này, bên cạnh Y Rin là người con đồng bằng vùng biển

miền Trung, cũng là một chiến sỹ ngoan cường, đang kề vai sát cánh cùng anh

chiến đấu đến cùng cho chính nghĩa, cho lẽ phải. Khi bị dẫn đến phòng tra khảo,

anh vẫn điềm tĩnh đến lạ thường:

Chúng dẫn Hùng đến ngồi trên ghế

Giữa phòng tra anh thấy vững lạ thƣờng

Có phải đây là nơi thử thách

Tất cả lòng chung thủy vơi quê hƣơng.

Khi tên sỹ quan đưa giấy bút để khai thì Hùng đã “quăng cây bút máy lên

bàn” rồi “cắn đầu ngón tay máu chảy tràn” để làm bút viết lời quyết tâm “không

khai” bằng dòng máu của chính trái tim mình. Qủa là một hành động can đảm, một

thái độ coi thường đau đớn, coi thường cái chết. Cao hơn cả đối với anh là tấm lòng

thủy chung với quê hương, là quyết tâm xả thân cho Tổ quốc thân yêu:

Hùng lấy thuốc tiến lại lò lửa đỏ

Vùa than hồng vào giữa bàn tay

Điềm nhiên anh châm lửa hút

Mấy tên côn đồ phách lạc hồn bay

Với bàn tay dộp phồng cháy khét

Anh ung dung vớ lấy chiếc kìm

Véo vào đùi rứt ra miếng thịt

Bọn ác ôn trông thấy rợn mình.

Những hành động ấy khẳng định dũng khí mạnh mẽ, bản lĩnh phi thường

của người con miền Nam trong đấu tranh cách mạng. Ở đây, lợi thế của trường

ca đã cho phép Thu Bồn đi vào miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ từng chi tiết, hành vi, thái

độ dù là rất nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của nhân vật, điều mà thơ trữ tình ít khả năng

hơn. Nhờ vậy bức chân dung người chiến sỹ cộng sản được khắc họa một cách rõ

nét, sinh động, đủ đầy và gây xúc động hơn. Ngay cả ý nghĩ về cái chết cũng

35

được tác giả diễn tả một cách chân xác:

Một giây suy nghĩ anh cƣời đáp

“Tao sẽ chết bằng xe kéo trên đƣờng

Máu thịt tao quyện vào bụi đất

Xƣơng óc tao rải khắp quê hƣơng”.

Lựa chọn hình thức chết đau đớn nhất cho mình cũng là sự lựa chọn có ý

nghĩa: chết giữa lòng quê hương, quyện hòa vào đất mẹ. Cái chết ấy không phải là

sự mất đi mà là sự thăng hoa, hồi sinh, là nguồn mạch của lòng căm thù và sức

chiến đấu quật khởi của quê hương đất nước:

Trên nƣơng sáng nay lúa vừa ngậm sữa

Chúng đem Hùng Rin trói chặt vào cây

Ôi hai con chim ƣng trong bão tố

Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay.

Sau một chi tiết tả thực là một hình ảnh so sánh kỳ vĩ: hai người chiến sĩ

cách mạng trước cái chết - hai con chim ưng trong bão tố vẫn vững chí bền gan,

tung bay đôi cánh. Cách ví von ấy của nhà thơ càng tô đậm vẻ bi tráng, hào hùng,

hiên ngang của nhân vật, của những con người không hề lui bước, run sợ, khuất

phục trước kẻ thù. Sự kiên trung, hy sinh anh dũng ấy của các anh đã làm xúc động

bao trái tim, lay thức, vẫy gọi, cổ vũ cả buôn làng, quê hương vùng lên chiến đấu,

đánh đuổi quân thù:

Lệ dân làng thấm sâu vào đất

Ủ nóng hai anh giữa núi đồi

Hãy nhận lấy rừng hoa đẹp nhất

Cả quê hƣơng vùng dậy kia rồi.

và đây nữa:

Lim sến trong rừng bốc gốc

Làm cơn bão tố rung động ngàn cây

Đá nhào đất chuyển rung gầm thét

Mƣa nguồn dâng nƣớc suối tràn đầy.

36

Với bút pháp nhân hóa, tượng trưng, lời thơ phóng đại cùng những hình ảnh,

âm thanh mạnh mẽ, đoạn thơ đã làm nổi bật nỗi căm hờn mãnh liệt, ý chí trả thù sục

sôi và sức mạnh quật khởi của buôn làng, quê hương cách mạng Tây Nguyên. Xót

xa, đau đớn trước sự hy sinh của hai người con Tổ quốc, song tuyệt nhiên không hề

bi lụy, càng không làm cho những người ở lại trở nên yếu lòng nhụt chí. Trái lại, sự

quả cảm của các anh đã thắp lên ngọn lửa niềm tin, thổi bùng lên ý chí chiến đấu và

bồi đắp nhiệt huyết cách mạng cho quê hương. Không chỉ ở Bài ca chim Chơrao mà

Vách đá Hồ Chí Minh - một tác phẩm có dung lượng ngắn gọn, bối cảnh hẹp hơn

nhưng hình ảnh quê hương anh dũng trong đấu tranh cách mạng vẫn được khắc họa,

tái hiện rõ nét. Đó là ý chí gan dạ, sắt đá kiên cường từ chàng trai I Dót đến ông già

tóc trắng (bố Dy Mơ Thưng) và cả Dang Nghi A (chồng Dy Mơ Thưng) trước sự dụ

dỗ, tra tấn của quân thù khi chúng muốn họ xóa dòng chữ “Hồ Chí Minh muôn

năm” trên vách đá. Chàng thanh niên I Dót thì dứt khoát từ chối bạc vàng:

Chịu thôi!

(…)

Lòng chúng ta trơ xám trƣớc bạc vàng.

Ông già tóc trắng thì không những từ chối mà còn mỉa mai, châm biếm thủ

đoạn của bọn quỷ “mắt xanh”, “loài rắn rết”:

Cứ treo xác ta lủng lẳng

Diều hâu đến rỉa hết thịt da

Mổ nát buồng tim hút óc của ta

Còn hơn tai phải nghe loài rắn rết.

Ngay cả khi bị bọn chúng bắn tử thương, ông vẫn hiên ngang, dõng dạc

tuyên bố:

Hỡi loài dơi sợ nắng

Loài cú ăn đêm muốn xóa mặt trời

Trong tim ta dòng chữ sáng ngời

Mi không thể nào xóa đƣợc!

37

Lời tuyên bố ấy cũng là lời khẳng định một nhận thức lớn lao: Niềm tin của ông

già, của buôn làng vào lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân

tộc. Chính niềm tin ấy đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh cho họ khi đối mặt kẻ thù.

Cũng vì thế mà đến Dang Nghi A thì lời đối đáp đã mạnh mẽ hơn ,quyết liệt hơn:

Dy Mơ Thƣng ơi!

Anh sẽ mở con đƣờng qua lê súng quân thù

Nhƣ qua bãi cỏ may

Nhƣng xƣơng thịt Dang A Nghi không rũ xuống chỗ này.

Và, cao hơn lời nói là hành động - một hành động vừa quả cảm lại rất nhanh

trí: Anh nhận lời leo lên vách đá để xóa dòng chữ. Cứ thế, tiếng đục đá mỗi lúc một

vang: “Chát chan… chát chan…”. Người vợ trẻ thì đau khổ, phẫn uất còn chàng trai

vẫn lặng lẽ, kiên nhẫn, miệt mài đục sâu lên vách. Nhưng có ai biết rằng chàng đang

hành động với một tâm niệm:

Đục cho sâu, đục cho sâu

Công ơn Ngƣời núi phải ghi lên đá

Rừng phải ghi trên cây, trên lá

Ngƣời phải ghi trong ruột, trong gan.

Tâm nguyện ấy anh phải giấu kín trong lòng để che mắt quân thù khi công

việc chưa kết thúc. Cuối cùng, khi tâm nguyện đã hoàn thành:

Dang Nghi A treo lơ lửng cuối đầu dây

Anh chao ngƣời xua đuổi những đám mây

Tay hất vội lá, rêu, nâng dòng chữ…

Vẫn là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và tượng trưng, những dòng thơ trên

đã khắc họa một hình ảnh, một lý tưởng thật đẹp đẽ: Người anh hùng thầm lặng của

buôn làng với niềm tin yêu, trân trọng, tôn thờ vị lãnh tụ cách mạng dân tộc và ý chí

kiên cường gan dạ trước họng súng kẻ thù. Chính hành động quả cảm của Dang

Nghi A cùng với cái chết lẫm liệt: “Lồng ngực con người căng trong bão tố/ Máu

vọt ra mở đường cho vách đá bay lên” đã là động lực thúc giục, lôi cuốn quê hương

vùng lên quật khởi:

38

Gƣơm đã sáng kéo lƣới dài tia chớp

Ƣớc mơ dựng trên đầu gƣơm giáo rợp

Ngƣời xông lên…

Ngƣời xông lên…

Những câu thơ cứ tuôn trào ồ ạt, dồn dập - tựa khí thế vùng dậy bừng bừng,

hừng hực của quê hương, tựa thế “xông lên” tấn công dữ dội như vũ bão của buôn

làng. Giọng thơ rắn rỏi, đanh thép, chắc nịch; lối diễn đạt đầy ấn tượng: “Gươm đã

sáng kéo dài lưới tia chớp/ Ước mơ dựng trên đầu gươm giáo rợp”, “căm hờn như

thuốc ngấm vào tên”, “Những họng súng đen ngòm đi hỏi nợ tự nghìn xưa”… vừa

tái hiện hình ảnh một Tây Nguyên kiên cường, anh dũng vừa diễn tả sâu sắc nỗi

căm hờn bao đời của con người Tây Nguyên đối với cái ác, cái bạo tàn cũng như

ước mơ cháy bỏng của họ về một cuộc sống tự do, không còn áp bức. Ước vọng ấy,

lý tưởng ấy thật cần thiết, chính đáng trong hoàn cảnh đất nước đang ngày đêm bị

giày xéo, tàn phá dưới mưa bom bão đạn. Cũng như thế, những dòng thơ trong

Chim vàng chốt lửa có lẽ sẽ mãi ám ảnh người đọc:

Bom đào sâu thêm những hố đất vàng

Cơn sốt lƣu huỳnh nám mặt dòng sông

Những cây nấm hình thù kỳ dị

Những đám bỏng Napan trên da thịt mình nhƣ họa đồ

thế giới lặng câm

Những tổ chim trống hoác nhƣ con mắt mất tròng.

Hàng loạt hình ảnh cụ thể, gợi cảm xuất hiện liên tiếp, dồn dập, lối diễn đạt

mới mẻ, ấn tượng, đoạn thơ đã tái hiện một quê hương tiêu điều, tàn úa, chất chồng

đau thương. Cái đau thương ấy đang diễn ra từng ngày, từng ngày, khắp mọi nẻo

quê hương, từ cánh đồng, sườn núi, dòng sông đến cả tổ ấm của đàn chim cũng

“trống hoác như con mắt mất tròng”... Hình ảnh nào cũng gây xúc động người đọc,

trước hết bởi nó được viết từ chính nỗi xúc động, từ một xúc cảm mãnh liệt của nhà

thơ. Song, cái lối so sánh “những tổ chim trống hoác như con mắt mất tròng” thì có

lẽ chỉ có Thu Bồn. Sức tố cáo của những hình ảnh này thật lớn lao, thấm thía! Nỗi

39

đau do chiến tranh gây ra không chỉ con người mà ngay cả chim muông, vạn vật

cũng phải hứng chịu. Bởi vậy mà không thể đứng yên nữa rồi, những con người quê

hương đã sẵn sàng “thành người lính” ra trận chiến đấu, đánh đuổi ngoại xâm, đem

lại bình yên cho đồng đội, cho quê hương đất nước. Trong số họ, không chỉ những

chàng trai mà còn có cả những cô gái đang phơi phới xuân thì - vừa làm người nuôi

quân vừa cầm súng lúc cần thiết:

Bỗng em hét to lên

- Có địch!

(…)

Ba cây đại liên của chúng tôi gầm rít

Lựu đạn nổ từng chùm cát bay mù mịt

Nòng súng của em chĩa lại phía quân thù.

Người nữ chiến sỹ nuôi quân ấy trong khoảnh khắc đã trở thành người chiến

sỹ xung trận kiên cường:

Hàm răng đẹp xinh em cắn từng chốt bão

Mái tóc làn môi

Bàn tay em tung sấm chớp xuống chân đồi

Tiểu đoàn dù rối tinh hỗn loạn…

Chiến tranh là sống giữa cái chết. Lý tưởng cao cả của những người con quê

hương lúc này lại chính là chết cho sự sống nảy mầm. Trong thời khắc mà ranh giới

sống - chết rất đỗi mong manh, họ đã hành động thật quả cảm. Làn môi mềm mại,

hàm răng đẹp xinh của những cô gái ngày thường chỉ biết làm duyên, làm đẹp cho

cuộc đời thì giờ đây - trong trận chiến - lại dùng để “cắn từng chốt bão”, “tung sấm

chớp xuống chân đồi” làm “rối tinh hỗn loạn” quân địch. Ở đoạn thơ này, chính Thu

Bồn một lần nữa đã ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam hiền

hậu, đảm đang trong đời thường và dũng cảm, quyết liệt khi đấu tranh với cái ác,

với giặc giã xâm lăng.

Ngay cả trong Campuchia hy vọng, một trường ca viết về cuộc chiến tranh

thần thánh của nhân dân Campuchia nhằm giải phóng đất nước khỏi bóng đen và tội

40

ác của bọn diệt chủng Pôn Pốt dã man, Thu Bồn cũng gửi vào đấy niềm tự hào về

quê hương đất nước Việt Nam qua chương “Gởi Tổ quốc tôi - Tổ quốc bị đọa đày”:

Ải Chi Lăng rùng rùng vó ngựa

Đống Đa xƣơng giặc thành gò

Sầm Nghi Đống chết treo

Bắc Bình Vƣơng ra trận

Chiến bào đỏ rực máu quân Thanh

Nguyên Mông bao phen vỡ mật

Lời thề Trần Hƣng Đạo còn vang

Hận thù đằng đằng biên thùy rung chuyển

Nào ngƣời hào hùng nên hòa hay nên quyết chiến?

Khác với những chi tiết, hình ảnh cụ thể mang hơi thở thời đại trong các

trường ca trước, ở đây đất nước Việt Nam hào hùng được tái hiện trong những trang

sử oanh liệt, vang dội của cha ông. Đặc biệt, niềm tự hào của nhà thơ về quê hương,

Tổ quốc mình được thể hiện rõ qua đoạn thơ sau:

Cọc Bạch Đằng - cây chông lớn ngàn năm

Ngọn sóng qua đây thành lƣỡi búa

Ngọn gió qua đây thành mũi lao

Cánh chim qua đây thành con tuấn mã

Tờ giấy qua đây thành trang sử đỏ.

Có phải là những lời cường điệu, nói quá hay không? Hẳn câu trả lời sẽ là

không với những ai hiểu biết về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt

Nam. Biết bao chiến công ngang tầm kỳ tích. Biết bao anh hùng trở thành huyền

thoại. Mưu trí con người Việt Nam thật kỳ diệu! Sức mạnh dân tộc Việt Nam thật

phi thường! Cao hơn cả là truyền thống yêu nước và lòng ưa chuộng hòa bình của

người Việt Nam thật đáng tự hào và khâm phục. Và Thu Bồn với cảm nhận sâu sắc

về truyền thống anh hùng dân tộc cùng với ngòi bút giàu cảm xúc của mình đã làm

nổi bật cái truyền thống quý báu ấy bằng một loạt hình ảnh vừa mang ý nghĩa tượng

trưng, vừa cụ thể, chân thực. Điều này được ông duy trì mãi cho đến những trường

41

ca sau này như Badan khát , một tác phẩm viết về công cuộc khai phá, xây dựng

miền Tây Tổ quốc sau chiến tranh vẫn lấp lánh những hồi ức đẹp đẽ trên một quê

hương anh dũng với bao tên tuổi, bao chiến thắng lẫy lừng:

Bạn đến đây nghe chuyện Kapakơlơng

Mƣời sáu tuổi giết trăm tên giặc

Tiếng bom Ngô Mây và anh hùng Núp

Xa hơn nữa về phía Bắc dãy Ngọc Rinh Rua

Sông Sa Thầy

Những chiến sỹ vô danh nằm xuống

Ngã ba Đông Dơng xuất phát những binh đoàn.

Nhìn một cách tổng quát, xuyên suốt những trường ca viết về quê hương đất

nước, Thu Bồn đều viết với một giọng điệu nồng nhiệt, chân thành, hào sảng hiếm

thấy. Điều này phải chăng được bắt nguồn từ cái nhìn đầy tính sử thi của nhà thơ

đối với cuộc sống, thời đại và từ một quan niệm lớn lao: con người thật vĩ đại và

sức mạnh của chính nghĩa, của chân lý sẽ chiến thắng tất cả mọi thế lựa trên thế

gian này. Cái nhìn đầy tính sử thi ấy, cái chất tráng ca hào hùng ấy trong tác phẩm

Thu Bồn cũng là một sự lựa chọn rất nghiêm túc, rất có trách nhiệm với nhân dân,

Tổ quốc, với thời đại. Bởi xét đến cùng, mục đích cao cả và tối thượng của văn

nghệ vẫn là để phục vụ con người. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi hoàn cảnh, con người

sẽ có một cách nghĩ, cách hành động và quan niệm thẩm mỹ riêng. Trong những

năm tháng chiến tranh ác liệt, quân và dân trên mọi miền đất nước đang xả mình

cho nhiệm vụ cứu nước với bao khó khăn gian khổ, hy sinh mồ hôi xương máu thì

những vần thơ chất chứa căm hờn tội ác với khí phách hào sảng, hùng hồn, quyết

liệt sẽ là động lực không nhỏ cho họ. Thơ văn đối với nhân dân lúc này như một

món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh, ý chí và niềm tin trên con đường đấu tranh

chông gai. Cái chất tráng ca, hào hùng, nồng nàn, cái nóng bỏng, cuồn cuộn trào

dâng, cái khí thế tuôn trào đầu ngọn bút qua mỗi dòng thơ trong trường ca Thu Bồn

chính là sự “tiếp thêm dầu cho lửa”, khơi dậy, lôi kéo, cổ vũ không ngừng cho bầu

nhiệt huyết chiến đấu trong mỗi người dân yêu nước Việt Nam.

42

2.2. Cảm hứng về con ngƣời và cuộc sống trong chiến tranh

2.2.1. Con người anh hùng và nhân ái

Nhắc đến con người trong chiến tranh, trước hết phải nói đến người lính. Tuy

nhiên, các anh hùng ca trước đó ít tập trung phản ánh tập thể “quần chúng lính” mà

tập trung ở những nhân vật cá nhân anh hùng. Đều xuất thân từ lính nên các tác giả

trường ca sau 1975 đều đã phản ánh rất thành công đời sống, tâm tư, tình cảm, tư

tưởng của người lính trong chiến tranh. Tuy nhiên, không phản ánh đơn giản bằng

những khoảnh khắc xúc cảm như hình ảnh người lính trong thơ; trường ca, với lợi

thế của yếu tố tự sự và độ dài cho phép, đã phản ánh người lính ở nhiều góc độ khác

nhau, đặc biệt là chất bi ca trong từng số phận cụ thể nhằm làm toát lên cái tinh thần

chính mang tính sử thi bi hùng. Thu Bồn là một trong những người thuộc thế hệ nhà

thơ chống Mỹ viết nhiều trường ca nhất trong thơ ca Việt Nam (8 trường ca). Bằng

thế mạnh của nội dung cốt truyện, Thu Bồn, trong Bài ca chim Chơ rao đã miêu tả

những bi thương mà người chiến sĩ gánh chịu trong cuộc đấu tranh một mất một còn

với kẻ thù:

Tên quan hét lính dùng búa sắt

Đập gãy mấy chiếc răng còn lại của Rin

Rin đứng lên mấy lần ngã xuống

Tên quan đắc chí trễ môi cƣời

Bỗng Rin chồm lên chiếc ghế

Nhổ vào ảnh Diệm bãi máu tƣơi…

Rõ ràng nếu đặt đoạn thơ này vào một bài thơ trữ tình thì nhất định sẽ không

đủ dung lượng để Thu Bồn thể hiện hết những cực hình tra tấn mà kẻ thù mang đến.

Toàn bộ trường ca kể lại rất nhiều những trường đoạn bi thương mà anh dũng của

những người dân miền núi trong vòng vây trói buộc của phong kiến, thực dân, đặc

biệt là mối bi tình của Y Rin và Mai Sao. Hoàn cảnh xô đẩy cùng với sự giác ngộ,

họ đã trở thành hai người chiến sĩ, chiến đấu ngoan cường và cùng gặp nhau trong

nhà tù thực dân, đế quốc. Hoàn cảnh hội ngộ khá bi thương trong mối nghi ngờ của

Rin đối với Sao, nhưng cũng là một khúc tình ca tráng lệ:

Giữa tàn phá âm u bừng cháy

43

Tình yêu vẫn nở giữa thƣơng đau.

Phải thừa nhận rằng nét nổi bật trong các sáng tác dài hơi của Thu Bồn là

khả năng tạo dựng khung cảnh dữ dội, bi tráng để qua đó làm nổi bật tính cách phi

thường của con người trong chiến tranh. Bên cạnh câu chuyện cảm động về mối

tình của Y Rin và Mai Sao, Bài ca chim Chơrao còn là khúc ca ca ngợi tinh thần

kiên trung với cách mạng của hai chiến sĩ Hùng và Rin. Đây cũng là hai nhân vật

chính được khắc họa như là những kết tinh ưu tú nhất của quê hương, thời đại. Thu

Bồn đã chọn đỉnh điểm cao nhất cho sự bộc lộ tính cách nhân vật và thái độ tự

nguyện đối với cái chết. Với Rin, câu trả lời cho những cú đánh phủ đầu, những lời

đe dọa là:

Giết đi, tao sợ gì cái chết

Xẻo đi, lồng ngực của tao đây.

Những câu thơ được ngắt tách ra, nhịp điệu chắc khỏe như một câu trả lời

đanh thép, chắc nịch đầy kiêu hãnh của người chiến sĩ trước kẻ thù. Còn với Hùng,

trả lời cho câu hỏi “muốn chết cách nào”, anh đã thản nhiên cười đáp:

Tao sẽ chết bằng xe kéo trên đƣờng

Mau thịt tao quyện vào bụi đất

Xƣơng óc tao rải khắp quê hƣơng…

Đây là sự lựa chọn đầy ý nghĩa, rất ngoan cường. Chọn cái chết đau đớn nhất

về thể xác nhưng lại khẳng định một cách hùng hồn nhất cho bản lĩnh vững vàng,

quyết tâm sắt đá và tấm lòng thủy chung với cách mạng, quê hương. Trên cái nền

bối cảnh bi tráng, dữ dội, hình ảnh con người anh dũng, bất khuất càng trở nên vĩ

đại hơn nữa. Trường đoạn cao trào của trường ca chính là giờ phút hai chiến sĩ

Hùng, Rin bước ra pháp trường; giờ phút kẻ thù đốt lên ngọn lửa thiêu cũng là lúc

hai ngọn lửa thiêng anh hùng rực cháy, soi sáng cả một vùng rừng núi Tây Nguyên,

soi sáng cả một miền Nam đang chiến đấu:

Ùn ùn ngọn lửa cao nhƣ núi

Chúng chờ nghe những tiếng rên la

Nhƣng lạ lung thay hai ngọn lửa

Bỗng trầm hùng vang vọng khúc ca…

44

Rõ ràng ở đây, cái chết không phải là sự mất đi mà là sự thăng hoa, sự bồi

đắp mạch sống cho quê hương. Trong đau đớn, không hề có “tiếng rên la”, trái lại,

từ nơi ngọn lửa bạo tàn ấy vang vọng lên những khúc ca trầm hùng - khúc ca của

những con người không hề biết run sợ, khuất phục trước cái xấu, cái phi nghĩa.

Chính cái chết lẫm liệt của hai chiến sĩ đã làm xao xuyến cả một vùng cây cỏ, đất

trời Tây Nguyên. Bến thuyền thì “kéo dài ngọn lửa”, chớp thì “xé trời”, “con cá

kình lao mình”, những ngọn dừa “réo lên vuốt cong ngàn tia kiếm”, “tiếng chinh

chiêng đảo trời”, tiếng người, tiếng cồng “gào thét”… Hàng loạt hình ảnh dữ dội,

kỳ vĩ xuất hiện liên tiếp. Thiên nhiên cũng đang đau nỗi đau của con người và đang

vần vũ, dồn tụ sức mạnh cho con người, cho quê hương trong cuộc chiến vĩ đại này:

Sợi dây trói cháy thành tro bụi

Nhƣng tim anh hùng còn đập giữa khói đen

Hai ngọn đuốc rùng rùng tiến lại

Cái chết đâu làm ta phải yếu hèn.

Cái chết tạo nên ánh đuốc sáng bừng, kỳ vĩ, chói ngời - làm nên kỳ tích. Cái

chết đã khẳng định một tư thế, một lý tưởng, một tấm lòng kiên trung, dũng cảm và

thủy chung đến cùng.

Người nữ chiến sĩ trong Chim vàng chốt lửa cũng được Thu Bồn chắt chiu

dồn hết cả tình thương yêu xây dựng nên như một đóa hoa tươi trong bầu trời đạn

lửa. Cái đẹp của phái yếu xưa nay vốn lạ xa với chốn ba quân, vậy mà trước sự kêu

đòi của lịch sử, sự tàn bạo của quân thù, đôi bàn tay nhỏ nhắn yêu thương đã “vẫy”

nên tín hiệu và làm ra “sấm chớp”; đôi hàm răng trắng nõn tiếng cười trở thành chìa

khóa khai thông những cơn bão dữ, đôi làn môi chín mọng yêu thương giờ cũng

đang “tóe máu” giữa chiến trường:

Hàm răng đẹp xinh em cắn từng chốt bão

Máu tóe làn môi

Bàn tay em tung sấm chớp xuống chân đồi…

Thơ Thu Bồn vốn rậm rạp, vạm vỡ như những cánh rừng già đại ngàn; vốn

dữ dội, trào tuôn như dòng thác xiết; nên bi ca của Thu Bồn cũng đầy âm vang sử

45

thi. Nước mắt, máu, mồ hôi hòa lẫn tiếng cười kiêu ngạo làm nên một “cõi Thu

Bồn”. Cuộc chiến càng dữ dội, ác liệt, trường ca Thu Bồn càng tạo nên những phức

điệu đầy bi tráng. Đứng giữa đồi núi đất ba dan lộng gió hòa bình, cô gái Tây

Nguyên ngậm ngùi nhớ lại:

Chúng tôi chôn anh

Không có chiếu có giƣờng

Chỗ anh nằm rơi một giọt sƣơng

Một bông hoa nở muộn

Chảy qua mộ anh có bài ca sông Đuống

Giải khát nghìn đời cho tuổi trẻ chúng tôi.

Chỗ nằm cuối cùng của người lính âm thầm và có phần âm u, lạnh lẽo

“không chiếu, không giường”, nhưng có “một giọt suơng” rơi nhẹ xuống, “một

bông hoa” dù “nở muộn”, một bài ca “sông Đuống” quê hương vọng đến… đã xua

tan cái bi ca âm u, “giải khát” nỗi đau nghìn đời cho muôn thế hệ. Thu Bồn tung

ngập cả nỗi nhớ thương, trằn trọc, suy tư vào ngay từng trận đánh để biến nhớ

thương thành sức mạnh dội lửa căm hờn xuống đầu giặc. “Trận nhớ” càng dài thì

“trận đánh” càng dữ dội, đánh cho “đỡ mỏi nỗi nhớ em”: “Chỉ có trận đánh là nơi

tôi được nghỉ ngơi cho đỡ mỏi nỗi nhớ em, trận nhớ dài lê thê qua sa mạc có cây

xương rồng tôi trồng trong ký ức” [55, tr.41].

Không chỉ anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, hình ảnh những con người ở

đây còn hiện lên một cách đầy nhân ái, cao cả và đáng tự hào. Vừa bước ra khỏi

cuộc chiến tranh vệ quốc, các chiến sĩ lại gạt đi bao đau thương mất mát để bắt tay

vào cuộc chiến cứu nước bạn với một tấm lòng yêu thương rộng lớn, thiết tha. Họ

không chỉ được làm nổi bật với những hành động dũng cảm, mưu trí trong chiến

đấu mà còn trở nên sinh động hơn, sâu sắc hơn với những nét tâm trạng chân thực,

xúc động. Trước hết, đó là nỗi nhớ cháy lòng về quê hương trong những tháng ngày

xa cách hay những ngày dài giữa rừng sâu:

46

Hà Nội đó lòng ta thƣơng nhớ quá

Những con đƣờng lung linh bóng lá

Tấm áo chƣa lành mẹ vẫn đem chia

Nửa vạt áo che ra ngoài biên giới.

(Oran 76 ngọn)

Nhớ Tổ quốc, nhớ Hà Nội và cao hơn cả là nỗi nhớ mẹ yêu - người mẹ Việt

Nam thiếu thốn, tảo tần. Người mẹ ấy đã cống hiến, hy sinh cả cuộc đời mình cho

kháng chiến, cho dân tộc, chưa hưởng trọn niềm vui chiến thắng, giờ đây lại một lần

nữa gạt nỗi nhớ thương cho con đi chiến đấu vì tình đồng loại, tình hữu nghị anh

em. Và chính những nỗi nhớ, những hình ảnh thân thương ấy đã trở thành một

nguồn động viên tinh thần lớn lao, tiếp thêm sức mạnh cho các anh trên muôn nẻo

đường gian khổ. Để rồi với một tấm lòng nhân ái yêu thương con người, các anh

càng thấu hiểu, đồng cảm và chung một tâm trạng đau đớn khi chứng kiến bao cảnh

thương tâm của nhân dân nước bạn:

Chỗ nào chúng tôi cũng gặp quân thù giết hại bà con

(…)

Chúng tôi đi qua những cánh đồng khô

Nuốt nƣớc mắt vào lòng căm giận

Chúng tôi luôn tiếp cận

Với cảnh này đau đớn lắm em ơi!

Người dân bị đòa đày, sát hại, cánh đồng hoang vu, khô cháy. Các anh không

chỉ xót xa, đau đớn mà cao hơn còn là căm giận, phẫn uất bọn người vô nhân tính

đã gây nên bao tội ác trên đất nước chùa vàng chùa bạc này. Tột đỉnh của lòng căm

hận là hành động diệt trừ cái ác, bảo vệ cuộc sống chân chính cho nhân dân

Campuchia:

Phiên nghiến răng đau đớn

Nòng súng rung lên

Bọn giết ngƣời trƣớc mặt anh gục ngã.

47

Nét đặc sắc trong ngòi bút Thu Bồn ở đây là dùng những động từ miêu tả

hành động để lột tả tâm trạng nhân vật. Cái “nghiến răng” phẫn uất, nghẹn ngào, cái

“rung lên” của nòng súng đã thể hiện niềm căm hận và sức mạnh của lương tri, đòi

lại sự công bằng cho cuộc sống của con người. Bởi thế, sau hành động của người

chiến sĩ, cái ác phải trả giá: “bọn giết người…gục ngã”, thân phận bé nhỏ tội nghiệp

của cô gái được cứu vớt trở về từ bờ vực cái chết. Ấm áp biết bao cái “mỉm cười

hồn hậu bao dung” của Phiên sau khi cứu thoát cô gái khỏi nanh vuốt lũ quỷ đã biểu

lộ một tâm hồn thật đôn hậu, nhân ái, một thái độ cảm thông, chia sẻ thật trìu mến,

chân thành. Đặc biệt, vẻ đẹp trong thế giới nội tâm của Phiên, của các tình nguyện

quân còn được bộc lộ qua sự lo lắng, chăm sóc hết lòng cho Xôrila:

Xôrila sốt run và đói lả

còn bao nhiêu áo chăn chúng tôi đắp cho em tất cả

(…)

đừng ai động đến giấc ngủ em ngoan

nhƣ Angkor xƣa ngủ giữa lá vàng

nếu lóc đƣợc thịt mình anh sẽ lóc

nhƣng anh không thể bóc ngƣời anh ra nhƣ nõn chuối, bẹ măng

còn cái gì có thể cho em ăn

anh lại hát ru cho em ngủ…

Những lời thủ thỉ ân tình, những lời ru dịu ngọt thiết tha! Các anh không chỉ

anh dũng trong chiến đấu mà còn rất mềm mại, nhạy cảm và chu đáo ân tình trong

đời thường. Một câu hỏi tưởng hết sức bình thường song lại chứa đựng bao âu lo,

trăn trở, xót thương. Sự nhiệt tâm, hết lòng của các anh không bao giờ hao khuyết,

vơi cạn, ngay cả khi đất nước Campuchia đã được giải phóng, nhân dân Campuchia

đã trở về quê hương, các anh vẫn một lòng gắng sức truy quét đến cùng sào huyệt

của những tên “quỷ sứ thuở hồng hoang” để trả lại cho mảnh đất này bình an thật

sự. Thế mới thấy hết được tấm lòng của các anh nhân ái biết bao! Bằng ngòi bút tự

sự nhưng chan chứa trữ tình, dạt dào cảm xúc, Thu Bồn đã khắc họa được khá đầy

đủ những mặt tính cách khác nhau trong tâm hồn những người lính tình nguyện Việt

48

Nam: hiên ngang, dũng cảm trong chiến đấu với quân thù nhưng không hề lạnh

lùng, sắt thép mà rất đỗi nhân ái, đôn hậu, khiến cho con người của các anh hiện lên

một cách sống động, chân thực và gần gũi hơn bao giờ hết.

2.2.2. Cuộc sống chiến tranh khốc liệt và khát vọng bình yên

Hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ đã là chất keo gắn kết con người Việt Nam thành một khối thống nhất về

cả tư tưởng lẫn hành động, vì thế, hầu hết các nhà thơ đánh Mỹ đều phản ánh chiến

tranh bằng cái nhìn lý tưởng thông qua những hình tượng lý tưởng. Đó là cuộc

chiến đấu không khoan nhượng, một mất một còn dù có phải hi sinh đến giọt máu

cuối cùng. Chính cái tầm nhìn chân chính ấy đã khiến thơ ca kháng chiến Việt Nam

đầy ắp không khí sử thi. Mà sử thi là bản chất của trường ca, cho nên cái hơi thở

hào hùng của cuộc sống kháng chiến đã phả vào trường ca Thu Bồn chất sử thi

hoành tráng vừa bi tráng lại vừa rất nhân văn của một thời đại lớn.

Trước hết, kinh nghiệm đối mặt với chiến tranh đã giúp cho những nhà thơ đánh

Mỹ có cái nhìn khách quan hơn, hiện thực hơn và cũng chính vì thế mà cuộc sống

chiến tranh hiện lên đúng bản chất bi hùng của nó. Tất cả những nhà thơ viết về trường

ca đều là những người trong cuộc, bản thân họ là người lính với đúng nghĩa trần trụi

lính nên sự phản ánh đa dạng hơn, nhiều chiều hơn và cũng đậm cá tính hơn. Cá tính

này không làm mất đi cái to lớn, hoành tráng của trường ca mà còn khiến cho chiến

tranh luôn hiện lên với bộ mặt thật của nó. Trong Vách đá Hồ Chí Minh, Thu Bồn đã

không ngần ngại để “tên Mỹ mắt xanh” bắn chết hết người này đến người kia. Vì sao

như vậy? Vì đó mới đúng là chiến tranh, mới đúng là bản chất kẻ thù, mới đúng là lòng

trung thành với Bác Hồ dù phải đối diện với mất mát, hy sinh trước mắt:

Đạn hết

anh chiến sĩ đại liên rên rỉ

nòng súng còn cháy khét trong tay

chúng tôi nhìn nhau sao quá đắng cay!

cây chốt lửa đầu dây trăm mối nổ.

(Chim vàng chốt lửa)

49

Cuộc thảm sát đẫm máu của bè lũ diệt chủng ở Campuchia cũng được Thu

Bồn tái hiện đúng bản chất man rợ của nó:

Tôi thấy máu tƣơi

từ những căn nhà chảy ra hẽm phố

máu tràn ra đại lộ

máu nhân dân đã đổ dƣới cờ tang…

(Cam puchia hy vọng)

hay cảnh ăn thịt người man rợ của bọn Pôn Pốt khi “đảo thịt trong một cái xoong”

rồi “nhè ra một đốt ngón tay” khi ăn… Nếu không phải là trường ca, rõ ràng những

hình ảnh, những đoạn thơ khủng khiếp kia khó lòng tồn tại độc lập. Nó trở thành sự

ám ảnh của chiến tranh mà dù đã đi qua hơn 30 năm nhưng đọc lại những đoạn thơ

này ta vẫn nghe ớn lạnh. Chính cái ác liệt, dữ dội này đã phơi bày tất cả những khía

cạnh thuận nghịch trái chiều nhau của chiến tranh. Có đau thương, có anh hùng và

cũng có cả khát vọng cháy bỏng về một tương lai yên bình, sạch bóng quân thù.

Phải nói rằng, không có dân tộc nào mà ý chí quyết thắng lại mãnh liệt đến lạ

lùng như dân tộc Việt Nam. Dù trải qua đến tận cùng mất mát đau thương như vậy,

nhân dân ta vẫn thờ phụng trong lòng mình một niềm tin bất diệt, quyết hy sinh

“Cho Tổ quốc lừng danh hiển hách/ Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh”

(Bài ca chim Chơrao). Chính vì lòng yêu thương quê hương đất nước, tình yêu

thương con người nặng trĩu trong tim mà họ dồn cả sức mạnh của mình vào cuộc

chiến đấu với niềm tin mãnh liệt:

Mang yêu thƣơng trĩu nặng con ngƣời

Trời vẫn xanh màu trái cây tƣơi

Gƣơm đã sáng, kéo lƣỡi dài tia chớp

Ƣớc mơ dựng trên đầu gƣơm giáo rợp.

(Vách đá Hồ Chí Minh)

Chung ý chí, trọn một niềm tin, trong chiến tranh, người Việt Nam dù ở nơi

đâu vẫn cùng một khát vọng cháy bỏng, đó là có được một cuộc sống bình yên giữa

một đất trời không còn tiếng súng. Họ gắn chặt đời mình vào đất nước, gửi ước mơ

đến những mầm xanh nhú lên ngay trên đất cằn sỏi đá như thuở nhỏ bình yên nằm

50

dưới bóng hàng thông trên mặt đất, ngửa mặt nhìn trời để tâm hồn bay lên cùng

tiếng chim trên cành cây cao:

Cắm chặt vào đời ôm ghì đất nƣớc

Trên đất cằn sỏi đá nhú mầm xanh

Hàng thông ơi! Đất ta nằm thời trẻ dại?

Con chim huýt cô bay huýt trên cành.

(Bài ca chim Chơrao)

và cả trên nền trời xanh biếc:

Chim bay nhƣ hạt thóc vừa mọc cánh bay đi

Tiếng hót ríu ran đan kín trời xanh.

(Chim vàng chốt lửa)

Cuộc sống chiến tranh vốn là sự đối lập giữa những hủy diệt tàn bạo của kẻ

thù và sức sống bất diệt cùng ước mơ của toàn dân tộc. Do đó, muốn đi đến thắng

lợi cuối cùng tất phải trải qua mất mát, hi sinh: “Đời cha có hóa ra than củi” thì đến

“Đời con rực cháy lửa trong tim”. Đất nước đang thanh bình với “con trâu, con bò

gặm cỏ”, với “nai nhảy từng bầy trên đám cỏ non” bỗng nhiên giặc kéo đến khiến

“giờ đây tơi bời lửa cháy”, “lúa trên nương vàng vọt héo hon” (Bài ca chim

Chơrao). Ngay cả con đường dẫn đến tình yêu năm nào, giờ không còn in dấu chân

hẹn hò, bờ cỏ mượt êm từng ngồi tình tự, giờ hoang vu bởi bom đạn chiến tranh:

Những con đƣờng xƣa dẫn đến tình yêu

Giờ cỏ mọc và găm đầy mảnh đạn.

(Chim vàng chốt lửa)

Nhưng thật kì diệu, từ trong ngục tù tăm tối, tiếng hát vẫn vút lên trong trẻo,

phả vào nhà lao đen tối ánh sáng của niềm tin bất diệt, của một “tình yêu ngạo mạn”

không một chút đớn hèn:

Tiếng hát vút lên trời trong sáng

Một tình yêu ngạo mạn giữa pháp trƣờng

Rạo rực cuộc đời cô gái trẻ

Nhƣ bông lúa sáng nay vừa trổ trên nƣơng.

(Bài ca chim Chơrao)

51

Ý chí tất thắng còn được thể hiện ở sức mạnh tích chứa của lòng căm hận

làm nên trận bão rung chuyển, tấn công như vũ bão trút xuống đầu thù:

Lim sến trong rừng trốc gốc

Làm cơn bão tố rung động ngàn cây

Đá nhào đất chuyển rung gầm thét

Mƣa nguồn dâng nƣớc suối tràn đầy.

(Bài ca chim Chơrao)

Trận đánh diễn ra ác liệt như trăm con suối dữ được sổ lồng tuôn trào, đập vỡ

cả lòng khe chật hẹp:

Núi soi ánh chớp nhận mặt ngƣời

Nƣớc đã bỏ lòng khe chật hẹp

Mƣa tháo lồng trăm con suối chồm lên.

(Chim vàng chốt lửa)

Sức mạnh cổ vũ cho những trái tim sục sôi ý chí, tràn đầy nhiệt huyết đánh

giặc ấy không đơn giản chỉ là lòng căm thù giặc, mà trên hết là bởi thẳm sâu trong

lòng họ luôn nung nấu khát vọng lớn lao khát về một cuộc sống yên bình cùng

những mơ ước của toàn dân tộc. Đó là ước mơ bình thường về một cuộc sống tự do

của những người dân miền núi Tây Nguyên:

Rẫy của mình ăn ba trái núi

Dàn khinh khung bằng bốn nhà rông

Con heo rừng đứng nghe ngơ ngẩn

Con nai chui rào bỏ chạy lên dông.

(Bài ca chim Chơrao)

hay những người dân biển với cuộc sống lao động và sinh hoạt bình dị như vốn có

của một thuở bình yên:

Những gánh cá ngời ánh bạc

Bàn chân thoăn thoắt chạy đi nhanh

Bờ biển lặng em cao giọng hát

Nƣớc thủy triều lên rào rạt ghe mành.

(Bài ca chim Chơrao)

52

và một cuộc sống chứa chan tình nghĩa keo sơn của mối tình Kinh - Thượng như

“hai con suối giao hòa chảy đến một dòng sông”. Họ gửi những ước mơ của mình

về một cuộc sống hiền hòa, bình dị, tươi vui:

Gió ơi! Ta muốn hòa vào trận gió

Vuốt ve những sợi khói lam chiều

Ta sẽ thổi lên những đồi nắng lửa

Hớn hở mặt ngƣời cây lúa thân yêu.

(Bài ca chim Chơrao)

và giờ đây, cuộc sống mới với những khát vọng về cơm no áo ấm đã hiện lên trong

nhịp sống hòa bình:

Núi rừng vẽ lại những bức tranh

có nhiều lần bên hồ nƣớc long lanh

tôi ngắm mãi những bông sen mọc trong kẽ đá

(Ngƣời vắt sữa bầu trời)

Rõ ràng, cuộc đối đầu giữa ta và địch là cuộc đối đầu máu lửa, dữ dội. Kẻ

thù thì dùng mọi sức mạnh, thủ đoạn dã man nhất hòng tàn phá, hủy diệt; song, dân

tộc ta bằng nội lực của chính mình với sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân đã

đã trút lửa căm hờn vào đầu bọn giặc để đi đến thắng lợi cuối cùng. Là thế hệ đi

sau, chúng ta có quyền tự hào về truyền thống anh hùng, tốt đẹp đó của cha ông và

trường ca với tính chất đặc biệt về thể loại của mình đã hoàn thành sứ mệnh tái hiện

lại những năm tháng hào hùng, đầy vẻ vang đó của lịch sử dân tộc.

2.3. Cảm hứng triết luận

Cảm hứng triết luận là một trong những dạng cảm hứng nghệ thuật của văn

học. Nó gắn liền với những lý tưởng cao đẹp của nhà văn, nhà thơ về con người, về

cuộc sống. Nó khơi thông miền cảm xúc qua mỗi trái tim người đọc, đọng lại một

tình cảm sâu xa, khơi thông nguồn trí tuệ, giúp nhận thức đối tượng trên nhiều

phương diện, tiếp thêm sức mạnh tinh thần và đưa đến hành động đúng đắn, đầy

nhiệt huyết.

53

Cũng như những dạng cảm hứng khác, nảy sinh đều có cơ sở, cảm hứng triết

luận nảy sinh do những đặc tính khách quan của đời sống thực tại, của hoàn cảnh xã

hội.Trên dải đất Việt Nam chật hẹp nhưng phì nhiêu tươi đẹp này có tới năm mới tư

dân tộc anh em cùng sinh sống. Ngoài tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia thì mỗi dân

tộc lại có một thứ ngôn ngữ riêng, một phong tục tập quán riêng và quan niệm thẩm

mỹ riêng. Vì thế để các dân tộc hiểu nhau, đồng cảm và chung sức chung lòng với

nhau trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước là điều không dễ dàng gì. Chính

bọn cướp nước cũng đã từng lợi dụng tình hình này để phá hoại tình đoàn kết, chia

rẽ nhằm làm suy yếu sức mạnh đại đồng của nước ta, hòng xâm chiếm mảnh đất

này. Đặc biệt ở những vùng dân tộc thiểu số, trình độ dân trí còn thấp thì quân địch

lại càng cố gắng thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc.

Là một chiến sĩ nhiều năm lăn lộn ở chiến trường Tây Nguyên, sống cùng

đồng bào dân tộc, Thu Bồn càng hiểu rõ hơn ý đồ xấu xa, đê hèn của giặc trong việc

“khoét sâu hố hầm ngăn cách” giữa các dân tộc ở đây:

Câu chuyện ăn thịt ngƣời uống rƣợu

Ly kỳ thêm ngƣời Thƣợng có đuôi

Bọn cƣớp nƣớc khoét sâu hố hầm ngăn cách

Dân tộc ta bao thuở dập vùi.

(Bài ca chim Chơrao)

Cuộc đấu tranh gian khó, trường kỳ của đất nước ta trong chống Mỹ cũng

như những cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc trước và sau đó đòi hỏi một sức mạnh tổng

hợp, đòi hỏi sự đồng lòng chung sức của đồng bào các dân tộc trên mọi miền đất

nước. Bởi thế mà một khẩu hiệu lớn lúc này là: hiệp lực, đoàn kết các dân tộc anh

em. Thu Bồn, người đã gắn bó, đã yêu Tây Nguyên bằng cả tấm lòng một người

con đối với buôn làng quê hương, hiểu rõ trách nhiệm, sứ mệnh của mình trong việc

xây dựng tình đoàn kết các dân tộc anh em trên địa bàn khu V nói riêng, trên đất

nước ta nói chung. Trường ca Bài ca chim Chơrao của ông nhấn mạnh vấn đề này.

Toàn bộ tác phẩm nêu cao tấm gương chiến đấu, hy sinh, bất khuất của đôi bạn

Hùng - Rin, tiêu biểu cho tình đoàn kết Kinh - Thượng của quân dân khu V trong

54

cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Hoàn cảnh đưa họ đến với nhau cũng thật đặc biệt,

ấy là cảnh ngộ cùng “bị khóa một lồng” - cùng bị giặc bắt, giam cầm, tra tấn vì họ

đã dám đấu tranh chống lại cái ác, cái phi nghĩa:

Hùng và Rin hai ngƣời con Kinh - Thƣợng

Hai con chim bị khóa một lồng’

Cả cuộc đời hai ngƣời gắn bó

Hai con suối giao hòa chảy đến một dòng sông.

Như vậy, sự gặp gỡ đầu tiên giữa hai người con Kinh - Thượng không chỉ là

ở cảnh ngộ bị cầm tù mà sâu xa hơn chính là ở lý tưởng cao cả: quyết chiến cho Tổ

quốc quyết sinh. Họ cùng thấm thía nỗi đau của người dân mất nước, hiểu rõ tội ác

và những ý đồ, thủ đoạn xấu xa, đê hèn của lũ cướp nước nên có cùng quyết tâm

chiến đấu giành lại độc lập, tự do, yên bình cho quê hương đất nước. Hoàn cảnh trớ

trêu đã đưa họ đến với nhau, gắn bó với nhau, sánh vai nhau cùng tiếp tục đấu tranh

dẫu ở trong lao tù, xiềng xích. Từ chỗ là những đứa con từ nhiều miền quê hương

khác nhau, họ đã bắt gặp chung ánh sáng của cách mạng và lý tưởng cộng sản để rồi

thương yêu, đùm bọc và kết thành những người đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn:

Muốn tự do phải làm cách mạng

Nắm tay ngƣời dân tộc anh em

Vinh dự đƣợc làm ngƣời chiến sỹ

Là trọn đời chiến đấu không tên.

Họ thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ cùng nhau, những cử chỉ không lời, có thể

chỉ là cái nắm tay hay những giọt nước mắt xúc động lặng lẽ rơi vì nhau:

Y Rin khóc! Lần đầu tiên Rin khóc

Nƣớc mắt rơi từng giọt nƣớc mắt rơi

Hùng lê xích đến gần ngƣời bạn

Ghé vào tai thủ thỉ từng lời…

Đó là những giọt nước mắt của người anh hùng Y Rin chảy trong đêm tối,

giữa ngục tù vì hối tiếc, vì tự trách mình đã không nhận ra giọng hát, bàn tay ấm áp

của Sao, người yêu anh sau bao ngày xa cách, giờ đây cũng đang trong cảnh tù đày.

55

Chỉ một cử chỉ nhỏ thôi, “lê xích đến gần” và “ghé vào tai thủ thỉ…” của Hùng cũng

cho ta thấy rõ sự thấu hiểu và tấm chân tình cao đẹp của đôi bạn này. Họ sống, chiến

đấu và cùng chịu lao khổ bên nhau đến phút cuối cùng. Tuy nhiên, họ vẫn nuối tiếc vì

chưa có dịp được về quê hương bạn để hiểu bạn hơn, để đem tấm chân tình của quê

hương mình trải cùng quê hương bạn, để “gạt hết hiềm thù cay đắng năm xưa”:

Hùng nhé! Rin chƣa gặp cô gái đẹp

Một đêm nào Hùng kể say sƣa

Ngày thống nhất Rin về dƣới nhé

Hùng sẽ cho Rin uống nƣớc dừa

Thôi! Những con ngƣời dân tộc

Sẽ thay Rin uống nƣớc dừa

Nƣớc ngọt nhƣ mối tình Kinh - Thƣợng

Gạt hết hiềm thù cay đắng năm xƣa.

Những lời tâm tình mộc mạc, bình dị, hồn nhiên tựa như tấm chân tình, con

người Tây Nguyên vậy. Đằng sau đó là cả một tình bằng hữu thân ái chân thành,

một ước mong, khát vọng lớn lao - ấy là mong ước những con người “dân tộc”

mình sẽ về xuôi để hiểu tấm lòng dân tộc bạn, để uống và cảm nhận vị ngọt ngon

của nước dừa, cũng là vị ngọt ngào của mối tình Kinh - Thượng. Đấy là cơ sở, là cội

nguồn để tạo thành khối đại đoàn kết, kết thành sức mạnh cộng đồng lớn lao, đánh

đuổi quân thù xâm lược.

Những câu thơ tự sự, miêu tả sự việc đến chi tiết, tường tận là một lợi thế và

cũng là đặc trưng thi pháp của trường ca, đã giúp người đọc hiểu rõ hơn tình đồng

chí, đồng đội đoàn kết giữa Hùng và Rin cũng như khát vọng hòa hợp giữa hai dân

tộc Kinh - Thượng anh em. Tuy nhiên, trên cái nền tự sự ấy, trữ tình vẫn là nguồn

mạch đẩy đưa câu chữ. Hay nói cách khác, tự sự mà không khô cứng, tự sự nhưng

dạt dào cảm xúc. Hiệu quả thẩm mỹ mang lại là sự lan truyền cảm xúc hay những

rung động sâu sắc trong lòng người đọc bởi những chi tiết nhỏ mà chứa đầy ân tình

của nhân vật, của người viết qua mỗi dòng thơ. Chính tình bạn cao đẹp, sáng ngời,

56

sự thấu hiểu, chia sẻ và niềm tin son sắt vào anh em, bạn bè chiến đấu đã tiếp thêm

sức mạnh, ý chí cho Hùng và Rin, dẫu là trước cái chết đang kề cận, đang diễn ra:

Sợi dây trói cháy thành tro bụi

Nhƣng tim anh hùng còn đập giữa khói đen

Hai ngọn đuốc rùng rùng tiến lại

Cái chết đâu làm ta phải yếu hèn

Lửa rực hai khuôn mặt gầy rạng rỡ

Hai vòng tay lửa siết vào nhau

Ngƣời anh em ơi! đây là lời đất nƣớc

Gắn bó đến cùng những lúc thƣơng đau.

Cái chết thử thách nghị lực, ý chí, trái tim người anh hùng. Cái chết còn thử

thách tình bạn cao cả giữa họ. Lửa quân thù không thể thiêu đốt trái tim của người

chiến sỹ, không hề làm họ yếu hèn nao núng, càng không thể chia cắt tình bạn của

họ mà ngược lại, còn gắn kết và siết chặt mối thâm tình đó sâu sắc hơn nữa. Trong

giờ phút lâm nguy, đau thương ấy, họ càng thấu hiểu, gắn bó với nhau. Hơn bao giờ

hết, tiếng gọi kết đoàn của đất nước, của Đảng và dân tộc lúc này lại càng vang

vọng trong tâm trí họ: “Người anh em ơi! đây là lời đất nước/ Gắn bó đến cùng

những lúc thương đau”. Một tiếng gọi vang vọng, không chỉ là lời đất nước mà còn

là tiếng lòng họ đang thôi thúc nhau, kêu gọi, cổ vũ cho cuộc chiến đấu bền bỉ, can

trường trên quê hương những anh hùng trẻ tuổi.

Trước tấm gương đoàn kết chiến đấu và hy sinh dũng cảm của đôi bạn Kinh -

Thượng, dường như Thu Bồn cũng không nén nổi xúc động. Khâm phục từ tận đáy

lòng, nhà thơ đã cất cao lời kêu gọi tình đoàn kết, đồng sức đồng lòng của nhân dân

các dân tộc trên đất nước, tạo thành sức mạnh to lớn trong cuộc chiến chống ngoại

xâm, bảo vệ chủ quyền dân tộc:

Hỡi những con côn Giarai, Êđê đồi núi rộng

Hỡi con Triêng ở tận đỉnh mây mù

Hỡi ngƣời Hơrê có dòng sông lửa

Ôi! Kờtu, Kơdong, Vé, Cor… nhớ lấy mối thù

57

Hỡi những con Kinh xa nhà lên núi

Hỡi những tấm lòng ngóng vọng Trƣờng Sơn

Hỡi ngƣời du kích mài dao bên suối

Hƣớng về đây nung nấu căm hờn.

(Bài ca chim Chơrao)

Những dân tộc Giarai, Êđê, những Hơrê, Kờtu, Kơdong, những Vé, những

Cor… biết bao dân tộc đang sinh sống trên vùng đất Tây Nguyên nói riêng, Tổ quốc

Việt Nam nói chung, hãy ghé vai chung sức, đồng lòng cùng dân tộc Kinh, “hướng

về đây nung nấu căm hờn”, hướng về miền đất lửa để đánh đuổi quân xâm lược, trả

mối thù chung cho dân tộc. Bằng cách điệp cú pháp với từ hô gọi “hỡi” đứng ở đầu

mỗi câu thơ cùng giọng thơ hào hùng, dạt dào cảm xúc, đoạn thơ thực sự là một lời

kêu gọi, thúc giục cháy bỏng thiết tha, dồn dập, mang ý nghĩa sâu sắc về sức mạnh

đoàn kết dân tộc. Nó hàm chứa triết luận mà lay thức, cổ vũ cho tình hữu nghị các

dân tộc trong bối cảnh chiến tranh.

Như vậy, qua tìm hiểu phân tích, ta nhận thấy một điều rõ rệt trong các

trường ca về chiến tranh của Thu Bồn, đó là ông luôn đau đáu mỗi niềm suy tư trăn

trở về quê hương đất nước, về số phận con người và về cuộc chiến tranh đã thổi dọc

đời mình. Chính trong máu lửa chiến tranh, trong tình yêu và nước mắt của mẹ, của

nhân dân, đồng đội, bạn bè, ông càng thấm thía hơn về giá trị của cuộc sống, của

yêu thương chia sẻ, của tình đoàn kết dân tộc và quốc tế. Bởi vậy nên những dòng

trường ca được viết ra từ chính tấm lòng “nặng nợ” với đời của ông luôn toát lên

một tình yêu thương vô bờ bến, chứa đựng một khát vọng xây dựng cuộc sống thực

sự tốt đẹp và nhân ái. Niềm khao khát cao cả ấy đã trở thành một trong những cảm

hứng sâu sắc, mãnh liệt cháy trong tâm hồn tài hoa của người con đất Quảng và

sáng lên những dòng thơ dạt dào cảm xúc Thu Bồn.

58

Chƣơng 3: NHỮNG PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG

TRƢỜNG CA VIẾT VỀ CHIẾN TRANH CỦA THU BỒN

3.1. Về kết cấu tác phẩm

Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Theo Từ điển

thuật ngữ văn học, thuật ngữ kết cấu “thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp”. Tổ chức

tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa

các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội

dung cụ thể của tác phẩm. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm tổ chức hệ thống tính

cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những

liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện; nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài

cốt truyện... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.

Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là

phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các

chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm; triển khai, trình

bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần

thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ.

Nếu những yếu tố kỹ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn vì

mỗi tác phẩm là một “sinh mệnh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm là một

kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu

bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.

Như vậy, kết cấu chính là phương thức tổ chức toàn bộ tác phẩm thành một

chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn, được quy định bởi nội dung cụ thể của tác phẩm, ý đồ

nghệ thuật cũng như bút lực của nhà văn. Bởi thế, ở những tác phẩm khác nhau của

những nhà văn khác nhau hoặc của cùng một nhà văn, kết cấu là không giống nhau.

Đi vào thể loại trường ca, theo Vũ Văn Sỹ: “Kết cấu trường ca là rất đa

dạng. Có trường ca lấy biến cố của quá trình lịch sử làm điểm tựa. Có trường ca

dựa vào hệ thống sự kiện xã hội. Có trường ca xây dựng bằng cốt truyện thật hoặc

hư cấu. Có trường ca lấy một cái sườn tự sự tản mạn cho mạch tư tưởng và cảm

xúc triển khai…” [62, tr.85].

59

Thu Bồn là một trong những tác giả luôn có ý thức về kết cấu tác phẩm của

mình, mặc dù cái kết cấu ấy được hình thành thông qua nguồn cảm xúc chắt ra hay

bung phá ra đều từ sự va chạm giữa tình cảm cá nhân với tình cảm cộng đồng. Ông

từng phát biểu: “Những trường ca tôi viết có những dạng khác nhau nhằm thể hiện và

đưa vào thành một thể loại có sức sống phong phú, mãnh liệt, làm cho trường ca trở

thành một bộ phận quan trọng trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam” [37, tr.584].

Qủa thât, đọc trường ca Thu Bồn, ta nhận thấy rõ sự tìm tòi, đổi mới không

ngừng của nhà thơ trên bình diện nghệ thuật, trong đó có phương thức kết cấu. Nhìn

một cách chung nhất, những trường ca của Thu Bồn được kết cấu theo hai phương

thức cơ bản: Kết cấu theo cốt truyện và kết cấu theo mạch cảm xúc trữ tình (lấy một

cái sườn tự sự tản mạn cho mạch tư tưởng và cảm xúc triển khai).

3.1.1. Kết cấu theo cốt truyện

Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và

nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức

động của tác phẩm văn học.

Kết cấu theo cốt truyện là tác phẩm được tổ chức theo lỗi dẫn dắt cốt truyện,

trong đó các sự kiện, tình tiết càng lúc càng thêm gay cấn, hoàn cảnh đấu tranh càng

ngày càng thêm quyết liệt… Nhân vật xuất hiện và phát triển tính cách theo tuyến

sự kiện, trên một môi trường, hoàn cảnh cụ thể.

Cốt truyện trong trường ca là một trong những hình thức cụ thể triển khai

tuyến sự kiện. Cốt truyện trong trường ca khác với truyện thơ, kịch và tiểu thuyết.

Chúng không đòi hỏi tập trung nhiều chi tiết và hành động mà chủ yếu nhằm tạo

tình huống thống nhất trong tác phẩm.

Đối với Thu Bồn, tư tưởng, chủ đề của tuyến sự kiện quy định cốt truyện:

“Từ chỉ đề của tuyến sự kiện tìm ra kết cấu cốt truyện thích hợp rồi mới huy động tổ

chức tài liệu, vốn sống và khuynh hướng hóa chúng. Không phải sự kiện lôi mình đi

mà phải kéo sự kiện vào tổ chức tác phẩm” [52, tr.86]. Quan điểm này được tác giả

bộc lộ rõ nét qua hai trường ca đầu tay: Bài ca chim Chơrao, Vách đá Hồ Chí Minh

và một trường ca viết ở thời kỳ sau: Oran 76 ngọn.

60

Đọc Bài ca chim Chơrao, ta có thể thấy đây là trường ca được kết cấu theo

lối dẫn dắt cốt truyện. Nhân vật xuất hiện và phát triển theo tuyến sự kiện - trong đó

các tình tiết càng về sau càng thêm gay cấn, quá trình đấu tranh càng ngày càng

quyết liệt trên bối cảnh rộng là Tây Nguyên kỳ vĩ và bối cảnh hẹp là trong nhà tù,

trước pháp trường. Tính cách anh hùng bất khuất của hai nhân vật chính Hùng, Rin

được khắc họa sắc nét với quá trình diễn biến tâm lý, tình cảm phong phú và hợp lý,

luôn gắn bó sắt son với hình ảnh người thân và bóng dáng quê hương. Thu Bồn gọi

kết cấu Bài ca chim Chơrao là kết cấu “cốt truyện - liên tưởng”. Câu chuyện được

kết lại từ thời hiện tại là cảnh ngục tù đến cảnh tra tấn và hành hình. Mở đầu tác

phẩm là khung cảnh nhà tù nói riêng, Tây Nguyên nói chung với không gian tĩnh

mịch, u uẩn nặng nề:

Đêm tháng bảy sao trời yên tĩnh

Tiếng lá rơi gõ nhẹ trƣớc hiên thềm

Mỗi trận gió lùa vào song sắt

Có tiếng thở dài ngƣời lính gác đêm.

Và sau đó là cuộc hội ngộ xúc động giữa Sao và Rin - hai người yêu nhau -

trong cảnh ngục tù trớ trêu:

Sao quỳ xuống tìm bàn tay lạnh

Nhƣng bàn tay Rin nóng lạ thƣờng

Tia nắng trong tay ngƣời bạn khổ

Quét dần lạnh lẽo sƣơng đêm.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ ấy đã làm nền cho những thước phim của quá khứ hiện

về qua dòng hồi ức bang khuâng, rạo rực của họ, qua lời ca trữ tình tha thiết của hai

con người trẻ tuổi mà ý chí lớn lao:

Trai gái rộn ràng đi tỉa lúa

Cây atơron cao ngất đầu làng

Hoa đỏ rải xuống đầu cô gái đẹp

Mày nghịch gì thể hở xemtơrăng?

61

Từ những hồi ức, câu chuyện lại được quay về với hiện tại. Đó là cảnh binh

lính phản chiến bỏ trốn, rồi cảnh Hùng và Rin bị tra tấn:

Sáng nay chúng đƣa Rin vào phòng tra khảo

Anh bị treo lên đánh phủ đầu

Những giày đinh thi nhau đá đạp

Nhƣng Rin không hề nói nửa câu.

Và “chúng dẫn Hùng đến ngồi trên ghế” rồi dụ dỗ, mua chuộc và đe dọa

nhưng vẫn không thể lay chuyển ý chí sắt đá, kiên cường của anh. Thế nên:

Tên quan sôi máu dằn từng tiếng

- Bây giờ mi muốn chết cách nào

Một dao đâm, hai là xe kéo

Ba là treo cổ rút cành cao.

Bi kịch đã được đẩy lên cao khi bọn ác ôn muốn chứng tỏ quyền uy, sức

mạnh, muốn khuất phục và đè bẹp ý chí của những người cộng sản. Song, hai chiến

sĩ vẫn tỏ ra hoàn toàn bình thản, vững tâm và rắn rỏi trước pháp trường:

Trên nƣơng sáng nay lúa vừa ngậm sữa

Chúng đem Hùng Rin trói chặt vào cây

Ôi hai con chim ƣng trong bão tố

Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay.

Hình thức tra tấn càng lúc càng dã man, cái chết hai chiến sĩ càng lúc càng

cận kề. Người đọc hồi hộp, lo lắng, đau lòng… Nhưng “bỗng trầm hùng vang vọng

khúc ca” và rồi:

Hai ngọn đuốc rung rùng tiền lại

Cái chết đâu làm ta phải yếu hèn

Lửa rực hai khuôn mặt gầy rạng rỡ

Hai vòng tay lửa siết vào nhau.

Ngọn lửa bạo tàn của quân thù cướp đi sự sống của Hùng, Rin nhưng hai anh

sẽ sống mãi trong tình yêu thương ấp ủ và sự tin cậy, ngưỡng vọng của quê hương,

người thân. Hay nói đúng hơn, hai anh vẫn bất tử trong lòng người, lòng quê, lòng

62

Tổ quốc. Sau sự hy sinh quả cảm, đầy dũng khí, kiêu hãnh của Hùng, Rin là sự tiếp

nối, quật khởi của buôn làng quê hương:

Như vậy, Bài ca chim Chơrao là một tác phẩm trường ca có kết cấu cốt

truyện, có mở đầu, có phát triển, có đỉnh điểm (thắt nút - kịch tính) và có giải quyết

kết thúc (mở nút). Đương nhiên, sự kiện được kể không chỉ dừng lại ở thời điểm

đang diễn ra, nhà thơ đã mở rộng bối cảnh miêu tả bằng cách gợi lại trong ký ức

nhân vật về một đoạn đời đã qua, về quê hương, gia đình, tình yêu. Hiện tại khắc

nghiệt của ngục tù, phút giây bị hành hình trên pháp trường xen lẫn với những dòng

hồi tưởng đã tạo thành những mảng sống khác nhau, mà ở đó, nhân vật có thể phát

triển tính cách hợp lý và trọn vẹn.

Với một dung lượng nhỏ hơn, một khung cảnh hẹp hơn và một tuyến sự kiện

“mỏng” hơn, trường ca Vách đá Hồ Chí Minh cũng gây hứng thú cho người đọc bởi

một cốt truyện đầy kịch tính, bất ngờ. Cốt truyện ấy được biểu hiện qua hai tuyến

xung đột: xung đột giữa đồng bào Tây Nguyên với kẻ thù và xung đột trong chính

nội tâm con người. Trong bối cảnh ấy, nhân vật chính xuất hiện, phát triển tính cách

và bộc lộ mình một cách đầy đủ, sâu sắc với những giằng xé, trăn trở cùng những

ước vọng sáng ngời của người viết. Tác phẩm được mở đầu bằng những hình ảnh

đẹp, kỳ vĩ của con người và núi rừng Tây Nguyên:

Dy Mơ Thƣng gối đầu lên ngọn thác đen

Ngọn thác đen chảy qua vai lặng lẽ

Xuống lồng ngực căng hồng tƣơi trẻ

Vỗ bồng bềnh từng ngọn tóc đen.

Nhân vật chính chưa xuất hiện, những dòng mở đầu lại là sự xuất hiện của

nhân vật “phụ” - Dy Mơ Thưng. Song, những dòng hồi ức của cô lại đưa ta về với

“câu chuyện ngày xƣa”:

Hồi đó con đƣờng này

Chỉ có lau và sậy

(…)

63

Trên vách núi cao bỗng sáng bừng lên

Dòng chữ lớn nét vôi trắng toát

Hồ Chí Minh muôn năm!

Đó cũng là cái phông, cái nền cho nhân vật chính xuất hiện, hành động và

phát triển tính cách:

Dang Nghi A:

- Nƣớc mắt em làm lim sến cũng siêu

Anh không thể nào nói dối

Chính đêm qua nƣơng nhờ bóng tối

I Dot đã cùng anh…

Tiếp đó, Thu Bồn dựng lên một màn kịch nhỏ với hai cảnh trí đối lập nhau,

trong cùng một không gian diễn biến câu chuyện: Khi Dang Nghi A nhận lời “tên

Mỹ mắt xanh” lên xóa dòng chữ gây căm phẫn, đau lòng cho Dy Mơ Thưng - vợ

anh và bà con trong buôn làng, cũng chính là lúc anh đang khắc sâu thêm dòng chữ

trong một sự căng thẳng, giằng xé nội tâm cực độ:

Chát chan…

Chát chan…

Lá ơi! rêu ơi! che dòng chữ sáng

Che kín lòng Dang Nghi A ở chỗ này

Cho quân thù con mắt kéo mây

Dy Mơ Thƣng ơi,

Hỡi buôn cùng rẫy

Đừng nhìn anh bằng con mắt lim dim

Hãy nhìn anh bằng sâu thẳm trái tim.

Cuối cùng, khi công việc hoàn tất cũng là lúc Dang Nghi A bộc lộ phẩm chất

anh hùng của mình. Trong tình huống gay cấn nhất ấy, xung đột được giải quyết,

mâu thuẫn giằng xé trong tình cảm của người vợ và những người thân của anh được

lắng xuống. Không gian tái hiện với những hình ảnh dữ dội, tạo thánh tấm phông

rực rỡ làm nổi bật cái chết lẫm liệt, dũng cảm của Dang Nghi A:

64

Tiếng đại liên nổ

Dang Nghi A nhƣ ngọn đuốc băng mình

(…)

Lồng ngực con ngƣời căng bão tố

Máu vọt ra mở đƣờng cho vách đá bay lên.

Một câu chuyện tưởng như hết sức giản dị, bình thường nhưng qua cách dẫn

dắt, tổ chức của Thu Bồn đã trở thành một cốt truyện đầy kịch tính với nhiều xung

đột, bất ngờ. Tính cách nhân vật cũng được phát triển dần cùng với những xung đột

ấy và cuối cùng trở nên sáng ngời với lý tưởng cách mạng cao cả.

Oran 76 ngọn cũng là một trường ca được kết cấu theo phương thức có cốt

truyện. Tuy nhiên, cốt truyện ấy không nhiều gay cấn, xung đột và cũng không phải

là mục đích cuối cùng của tác phẩm. Qua câu chuyện được kể, xen với nhiều đoạn

khai thác nội tâm nhân vật, tác giả đã thể hiện, ngợi ca tinh thần quốc tế trong sáng

của quân tình nguyện Việt Nam nói riêng và dân tộc ta nói chung trong công cuộc

bảo vệ hòa bình, bảo vệ quyền sống cho con người. Tác phẩm kể về sự hết lòng của

một đội trinh sát quân tình nguyện Việt Nam trong quá trình tìm bắt liên lạc với đơn

vị quân nổi dậy nước bạn ở khu Đông bị bè lũ Pôn Pốt vây hãm hòng tiêu diệt, đang

cử người tìm sự hỗ trợ của ta.

Nếu nói rằng ở thể loại trường ca, trữ tình và tự sự bổ sung lẫn nhau thì cốt

truyện là một trong những yếu tố của tự sự. Trữ tình bộc lộ chủ thể, bộc lộ những

cảm xúc và suy nghĩ thì tự sự (trong đó có cốt truyện) lại phản ánh khách thể, miêu

tả và tạo nên dáng dấp của hiện thực, không khí của thời đại. Tất nhiên, để còn được

là trường ca thì cái cốt truyện ấy phải được bao bọc, phải nằm trong một không khí

thơ. Và Thu Bồn đã làm được điều đó. Giọng điệu trữ tình của Thu Bồn khởi đi từ

Bài ca chim Chơrao là ào ạt, gấp gáp, cuồn cuộn, đầy ắp bi tráng mà mỹ lệ. Bởi thế,

kể chuyện mà không “vân vi, kể lể”; tự sự mà không khô khan rời rạc, cứng nhắc;

tự sự mà vẫn trữ tình, uyển chuyển, đầy chất thơ. Tuy nhiên, là một ngòi bút ham

tìm tòi, lật xới, Thu Bồn luôn có ý thức biến đổi kết cấu và bút pháp thể hiện, tránh

sự mòn lặp trong hình thức diễn đạt. Ông có một cuộc cách tân bứt phá, tự vượt lên

65

chính mình. Sự đổi mới về kết cấu chi phối nghệ thuật biểu hiện, chi phối ngôn ngữ,

cách miêu tả và dẫn chuyện của nhà thơ. Bài ca chim Chơrao, Vách đá Hồ Chí

Minh, Oran 76 ngọn được tác giả kết cấu theo cốt truyện, nhân vật mang màu sắc

lãng mạn cách mạng, ngôn ngữ cường điệu, phảng phất như trong các sử thi cổ. Với

những trường ca khác, Thu Bồn lại nghiêng về kết cấu theo mạch cảm xúc trữ tình.

3.1.2. Kết cấu theo mạch cảm xúc trữ tình

Với phương thức kết cấu theo mạch cảm xúc trữ tình, cái tôi của nhà thơ

tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển tác phẩm. Cảm xúc, suy nghĩ của tác giả

được mô tả trên những bình diện rộng lớn, nhân vật mang tính chân thực, cụ thể,

gần với những sự kiện quan trọng, ẩn chứa nội dung có ý nghĩa khái quát cao. Nhà

thơ tham gia tác động vào kết cấu tác phẩm với tư cách là nhân vật - nhân vật tâm

trạng và nhân vật hành động. Nhờ vậy mà không khí, nhịp điệu phát triển của

trường ca sôi nổi, khẩn trương, hào hứng. Ở đấy, nhà thơ “xông” vào bằng suy nghĩ,

hành động của mình; nhà thơ “ngập” trong không khí tác phẩm. Tiêu biểu cho xu

hướng này trong sáng tác của Thu Bồn là những trường ca: Chim vàng chốt lửa và

Ngƣời vắt sữa bầu trời.

Là một trường ca viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ, nhưng đến Chim vàng

chốt lửa, yếu tố cốt truyện đã mờ dần, “nhân vật” đã không còn tên tuổi cụ thể, chỉ

có hình ảnh “chim vàng” và “chốt lửa” trở thành biểu tượng của một đề tài sử thi

chiến tranh. Cả trường ca âm vang chất nhạc của tiếng chim và những âm thanh dữ

dội của cuộc chiến. Không còn cốt truyện, trường ca này được kết cấu như một bản

giao hưởng cổ điển đầy âm thanh khẳng định tiếp bước thử nghiệm trong cấu trúc

trường ca của Thu Bồn.

Thật ra, Chim vàng chốt lửa có cốt truyện nhưng chỉ là một “cốt truyện mỏng

manh”, làm cái cớ để nối liền các cảm xúc. Đó là cảm xúc về đất nước, tuổi trẻ và

người lính. Tác phẩm viết về một phân đội quyết tâm bám trụ, bảo vệ điểm chốt -

cây chốt lửa. Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh của một cô gái nuôi quân gan dạ, anh

dũng, hy sinh vì người khác, vì cây chốt lửa, vì quê hương. Qua đó, nhà thơ bày tỏ

cảm xúc chân thành, đằm thắm của mình về đồng đội và Tổ quốc thiêng liêng. Kết

66

cấu của Chim vàng chốt lửa gồm sáu phần có nhan đề rõ rệt (“Chim vàng”, “Cơn

bão rớt”, Giếng thơi”, “Đêm lửa tàn”, “Cây chốt lửa”, và “Vĩ thanh”) như là sáu

chương của một bản giao hưởng chảy trôi theo dòng cảm xúc hồi tưởng đầy xúc

động của nhân vật trữ tình.

Mở đầu tác phẩm là giọng chim vàng và chủ âm này xuyên suốt trong cả

trường ca với nhiều cung bậc cảm xúc đa dạng, phong phú khác nhau. Trước hết, đó

là âm thanh tiếng hót của “chim vàng” rất vô tư, trong trẻo, bình yên, dịu ấm:

chim vàng nhƣ tia nắng

thức dậy với rạng đông

tiếng hót đƣa em nhỏ tới trƣờng

đƣa tuổi thơ vào những trang thần thoại

... tiếng hót ríu ran đan kín trời xanh

Rồi âm thanh bỗng trào lên mạnh mẽ, dữ dội trong “Chương 2: Cơn bão rớt”

nhưng rồi đạn bom kẻ thù cũng không thể nào hủy diệt được sự sống, để sáng ra,

nắng vẫn lên, chim vẫn hót, vì thế những dòng thơ cuối chương lại buông thả thật

thảnh thơi, tươi vui:

chim vàng ơi bay về đây

bay về đây!

con chim vàng nhảy nhót

đan tổ bằng tiếng hót trên những cành cây

trên những cành cây!

Dần dà đến gần cuối tác phẩm là những mảng hồi ức chiến tranh được tái

hiện lại xen lẫn nhau, đau xót mà hào hùng, bi thương mà lạc quan để rồi kết thúc

bằng từng chuỗi âm thanh trong trẻo với tiếng "chim vàng" lan xa vô tận:

chim vàng ơi bay về đây!

con chim vàng nhảy nhót đan tổ bằng tiếng hót

trên những cành cây

trên những cành cây.

67

Tương tự như vậy, trường ca Ngƣời vắt sữa bầu trời cấu trúc gồm mười

phần, trong đó, hai chương đầu có kết cấu dài, cân xứng nhau với hình thức chủ yếu

là những câu thơ tự do trải dài bất tận. Ba chương tiếp theo kết cấu ngắn gọn, cân

xứng bằng chủ yếu là thơ lục bát truyền thống. Hai chương 6,7 lại mở rộng kết cấu

dài hơi bằng những đoạn thơ văn xuôi cân xứng và kết thúc như khóa khuôn bằng

mười bốn câu lục bát chặt chẽ, hài hòa. Sau đó lại là hai chương rất ngắn nhưng rất

cân xứng để cuối cùng mở ra phần “Vĩ thanh” kéo dài bằng những đoạn thơ văn

xuôi âm vang bất tận như những dòng “thơ sữa trắng” tuôn ra từ ngực bầu trời đầy

sức âm vang.

Với trường ca Ngƣời vắt sữa bầu trời, Thu Bồn lại quay về với đề tài Tây

Nguyên trong xây dựng. Hình như cái đồ sộ sử thi với sự hiện diện nhiều câu

chuyện tự sự của “Ba dan khát” chưa giải toả hết cảm xúc của tác giả đối với vùng

đất này, vì thế một trường ca đậm chất trữ tình hơn được Thu Bồn viết như để bù

đắp lại. Tên trường ca đầy chất thơ, vì thế đây cũng là trường ca không hề có dấu

vết cốt truyện và “nhân vật” của Thu Bồn. Tên trường ca dù mang trường nghĩa

mông lung, nhưng khi giải mã ra, ta sẽ thấy nó đơn giản như một lời tự sự, vì

“người vắt sữa bầu trời” không phải ai xa lạ mà “chính là mặt đất”, “chính là anh là

chị là em” đang chiến đấu và lao động ngay trong cuộc sống đầy máu chiến tranh và

mồ hôi xây dựng. Cái tôi trữ tình chi phối rất lớn đến kết cấu trường ca theo mô -

tip của một bản giao hưởng cổ điển gọn ghẽ. Vẫn là sự đan xen giữa chiến tranh và

xây dựng, nhưng cách miêu tả sâu sắc hơn với nhiều chiêm cảm đời thường và

những dự cảm không yên trước hiện thực mới:

Tim tôi gióng hồi chuông cấp báo

Tôi đã đồng hành cùng gió bão,

biết mặt từng đám mây khi giông tố nổi lên.

Nhưng thật may, cuộc sống cuối cùng cũng đi lên theo quy luật, những “tiến

sĩ lƣơng tâm” đánh mất nhân tâm chỉ là rác rưởi bị cuốn phăng. Niềm tin lại về, đời

vẫn rộn rã tiếng chim kêu trên những vùng đất mới với tiếng gọi của núi đồi âm

vang như ngả nghiêng say sưa trong gió:

68

tôi đi và gió thổi

núi đồi nghiêng ngả gọi tôi đi

gió cao nguyên - ngọn gió dậy thì

Khúc “Vĩ thanh” cuối cùng là một thứ âm thanh đời thường đầy quyến rũ,

tràn ngập tin yêu giữa cuộc sống thời bình: “những mơ ƣớc con ngƣời nhƣ suối

cháy, đá vô tri nhƣng đá biết lầm lì. Tiếng vƣợn hú rất xa ngoài giấc ngủ, em thơ ơi

hãy thức dậy để nhận quà. Tiếng lá rụng mùa thu rất khẽ nhƣ làn hôn năm tháng đã

đi qua”. Trường ca đã kết thúc bằng những đoạn thơ văn xuôi đầy chất nhạc, bản

giao hưởng truờng ca lại trở về với âm thanh vang lên từ mặt đất - “người vắt sữa

bầu trời”: “nhịp bài hát chẳng cần theo hai bốn, chẳng cần theo ba tƣ - bài hát của

cuộc đời. Cây độc huyền có một dây xích đạo, tiếng nỉ non xin trả lại chim trời, mỗi

vĩ tuyến trở thành nhịp phách, đàn tơ rƣng lay động cả một thời. Những phún thạch

bật lên từ lòng đất, ngƣời vũ công nghe tiếng hát chuyển mình”.

Rõ ràng, hồi ức chiến tranh làm nên chất sử thi nhưng hình như thế sự, nhân

tình đã khiến nhiều đoạn thơ trong Ngƣời vắt sữa bầu trời như chùng lại, thủ thỉ,

đúng như tự thú của chính Thu Bồn trong khúc “Vĩ thanh”: “Để có thể nhìn xa vời

vợi đến những ngày của thế kỉ chúng ta sự bàn giao của chiến tranh cho lời ru bà

mẹ, lời súng gƣơm cho lúa gạo hòa bình. Những ngôn từ xƣa không còn đủ sức nuôi

nổi hình hài của nó ngay từ hồi ta thêu dệt những vần thơ”.

Tóm lại, càng đi sâu vào tìm hiểu kết cấu trường ca Thu Bồn, ta càng nhận

thấy một điều, đó là Thu Bồn bằng chính thực tiễn sáng tác trường ca đồ sộ của

mình, rất xứng đáng để được gọi là “ông hoàng của trường ca” bởi những đóng góp

to lớn của ông cùng với tầm ảnh hưởng không nhỏ trong tiến trình vận động, phát

triển của trường ca Việt Nam.

3.2. Đặc trƣng ngôn ngữ và giọng điệu

3.2.1. Ngôn ngữ cường điệu, mang âm hưởng sử thi

Là một trong những thể loại của văn học viết, lẽ tất nhiên, trường ca cũng là

sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ, nghĩa là nó phản ánh cuộc sống bằng ngôn từ một

cách có nghệ thuật. Thu Bồn quan điểm: “Trường ca là một thể loại thơ dài nhằm thể

69

hiện một chủ đề tư tưởng thông qua hình tượng thơ ca, sử dụng ngôn ngữ, nhân vật,

âm điệu, bố cục… một cách điêu luyện và tinh xảo nhất” [55, tr.536]. Ông còn nhấn

mạnh: “Những ngôn ngữ và hình ảnh khi bước vào ngưỡng cửa của trường ca thực sự

được chuyển hóa và nâng mình lên một bước, từ bản thân chúng tạo nên cho chúng

một vẻ riêng rất là trường ca” [55, tr.534]. Bởi thế, Thu Bồn rất có ý thức trong việc

sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng những bản trường ca. Ngôn ngữ trong trường ca của

ông mang dáng dấp, âm hưởng của những câu ca, lời kể dân gian miền Trung, Tây

Nguyên, đúng chất sử thi cổ điển mà hào hùng, cường điệu mà chân thực.

Phải nói rằng, ngôn ngữ trong các sử thi cổ thường mang tính cường điệu,

bóng bẩy. Ở đó có rất nhiều hình ảnh so sánh hồn nhiên, nhiều liên tưởng phóng

khoáng và sự phóng đại đến bất ngờ. Trong trường ca Đam San, ngôi nhà “dài như

một tiếng chuông ngân”, người anh hùng Đan San “lông mượt như chuôi dao”,

“giọng nói như sấm vang sét nổ”, con ngựa chàng cưỡi trên hành trình đi bắt Nữ

thần Mặt trời khi bị lún xuống bùn vẫn phi như bay, còn Nữ thần Mặt trời “váy lấp

lánh như ánh mặt trời”, “cổ dài và đẹp như cổ con công”… Đặc điểm này bắt nguồn

không chỉ từ nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của của người xưa về thế giới mà quan

trọng hơn là từ cái nhìn thẩm mỹ mang tính chất cảm tính, tôn sùng, đề cao của

người xưa đối với những điều họ quan tâm miêu tả. Thông thường, đó là những con

người, những biểu tượng mang tầm vóc lớn lao, cao cả. Bởi vậy, thứ ngôn ngữ

phóng đại ấy sẽ có đầy đủ khả năng để vừa làm nổi bật tính phi thường của đối

tượng miêu tả, vừa biểu hiện được thái độ tôn thờ, ngưỡng mộ, khâm phục của

người xưa trước những đối tượng ấy. Chính điều này tạo nên cái gọi là “khoảng

cách sử thi” trong những sử thi cổ mà trong văn học hiện đại nói chung, trường ca

hiện đại nói riêng không còn là đặc trưng thi pháp.

Với ngôn ngữ văn học hiện đại, trong đó có trường ca, người ta thường vươn

tới việc sử dụng một thứ ngôn ngữ vừa trau chuốt, tinh tế lại vừa gần gũi với hơi thở

cuộc sống. Đó là thứ ngôn ngữ có khả năng tự biểu hiện rất cao, nhiều lúc trong một

kết hợp từ tưởng chừng rất đơn giản, thô mộc lại tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ,

những giá trị nghệ thuật lớn lao. Chẳng hạn, viết về Đất mẹ Việt Nam thiêng liêng,

70

Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đƣờng khát vọng lại dùng một thứ ngôn ngữ rất gần

gũi, giản dị:

Mẹ Việt Nam ơi!

Đêm nay con về gối đầu trên cánh tay của Mẹ

Ôi cánh tay rắn rỏi, dịu hiền

Lấm láp bùn lầy những ấm áp niềm tin

Đó là hai cánh đê sông Hồng của Mẹ

Mẹ phả vào mặt con nồng nàn mùi sữa

Của những đƣờng xa nguyên vẹn đƣợc mùa.

Mẹ Tổ quốc bao la vĩ đại mà hết sức thân thương gần gũi, với “cánh tay rắn

rỏi dịu hiền”, với “lấp láp bùn lầy”, “nồng nàn mùi sữa” và “ấm áp niềm tin”. Lối

gợi tả rất cụ thể và đầy gợi cảm, ngôn từ mang cái chất trần trụi, hơi thở đời thường.

Đây cũng chính là một đặc trưng của ngôn ngữ trường ca hiện đại, chứ không riêng

gì trong tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm. Không những thế, ngôn ngữ còn là một

trong các yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của

nhà văn. Một người cầm bút chân chính bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt

hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ, có ý

thức tìm tòi, đổi mới không ngừng để ngôn ngữ trong tác phẩm của mình vừa đạt

chuẩn thẩm mỹ chung, vừa mang phong vị, cá tính riêng, độc đáo. Với Thu Bồn, sự

cố gắng rèn giũa, sáng tạo về mặt ngôn ngữ thể hiện qua việc vừa tiếp thu những

đặc sắc của ngôn ngữ sử thi cổ điển, vừa có những phát hiện mới, những lối diễn đạt

táo bạo, đầy ấn tượng của con người hiện đại.

Trước hết, trường ca hiện đại nói chung và trường ca Thu Bồn nói riêng

thường hướng tới những nhân vật có các chi tiết sống và hành động chứa đựng chất

thơ, chất lý tưởng của hiện thực. Do vậy, để khắc họa, tô đậm những hình tượng

này, Thu Bồn thường sử dụng một thứ ngôn ngữ cường điệu, phóng đại, cố ý làm

thay đổi kích thước, quy mô, tính chất, hiệu quả của hiện tượng để làm tăng sức

biểu hiện của nó. Trong Bài ca chim Chơrao, một tác phẩm mang âm hưởng lãng

mạn cách mạng, ngôn ngữ được thể hiện một cách phóng túng, tự nhiên. Ngay trong

71

những dòng hồi ức của Rin về buôn làng, nương rẫy, quê hương Tây Nguyên đã

hiện lên khoáng đãng, trù phú:

Rẫy của mình ăn ba trái núi

Dàn khinh khung bằng bốn nhà rông.

Âm hưởng câu thơ là lối diễn đạt phóng đại quen thuộc trong các sử thi Tây

Nguyên. Bút pháp khoa trương điêu luyện, tự nhiên của tác giả đã phác vẽ nên hình

ảnh một quê hương thanh bình, yên ả, đậm đà bản sắc văn hóa núi rừng. Và trong

dòng hồi ức ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp đẽ:

Cờm lóng lánh ngàn sao đậu về trên cổ

Mỗi bƣớc đi sao chạm vào nhau

(…)

Bộ ngực căng hồng rẽ sóng sông Ba

Nƣớc ùa lên đôi vai trần loáng

Để dòng sông đƣợc lây cả màu hồng

Và mái tóc đen dài làm tỉnh cả dòng sông.

Khi đối mặt quân thù, lời nói của Rin cũng là những lời lớn lao mang âm

hưởng tráng ca:

Dân tộc tao căm thù đầy bụng

Máu đỏ dòng sông nƣớc chửa nhòa.

Lối diễn đạt phóng đại này cũng chính là cách nói thường gặp của đồng bào Tây

nguyên. Ở đây, lối nói này đã nhấn mạnh, khắc sâu mối hận thù của những con người

yêu chính nghĩa, của một dân tộc chuộng hòa bình nhưng lại bị vùi dập, đày đọa, tước

đi cuộc sống. Và trước cái chết, tâm hồn anh vẫn thanh thản, bay bổng lạ thường:

Gió ơi! Ta muốn hòa vào trận gió

Vuốt ve những sợi khói lam chiều

Ta sẽ thổi lên những đồi nắng lửa

Hớn hở mặt ngƣời cây lúa thân yêu.

Những dòng thơ dạt dào cảm xúc, ngôn ngữ nhẹ nhàng, đằm thắm trữ tình,

mượt mà bay bổng. Đấy là thứ ngôn từ cách điệu nhằm biểu lộ một tâm hồn cao

72

đẹp, một khát vọng bất tử trong cuộc đời với niềm yêu thương, chung thủy với quê

hương. Đặc biệt, hình ảnh hai chiến sĩ Hùng và Rin hiên ngang giữa pháp trường,

trước cái chết được Thu Bồn chạm khắc bằng một thứ ngôn ngữ bóng bẩy, đẹp đẽ:

Ôi hai con chim ƣng trong bão tố

Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay.

Đây là một ẩn dụ thật đẹp, thật kỳ vĩ. Những lời tụng ca được viết nên bởi

ngôn ngữ cách điệu song vẫn rất gần gũi, chân thực, gây xúc động lòng người.

Hình ảnh hai con chim ưng trong bão tố đầu sắp rơi nhưng đôi cánh vẫn tung bay

hiên ngang, ngoan cường và kiêu hãnh biết bao. Đấy là cái hào hùng trong bi tráng

của những chiến sĩ cộng sản không biết lùi bước, khuất phục, nhụt chí trước kẻ

thù. Đối diện với cái chết, họ vẫn rắn rỏi, vững tâm, đầy nhuệ khí. Nếu không phải

là thứ ngôn ngữ cách điệu, với sự so sánh có hiệu quả này, hẳn Thu Bồn khó có

thể dựng lên được cái tượng đài lồng lộng của người chiến sĩ giữa pháp trường

đến thế. Đến cuối tác phẩm, khi ngợi ca sức mạnh của Tây Nguyên anh dũng, Thu

Bồn đã thực sự thổi vào những dòng thơ của mình cái âm hưởng hào hùng của

những trang sử thi cổ:

Sức mạnh Đam San tay thần Xing Nhã

Dồn vào lồng ngực Nơ Trang Lơn

Rốch, Xếch lên cung, Giàng khiếp sợ

Đá lăn, sấm động chuyển Trƣờng Sơn.

Đấy là dòng chảy từ quá khứ về hiện tại, từ trong truyền thuyết về với mạch

sống của quê hương. Nó tích tụ, bồi đắp nên tinh thần dũng cảm, kiên cường, tạo

nên một sức mạnh tiến công ồ ạt, tràn bờ, vũ bão. Có cường điệu, có phóng đại đấy,

song không thể phủ nhận rằng chính những hình ảnh, âm thanh kỳ vĩ đó đã làm nổi

bật cái hào khí bừng bừng, căng tràn, cuộn chảy của Tây Nguyên trong thời đại

cách mạng.

Đến Vách đá Hồ Chí Minh cũng có nhiều dòng thơ, nhiều ý thơ được tác giả

viết với một thứ ngôn ngữ cường điệu mà gợi cảm. Đó là những dòng thơ viết về

người con gái núi rừng Dy Mơ Thưng:

73

Dy Mơ Thƣng lại đi xua bóng tối,

Tiếng đàn goong nâng dậy những cung đƣờng

Lân tinh cháy dịu dàng trên lá ải

Lồng ngực em nghiêng đến chiến trƣờng.

Tác phẩm viết trong chiến tranh, viết về cuộc chiến của dân tộc đầy máu và

nước mắt mà mượt mà, trữ tình đến thế này quả là không dễ, không nhiều. Hình ảnh

người con gái Tây Nguyên mang một vẻ đẹp hoang dã, dịu dàng mà khỏe mạnh,

được phác vẽ nên bởi một ngôn từ cường điệu nhưng lại chân xác, gợi cảm. Sự kết

hợp giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, giữa cái thực và cái ảo trong những liên

tưởng phóng khoáng đã tạo cho những câu thơ của Thu Bồn một vẻ đẹp rất riêng.

Ngay cả những dòng thơ chạm khắc cái vẻ cheo leo cao ngất mà uy nghi của vách

đá - nơi thắp sáng dòng chữ thiêng liêng: “Hồ Chí Minh muôn năm” cũng được tác

giả viết với một thứ ngôn từ cường điệu kỳ vĩ:

Vách núi vƣơn cao ngất

Khoan khoái thở làn hơi

Nơi chỗ đất gặp trời

Cãi vã bằng những cơn giông tố

Những trận gió đá lăn sấm nổ

Ném vào không gian rần rật tiếng cƣời...

Khi nói về chàng dũng sĩ Dang Nghi A với tấm lòng hiếu thảo và dũng khí

cao cả, Thu Bồn lại viết:

Trên khuôn mặt Dang Nghi A, mặt trời nhìn e thẹn

Khép nép lùi dần đƣa mây xám lên che.

Trước sức mạnh, dũng khí và lòng quả cảm của chàng, thiên nhiên cũng phải

cúi đầu, nghiêng mình thán phục, nể trọng - “mặt trời nhìn e thẹn” rồi “khép nép lùi

dần” và “đưa mây xám lên che”. Ngôn ngữ cường điệu ở đây không nhằm tô vẽ

nhân vật mà để thể hiện một cái nhìn, một quan niệm: bản lĩnh và sức mạnh con

người sẽ vượt lên tất cả, chinh phục và chế ngự thiên nhiên, vũ trụ. Bởi thế, hành

74

động của Dang Nghi A sau khi khắc sâu thêm dòng chữ “Hồ Chí Minh muôn năm”

cũng là:

Dang Nghi A treo lơ lửng cuối đầu dây

Anh chao ngƣời xua đuổi những đám mây.

Đặc biệt, cái chết lẫm liệt của chàng dũng sĩ này được miêu tả lẫy lừng:

Dang Nghi A nhƣ ngọn đuốc băng mình

Gãy đổ cây rừng vách đá lung linh

Đầu miệng núi đánh đƣa trên miệng hố

Lồng ngực con ngƣời căng trong bão tố

Máu vọt ra mở đƣờng cho vách đá bay lên.

Cái chết làm xao động núi rừng, cây cỏ, thiên nhiên. Chết trong một tư thế

làm chủ và quyết tâm bảo vệ ý nghĩa sự sống, bảo vệ chính nghĩa. Chết nhưng lý

tưởng, khát vọng vẫn sáng ngời. Cái chết mở đường và tiếp sức cho một sự vùng

lên, quật khởi của buôn làng quê hương được tác giả diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ

trang trọng, giàu hình ảnh so sánh, phóng đại tượng trưng. Âm hưởng đoạn thơ vừa

hùng tráng vừa thiết tha, có sức chứa và sức gợi sâu sắc. Đó phải chăng là tiếng

vọng của ngôn ngữ dân gian, là âm hưởng của những pho trường ca cổ được Thu

Bồn tiếp thu, vận dụng một cách khá nhuần nhuyễn, thành công. Ngôn ngữ nhân

dân là cội nguồn ngôn ngữ văn học, bởi thế, sự tiếp thu ngôn ngữ nhân dân, đặc biệt

là thứ ngôn ngữ đã được chắt lọc qua sáng tác văn chương, đối với những người

nghệ sĩ như Thu Bồn là một điều hết sức cần thiết. Chính điều này tạo cho các

trường ca của thời đại mới một sắc thái vừa hiện đại lại vừa cổ kính, sang trọng,

không xa lạ với những truyền thống văn hóa cổ xưa, những chuẩn mực thẩm mỹ của

cha ông. Do đó, chúng ta cần ghi nhận những đóng góp không nhỏ của Thu Bồn

trong việc phát huy những giá trị văn học truyền thống trong một thời đại mới của

trường ca nói riêng và văn học nước nhà nói chung.

3.2.2. Giọng điệu sử thi hào hùng

Giọng điệu là một yếu tố hình thức quan trọng để chuyển tải tư tưởng, tình

cảm và quan niệm sáng tác của tác giả. Giọng điệu thể hiện rất rõ phong cách riêng

75

của người nghệ sĩ và đặc biệt tạo nên sự truyền cảm cho độc giả. Giọng điệu nghệ

thuật trong trường ca được các nhà thơ sáng tạo từ ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ dân

gian, từ khẩu ngữ tự nhiên nên đa giọng điệu.

Mỗi nhà văn có giọng điệu riêng sẽ hình thành phong cách riêng. Giọng điệu

có khi mang những sắc thái như: hào hùng, đanh thép, vui tươi, tự hào, trang trọng...

có khi sâu xa, thâm thúy; có khi mộc mạc, chân thật; có khi dí dỏm, hài hước; hoặc

kín đáo,trang nhã; hoặc thương cảm... Một nhà văn có thể có nhiều giọng điệu,

nhưng trong đó vẫn nổi lên một giọng điệu chủ đạo.

Là một tác phẩm được viết bằng thơ trên phương thức kết hợp nhuần nhuyễn

hai yếu tố tự sự và trữ tình, trường ca có tính hoành tráng về cả phương diện nội dung,

tư tưởng và kết cấu nghệ thuật tác phẩm, được nhà thơ viết nên bằng một dung lượng

cảm hứng mạnh mẽ, cảm xúc tuôn trào gắn liền với những chấn động lớn lao của lịch

sử, của dân tộc và thời đại. Tuy lý thuyết sử thi và trường ca còn có rất nhiều ý kiến

khác nhau thậm chí là trái ngược nhau, nhưng nói gì thì nói, khi bàn đến trường ca,

nhất định không thể tách nó ra khỏi chiếc nôi sử thi bởi tính hoành tráng, bởi hơi thở

của lịch sử, của không khí thời đại phả vào trường ca và bởi cả tính hoành tráng về

phương diện hình thức nhằm lột tả đầy đủ nhất cái “nội dung lớn”, “tư tưởng lớn” vốn

là bản thể đặc trưng của trường ca. Vì vậy, một cách tổng thể nhất, ta có thể tìm thấy

hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam về nội dung và kết cấu nghệ thuật, đó là:

nội dung trường ca phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc, thời đại bằng một

cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông qua các phương thức biểu hiện.

Một điều dễ nhận thấy trong trường ca Việt Nam hiện đại nói chung và

trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn nói riêng là thường phản ánh những vấn

đề lớn của lịch sử, dân tộc và thời đại. Đó là những vấn đề liên quan đến số phận cả

cộng đồng và dân tộc. Điểm lại tất cả các trường ca hiện đại Việt Nam, ta nhận thấy

rằng, hầu như tất cả những vấn đề lớn, những mốc lịch sử quan trọng của dân tộc

đều được trường ca thể hiện, tất nhiên mức độ thành công của mỗi trường ca có

những mạnh yếu khác nhau và không phải sự kiện lịch sử lớn lao nào cũng được

trường ca phản ánh một cách thành công, nhưng, duy có điều này, ta dễ dàng thống

76

nhất là: các tác giả đã thể hiện những sự kiện lịch sử ấy bằng một cường độ cảm xúc

lớn phù hợp với hơi thở của trường ca.

Viết về không khí hào hùng của Tây Nguyên trong buổi đầu kháng chiến,

Thu Bồn đã làm sống dậy cả một truyền thống dân tộc đáng tự hào từ thời “Đẻ đất

đẻ nước” với những Đam San, Xing Nhã kiêu hùng:

Sức mạnh Đam San tay thần Xing Nhã

Dồn vào lồng ngực Nơ Trang Lơn

Rốch, Xếch lên cung, Giàng khiếp sợ

Đá lăn sấm động chuyển Trƣờng Sơn.

(Bài ca chim Chơrao)

Những câu thơ ngắn gọn mà đanh thép được viết nên bằng một giọng thơ hào

hùng đầy sảng khoái, mang đậm cảm hứng ngợi ca và tự hào. Rõ ràng, truyền thống

anh hùng bất khuất đã thấm nhuần vào trong máu thịt của những con người nơi đây,

thổi bùng lên ngọn lửa đoàn kết và biến đau thương mất mát thành sức mạnh quật

khởi khiến cho quân xâm lược phải khiếp sợ:

Quân thù kia ơi! một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa!

Lính quan khiếp đởm ùn nhau chạy

Chúng bắn vào hai đuốc lửa sáng ngời

Đất Tây Nguyên đón hai con về nghỉ

Bầy chim chơrao bay liệng giữa trời!

(Bài ca chim Chơrao)

Trước sự hy sinh của các chiến sĩ anh hùng, đâu phải Thu Bồn không biết

đau đớn, xót xa. Nhưng bi mà không hề lụy, ông không khóc lóc, yếu đuối kêu than.

Ngược lại, tác giả bằng ngòi bút sáng tạo của mình đã biến những mất mát đau

thương đó thành những biểu tượng thật đẹp, thật kì vĩ, tiêu biểu cho tinh thần anh

dũng, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của toàn dân tộc. Không một tiếng nói, một

77

âm thanh được miêu tả nhưng hình ảnh nhân hóa đất Tây Nguyên dang tay đón hai

người con về nghỉ cùng những cánh chim chơrao bay liệng khắp trời như một khúc

ca trầm hùng, thay lời đất nước tiễn bước các anh lên đường.

Cũng như vậy, tác giả không giấu nổi cảm xúc tự hào, đầy xúc động của mình

khi chứng kiến hành động táo bạo của Dang Nghi A đã đánh lừa bọn quân thù bằng sự

khôn ngoan và dũng cảm của mình để khắc thật sâu, thật kĩ lên đá tên Người lãnh tụ vĩ

đại của dân tộc: Hồ Chí Minh. Đáp lại hành động dũng cảm ấy là tiếng reo vang của

núi sông như muốn truyền khẩu lệnh nhất nhất xông lên của cả một cộng đồng Tây

Nguyên rực lửa. Giọng thơ lúc này không chỉ hào hùng, rền vang như tiếng sấm dậy

mà còn chất chứa một quyết tâm ngút trời muốn đền nợ nước, trả thù nhà:

Gƣơm đã sáng, kéo lƣỡi dài tia chớp

Ƣớc mơ dựng trên đầu gƣơm giáo rợp

Ngƣời xông lên…

Ngƣời xông lên…

Căm hờn nhƣ thuốc ngấm vào tim

Đất toát ra mặt trời rạn vỡ

Máu từ miệng những vết thƣơng rực rỡ

Những họng súng đen ngòm đi hỏi nợ tự nghìn xƣa.

(Vách đá Hồ Chí Minh)

Có thể thấy, viết về chiến tranh, giọng điệu chính của các trường ca vẫn là tự

hào, ngợi ca mang đậm chất sử thi hào hùng, oanh liệt. Nhưng không vì thế mà các

tác giả phủ nhận hay trốn tránh cái hiện thực tàn khốc, đau thương của những cuộc

chiến đẫm máu:

Quân thù cầm lƣỡi dao hiềm khích

Dìm chúng ta trong biển máu đào.

Những cái đầu không mình lăn lóc

Bao vết thƣơng còn sẹo đến bây giờ

Những con mắt nhìn nhau nẩy lửa

Những hận thù đến tóc bạc phơ…

(Bài ca chim Chơrao)

78

Dưới gót giày xâm lược bạo tàn của kẻ thù, khắp nơi nơi trên đất nước ta đều

ngập tràn xương máu. Tuy nhiên, viết về những mất mát, hy sinh đó, trường ca hiện

đại Việt Nam không hề bi lụy mà ngược lại, ngời sáng một tinh thần bi tráng và sục

sôi nỗi căm thù giặc đến cháy bỏng. Niềm đau và nỗi giận đan xen nhau làm nên

sức mạnh trăm sông nghìn thác dập tắt khói lửa chiến tranh:

Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác

dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình.

(Ngƣời vắt sữa bầu trời)

Dường như càng gian khổ hiểm nguy thì dân tộc ta, chiến sĩ ta càng bừng

bừng một ý chí, càng hát vang hơn nữa bài ca hy vọng về một niềm tin chiến thắng:

Ngƣời ngã xuống mắt trừng biên giới

trong đêm đen ngọn đuốc nhập nhòa

ngọn lửa sáng phía chân trời nƣớc Việt

phía hừng đông nâng bƣớc chúng tôi qua

môi sẽ hát những lời khao khát

tim rung rung nhịp đập liên hồi…

(Campuchia hy vọng)

Như trên đã nói, trường ca hiện đại Việt Nam, trong đó có trường ca Thu

Bồn thường phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc và thời đại. Bởi vậy,

các trường ca về chiến tranh của Thu Bồn không chỉ viết về cuộc chiến tranh vệ

quốc vĩ đại của nhân dân ta mà còn mở rộng đến những vấn đề mang tính quốc tế

của dân tộc. Khi nạn diệt chủng của bọn Pôn Pốt kéo theo màn đêm đen tối bao

trùm lên Campuchia thì nhân dân ta, đất nước ta đã không ngoảnh mặt làm ngơ mà

dang tay chia sẻ nỗi đau chung cùng nước bạn. Chính tình cảm cao quý ấy đã tiếp

thêm nghị lực, sức mạnh và niềm tin cho nhân dân Campuchia, “nâng bước họ” trên

con đường tiến đến cuộc sống mới tươi đẹp hơn. Bằng những dòng thơ tự sự, thuật

kể rõ ràng, xác thực, giọng thơ Thu Bồn đã kể lại những hành động giúp đỡ nhiệt

thành của chiến sĩ ta bằng một niềm tự hào sâu sắc:

79

Một chiến sĩ Việt Nam dẫn em xuống bến

Từng loạt đạn quân thù bắn đuổi theo

Bãi trống trơ giây phút hiểm nghèo

Ngƣời chiến sĩ đƣa lồng ngực ra làm lá chắn

- Em phải sống Campuchia ơi em phải sống

Ngƣời chiến sĩ cho em một chiếc nồi đồng

Chiếc thuyền nhỏ cuối cùng em hãy cố vƣợt sông

(…)

Ngƣời chiến sĩ Việt Nam lao ra dòng nƣớc

dìu em về phía bên kia.

Một cuộc chiến quyết liệt giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa tình người với

sự bạo tàn, vô nhân tính nhằm giành lại sự sống, giành lại tương lai cho những con

người khổ đau, cho một dân tộc bất hạnh. Là nghệ thuật, là thơ nhưng trong những

hoàn cảnh xúc động như này, ta không hề thấy có sự gọt giũa cầu kỳ, hoa mỹ hay

hình tượng hóa nào của tác giả. Dường như Thu Bồn chỉ là người chứng kiến và ghi

lại những cảnh tượng nguy kịch nhất, những giây phút xúc động nhất của tình hữu

nghị Việt Nam - Campuchia mà thôi. Ông không tóm lược, cũng không thêm lời bình

phẩm, mọi chi tiết cứ diễn ra tuần tự, cụ thể, sinh động và chan chứa tình người.

Giọng thơ chan chứa tình cảm hữu nghị quốc tế giữa hai đất nước, hai dân tộc và tình

yêu thương nhân loại cao cả, đầy xúc động, đáng tự hào của quân và dân ta.

Bên cạnh Campuchia hy vọng, Oran 76 ngọn cũng là bản trường ca về

Cămpuchia, ca ngợi tinh thần quốc tế trong sáng của một đội trinh sát quân tình

nguyện Việt Nam trong quá trình tìm bắt liên lạc với đơn vị quân nổi dậy nước bạn

ở khu Đông bị bè lũ Pôn Pôt vây hãm hòng tiêu diệt. Đội trinh sát 9 người do Trung

làm đội trưởng và có Phiên là chiến sĩ trẻ. Dọc đường, Phiên đã dũng cảm cứu thoát

Xôrila - một phụ nữ Khơme khỏi sự hành hạ của bọn diệt chủng. Cô gái tình nguyện

theo đội chiến đấu và được chấp thuận vì nghĩa cử thiêng liêng. Khi Xôrila xin thay

Phiên đi trước gỡ mìn, anh một mực khuyên can:

80

… Cô gái Campuchia ơi! em không thể nào đi đƣợc

Những trái mìn chúng tôi thuộc hơn em

(…)

Chân chúng tôi thƣờng quen đồi núi

Em còn phải sống đến ngày giải phóng quê hƣơng

Em còn phải sinh con và chăm bón mảnh vƣờn…

Lời khuyên can cũng là lời tâm tình ân cần, chu đáo. Ở đây không còn

khoảng cách giữa những con người vốn xa lạ trên hai đất nước nữa, chỉ còn tình

cảm nhân loại và hữu nghị thật thiêng liêng, gắn kết con người lại gần với nhau.

… Phiên ngã xuống

Mới mƣời tám tuổi đầu

Một quả mìn bay…

Để đổi lấy tự do, bình yên cho nhân dân Campuchia, chiến sĩ ta đã hy sinh

không chỉ tuổi thanh xuân mà còn cả tính mạng của mình giữa lúc tuổi đời còn rất

trẻ, tương lai còn dài rộng vô cùng. Chúng ta đau đớn, xót xa trước sự hy sinh anh

dũng của các anh nhưng cũng rất đỗi tự hào và cảm động về những nghĩa cử cao

đẹp của họ. Anh ngã xuống nhưng tinh thần của anh thì còn sống mãi, thôi thúc và

dẫn dắt mọi người cùng nhau đoàn kết, yêu thương nhau hơn nữa để chống lại

những xấu xa, áp bức bạo tàn và đi đến thắng lợi cuối cùng. Và Thu Bồn, bằng

những dòng thơ miêu tả, những lời ngợi ca dạt dào cảm xúc, chan chứa yêu thương,

ông đã gửi gắm một niềm tin, niềm mong mỏi, khát vọng dựng xây tình hữu nghị,

đoàn kết quốc tế trong sáng, bền chặt muôn đời. Dù là khi cao giọng ngợi ca hay khi

trầm lắng thiết tha thì hồn thơ ấy, giọng thơ ấy vẫn vang vọng một âm hưởng hào

hùng bao la, lan tỏa mãi trong tâm trí bạn đọc bao thế hệ.

Như vậy, giọng điệu nghệ thuật đã góp phần làm nên nét độc đáo, trường tồn

của trường ca hiện đại viết về chiến tranh. Trên cái nền của âm hưởng sử thi, trường

ca không chỉ tái hiện được hiện thực tàn khốc của chiến tranh một cách chân thực,

xúc động mà còn nói lên được ý chí, quyết tâm đánh giặc cứu nước đáng tự hào của

những con người mới, thế hệ mới mang đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, tiêu biểu

cho cả một cộng đồng trong thời đại mới.

81

Ngày nay, lịch sử đã sang trang, hiện thực có đổi thay nhưng cảm hứng sáng

tạo có xoay chiều đến đâu thì mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống con người

vẫn luôn bền vững. Một nền thơ đỉnh cao, được gọi là “thịnh vượng” trước hết phải là

nền thơ đến với muôn người, như những sợi tơ lòng nhập sâu vào tâm hồn công

chúng, một nền thơ hành trình cùng dân tộc. Ấy cũng là nền thơ hội tụ những tài

năng, những giọng điệu làm nên sắc diện riêng của một thời thơ - một thế hệ nhà thơ.

3.3. Phƣơng pháp tạo nghĩa linh hoạt

3.3.1. Sử dụng hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng

Thế giới trường ca hôm nay thật đa dạng, phong phú về cách biểu hiện. Bàn

về nghệ thuật của trường ca, không thể không nhắc đến các biểu tượng. Trường ca

Việt Nam nói chung và trường ca viết về chiến tranh của Thu Bồn nói riêng đậm

chất sử thi bi tráng về những mất mát, hi sinh và cả những chiến thắng oanh liệt hào

hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Do đó, nó ẩn chứa cả một thế giới biểu

tượng với những ngôi nhà, dòng sông, biển, cánh đồng, bầu trời, rừng cây, mặt trời,

con đường... Những biểu tượng như thế luôn được dồn nén nhiều lượng thông tin

thẩm mỹ, nhờ vậy mà câu thơ trở nên đa nghĩa, hấp dẫn mời gọi bạn đọc cùng khám

phá, cùng sáng tạo.

Ta vốn biết, bình sinh ngoài đời, Thu Bồn là một con người vạm vỡ, cuộc

sống và tình yêu của ông cũng mạnh mẽ lạ thường. Nhà văn Nguyên Ngọc - bạn

thân của ông đã không ngần ngại xác nhận: “Ở chiến trường, Thu Bồn sống ào ạt,

chiến đấu ào ạt, viết ào ạt, yêu ào ạt, lao động ào ạt. Ngay cả trong tình yêu nữa, anh

như lúc nào cũng sợ không kịp, không đủ. Anh chung thuỷ vô cùng, và cũng thay

đổi vô cùng!”. Chính vì thế mà ngoài tần suất xuất hiện nhiều hình ảnh những “cánh

chim”, những “đàn trẻ nhỏ”, những “hạt giống, nụ mầm” - biểu tượng của lý tưởng

nhân văn, Thu Bồn còn sử dụng rất nhiều những hình ảnh “lồng ngực”, “bộ ngực”,

“vú sữa” trong trường ca sử thi của mình. Khảo sát sơ bộ trường ca viết về chiến

tranh của ông, chúng ta thấy hình ảnh này xuất hiện với ba trường nghĩa cơ bản:

“lồng ngực” đàn ông hàm chứa sự vạm vỡ, khỏe mạnh, thách thức: “bầu rượu tràn

ướt ngực bác nông phu” (Campuchia hi vọng), “anh em tôi ngã xuống tận cùng/ sờ

82

trên ngực vẹn nguyên không lỗ đạn” (Oran 76 ngọn), “lồng ngực con căng khắp dải

chiến trường” (Ngƣời vắt sữa bầu trời); “bộ ngực” của con gái hàm chứa sức quyến

rũ của vẻ đẹp thiên thần do tạo hóa ban tặng:“bốn thánh nữ đương quỳ/ lồng ngực

nghiêng nghiêng” (Campuchia hi vọng), “ngực em sà xuống bầu trời/ cho anh biết

nói những lời thế gian” (Ngƣời vắt sữa bầu trời), và cả thiên chức cao cả của người

phụ nữ nuôi con: “ngực mẹ đây con bú tự do/ dòng sữa trắng lấp đầy vào tiếng

khóc”, “những trái xoài đậu ngang tầm vú mẹ” (Campuchia hi vọng), “Biển Hồ ơi!

người là biển sữa/ bên cạnh người là nỗi khát trẻ con” (Oran 76 ngọn)...

Trong số các biểu tượng đã nêu ở trên, ta nhận thấy hình ảnh “Máu và lửa” -

biểu tượng của tinh thần bi tráng được tác giả sử dụng rất nhiều như là một bản chất

của thơ ca cách mạng, đặc biệt là thể hiện rõ chất sử thi hùng tráng của trường ca viết

về đề tài chiến tranh. Đó có thể là dòng máu thề quyết tâm giết giặc, bảo vệ quê hương:

Ngƣời giậm, giun trồi lên mặt đất

Máu thề đỏ ánh dốc ngực trần

(Bài ca chim Chơrao)

cũng có thể là hình ảnh Tổ quốc đau thương, tan tác trước gót giày xâm lược bạo

tàn của kẻ thù:

- Tổ quốc tôi bị xé vụn rã rời

từng mảnh máu loang trên đồng vắng

- máu tràn ra đại lộ

máu nhân dân đã đổ dƣới cờ tang

máu nhân dân đƣơng chảy thẳng hàng

dƣới đao búa chày vồ gậy sắt

ngƣời bị xua đuổi ra những ngôi nhà

máu tràn lên mặt

máu rùng rùng ra các ngoại ô…

(Campuchia hy vọng)

83

Nhưng vượt lên trên tất cả những mất mát hy sinh đó vẫn là dòng máu anh

hùng chảy trong huyết quản những con người yêu hòa bình, tự do, dù đối mặt với

cái chết vẫn vững vàng một niềm tin kiên định:

Trong vũng máu có ngôi sao nhấp nháy

chiến khu niềm hy vọng con ngƣời

niềm hy vọng của máu tƣơi

đƣợc chảy vào tim chứ không tràn ra đất.

(Oran 76 ngọn)

Cũng như vậy với hình ảnh ngọn lửa vươn cao, Thu Bồn đã rất thành công

khi nhiều lần sử dụng hình ảnh này để thể hiện chí khí anh hùng ngút ngàn của

những con người quả cảm đã sống và hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh cứu

nước vĩ đại của dân tộc. Chắc hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên được hình ảnh

bất diệt của Hùng và Rin khi bị giặc thiêu cháy, vẫn không hề run sợ, kêu la mà

ngược lại, cất cao giọng hùng ca khiến kẻ thù phải khiếp sợ:

Ùn ùn ngọn lửa cao nhƣ núi

Chúng chờ nghe những tiếng rên la

Nhƣng lạ lùng thay hai ngọn lửa

Bỗng trầm hùng vang vọng khúc ca…

Các anh đã ra đi nhưng tinh thần của các anh sẽ còn sống mãi trong lòng

những người ở lại, trường tồn cùng sông núi và soi đường chỉ lối cho những người

đi sau tiếp nối con đường đấu tranh oanh liệt bảo vệ Tổ quốc đến muôn đời:

Qủa tim anh hùng bừng bừng ngọn lửa

Nghìn đời soi sáng đất Tây Nguyên

(Bài ca chim Chơrao)

Biểu tượng “cánh chim” cũng được Thu Bồn sử dụng rất nhiều lần trong

trường ca của mình để chỉ những loài chim lớn (Chim ưng, đại bàng, phượng

hoàng...):

Ôi hai con chim ƣng trong bão tố

Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay.

(Bài ca chim Chơrao)

84

hay:

Bóng chim ƣng từ xa bay đến

Cái mỏ xám mổ toác hai cây sến

Cánh chim bay thả gió ào ào…

(Vách đá Hồ Chí Minh)

Có lẽ chính cái ám ảnh sử thi, huyền thoại và khao khát tự do của con người

và vùng đất Tây Nguyên đã tạo nên đặc điểm đó của trường ca Thu Bồn. Hình ảnh

cánh chim không chỉ oai hùng, lẫm liệt mà còn rất mềm mại, uyển chuyển như một

cô giao liên chỉ đường cho các chiến sĩ của ta băng rừng vượt suối tìm đến với các

đồng chí, đông đội:

Tôi đi tìm em theo cánh chim dẫn lỗi

đó là con chim của rơm đƣợc nắng

tơ tằm đƣợc dâu

đất vừa cày vỡ

cát vàng ùn dƣới đáy những dòng sông

tràn lên đôi bờ lấp lánh

chim vàng nhƣ tia nắng…

(Chim vàng chốt lửa)

Tuy nhiên, cảm động và sâu sắc hơn cả vẫn là hình ảnh những cánh chim bay

lượn chao nghiêng đến thăm mộ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để đổi lại bầu

trời tự do cho dân tộc:

- Thăm mộ anh hùng chim về bay lƣợn

Trên bầu trời biếc cánh nghiêng chao.

- Trời Tây xạc xào cây rung lá

Từng đàn chim vỗ cánh bay cao.

(Bài ca chim Chơrao)

Có thể thấy, lấy hình ảnh cánh chim tự do bay lượn làm biểu tượng cho hòa

bình không còn phải là điều mới mẻ trong văn học nhưng đọc những trường ca viết

về chiến tranh của Thu Bồn, ta vẫn thấy biểu tượng đó mang lại rất nhiều cảm xúc

85

và sự sáng tạo trong cách diễn đạt. Cánh chim đó lúc oai hùng, dũng mãnh như loài

chim ưng chiến đấu với quân thù, lúc lại hiền hòa, thiết tha thể hiện khát vọng muôn

đời của nhân dân ta về một cuộc sống yên bình, tự do.

Tương tự như thế, vì muốn lột tả bản chất bạo tàn của chiến tranh, đặc biệt là

nạn diệt chủng ở Campuchia mà hình ảnh “trẻ con” cũng xuất hiện dày đặc trong

trường ca Thu Bồn, trong đó, hai trường ca viết về Campuchia chiếm tỉ lệ cao nhất:

“Campuchia hi vọng” (111 lần) và “Oran 76 ngọn” (40 lần). Vẫn biết chiến tranh

không bao giờ biết phân biệt và bỏ qua cho người già hay trẻ em nhưng đến với hai

trường ca về chiến tranh này của Thu Bồn, chúng ta vẫn không thể nào ngăn được

nỗi xúc động và thương xót cho số phận của các em bé trong biển máu của nạn diệt

chủng. Từ những em bé mới sinh ra còn đang bú sữa mẹ cho đến những em nhỏ

đang tuổi cắp sách tới trường đều bị tai họa thảm khốc của chiến tranh kéo đến, đổ

ụp xuống đầu. Chúng dồn nhốt các em lại, bắt các em phải chứng kiến những tội ác

tàn bào của chúng rồi tra tấn, giết chết các em không thương xót:

bọn Pôn Pốt lén vây trƣờng học

chúng lột truồng cô giáo

rồi hãm hiếp trƣớc mặt các em

chúng bắt các em đốt lửa đứng xem

rồi lần lƣợt chúng ném các em vào lửa

còn một em trai em gái cuối cùng chúng

moi ruột nối vào nhau

chúng bắt hai em kéo co bằng đoạn ruột đau

chúng đốt lửa xua hai em chạy

hai em bé thét lên khi ruột trong ngƣời hai em

cứ chảy ra ngoài…

(Oran 76 ngọn)

Với những em bé mới sinh ra còn non nớt chưa biết gì, chúng cũng không tha:

ăngka đến hai tay giằng đứa bé

tôi lùi lại và tôi nhắm mắt

86

thằng ăngka đập đầu con tôi nát bét

ôi tiếng con tôi bị đập nát vẫn còn

trên thành giếng tiếng con tôi bị đập

một chuỗi tiếng kêu dài nhƣ xé ruột gan

(Campuchia hy vọng)

Nhưng có lẽ đau đớn nhất vẫn là hình ảnh người mẹ phải chính tay bịt miệng

đứa con thơ dại dứt ruột đẻ ra của mình đến chết ngạt bởi chỉ cần một tiếng khóc to của

đứa trẻ là hai ngàn người sẽ chết hết khi đi qua đoạn đường quân thù đương phục kích:

ngực đứa bé lạnh rồi

nó đã ngủ yên

con đã bay theo con cò đến cõi thần tiên

(…)

trong mắt đứa con cuộc sống đã xa vời…

(Campuchia hy vọng)

Đoàn người cuối cùng đã vượt qua con đường máu lửa, tiếng khóc của đứa

trẻ vì khát sữa mẹ cũng không một lần vang lên, người mẹ vẫn bồng đứa con bé

bỏng trên tay, dường như là đứa bé vẫn ngủ say trong lời ru của mẹ. Không ai biết

là ngôi sao sáng trong mắt nó đã khép lại, chỉ có lời ru đau đớn của người mẹ vẫn

vang lên âm thầm như muốn theo con đến chốn thần tiên, không còn đau khổ:

Ngƣời mẹ khóc nhƣng không ai hay biết

trong đêm dài họ lặng lẽ kéo nhau đi

lời ru đó trong trái tim ngƣời mẹ

có bao giờ ngƣời mẹ giết lời ru?

(Campuchia hy vọng)

Như vậy, khi phản ánh hiện thực chiến tranh, trên cơ sở song hành của tinh

thần bi tráng và lý tưởng nhân văn, trường ca Thu Bồn đã xây dựng lên nhiều hình

ảnh có tính biểu tượng, ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả. Ông đã đưa trường ca

tiến đến một cái nhìn sắc sảo, phản ánh đúng bản chất chiến tranh cùng những

87

chiêm nghiệm đầy thuyết phục. Có lẽ đây chính là thế mạnh mà trong các thể loại

thơ, chỉ có trường ca mới có, mà Thu Bồn là một đóng góp tiêu biểu.

3.3.2. Những so sánh, ẩn dụ gợi nhiều liên tưởng độc đáo, mới lạ

Nghệ thuật là sáng tạo. Nhưng không phải bất kỳ một sự sáng tạo nào của

người nghệ sĩ cũng trở thành nghệ thuật. Trên con đường chinh phục cái đẹp, những

người cầm bút chân chính luôn có ý thức tìm tòi, khám phá, luôn trăn trở kiếm tìm

để có được những sáng tạo là nghệ thuật đích thực. Dĩ nhiên, trong hành trình ấy,

cùng với ý thức của người nghệ sĩ còn có khả năng thiên bẩm của một tài năng. Cả

hai nhân tố này sẽ làm nên những giá trị nghệ thuật độc đáo và Thu Bồn đã làm

được điều đó một cách khá xuất sắc, cả trong thơ và trong trường ca, đặc biệt là tinh

thần sáng tạo về mặt biểu hiện, gợi nhiều liên tưởng mới lạ, độc đáo cho người đọc.

Sáng tác của Thu Bồn nói chung và những trường ca viết về chiến tranh của ông nói

riêng được nhiều người đọc “chuyên nghiệp” nhận xét là có những cách thể hiện lạ

lẫm, cách nói “sâu sắc nước đời” những điều ngỡ rất bình dị. Đó có thể chỉ là những

hạt sương long lanh tỏa ngời dưới trời sao:

Những bụi sƣơng kết tinh nhanh chóng

Thành hạt ngọc trong đánh cắp lại ánh sao trời.

(Bài ca chim Chơrao)

Hạt sương dưới ngòi bút Thu Bồn không đơn giản chỉ là hạt nước đọng lại

trên lá cây nữa mà trở thành: “hạt ngọc trong đánh cắp lại ánh sao trời”. Phải

chăng đây chính là ẩn dụ cho những con người đẹp đẽ với tâm hồn sáng trong, đang

ngày đêm cống hiến hết sức mình cho Tổ quốc, cho nhân dân trong cuộc chiến tranh

vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta. Ban đêm, họ là những bụi sương ẩn nấp nhưng lại

mang một sức mạnh kết đoàn mạnh mẽ, to lớn. Bình minh đến, họ bừng sáng như

những hạt ngọc chất chứa muôn ngàn ánh sáng của các vì tinh tú. Tất cả những con

người đó, cùng với thiên nhiên đất nước ta như cùng chung một nhịp đập, một tinh

thần hăng hái chiến đấu đầy tự hào. Từ những hàng dương, cây dừa rì rào trong gió

cũng không còn thản nhiên, vô hồn nữa mà đã bắt đầu những bước quật khởi đầu

88

tiên khi: “hàng dương quanh năm cãi lời ngọn gió” và “dừa réo lên vuốt cong ngàn

tia kiếm” (Bài ca chim Chơrao).

Hay như hình ảnh người mẹ Việt Nam đã từng được ví von với rất nhiều

hình ảnh tần tảo khác nhau tưởng chừng như đã quá quen thuộc trong văn học,

nhưng khi đến với trường ca Thu Bồn, người đọc vẫn bắt gặp bóng dáng mẹ thật

chân thực, gần gũi và cảm động nhưng cũng đầy mới mẻ:

Ơi ngƣời mẹ trọn đời kim chỉ vá may

Vá tấm áo nhƣ vá đời mẹ khổ.

Hay:

Chiếc rìu cùn nhƣ đời mẹ cực

Đã cho con bao bát cơm đầy.

(Bài ca chim Chơrao)

Những hình ảnh diễn đạt mới mẻ, sáng tạo với những liên tưởng độc đáo như

thế này có lẽ gặp không nhiều ở những ngòi bút khác:

Đã bao lần ông mặt trời giấu lửa

Anh tìm em vời vợi lá rừng xanh.

(Bài ca chim Chơrao)

Hoặc là một liên tưởng tưởng chừng như khập khiễng, lệch lạc nhưng lại cho

thấy một cảm nhận tinh tế, nhạy cảm, đẫm chất thơ về hiện thực kháng chiến:

Tên cắm xuống dày mặt đấy

Nhƣ rẫy bắp trổ cờ im lặng giữa hoàng hôn.

(Vách đá Hồ Chí Minh)

Những ánh sao đêm lung linh qua kẽ lá dưới con mắt nhà thơ cũng là: “Đêm

dặt dìu, sao mắc võng ngàn cây”, còn ngôi sao sớm thì: “long lanh tia mắt”, ánh sao

băng “vạch đường vun vút phóng mũi tên” (Vách đá Hồ Chí Minh).

Nét đặc sắc của Thu Bồn chính là ở khả năng liên tưởng cộng với việc sử

dụng ngôn ngữ thuần thục, nhuần nhuyễn trong khi lựa chọn những hình ảnh so

sánh, ẩn dụ để tạo nên những hình ảnh mới mẻ, độc đáo, gây bất ngờ, thảng thốt cho

người đọc. Hãy đọc tiếp những câu thơ sau đây trong Chim vàng chốt lửa:

89

- Chim bay nhƣ hạt thóc vừa mọc cánh bay đi

tiếng hót ríu ran đan kín trời xanh.

- tuổi thơ tròn miệng giếng

một tiếng chim kêu là giọt nƣớc của trời.

- trăng liềm mỗi lúc gặt xong đám mây vàng rực rỡ

lƣỡi liềm sáng thêm ra.

Và nữa:

- Em mò mẫm bẻ từng cái răng bóng tối

trong cái mõm rừng đêm/

- trong gian lao chiếc võng nhƣ ngƣời mẹ

chùng nỗi đau ru giọng lá rừng.

Hay:

Đất nƣớc cong nhƣ đòn gánh

nỗi ngày mai trĩu nặng vai gầy.

(Ngƣời gồng gánh phƣơng Đông)

Không thể phủ nhận rằng đấy không phải là những sáng tạo tài tình trên bình

diện ngôn ngữ nghệ thuật - cả ngôn từ lẫn diễn đạt. Và sự sáng tạo ấy dường như trở

nên táo bạo, bứt phá hơn nữa trong những trường ca viết về chiến tranh như

Campuchia hy vọng hay Oran 76 ngọn. Ấy là viễn cảnh sáng ngời cho đứa bé trong

suy nghĩ, trăn trở của người cha:

Bóng tối không còn trong đôi mắt

Sữa theo trăng về thẳng đến răng cƣời.

(Campuchia hy vọng)

Ấy là hình ảnh thương tâm của một đứa bé phải chết trên con đường chạy

trốn cùng mẹ, chết mà như còn tiếc nuối cuộc sống với vô vàn điều bí ẩn, thú vị,

như đang cố níu giữ sự sống, dẫu chỉ là hư vô qua “kẽ mắt” mà thôi:

Ôi khuôn mặt con tôi - khuôn mặt tím thâm

Hai kẽ mắt hé ra nhƣ tiếc vì sao nhỏ.

(Campuchia hy vọng)

90

Cũng viết về Campuchia trong nạn diệt chủng bạo tàn của lũ người dốt nát,

lạc hậu, ác ôn, trường ca Oran 76 ngọn cũng có những sáng tạo mới mẻ trên bình

diện câu chữ, diễn đạt qua những hình ảnh liên tưởng độc đáo, bất ngờ. Chẳng hạn

khi nói về người Campuchia:

Ngƣời đi bộ kéo nhau về tiền sử…

Thiên nhiên Campuchia:

Còn sông ở lại mỏi mòn

bám vào đất với cánh tay quằn quại.

Và những chiến sĩ quân tình nguyện với tình đồng đội gắn bó, yêu thương:

Đồng đội làm con sông, làm mẹ

làm con sông thì quá trẻ

làm mẹ thì chẳng biết ru…

Ngay cả khi viết về sự tàn bạo của bom đạn quân thù, Thu Bồn cũng không

hề đi theo những lối mòn sáo cũ. Trái lại, hình ảnh diễn đạt rất mới, có những cách

nói lạ mà sâu sắc:

Đạn quân thù lật sấp thời gian

ngòi bom kẻ lên thành xƣa hai chữ điêu tàn

nét bút của loài quỷ dữ

những viên đạn bắn vào quá khứ

bắn vào tƣơng lai con ngƣời bắn vào chỗ thủy chung…

(Ngƣời gồng gánh phƣơng Đông)

Những điều ngỡ rất quen thuộc bình dị của miền Tây Nguyên nắng lửa trong

cách cảm, cách nghĩ, lối diễn đạt của nhà thơ Thu Bồn cũng hiện lên độc đáo, đầy

ấn tượng:

- Những nhà rông nhƣ những lƣỡi rìu…

- cửa ngõ còn để ngỏ tới tƣơng lai

- mây đen lang thang đi trải chiếu nhà mồ

(Badan khát)

91

Rõ ràng, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết dù lớn dù nhỏ, qua cách tổ chức, sắp xếp

tài tình của nhà thơ luôn gây bùng nổ cảm xúc ở người đọc. Hệ quả mang lại của

những hình ảnh so sánh, ẩn dụ đầy sáng tạo đó là là tác giả đã dựng lên được những

chiều kích liên tưởng vừa bất ngờ vừa thú vị, ấn tượng và sâu sắc. Ở đây, có một sự

đan cài giữa cảm xúc và câu chữ để thơ thật sự là thơ: tự do, bay bổng, ngược sáng.

Dẫu ông không vuốt ve cuộc đời, vuốt ve câu thơ, không cố tình làm lạ chữ nghĩa

nhưng những hình ảnh thơ của ông vẫn luôn biến hóa, gây bất ngờ cho người đọc.

Có lẽ bởi nó được bắt nguồn từ một bản năng ham mê khám phá, ham mê cái đẹp

của cuộc đời và không ngừng chinh phục, phác họa lại cuộc sống bằng con đường

nghệ thuật. Thơ ông nói chung, trường ca nói riêng là những khúc biến tấu trên một

tình yêu vừa giản dị vừa rực cháy này.

92

KẾT LUẬN

Với một tài năng “vạm vỡ”, một bút lực dồi dào, một tình yêu đời mãnh liệt

cháy trong tim và ý thức cao cả của người cầm bút, Thu Bồn đã đóng góp không hề

nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và trường ca nói riêng. Ông xứng

đáng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền văn học chống Mỹ. Ông đã

cùng với trường ca, thơ và văn đi hết chặng đường chiến đấu thăng trầm của đất

nước cho đến tận những giây phút cuối cùng của cuộc đời và ở chặng đường nào,

người nghệ sĩ tài hoa ấy cũng để lại dấu ấn đáng kể. Suốt đời, Thu Bồn gần như chỉ

có làm thơ, viết trường ca, văn xuôi và tự nhận mình là kẻ “đánh đu cùng dâu bể” -

cái dâu bể sâu nặng ân tình với đồng đội, nhân dân, Tổ quốc. Chính điều này đã tạo

nên vẻ đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp chân chất, phóng túng, nhuốm bụi đời vừa gian nan

khúc khuỷu, vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn. Những dòng thơ, những trang

trường ca ấy luôn gắn liền với số phận đất nước, non sông bằng một phong cách

cuồn cuộn sức sống, cuồn cuộn cảm xúc không ngừng nghỉ kể từ khi xuất hiện cho

đến lúc mang bệnh về già. Với gia tài hai mươi lăm đầu sách, cả trường ca, thơ và

văn xuôi, Thu Bồn đã sống và viết gắn với hành trình mưu cầu độc lập, tự do, khát

khao hạnh phúc của nhân dân, đất nước. Đối với ông, viết đã trở thành nhu cầu,

đam mê và mục đích sống của cả cuộc đời. Bởi vậy, ở bất kỳ trang viết nào của Thu

Bồn, ta cũng đều nhận thấy cái nhiệt tâm đến hết lòng của ông. Ngòi bút ông cắm

sâu vào những đề tài mang tính anh hùng ca nhưng cũng chan hòa máu lệ trong

những bi thương đau khổ của kiếp người trước những cuộc chiến tranh phi nghĩa

của kẻ thù.

Thu Bồn là một cây bút giàu nội lực. Ông có thể sáng tác trên nhiều lĩnh vực,

từ thơ, trường ca cho đến tiểu thuyết, truyện ngắn, trong đó, trường ca là một thế

mạnh của ông. Chính Thu Bồn là người đã khai mở, góp phần tạo nên một thời kỳ

phát triển rực rỡ của trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trường

ca viết về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Đồng thời, ông cũng là người

rất gắn bó với thể loại này, ngay cả khi cuộc chiến chống ngoại xâm trên đất nước

93

đã kết thúc, tính chất sử thi của thời đại đã mờ dần. Những trường ca của ông dù

viết ở thời kỳ nào cũng mang hơi thở mạnh mẽ của thời đại, với một giọng thơ hồn

nhiên và chân chất, rộn rã và hiền từ nhưng quyết liệt và táo bạo vô cùng. Chúng đã

đưa Thu Bồn lên vai trò của một trong những người dẫn đầu trong thể loại “kiến

trúc tổng hợp của thi ca”. Nhiều trường ca của ông đã thể hiện được những tư

tưởng, chủ đề cao cả, bao trùm những tuyến nhân vật phức tạp và những bối cảnh

thời đại rộng lớn. Những trường ca ấy tuy viết về chủ đề chiến tranh nhưng cũng

nói rất nhiều về quê hương đất nước, về mẹ, về cuộc chiến bền bỉ của những người

yêu chính nghĩa, chuộng hòa bình và ngập tràn hình ảnh con người không khuất

phục với một niềm tin yêu, hy vọng và khát khao xây dựng cuộc sống ngày một tốt

đẹp hơn lên.

Trường ca về chiến tranh của Thu Bồn được viết trong máu lửa, bom đạn

nhưng vẫn đậm chất tài hoa, mang một phong cách độc đáo, một dấu ấn sáng tạo

đích thực. Đó là những bản trường ca vừa có chất tráng ca Tây Nguyên, vừa có chất

truyện thơ cổ điển dân gian, lại vừa có cách trò chuyện giàu chất thơ và ngân dài

không dứt của con người xứ Quảng. Ngay từ tác phẩm đầu tay, việc chọn lựa thể

loại trường ca, khai thác những giá trị truyền thống, những biện pháp chuyển nghĩa,

tu từ của thơ ca dân gian đã khẳng định một phẩm chất riêng của “cái tôi trữ tình”

Thu Bồn. Những trường ca của ông không chỉ thể hiện cảm quan nghệ thuật nhạy

bén, tinh tế, sắc sảo với nhiều phát hiện mà còn chứng tỏ một phong cách nghệ

thuật tài hoa, từ việc xây dựng nhân vật đến tổ chức kết cấu và sử dụng ngôn ngữ…

Hồn thơ Thu Bồn không bao giờ chịu tầm thường mà luôn muốn trở thành một tia

chớp rạch trời, “làm mây mang bão giông” chứ không muốn làm cầu vồng lắm sắc.

Đặc biệt, Thu Bồn là một nhà thơ rất mạnh về bản năng trong sáng tạo - một thứ

bản năng trào cuộn, dữ dội như dòng sông Thu Bồn mùa lũ. Thơ văn và trường ca

viết về chiến tranh của Thu Bồn vì vậy đã khắc vào tâm thế người đọc đương thời

và thế hệ mai sau.

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh (2001), “Thu Bồn – niềm khát vọng khôn nguôi”, Tìm hoa quá bƣớc, Nxb

Văn học, Hà Nội.

2. Phan Thị Hoàng Anh (2004), “Nước mắt Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.463-467.

3. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam (1945 - 1995), Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

4. Vũ Tuấn Anh (1999), “Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định”,

Những vấn đề về lý luận và lịch sử văn học, Tài liệu viện VH.

5. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học (4),

tr.24-34.

6. Lại Nguyên Ân (1980), “Vấn đề sử thi của văn học hiện đại” (qua một số ý kiến của

giới nghiên cứu Liên Xô), Tạp chí Văn học (1), tr.82-91.

7. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp thêm về thể Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội (1), tr.45-52.

8. Lại Nguyên Ân (1984), “Thể trường ca trong thơ gần đây”, Văn học và phê bình,

Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

9. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám – Một

nền sử thi hiện đại”, Tạp chí Văn học (5), tr.17-28.

10. Lại Nguyên Ân (1987), “Nội dung thể tài và sự phát triển thể loại trong nền văn

học mới”, Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

12. Mai Bá Ấn (2007), “Cấu trúc kịch và điện ảnh trong trường ca Thu Bồn”, Tạp chí

Đất Quảng (59/181), tr.96-103.

13. Mai Bá Ấn (2007), “Người lính trong trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và

Thanh Thảo”, Tạp chí Cẩm Thành (53), tr.75-79.

14. Mai Bá Ấn (2007), “Tâm thức biển trong thơ miền Trung hiện đại” (Qua trường ca

95

Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo), Tham luận tại Hội nghị khoa học toàn

quốc về “Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Quảng Ngãi”, in lại Tạp chí

Sông Trà (21), tr.71-79.

15. Mai Bá Ấn (2008), “Trường ca Thu Bồn - thể loại và cấu trúc”, Tạp chí Nghiên cứu

Văn học (02), tr.54-72.

16. Mai Bá Ấn (2008), “Cấu trúc truyện thơ và âm nhạc trong trường ca Thu Bồn”,

Tạp chí Đất Quảng, (63/185), tr.99-106.

17. Nguyễn Bảo (2003), “Một dòng sông không cạn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (7),

tr.34-36.

18. Thu Bồn (1970), Tre xanh, Nxb Giải phóng.

19. Thu Bồn (1986), Ngƣời vắt sữa bầu trời, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

20. Như Cảnh (2004), “Thắm đượm gói nhân tình”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn

học, Hà Nội, tr.482-488.

21. Phạm Ngọc Cảnh (1980), “Trường ca và người viết Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ

quân đội (11), tr.125-128.

22. Nguyễn Chiến (2004), “Chim Chơrao đến từ núi lạ”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.503-510.

23. Ngô Thị Kim Cúc (2003), “Thu Bồn – bơi qua biển lửa ta về lại”, Tạp chí Thanh

Niên (169), tr.65-66.

24. Phạm Tiến Duật (1980), “Nhân bàn về trường ca đôi điều nghĩ về hình thức”, Tạp

chí Văn nghệ quân đội (12), tr.115-118.

25. Lưu Trùng Dương (2004), “Nhớ một tiếng cười của Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân

tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.521-528.

26. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

27. Trung Trung Đỉnh (2004), “Nhà thơ Thu Bồn – Tráng sĩ hề… dâu bể”, Thu Bồn –

gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

28. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

96

30. Phùng Tấn Đông (2004), “Thu Bồn qua sông Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình,

Nxb Văn học, Hà Nội, tr.546 – 559.

31. Vu Gia (2004), “Thương tiếc một dòng sông”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn

học, Hà Nội, tr.560 – 563.

32. Nguyễn Quang Hà (2004), “Nhớ anh Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn

học, Hà Nội, tr.568 – 572.

33. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1992), Từ điển

Thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Trần Thu Hằng (2004), “Đánh đu cùng dâu bể” và cuộc hành trình về với mẹ”, Thu

Bồn – gói nhân tình. Nxb Văn học, Hà Nội, tr.573- 578.

35. Hoàng Ngọc Hiến (1984), “Về đặc trưng của trường ca”, Tạp chí Văn học (3),

tr.35-37.

36. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

37. Phan Hoàng (2004), “Thương tiếc nhà thơ Thu Bồn – một cánh chim của đại

ngàn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.679 – 587.

38. Phạm Hổ (1981), “Người lính trong “Trường ca sư đoàn”, Báo Văn nghệ.

39. Trương Công Huấn (2004), “Nghe thơ ngẫu hứng”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.588 – 589.

40. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

41. Nguyễn Thụy Kha (1998), “Viết lại chiến tranh trong thời bình”, Tạp chí Văn nghệ

Quảng Ngãi (4-5), tr.78-80.

42. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến “trường ca”

hiện đại ở ta”, Tạp chí Văn học (6), tr.79-93.

43. Thụy Khê (1996), Cấu trúc thơ, Nxb Văn nghệ, California, Hoa Kỳ.

44. Nguyễn Viết Lãm (1965), “Bài ca chim Chơrao”, một bản trường ca hay”, Tạp chí Văn

học (5), tr.54-60.

45. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Văn học (6), tr.103-109.

97

46. Mã Giang Lân (2004), Thơ, hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

47. Mã Giang Lân (2005), “Thơ Việt Nam thế kỷ XX”, Văn học Việt Nam thế kỷ XX,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Cao Tiến Lê (2004), “Vĩnh Biệt Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn học,

Hà Nội, tr.621 – 634.

49. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Lao động, Hà Nội.

50. Vĩnh Quang Lê (2004), “Thu Bồn sống mãi cùng nhịp sống trường ca”, Thu Bồn -

gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà nội, tr.612 – 616.

51. Nguyễn Đức Mậu (2003), “Người viết những trường ca”, Tạp chí Nhà văn (7),

tr.59-61.

52. Bùi Văn Nguyên (1975), “Vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ trong trường ca Tây

Nguyên”, Tạp chí Văn học (3), tr.46-53.

53. Hoàng Minh Nhân (2004), “Vài kỷ niệm với nhà thơ Thu Bồn”, Thu Bồn – gói

nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.726 – 730.

54. Nhiều tác giả (1977), Tuyển tập trƣờng ca, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

55. Ngô Thế Oanh (Tuyển chọn và giới thiệu), (2003), Thu Bồn – thơ và trƣờng ca,

Nxb Đà Nẵng.

56. Ngô Thế Oanh (2004), “Thu Bồn như dòng sông cuộn xiết”, Thu Bồn – gói nhân

tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.731 – 746.

57. Phạm Thanh Quang (2004), “Tình anh bên suối Lồ Ô”, Thu Bồn – gói nhân tình,

Nxb Văn học, Hà Nội, tr.758-762.

58. Thanh Quế (2004), “Mấy kỷ niệm với nhà thơ Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình,

Nxb Văn học, Hà Nội, tr.768-772.

59. Từ Sơn (1981), “Về khái niệm Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (01),

tr.119-123.

60. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà nội.

98

62. Vũ Văn Sỹ (2001), “Trường ca trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại”, Những vấn

đề về lý luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Vũ Văn Sỹ (2005), Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca - cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của người

viết”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (11), tr.117-120.

65. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chƣơng cảm và luận, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

66. Nguyễn Quang Thiều chủ biên (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, Tp Hồ

Chí Minh.

67. Hồ Hoàng Thanh (2004), “Cảm hứng quê hương trong thơ ca Thu Bồn”, Thu Bồn –

gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.821 – 844.

68. Nguyễn Bá Thành (2012), Giáo trình tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

69. Ngô Thảo (2002), “Thu Bồn đang đếm bước mà đi”, Lao động Xuân Nhâm Ngọ.

70. Hữu Thỉnh (1980), “Vài suy nghĩ”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (12), tr.119-122.

71. Bùi Bình Thi (2004), “Thu Bồn một đam mê thơ – một nhân cách lớn”, Thu Bồn –

gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.845.

72. Phạm Huy Thông (1983), “Trường ca”, Tạp chí Văn học (01), tr.12-19.

73. Bích Thu (1984), “Thu Bồn từ thơ đến trường ca”, Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

74. Đỗ Lai Thúy (1997), Con mắt thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75. Nguyễn Nhã Tiên (2004), “Thương nhớ Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.884 – 889.

76. Nguyễn Tiến Toàn (2004), “Những kỷ niệm với nhà thơ Thu Bồn”, Thu Bồn – gói

nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.814 – 820.

77. Vương Trọng (1980), “Mấy đặc điểm của trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội,

(11), tr121-123.

78. Nguyễn Chí Trung (2004), “Anh như cơn gió làm sao bắt”, Thu Bồn – gói nhân

tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.891-893.

99

79. Đàm Chu Văn (2004), “Nhớ nhà thơ Thu Bồn – người nặng tình với Đồng Nai”,

Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.894 – 898.

80. Lưu Trọng Văn (2004), “Tình yêu…đẫy đà đây!”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.904 – 910.

81. Hoàng Hương Việt (2004), “Lại nhớ Thu Bồn”, Thu Bồn – gói nhân tình, Nxb Văn

học, Hà Nội, tr.920 – 930.

82. Trần Đăng Xuyền (2003), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb

Văn học, Hà Nội.

100