LỜI MỞ ĐẦU

Trong hoạt động kinh tế sôi động ngày nay, mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều

nỗ lực tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế nhằm khai thác tiềm

năng để phát triển kinh tế, tìm cho mình một vị trí vững chắc trong bức tranh

kinh tế toàn cầu trong giai đoạn phát triển mới của thế giới ở Thế kỷ XXI.

Nhận thức rõ vấn đề này, những năm qua, chúng ta đã kiên trì tiến hành

công cuộc "đổi mới" với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các

nước" và thu được những thành tựu đáng khích lệ và việc Việt Nam tham gia đầy

đủ vào ASEAN và APEC là một bằng chứng tiêu biểu. Trên đà phát triển phù

hợp với quy luật chung và vì sự phát triển lâu dài của đất nước, sau ASEAN mục

tiêu của chúng ta sẽ là hội nhập vào WTO. Diễn đàn thương mại lớn nhất hiện

nay, nơi chúng ta có điều kiện gia nhập thực sự vào đời sống kinh tế thế giới và

đã tiến hành những thủ tục ban đầu để gia nhập.

Để có thể thực hiện những mục tiêu trên, cùng với nhiều ngành kinh tế mũi

nhọn khác, ngành Dệt - May thực sự là chiếc cầu nối Việt Nam với thế giới. Nhờ

phát huy những thế mạnh sẵn có trong nước và tận dụng những thuận lợi bên

ngoài ngành Dệt - May không chỉ có vị trí then chốt trong giai đoạn hiện nay mà

ngay cả khi chúng ta tham gia vào WTO, hội nhập thế giới sâu sắc hơn. Hơn thế

nữa, sản phẩm của ngành thuộc loại nhạy cảm trong thương mại quốc tế, có rất

nhiều các vấn đề phức tạp phát sinh cần giải quyết khi kinh doanh mặt hàng này.

Trong khuôn khổ hạn hẹp của khóa luận này tôi cố gắng tìm hiểu "Những thách

thức và cơ hội đối với ngành Dệt - May khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương

Mại Thế giới.

Nội dung của khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Tổ chức thương mại Thế giới và Hiệp định đa sợi

Chương 2: Thực trạng hoạt động của ngành dệt-may Việt nam trong những năm

qua.

Chương 3: Định hướng đẩy mạnh xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của hàng dệt

– may việt nam

Mặc dù đã có 3 năm trang bị kiến thức tại trường Đại học Ngoại thương và

có một số kinh nghiệm nhất định trong thực tế kinh doanh xuất nhập khẩu. Song

khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các thầy cô và những ai

quan tâm đóng góp ý kiến.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Đại học Ngoại thương, Công ty

XNK tổng hợp Vạn xuân - BQP, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Vinatex, các doanh nghiệp XNK hàng dệt-may. Và đặc biệt là thầy giáo hướng

dẫn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.

CHƯƠNG I

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

VÀ HIỆP ĐỊNH ĐA SỢI

1.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ RA ĐỜI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - tiền thân của Tổ chức

Thương mại Thế giới

1.1.1.1 Bối cảnh ra đời của GATT

Sau hơn 7 năm chính thức hoạt động, Tổ chức Thương mại Thế giới đã có

những đóng góp bước đầu vào sự phát triển của nền thương mại thế giới và từng

bước tỏ rõ sự thích ứng với vai trò của một cơ quan điều tiết mậu dịch quốc tế.

Đạt được như vậy một phần cũng vì Tổ chức Thương mại Thế giới đã kế thừa và

phát huy các thành quả mà các tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về

thuế quan và thương mại đã tạo được. Do đó, để hiểu sâu hơn về Tổ chức

Thương mại Thế giới không thể không nghiên cứu về GATT.

Nhìn lại lịch sử ta nhận thấy phải đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV thị

trường thế giới mới bắt đầu được hình thành rõ nét. Thời gian sau đó cho đến

chiến tranh thế giới lần thứ II mặc dù thị trường thế giới liên tục phát triển song

chưa có Hiệp định thương mại đa biên nào điều chỉnh. Thời gian này, các cường

quốc kinh tế đồng thời cũng là các cường quốc quân sự thường chủ động sử dụng

chiến tranh để phân chia lại thị trường.

Kể từ sau năm 1945, với cục diện thế giới mới và thắng lợi của phe Đồng

minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Mỹ có ý đồ thiết lập lại các thể

chế chính trị, kinh tế có lợi cho mình. Đồng thời, nhiều nước khác cũng có nhu

cầu xây dựng các cơ chế mới để điều chỉnh mối quan hệ quốc tế, duy trì hoà

bình, ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài. Trong bối cảnh đó, hàng

loạt tổ chức lớn của thế giới được ra đời: Liên hợp quốc (UN) được thành lập; về

tiền tệ có Quỹ tiền tệ Quốc tế ra đời; về tài chính có Ngân hàng thế giới (WB); về

thương mại là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.

Cụ thể, từ năm 1945, song song với việc chuẩn bị thành lập Tổ chức

thương mại quốc tế (ITO), 23 nước đã tiến hành 123 cuộc thương lượng kéo dài

với các nỗ lực nhằm đơn giản hoá các thủ tục, không ngừng nhằm giảm bớt hàng

rào thuế quan, tạo môi trường thương mại quốc tế tự do. Kết quả ngày

30/10/1947 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được ký kết, có hiệu

lực từ 1/1/1948. Buổi đầu thành lập GATT chỉ có 23 nước thành viên nhưng đến

cuối năm 1994, tổ chức này đã quy tụ được 129 nước thành viên và nhiều tổ chức

liên chính phủ, chiếm trên 90% kim ngạch thương mại của thế giới.

1.1.1.2 Các chức năng và nguyên tắc cơ bản của GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được thành lập nhằm tạo ra

một cơ sở đảm bảo về pháp lý, góp phần phát triển kinh tế, thương mại thế giới

với 3 chức năng cơ bản sau:

+ Là một luật lệ kinh tế chung được các bên nhất trí để điều tiết mọi hoạt

động thương mại của các nước tham gia ký kết.

+ Là một diễn đàn thương lượng để thực hiện tự do hoá môi trường kinh

doanh quốc tế, không ngừng tăng cường và hoàn chỉnh các luật lệ mà Hiệp định

đã đề ra.

+ Là một "Toà án" quốc tế để Chính phủ các nước giải quyết tranh chấp

trong phạm vi các nước thành viên .

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại là một văn kiện dài với 4

phần, 38 điều quy định chi tiết nhiều lĩnh vực. Các nguyên tắc chủ đạo trong hoạt

động của GATT bao gồm:

1. Không phân biệt đối xử trong thương mại bằng cách dành cho nhau quy

chế đãi ngộ "Tối huệ quốc".

2. Thiết lập một cơ sở ổn định cho thương mại thế giới thông qua việc

thương lượng và thực hịên nghiêm túc các thoả thuận về thuế.

3. Quyền "Khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết, không thực hiện

một số nghĩa vụ trong thời hạn nhất định khi có lý do chính đáng về kinh tế và

thương mại.

4. Bảo hộ mậu dịch bằng công cụ thuế quan là chính. Không tăng cường

bảo hộ, có cơ chế thương lượng hiệu quả để gỡ bỏ dần mọi rào cản thương mại.

5. Khuyến khích việc cạnh tranh công bằng, cho phép đánh thuế đối kháng,

thuế chống bán phá giá, hoặc chống trợ cấp nếu bị thiệt hại do sản phẩm của

nước khác bán phá giá hay trợ cấp gây ra.

6. Quan hệ "có đi có lại" bằng cách yêu cầu lẫn nhau những nhượng bộ

tương tự nhằm khuyến khích mở cửa thị trường.

7. Ưu tiên đặc biệt cho các nước đang phát triển, ví dụ như Hệ thống ưu

đãi phổ cập GSP, các ưu đãi trong việc tiếp cận thị trường, không phải "có đi có

lại " với các nước phát triển.

8. Công nhận các dàn xếp thương mại khu vực và sự hoà nhập chặt chẽ

hơn các nền kinh tế quốc gia thông qua các liên kết khu vực này. Tuy nhiên, thuế

hay các quy định điều chỉnh thương mại của các thành viên trong nhóm đối với

các nước không phải là thành viên không được hạn chế hơn những gì đã áp dụng

trước khi nhóm được thành lập.

1.1.2 SỰ RA ĐỜI TẤT YẾU CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Bên cạnh những thành công, GATT cũng gặp không ít trở ngại và còn

nhiều lĩnh vực hoạt động chưa có hiệu quả. Thắng lợi của GATT trong việc cắt

giảm thuế quan, cùng một loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 đã

khiến các chính phủ đưa ra các hình thức bảo hộ khác như tự nguyện hạn chế

xuất khẩu, trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm

dịch, nâng cao tiêu chuẩn hàng hoá nhập khẩu...

Xu hướng quốc tế hoá đầu tư quốc tế và trao đổi dịch vụ ngày càng tăng

đang là mối quan tâm lớn của nhiều nước và đồng thời liên quan chặt chẽ đến sự

gia tăng liên tục của thương mại hàng hoá thế giới thì lại không được GATT điều

chỉnh.

Thậm chí ở một số lĩnh vực tuy đã được đưa ra xem xét nhưng còn nhiều

lỗ hổng đặc biệt là nông nghiệp và dệt may. Thể chế của GATT và hệ thống giải

quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích .

GATT đứng trước thách thức mới khi thương mại thế giới trở nên phức tạp

hơn nhiều so với những năm 1940. Chưa bao giờ tính chất quốc tế của nền kinh

tế thế giới được thể hiện rõ nét như ngày nay. Quá trình phân công lao động quốc

tế được nâng cao và có ảnh hưởng rộng khắp, dẫn đến sự bùng nổ của hoạt động

thương mại quốc tế, dưới nhiều sắc thái đa dạng. Cùng với thương mại là vận tải,

thanh toán, đầu tư, du lịch, viễn thông quốc tế ... tăng trưởng với tốc độ chóng

mặt.

Thực tế nêu trên đã dẫn đến một đòi hỏi tất yếu là phải cải cách GATT để

có một cơ chế mạnh hơn điều tiết thương mại thế giới, tăng cường và mở rộng

hệ thống đa biên này. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, vòng đàm phán

Urugoay mở ra với một trong những kết quả quan trọng là Tuyên bố MaraKesh

do 104 nước ký ngày 15/4/1994 tại MaraKesh (Marốc), có hiệu lực từ ngày

1/1/1995, quy định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giớí để thay thế GATT.

Có thể nói Tổ chức Thương mại Thế giới là hiện thân cho kết quả của

vòng đàm phán Urugoay và là sự kế thừa của GATT nhưng chặt chẽ hơn về tổ

chức, ràng buộc hơn về phạm vi, mức độ và khối lượng thương mại được điều

chỉnh.

Với thể chế tương đối lỏng lẻo của GATT, các nước thành viên có thể lựa

chọn một số hiệp định trong một vòng thương lượng, thực hiện nghĩa vụ được

hưởng quyền lợi do hiệp định đó đem lại. Nhưng đối với Tổ chức Thương mại

Thế giới tất cả các nước thành viên phải chấp nhận và thực hiện tất cả các hiệp

định đã được thoả thuận trong vòng đàm phán Urugoay trừ hệ thống các hiệp

định thương mại đa phương. Về phương diện pháp lý, Tổ chức Thương mại Thế

giới là một tổ chức quốc tế, như các tổ chức quốc tế khác, quyết định của nó có

tính chất ràng buộc đối với các nước thành viên. Còn GATT là một hiệp định nêu

những nguyên tắc chung đã được thoả thuận cụ thể. Nói cách khác, GATT dựa

trên cơ sở Ad- hoc gồm các vòng thương lượng hơn là một cơ chế thường trực.

Do vậy, WTO có thể thúc đẩy các nước thực hiện nghĩa vụ hiệu quả hơn.

GATT chủ yếu chỉ điều chỉnh thương mại hữu hình còn WTO đảm nhận

trách nhiệm lớn hơn, bắt đầu quá trình điều chỉnh tự do hoá thương mại, dịch vụ

quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các biện pháp đầu tư liên quan

đến thương mại. Đây là đòi hỏi cấp bách vì thực tế những lĩnh vực này ngày càng

trở nên quan trọng hơn trong cơ cấu thương mại quốc tế, đặc biệt đối với các

nước phát triển tỷ trọng này thường chiếm khoảng 65 - 70% thu nhập quốc dân.

Thông qua cơ chế xem xét định kỳ chính sách thương mại của các nước

thành viên WTO sẽ đưa hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của các nước

thành viên vào một thể hài hoà, thống nhất nâng cao tính trong sáng, rõ ràng và

sự hiểu biết lẫn nhau trong môi trường mậu dịch toàn cầu.

Điểm mới nữa là WTO sẽ phối hợp nhiều hơn, chặt chẽ hơn với Liên hợp

quốc, Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế gắn kết các vấn đề thương mại

với tài chính, tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát triển toàn diện quan hệ

kinh tế quốc tế.

Sau hơn 14 năm kể từ ngày thành lập, GATT mới có trên 23 nước thành

viên. Sau gần 46 năm hoạt động, Tổ chức này mới có 129 nước tham gia, chiếm

trên 90% thương mại quốc tế. Nhưng Tổ chức Thương mại Thế giới thì chỉ 6

tháng sau khi thành lập đã có hơn 132 nước gia nhập. Theo dự tính trong vòng 3

năm tới số thành viên sẽ lên tới 145 nước chiếm gần 100% giá trị mậu dịch thế giới.1

Trước đây trong cơ chế của GATT, các nước "lớn" thường ngăn cản hay

trì hoãn việc thi hành các quyết định của Ủy ban giải quyết tranh chấp thương

mại quốc tế khi chúng không có lợi cho họ. Nhưng đối với WTO, các quy định

về giải quyết tranh chấp thương mại chặt chẽ, mạnh mẽ hơn nên các nước có tiềm

lực mạnh cũng có ít khả năng trì hoãn việc khám xét và thi hành quyết định liên

quan đến tranh chấp thương mại.

1.2. GIỚI THIỆU CHUNG WTO

1.2.1 CÁC CHỨC NĂNG NGUYÊN TẮC CHỦ ĐẠO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ

CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Có cùng mục tiêu chung với GATT trước đây là thiết lập và củng cố môi

trường thương mại tự do, lành mạnh trên toàn thế giới nên Tổ chức Thương mại

Thế giới cũng có các nguyên tắc cơ bản giống với Hiệp định chung về thuế quan

và thương mại trước kia , đó là:

+ Không phân biệt đốỉ xử.

+ Bảo hộ bằng công cụ thuế.

+ Khuyến khích cạnh tranh công bằng.

+ Tạo lập cơ sở ổn định cho thương mại thế giới.

+ Quyền" khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết.

+ Quan hệ "Có đi, có lại" .

+ Ưu tiên cho các nước phát triển.

Với tư cách là tổ chức thương mại lớn nhất từ trước đến nay, kế thừa và

được tăng cường khả năng hơn GATT, WTO đảm nhận các chức năng chính sau

đây:

+ Quản lý và giám sát việc thực thi các hiệp định thương mại đa biên.

+ Giải quyết các tranh chấp thương mại.

+ Hợp tác cùng các tổ chức quốc tế khác tham gia vào việc hoạch định

chính sách kinh tế toàn cầu.

1.2.2 BỘ MÁY TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG

MẠI THẾ GIỚI

Để thực thi đầy đủ, kịp thời cảc trọng trách nêu trên, WTO có một hệ

thống pháp lý bao trùm lên Hiệp định GATT 1947, đồng thời với 12 Hiệp định

kèm theo về thương mại hàng hoá các lĩnh vực riêng, Tổ chức thương mại thế

giới mặc nhiên công nhận giá trị pháp lý của khoảng 2000 hiệp định và thoả

thuận đã được thông qua trong thời kỳ GATT tồn tại.

Trong cơ cấu của WTO cơ quan cao nhất là Hội nghị cấp Bộ trưởng, bao

gồm đại diện của cả các nước thành viên, được triệu tập ít nhất 2 năm 1 lần. Hội

nghị này quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến mọi hiệp định thương mại đa

biên.

Tuy nhiên công việc hàng ngày của WTO sẽ do một số cơ quan chức năng

giải quyết; chủ yếu là Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của WTO, có

nhiệm vụ làm báo cáo cho Hội nghị cấp Bộ trưởng giải quyết các công việc

thường nhật, Đại hội đồng nhóm thành 2 Ủy ban: Ủy ban đánh giá chính sách

thương mại để đánh giá thường xuyên các chính sách thương mại của từng nước

thành viên và Ủy ban giải quyết các tranh chấp để giám sát các thủ tục giải quyết

tranh chấp.

Đại hội đồng cũng chia sẻ trách nhiệm thành 3 Hội đồng:

- Hội đồng về thương mại hàng hoá

- Hội đồng về thương mại dịch vụ

- Hội đồng về sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại

Trực thuộc mỗi Hội đồng trên có các cơ quan chuyên môn.

Ba ủy ban khác được Hội nghị Bộ trưởng thành lập và có nhiệm vụ báo

cáo lên Đại hội đồng, đó là:

- Ủy ban về thương mại và phát triển.

- Ủy ban về cán cân thanh toán.

- Ủy ban về ngân sách.

Mỗi hiệp định trong 4 hiệp định đa phương của WTO có các cơ quan quản

lý riêng của mình với nhiệm vụ báo cáo lên Đại hội đồng.

Giúp việc cho bộ máy nêu trên là Ban thư ký. Ban này có trụ sở tại

Geneva, Thụy Sỹ, nơi đặt trụ sở chính của WTO. Ban thư ký có khoảng 450 nhân

viên, đứng đầu là Tổng giám đốc được chọn theo nguyên tắc nhất trí. Dưới Tổng

giám đốc có Phó Tổng giám đốc (4 người ), Giám đốc các Ban chuyên trách do

Tổng giám đốc đề nghị và được Đại hội đồng thông qua.

Ngân sách của WTO vào khoảng 150 triệu USD (năm 2001) do các nước

thành viên đóng góp theo tỷ lệ nhất định trong tổng giá trị hoạt động thương mại

của chính mình. Một phần ngân sách của WTO được dùng để duy trì hoạt động

của trung tâm thương mại Quốc tế.

1.2.3 NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ

CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Tổ chức Thương mại Thế giới đã chính thức đi vào hoạt động được hơn

10 năm, trên cơ sở kế thừa và mở rộng về nhiều mặt Hiệp định chung về thuế

quan và thương mại trước kia trong 10 năm hoạt động với tư cách của một tổ

chức thương mại đa biên lớn nhất thế giới, WTO đã làm được nhiều việc không

nhỏ, tỏ rõ sự thích ứng của mình trong vị trí mới. Thậm chí nhiều người đã coi

Tổ chức này như một liên hợp quốc về kinh tế.

Sau một năm chuyển đổi cùng tồn tại với GATT và một thời gian hoạt

động độc lập, đến nay WTO đã đứng vững và bắt đầu đi vào những năm tiếp theo

một cách vững chắc mà không để xẩy ra một biến động lớn. Đây là kết quả quan

trọng nhất bởi lẽ 129 nước thành viên, chiếm tới hơn 90% giá trị thương mại của

một thế giới hiện đại hết sức sôi động thì việc duy trì việc hoạt động kinh doanh

quốc tế không phải là dễ. Không những thế, hai năm đầu tiên của WTO còn được

ghi nhận từng mức tăng giá trị mậu dịch thế giới tới 100 tỷ USD. Danh sách 21

chính phủ ( trong đó có Việt Nam) đang ở những giai đoạn khác nhau của quá

trình gia nhập WTO cũng cho thấy phần nào kết quả hoạt động của tổ chức này.

Về các nội dung hoạt động cụ thể, WTO đã kế thừa xứng đáng GATT

thậm chí còn hiệu quả hơn trong một số lĩnh vực. Trước hết phải kể đến việc giải

quyết các tranh chấp thương mại. Ngay từ khi thành lập các bên ký kết đã đạt

nhiều hy vọng vào chức năng giải quyết tranh chấp của WTO sau khi được bổ

sung nhiều quyền hạn cũng như thay đổi về cơ chế so với thời kỳ kém hiệu quả

của GATT trước kia. Nếu như trước thời GATT các cường quốc kinh tế thường

gây áp lực đối với việc giải quyết tranh chấp hay cố tình trì hoãn việc thi hành

phán quyết thì với các quy định mới tình trạng đó sẽ khó tái diễn. Thực tế là chỉ

trong 3 năm WTO đã thụ lý hơn 60 hồ sơ tranh chấp. Một đặc điểm về các bên

tham gia tranh chấp là bên cạnh những"gương mặt" quen thuộc như Mỹ, EU,

Nhật, Canada, các nước đang phát triển bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu

như Brasil, Ấn Độ, Mehico, Singpore, Thái Lan. Điều này cho thấy vị trí ngày

càng quan trọng của các nền kinh tế đang phát triển nói chung trong kinh tế thế

giới. Và phải chăng cơ chế giải quyết hiệu quả của WTO đã tạo cơ hội để những

"kẻ yếu" này lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho mình ? Thành công còn thể hiện ở sự

đa dạng của các vấn đề tranh chấp, từ việc áp dụng biện pháp kiểm dịch động

thực vật đến các thủ tục cấp giấy phép hay hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm

nhập khẩu hoặc bán phá giá hàng hoá, trợ cấp hàng nông sản, vi phạm quyền sở

hữu trí tuệ ...

Nếu giải quyết tranh chấp là nội dung nóng hổi thì việc điều tiết thương

mại hàng hoá lại là nội dung chính, truyền thống từ GATT, nay vẫn chiếm vị trí

quan trọng trong hoạt động của WTO. Hai năm qua các Ủy ban của WTO đã

giám sát việc thực hiện các Hiệp định của vòng đàm phán Urugoay, soạn thảo và

đệ trình hàng loạt văn bản mới liên quan để củng cố môi trường pháp lý cho

thương mại hữu hình trên thế giới, đặc biệt là các văn bản liên quan đến các hạn

chế số lượng, và các biện pháp phi thuế quan. Kể từ mười năm lại đây WTO

cũng bắt đầu đưa dần 2 lĩnh vực "nhạy cảm" vẫn từng nằm ngoài khuôn khổ các

nguyên tắc chung của GATT trước đây và hệ thống chung đó là hàng dệt may và

nông nghiệp. Tuy là những vấn đề phức tạp có tác động lớn đến quyền lợi sống

còn của nhiều nước lại được điều chỉnh bằng các hiệp định song phương trong

thời gian dài (từ vòng đàm phán Tokyo, 1974) nhưng việc hợp nhất các lĩnh vực

này dưới sự điều chỉnh của WTO đã được các nước hưởng ứng.

Về các thành công của WTO không thể không nói đến lĩnh vực lần đầu

tiên được điều chỉnh một cánh chính thức là dịch vụ, với hai thị trường nổi cộm

là tài chính và viễn thông. Thắng lợi rõ nét nhất là thoả thuận đạt được về thị

trường thông tin viễn thông quốc tế ký hồi 2/1997 và việc Nhật Bản mở cửa thị

trường bảo hiểm trị giá tới gần 400 tỷ USD, chấm dứt tình trạng phân biệt đốỉ với

nguyên tắc cơ bản của GATT cũng như WTO lâu nay. Các thị trường hàng hải,

dịch vụ chuyên ngành ... cũng được xúc tiến ở các cấp độ khác nhau.

Ngoài các lĩnh vực quan trọng nêu trên WTO còn triển khai đồng thời

nhiều nội dung khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ các biện pháp tự vệ, các

hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại, bốn hiệp định đa phương, công tác

đào tạo, trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên ... WTO cũng đã tạo được mối

quan hệ mới với các tổ chức quốc tế lớn như Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ thế giới,

Ngân hàng thế giới, tạo ra cơ chế hành động thống nhất trong điều hành kinh tế

thế giới, đồng thời khẳng định tính tổ chức lâu dài của WTO so với tính tạm thời

của GATT trước kia.

Triển khai được nhiều công tác và thu được kết quả bước đầu song WTO

còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết. Ngay như công tác giải quyết tranh

chấp thương mại quốc tế, dù đã cải tiến nhiều nhưng một số trường hợp phức tạp

thì Ủy ban giải quyết tranh chấp vẫn tỏ ra chậm chạp, như tranh chấp giữa Mỹ và

Nhật trong thị trường phim ảnh, hay giữa Tây Ban Nha và Canada về đánh bắt

cá hoặc về luật Helms-Berton của Mỹ chống Cuba. Trong điều kiện mới, Ủy ban

giải quyết tranh chấp bắt đầu có tình trạng quá tải, ảnh hưởng không nhỏ tới kết

quả hoạt động.

Lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ thì chưa tiến được bao nhiêu, trong khi khắp

nơi người ta phàn nàn về nạn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tưởng chừng có thể

dẫn tới các cuộc chiến tranh thương mại quy mô thế giới như trường hợp của

Trung Quốc và Mỹ, hay Mỹ và Nhật.

Tuy đã đầu tư khá nhiều công sức nhưng có lẽ hồ sơ ít khả quan nhất của

WTO là quan hệ thương mại - phát triển và thương mại môi trường, có thể thấy

một số nước thành viên của WTO là các nước đang phát triển nhưng vị trí của họ

vẫn chưa cải thiện là bao, trừ một số nước đang phát triển lớn như Trung Quốc,

Ấn Độ, Mehico, Brasil. Phần lớn còn lại, nhất là các nước Châu Phi tham gia rất

hạn chế vào đời sống kinh tế thế giới so với tiềm năng của họ, hay có tham gia thì

phải chịu nhiều thiệt thòi. Tương tự, vấn đề môi trường được đề cập nhiều trong

các vấn đề hội nghị toàn cầu cũng như khu vực, nhưng vẫn còn thiếu nhiều biện

pháp thực tế hữu hiệu trong khi hàng hoá càng được sản xuất dồi dào bao nhiêu

thì lượng chất thải công nghiệp, chất thải tiêu dùng càng lớn, tài nguyên thiên

nhiên bị khai thác càng nhiều bấy nhiêu.

Thời gian tới WTO sẽ còn giải quyết không ít nhiệm vụ khó khăn. Cơ bản

nhất là tiếp tục thực thi các Hiệp định của vòng đàm phán Urugoay, các tuyên bố

của Hội nghị Bộ trưởng tại Singapore, các quyết định và giải thích kèm theo.

Bàn bạc và thống nhất về tương lai các nội dung còn chưa triệt để như thương

mại và đầu tư, chính sách cạnh tranh, nông nghiệp dệt may... Vấn đề thương mại

và môi trường còn tiếp tục phải thảo luận, vì trong khi chưa có một hệ thống tiêu

chuẩn chung về môi trường có liên quan về thương mại thì các nước vẫn còn

dùng vấn đề này như một biện pháp phi thuế quan để bảo hộ hay phân biệt đối xử

trong buôn bán.

1.3 HIỆP ĐỊNH ĐA SỢI VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN

1.3.1 Nội dung chính

Khi GATT được thành lập năm 1947, chưa có hiệp định nào liên quan đến

hàng dệt may. Nhưng chỉ đến cuối thập niên 50, sản phẩm nhạy cảm này đã phát

triển không ngừng. Trên thị trường thế giới tình hình trở nên sôi động và các

nước đã chủ động tìm đến hàng loạt hiệp định ngắn hạn rồi dài hạn để thu xếp

thị trường hàng dệt may. Đặc biệt là đối với một số nước phát triển, đứng trước

sức ép ngày càng tăng của các sản phẩm rẻ hơn từ các nước đang phát triển làm

cho hoạt động buôn bán hàng dệt bị lệch khỏi các quy tắc cơ bản của GATT, làm

sai lệch cạnh tranh và thương mại thông thường. Trước thực tế đó, đầu thập niên

60, lĩnh vực dệt may đã được bàn đến trong khuôn khổ GATT nhưng như một

trường hợp ngoại lệ, theo các quy tắc đàm phán riêng. Trên cơ sở các thoả ước

song phương giữa các nước và đặc điểm tình hình, dưới sự giám sát của GATT,

Hiệp định về mậu dịch quốc tế hàng dệt còn gọi là Hiệp định đa sợi đã được ký

năm 1973 và có hiệu lực từ 01/01/1974.

Về cơ bản Hiệp định này cho phép các nước phát triển thông qua các hiệp

định song phương hay các hành động đơn phương áp đặt hạn ngạch đối với hàng

dệt may nhập khẩu từ các nước đang phát triển. MFA có giá trị hiệu lực đối với

các nước tham gia ký kết chứ không phải là hiệp định bắt buộc với tất cả các

nước thành viên GATT /WTO.

Mục tiêu tổng quát của MFA là :

+ Mở rộng và tự do hoá thương mại quốc tế

+ Chống lại tình trạng rối loạn thị trường.

+ Tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội của các nước đang phát

triển.

Hàng dệt may theo quy định của MFA chỉ giới hạn ở "vải, sợi và các sản

phẩm từ bông, len, sợi nhân tạo". Lần gia hạn trước đây Hiệp định đa sợi có quy

định thêm lanh, tơ lụa pha sợi gai.

Nội dung chính của Hiệp định đa sợi có thể tóm tắt qua các điều khoản chủ

yếu nhất như sau :

+ Điều 1 : Các biện pháp hạn chế đặc biệt trong thương mại quốc tế về

hàng dệt may có thể được áp dụng trong một số thời gian hạn chế.

+ Điều 2 : Cho phép nước nhập khẩu đơn phương hạn chế nhập khẩu

trong thời gian một năm nếu việc nhập khẩu đó gây ra tình trạng rối loạn thị

trường, trừ khi nước xuất khẩu chấp nhận một giải pháp hợp lý khác.

+ Điều 3: cũng quy định rằng các biện pháp này chỉ được áp dụng đối với

những mặt hàng cụ thể và với nước xuất khẩu những mặt hàng gây ra rối loạn thị

trường đó.

* MFA còn cho phép nước nhập khẩu áp dụng điều 3 chỉ khi họ đáp ứng

được các yêu cầu nghiêm ngặt của việc "Chứng minh tình trạng rối loạn thị

trường". Phụ lục A của Hiệp định đa sợi quy định rõ ràng "Việc xác định tình

hình rối loạn thị trường phải dựa trên những thiệt hại nghiêm trọng đối với nhà

sản xuất nội địa hoặc nguy cơ rõ ràng của các thiệt hại". MFA cũng quy định các

thiệt hại phải được xác định trên cơ sở xem xét tình hình kinh tế của một ngành

kinh tế nội địa cụ thể và "Việc tăng nhanh, khối lượng lớn hàng nhập khẩu một

cách rõ ràng (có thể xác định được) chứ không phải dựa theo phỏng đoán, lập

luận hay khả năng ít xảy ra."

* Điều 3 cũng quy định về cơ chế "Tham vấn" khuyến khích các nước

thành viên tổ chức các cuộc họp song phương thảo luận về thương mại hàng dệt

may.

* Theo điều 3 nếu một nước nhận thấy trên thực tế hàng dệt may nhập

khẩu đang gây rối loạn thị trường nước mình thì đầu tiên phải yêu cầu có cuộc

tham vấn với các nước xuất khẩu có liên quan.

* Khi cuộc thảo luận đi đến thoả thuận thì các bên phải xây dựng thoả

thuận này theo quy định ở phụ lục B. Theo đó "mức hạn chế số lượng ban đầu sẽ

không thấp hơn mức nhập khẩu hay xuất khẩu thực tế của sản phẩm đó trong thời

gian 12 tháng, kết thúc vào 2 tháng trước khi đưa ra yêu cầu tham vấn" Phụ lục B

cũng quy định rằng mức nới lỏng các hạn chế nhập khẩu bình quân hàng năm

không được thấp hơn 6%. Một nước nhập khẩu có thể áp dụng mức thấp hơn

nhưng trong trường hợp đặc biệt.

* Hiệp định đa sợi còn quy định về tính linh hoạt trong sử dụng hạn ngạch.

Nước xuất khẩu có thể cho phép mở rộng hạn ngạch đã được phân bổ đối với

nhóm sản phẩm cụ thể trong thời gian nhất định theo một trong các cách sau :

- Chuyển hạn ngạch không dùng hết của một nhóm sản phẩm sang nhóm

sản phẩm khác đã dùng hết hạn ngạch; tỷ lệ cho phép là 7%.

- Sử dụng trước hạn ngạch của năm tiếp theo; tỷ lệ cho phép là 5%.

- Sử dụng trước hạn ngạch của năm trước; tỷ lệ cho phép là 10%. Các nước

nhập khẩu có thể áp dụng tỷ lệ thấp hơn trong trường hợp đặc biệt, nhưng tỷ lệ

Swing không được thấp hơn 5%.

+ Điều 4: Cho phép các nước thành viên điều tiết thương mại hàng dệt

may của mình thông qua các hiệp định song phương mà không có nghĩa vụ phải

dành các quy định tương tự cho các đối tác thương mại khác.

Việc quản lý thực hiện MFA do Ủy ban dệt tiến hành. Ủy ban này gồm đại

diện của các bên ký kết Hiệp định đa sợi và do Tổng giám đốc GATT làm chủ

tịch. Ủy ban này sẽ thành lập cơ quan giám sát hàng dệt để theo dõi trực tiếp tình

hình thực thi MFA.

1.3.2. Tình hình thực hiện hiệp định đa sợi

Trong thực tế thi hành Hiệp định đa sợi MFA các nước thường đạt được

các Hiệp định song phương khác nhau đối với các nước khác nhau. Tuy nhiên,

hạn ngạch quy định trong các Hiệp định song phương thường được phân theo 3

cấp. Mức tổng cộng hay là mức hạn chế xuất khẩu của một nước hàng năm.

Trong hạn ngạch tổng cộng này có hạn ngạch theo nhóm hàng và theo từng sản

phẩm cụ thể.

Các sản phẩm không thuộc 3 cấp hạn ngạch trên thì được điều tiết bởi mức

tham vấn tính trong Hiệp định song phương, nếu cần có thể được cấp hạn ngạch

bổ sung.

Trong nhiều trường hợp các Hiệp định song phương cho phép áp dụng nội

dung linh hoạt trong sử dụng hạn ngạch, chuyển hạn ngạch không dùng hết giữa

các nhóm sản phẩm, carryforward hay carryover hạn ngạch không dùng hết giữa

các năm dương lịch.

Qua thực tế điều tiết thương mại hàng dệt may từ năm 1974 đến năm 1994.

Hiệp định đa sợi đã được gia hạn 4 lần vào các năm 1981, 1986, 1993 và cho đến

nay đã có hơn 40 nước tham gia vào ký kết và thực hiện Hiệp định đa sợi, giá trị

xuất khẩu năm 1994 của các nước tham gia MFA đạt 136 tỷ USD, chiếm 80%

thương mại dệt may thế giới (gồm cả thương mại nội bộ EU). Phạm vi điều chỉnh

của MFA không ngừng được mở rộng cả về nhóm hàng và nước tham gia. Với

quy định ban đầu là các hạn chế số lượng MFA đã được các nước áp dụng

chuyển thành biện pháp tự nguyện hạn chế xuất khẩu một cách có hệ thống thông

qua gần 100 Hiệp định song phương.

Số Hiệp định song phương trong khuôn khổ MFA của một số nước lớn

tính đến hết năm 1994.

Bảng 1:

Nước Mỹ EU Canada A6 Phần Lan Nauy Tổng

Hàn Quốc * * * * * * *

Hongkông * * * * * * *

Trung Quốc * * * * * * *

Indonesia * * * * *

Thái Lan * * * * * *

Malaysia * * * * *

Philipin * * * * *

Singapore * * * * * *

Pakistan * * * * *

Ấn Độ * * * * * * *

Srilanka * * * * * *

6 7 Tổng 29 19 22 16 99

(Nguồn : Current Situation of World Textile Industry, Japan Ministry of

Trade and Industry)

Có thể nói MFA đã tạo cho các nước phát triển một cơ chế quốc tế hiệu

quả hơn để đối phó với tình trạng phá vỡ thị trường hàng dệt, bảo hộ sản xuất.

Mặt khác nó cho phép các nước đang phát triển thâm nhập phần nào vào thị

trường ngày càng tăng của các nước phát triển và tạo ra sự mở rộng của thị

trường dệt may.

Dù điều 3 quy định rằng các biện pháp hạn chế chỉ được áp dụng đối với

những mặt hàng cụ thể và với nước xuất khẩu những mặt hàng gây ra rối loạn thị

trường đó. Nhưng trên thực tế chúng đã mở rộng và đang điều tiết toàn bộ thương

mại hàng dệt may thế giới.

Điều quan trọng nhất là các quy định của MFA đã vi phạm nghiêm trọng

nguyên tắc cơ bản không phân biệt đối xử của GATT bằng việc cho phép các

nước đặt ra các hạn chế thương mại thông qua các Hiệp định song phương hay

các hành động đơn phương. Hơn thế nữa, rất khó quản lý việc áp dụng MFA

trong các Hiệp định song phương mang nặng tính chất phân biệt đối xử vì chúng

còn phụ thuộc nhiều vào các lý do chính trị. Do vậy, có thể nói nhiều năm qua

MFA đã tồn tại như vừng sáng mờ, một ngoại lệ của GATT.

Trên thực tế, MFA cũng đã không giúp cải thiện đáng kể nền công nghiệp

đang giảm dần sức cạnh tranh do chi phí cao ở các nước phát triển dù có bảo hộ

chúng. Vì nhìn tổng thể, khi thống nhất áp dụng hạn ngạch cả nước xuất khẩu và

nước nhập khẩu đã liên kết với nhau để kìm hãm sự tự do hoá thị trường, là điều

tối kỵ đối với mọi ngành công nghiệp. Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải nhất thể

hoá thương mại hàng dệt may theo các nguyên tắc chung của GATT/WTO hay

đặt lĩnh vực này dưới sự điều chỉnh của hệ thống thương mại thế giới. Như vậy

không những tăng cường sức mạnh cho WTO mà còn tạo ra cơ hội tự do hoá

hoàn toàn một trong những thị trường sôi động nhất của mậu dịch hàng hoá thế

giới. Nhiều nước phát triển vì lợi ích của mình đã không nhất trí với mục tiêu mà

mong muốn duy trì hạn chế số lượng theo quy định của MFA. Điển hình là Mỹ

và Châu Âu đều khuyến khích một cơ chế "tăng dần" (Growing-up) nghĩa là áp

dụng MFA cho tất cả các sản phẩm dệt may và gia hạn Hiệp định đa sợi cho đến

khi việc áp dụng hạn ngạch giảm bớt tính bảo hộ. Tuy nhiên, do sự đấu tranh

quyết liệt của phần lớn các nước thành viên GATT/WTO đã đạt được Hiệp định

về hàng dệt may quyết định chính thức đưa hàng dệt may vào khuôn khổ của Tổ

chức thương mại thế giới.

1.4 HIỆP ĐỊNH VỀ HÀNG DỆT - MAY TẠI VÒNG ĐÀM PHÁN URUGUAY

1.4.1. Tóm tắt Hiệp định .

Như đã trình bày ở trên, từ những năm 70, do tính nhạy cảm mà mặt hàng

dệt may được điều chỉnh riêng theo Hiệp định đa sợi như một ngoại lệ của

GATT. Nhưng từ vòng đàm phán Urugoay với sự lớn mạnh về nhiều mặt của

GATT và sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới các nước thành viên đã

nhất trí đưa hàng dệt may vào khuôn khổ điều tiết chung theo các nguyên tắc

chung của GATT/WTO như các mặt hàng khác. Quyết định này đã được cụ thể

hoá bằng Hiệp định về hàng dệt may (Agreement on Textile và Clothing - sau

đây gọi tắt là ATC) có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 tức là đồng thời với sự ra đời

Tổ chức Thương mại Thế giới và chấm dứt khi toàn bộ các sản phẩm dệt may

được đưa vào tự do hoá hết (Cụ thể là đến 1/1/2005).

Bắt đầu từ đây các hoạt động trao đổi trên thị trường dệt may thế giới sẽ

chịu sự điều chỉnh của qui phạm pháp luật mới này. Kể cả khi không còn hiệu lực

thì Hiệp định ATC cũng vẫn để lại những ảnh hưởng nhất định đối với hình thái

của thị trường dệt may thế giới sau này. Do vậy phần tiếp theo của khóa luận giới

thiệu tóm tắt nội dung của Hiệp định ATC cũng là những yêu cầu mà Việt Nam

sẽ phải tuân thủ khi tham gia WTO.

Hiệp định ATC gồm có 9 điều và một danh mục các mặt hàng dệt may

thuộc điều chỉnh đã được phân theo hệ mã HS 6 số. (Hệ thống mã hoá và phân

loại hàng hoá hài hoà của Ủy ban hợp tác hải quan quốc tế thông qua ngày

14/6/1983 có hiệu lực từ 1/1/1997.

Để giám sát và điều chỉnh quá trình thực hiện Hiệp định ATC, Ban giám

sát sản phẩm dệt may sẽ được thành lập (gọi tắt là TMB), TMB là cơ quan đặc

trách giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong khi thực hiện Hiệp định ATC, TMB

bao gồm chủ tịch và 10 đại diện luân phiên của các nước thành viên. TMB sẽ báo

cáo cho hội đồng thương mại hàng hoá của WTO, cơ quan chịu trách nhiệm đánh

giá hoạt động của Hiệp định ATC trước khi kết thúc từng giai đoạn của quá trình

hoà nhập.

Nội dung quan trọng nhất của Hiệp định là điều khoản về các hạn chế số

lượng và chương trình chuyển tiếp sản phẩm dệt may vào khuôn khổ WTO.

Trong vòng 60 ngày kể từ ngày Hiệp định ATC có hiệu lực các nước thành

viên phải thông báo tất cả các hạn chế về số lượng của mình theo các Hiệp định

song phương đã ký cho Ban giám sát hàng dệt may. Các hạn chế về số lượng bao

gồm toàn bộ các hạn chế mà nước thành viên áp dụng trước ngày Hiệp định ATC

có hiệu lực.

Nếu những hạn chế số lượng nào không được thông báo trong thời hạn trên

thì sẽ bị bắt buộc loại bỏ sau đó.

Sau khi đã thông báo các hạn chế số lượng, các nước thành viên không

được áp dụng những hạn chế số lượng mới nữa trừ khi chúng phù hợp với những

điêu khoản thích hợp của GATT 1994 hay những điều khoản được quy định

trong Hiệp định ATC này. Quá trình chuyển tiếp của sản phẩm dệt may được

đánh dấu bằng 4 mốc thời gian chính.

+ Ngày 1/1/1995 các nước thành viên phải tự do hoá thêm ít nhất 16%

tổng khối lượng sản phẩm dệt may nhập khẩu năm 1990 của mình.

+ Ngày 1/1/1998 các nước thành viên phải tự do hoá thêm ít nhất 17%

tổng khối lượng sản phẩm dệt may nhập khẩu năm 1990 của mình.

+ Ngày 1/1/2002 các nước thành viên phải tự do hoá tiếp ít nhất 18% tổng

khối lượng sản phẩm dệt may nhập khẩu năm 1990 của mình.

+ Ngày 1/1/2005, toàn bộ sản phẩm còn lại phải được tự do hoá.

Các sản phẩm đưa ra để hoà nhập phải được lựa chọn từ danh mục hàng

hoá đã được chia theo 4 nhóm chính là : sợi, vải, phụ liệu dệt và hàng may sẵn

kèm Hiệp định ATC.

Cùng lúc với việc thực hiện chương trình chuyển tiếp, các hạn chế đang áp

dụng theo các Hiệp định song phương (trong khuôn khổ MFA) có hiệu lực từ

trước ngày 1/1/1995. Hàng năm phải được nới lỏng theo các tỷ lệ tương ứng như

sau :

+ Giai đoạn 1 (1995-1998): tỷ lệ nới lỏng hạn chế thấp nhất 16%/năm.

+ Giai đoạn 2 (1998-2002): tỷ lệ nới lỏng hạn chế thấp nhất 25%/năm.

+ Giai đoạn 3 (2002-2005): tỷ lệ nới lỏng hạn chế thấp nhất 27%/năm.

Sau thời hạn 10 năm nêu trên, các quy định hạn chế nhập khẩu theo MFA

trước kia hay không theo quy định của GATT sẽ bị loại bỏ hoàn toàn.

Nếu một nước thành viên không thông báo bảo lưu quyền áp dụng các biện

pháp tự vệ khẩn cấp thì các sản phẩm dệt may coi như đã hoàn toàn được đưa vào

GATT 1994. Vì vậy, nước thành viên này không phải thực hiện các nghĩa vụ lập

chương trình 3 giai đoạn đưa 16,17,18% khối lượng sản phẩm dệt may năm

1990 vào GATT 1994.

Hiệp định ATC cũng quy định về các biện pháp tự vệ khẩn cấp cho các

nước thành viên. Điểm quan trọng là các điều khoản này chỉ áp dụng đối với các

sản phẩm chưa đưa vào GATT.

Theo đó, các biện pháp tự vệ khẩn cấp cũng được áp dụng giống nguyên

tắc của GATT là theo từng sản phẩm chứ không theo mã HS.

Điều 6: Quy định các biện pháp tự vệ khẩn cấp của Hiệp định ATC này

không áp dụng cho :

- Sợi dệt tay của các nước đang phát triển; các sản phẩm làm bằng tay từ

các loại sợi này.

- Các loại sản phẩm dệt may thủ công truyền thống (được định nghĩa rõ

trong Hiệp định ký giữa 2 bên).

- Các sản phẩm làm từ lụa thuần tuý.

- Các sản phẩm từng buôn bán với số lượng lớn như : túi sách, thảm trải

chân, thảm đay, cói...

Các biện pháp tự vệ khẩn cấp chỉ được áp dụng trên cơ sở:

+ Một sản phẩm đang được nhập khẩu với số lượng tăng lên, gây ra hay đe

dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước hoặc các sản phẩm

trong nước cạnh tranh trực tiếp.

+Việc gây ra hay đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng phải được chứng

minh rằng đó là hậu quả của việc tăng số lượng nhập khẩu chứ không phải bởi

các yếu tố khác như thay đổi công nghệ hay do sự thay đổi thị hiếu khách hàng.

Khi xác định thiệt hại của một sản phẩm, nước thành viên chỉ ra mức độ

ảnh hưởng của các sản phẩm nhập khẩu đó đối với một ngành công nghiệp cụ

thể, và phải được phản ánh qua các chỉ số kinh tế như sản lượng, công suất sử

dụng thiết bị, mức tồn kho, thị phần, lương công nhân. Không được xác định một

yếu tố hoặc tổng hợp các yếu tố trên để ra quyết định.

Hiệp định ATC cho phép không áp dụng biện pháp tự vệ khẩn cấp đối với

sản phẩm xuất khẩu của các nước thành viên mà sản phẩm xuất khẩu của họ đã

chịu hạn chế theo Hiệp định này.

Khi áp dụng các biện pháp tự vệ, các biện pháp cụ thể sẽ được cân nhắc để

bảo vệ quyền lợi của các nước xuất khẩu.

+ Các nước kém phát triển sẽ được đối xử đặc biệt ưu đãi hơn so với

những đối xử dành cho nhóm các nước phát triển thành viên.

+ Các nước xuất khẩu với số lượng nhỏ so với nhóm các nước thành viên

khác hay các nước xuất khẩu có tổng số chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng nhập

khẩu vào một nước thành viên sẽ được đối xử hoàn toàn khác biệt ưu đãi hơn so

với các nước khác.

Việc áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp phải bảo đảm nguyên tắc không

phân biệt đối xử, không gây cản trở đối với thương mại quốc tế.

Các nước tiến hành các biện pháp tự vệ khẩn cấp phải tham vấn các nước

thành viên bị ảnh hưởng của các biện pháp đó theo một trình tự do Hiệp định

ATC quy định.

Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp cũng được quy định rõ.

+ Tối đa là 3 năm và không được gia hạn thêm.

+ Hoặc cho tới khi các sản phẩm bị hạn chế được đưa vào GATT (tuỳ theo

thời hạn nào đến trước).

Nếu các biện pháp tự vệ khẩn cấp phải kéo dài hơn 1 năm thì mỗi năm

phải nới lỏng với tỷ lệ nhỏ nhất là 6%.

Ngoài ra, Hiệp định ATC còn yêu cầu các nước thành viên thực hiện các

nguyên tắc chung như mở cửa thị trường, không phân biệt đối xử trong thương

mại của GATT /WTO. Cụ thể như :

- Mở cửa thị trường dệt may thông qua các biện pháp giảm thuế, loại bỏ

các hàng rào phi thuế quan, thuận lợi hoá các thủ tục hải quan, thủ tục hành

chính...

Theo Hiệp định ATC về mở cửa thị trường thì mức thuế đối với hàng dệt

may sẽ giảm 12% so với mức trung bình hiện nay trong vòng 10 năm.

- Áp dụng các biện pháp, chính sách tạo điều kiện cho một nền thương mại

công bằng

- Không phân biệt đối xử đối với hàng dệt may.

Các hoạt động của các nước thành viên liên quan tới các quy tắc nói trên

phải thông báo cho TMB, trong trường hợp cần thiết phải thông báo cho các cơ

quan của WTO và các nước thành viên.

Trong trường hợp một nước thành viên phát hiện một nước thành viên

khác không tuân thủ các nguyên tắc chung trên cũng như quyền và nghĩa vụ theo

Hiệp định ATC này thì có quyền đưa vấn đề ra các cơ quan hữu quan của WTO

và thông báo cho TMB.

1.4.2. Tình hình thực hiện Hiệp định ATC trong thời gian qua

Tính đến nay Hiệp định về hàng dệt may của vòng đàm phán Uruguay

(ATC) đã có hiệu lực được hơn 7 năm. Trong thời gian này, nhiều nước thành

viên WTO đã tích cực thực hiện những yêu cầu của giai đoạn 1 quá trình hoà

nhập trở lại mậu dịch hàng dệt may theo các nguyên tắc chung của GATT /WTO

hay nói cách khác là tự do hoá thương mại hàng dệt may thế giới.

1.4.2.1. Về danh mục đưa vào tự do hoá.

Theo quy định tại các khoản 6 và 7, điều 2 giai đoạn 1 của quá trình hoà

nhập các nước thành viên phải chọn trong danh mục hàng hoá kèm theo 90 Hiệp

định những chủng loại sản phẩm chiếm ít nhất 16% khối lượng nhập khẩu hàng

dệt may năm 1990 nước mình để thực hiện tự do hoá. Trong thời gian thực hiện

vừa qua ta thấy nổi lên các nước và khu vực : Canada, EU, Na Uy, Mỹ đã thông

báo danh mục của mình sớm nhất vào ngay ngày 1/11/1994 (chỉ sau ngày ký

Tuyên bố Marakesh thành lập WTO có 6 tháng 15 ngày). Và cho đến hết tháng

11/1996 thì đã có 143 nước và khu vực đưa ra danh mục sản phẩm dệt may của

mình sẽ tự do hoá trong giai đoạn I.

Bảng 2: Tỷ lệ sản phẩm được tự do hoá của các nước tính đến hết 11/2000.

(Tên nước tính theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Anh)

TT Tên nước Tỷ lệ sản phẩm được tự do hoá so với khối lượng

nhập khẩu năm 1990 (%)

1 Argentina 16,80

2 Bangladesh 16,04

3 Bolivia 16,42 ( Nhập khẩu Dệt-May 1990)

4 Brazil 16,00

5 Canada 16,34

6 Colombia 16,21

7 Costa Rica 16,00

8 Cyprus 16,44

9 CH Sec 16,16 ( Nhập khẩu 1993)

10 CH Dominica 16,02( Nhập khẩu 1991)

11 EL Salvador 16,00

12 EU 16,40

13 Guatamala 16,17

14 Honduras 16,00

15 Hungary 16,01 (Nhập khẩu 1992)

16 Ấn độ 16,35 (4/90 – 3/91)

17 Indonesia 16,00

18 Nhật Bản 16,00

19 Hàn Quốc 16,35

20 Malaysia 18,09

21 Malta 17,30

22 Maritius 16,94 ( Nhập khẩu Dệt-May)

23 Mehico 16,00

24 Marốc 16,89 ( Nhập khẩu Dệt-May)

25 Nicaragua 16,64 ( Nhập khẩu Dệt-May)

26 Nauy 16,26

27 Pakistan 28,14 (7/90 - 6/91)

28 Paraguay 16,78

29 Peru 16,26

30 Philipines 16,13

31 Balan 16,28

32 Rumani 43,34

34 CH Slovak 16,11 ( Nhập khẩu năm 1993)

35 Slovenia 16,06 ( Nhập khẩu năm 1992)

36 Srilanca 16,19

37 Thụy sỹ 16,19

38 Thái Lan 16,02

39 Tunisia 17,34

40 Thổ Nhĩ Kỳ 18,00

41 Mỹ 16,21

42 Uruguay 16,49

43 Venezuela 16,00

(Nguồn : Báo cáo của Đại hội Đồng tại Hội nghị Bộ trưởng 2000 của WTO)

Ngoài các nước nêu trên, Ban giám sát sản phẩm dệt may còn đang tiếp tục

xác nhận các báo cáo của Israel, Myanmar, Saint Kitts và Nevils đưa tổng số các

nước và khu vực đã thông báo lên 47. TMB cũng đã chích thức xác nhận các

danh mục hàng hoá của các nước đạt yêu cầu về số lượng, chủng loại đã nêu

trong Hiệp định. Tuy nhiên. có một số lấy một thời gian mốc để tính giá trị sản

phẩm khác 1990 như CH Czech ( từ 1993), Hungary (92)

Qua tổng kết, không có nước thành viên nào áp dụng khoản 10, điều 2 để

tự do hoá sản phẩm dệt may của mình trước khi thông báo theo thời hạn quy

định.

Nhìn chung, các danh mục sản phẩm đều được các nước đặc biệt là các nước phát triển “lựa chọn” cẩn thận nên dù nhiều nhưng phần lớn sản phẩm lại không phải đối tượng áp dụng các hạn chế trước kia. Trên thực tế, mới chỉ có mặt hàng găng tay lao động do Canađa đưa ra là loại đã từng bị hạn chế nhập khẩu. Hơn thế nữa các sản phẩm đưa vào tự do hoá ở giai đoạn này chủ yếu là loại bỏ giá trị gia tăng (Value - added) thấp thuộc nhóm vải sợi trong khi nhóm hàng may sẵn có tỷ trọng thấp hơn nhiều. Do vậy, có thể thấy rằng giai đoạn I của quá trình hoà nhập sẽ không có nhiều ý nghĩa về thương mại. Nhiều nước đã kiến nghị danh mục sản phẩm được tự do hoá phải kết hợp cả sản phẩm có và

không áp dụng hạn chế trước kia, Các sản phẩm nhạy cảm và không nhạy cảm, đặc biệt là sản phẩm may mặc. Từ thực tế nêu trên thì triển vọng mở cửa thị trường tạm thời nhờ vào việc nới lỏng 16% hạn chế số lượng hàng năm trong giai đoạn I, theo quy định tại khoản 13 và 18 của điều 2 của Hiệp định. 1.4.2.2 Về các Hiệp định song phương trong khuôn khổ MFA Khoản 1 điều 2 của hiệp định ATC quy định tất cả các hạn chế số lượng ở các Hiệp định song phương có hiệu lực từ trước ngày 1/1/1995 trong khuôn khổ Hiệp định đa sợi (MFA) trước kia phải được thông báo chi tiết cho TMB (về khối lượng, tỷ lệ tăng hàng năm, điều khoản mềm dẻo của hạn ngạch ). Đến nay, đã có EU, Canada, Mỹ, Nauy thông báo về các hạn chế này. Đồng thời TMB cũng đã nhận và xử lý các ý kiến có liên quan đến các thông báo nêu trên từ Colombia, Hongkong và Macao, (về thông báo của Mỹ): Hàn Quốc (về thông báo của Canada, EU, và Mỹ) . 1.4.2.3 Về việc các biện pháp hành chính trong thực hiện các hạn chế Khoản 17 điều 2 quy định các thoả thuận song phương và phù hợp với yêu cầu của Hiệp định về các biện pháp hành chính trong khi thực thi Hiệp định giữa các nước liên quan phải được thông báo đầy đủ cho TMB. Các biện pháp hành chính liên quan đến hệ thống kiểm soát xuất khẩu có thể là thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, quản lý hoạt động xuất khẩu, các điều khoản mềm dẻo của hạn ngạch cho đến nay đã có thỏa thuận của Marituis với Mỹ và giữa Canada với Bangladesh... được xác nhận. Một số thông báo tương tự khác đang được xem xét. 1.4.2.4. Về việc áp dụng các biện pháp tự vệ: Theo điều 6 của Hiệp định, các nước có quyền áp dụng các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu đối với những sản phẩm do Hiệp định điều chỉnh và chưa được tự do hoá trong trường hợp có thiệt hại hay nguy cơ thiệt hại. Nếu như vậy nước nhập khẩu phải tham vấn các nước thành viên liên quan và thông báo cho TMB trước khi áp dụng đơn phương các biện pháp tự vệ (Theo khoản 10, điều 6) hoặc đi đến một thoả thuận về biện pháp tự vệ cần thiết (theo khoản 9 điều 6). Hiện nay đã có 7 nước quyết định không sử dụng quyền áp dụng các biện pháp tự

vệ, 51 nước thành viên khác bảo lưu quyền này. Trong thời gian thi hành Hiệp định vừa qua các biện pháp tự vệ đã được áp dụng như sau: + Các biện pháp tự vệ được các nước đơn phương áp dụng: 23 lần + Các biện pháp tự vệ thoả thuận áp dụng theo khoản 8, điều 6: 8 lần Cùng với các trường hợp nêu trên, phía Mỹ còn một lần tham vấn Brasil về áo ngoài làm bằng len cho nam và (Category 434) vào ngày 26/4/95 nhưng không đưa ra biện pháp tự vệ. Như vậy chỉ có 2 nước đã áp dụng biện pháp tự vệ là Mỹ (áp dụng với 14 nước thành viên trong 25 trường hợp) và Brasil với hai nước thành viên trong 7 trường hợp. Thời gian cụ thể như sau:

(Tính đến hết 11/2000)

Bảng 3: Thời gian và số lần các nước yêu cầu được áp dụng biện phảp tự vệ

Quý Nước yêu cầu Số lần Năm

1995 I Mỹ 10

II Mỹ 14

III Mỹ 0

IV Mỹ 0

1998 I Mỹ 1

II Brasil 7

III Brasil 0

IV Brasil 0

2000 I Brasil 0

II Mỹ 1

III Mỹ 0

III Mỹ 0

IV Mỹ 0

(Nguồn: Báo cáo của đại hội đồng năm 2000)

Ngoài ra TMB còn được Hồngkông thông báo về yêu cầu tham vấn Thổ

Nhĩ Kỳ theo khoản 4, điều 4 Quy tắc giải quyết tranh chấp và khoản 1 điều 22

của GATT 1994 liên quan đến việc Thổ Nhĩ Kỳ đơn phương áp đặt hạn chế số

lượng đối với hàng loạt sản phẩm dệt may nhập khẩu từ Hồng Kông từ 1/1/996.

Tóm lại, Hiệp định ATC đã được các nước thành viên hưởng ứng tích cực

và dù có xuất hiện một số trở ngại trong quá trình thực hiện thì Hiệp định này

cũng vẫn đang đi dần vào thực tiễn với những tác động cụ thể.

1.4.3 Tác động của hiệp định ATC đối với môi trường kinh doanh dệt - may

quốc tế.

Một điều dễ nhận thấy là hiệp định ATC đã bắt đầu làm thay đổi căn bản

môi trường kinh doanh hàng dệt may thế giới, một môi trường mà từ hàng chục

năm nay luôn tồn tại các rào cản thương mại một cách công khai dưới sự bảo trợ

của hiệp định đa sợi. Những dấu hiệu mới này tất nhiên sẽ theo hướng tự do hoá

thị trường, đặc biệt kích thích xuất khẩu của các nước đang phát triển vào các

nước phát triển sau khi các vật cản đã được dỡ bỏ hoàn toàn.

Nhìn sâu hơn thì các nước đang phát triển Châu Á sẽ được lợi từ Hiệp định

mới ký nhiều hơn so với các nước châu Mỹ Latinh hay Châu Phi. Bởi lẽ các khu

vực này phải chịu các hạn chế của MFA nhiều hơn, Châu Á ít bị ràng buộc bởi

các hạn ngạch ngặt nghèo của các Hiệp định ATC theo những cách khác nhau.

Nhìn chung các nước mới phát triển mạnh gần đây như Indonesia, Malaysia,

Philippines sẽ "hào hứng " hơn các nước đi trước như Hàn Quốc, Đài Loan,

Hongkong.

Viện kinh tế Công nghiệp và Thương mại Hàn Quốc đã đưa ra những dự

đoán về tác động của Hiệp định ATC đối với sản xuất và trao đổi hàng dệt may

thế giới như sau:

Tóm lại, Hiệp định ATC đã được các nước thành viên hưởng ứng tích cực

và dù có xuất hiện một số trở ngại trong quá trình thực hiện thì Hiệp định này

cũng vẫn đang đi dần vào thực tiễn với những tác động cụ thể.

thương mại hàng - dệt may thế giới

Bảng 4: Dự đoán các tác động của hiệp định ATC đối với sản xuất và

Đơn vị tính: %

Tên nước Biến đổi về giá trị sản lượng Biến đổi về giá trị XNK

Indonesia 461,01 54,19

Malaysa 274,82 53,13

Singapore 122,30 37,28

Philippines 183,14 25,83

Thái Lan 54,01 24,47

Hàn Quốc 314,88 34,60

Đài Loan 223,97 27,59

HongKong 66,15 15,86

Trung Quốc 433,57 11,26

Ấn Độ 197,78 8,20

Bangladesh 141, 00 38,19

Srilanca 105,34 44,92

Pakistan 23,29 13,24

Mỹ 305,49 - 25,14

EU(15 nước ) 190, 16 -12,42

(Nguồn: Trích dự đoán thị trường dệt may thế giới – Viện Kinh tế Công nghiệp và Thương mại Hàn Quốc )

Canada 200,17 -18,58

Từ một vài năm trở lại đây đã thấy rõ sự chuyển dịch sản xuất từ các nước "đàn anh" sang các nước mới ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam thông qua đầu tư nước ngoài hay gia công xuất khẩu. Và tại nơi mới, ngành Dệt - May nhanh chóng trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của các nước này. Như vậy,bằng các quy định tiến tới xoá bỏ các rào cản bấy lâu nay, Hiệp định về hàng dệt may (ATC) đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của ngành, không chỉ tại các nước đang phát triển mà cả trên quy mô toàn cầu.

Muốn tận dụng được cơ hội này, cách duy nhất mang tính chiến lược là nghiên cứu kỹ năng lực sản xuất thực tế của ngành Dệt - May Việt Nam mà đề ra các định hướng phù hợp.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH DỆT - MAY

VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA.

2.1. GIỚI THIỆU VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM.

2.1.1. Nét chung của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.

Đối tượng nghiên cứu của chương này là thực trạng xuất khẩu và năng lực

cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu trong những năm qua. Tuy

nhiên để có thể phân tích được đầy đủ tình hình xuất khẩu và cạnh tranh đó, đề

tài không thể không trình bày tóm lược tình hình sản xuất, bởi lẽ sản xuất là cơ sở

hình thành xuất khẩu và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu theo nguyên tắc :

sản xuất - tiêu thụ trong nước - xuất khẩu và cạnh tranh trong xuất khẩu.

So với nhiều ngành khác, ngành dệt may ở Việt Nam là ngành công nghiệp

truyền thống có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi đổi mới, ngành dệt

may không ngừng phát triển cả về qui mô, năng lực sản xuất, trình độ công nghệ

trang thiết bị, ngày một tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Cho

đến nay, sản phẩm dệt may Việt nam đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu trong

nước và có khả năng xuất khẩu lớn sang các thị trường khó tính như EU, Nhật

Bản, Bắc Mỹ... Việc xuất khẩu hàng dệt may đã đem lại một khoản ngoại tệ rất

đáng kể để đổi mới và nâng cấp toàn bộ trang thiết bị công nghệ của ngành dệt

may. Chỉ tính riêng trong bốn năm gần đây (1999 - 2002), xuất khẩu của ngành

dệt may đã mang về cho đất nước trên 8,3 tỉ USD, chỉ thấp hơn mức kim ngạch

dầu thô nhưng đứng đầu tất cả các ngành xuất khẩu chế biến trong cả nưóc.

Ngành dệt may không chỉ đem lại nguồn tích luỹ cho đất nước mà còn góp phần

quan trọng giải quyết việc làm, mang lại thu thập cho người lao động, tạo sự ổn

định kinh tế, chính trị, xã hội. Nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào,

người Việt Nam lại có truyền thống cần cù và rất sáng tạo. Mặt khác, giá cả sinh

hoạt thấp, chi phí lao động hạ, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng dệt may có ưu thế

cạnh tranh. Đặc điểm của ngành dệt may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, quay

vòng vốn nhanh, đội ngũ công nhân lành nghề có thể sản xuất được những sản

phẩm chất lượng cao nếu được đào tạo tốt. Hơn nữa, Việt nam còn có vị trí địa lý

và cảng khẩu rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển nên

giảm được chi phí vận tải. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều gần kề

đường hàng hải quốc tế nên có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Bắc Á,

Đông Á và Nam Á - Thái Bình Dương, đi Trung Cận Đông, châu Âu, châu Phi,

châu Mỹ. Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ mất ba giờ

hành trình với 40 hải lý. Việt Nam cũng nằm trong khu vực các nước xuất khẩu

lớn hàng dệt may như Trung Quốc nên ngành công nghiệp Việt Nam đang là một

thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Có thể nói, phát triển ngành dệt may Việt Nam là phát huy tối đa những lợi

thế hiện nay để phát triển kinh tế, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá

- hiện đại hoá đất nước.

2.1.2. Đánh giá tổng quát khả năng sản xuất trong nước.

Xét trên tổng thể, hiện nay, giá trị sản phẩm của ngành dệt may đang

chiếm gần 9% tổng giá trị của toàn ngành công nghiệp Việt Nam, trong đó ngành

dệt chiếm 4,7%, ngành may chiếm 4,3%. Điều đó khẳng định rõ vị trí của ngành

dệt may trong cơ cấu các ngành công nghiệp.

Bảng 5: Ngành dệt may nước ta những năm qua

Đơn vị : tỉ VND

Năm 1996 1997 1998 1999 2000

1 2 3 4 5 6

Sản phẩm dệt 7.803,7 8.838,2 11.313,5 11.197,3 13.627,2

Sản phẩm may 5.137,7 8.837,0 9.683,4 9.352,3 11.091,8

Tổng 12.941,4 17.675,2 20.996,9 20.549,6 24.719,0

Nguồn : Niên giám thống kê 2001 - Năm Thống kê

Bảng thống kê trên cho thấy, dệt và may đạt giá trị sản xuất gần tương

đương nhau. Tuy nhiên, trong xu hướng phát triển hiện nay, ngành may đang

tăng trưởng nhanh hơn, đặc biệt là may công nghiệp xuất khẩu. Trên thực tế,

ngành dệt trong nước mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn chưa đủ khả năng đáp

ứng nhu cầu của ngành may cho nên chúng ta vẫn phải nhập ngoại khá nhiều.

Theo số liệu của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, tình hình sản xuất của ngành

dệt may Việt Nam được đánh giá qua sản lượng sợi, sản lượng dệt, và sản lượng

Bảng 6: Năng lực sản xuất của ngành dệt may

may của các doanh nghiệp dệt may như sau :

Sản lượng dệt

Sản lượng may

Các loại

d.nghiệp

Sản lượng

Vải

dệt

Đan

kim

Sản

phẩm

Sản

phẩm

Tổng cộng

sợi (tấn)

(1000m2)

(100kg)

đan

thoi

đan

kim

(1000 chiếc)

(1000 chiếc)

2 3 1 4 5 6 7

Doanh 100.008 159.774 13.000 16.113 32.200 48.333

nghiệp dệt

Doanh 65.029 6.908 71.937

nghiệp may

Tổng 100.008 159.774 13.000 81.162 39.108 120.270

Nguồn : Báo cáo năng lực sản xuất Tổng Công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex)

Qua số liệu trên, có thể nói, tình hình sản xuất của ngành dệt may nước ta

đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Thực vậy, sản lượng sợi dệt năm 1991 mới

chỉ đạt 40.000 tấn, đến năm 1997 đã là 69.000 tấn và đến năm 2002 đã lên tới

con số trên 100.000 nghìn tấn. Điều đó cho thấy, khả năng sản xuất sợi, nguyên

liệu cung cấp cho các công ty may đã tăng đáng kể. Tuy nhiên, ngành dệt vẫn

phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình, không chỉ bằng lòng với

việc cung cấp cho các doanh nghiệp may trong nước như hiện nay. Trong ngành

dệt may, các cơ sở sản xuất tuy đã được phân bổ trong cả nước nhưng tình hình

phân bố đó vẫn chưa thực sự hợp lý.

Hiện nay, Tổng Công ty Dệt may Việt Nam có hơn 40 doanh nghiệp thành

viên hạch toán độc lập (tham gia sản xuất từ kéo sợi, dệt vải đến các khâu may

mặc), một công ty tài chính, 4 xí nghiệp cơ khí, 2 công ty liên doanh, 2 viện

nghiên cứu ứng dụng và 3 trường đào tạo kinh tế kỹ thuật, 2 công ty dịch vụ

thương mại ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các chi nhánh ở Đà Nẵng và

Hải Phòng. Xét trên cả nước, ngành dệt may Việt Nam hiện có gần 250 cơ sở sản

xuất dệt và 500 cơ sở sản xuất may, có cả doanh nghiệp quốc doanh và ngoài

quốc doanh, phân bố chủ yếu ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh,

Hà Nội, Đà Nẵng...

Khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể

những năm gần đây vẫn đang tăng nhanh về số cơ sở và giá trị sản phẩm. Điều đó

tạo thế phát triển cho ngành dệt may Việt Nam. Điều đáng chú ý là số lượng nhân

công thu hút vào ngành may hiện nay lên tới khoảng nửa triệu người, chiếm 20%

lực lượng lao động trong ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam (trong đó

80% là nữ). Về trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của ngành, trình độ lao

động phổ thông còn chiếm đa số với 66%, trong khi công nhân lành nghề chỉ

chiếm 28,6%. Bên cạnh đó, lực lượng lao động có trình độ trung cấp và đại học,

lực lượng chủ chốt để phát triển ngành dệt may cả về kỹ thuật sản xuất và kỹ

thuật nghiệp vụ thương mại quốc tế còn rất thấp, hiện chỉ chiếm có 5,5%. Trong

khi ở các nước khác, con số này là 15 - 20%. Như vậy, toàn ngành dệt may nước

ta đang còn thiếu 30.000 lao động có tay nghề cao, trong đó cần 400 kỹ sư công

nghệ giỏi.

2.1.3. Tóm lược tình hình công nghệ của ngành dệt may Việt Nam.

Những năm gần đây, trang thiết bị ngành dệt may đã tăng nhanh cả về số

lượng và chất lượng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô (cũ), máy 8322 của Đức

đến máy Juki của Nhật và FFAP của CHLB Đức. Sự cố gắng lớn nhất của Tổng

Công ty Dệt May Việt Nam vừa qua là việc đầu tư cải tạo, nâng cấp và thay thế

hàng loạt thiết bị, điển hình là trang bị tự động Auto-leveller máy ghép, máy ống

và hệ thống chải bông để tận dụng gần 500.000 cọc sợi chưa có điều kiện thay

thế ở các nhà máy kéo sợi.

Vừa qua, Tổng công ty cũng thay thế trên 4.000 máy dệt khổ hẹp, thiếu hệ

tự động và không đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng thời đổi mới toàn bộ thiết

bị hồ mắc đánh ống nhằm đáp ứng cho máy dệt hiện đại tốc độ cao, khổ rộng.

Thiết bị dệt kim cũng được đổi mới 55% để sản xuất đồng bộ các mặt hàng cao

cấp. Số 45% còn lại cũng được nâng cấp, bổ sung để hoàn thiện dây chuyền sản

xuất .

Để đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm cao, công nghệ may cũng nhanh

chóng được nâng cấp, các dây chuyền may được bố trí theo qui mô vừa phải (25

máy), sử dụng 34 - 37 lao động gọn nhẹ và có nhân viên kiểm tra thường xuyên,

có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay và thay đổi mẫu mã sản phẩm. Khâu hoàn tất

được lắp đặt các thiết bị đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin

học cũng được ưu tiên đưa vào những khâu sản xuất chính ở một số doanh

nghiệp.

Cùng với những cố gắng trên, mặt hạn chế điển hình nhất của ngành dệt

may Việt Nam hiện nay là năng suất lao động còn thấp, giá thành sản phẩm cao,

mẫu mã cải tiến còn chậm. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do trình độ

công nghệ chưa cao và chưa đồng bộ, tổ chức sản xuất chưa hợp lý, chưa khai

thác tốt công suất của dây chuyền công nghệ. Bên cạnh đó, năng lực thiết kế mẫu

"mốt" và kỹ thuật may công nghiệp còn yếu, khâu cắt chưa được hiện đại hoá,

còn dùng phương pháp thủ công. So với công nghệ của các nước Trung Quốc,

Thái Lan, trình độ công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu khoảng 5 - 7 năm, phần

mềm điều khiển lạc hậu từ 15 - 20 năm. Thời gian qua ngành may mới chỉ khai

thác được khoảng 50 - 60% năng lực sản xuất. Nhìn chung, trong ngành dệt may

Việt Nam hiện nay, trang bị đã được nâng cao so với chính chúng ta trước đây,

song vẫn còn thua kém nhiều nước đang phát triển trong khu vực như Trung

Quốc, Thái Lan, Malaysia...

2.1.4. Cơ cấu sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam.

Ngành dệt may Việt Nam, cũng như các nước khác, được chia ra làm 2

tiểu ngành cơ bản là dệt và may. Trước hết, sản phẩm dệt Việt Nam thường bao

gồm những sản phẩm chính như dệt thường, dệt kim, dệt len, dệt lụa, dệt gấm,

dệt thổ cẩm... Trên thực tế các sản phẩm dệt độc đáo, riêng có của Việt Nam

thường là dệt thủ công từ các chất liệu tự nhiên đặc sắc như dệt lụa tơ tằm, dệt

thổ cẩm đã tạo nên những loại vải nổi tiếng như lụa Vạn Phúc (Hà Đông), vải thổ

cẩm Mai Châu (Hoà Bình)... Tuy nhiên, những sản phẩm thủ công này chủ yếu

để giới thiệu nghề truyền thống Việt Nam, vì chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong

toàn ngành dệt. Phần lớn hàng dệt xuất khẩu của Việt Nam vẫn là các sản phẩm

dệt công nghiệp của Công ty dệt Hà Nội, Công ty dệt 8-3, Công ty dệt kim đông

xuân, Công ty dệt Nam Định. Các loại sản phẩm dệt chủ yếu từ sợi OE (dành cho

đan kim, sợi cọc thường), vải dệt thường và vải đan kim. Bảng số liệu sau đây

Bảng 7: Cơ cấu sản phẩm dệt của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (đến 2/8/2002)

cho biết sản lượng sợi của sản phẩm dệt :

Sản phẩm Số lượng

1. Sợi

* Sợi OE (chiếc) 10.178 (rotor)

* Sợi cọc (chiếc) 885.756 (cọc sợi)

2. Vải

* Vải dệt (1000m2) 159.774

* Đan kim (kg) 13.000

Nguồn : Tổng Công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex)

Bảng số liệu trên cho thấy, sản phẩm vải dệt chiếm tỷ trọng lớn hơn sản

phẩm vải đan kim, sợi OE chiếm tỷ trọng nhỏ hơn. Nhu cầu thị trường hiện nay

đang mở rộng sản phẩm đan kim, đặc biệt là thị trường Bắc Mỹ. Do đó sản phẩm

sợi OE để dệt đan kim đang được chú trọng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu lớn

của thị trường xuất khẩu hiện nay.

Thứ hai là cơ cấu sản phẩm hàng may. Ngành may phong phú hơn về cơ

cấu sản phẩm vì đây mới là chủng loại xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt

Nam. Trước đây, các sản phẩm may công nghiệp chủ yếu là các loại quần áo bảo

hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà hay đồng phục học sinh. Cho đến nay,

cơ cấu sản phẩm đã có sự thay đổi sâu sắc theo hướng đa dạng về chủng loại và

mẫu mã nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới. Các sản phẩm

thường xuyên được mở rộng, gồm cả quần áo thể thao, quần áo jean, complet,

Jacket v.v... Ngay cả sản xuất phụ liệu may cũng đã có nhiều tiến bộ đáng kể về

chủng loại và chất lượng. Các sản phẩm như chỉ khâu, khoá kéo, mex, bông tấm,

nút nhựa... cũng được mở rộng. Dưới đây là cơ cấu sản phẩm may chủ yếu của

Việt Nam hiện nay ;

Bảng 8: Cơ cấu một số sản phẩm may chủ yếu trong 9 tháng đầu năm 2002

Sản phẩm Số lượng (1000 chiếc)

1. Jacket 7.409

2. Sơ mi 10.942

3. Quần 6.193

4. Hàng dệt kim 19.744

5. Áo len 164

6. Quần áo khác 4.648

Tổng 49.100

Nguồn : Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex)

Như vậy, có thể nói, trong số những mặt hàng xuất khẩu chính, phần lớn

sản phẩm may xuất khẩu của ta vẫn là hàng dệt kim (40%), áo sơ mi (22%) và

quần áo các loại. Do nhiều khâu thao tác thủ công nên năng suất trong ngành may

Việt Nam còn thấp so với các nước. Khâu thiết kế tạo "mốt" còn yếu nên phần

lớn là may gia công hoặc theo mẫu đặt hàng của nước ngoài. Nhìn chung, các sản

phẩm dệt may mang nhãn mác của Việt Nam vẫn còn rất ít trên thị trường quốc

tế.

2.1.5. Khái quát thị trường tiêu thụ trong nước.

Thị trường dệt may nội địa Việt Nam có xu hướng mở rộng nhanh trong

những năm gần đây, bởi lẽ dân số Việt Nam hiện nay là 80 triệu người, mức sống

của người dân cũng từng bước được nâng cao. Khi cái ăn về cơ bản đã đủ, người

ta chú trọng hơn đến cái mặc, không chỉ là mặc ấm mà còn là mặc đẹp. Tuy

nhiên, gần 70% dân số Việt Nam là tầng lớp nông dân với mức sống trung bình

và trung bình thấp. Chính vì thế, để khai thác thị trường nội địa, cơ cấu sản phẩm

cần phải đa dạng hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư.

Theo đánh giá của Bộ Thương mại và Vinatex, chúng ta hiện có thể đáp

ứng được khoảng 80% nhu cầu nội địa. Khoảng 10% được phép nhập khẩu nhằm

thoả mãn nhu cầu của tầng lớp có thu nhập cao, gồm các loại quần áo "mốt", thời

trang cao cấp của Mỹ, Anh, Ý, Nhật, Hàn Quốc.

Theo Bộ Thương mại, vấn đề nổi cộm hiện nay là trên 10% nhu cầu còn lại

đang bị cuốn hút bởi hàng ngoại nhập khẩu trái phép. Nghiêm trọng nhất là tình

trạng nhiều hàng Trung Quốc, Thái Lan được nhập lậu trốn thuế, giá bán rất thấp,

cho nên làm khuynh đảo cả hàng nội địa ngay tại sân nhà.

Nguyên nhân chính của tình trạng này là :

- Hoạt động quản lý thị trường của ta chưa đủ mạnh, mặc dù đã có những

cố gắng nhưng chưa thường xuyên và triệt để.

- Những hàng nhập lậu thường rất đa dạng và hấp dẫn về mẫu mã, giá bán

lại rất rẻ cho nên đã thu hút được nhiều người tiêu dùng Việt Nam có thu nhập

thấp.

- Bản thân hàng dệt may của ta, chất lượng tuy tốt hơn nhưng giá còn cao

và chưa phong phú về phẩm cấp.

- Không ít doanh nghiệp dệt may Việt Nam, do quá tập trung vào mục tiêu

xuất khẩu nên đã bỏ ngỏ thị trường nội địa.

Năm 2002, Vinatex tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, tiếp tục

giành thêm nữa khách hàng trong nước đã một thời gian bị bỏ quên. Mục tiêu đến

năm 2005 của Vinatex là phát triển 2002 đại lý tiêu thụ trên toàn quốc, thu hút

hơn nữa khách hàng trong nước tiêu thụ 50% sản phẩm của Tổng Công ty.

2.2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM

NHỮNG NĂM QUA

2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

2.2.1.1 Tổng quát về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam những

năm qua.

Như ở chương I đã đề cập, trong thương mại quốc tế về hàng dệt may, cơ

cấu sản phẩm bao gồm nhiều chủng loại rất phong phú và đa dạng. Như vậy việc

thống kê hàng trăm chủng loại một cách chi tiết là nội dung rất phức tạp. Do đó

người ta thường tính tổng quát kim ngạch xuất khẩu chung của các loại sản phẩm

dệt may hàng năm. Bảng dưới đây sẽ phản ánh tổng quát tình hình đó.

Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần đây

Năm Kim ngạch XK (triệu USD % tăng so với năm trước

1995 850 -

1996 1.150 35,3

1997 17,4 1.135

1998 7,4 1.450

1999 19,3 1.730

2000 8,7 1.880

2001 5,1 1.975

2002 (ước) 38,2 2.730

2002/1995(%) - 321.2

Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại, năm 2001

Từ bảng số liệu thống kể trên, có thể rút ra một số nhận xét chủ yếu sau:

- Một là, trong suốt 8 năm qua (1995 - 2002), kim ngạch xuất khẩu hàng

dệt may của Việt Nam vẫn liên tục tăng, năm sau đều vượt năm trước, tuy mức

tăng không giống nhau qua từng năm nhưng động thái tăng trưởng quán xuyến

đó đã chỉ xu hướng phát triển xuất khẩu dệt may của Việt Nam ổn định hơn hẳn

so với tình hình xuất khẩu dệt may của cả thế giới.

- Hai là, trong xu hướng tăng trưởng liên tục đó, đáng chú ý hơn cả là hai

điểm sáng nổi bật vào hai năm 1996 và 2002 với mức tăng trưởng kỷ lục là

35,3% và 38,2%. Đó cũng là điều rất khó đạt được trong thương mại hàng hóa

thế giới suốt nhiều năm qua.

- Ba là, đối lập với những mức tăng kỷ lục trên, mức tăng thấp nhất là hai

năm 1998 và 2001 với 7,4% và 5,1%. Như đã nêu ở chương 1, đó cũng là thời

điểm do ảnh hưởng xấu của khủng hoảng tài chính châu Á (1997- 1998) và sự

kiện khủng bố 11- 9 ở Mỹ (2001) đã làm cho kinh tế, thương mại thế giới biến

động, theo đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may thế giới giảm sút. Trong khi đó,

xuất khẩu dệt may Việt Nam vẫn tăng.

- Bốn là, nhìn chung cả giai đoạn trên, kim ngạch xuất khẩu năm 2002

gấp 3,2 lần so với năm 1995, tốc độ tăng bình quân đạt 19,3%/năm.

2.2.1.2. Phân tích cụ thể tình hình xuất khẩu hàng dệt may trong năm 2002

Như đã nêu trên, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta tăng

trưởng đạt mức cao nhất với trên 38%, trong khi đó kim ngạch buôn bán dệt may

của toàn thế giới hầu như không tăng đáng kể. Vậy lý do dì dẫn đến mức tăng

trưởng đột ngột đó ?

Yếu tố có ý nghĩa quyết định việc Việt Nam mở rộng hàng dệt may vào

Mỹ, thị trường nhập khẩu lớn nhất của thế giới. có thể nói, năm 2002 là năm mở

ra nhiều cơ hội cho ngành dệt may nước ta, là năm thành công lớn trong việc đẩy

mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Để khai thác triệt để hiệp định Thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ, năm 2002 được xác định là năm bản lề cho xuất khẩu dệt

may Việt Nam đột phá vào thị trường Mỹ, do được hưởng hạn ngạch tự do và

thuế suất ưu đãi. Theo sự chỉ đạo của Nhà nước, từ đầu năm, ngành dệt may đã

có bước chuẩn bị chu đáo nhằm chớp cơ hội ngay khi Quy chế Quan hệ thương

mại bình thường giữa hai nước có hiệu lực. Việc tiếp đón và đàm phán với Hiệp

hội dệt may Hoa Kỳ sang Việt Nam đầu năm 2002 là thắng lợi quan trọng..Khi

môi trường pháp lý được thông thoáng trong kinh doanh, các bước chuẩn bị tốt

bằng sự nỗ lực và tính năng động của ngành dệt may rất cần thiết. Cụ thể, đến

tháng 2/2002, Vinatex đã có 10.178 Rotor OE, 870.781 nồi cọc với năng lực sản

xuất 100.008 tấn sợi. Để chuẩn bị vải, Vinatex có 4911 máy dệt thoi, 1.036 máy

dệt kiếm, 349 máy dệt nước… với năng lực sản xuất gồm 160 triệu m2 vải/năm

và 13 triệu kg vải đan kim.

Trong ngành may, cũng tính đến tháng 2 năm 2002, Vinatex còn có

45.400 thiết bị may với năng lực sản xuất đạt 120,3 triệu sản phẩm với các loại

về hàng dệt kim, sơ mi, quần, jacket…

Do những cơ hội khách quan và nỗ lực chủ quan của bản thân ngành dệt

may, kết quả mở rộng xuất khẩu vào thị trường Mỹ năm 2002 đã đạt được 909

triệu USD, gấp gần 19 lần năm 2001. Ngành dệt may Việt Nam sau một năm đẩy

mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã tự khẳng định được mình và tạo đà cho

những năm tới với nhiều hứa hẹn…

2.2.2. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam

2.2.2.1. Những chủng loại xuất khẩu chủ yếu trong thời gian qua:

Trong thời gian qua, căn cứ vào trình độ công nghệ và khả năng đáp ứng

của các doanh nghiệp xuất khẩu về chất lượng và số lượng, ngành dệt may của

Việt Nam thường tập trung vào một số chủng loại hàng xuất chủ yếu có khả năng

thực thi tốt nhất, đó là 5 chủng loại sau:

(1) Jacket (gồm các loại nam nữ, độ tuổi khác nhau).

(2) Sơ mi (gồm các loại dài tay, cộc tay, nam nữ và theo độ tuổi).

(3) Quần Âu (gồm các loại quần nam nữ, theo độ tuổi, quần dài, soóc..

(4) Hàng dệt kim gồm các loại quần áo dệt kim như các loại trên, vải các

loại kể cả các loại vải may đồ bảo hộ lao động , tơ tằm, màn các loại, khăn bông,

ga gối….)

(5) Các loại khác (gồm nhiều loại phong phú như quần áo bảo hộ lao động,

quần áo thể thao, đồ lót nam nữ, quần áo ngủ, găng tay, mũ vải các loại…)

Cùng với 5 chủng loại hay nhóm hàng chủ yếu trên, mỗi doanh nghiệp

khác nhau (theo từng khu vực như quốc doanh, tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài ), lại có cơ cấu hàng xuất khẩu cụ thể klhác nhau, tuỳ thuộc vào

trình độ công nghệ, quy mô kinh doanh khả năng chuyên môn hoá, nhu cầu từng

thị trường cụ thể …

Thực vậy, với quy mô kinh doanh lớn, toàn Tổng Công ty (Vinatex) xây

dựng cơ cấu hàng xuất khẩu là:

+ Hàng dệt kim các loại thể thao, bảo hộ lao động …..

+ Sơ mi các loại (theo giới độ tuổi …)

+ Quần Âu các loại (theo giới, độ tuổi ..)

+ Jacket các loại (nam nữ, tuổi tác ..)

+ Găng tay da

+ Mũ các loại

+ Các loại khác

Trên thực tế, Công ty may Việt Tiến xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhóm

hàng Jacket rồi đến sơ mi, quần âu. Trong khi đó, Công ty may Thăng Long lại

xuất khẩu lớn sang Mỹ và Đức nhóm hàng quần Âu. Công ty dệt Thành Công

thường xuất khẩu đi Nhật Bản một lượng lớn Poloshirt, Tshirt thun (4,5-5 triệu sản phẩm /năm ) và vải may bảo hộ lao động (trên 2 triệu m2/năm) .v.v…

Rõ ràng cơ cấu chung về dệt may toàn ngành là 5 chủng loại chủ yếu trên,

nhưng cơ cấu của từng doanh nghiệp cụ thể lại có sự khác nhau. Đó là điều tất

yếu khách quan nhằm phát huy thế mạnh của từng doanh nghiệp để thích ứng

năng động với từng thị trường xuất khẩu.

2.2.2.2. Thực hiện cơ cấu về hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.

Điểm nổi bật nhất hiện nay là cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của ta còn

bị hạn chế rất đáng kể, danh mục các nhóm hàng và mặt hàng còn nghèo, mặc dù

các doanh nghiệp Việt Nam đã rất cố gắng.

Trên thực tế, so với cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu rất phong phú trên

thị trường các nước phát triển, chúng ta còn thiếu vắng khá nhiều nhóm hàng cần

thiết. Lý do chủ yếu vận là trình độ công nghệ dệt may của các nước còn thấp.

Năm 2002, trong cơ cấu xuất khẩu dệt may của Việt Nam, nổi lên 10 mặt

Bảng 10: Mười mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2002

hàng chủ yếu sau:

(Đơn vị tính: triệu USD)

Số TT Mặt hàng Giá trị FOB

1 Áo dệt kim nữ/bé gái 55,249

2 Áo dệt kim nam/bé trai 49,332

3 Áo len nữ 47,886

4 Quần nữ 45,318

5 Jacket nữ 34,050

6 Quần nam/bé trai 26,651

7 Jacket nam 26,445

8 Áo choàng 21,816

9 Sơ mi nam 12,090

10 Áo len nam/bé trai 9,868

Tổng cộng: 328,705

Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu năm 2002 của Vinatex (7)

Như vậy, nếu con số kim ngạch xuất khẩu áo len nam được tính tròn thì

năm 2002 Việt Nam có 10 mặt hàng dệt may xuất khẩu đạt mức kim ngạch xuất

khẩu từ 10 triệu USD, trong đó cao nhất là mặt hàng áo dêt kim nữ với kim ngạch

trên 55 triệu USD.

2.2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu và kênh phân phối

2.2.3.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam

Trong thời gian qua (1995 - 2002), Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang

hầu hết các khu vực thị trường thế giới như Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu

Phi. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu được tập trung chủ yếu vào các nước phát

triển thuộc Bắc Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, thứ đến các nước phát triển

châu Á (gồm Đài Loan, Hàn Quốc và khối ASEAN) rồi các khu vực khác thuộc

châu Mỹ - Latinh và Châu Phi. Bảng thống kê sau sẽ phản ánh cũ thể hơn tình

Bảng 11: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam những năm qua

Đơn vị

tính: %

hình đó.

Năm

1996

1999

1995

1997

1998

2000

2001

2002

Thị trường

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

Toàn bộ kim ngạch xuất khẩu

850

1.150

1.350

1.430

1.730

1.880

1.975

2.730

(triệu USD)

Tỷ lệ phân bố (%)

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

(1) Liên minh châu Âu (EU)

35,5

36,6

43,0

51,1

49,2

47,5

46,0

21,8

(2) Nhật Bản

45,0

44,6

38,5

32,0

33,4

32

33,0

19,5

(3)Các nước ĐPT châu Á

17,5

16,6

16,8

13,9

16,6

16,1

16,5

25,5

Trong đó : ASEAN

2.0

1,9

1,2

2,0

2,5

2,2

5,5

3,4

(4) Bắc Mỹ

1,0

1,2

1,5

1,6

1,9

2,5

33,3

1,3

(5) Các khu vực khác

1,0

1,0

2,5

1,4

2,5

2,0

1,4

1,5

Nguồn : Báo cáo hàng năm của Hiệp hội Dệt - May Việt Nam

Qua số liệu trên, ta thấy, trong các năm qua (trừ năm 2002), phần xuất

khẩu của ta vào Liên minh châu Âu (EU) thường đạt mức cao nhất , chiếm bình

quân các năm gần 45%, đứng thứ hai là phần xuất khẩu sang Nhật Bản, chiếm tỷ

trọng trung bình hàng năm gần 37%. Phần xuất khẩu sang các nướcđang phát

triển châu Á xếp thứ ba, trung bình chiếm 16%, trong đó riêng các khối nước

khối ASEAN gần 2,5%. Xuất khẩu vào khu vực Bắc Mỹ giai đoạn 1995 - 2001,

trừ năm 2002 vẫn có xu hướng tăng ổn dịnh nhưng quá nhỏ, chỉ chiếm tỷ lệ 2,5.

Các khu vực còn lại khác: Mỹ - Latinh, Châu Phi chiếm tỷ trọng không đáng kể,

từ 1 - 2%.

Riêng năm 2002, không chỉ kim ngạch tăng đột biến (với mức kỷ lục gần

40% như đã nêu trên, cơ cấu thị trường xuất khẩu dệt may của ta cũng có những

thay đổi sâu sắc. Trước hết, tỷ trọng xuất nhập khẩu vào thị trường Bắc Mỹ tăng

tới 33,3% so với 2,5% năm 2001. Đó là do kim ngạch tăng rất mạnh, riêng phần

xuất khẩu vào Mỹ gấp 19 lần so với năm 2001. Nguyên nhân lớn nhất là do năm

đầu tiên Việt Nam được hưởng Quy chế bình thường hóa quan hệ thương mại

giữa hai nước trên cơ sở Hiệp định Thương mại Vịêt Mỹ bắt đầu có hiêu lực từ

01- 1- 2002.

Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu vào hai thị trường truyền thống (EU) và

(Nhật Bản) trong nhiều năm qua, nhưng tới năm 2002 bị giảm đáng kể, từ trên

80% xuống cùng hơn 40% (giảm một nửa), trong đó thị trường EU giảm nhiều

hơn thị trường Nhật Bản. Môt trong những nguyên nhân chính là các doanh

nghiệp Việt Nam tập trung nhiều nỗ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ vì tạm thời

thị trưòng Mỹ chưa quy định hạn ngạch, đồng thời lại được hưởng Quy chế

Thương mại bình thường từ phía Mỹ với mức thuế suất MFN giảm đáng kể,

thuận lợi cho nhà xuất khẩu. Trong khi đó, EU là thị trường có qui định hạn

ngạch chặt chẽ, Nhật Bản là thị trường cạnh tranh cao do mức nhập khẩu chỉ

bằng 1/3 so với thị trường EU.

Tỷ trọng xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam là các nước đang phát triển ở

châu Á, trước hết là Đài Loan, (chiếm 11%), Hàn Quốc (chiếm 7,5%) và khối

ASEAN (chiếm 5,5%). Trong năm 2002, phần xuất khẩu sang tất cả các nước

đang phát triển trên ở châu Á ngày cũng tăng lên đáng kể, chiếm tỷ trọng gần

25% so với trên 16% của năm 2001. Lý do chính của sự gia tăng này là tình hình

kinh tế của châu Á phát triển khả quan, hoạt động nhập khẩu dệt may cũng được

mở rộng.

Ngoài ra, các thị trường xuất khẩu còn lại khác của Việt Nam như châu

Mỹ Latinh và Châu Phi, trong năm 2002, cũng vẫn là khu vực thị trường tiêu thụ

nhỏ bé (1 - 2%) và không có nhiều biến động đáng kể.

Từ phân tích trên cho thấy, Bắc Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng đầu của

Bảng 12: Cơ cấu xuất khẩu cụ thể vào thị trường Bắc Mỹ qua các năm

Việt Nam trong năm 2002, trong đó thị trường Mỹ chiếm đại bộ phận.

1996 1997

1998

2001 1999

2002 2000

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Mỹ 8,71 23,04 26,34 34,71 49,57 47,67 509,23

Canada 8,07 18,22 21,50 22,76 24,24 30,15 28,44

Bắc Mỹ 16,89 41,26 50,04 59,27 79,46 87,14 560,67

Nguồn: Báo cáo thống kê. Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại Việt Nam

Như vậy, chúng ta đang có những thuận lợi đáng kể trong quan hệ Thương

mại quốc tế hiện nay đặc biệt đối với thị trường Mỹ, từng bước đột phá mở rộng

xuất khẩu trong năm 2002. Thực tế cho thấy, thị trường mục tiêu xuất khẩu dệt

may của Việt Nam là những nước phát triển Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản với mức

nhập khẩu hàng năm đều rất lớn và khá ổn định, hiệu quả xuất khẩu cao.

2.2.3.2. Đặc điểm về hệ thống phân phối của thị trường mục tiêu xuất khẩu.

* Thị trường Bắc Mỹ.

Tại đây,đặc biệt ở thị trường nước Mỹ, có nhiều kênh bán hàng nhập khẩu

rất phong phú như:

- Kênh phân phối bán sỉ qua cửa hàng bán lẻ. Loại kênh này thường tiêu

thụ hàng dệt may kết hợp đồ trang sức, đồ chơi, tạp hoá. Loại kênh này nhận

hàng trực tiếp từ nhà nhập khẩu và chuyển đến những người kinh doanh nhỏ,

đảm bảo hiệu quả cao.

- Kênh bán hàng trực tiếp cho nhà phân phối. Theo đó, nhà xuất khẩu bán

hàng cho nhà phân phối với hệ thống rộng khắp, đảm bảo cho việc tiêu thụ nhanh

chóng.

- Kênh bán trực tiếp cho các nhà công nghiệp. Họ trực tiếp mua hàng của

một số nhà thương nhân nhỏ ở nước sở tại khi không có điều kiện giao dịch trực

tiếp với nhà xuất khẩu nước ngoài.

- Kênh bán lẻ, bán sỉ qua bưu điện. Loại kênh này thường áp dụng cho sản

phẩm nhỏ, không đắt lắm, có thể chuyển đi xa mà không cần trung gian.

- Kênh bán lẻ theo Catalogue. Chìa khoá loại kênh này là phải có được địa

chỉ rõ ràng của những công ty có nhu cầu thường xuyên.

- Kênh phân phối thông qua các cuộc trưng bày các sản phẩm trên truyền

hình. Đây là kiểu phân phối tương đối mới nhưng phải có hàng tức thời và bán

hàng theo giá công bố với điều kiện thông tin nhanh chóng.

- Kênh phân phối qua đại lý bán hàng. Theo đó, đại lý phải có quan hệ tốt

cả hai chiều với nhà xuất khẩu nước ngoài và có hệ thống phân phối bán buôn,

bán lẻ trong nước.

- Kênh phân phối qua "buổi giới thiệu bán hàng" (Bali Imports Party)

.Theo kênh này, nhà nhập khẩu mua hàng từ nhà xuất khẩu rồi mời những người

thân quen đến dự buổi giới thiệu bán hàng tại chỗ và trả hoa hồng cho họ đã đến

dự rồi giới thiệu bán hàng cho mình.

- Kênh bán hàng tại chợ ngoài trời (Flea Market). Những hãng lớn tiến

hành nhập khẩu rồi bán hàng tại chợ trời với khối lượng lớn và trên diện rộng

trong cả nước.

- Kênh phân phối qua hội chợ triển lãm. Theo đó, doanh nghiệp nhập khẩu

hàng hoá về kho của mình và thường xuyên đi dự hội chở triển lãm trong cả nước

để tìm kiếm các đơn hàng rồi gửi hàng qua bưu điện. Kiểu này thường được áp

dụng theo quy mô nhỏ đối với hàng đặc chủng, hàng mới và giá cao.

Một số công ty bán lẻ chủ yếu hàng dệt may ở Bắc Mỹ.

Mỹ là thị trường tiêu thụ khổng lồ. Do vậy, vai trò của hệ thống công ty

bán lẻ có tác động lớn trong việc tiêu thụ nhanh chóng và hiệu quả. Dưới đây có

Bảng 13: Nhứng công ty bán lẻ chủ yếu hàng dệt may ở Mỹ hiện nay

thể giới thiệu những công ty bán lẻ tiêu biểu đang hoạt động ở Mỹ :

Số TT Tên Công ty Doanh số bán Thị phần ở Mỹ

(Tỷ USD) (%)

(1) (2) (3) (4)

1 Wal - mart stores 34,0 12,4

J.C. penney Co 2 22,8 8,5

Federated Derrpartment Stores 3 14,5 5,5

4 Gap.Inc 11,6 4,4

5 Tarrget Stores 10,1 3,8

6 The Limited 9,7 3,7

7 May Department Stores 9,7 3,9

8 Lears Roebuk và Co 8,2 2,9

9 Kmart 7,2 2,6

Tổng 127,8 47,5

Nguồn: Ira Kalish, Retail Forward reported in Women's Wear Daily

April 11, 2002 and The Trade Partmenship

* Thị trường EU

- Đặc điểm chung :

EU là thị trường chung của 15 quốc gia được tự do lưu chuyển hàng hoá,

dịch vụ, vốn và lao động. Tổng thể 15 nước thành viên hình thành những thị

trường có những đặc điểm riêng. Cũng vì thế, EU là thị trường có nhu cầu hết sức

đa dạng.

Trong những năm gần đây, có nhiều sản phẩm tiêu dùng mới đang cạnh

tranh gay gắt với hàng dệt may như máy tính, điện thoại di động cũng như du

lịch, giải trí khiến nhu cầu dệt may khó tăng trưởng nhanh hơn. Do đó, các Công

ty cố gắng chiếm lĩnh khách hàng bằng những sản phẩm có chất lượng cao. Nhà

sản xuất đến nhà bán lẻ quan tâm đến nhà phân phối, hậu cần và Marketing sao

cho có hiệu quả nhất.

- Về hệ thống phân phối, cùng các cấu trúc đa dạng về thị trường, mỗi

nước lại có truyền thống và cách thức riêng trong việc hình thành hệ thống kênh

tiêu thụ sản phẩm. Sự phát triển cao theo kiểu phân phối của Mỹ thường được

thể hiện tập trung hơn ở Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, và Phần Lan. Đặc

điểm trong hệ thống kênh phân phối ở Pháp là sự liên kết từng chuỗi cửa hàng

vào từng tập đoàn lớn. Mặt khác có khả năng liên kết giữa các chuỗi cửa hàng đó,

tạo nên sự gắn kết rộng lớn hơn trong các kênh tiêu thụ sản phẩm.

Ở Đức, Bỉ và Đan Mạch đang hình thành hai xu hướng chủ yếu phát triển

trong hệ thống phân phối: Sự hoạt động của các nhà bán lẻ độc lập và sự liên kết

theo từng chuỗi cửa hàng. Các nước phía Nam gồm Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào

Nha và Hy Lạp, lại duy trì hệ thống phân phối qua các cửa hàng bán lẻ cá thể

nhỏ, đồng thời tích cực thiết lập các trung tâm tiêu thụ lớn theo kiểu tập đoàn

siêu thị lớn.

* Thị trường Nhật Bản:

- Khái quát chung :

Hệ thống kênh phân phối khá phức tạp, đội ngũ nhân viên đông, chi phí

tiêu thụ sản phẩm tương đối cao so với Bắc Mỹ và Eu. Trong những năm gần

đây, do sự đòi hỏi của toàn xã hội, hệ thống kênh phân phối đã được chấn chỉnh

tích cực nhưng vẫn phải tiếp tục hoàn thiện tốt hơn nhằm kiểm soát có hiệu quả

hàoáo và dịch vụ nhập khẩu.

- Các nhà phân phối :

Nét nổi bật là các nhà phân phối Nhật Bản thường rất coi trọng mối quan

hệ với các nhà cung cấp truyền thống nội địa, đồng thời thận trọng và dè dặt

trước các nhà xuất khẩu nước ngoài, ngay cả khi sản phẩm của họ có thể tốt hơn

và giá cả hấp dẫn hơn. Các nhà phân phối Nhật Bản rất cảnh giác việc các nhà

cung cấp nước ngoài không giao hàng đúng hạn, khó cung cấp tốt dịch vụ sau

bán hàng và do đó dễ có thể phát sinh rủi ro.

Do vậy, cùng với việc chiếm lĩnh lòng tin của các nhà phân phối Nhật Bản,

rất cần phải thuyết phục được lòng tin của các nhà cung cấp ngay trong nước

Nhật.

- Về hệ thống kênh bán lẻ ở Nhật Bản hiện nay khoảng một nửa lượng tiêu

thụ hàng dệt may được thực hiện thông qua các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Các cửa

hàng này có mối quan hệ mật thiết với các nhà sản xuất trong nước về các ưu đãi

tài chính, những tài trợ về hạ tầng cơ sở và Makerting.

Hiện nay, khoảng hơn một nửa hàng dệt may xuất khẩu vào Nhật Bản

được phân phối thông qua các cửa hàng lớn, cửa hàng bách hoá và các cửa hàng

giảm giá. Bên cạnh đó, kênh phân phối ở Nhật Bản thông qua nhập khẩu trực tiếp

ngày càng phổ biến.

2.2.4. Phương thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

2.2.4.1. Gia công xuất khẩu

Một cách ngắn gọn, gia công xuất khẩu là một phương thức kinh doanh

quốc tế, theo đó bên đặt gia công (là khách hàng nước ngoài ) chịu trách nhiệm

cung cấp toàn bộ vải và phụ liệu cho bên nhận gia công theo định mức tiêu hao

nguyên liệu; còn bên nhận gia công (doanh nghiệp Việt Nam ) có nghĩa vụ tiến

hành sản xuất để giao lại sản phẩm và được nhận một khoản tiền công theo hợp

đồng thoả thuận.

Trong những năm qua (1995 - 2002) hoạt động kinh doanh xuất khẩu của

hàng dệt may Việt Nam vẫn tiến hành chủ yếu theo phương thức gia công xuất

khẩu. Cụ thể hơn, phương thức này chiếm gần 80% tổng kim ngach xuất khẩu dệt

may hàng năm.

Sau khi sản xuất xong, khách hàng nước ngoài nghiệm thu sản phẩm xuất

khẩu, đồng thời trả lại cho doanh nghiệp Việt Nam tiền gia công như đã thoả

thuận.

Nhìn chung, đối với doanh nghiệp, phương thức gia công xuất khẩu có

những ưu điểm và nhược điểm cơ bản sau đây :

Ưu điểm :

(cid:31) Thứ nhất, doanh nghiệp không phải ứng trước vốn mua nguyên liệu vì

được khách hàng nước ngoài cung cấp. Điều này rất có ý nghĩa về tài

chính vì khi hạn hẹp về tài chính nhưng doanh nghiệp vẫn có thể tiến hành

được hoạt động kinh doanh thông qua phương thức gia công xuất khẩu.

(cid:31) Thứ hai, doanh nghiệp đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động.

Xu thế chung của các khách hàng nước ngoài khi đặt gia công bao giờ

cũng muốn tìm đối tác tin cậy để đặt hàng thường xuyên. Khách hàng

thường đặt hàng liên tục và lên kế hoạch đặt hàng gia công cụ thể hàng

năm. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện bố trí kế hoạch sản xuất,

ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động.

(cid:31) Thứ ba, doanh nghiệp tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật may của khách hàng

nước ngoài. Khi thực hiện các hợp đồng gia công, khách hàng thường

xuyên cử chuyên gia kỹ thuật đến hướng dẫn kỹ thuật may. Nhờ vậy,

doanh nghiệp làm gia công tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật sản xuất của

nước ngoài cũng như kinh nghiệm tổ chức, kỹ năng quản lý doanh nghiệp

và nắm bắt được nhu cầu của thị trường thế giới.

(cid:31) Thứ tư, việc thanh toán tiền gia công của doanh nghiệp được đảm bảo.

Trong điều kiện thanh toán của hợp đồng gia công thường quy định :

Khách hàng mở L/C hoặc chuyển tiền từ 30 - 70 ngày trước thời hạn giao

hàng. Điều kiện này bắt buộc khách hàng thanh toán chắc chắn phí gia

công. Nếu khách hàng không thực hiện đúng, doanh nghiệp làm gia công

không tiến hành giao hàng như quy định. Mặt khác, quy định trên giúp

doanh nghiệp gia công bố trí năng lực sản xuất, đẩy nhanh tiến độ giao

hàng và sớm thu hồi phần vốn của mình.

Nhược điểm:

(cid:31) Một là, lợi nhuận trong phương pháp gia công xuất khẩu thường chỉ đạt

mức thấp. Thực chất của phương thức gia công là phương thức làm thuê,

lấy công làm lãi nên lợi nhuận không cao, thường chỉ đạt 5% giá trị gia

công. Vòng quay vốn chậm vì sản xuất một đơn hàng thường phải mất từ

30-45 ngày và 15-30 ngày cho việc thanh toán qua ngân hàng nên vốn thu

hồi chậm.

(cid:31) Hai là, doanh nghiệp thường rơi vào tình trạng bị động, hoàn toàn phụ

thuộc phía nước ngoài về việc cung cấp nguyên phụ liệu. Nhiều trường

hợp khách hàng gửi nguyên vật liệu không đồng bộ nên các doanh nghiệp

trong nước không thể triển khai sản xuất mà phải chờ đầy đủ nguyên vật

liệu mới gia công được.

(cid:31) Ba là, doanh nghiệp chưa có điều kiện tiếp cận và giao dịch với nhà xuất

khẩu nước ngoài, chưa có điều kiện khảo sát thực tế thị trường thế giới...

2.2.4.2. Xuất khẩu trực tiếp

Phương thức xuất khẩu trực tiếp còn gọi là "tự doanh" hay "mua đứt bán

đoạn" là phương thức chiến lược của Ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn

2000-2010. Hiện nay phương thức này chỉ chiếm trên 20% trong kim ngạch xuất

khẩu hàng năm. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng tăng dần tỷ trọng của

phương thức xuất khẩu trực tiếp lên tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu vào các

năm 2004 - 2005.

Ưu điểm :

(cid:31) Chủ động bố trí và lên kế hoạch sản xuất với cương vị ông chủ quyết định

toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

(cid:31) Lợi nhuận cao hơn hình thức gia công vì lẽ doanh nghiệp tìm được những

nguồn cung cấp nguyên liệu với giá cả hợp lý và chủ động tiết kiệm tốt

nhất trong khâu định mức tiêu hao nguyên liệu.

Nhược điểm:

(cid:31) Doanh nghiệp phải tự đầu tư vốn mua nguyên liệu và mọi chi phí đầu vào,

tự lo thị trường xuất khẩu cho sản phẩm đầu ra, nghĩa là phải lo tất cả từ A

đến Z trong kinh doanh xuất khẩu.

(cid:31) Doanh nghiệp phải tự chịu độ rủi ro cao.

2.3. VẤN ĐỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM XUẤT

KHẨU

2.3.1. Đặc điểm chủ yếu về cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất

khẩu

Cạnh tranh luôn luôn tồn tại đồng hành cùng với sự tồn tại và phát triển

của nền kinh tế thị trường. Tham gia vào thị trường hàng hoá nói chung cũng như

thị trường dệt may nói riêng, doanh nghiệp đương nhiên phải chấp nhận cạnh

tranh như một quy luật. Tuy nhiên, ngoài quy luật cạnh tranh chung, trong kinh

doanh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường thế giới còn có những đặc điểm

riêng cụ thể, trước hết phải kể đến những đặc điểm chủ yếu sau :

Thứ nhất, nhu cầu về hàng dệt may rất đa dạng. Hàng dệt may trước hết

thuộc loại nhu cầu thiết yếu hàng ngày của mọi người ở tất cả các nước. Khác với

lương thực như lúa gạo, lúa mì hay các loại thực phẩm khác, hàng dệt may không

chỉ thuộc loại nhu cầu vật chất thiết yếu thông thường mà còn gắn liền với nhu

cầu tinh thần, trong đó phải kể đến nhu cầu văn hoá, nhu cầu danh dự. Như vậy,

có thể nói, hàng dệt may liên quan mật thiết đến tất cả 5 cấp loại nhu cầu chủ yếu

trong Marketing là : nhu cầu vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu

danh dự và nhu cầu tự khẳng định.

Ngoài 5 cấp loại trên, tất cả mọi người, ngay cả sau khi từ giã cuộc đời và

trong "hành trình sang thế giới bên kia", vẫn còn nhu cầu may mặc một cách đầy

đủ, tươm tất (được xếp vào cấp nhu cầu thứ 6, nhu cầu tâm linh). Đó cũng là một

trong những đặc trưng riêng của hàng dệt may.

Theo các chuyên gia Marketing, cần hiểu đầy đủ và mở rộng nhu cầu hàng

dệt may theo các nghĩa : mặc ấm và mặc đẹp. Nhớ rằng, nhu cầu mặc ấm cũng

không chỉ đơn thuần theo nghĩa đen là để chống rét hay đảm bảo an toàn sức

khoẻ mà còn bao hàm cả tư chất, nhân cách riêng của mỗi người. nhu cầu "mặc

đẹp" càng được mở rộng hơn nữa, như : đẹp phải trang nhã, thanh tao, đẹp phải

dịu dàng, đẹp phải kín đáo, sành điệu, oai phong, đẹp phải hợp hoàn cảnh (y phục

xứng kỳ đức)... nhu cầu mặc đẹp theo nghĩa rộng ấy từ trang nhã, lễ nghi, uy lực,

đến đẳng cấp, địa vị... cũng được bộc lộ sự đa dạng theo giới tính, độ tuổi, tôn

giáo v.v... Cũng do vậy, bản thân nhu cầu về hàng dệt may đã bao hàm tính văn

hoá và tính thời trang rất cao, tinh tế và rất phong phú. Nắm bắt được nhu cầu rất

đa dạng đó, các nhà tạo 'mốt" nổi tiếng, các hãng lớn đã dày công tìm tòi để đưa

ra những mẫu mã mới, cải tiến, cách điệu có khả năng cạnh tranh cao và chiếm

lĩnh thị trường rất hữu hiệu.

Tóm lại, toàn bộ nội dung phân tích tóm tắt trên muốn làm rõ:

- Nhu cầu về hàng dệt may là rất lớn và ngày càng mở rộng.

- Nhu cầu về hàng dệt may là rất phong phú và đa dạng, gồm nhu cầu vật

chất và nhu cầu tinh thần, trong đó có cả nhu cầu tâm linh.

- Cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may, do đó cũng rất đa dạng và

khốc liệt.

- Năng lực cạnh tranh không chỉ đơn thuần bằng chất lượng và giá cả như

các mặt hàng khác mà còn phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu theo từng khía cạnh

nêu trên với nội dung rất phong phú, trong đó tính văn hoá và thời trang là nội

hàm có ý nghĩa quyết định.

- Nếu không ý thức được đầy đủ nhu cầu phong phú trên thì không thấy

được tính cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh khi xuất khẩu

hàng dệt may ra thị trường thế giới, nhất là thị trường các nước phát triển cao

hiện nay.

Thứ hai là tương quan cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu.

Nếu không kể lĩnh vực buôn bán tư liệu sản xuất thuộc ngành dệt may, thị trường

nhập khẩu hàng tiêu dùng dệt may hiện nay chủ yếu vẫn là các nước phát triển

thuộc 3 khu vực Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản. Những năm gần đây, nhập khẩu của

các nước phát triển thường chiếm tỷ trọng trên dưới 80% tổng nhập khẩu toàn

cầu. Ngược lại, các nước xuất khẩu hàng tiêu dùng dệt may chủ yếu là nhóm

nước đang phát triển châu á.

Trong cuộc cạnh tranh giữa hai nhóm nước xuất khẩu và nhập khẩu này,

nhìn chung lợi thế cạnh tranh vẫn thuộc về nhóm nước phát triển. Xét trên toàn

cục, lợi thế đó được đánh giá thông qua những nội dung chủ yếu sau:

- Nhóm nước phát triển là quê hương của ngành công nghiệp dệt may. Như

ở chương một đã nói, bước phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dệt may

thế giới được gắn liền với sự ra đời và phát triển nhảy vọt của đại công nghiệp tư

bản chủ nghĩa ở các nước tư bản Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Từ sau Thế chiến

hai (1939 - 1945) công nghiệp dệt may được chuyển dịch mạnh mẽ sang các

nước mới phát triển (NICs) như Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan, Hongkong... Như

vậy toàn bộ hoạt động sản xuất và thương mại quốc tế về hàng dệt may đã tồn tại

ở các nước phát triển từ nhiều thế kỷ. Hiện nay, nhóm nước phát triển duy trì sản

xuất và tự thoả mãn khoảng gần 1/2 tiêu dùng dệt may trong nước (chủ yếu

chủng loại chất lượng cao), hơn một nửa còn lại được giải quyết bằng con đường

nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Do trình độ kinh tế chung và mức sống

đều rất cao cho nên các nước phát triển khi nhập khẩu từ các nước đang phát

triển, luôn luôn đòi hỏi chất lượng rất nghiêm ngặt theo chất lượng cao trong

nước. Do vậy, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu thực chất là

cuộc cạnh tranh không cân sức giữa nhóm nước đang phát triển và nhóm nước

phát triển, giữa một bên là những doanh nghiệp sinh sau đẻ muộn với trình độ

tích tụ và tập trung sản xuất còn rất thấp, với một bên là các đại gia tiền bối, có

trình độ tích tụ và tập trung cao, lại có kinh nghiệm tích luỹ qua nhiều thế kỷ.

- Các nước phát triển vẫn giữ độc quyền về công nghệ sản xuất trong

ngành dệt may. Hàng năm các nước phát triển vẫn xuất khẩu công nghệ may sang

các nước đang phát triển. Trong chiến lược chung, nhóm nước phát triển thường

chỉ xuất khẩu những dây chuyền công nghệ thế hệ thứ 2 hoặc thứ 3, nghĩa là

những dây chuyền công nghệ thường lạc hậu trên dưới 5 năm so với công nghệ

mới nhất thuộc thế hệ thứ nhất ở trong nước. Chiến lược đó được xem như một

nguyên tắc bảo vệ độc quyền công nghệ hiện nay của hết thảy các nước phát

triển, bởi lẽ độc quyền công nghệ là cái gốc đảm bảo ưu thế trong cạnh tranh

quốc tế khốc liệt hiện nay, trong đó hai công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất, đó là

chất lượng sản phẩm cao và giá thành sản phẩm hạ. Hiện nay các nước phát triển

đang đi đầu trong việc kết hợp công nghệ robot (tự động hoá cao) với công nghệ

máy tính hiện đại ở hầu hết các khâu, từ thiết kế, sản xuất đến phân phối và tiêu

thụ sản phẩm (sẽ nói cụ thể ở chương 3, phần giải pháp công nghệ ). Như vậy,

cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu hàng dệt may cũng diễn ra

không tương sức, giữa một bên là công nghệ lạc hậu và một bên là công nghệ

tiên tiến thuộc thế hệ thứ nhất. Do đó ưu thế trong cạnh tranh về chất lượng sản

phẩm và giá cả vẫn nghiêng về các nước nhập khẩu mỗi khi giao dịch.

Thứ 3 là tương quan cạnh tranh nội bộ giữa các nước xuất khẩu hàng dệt

may. Nét nổi bật ở đây là tương quan cạnh tranh rất không đồng đều giữa các nhà

sản xuất thuộc nhóm nước đang phát triển. Có hai tiêu chí cơ bản để đánh giá sự

không đồng đều này, đó là quá trình xuất khẩu truyền thống và kim ngạch xuất

khẩu hiện nay.

- Về quá trình xuất khẩu truyền thống, có thể chia các nước đang phát triển

xuất khẩu dệt may ra làm 3 nhóm sau :

+ Nước xuất khẩu dệt may sớm nhất, từ thập niên 50-60 của thế kỷ XX

như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong... Trong cạnh tranh xuất khẩu dệt may vào

3 khu vực thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, ưu thế vượt trội thường thuộc về

các nước có bề dày xuất khẩu truyền thống rất sớm, bởi những yếu tố:

- Trình độ tích tụ và tập trung sản xuất ngành dệt may khá cao.

- Công nghệ sản xuất khá hiện đại vì đây là những nước đứng đầu nhóm

NICs.

- Sản phẩm thường đa dạng hoá với chất lượng cao, giá thành hạ

- Trình độ tổ chức và quản lý tốt.

- Biết Marketing và am hiểu thương trường, có hệ thống bạn hàng tin cậy

+ Nước xuất khẩu dệt may thuộc lớp thứ 2, từ thập niên 70-80, điển hình là

Indonesia, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, .. Tuy tham gia xuất khẩu

dệt may muộn hơn song nhìn chung năng lực cạnh tranh của nước này thuộc loại

trung bình khá.

+ Nước xuất khẩu dệt may thuộc lớp thứ 3, từ thập niên 90, điển hình là

Bungari, Ba Lan, Cộng hoà Séc, Việt Nam... thị trường xuất khẩu ban đầu của

những nước này chủ yếu là khu vực EU, riêng Việt Nam là Nhật Bản và EU.

Nhìn chung, năng lực cạnh tranh của nước này đang bị lép vế nhất vì thời gian

tham gia xuất khẩu chưa nhiều, kinh nghiệm thương trường ít, hệ thống bạn hàng

mỏng...

- Về kim ngạch xuất khẩu hiện nay (chủ yếu trong 3 năm gần đây), những

nước đạt kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn và thị phần xuất khẩu cao, điền hình

là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Hongkong, Mehico,

Indonesia, Thái Lan, Pakistan. Cùng với những nước và những lãnh thổ xuất

khẩu truyền thống (như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong), Trung Quốc đã vươn

lên rất nhanh và trở thành nước dẫn đầu trong xuất khẩu hàng dệt may hiện nay.

Nước này đang có nhiều ưu thế cạnh tranh ở cả thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật

Bản với chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ, chủng loại phong phú và đa

dạng.

2.3.2. Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam xuất khẩu

Như chúng ta đã biết, năng lực cạnh tranh của bất kỳ một sản phẩm nào

không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố nội tại của bản thân sản phẩm mà còn phụ

thuộc sâu sắc vào hàng loạt điều kiện bên ngoài, nhiều khi những yếu tố bên

ngoài còn đóng vai trò chi phối rất đáng kể. Chính vì thê, khi xét về năng lực

cạnh tranh, các doanh nghiệp thường nhấn mạnh rằng : năng lực cạnh tranh = nội

lực + thời thế.

Theo đánh giá gần đây của Bộ kế hoạch và Đầu tư, hàng dệt may được xếp

vào nhóm 10 nhóm hàng có năng lực cạnh tranh nổi bật hiện nay và khả năng

cạnh tranh của chúng ta ở mức trung bình. Xét về hàng dệt may, một trong những

đặc điểm đáng lưu ý chính là tính thời trang và mùa vụ. Để xét năng lực cạnh

tranh của mặt hàng này, chúng ta xét trên các mặt chủ yếu như : chất lượng (kiểu

dáng, bao bì, nhãn mác...), chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu, phương thức

xuất khẩu và hệ thống phân phối. Đó là các yếu tố "nội lực" của khả năng cạnh

tranh. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam trong xuất khẩu được coi là

yếu tố "thời thế" trong nội dung nghiên cứu này.

2.3.2.1. Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam:

Đánh giá đầy đủ chất lượng một sản phẩm là điều không đơn giản. Chính

vì thế mà hàng loạt các tổ chức quốc tế và quốc gia về chất lượng sản phẩm đã ra

đời để đánh giá chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, chất lượng sản phẩm thường

được phát hiện đầy đủ trong quá trình sử dụng nghĩa là sau khi hàng hoá đã được

bán. Đối với sản phẩm dệt may, với đặc điểm nổi bật là tính thời trang cho nên

hình thức, kiểu dáng mẫu mã và chất liệu vải sợi tạo thành hàng dệt may thường

là những nội dung cơ bản trước hết cần phải được đánh giá cụ thể.

- Đánh giá về chất liệu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam

Như chúng ta đã biết, sở thích, thị hiếu của đa số người tiêu dùng ở các

nước phát triển thường thiên về các sản phẩm dệt kim. Đặc trưng của sản phẩm

dệt kim là các loại áo Polo- shirt. T.shirt ở thị trường xuất khẩu là áo liền sườn

(ống nguyên theo thân người mặc, không có ráp sườn), độ co tối thiểu (2-3%) và

sản phẩm đại trà từ sợi cotton OE có thêu hoa hoặc in hình nổi. Nắm bắt được thị

hiếu này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đặt ra mục tiêu sản xuất quần

áo dệt kim cotton OE 100% nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước phát triển.

Các doanh nghiệp như Dệt kim Đông xuân, Dệt kim Đông phương, Dệt kim

Thăng Long. Dệt Thành công... đã đầu tư chiều sâu bằng cách nhập thêm một số

máy dệt kim có khổ rộng theo cỡ người, khâu hoàn tất có máy chống co cơ học

compactor của Mỹ, bổ sung vào dây chuyền thiết bị sẵn có hoặc đầu tư nhà máy

mới có sản lượng phù hợp. Ban đầu, Việt Nam vẫn phải nhập sợi OE nhưng sau

đó thường căn cứ vào nhu cầu tăng trưởng để mở rộng thêm nhà máy chuyên kéo

sợi OE cho dệt kim..

Có thể nói, trong những năm qua, ngành dệt Việt Nam đã không ngừng

nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của mình nhằm đảm bảo tiêu chuẩn

chất liệu quốc tế. Do vậy, các sản phẩm như sơ mi nam nữ, áo khoác, quần âu...

đã đáp ứng được nhu cầu của những khách hàng khó tính. Tuy nhiên, so với sản

phẩm chất lượng cao của nhiều hãng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn

phải phấn đấu hơn nữa.

- Đánh giá về kiểu dáng, mẫu mã:

Hàng dệt may vốn dĩ thường có vòng đời sản phẩm ngắn. Đặc biệt đối với

thị trường các nước phát triển luôn luôn chạy theo mốt cho nên vòng đời sản

phẩm còn ngắn hơn nữa. Hàng năm, các nước đều có định hướng phát triển mẫu

"mốt" cho từng thị trường của năm đó và dự báo những năm tiếp theo. Mẫu thời

trang thường được xác định theo các tiêu chí:

+ Theo trào lưu mẫu thời trang chung của thế giới

+ Theo bản sắc văn hoá của từng dân tộc

+ Theo điều kiện kinh tế, khí hậu mỗi nước

+ Theo chất liệu và phụ liệu may

+ Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt của mỗi nước

Trên thực tế, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên các thị

trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản đều còn quá nhỏ và phần lớn không thuộc diện

hàng cao cấp nên mẫu mã, kiểu dáng vẫn theo "form" sẵn. Các doanh nghiệp dệt

may lớn như May 10, Việt Tiến đã sử dụng công nghệ CAD-CAM (Computer

Added Design - Computer Added Manufacturing, máy tính trợ giúp thiết kế và

sản xuất). Công nghệ mới này mang lại hiệu quả rất cao, thực hiện được nhiều

chức năng vẽ phác thảo trên máy, tạo mẫu chính xác, mô tả chất liệu vải, tạo ra

bản vẽ kỹ thuật đầy đủ để đem đi gia công nơi khác, thiết kế thẳng trên người

thật, hướng dẫn trưng bày sản phẩm. Nhờ có áp dụng kỹ thuật này, kiểu dáng,

mẫu mã dệt may Việt Nam đã và đang được đón nhận khá thiện cảm trên thị

trường các nước phát triển.

- Đánh giá về bao bì, nhãn mác:

Theo quan điểm Marketing, để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, điều

quan trọng là phải thiết kế bao bì hấp dẫn với giá trị nghệ thuật cao (đẹp, trang

nhã, lịch sự). Các chuyên gia về Marketing thường nhấn mạnh bao bì, nhãn hiệu

phải thật sự hợp lý về kích thước và khối lượng nhằm đảm bảo tiện lợi và dễ vận

chuyển, bao bì đẹp sẽ kích thích sự ham thích mua hàng của người tiêu dùng. Tạo

ra giá trị sử dụng và bảo quản giá trị sử dụng là hai khâu rất quan trọng. Đóng gói

là khâu quyết định để hàng hoá giữ vững chất lượng, còn việc bảo quản hàng hoá

là biện pháp cần thiết để duy trì tốt giá trị sử dụng của hàng hoá.

Thời gian vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ, EU thường rất dài

và phải trải qua nhiều phương tiện. Vì thế, các doanh nghiệp cần chú ý khâu thiết

kế bao bì sao cho có thể bảo vệ hàng hoá khỏi hư hỏng, giữ được toàn vẹn chất

lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Vật liệu làm bao bì phải là loại chắc

chắn khi vận chuyển và tiện lợi cho người sử dụng, đồng thời thể hiện được tính

mỹ thuật cao.

Khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm khi mua hàng, cho nên bao bì cần

phải hấp dẫn sự chú ý, cung cấp được những thông tin cần thiết về đặc tính, chất

lượng sản phẩm. Thông tin trên bao bì cần diễn đạt ngắn gọn, gây ấn tượng và

bằng ngôn ngữ thông dụng là tiếng Anh. Trên thực tế, việc thiết kế bao bì sản

phẩm phải phù hợp tiêu chuẩn quốc tế (như ghi rõ xuất xứ, có hệ thống ghi mã

vạch bằng máy tính...), đồng thời cũng phải cô đọng để giảm chi phí vận chuyển,

lưu kho và xếp dỡ.

Nâng cao chất lượng bao bì, nhãn hiệu sẽ làm tăng giá trị hàng hoá. Trên

thực tế, chính bao bì chất lượng cao lại giúp giảm giá hàng hoá do giảm thiếu

những tổn thất trong khâu vận chuyển, lưu kho và khâu bán hàng. Bao bì phù

hợp, gọn nhẹ có thể còn tiết kiệm thêm một khoản tiền lớn. Đó cũng chính là

một yếu tố quan trọng, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may

Việt Nam trên thị trường các nước phát triển.

- Đánh giá về việc tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng dệt may xuất khẩu

Hiện nay, khách hàng dệt may Bắc Mỹ chưa hiểu biết nhiều về chất lượng

hàng dệt may Việt Nam.. Vì thế, các doanh nghiệp may Việt Nam phải tiêu

chuẩn hoá chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000, tạo lòng tin cho khách

hàng nước ngoài khó tính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản.

Ngoài vấn đề tiêu chuẩn hoá chất lượng ISO 9000, với thị trường Mỹ, các

doanh nghiệp Việt Nam đã lưu ý đến hệ thống tiêu chuẩn xã hội SA 8000. Bởi lẽ,

thị trường Mỹ vốn nhạy cảm với các vấn đề "nhân quyền" các doanh nghiệp dệt

may Việt Nam thường chú trọng điều đó khi thâm nhập thị trường nhạy cảm này.

Nhìn chung, vấn đề tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của

Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh

trên thị trường Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ, đặc biệt là thị trường Mỹ trong thời

gian gần đây. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng

được khách hàng mới đáng tin cậy, góp phần xứng đáng vào việc tăng nhanh

kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua vào thị trường Mỹ, một thị trường đầy

hấp dẫn nhưng cũng rất khó tính.

2.3.2.2. Chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.

Việc định giá sản phẩm xuất khẩu là nội dung rất phức tạp, cần phải tính

đến hàng loạt yếu tố như chi phí sản xuất , chuyên chở, bảo quản, điều kiện thị

trường, điều kiện cạnh tranh, thuế các loại, chi phí cho người môi giới, chi phí

bảo hiểm và rủi ro, chi phí nghiên cứu thị trường... Nhiều nhiều nhà xuất khẩu

chỉ đơn giản lấy giá bán nội địa cộng thêm cước phí vận chuyển ngoài nước và

phí bảo hiểm, chi phí đóng gói và chi phí Marketing, rồi từ đó định giá xuất khẩu.

Một số nhà xuất khẩu dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh để định giá xuất khẩu

sản phẩm của mình. Hai cách giải quyết đó đơn giản nhưng chưa hoàn toàn thoả

đáng. Chúng ta phải có phương pháp xác định giá xuất khẩu một cách khoa học

và toàn diện để đạt được mục tiêu xuất khẩu dài hạn, cạnh tranh được trên thị

trường thế giới.

Có nhiều phương pháp để định giá cho sản phẩm dệt may xuất khẩu. Đối

với thị trường Mỹ, hiện nay chúng ta vẫn tiến hành chủ yếu phương thức giá gia

công, theo đơn đặt hàng từ các nước thứ ba nên chưa hoàn toàn chủ động được

giá xuất khẩu, lợi nhuận lại không cao. Chúng ta có thể thấy cụ thể hơn giá xuất

Bảng 14: Giá xuất khẩu một số loại hàng dệt may Việt Nam năm 2001 sang Mỹ

khẩu một số loại hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như bảng dưới đây:

Mặt hàng

Đơn vị tính

Giá

Cửa khẩu giao hàng

USD/chiếc 5 Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC Áo gilê 3 lớp

USD/chiếc 25 Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC Áo jacet 3 lớp

EUR/chiếc 33 Chi cục HQ Biên Hoà Áo Blazer

USD/chiếc 12 Chi cục HQ Biên Hoà Áo Vest

Chi cục HQ Biên Hoà Áo jacet (cat 21) USD/chiếc 21

USD/chiếc 4 Chi cục HQ Linh Trung Áo đầm

USD/chiếc 8 Chi cục HQKCX-KCN Áo bảo hộ

Quần ngắn USD/chiếc 5 Chi cục HQ Biên Hoà

Quần Âu nữ USD/chiếc 9 Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC

92S

Váy bò 1 lớp USD/chiếc 4 Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC

Nguồn : Thống kê giá cả hàng xuất khẩu - Tạp chí Ngoại thương 10/8/2002

Vải thành phẩm USD/chiếc 4 Chi cục HQ Bến Lức

So với mặt bằng giá chung trên thị trường thế giới, giá cả hàng dệt may

Việt Nam bắt đầu đảm bảo được khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. thêm

vào đó, chất lượng sản phẩm của chúng ta cũng được đánh giá khả quan nên

được ưa chuộng. Trên thực tế, đã có nhiều đơn đặt hàng dệt may vượt qua được

các nhà sản xuất Trung Quốc, bởi lẽ các hãng đặt hàng may gia công lớn trên thế

giới đã tín nhiệm và tìm đến địa chỉ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . Thực

tế đó cũng cho thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong việc

chiếm lĩnh khách hàng nước ngoài.

Một yếu tố chi phối không nhỏ trong cơ cấu giá và năng lực cạnh tranh là

chi phí nhân công. Việt Nam vẫn coi nhân công là thế mạnh của ngành dệt may.

Bảng số liệu sau cho thấy cụ thể mức chi phí nhân công của Việt Nam so với một

Bảng 15: Chi phí giá nhân công ngành dệt may Việt Nam so với một số nước.

số nước trong khu vực.

Số TT

Quốc gia

Tiền công bình quân/công nhân

1 Việt Nam 0,18 USD/giờ

2 Thái Lan 0,87 USD/giờ

3 Indonesia 0,23 USD/giờ

4 Malaixia 0,95 USD/giờ

5 Trung Quốc 0,34 USD/giờ

Nguồn : Thời báo kinh tế Sài gòn, số 20/2001

Qua đây, chúng ta có thể thấy được ưu thế về tiền công trong giá thành sản

xuất hàng dệt may của Việt Nam. Dù trong điều kiện hiện nay, chi phí sản xuất

hàng may còn cao do chi phí điện tăng (vừa qua, Tổng công ty dệt may Việt Nam

phải đầu tư thêm 40 tỷ đồng do giá điện tăng), song nếu xét lợi thế về tiền công

lao động như trên thì giá thành sản xuất hàng dệt may Việt Nam vẫn được đánh

giá là có tính cạnh tranh. Tuy nhiên, giá thành xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào

các yếu tố khác như chi phí vận tải, bảo hiểm, thuế, chi phí Marketing.

2.3.2.3. Năng lực cạnh tranh trong hệ thống phân phối hàng dệt may của Việt

Nam

Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường xuất khẩu chủ yếu theo

phương thức gia công tương ứng với phương thức "selling to" (nghĩa là "bán tới",

khác với "selling in" nghĩa là "bán tại"). Hiện nay ở Mỹ, EU và Nhật Bản, các

kênh phân phối hàng dệt may nhập khẩu có rất nhiều. Các quá trình phân phối

được phân đoạn để có thể đưa ra các sản phẩm từ các nhà nhập khẩu, các đại lý,

các nhà bán buôn đến các cửa hàng bán lẻ rồi tới người tiêu thụ cuối cùng. Có thể

đơn cử các kênh phân phối điển hình như hệ thống bán buôn (whole sale club

outlet), các hệ thống siêu thị, các cửa hàng bán lẻ... Tuy nhiên, hiện nay việc tổ

chức kênh phân phối của chúng ta trên thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản thường

chỉ dừng lại ở việc thông qua đơn đặt hàng do khách hàng tìm đến đặt gia công

hoặc thông qua trung gian, môi giới, xuất khẩu trực tiếp chưa nhiều. Đó cũng là

sự hạn chế về năng lực cạnh tranh trong việc phân phối hàng xuất khẩu. Sự hạn

chế đó là do bản thân phương thức gia công xuất khẩu quy định.

Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang từng bước cố gắng và đã đạt được trên

20% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bằng phương thức tự doanh (xuất khẩu

trực tiếp). Đối với phương thức này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang tích cực

để chủ động tổ chức kênh phân phối một cách năng động và hiệu quả hơn. Chúng

ta kết hợp linh hoạt các hình thức hợp tác, liên doanh liên kết với những đối tác ở

các nước sở tại để đưa hàng nhanh chóng tới người tiêu dùng và nâng cao được

năng lực cạnh tranh trong hệ thống phân phối.

2.3.2.4. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong xuất khẩu hàng dệt may của

Việt Nam

Hiện nay, các nước xuất khẩu chủ yếu hàng dệt may vào thị trường nhóm

nước phát triển là các nước và lãnh thổ châu á như : Trung Quốc, Đài Loan, Hàn

Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Hongkong, Indonesia... Đây cũng là khu vực xuất

khẩu lớn nhất thế giới về hàng dệt may. Tuy nhiên, nếu xét về chủng loại hàng cụ

thể mà Việt Nam hiện đang trực tiếp xuất sang các thị trường Bắc Mỹ, EU và

Nhật Bản thì đối thủ mạnh nhất của Việt Nam hiện nay vẫn là Trung Quốc. Đó

không chỉ là đối thủ cạnh tranh trên thị trường Bắc Mỹ mà ngay cả ở thị trường

nội địa các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải dè chừng. Hàng xuất khẩu của

Trung Quốc vượt trội so với hàng Việt Nam kể cả về mức kim ngạch xuất khẩu

hàng dệt may tính trên đầu người. Năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt

may của Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước

hết, Trung Quốc tiến hành công nghiệp hoá trước Việt Nam và họ bắt đầu tham

gia xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp ít nhất trước chúng ta một thập kỷ. Thứ

hai, Trung Quốc gia nhập WTO nên được hưởng thuế suất tối huệ quốc MFN,

mặt khác, hạn ngạch xuất khẩu cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc hơn.

Thứ ba, Trung Quốc được hưởng những ưu thế đặc biệt do sự có mặt của

Hongkong và Đài Loan. Thứ tư, Trung Quốc còn có lợi thế hơn Việt Nam. Bởi

lẽ, giá tiêu dùng trong nước thấp hơn giá quốc tế. Trên thực tế, chi phí sản xuất

hàng dệt may của Trung Quốc thấp hơn Việt Nam. Ngoài ra các chi phí về thuế

cũng thấp hơn, nguồn vốn cung trong nước về nguyên liệu cũng dồi dào hơn, môi

trường kinh doanh thuận lợi hơn.

2.3.3. Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong xuất khẩu hàng dệt may

Việt Nam.

2.3.3.1. Những kết quả nổi bật

Trước hết, kết quả mà chúng ta có thể nhìn rõ nhất thể hiện ở chính con số

kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường các nước phát

triển tăng vọt trong mấy năm gần đây, đặc biệt là năm 2002. Kim ngạch năm

1995 mới chỉ là 850 triệu USD nhưng năm 2002 đã lên đến 2.730 triệu USD, tức

là gấp hơn 3 lần. Dù tỷ lệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng trong

tình hình hiện nay, nếu vấn đề hạn ngạch thuận lợi và với một tiềm năng lớn như

thị trường các nước phát triển thì còn hứa hẹn một con số cao hơn nữa về kim

ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này.

2.3.3.2. Những thách thức lớn của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam hiện

nay.

Thách thức trước hết là sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu hàng

dệt may hiện nay. Đó là Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại hàng

hoá và giá rẻ. Đó còn là Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan. Hongkong và Indonexia,

Thái Lan, Philipin, những nước xuất khẩu lớn và có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy

họ có giá nhân công cao hơn nhưng họ nhờ ưu thế tự túc được nguyên liệu vải và

các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần làm cho giảm giá thành sản

phẩm, tạo nên nhiều nhãn hiệu uy tín như áo thun "cá sấu" của Thái Lan, quân lót

hiệu "Seol" của Philippin... Ngoài ra, các nước khác ngoài châu Á như Mehico,

Ba Lan, Bungari ... cũng đang là những quốc gia có điều kiện thuận lợi để gia

tăng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản. Họ cũng

là đối thủ cạnh tranh khá mạnh trong lĩnh vực này.

Thách thức thứ hai hiện nay là việc Việt Nam chưa trở thành thành viên

của WTO nên không được hưởng các lợi ích từ Hiệp định hàng dệt may ATC.

Hiệp định điều chỉnh việc xoá bỏ quota áp dụng trong Hiệp định đa sợi MFN,

Việt Nam chỉ được hưởng ưu đãi trong nội bộ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ

chứ không phải trong cả khối Bắc Mỹ.

Thách thức thứ ba là tính chất phức tạp của hệ thống luật quốc tế cũng như

Luật Thương mại Mỹ với những đòi hỏi khắt khe đối với các quốc gia đang phát

triển như Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam, một nước chậm phát triển đang

trong quá trình chuyển đổi, khi tham gia vào thị trường thế giới buộc phải tuân

thủ theo các nguyên tắc trên để tự bảo vệ mình. Mặt khác, những nhà hoạch định

chính sách của Mỹ vẫn chưa hết những quan niệm cũ về một nước Việt Nam mới

trong quan hệ hiện nay với chúng ta.

Thách thức thứ tư là sự quản lý chồng chéo của các Bộ hữu quan đối với

ngành dệt may khiến cho cơ cấu tổ chức thiếu năng động, dễ tuột mất những cơ

hội đáng tiếc mà trong kinh doanh, yếu tố cơ hội thường qua đi rất nhanh và

nhiều lúc mang tính chất quyết định.

Trên đây là những đánh giá chung rút ra từ toàn bộ nội dung phân tích ở

chương I và chương II. Thách thức và cơ hội thường là hai mặt đối lập của quá

trình phát triển mà chúng ta cần xem xét một cách toàn diện trong phương pháp

tiếp cận. Tuy nhiên, có thể nói, tình hình hiện nay đang là "thời cơ" cho ngành

dệt may tiến bước. Điều quan trọng là bản thân ngành dệt may cần có những giải

pháp tối ưu để đem lại thành công và hiệu quả cao nhất. Chương cuối cùng của

đề tài này sẽ đề cập những định hướng và giải pháp cụ thể.

CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM XUẤT KHẨU.

3.1.1. Những quan điểm cơ bản trong định hướng xuất khẩu và nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu.

Theo quan điểm của Đảng ta ngay từ đầu của thời kỳ đổi mới, từ Đại hội

lần thứ VI (1986) đã xác định rõ xuất khẩu là một trong 3 chương trình kinh tế

lớn của cả nước [10]. Xuyên suốt quá trình phát triển từ đó đến nay, chương trình

xuất khẩu vẫn luôn luôn được chú trọng một cách nhất quán. Tuy nhiên, cái mới

cần chú trọng của những Đại hội Đảng sau này, đặc biệt là từ Đại hội VIII và Đại

hội IX gần đây nhất, là việc ưu tiên chiến lược xuất khẩu hàng chế biến sâu và

chế biến cao, theo đó vai trò của công nghiệp đối với xuất khẩu đã được nâng lên

tầm cao mới. Theo quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta, từ cuối của thập niên

90 đến nay, công nghiệp dệt ngày càng được hướng mạnh và xuất khẩu với

những bước phát triển rất khả quan, xứng đáng là ngành hàng chế biến xuất khẩu

số 1 của cả nước.

Quan điểm của Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại đều quán triệt quan

điểm của Đảng khi xây dựng "Dự án quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp dệt

may đến năm 2010" [10] và "Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010"

[8].

Quan điểm của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, một lần nữa lại

chú trọng "Quy hoạch tổng ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 của Tổng

công ty Dệt may Việt Nam" theo hướng xuất khẩu [14] với những mục tiêu cụ

thể.

Từ lý giải trên, nói đầy đủ hơn, từ tất cả những nội dung trình bày ở

chương 1 và chương 2, đến đây có thể nhấn mạnh 4 quan điểm trong định hướng

xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may cho những năm tới như

sau :

3.1.1.1. Quan điểm thứ nhất :

Xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may

là hai mặt thống nhất của chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu lâu dài của Việt Nam

trong nhiều năm tới [8].

Đó là cách nhìn nhận có tính nguyên tắc đồng thời là tư tưởng chủ đạo

quán xuyến của chúng ta trong suốt quá trình từ sản xuất đến xuất khẩu. Nhấn

mạnh quan điểm này là xuất phát từ những lẽ sau :

Một là, xuất khẩu dệt may hiện nay là xuất khẩu của ngành hàng công

nghiệp chế biến số 1 của cả nước, có khả năng đem lại hiệu quả tích luỹ ngoại tệ

nhanh hơn vì có thể tăng tốc kim ngạch xuất khẩu trong nhiều năm tới. Thực tế

lịch sử thế giới đã chỉ rõ ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của nhiều nước

phát triển đã từng hưng thịnh kéo dài trong nhiều thế kỷ, từ khi ra đời của chủ

nghĩa tư bản đến tận sau Thế chiến 2 (như đã nêu ở chương I). Còn ở những nước

NICs, ngành công nghiệp xuất khẩu này được phát triển từ sau Thế chiến 2 cho

đến nay với gần 1/2 thế kỷ và vẫn còn tiếp tục như một ngành truyền thống.

Hai là, xuất khẩu hàng dệt may, do vậy, cần được ưu tiên các nguồn lực

đang có nhiều lợi thế để tập trung phát triển mạnh hơn như một ngành hàng xuất

khẩu chủ lực hàng đầu cho nhiều năm tới. Đó là sự cụ thể hoá cho chiến lược đẩy

mạnh xuất khẩu lâu dài của Việt Nam trong nhiều năm tới.

Ba là, đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất

khẩu nói chung và đối với hàng dệt may nói riêng luôn luôn là hai mặt thống nhất

của sự tồn tại và phát triển. Bởi lẽ tự nhiên: xuất khẩu luôn gắn liền với cạnh

tranh, doanh nghiệp muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì tất yếu phải đủ sức để vượt

qua những rào cản của cạnh tranh, trước hết là rào cản của đối thủ, nhằm thực

hiện thành công việc đẩy mạnh xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng. Do vậy,

nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện quan trọng để có thể tăng nhanh đồng

thời cả kim ngạch và thị phần xuất khẩu cũng như lợi nhuận và hiệu quả xuất

khẩu tương ứng. Nói đến đẩy mạnh xuất khẩu là phải nói đến nâng cao năng lực

cạnh tranh theo nghĩa đó.

3.1.1.2. Quan điểm thứ hai

Đẩy mạnh xuất khẩu dệt may là chiến lược đúng đắn nhằm thực hiện thắng

lợi mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Như đã nêu ở chương I, mục "Vai trò của ngành công nghiệp dệt may trên

thế giới", phát triển ngành công nghiệp dệt may có ý nghĩa lớn đối với quá trình

công nghiệp hoá ở nhiều nước trước đây và hiện nay. Có thể tóm tắt ở đây những

ảnh hưởng của nó như sau :

- Phát triển công nghiệp dệt may tất yếu thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu

chăn nuôi và trồng trọt phát triển đa dạng theo hướng công- nông nghiệp, như

thực tế đã diễn ra ở Anh, Đức, Ý… trước đây và Hàn Quốc, Đài Loan… trong

thập niên 50 - 60 của thế kỷ trước.

- Phát triển công nghiệp dệt may cũng thúc đẩy ngành công nghiệp chế tạo

máy thiết bị của hệ thống công nghiệp nặng phát triển, do đó kích thích công

nghiệp luyện kim mở rộng.

- Thúc đẩy hệ thống giao thông và thông tin liên lạc phát triển.

Như vậy, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ở những mức độ khác nhau, công

nghiệp dệt may một khi phát triển mạnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu các

ngành kinh tế quốc dân cũng như hầu hết cơ sở hạ tầng thay đổi sâu sắc theo

hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước như đã diễn ra ở nhiều nước phát

triển phương Tây và nhiều nước NICs châu Á vừa qua.

- Ngoài ra, công nghiệp dệt may phát triển còn đóng vai trò không nhỏ

trong việc tích luỹ vốn và kinh nghiệm quản lý, trong việc đào tạo những nhà

quản lý giỏi cho các doanh nghiệp dệt may, các chuyên gia công nghệ giỏi, các

nhà kỹ thuật xuất sắc, các cố vấn tài ba giàu kinh nghiệm thương trường… Như

vậy, điều quan trọng hơn là ngành công nghiệp dệt may phát triển đã hình thành

nguồn nhân lực mới, có khả năng chuyên môn cao, năng động và thích ứng cao

trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

3.1.1.3. Quan điểm thứ ba

Đẩy mạnh xuất khẩu dệt may là chiến lược đúng đắn nhằm tạo ra những

đột phá mới cho việc tăng nhanh nhóm hàng xuất khẩu chế biến của Việt Nam.

Quan điểm này là sự quán triệt cụ thể chủ trương lớn của Đảng và Nhà

nước ta về chuyển dịch cơ cấu trong chiến lược xuất khẩu. Mục tiêu đến năm

2010 đặt ra: xuất khẩu hàng chế biến phải chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu

của cả nước. Như vậy, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế từ trên 70%

năm 2000 sẽ phải giảm nhanh chóng và chỉ còn 30% vào năm 2010. Mục tiêu đó

đòi hỏi tất cả các ngành, các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực thật cao trong

cuộc cách mạng chuyển dịch cơ cấu một cách sâu sắc, phải tìm ra những bước

đột phá lớn mới có thể đạt được cơ cấu nói trên. Đó là định hướng đúng đắn đảm

bảo tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nhằm tăng tốc tích luỹ vốn ngoại tệ phục

vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Hiện nay, ngành công nghiệp xuất khẩu dệt may thực sự là ngành mũi

nhọn tiên phong trong bước đột phá quyết định cho cách mạng chuyển dịch cơ

cấu theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến, Mức tăng trưởng nhanh

của kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong những năm gần đây đang minh

chứng rõ quan điểm này.

3.1.1.4 Quan điểm thứ tư

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may là chiến lược đúng đắn để khai thác

triệt để những lợi thế hiện có cả trong và ngoài nước.

Đối với bất kỳ chiến lược kinh tế nào của một quốc gia hay chiến lược

kinh doanh của một doanh nghiệp đều phải tính đến những nguồn lực cần thiết để

thực hiện. Lợi thế nói ở đây cũng là những nguồn lực, nhưng đó là những nguồn

thuận lợi vượt trội hơn so với những nguồn lực thông thường khác hay so với

quốc gia khác hoặc doanh nghiệp khác.

* Về lợi thế trong nước, trước hết đó là nguồn lao động dồi dào. Như ở

chương I và II đã nêu, trong tổng dân số Việt Nam hiện có 80 triệu người, tỷ lệ

dân số trẻ ở tuổi lao động cao, hàng năm có trên 1 triệu người bổ sung mới vào

lực lượng lao động xã hội. Tình hình đó đang làm cho số lao động dư ra ngày

một tăng thêm và tình trạng không có việc làm ở nông thôn, nhất là thành thị

đang là vấn đề bức xúc và nan giải. Trong khi đó, người Việt vốn dĩ lại cần cù,

khéo léo và sáng tạo, mặt bằng giá cả lao động cũng thấp hơn so với ngay cả các

nước đang phát triển trong khu vực. Thứ hai, vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống

cảng biển của Việt Nam gần kề đường hàng hải quốc tế giúp cho việc chuyên chở

hàng xuất khẩu bằng đường biển rất mau chóng, cước phí hạ. Thứ ba, chính sách

kinh tế mở theo hướng hội nhập của Đảng và Nhà nước ta thực sự thông thoáng

cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có hoạt động xuất khẩu hàng dệt

may.

* Về lợi thế ngoài nước, thị trường tiêu thụ dệt may thế giới (như đã nêu ở

chương I) đang mở rộng, nhất là nhu cầu nhập khẩu lớn hàng dệt may của các

nước phát triển Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản. Tình hình đó đang là cơ hội thực sự

cho các nhà xuất khẩu dệt may trong nhiều năm tới. Mặt khác, chúng ta có điều

kiện tiếp thu nhanh chóng công nghệ dệt may hiện đại của các nước phát triển.

Ngoài ra, xu thế chuyển dịch dệt may từ nước phát triển sang các nước đang phát

triển vẫn được tiếp tục…

Tất cả những lợi thế trong và ngoài nước nói trên đang thực sự là cơ hội tốt

cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong nhiều năm

tới.

3.1.2. Những định hướng chủ yếu cho xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh

tranh trong xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

3.1.2.1. Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản đối với xuất khẩu và nâng

cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

Khi định hướng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng

dệt may, điều quan trọng về phương pháp tiếp cận là phải đánh giá kịp các yếu tố

ảnh hưởng, bao gồm các yếu tố tạm thời và lâu dài cũng như các yếu tố thường

xuyên và không thường xuyên Theo phương pháp luận đó, có thể hệ thống tóm

tắt một số yếu tố cơ bản sau :

Thứ nhất là yếu tố chính trị - xã hội - dân số. Để có thể định hướng được

sát đúng, chúng ta vẫn phải tính đến tất cả những đột biến hay những diễn biến

mới về tinh hình này. Thí dụ về nguy cơ của một cuộc chiến cận kề mà Nhà nước

Mỹ điều binh rầm rộ hướng vào Irác gây ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế - xã

hội trên quy mô toàn cầu. Quy mô dân số thế giới với 6,2 tỷ người và nhịp điệu

tăng hàng năm như hiện nay đang tiếp tục chi phối trực tiếp nhu cầu mở rộng của

thị trường dệt may…

Thứ hai là bản sắc văn hoá- thời trang - thời vụ. Khi định hướng xuất khẩu

và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may cũng cần đánh giá đầy

đủ mức độ ảnh hưởng của yếu tố này đang tác động sâu sắc đến nhu cầu phong

phú và đa dạng về mẫu "mốt" hàng dệt may của các nước nhập khẩu lớn ở bắc

Mỹ, EU và Nhật Bản.

Thứ ba là yếu tố kinh tế - tài chính - tiền tệ. Những biến động lớn về suy

thoái kinh tế, khủng khoảng tài chính - tiền tệ, cũng như sự thay đổi về tỷ giá

hối đoái giữa các đồng tiền mạnh (USD với EURO và đồng Yên Nhật Bản) đều

ảnh hưởng nhất định đến quan hệ cung cầu và giá cả hàng dệt may thế giới hay

từng khu vực, đặc biệt là 3 khu vực nhập khẩu lớn Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản.

Do vậy, khi định hướng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may

xuất khẩu, chúng ta không thể không phân tích mức độ ảnh hưởng cụ thể của yếu

tố này.

Thứ tư là yếu tố khoa học- công nghệ - kỹ thuật. Để định hướng đúng đắn

và kịp thời cho xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh, rất cần phải phân tích,

đánh giá kịp thời ảnh hưởng của yếu tố này, nhất là công nghệ sản xuất. Bởi lẽ,

yếu tố này chi phối sâu sắc tới chất lượng và giá thành hàng dệt may trong cuộc

cạnh tranh gay gắt hiện đang diễn ra trước hết ở các nước phát triển.Yếu tố này

còn ảnh hưởng trực tiếp tới các chủng loại phong phú và đa dạng của hàng dệt

may, theo đó các mẫu "mốt" mới thường rất nhạy cảm đến năng lực cạnh tranh

của nhà xuất khẩu.

Thứ năm là yếu tố luật pháp - thương mại - hải quan. Trên thực tế, tất cả

những quy định pháp luật, chính sách thương mại và thể lệ hải quan đều ảnh

hưởng cụ thể đến hoạt động xuất khẩu và năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt

may, ví dụ như ATC (Agreement on Textile and Clothing) hay Hiệp định đa sợi

MFA. Do vậy, khi định hướng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất

khẩu hàng dệt may, doanh nghiệp cần đánh giá ảnh hưởng đầy đủ của các yếu tố

này, nhất là những quy định cụ thể của ATC hay sự thay đổi của pháp luật

thương mại, thể lệ hải quan…

Cuối cùng là các yếu tố khác như thời tiết, khí hậu, sự thay đổi trong chiến

lược xuất khẩu của đối thủ (chẳng hạn sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO và

những ưu đãi mới mà các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Trung Quốc được

hưởng lợi)… Để định hướng kịp thời cho xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh

tranh trong xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải phân tích đầy

đủ những ảnh hưởng của các yếu tố này. Tóm lại, về mặt nguyên tắc, cần phải

phân tích và đánh giá toàn diện tất cả các yếu tố, gồm các yếu tố ảnh hưởng lâu

dài cũng như các yếu tố tạm thời, nhất là những yếu tố mới hay yếu tố đột biến

chi phối sâu sắc tình hình thị trường nhập khẩu.

3.1.2.2. Mục tiêu định hướng cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của

Việt Nam đến năm 2010.

Ở đây, khi định hướng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của

Việt Nam đến năm 2010 và nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu, đề tài

quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau :

Một là, theo quan điểm của Marketing, định hướng chiến lược không được

thuyết minh bằng lời một cách chung chung như : "phấn đấu tăng nhanh kim

ngạch xuất khẩu " hay cần nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa… Định hướng

chiến lược phải được cụ thể hoá bằng các mục tiêu lượng hoá thông qua những

con số rõ ràng, chính xác.

Hai là, các mục tiêu lượng hoá cụ thể này phải được dựa vào nội dung

phân tích, đánh giá đầy đủ và toàn diện tất cả các yếu tố khách quan và chủ quan,

trong và ngoài nước, và trước hết dựa vào nhu cầu thị trường thế giới, đặc biệt là

mức nhập khẩu của các thị trường mục tiêu chủ yếu Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản.

Hơn nữa, các mục tiêu này còn phải dựa vào các số liệu chính thức của các Bộ,

Ngành quản lý trực tiếp như Bộ Nông nghiệp, Bộ Thương mại và của Tổng công

ty dệt may (Vinatex) mà nhóm tác giả đề tài nghiên cứu kỹ lưỡng.

Ba là, mục tiêu ở đây được xây dựng theo hai phương án gồm phương án

cao và phương án thấp, thể hiện mức dung sai giữa lý thuyết và thực tiễn cho

phép trong suốt quá trình triển khai, thực thi.

- Phương án cao áp dụng cho điều kiện thực hiện trong tương lai tương đối

khớp với nội dung phân tích, đánh giá khi xây dựng mục tiêu.

- Phương án thấp áp dụng cho điều kiện thực hiện trong tương lai có thể

diễn ra yếu tố đột biến mới bất lợi mà khi xây dựng mục tiêu, mặc dù đã rất cố

gắng phân tích đẩy đủ và toàn diện song vẫn chưa dự kiến được kịp thời.

Dựa vào các nguyên tắc trên, nói đầy đủ hơn là dựa vào toàn bộ nội dung

nghiên cứu của chương I và chương II, cũng như quan điểm và việc đánh giá các

yếu tố ảnh hưởng trên ở chương này, có thể đi đến những mục tiêu định hướng cơ

Bảng 16: Mục tiêu chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến năm

2010.

bản sau.

Năm

Đơn vị

2000

2005

2010

Mục tiêu

Tính

Phươn

Phương

Phương

Phươn

án cao

án thấp

g án

g án

cao

thấp

1

2

3

5

6

7

4

1.Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD

1.880

4.850

5.000

7.800

8.000

2. Biên chế lao động Ngàn người

1.600

2.900

3.000

3.800

4.000

3. Sản phẩm chính

30

98

95

28

6,7

3.1. Bông xơ

Ngàn tấn

100

110

130

90

45

3.2. Xơ sợi tổng hợp

Ngàn tấn

150

280

300

130

85

3.3. Sợi

800

1000

1.200

750

304

3.4. Vải lụa

Ngàn tấn Triệu m2

150

210

230

130

90

3.5. Sản phẩn dệt kim Triệu SP

3.6 Sản phẩm may

Triệu SP

75

780

1.050

1.200

400

4. Tỷ lệ nội địa hoá

%

45

50

70

75

25

Nguồn: Tổng công ty dệt may (Vinatex) Bộ Công nghiệp

Về mục tiêu tăng trưởng, để đạt kim ngạch 5 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ

USD vào năm 2010, mục tiêu tăng trưởng thực sự là vấn đề phải quan tâm ngay

Bảng 17: Một số mục tiêu tăng trưởng cụ thể trong định hướng xuất khẩu của dệt

may Việt Nam đến năm 2010 .

khi hoạch định chiến lược (xem bảng).

Đơn vị tính: %

TT Mục tiêu tăng trưởng 2001 - 2005 2005 - 2010

1 Kim ngạch xuất khẩu 17,1 9,5

2 Biên chế lao động 12.0 6,5

3 Sản lượng bông xơ 25,4 20,5

4 Vải lụa 18,0 8,5

Nguồn : Vinatex, Bộ công nghiệp

3.1.2.3. Một số định hướng lớn cụ thể

Thứ nhất là định hướng về nguồn nguyên liệu. Ngành dệt may Việt Nam

hiện còn phải nhập phần lớn về nguồn nguyên liệu, phụ liệu như bông, xơ sợi

tổng hợp, hoá chất nhuộm, chất trợ, vải chất lượng cao, phu liệu. Trước hết cần

liên kết với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn để tăng nhanh tỷ lệ cung cấp

bông nội địa từ mức 15% năm 2000 lên 70% năm 2010.

Về xơ sợi tổng hợp, vì hiện nay đang phải nhập khẩu 100% cho nên cần

phải phối hợp với cơ sở lọc dầu Dung Quất ngay khi đi vào sử dụng để xây dựng

sớm nhất nhà máy xơ sợi tổng hợp công suất trên 30.000 tấn/năm.

Thứ hai là định hướng phát triển ngành kéo sợi, cần nâng cấp công nghệ

kéo sợi truyền thống theo phương pháp cọc nồi (tuy chi phí cao), đồng thời mở

rộng công nghệ kéo sợi OE rotor và kéo sợi thổi khí hiện đại vì có công suất gấp

8-10 lần công nghệ truyền thống. Hai phương pháp công nghệ hiện đại này trong

những năm tới phải chiếm 35% tổng sản lượng sợi với công suất 5.000tấn/năm.

Thứ ba là định hướng phát triển ngành dệt. Trước hết chúng ta cần nhanh

chóng chuyển công nghệ dệt thoi vốn đã quá lạc hậu (năng suất thấp và ô nhiễm)

sang công nghệ dệt không thoi như dệt kim, dệt thổi khí, dệt phun nước với chất

lượng tốt, năng suất cao. Quy mô tối ưu của một nhà máy dệt theo công nghệ

mới này vào khoảng 15 triệu mét vải/năm, khổ vải cỡ 160cm - 360cm, sử dụng

được loại sợi đàn hồi Lycra, Spandex.

Thứ tư là định hướng phát triển ngành dệt kim. Do tiêu dùng hàng dệt kim

mở rộng (ở Mỹ chiếm 50% tổng nhu cầu hàng dệt), nhất là hàng dệt kim từ bông

và sợi đàn hồi, cho nên chúng ta cần chú trọng phát triển ngành này. Tuy nhiên,

cần tính toán công suất tối ưu cho một nhà máy dệt kim cỡ 2000 tấn sản

phẩm/năm, đảm bảo liên hoàn các khâu dệt-nhuộm-hoàn tất và sản phẩm vải tổng

hợp Filamăng. Công nghệ in hoa-nhuộm-hoàn tất là phức tạp nhất trong việc

quyết định chất lượng cao. Vậy nên ưu tiên chọn thiết bị công nghệ Tây Âu hay

Nhật Bản với quy mô nhà máy cỡ 25 triệu tấn mét/năm. Mặt khác, vải Filamăng

rất cần để may áo Jacket có mài da quả đào nên cần được đầu tư sản xuất với

công suất nhà máy 20 triệu mét/năm, kiểu công nghệ liên hợp dệt - nhuộm - hoàn

tất.

3.2. HỆ THỐNG CÁC NHÓM GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ NÂNG CAO NĂNG

LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM.

Như đã nêu ở quan điểm một, đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao năng lực

cạnh tranh là hai mặt thống nhất của chiến lược tăng tốc xuất khẩu dệt may của

Việt Nam trong nhiều năm tới. Hai mặt đó luôn luôn hỗ trợ qua lại cho nhau một

cách biện chứng. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu, để nâng cao năng lực cạnh

tranh, trong đó có mặt thứ hai được nhấn mạnh, cần phải tập trung trước hết vào

các nhóm giải pháp chủ yếu sau :

3.2.1. Nhóm giải pháp Marketing (nghiên cứu thị trường và hoạch định

chiến lược thị trường).

3.2.1.1. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường

* Ý nghĩa của giải pháp này

Thực tế thời gian qua, do nhiều lẽ, chúng ta còn thiếu thông tin thị trường

để có thể chớp kịp thời các cơ hội kinh doanh trong từng thời điểm cụ thể. Cần

nhấn mạnh rằng, hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên của

hoạt động kinh doanh nói chung cũng như trong việc xuất khẩu hàng dệt may

nói riêng. Bởi lẽ, mọi quyết định trong kinh doanh, từ việc xuất khẩu những

chủng loại sản phẩm gì, bao nhiêu đến việc xuất khẩu vào thời điểm nào có lợi

nhất… đều phải xuất phát từ nhu cầu biến động cụ thể của thị trường ở từng thời

điểm khác biệt.

Ngày nay, theo quan điểm Marketing, thông tin thị trường là yếu tố đầu

tiên vào số một của kinh doanh hiện đại theo mô hình :

Hình 1- Các bước chính của mô hình kinh doanh hiện đại trong

Marketing.

THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG

(1) ⇒

XÁC ĐỊNH NHU CẦU

(2) ⇒

CHIẾN LƯỢC THỊ TRƯỜNG

(3) ⇒

CHIẾN LƯỢC SẢN XUẤT

(4) ⇒

CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU

(5) ⇒

Theo quan điểm của các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi, thông tin ngày nay

là yếu tố đầu vào vốn vô hình, sau đó mới nói tới yếu tố đầu vào số hai là vốn

hữu hình thông thường. Cũng theo quan điểm đó, thông tin là tài sản của mọi tài

sản trong kinh doanh hiện đại. Thông tin cần và đủ được thu thập từ hoạt động

Marketing nghiên cứu thị trường là bước đầu tiên quyết định mọi thành bại của

doanh nghiệp. Như vậy, nếu chưa chú trọng hoạt động Marketing nghiên cứu thị

trường, chưa có thông tin để nắm bắt đầy đủ nhu cầu của thị trường thì chưa bàn

đến chiến lược tăng tốc xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh một cách có

hiệu quả.

* Nội dung thông tin: Gồm nhiều loại thông tin sâu rộng, trước hết là

những thông tin cơ bản sau :

- Thông tin về nhu cầu và mức nhập khẩu của từng thị trường. Trong xuất

khẩu dệt may, cần nhấn mạnh sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã theo mốt mới

nhất bởi lẽ dệt may là hàng rất nhạy cảm, là hàng mang tính văn hoá thời trang

cao với nhiều "gu", "mốt" phong phú và đa dạng.

- Thông tin về các quy định pháp lý hay thể chế hải quan của từng thị

trường, trong đó phải nhấn mạnh các quy định buôn bán cụ thể của Hiệp định

hàng dệt may (ATC) hay Hiệp định đa sợi (MFA), các quy định về an toàn và

môi trường, các thể chế hải quan và chính sách buôn bán của nước nhập khẩu...

- Thông tin về hệ thống tiêu thụ của thị trường, gồm các loại kênh phân

phối trực tiếp, gián tiếp, hệ thống các kênh bán buôn và bán lẻ của từng thị

trường nhập khẩu (như đã nêu ở chương II).

- Thông tin về đối thủ cạnh tranh để có thể biết rõ mình đang ở đâu trong

cuộc cạnh tranh quốc tế hay hiện nay đang thường xuyên đương đầu với các đối

thủ đó. Cần phải có thông tin đầy đủ về họ trên các khía cạnh cụ thể như : kim

ngạch và thị phần xuất khẩu, cơ cấu các chủng loại sản phẩm, chất lượng và giá

thành sản phẩm, các chiến lược thị trường, sản phẩm và giá cả của họ trong cạnh

tranh...

Chỉ khi nắm bắt được đầy đủ các thông tin, doanh nghiệp Việt Nam mới có

thể thực hiện thành công chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may và nâng

cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. * Tổ chức triển khai nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin cần thiết.

Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh cũng như khả năng cụ thể về nhân lực, tài

lực và doanh nghiệp, trước hết là Tổng công ty dệt may (Vinatex), có thể kết hợp

linh hoạt cả phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp điều tra, khảo sát

tại thị trường để tiến hành nghiên cứu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy

mạnh xuất khẩu có hiệu quả cao, cần ưu tiên phương pháp nghiên cứu thứ hai. Để

thu thập thông tin cập nhật có thể tiến hành linh hoạt những hình thức tổ chức sau

:

- Lập cơ quan đại diện của doanh nghiệp ở thị trường nhập khẩu nước

ngoài.

Cần xác định rõ hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường là một trong

những nhiệm vụ cơ bản của cơ quan đại diện cho doanh nghiệp ở những thị

trường nhập khẩu chủ yếu (Mỹ, EU, Nhật Bản). Đương nhiên, người đảm nhận

phải thực sự có chuyên môn cao và đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu của doanh

nghiệp để có được những thông tin cập nhật và sâu rộng theo nội dung nêu trên.

Chú ý rằng, đây là hình thức tổ chức nghiên cứu có hiệu quả cao vì người thực

hiện được doanh nghiệp giao nên có trách nhiệm cao, chuyên môn đủ mạnh và

đặc biệt là tiếp cận sâu sát hàng ngày với mọi biến động thực tế của thị trường cụ

thể.

- Hợp tác chặt chẽ với cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước nhập khẩu

trong việc nghiên cứu và thu thập thông tin cần thiết về thị trường dệt may.

Hình thức nghiên cứu này cũng có nhiều ưu điểm:

* Người hợp tác nghiên cứu cũng là người Việt Nam, được Bộ Thương

mại Việt Nam tin cậy nên cũng có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.

* Am hiểu chuyên môn trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam với

chính quyền nước sở tại.

* Cũng tiếp cận hàng ngày với thị trường nước sở tại.

- Thuê chuyên gia tư vấn nước sở tại để thu thập thông tin thị trường, trong

đó ưu tiên sử dụng Việt kiều có tâm huyết với Tổ quốc. Hình thức này có ưu

điểm nổi bật là, chuyên gia tư vấn am hiểu sâu rộng hơn tình hình thực tế nước sở

tại, tiếp cận nhanh và có hiệu quả nhiều kênh thông tin mà hai hình thức trên khó

thực hiện được. Tuy nhiên, chi phí theo hợp đồng thuê chuyên gia tư vấn đó

thường khá cao. Song xét cho cùng vẫn là tiền nào của ấy và mục tiêu chính là

hiệu quả kinh doanh. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, hình thức thuê chuyên gia tư

vấn đang được không ít doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Trung Quốc, Thái Lan,

Indonesia áp dụng và được xem như một trong những yếu tố thành công trong

kinh doanh của họ ở thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản.

- Ngoài ra, có thể ký kết hợp đồng mua thông tin từ những hãng tin cậy của

nước phát triển theo sự thoả thuận như Vietso Petro đang áp dụng. Hoặc cũng có

thể thu thập thông tin bằng những kênh tình báo mà doanh nghiệp có thể tiếp cận

được bằng nhiều cách đa dạng...

3.2.1.2. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam:

Căn cứ vào nội dung nghiên cứu thị trường ở chương I và khả năng xuất

khẩu của Việt Nam đã nêu ở chương II, căn cứ vào mục tiêu định hướng chiến

lược và năng lực cạnh tranh của ta trong thời gian tới, thị trường xuất khẩu dệt

may của Việt Nam đến năm 2010 vẫn tập trung chủ yếu vào các nước phát triển

Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, thứ đến các nước ASEAN nói riêng và châu á nói

chung,các nước còn lại khác (thuộc châu Mỹ Latinh, châu Phi) sẽ không đáng kể.

Chiến lược thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam được xác

Bảng 18: Chiến lược thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam những năm tới.

định theo tỷ trọng cụ thể như sau :

Nước/ Khu vực Tỷ trọng Đặc điểm chính T

T (%)

1 Bắc Mỹ Chủ yếu là Mỹ, tiêu dùng nhiều 40

hàng dệt kim

2 Liên minh Châu Âu (EU) 30 Nhu cầu và kênh phân phối đa

dạng

3 Nhật Bản 15 Chặt chẽ về chất lượng tâm lý cẩn

trọng

4 ASEAN Yêu cầu chất lượng ít chặt chẽ 6

Chủ yếu Đài loan, Hàn Quốc 6 5 Các nước Châu Á

6 Các nước và khu vực Nga, Đông Âu, Mỹ Latinh và 3

khác Châu Phi

Nguồn: Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại

Như vậy, trong cơ cấu của chiến lược thị trường xuất khẩu theo bảng trên,

ngành dệt may Việt Nam tập trung hầu hết các nguồn lực để xuất khẩu vào thị

trường các nước phát triển với tỷ trọng lên tới 85%, thứ đến các nước đang phát

triển châu Á chiếm 12%, trong đó riêng khu vực các nước ASEAN chiếm 6%,

tương đương với các nước châu Á khác, nhưng chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc,

thứ đến Hongkông. Cuối cùng, thị trường các nước và các khu vực còn lại khác

chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể với 3% gồm Nga, Đông Âu, Mỹ Latinh và

châu Phi. Cần lưu ý rằng, cơ cấu chiến lược thị trường thể hiện rõ tính năng động

, mềm dẻo và linh hoạt (flexibility) theo đặc điểm của nền kinh tế thị trường để

có sự điều chỉnh cần thiết trong từng thời điểm cụ thể.

Đặc biệt, trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào nhóm nước

phát triển, Bắc Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm tới 40%, trong đó hầu

hết vẫn là thị trường Mỹ (gần 38%). Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng

dệt may thế giới. một thị trường khổng lồ đầy hấp dẫn và cũng đầy gai góc về chế

độ phân biệt đối xử, về những yêu cầu khó tính và những thể lệ hải quan phức

tạp. Nếu trước năm 2002, thị phần hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Mỹ chỉ

chiếm dưới mức 0,005% thì sang năm 2002, con số này đã được cải thiện đáng

kể và đạt mức gần 1,5%, trong đó loại hàng dệt kim đang được tiêu thụ ở thị

trường Mỹ nhiều hơn so với EU và Nhật Bản.

Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam cũng chiếm thị phần khiêm tốn với mức

gần 2% ở thị trường EU và 3% ở thị trường Nhật Bản. Tiêu chuẩn chất lượng và

an toàn đều đặt ra nghiêm ngặt ở Mỹ cũng như cả hai thị trường này. Riêng ở thị

trường Nhật Bản, tâm lý cảnh giác đối với nhà xuất khẩu dệt may nước ngoài cả

về chất lượng hàng và tính chính xác về thời hạn giao hàng vẫn còn là một cản

trở không nhỏ mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần khắc phục.

Dù sao, các nước phát triển vẫn là thị trường mục tiêu trọng yếu trong

chiến lược xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong suốt nhiều năm tới.

3.2.2. Nhóm giải pháp về chiến lược sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh

tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam.

3.2.2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh.

Chất lượng sản phẩm là công cụ cạnh tranh số một trong xuất khẩu. Do

đó, nâng cao chất lượng là tiêu chuẩn hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh

và đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả. Trên thực tế, tuy hàng dệt may Việt Nam đã thâm nhập được vào thị

trường thế giới với kim ngạch năm 2002 lên tới 2,7 tỷ USD, tăng trên 38% so với

năm 2001, nhưng nhìn chung, chất lượng hàng dệt may của ta vẫn còn nhiều hạn

chế về năng lực cạnh tranh so với các nhà xuất khẩu trong khu vực như Trung

Quốc, Thái Lan, Indonesia. Ấn Độ...Chỉ có so sánh như vậy, chúng ta mới nhìn

mình được đầy đủ hơn. Thực ra, nếu nói chất lượng đã được nâng cao nhiều so

với những năm trước, điều đó chỉ đúng so với điểm xuất phát quá yếu kém của

chính mình, nhưng đánh giá chưa toàn diện.

Nhìn chung, so với nhiều nước xuất khẩu trong khu vực (chưa nói đến các

nước phát triển), chất lượng hàng dệt may của ta hiện nay bộc lộ nhiều mặt non

yếu như :

Thứ nhất, chất liệu tạo sản phẩm. Nguyên liệu bông xơ hoặc sợi tổng hợp

nhập khẩu thường không đồng đều, các loại hoá chất (thuốc nhuộm, thuốc tẩy)

cũng như các loại phụ liệu (khoá, mex...) nhập khẩu cũng không đồng bộ. Quá

trình vận chuyển bảo quản, điều kiện khí hậu, thời tiết, độ ẩm cao làm cho chất

lượng hầu hết các loại trên đều bị ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau. Chất

liệu tạo thành sản phẩm dệt may bị ảnh hưởng tất yếu sẽ chi phối trực tiếp chất

lượng của sản phẩm cuối cùng.

Thứ hai, các công nghệ kéo sợi, dệt vải, nhuộm, tẩy, hấp, in... và trình độ

kỹ thuật chuyên môn của người quản lý, cho đến tay nghề của công nhân cũng

đều bị hạn chế. Như đã nêu ở chương II, trình độ công nghệ trang thiết bị trong

ngành dệt may nước ta nói chung đang ở giai đoạn tạo dựng, còn bị lạc hậu so

với các nước đang phát triển trong khu vực thường từ 5 - 10 năm. Đội ngũ tác

nghiệp của ta tuy đã rất cố gắng song nhìn chung chưa được đào tạo đầy đủ, vừa

yếu về chất lượng lại vừa thiếu về số lượng bởi lẽ ngành công nghiệp dệt may

xuất khẩu Việt Nam đi sau những nước đang phát triển châu Á từ 1 - 5 thập kỷ và

đi sau các nước phát triển hàng thế kỷ.

Thứ ba, các sản phẩm hàng may của ta mới bước đầu đạt tiêu chuẩn chất

lượng quốc tế, hiện tại còn ít chủng loại, mẫu mã còn nghèo, chưa đáp ứng được

kịp thời nhu cầu "mốt" thời trang mà thị trường đòi hỏi.

Những mặt hạn chế trên về chất lượng hàng dệt may đang đặt ra những

giải pháp cần thiết, vừa phải cụ thể ở từng khâu, vừa phải đồng bộ trong toàn

Ngành dệt may. Trước mắt, trong điều kiện có hạn hiện nay, có hai giải pháp lớn

khả thi.

Một là, rà soát lại toàn bộ các công nghệ kéo sợi, dệt vải đến công nghệ

may. Trên cơ sở đó, cần chấn chỉnh và nâng cấp những khâu trọng điểm nhất để

khẩn trương nâng cao chất lượng sản phẩm từ tất cả các khâu đó.

Hai là, đầu tư tập trung vào khâu nghiên cứu, cải tiến mẫu mã, thiết kế

tạo"mốt" nhằm đáp ứng nhu cầu thời trang đa dạng của thị trường các nước phát

triển. Để làm được điều đó, trước hết có thể thu hút các chuyên gia thời trang,

những nhà tạo "mốt" giỏi trong nước với mức lương đủ hấp dẫn để thực hiện.

Mặt khác, có thể thuê tư vấn nhà tạo "mốt" nước ngoài có uy tín với mức lương

cao hơn hợp đồng thoả thuận, để cách mạng mẫu "mốt" sao cho đủ hấp dẫn thị

trường thế giới theo nhu cầu thời trang hiện hành ở từng thời điểm.

Ba là, chấn chỉnh lại và nâng cấp khâu bao bì, đóng gói, nhãn mác. Trước

hết, bao bì của hàng dệt may Việt Nam phải đảm bảo thực thi 7 chức năng trong

kinh doanh quốc tế là :

(1) Bảo vệ: phải đảm bảo nghiêm ngặt chất lượng

(2) Giới thiệu: phải cung cấp đủ thông tin cần thiết về sản phẩm bán ở siêu

thị

(3) Khuân vác: phải dễ dàng, tiện lợi

(4) Duy trì: trong quá trình vận chuyển đi xa phải giữ được nguyên vẹn các

giá trị sản phẩm.

(5) Cân đối: phải cân đối hợp lý và có tính thiện cảm

(6) Thúc đẩy: phải hấp dẫn, thu hút được khách hàng .

(7) Sẵn sàng: phải nhanh chóng, đúng thời hạn hợp đồng

Bảy chức năng này (còn gọi là 7 "Ps") là tiêu chuẩn quốc tế cần phải được

tuân thủ đầy đủ, đặc biệt là chức năng (1), (3), (6) và (7) đối với tình hình xuất

khẩu hàng dệt may hiện nay của Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh có

hiệu quả.

Bốn là, đẩy mạnh hơn nữa tiêu chuẩn chất lượng quốc tế trong sản xuất và

xuất khẩu hàng dệt may đối với các doanh nghiệp trong toàn quốc. Trong tất cả

các doanh nghiệp, cần phải nhấn mạnh hơn nữa ý nghĩa của việc thực hiện tiêu

chuẩn hoá chất lượng theo ISO 9000 và SA 8000 nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh trong xuất khẩu, kể cả khi thâm nhập thị trường mới cũng như mở rộng thị

trường hiện hữu. trong quá trình thực hiện cần có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ

đảm bảo chất lượng thật nghiêm ngặt.

Trên đây là 4 giải pháp trước mắt, dễ thực thi hơn và ít tốn kém hơn, trong

điều kiện tài chính có hạn. Về lâu dài, giải pháp triệt để hơn phải là chiến lược

đổi mới công nghệ hiện đại (sẽ trình bày tập trung ở ngay phần sau ).

3.2.2.2. Giải pháp tập trung hoá kết hợp đa dạng hoá sản phẩm với nhiều mẫu

mã "mốt" thời trang.

Để đẩy mạnh xuất khẩu trong kinh doanh hiện đại, các nhà quản lý giỏi

trên thế giới thường rất chú trọng vấn đề kết hợp lâu dài đồng thời cả hai xu

hướng là tập trung hoá và đa dạng hoá sản phẩm.

Tập trung hoá trong xuất khẩu dệt may là sử dụng nhiều nguồn lực vào

một hay một số nhóm hoặc loại sản phẩm có nhu cầu lớn mà doanh nghiệp Việt

Nam có nhiều lợi thế nhất và dễ thực hiện nhất. Cụ thể ở đây là nhóm sản phẩm

áo dệt kim nữ (hiện năm 2002 chúng ta đạt kim ngạch lớn nhất : 55,2 triệu USD)

và áo dệt kim nam (đứng thứ hai : 49,4 triệu USD). Thực tế cho thấy, tập trung

hoá sản phẩm vào một vài nhóm này sẽ tăng nhanh được số lượng và chất lượng,

đồng thời giảm được giá thành sản phẩm và do đó, nâng cao được năng lực cạnh

tranh đồng thời trên nhiều mặt, có hiệu quả cao rõ rệt. Do vậy, giải pháp tập trung

hoá sản phẩm cao là hướng tích cực, cần thiết và trong thời gian tới cần có sự

quan tâm hợp lý.

Tuy nhiên, quy luật thị trường thế giới luôn luôn biến động. Nếu chỉ tập

trung hoá vào một vài nhóm sản phẩm sẽ dễ bị rủi ro lớn nếu nhu cầu thị trường

bị thu hẹp đột ngột. Để khắc phục kịp thời rủi ro trên, doanh nghiệp tất yếu phải

áp dụng hướng đa dạng hoá sản phẩm. Đây là giải pháp mở rộng danh mục sản

phẩm đến mức tối đa mà nhu cầu thị trường và khả năng doanh nghiệp có thể,

nhằm ứng phó hữu hiệu nhất mọi biến động thường xuyên của thị trường và rủi

ro phát sinh. Với giải pháp này, doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể thực

hiện đồng thời cả hai hình thức. Một là, trong mỗi nhóm hàng hiện nay, như sơ

mi nam (kim ngạch năm 2002 đứng thứ 9, đạt 12,1 triệu USD) doanh nghiệp mở

rộng đa dạng hơn nữa nhiều loại sơ mi nam có tay, cộc tay, nhiều mẫu mã, kiểu

dáng, màu sắc, chất liệu sợi khác nhau... Hai là, doanh nghiệp mở rộng các nhóm

hàng mới có thể như quần áo bò, vest nam cao cấp... từ mỗi nhóm mới này lại

tiếp tục đa dạng hoá chi tiết theo các mẫu mã, kiểu dáng phong phú hơn.

Tập trung hoá và đa dạng hoá sản phẩm cần phải đồng thời kết hợp một

cách hợp lý, hài hòa tuỳ thuộc vào thị trường và khả năng của doanh nghiệp. Hai

hướng giải pháp này không hề mâu thuẫn nhau và là hai mặt thống nhất của chiến

lược phát triển trong kinh doanh hiện nay vừa để tăng nhanh số lượng và chất

lượng của mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vừa để ứng phó hữu hiệu trước những rủi

ro biến động của thị trường.

Đừng quên rằng , kết quả của giải pháp này cần phải đạt được là việc mở

rộng nhanh chóng các mẫu mã đa dạng, đặc biệt là các "mốt" mới độc đáo, đáp

ứng kịp thời nhu cầu thời trang khó tính của thị trường các nước phát triển. Đây

là giải pháp tích cực để nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu có

hiệu quả. Đây còn là giải pháp thiết thực để có nhiều sản phẩm phong phú mang

'thương hiệu Việt Nam", nâng cao được uy tín cạnh tranh trên thị trường...

3.2.3. Nhóm giải pháp về chiến lược đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực

cạnh tranh .

3.2.3.1. Giải pháp về chiến lược công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh.

* Công nghệ dệt may thế giới :

Trước đây, khi bàn về năng suất lao động của đại công nghiệp cơ khí tư

bản chủ nghĩa, K. Mác đã nhấn mạnh: "máy móc thiết bị là đôi đũa thần kỳ diệu"

[15]. Điều đó vẫn hoàn toàn đúng trong thời đại hiện nay nói chung và trong

ngành công nghiệp dệt may nói riêng. Không phải ngẫu nhiên khi nói đến vai trò

của công nghệ, các chuyên gia Liên hợp quốc lại minh hoạ trình độ công nghệ

của hãng dệt may Benelleon của Ý như một mô hình tiêu biểu (hình 2).

Hình 2- Mô hình công nghệ tự động hoá của hãng dệt may Benellon (Ý )

THIẾT KẾ (TỰ ĐỘNG)

THIẾT KẾ BẰNG MÁY TÍNH

NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THIẾT KẾ

SẢN XUẤT (TỰ ĐỘNG)

ĐIỀU HÀNH BẰNG MÁY TÍNH

HỆ THÔNG ROBOT LAZE TỰ ĐỘNG

HỆ

NHẬP KHO (TỰ ĐỘNG)

THỐNG

40.000 ĐƠN VỊ SẢN PHẨM MÀ CHỈ CẦN 6 NGƯỜI

MÁY

TÍNH

TRUNG

XUẤT KHO NGÂN HÀNG DỰ (TỰ ĐỘNG) LIỆU THIẾT KẾ

TÂM

HỆ THỘNG ĐIỀU PHỐI TỐI ƯU TỚI 2500 CỬA HÀNG Ở TÂY ÂU VÀ 7000 CỬA HÀNG TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

CÁC MÁY ĐẾM TIỀN (TỰ ĐỘNG)

THIẾT KẾ BẰNG MÁY TÍNH

Từ mô hình trên, chúng ta thấy, toàn bộ các khâu công nghệ chủ yếu của

hàng dệt may Benellon, từ thiết kế và sản xuất đến lưu thông phân phối và thu

tiền đều áp dụng công nghệ tự động hoá cao với sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống

máy tính hiện đại.

- Khâu thiết kế được tự động hoá với sự hỗ trợ của máy tính và ngân hàng

dữ liệu.

- Khâu sản xuất cũng được tự động hoá và điều hành bằng máy tính và hệ

thống robot laser tự động.

- Khâu sản xuất nhập kho đều tự động hoá với mức 40.000 sản phẩm mỗi

ngày nhưng chỉ cần biên chế 6 người làm việc.

- Khâu xuất kho cũng được tự động hoá đưa tới hệ thống điều phối.

- Khâu điều phối được tiến hành thông qua hệ thống điều phối tối ưu để

đưa sản phẩm tới 2.500 cửa hàng ở Tây Âu và 7000 cửa hàng trên toàn cầu (trên

phạm vi rộng).

Từ mô hình công nghệ tiêu biểu trên và những thuyết minh tóm tắt đó, có

thể đi đến kết luận rằng, trong điều kiện ngày nay, yêu cầu thích ứng và tồn tại

của doanh nghiệp trước hết là thích ứng với công nghệ mới, công nghệ là điều cơ

bản có ý nghĩa quyết định.

* Giải pháp chiến lược công nghệ dệt may của Việt Nam

- Thứ nhất là sơ đồ tóm tắt. Từ thực tiễn khảo sát trên, có thể nói, chiến

lược đầu tư công nghệ hiện đại và đồng bộ ngành công nghiệp dệt may Việt Nam

hiện nay có ý nghĩa quyết định lâu dài nhằm tạo ra bước đột phá lớn cho việc

tăng tốc kim ngạch xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Chiến lược công nghệ là chìa khoá đảm bảo sản phẩm chất lượng cao và hạ

giá thành vì nó làm thay đổi tận gốc các khâu trong quá trình sản xuất từ công

nghệ kéo sợi tới công nghệ may như ở hình 3.

Hình 3- Công nghệ sản xuất quyết định sản phẩm đa dạng hoá cao, chất lượng tốt và giá thành thấp.

Nguyên liệu tự nhiên từ nông nghiệp (bông, lông, kén,…)

Nguyên liệu nhân tạo từ công nghiệp hoá than, dầu

(1) NGUYÊN LIỆU DỆT

TẨY HẤP

TB KÉO SỢI

(2) CÔNG NGHỆ KÉO SỢI

)

I

TB NHUỘM TẨY

THUỐC NHUỘM

(3) CÔNG NGHỆ NHUỘM

C Ô N G

I

T H I Ế T

N G H I Ệ P

TB DỆT

TẨY HỒ

B Ị

T Ấ H C Á O H P Ệ H G N G N Ô C

(4) CÔNG NGHỆ DỆT VẢI

C H Ế

N Ệ H T N À O H G N Ừ G N G N Ô H K M Ẩ H P N Ả S C Á C

I

Ớ V

(

T Ạ O M Á Y

TB MAY

HẤP, IN

(5) CÔNG NGHỆ MAY

Tập hợp các chủng loại sản phẩm dệt may

(ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ GIÁ THÀNH THẤP)

Có thể thuyết minh thêm cho hình 1 với 5 bước công nghệ chủ yếu:

(1): Nguyên liệu dệt, đặc biệt là nguyên liệu nhân tạo, phụ thuộc sâu sắc

vào công nghệ sản xuất trong ngành hoá than đá, hoá dầu mỏ để tạo ra nhựa hạt

và tiếp đó là các loại sợi tổng hợp. Ngay từ bước đầu, rõ ràng nguyên liệu dệt đã

rất đa dạng cả về chủng loại lẫn phẩm cấp và do công nghệ sản xuất quyết định.

(2): Công nghệ kéo sợi càng hiện đại sẽ có khả năng chế tác nguyên liệu

thành những loại sợi càng mảnh nhỏ, siêu nhỏ với chất lượng cao. Bản thân công

nghệ kéo sợi hiện đại, đến lượt nó, lại được quyết định bởi chất lượng hoàn thiện

của thiết bị mà ngành chế tạo cung cấp, vào giá thành/giá cả thiết bị và hoá chất,

vào khả năng tài chính của doanh nghiệp đầu tư. Vì các thiết bị kéo sợi và hoá

chất tẩy hấp gồm nhiều loại khác nhau cho nên cũng tạo ra nhiều chủng loại sợi

đa dạng.

(3), (4), (5): Các bước công nghệ nhuộm, dệt vải và may cũng phụ thuộc

vào nhiều yếu tố khác nhau về trình độ hiện đại (thế hệ cũ hay mới) và nguyên lý

vận hành. Đơn cử về nguyên lý vận hành của công nghệ dệt phẳng hay dệt tròn,

dệt truyền thống hay dệt kim, dệt thuỷ hay dệt khí lại có tương ứng các loại vải

có chất lượng khác nhau... Từ sơ đồ tóm tắt trên, cần nhấn mạnh:

- Chiến lược công nghệ dệt may gắn liền với hậu phương cung cấp trực

tiếp từ 3 ngành: ngành nông nghiệp (cung cấp nguyên liệu tự nhiên), ngành công

nghiệp chế tạo máy, thiết bị (cung cấp máy, thiết bị, dệt may), ngành hoá chất

(cung cấp nguyên liệu nhân tạo, hoá chất nhuộm tẩy).

- Chiến lược công nghệ dệt may giải quyết các yêu cầu công nghệ cho toàn

ngành, từ giải pháp về nguồn nguyên liệu và công nghệ kéo sợi đến công nghệ

nhuộm - dệt, tẩy in và công nghệ may.

Thứ hai, chiến lược công nghệ dệt may trước hết phải xuất phát từ biến

động thị trường (nhu cầu, giá cả) và bản thân doanh nghiệp (khả năng, mục tiêu)

theo định hướng vĩ mô của Nhà nước.

Thứ ba, Chiến lược công nghệ dệt may phải theo một lộ trình thích hợp,

tuy thuộc vào mục tiêu về chiến lược thị trường và về chiến lược sản phẩm của

doanh nghiệp. Nguyên tắc chung của chiến lược công nghệ dệt may là: thị trường

và cạnh tranh, lựa chọn sản phẩm xuất khẩu, đầu tư và đổi mới công nghệ, máy

móc thiết bị và hoá chất dệt may (số lượng, chủng loại, tính năng...).

Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng, giải pháp về chiến lược, công nghệ và giải

pháp quyết định sâu sắc nhất trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Bởi lẽ

công nghệ mới là cái gốc tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đa dạng về chủng loại,

kiểu dáng, nhiều mẫu "mốt" mới, đáp ứng được xu hướng văn hoá thời trang ở thị

trường các nước phát triển. Công nghệ mới còn là "đôi đũa thần kỳ diệu" [21]

cho bước đột phá, tăng tốc kim ngạch xuất khẩu do tăng nhanh được sản phẩm cả

về số lượng và chất lượng, đồng thời xây dựng được ngày một vững chắc thương

hiệu Việt Nam cho hàng dệt may xuất khẩu tạo được chữ "tín" cao trên thương

trường thế giới. Chiến lược công nghệ thực sự là bước ngoặt làm thay đổi hẳn

cục diện một ngành công nghiệp xuất khẩu, có ý nghĩa thay da đổi thịt cho một

mỹ nhân dệt may Việt Nam mới, đủ tự tin tiếp cận với khách hàng thượng lưu,

hào hoa, khó tính...

3.2.3.2. Giải pháp về vốn đầu tư cho chiến lược công nghệ .

Chiến lược công nghệ là tất yếu đòi hỏi phải có vốn đầu tư cần thiết. Đến

đây, lại phát sinh ba vấn đề đáng chú ý:

Một là, huy động vốn đầu tư, theo kinh nghiệm của nhiều nước xuất khẩu

dệt may, cần khai thác triệt để từ các nguồn sau :

- Nguồn vốn từ phía Nhà nước. Đầu tư công nghệ phát triển ngành công

nghiệp dệt may thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nằm trong kế

hoạch định hướng vĩ mô của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Nhà nước cần có chính

sách ưu tiên hợp lý để đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng chế biến này, trước hết là

ưu tiên vốn đầu tư. Tính hợp lý này cần thể hiện rõ ở hạng mục ưu tiên cấp vốn,

lượng vốn và thời gian cấp vốn.

- Nguồn vốn tự có trong hạng mục đầu tư của bản thân ngành dệt may mà

Bộ Công nghiệp quản lý.

- Nguồn từ việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

- Nguồn từ vốn ODA

- Nguồn vốn vay ngân hàng

- Các nguồn vốn khác có thể...

Hai là, cần có kế hoạch huy động vốn cụ thể. Vốn đầu tư tuy lớn nhưng

không phải đòi hỏi ngay một lúc mà diễn ra ở từng thời điểm cụ thể theo lộ trình

công nghệ đã nêu trên.

Ba là, việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Theo lộ trình công nghệ, vốn đầu

tư phải đồng bộ và có trọng điểm nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu. Đồng bộ là tuân

thủ yêu cầu khách quan của đặc điểm công nghệ. Trọng điểm là yêu cầu chủ quan

đối với người quản lý tốt, có đầu óc nhìn nhận và phát hiện nhanh. Hiệu quả là

yêu cầu vốn dĩ trong hoạt động kinh tế. Thiết bị vốn hiện đại, giá nhập cao nhưng

trình độ hiện nay chưa khai thác triệt để thiết bị đó thì rõ ràng là không hiệu quả.

3.2.4. Nhóm giải pháp về chiến lược chi phí xuất khẩu thấp và tăng nhanh

phương thức tự doanh trong xuất khẩu.

3.2.4.1. Giải pháp về chiến lược chi phí xuất khẩu thấp, nâng cao năng lực

cạnh tranh.

Trong kinh doanh hiện đại, chi phí, giá thành và giá cả là vũ khí cơ bản

quan trọng thứ hai (sau chất lượng sản phẩm )của cuộc chiến tranh khốc liệt hiện

nay. Trên thực tế, như đã nêu ở chương 2, nước ta có nguồn lao động dồi dào, do

vậy, giá nhân công rẻ đang là một trong những lợi thế so với nhiều nước khác thì

tham gia vào thương mại quốc tế. So với Việt Nam, giá tiền công của Mỹ, Nhật

Bảng 19: Tình hình giá nhân công trong ngành dệt may của một số nước:

cao hơn hàng chục lần, ngay Trung Quốc cũng cao hơn 2,5 lần.

Tiền công lao động So với Việt Nam Số

Tên nước

(USD/giờ) (lần) TT

(1) (2) (3) (4)

1 Canada 2,65 17,7

2 Mỹ 2,30 15,3

3 Nhật 2,24 14,9

4 Pháp 1,72 11,5

5 Hongkong 1,20 8,0

6 Thái Lan 0,92 6,1

7 Philippin 0,67 4,5

8 Indonesia 0,24 1,6

9 Trung Quốc 0,37 2,5

10 Việt Nam 0,15 -

Nguồn: Tạp chi Nghiên cứu kinh tế thị trường tư nhân, số 7, năm 2001.

Tuy nhiên, trên thực tế, giá thành xuất khẩu dệt may của Việt Nam lại cao

hơn các nước xuất khẩu khác, cụ thể gấp 1-1,2 lần so với Trung Quốc, Indonesia

[13]. Vậy điều gì làm cho Việt Nam có lợi thế hơn Trung Quốc 2,5 lần về giá

nhân công thấp nhưng lại bất lợi thế hơn 1-1,2 lần về giá thành xuất khẩu dệt

may?

Trên thực tế, có nhiều yếu tố chi phí khác trong kết cấu giá thành xuất

khẩu dệt may của Việt Nam hiện cao hơn Trung Quốc, đơn cử như :

- Về nguyên vật liệu dệt may, Việt Nam phải nhập khẩu trên 90% hoá chất

thuốc nhuộm và 85% bông, trong khi đó Trung Quốc hầu như chỉ phải nhập trên

30% thuốc nhuộm và hầu như không phải nhập khẩu bông. Do tỷ trọng nội địa

hoá của Trung Quốc cao nên giá rẻ hơn 60% so với giá nhập khẩu. Trong cơ cấu

giá thành của sản phẩm vải, thuốc nhuộm chiếm 7-9% cho nên giá vải Việt Nam

cũng lại cao hơn giá vải Trung Quốc từ 3 - 4 %.

- Về chi phí khâu thiết bị, Việt Nam phải nhập ngoại hầu như 100%, nghĩa

là tỷ lệ nội địa hoá gần như bằng không còn tỷ lệ này của Trung Quốc lên tới

80%. Do vậy chi phí khấu hao sản phẩm vải của Việt Nam lại cao hơn 3-4%...

Nhiều chi phí khác cũng cao hơn, tất cả đã liên tiếp đội giá thành xuất khẩu dệt

may của Việt Nam tăng mạnh và năng lực cạnh tranh yếu kém.

- Về công nghệ dệt may, nhìn chung Việt Nam đi sau Trung Quốc trên 10

năm. Có khâu thuộc công đoạn chuẩn bị như cắt, giác, thiết kế... doanh nghiệp

Việt Nam còn phải làm thủ công. Ở Mỹ, khâu khác như công đoạn may, hoàn tất

(là hơi, bao bì, dán nhãn), thiết bị của ta đều còn lạc hậu hơn bạn 2,5 lần về giá

tiền công nhưng nếu trong ca làm việc, một công nhân của ta sản xuất được 10 sơ

mi (do thiết bị công nghệ lạc hậu), còn một công nhân của bạn sản xuất được 30

sơ mi (do tay nghề cao hơn, thiết bị hiện đại hơn), thì rõ ràng lợi thế về tiền công

bị chìm hẳn, không bù lại kịp lợi thế về tay nghề và thiết bị ! Đó là chưa kể tình

trạng sử dụng máy móc hiện nay của ta thường chỉ khai thác được 50 - 60% công

suất máy móc thiết bị v.v...

- Về trình độ quản lý: cũng thiết bị và người lao động ấy, một công nhân ở

công ty Việt Thắng do người quản lý nước ngoài có thể đứng được 25 - 30 máy

và dệt được 25 mét vải/ca/máy khi vào Liên doanh, cao hơn 2-3 lần so với người

quản lý trong nước, trước khi liên doanh, chỉ đứng được 8-10 máy và chỉ dệt

được 22 mét vải/ca/máy [23]. Vấn đề là người quản lý chưa thực sự làm chủ

được dây chuyền sản xuất, cũng như tiến trình công việc và tiến độ giao hàng

đúng hạn. Do vậy, những chuyến giao hàng gấp vội, phải bằng máy bay chiếm tỷ

lệ khá cao, làm cho cước phí tăng vọt (vì cước phí máy bay là 3 USD/kiện hàng

so với cước đường biển là 1 cent/kiện - chênh lệch 300 lần!).

Giải pháp cụ thể :

Từ việc xác định trên, có thể đi đến giải pháp trọng yếu sau :

- Thứ nhất, cần giảm chi phí nguyên vật liệu mà trước hết là giảm yếu tố

chi phí bông và một số hoá chất có thể giảm được. Về nguyên liệu bông, cần đẩy

mạnh nguồn cung cấp trong nước. Theo một số chuyên gia nông nghiệp, điều

kiện đất đai và khí hậu nước ta khá thuận lợi cho yêu cầu phát triển sinh thái của

cây bông để có thể đạt năng suất và chất lượng không thua kém nhiều nước trên

thế giới. Trong khi đó, bông lại là thức ăn chủ yếu nhất của ngành dệt may.

Ngành dệt may cần có chương trình hợp tác với Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn theo phương thức cùng có lợi, đảm bảo thoả đáng cho người nông dân

có việc làm và thu nhập hợp lý. Giải quyết ổn định nguồn cung cấp bông trong

nước là một bước tiến lớn trong quá trình tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá của sản

phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam trong những năm tới.

Về các sản phẩm hoá chất phục vụ ngành công nghiệp dệt may, cần có sự

hợp tác chặt chẽ với ngành công nghiệp hoá chất dưới sự chỉ đạo chung của Bộ

Công nghiệp để tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá các loại hoá chất cụ thể này. Ngoài

ra, các phụ liệu khác cũng cần tiến hành theo hướng nội địa hoá tích cực.

- Thứ hai, giảm chi phí khấu hao thiết bị, thực chất được khắc phục trong

giải pháp về chiến lược đầu tư công nghệ nói trên. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ,

cần tính toán cụ thể phương hướng nội địa hoá từng bước căn cứ vào sự phát

triển của ngành chế tạo trong tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Mặt khác, bản

thành ngành dệt may cần tổ chức, sắp xếp lại tối ưu các dây chuyền sản xuất

nhằm tăng nhanh hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị hiện có.

3.2.4.2. Giải pháp mở rộng phương thức xuất khẩu trực tiếp hay tự doanh xuất

khẩu.

Chúng ta đều biết, phương thức gia công xuất khẩu chỉ phù hợp với đa số

các doanh nghiệp ở thời kỳ đầu phát triển, do thiếu vốn, thiếu hiểu biết thương

trường. Trên thực tế, các doanh nghiệp chấp nhận phương thức gia công xuất

khẩu là chủ yếu (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành), mặc dù

biết rõ phương thức này thực chất là làm thuê cho các ông chủ đặt gia công ở

nước ngoài, tạm thời chịu thiệt thòi, lợi nhuận thấp.

Sau hơn mười năm kinh doanh thực tế, nhiều doanh nghiệp dệt may đã có

điều kiện tích luỹ và trưởng thành. Mặt khác, với mục tiêu tăng tốc kim ngạch

xuất khẩu và chiến lược đầu tư công nghệ được trình bày ở trên, cục diện ngành

dệt may đang có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2002, nước ta đã bước đầu đột phá thành

công vào thị trường Mỹ, đưa kim ngạch lên 2,73 tỷ USD, tăng trên 38% so với

năm 2001.

Tất cả điều kiện khách quan và chủ quan đang mở ra cho các doanh nghiệp

cách nghĩ mới để có thể hướng vào phương thức xuất khẩu trực tiếp. Để thúc đẩy

và mở rộng nhanh hơn phương thức xuất khẩu trực tiếp (hay tự doanh), cần có

những giải pháp thiết thực và cụ thể như sau :

*Giải pháp đối với doanh nghiệp

Thứ nhất, đổi mới tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hoạt động với các phòng

ban hợp lý, gọn nhẹ, căn cứ vào công việc thực tế và mục tiêu kinh doanh. Việc

thay đổi đó là cần thiết bởi lẽ doanh nghiệp chuyển đổi từ phương thức gia công

với tư cách là người làm thuê, chỉ biết nhận việc và hoàn thành công việc, sang

phương thức xuất khẩu trực tiếp (tự doanh) với tư cách ông chủ, tự xây dựng kế

hoạch kinh doanh và chủ động thực hiện. Vậy, trong cơ cấu tổ chức, cần chú

trọng các bộ phận chức năng như phòng Marketing nghiên cứu thị trường, phòng

xuất khẩu...

Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, bằng mọi cách để

năm bắt được những thông tin cần thiết về thị trường xuất khẩu nhằm xác định

chắc chắn thị trường xuất khẩu mục tiêu để từ đó lập kế hoạch kinh doanh xuất

khẩu sát đúng và năng động triển khai cụ thể theo kế hoạch.

Thứ ba, trong thời gian đầu, nếu cần thiết, doanh nghiệp có thể thuê tư vấn

về thông tin thị trường và nghiệp vụ xuất khẩu để tránh những rủi ro trong kinh

doanh.

*Giải pháp đối với Nhà nước

Để đây mạnh xuất khẩu có hiệu quả, Nhà nước cần có những chính sách

ưu tiên cần thiết đối với những doanh nghiệp chuyển đổi phương thức kinh doanh

xuất khẩu từ gia công sang tự doanh, cụ thể:

- Chính sách tài chính ưu đãi như cho vay với lãi suất thấp, miễm hoặc

giảm thuế trong 3 - 5 năm đầu...

- Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu ở cấp Nhà nước, hỗ trợ kịp thời cho các

doanh nghiệp chuyển đổi. Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại sẽ

đóng vai trò lớn trong hoạt động này để hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hữu quan khác trong việc hỗ trợ

doanh nghiệp, trước hết là các tổ chức tin cậy như Phòng Thương mại và Công

nghiệp, Hiệp hội dệt may Việt Nam...

3.2.5. Các giải pháp còn lại khác:

Ngoài 4 nhóm giải pháp cơ bản trên, để đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam có hiệu quả hơn nữa,

chúng ta còn phải quan tâm đúng mức đến những giải pháp sau :

3.2.5.1. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng cáo trong thời gian tới.

Quảng cáo vốn dĩ là công cụ cạnh tranh quan trọng đối với doanh nghiệp

trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong tình hình cụ thể hiện nay, một khi cạnh

tranh giữa các nhà xuất khẩu càng trở nên gay gắt. Vậy trong thời gian tới, để đẩy

mạnh quảng cáo, cần chú trọng trước hết một số vấn đề cụ thể là :

- Cần quán triệt hơn nữa vai trò và tác dụng của quảng cáo để đẩy mạnh

xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này không phải là mới nhưng

vẫn cần phải nhấn mạnh vì trong thực tiễn kinh doanh xuất khẩu những năm qua,

nhiều doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam tuy biết rõ quảng cáo là cần

thiết nhưng vẫn chưa đầu tư thích đáng ngân sách cho quảng cáo tại thị trường

nước ngoài.

- Doanh nghiệp dệt may Việt Nam , thông qua đại diện của mình hoặc hợp

tác với Thương vụ Việt Nam, tiếp cận tích cực hơn với những hàng quảng cáo và

báo chí có uy tín ở thị trường xuất khẩu nước sở tại để đẩy mạnh hoạt động

quảng cáo sản phẩm của mình, tăng thêm hình ảnh và vị thế cho doanh nghiệp

trong đời sống hàng ngày của đông đảo người tiêu dùng. Từ đó, chúng ta mới có

thể tận dụng được cơ hội ở mọi nơi, mọi lúc để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.

- Cần kết hợp năng động các phương tiện thông tin đại chúng để đẩy mạnh

hoạt động quảng cáo, từ báo chí, truyền hình, phát thanh đến Internet thông qua

việc lập các trang web... Đăng ký thương hiệu sản phẩm ở nước ngoài.

3.2.5.2. Chú trọng hoạt động hội chợ triển lãm thương mại quốc tế và các công

cụ yểm trợ xuất khẩu khác.

Như chúng ta đã biết, điểm mạnh nổi bật của hội chợ triển lãm thương mại

quốc tế là khách hàng hiện diện được cụ thể sản phẩm, do đó, doanh nghiệp quy

tụ được kịp thời bạn hàng và có nhiều cơ hội ký kết được hợp đồng tiêu thụ.

Chính vì thế, hội chợ triển lãm thương mại quốc tế ở các nước nhập khẩu trở

thành công cụ quan trọng trong chính sách yểm trợ Marketing của các doanh

nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu dệt may nói riêng.

Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần mở rộng hơn quan hệ trực tiếp

với tổ chức hội chợ triển lãm ở nước nhập khẩu để đẩy mạnh các hoạt động hội

chợ triển lãm, tìm được nhiều cơ hội cho việc mở rộng xuất khẩu, tiêu thụ sản

phẩm nhanh, nhiều và có hiệu quả.

Doanh nghiệp cần nắm vững đặc điểm của từng loại hội chợ, kế hoạch lịch

trình hội chợ, làm tốt bước chuẩn bị sản phẩm tham gia hội chợ và kế hoạch bán

hàng có hiệu quả.

Ngoài quảng cáo và hội chợ, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh kịp thời các

hoạt động yểm trợ xuất khẩu khác như quan hệ công chúng, bán hàng cá nhân,

mở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, lập các trang web... nhằm đẩy mạnh tiêu

thụ sản phẩm trên quy mô rộng.

3.2.5.3. Giải pháp qui hoạch và đào tạo nguồn nhân lực:

Trên thực tế, chiến lược phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là chiến lược

hàng đầu quyết định thành bại cho mọi chiến lược kinh tế nói chung và chiến

lược đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất

khẩu nói chung.

Do vậy, trong thời gian tới, ngành dệt may Việt Nam cũng như từng doanh

nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc qui hoạch, kiện toàn đội ngũ ổn định và lâu

dài cho nhiều năm. Để làm tốt qui hoạch đó, cần rà soát đầy đủ hiện tại và phân

loại cụ thể, như :

- Công nhân mới tuyển dụng, tay nghề thấp

- Công nhân đã được đào tạo chuyên môn

- Công nhân đã được chuyên môn hoá cao

- Nhân viên hành chính

- Kỹ thuật viên trung cấp (phân loại rõ dệt, may, công nghệ...)

- Kỹ sư (phân loại theo chuyên môn : dệt may, công nghệ ...)

- Cử nhân kinh tế (cũng phân loại cụ thể: tài chính kế toán, ngoại thương,

ngân hàng...)

- Sau đại học (Thạc sỹ, Tiến sĩ)

- Nhà quản lý doanh nghiệp

- Nhà nghiên cứu v.v...

Từ hệ thống phân loại đó, cần có chương trình đào tạo nâng cao chuyên

môn cho từng loại căn cứ vào mục tiêu chiến lược xuất khẩu chung của ngành và

của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo phải được xuất phát từ những yêu cầu

thực tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu theo nguyên tắc thực dụng và hiệu

quả. Do đó, cần phải kết hợp năng động các loại hình đào tạo ngắn hạn và dài

hạn, trong và ngoài nước. Đào tạo ngoại ngữ.

Trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, tăng tốc kim ngạch xuất khẩu và

nâng cao năng lực cạnh tranh hiện nay, cần ưu tiên hợp lý việc đào tạo để có

được những chuyên gia giỏi về tạo "mốt", công nghệ, Marketing, kỹ thuật thương

mại quốc tế... Những chuyên gia, để đủ mạnh, cần phải tiếp cận nhiều với thực

tiễn thị trường các nước phát triển. Cần nhấn mạnh rằng, đội ngũ chuyên gia giỏi

này không chỉ đủ mạnh về chuyên môn tài ba mà còn phải là người có trách

nhiệm cao trong trong công việc, tâm huyết với nghề, với sự nghiệp phát triển

ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của đất nước. Nhà nước cần có chế độ đãi

ngộ cao hợp lý đối với họ (kể cả nhà nghiên cứu và nhà quản lý) nhưng ngược

lại, họ cũng sẵn sàng biết điều chỉnh lợi ích trước mắt của mình cho sự nghiệp lâu

dài phát triển ngành dệt may của đất nước...

Qui hoạch và phát triển nguồn nhân lực tương lai cho cục diện của ngành

dệt may mới Việt Nam cần phải đạt được mục tiêu đó.

Trên đây là hệ thống 5 nhóm giải pháp chủ yếu với 11 giải pháp lớn cụ thể.

Một trong những phương châm được quán xuyến của đề tài là : giải pháp đưa ra

phải mang tính đồng bộ và, hơn thế nữa, phải mang tính trọng điểm mà đề tài cần

tập trung giải quyết. Do vậy, đề tài không có ý định đưa ra nhiều giải pháp một

cách dàn trải để độc giả tiết kiệm thời gian và bớt mệt mỏi. Theo nhận thức có

hạn của nhóm tác giả đề tài, những giải pháp trên là những vấn đề cơ bản nhất và

cũng là những bất cập lớn nhất trong định hướng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu

và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam nhằm

tạo bước đột phá vào tăng tốc kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong thời gian

tới.

KIẾN NGHỊ

Để đảm bảo tính khả thi cao cho định hướng và các giải pháp nêu trên, tôi

xin đưa ra mấy kiến nghị lớn như sau :

Thứ nhất, Nhà nước cần tập trung thích đáng vào chiến lược công nghệ dệt

may nhằm tạo đà đủ mạnh cho bước "cất cánh" của ngành công nghiệp xuất khẩu

nhóm hàng chế biến mũi nhọn hiện nay của nước nhà. Nếu thiếu đầu tư, đổi mới

nhanh chóng công nghệ, việc đẩy mạnh xuất khẩu và việc nâng cao năng lực

cạnh tranh thật khó đạt được và càng khó tăng tốc kim ngạch xuất khẩu như mục

tiêu 8 tỷ USD vào năm 2010. Có thể nói rằng, chiến lược công nghệ dệt may là

bộ phận quan trọng trong chiến lược công nghệ tổng thể của nước ta như Bộ

Khoa học - Công nghệ đã xây dựng. Bởi theo kinh nghiệm thực tế của nhiều

nước, ngành công nghiệp dệt may đóng vai trò lớn trong giai đoạn đầu của tiến

trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, cần ưu tiên hợp lý vốn đầu tư cho chiến lược công nghệ của

ngành dệt may. Nội dung ưu tiên hợp lý này cần thể hiện rõ trong thực tế ở hạng

mục ưu tiên cấp vốn, số vốn cấp và thời gian cấp vốn. Như vậy, việc huy động

vốn cũng được tiến hành từ các nguồn:

- Nguồn vốn đầu tư thuộc Ngân sách Nhà nước

- Nguồn vốn FDI

- Nguồn vốn ODA

- Các nguồn vốn khác

Việc đầu tư công nghệ phải đảm bảo có trọng điểm và hiệu quả theo lộ

trình công nghệ cụ thể, tránh dàn trải và lãng phí.

Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng cho việc phát triển

nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước của ngành dệt may, đặc biệt là nguyên

liệu bông hiện nay. Để tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa của hàng dệt may xuất khẩu

như đã nêu trong mục tiêu định hướng đến năm 2010, Nhà nước cần có các chính

sách ưu tiên đồng bộ và hợp lý cho ngành trồng bông trong nước như chính sách

đất đai, qui hoạch vùng trồng bông, chính sách đầu tư, chính sách khuyến nông,

chính sách chuyển giao công nghệ cho nông dân.

Thứ tư, ngành dệt may cần chú trọng hơn nữa trong việc qui hoạch và phát

triển nguồn nhân lực cho tương lai để sớm khắc phục tình trạng vừa thiếu về số

lượng lại vừa yếu về chất lượng mà đề tài đã nhấn mạnh. Trước hết là cần có qui

hoạch tổng thể và phân loại cụ thể nguồn nhân lực để có khách hàng đào tạo

thích hợp cho từng loại. Chương trình đào tạo cần có nhiều loại hình đa dạng, kết

hợp giữa đào tạo ngắn hạn với dài hạn, giữa trong nước và ngoài nước. Chiến

lược phát triển nguồn nhân lực luôn luôn có ý nghĩa quyết định thành công cho

mọi chiến lược phát triển kinh tế nói chung và trong chiến lược phát triển ngành

dệt may xuất khẩu nói riêng trong những năm tới.

KẾT LUẬN

Toàn bộ nội dung trình bày trong 3 chương của đề tài có thể chốt lại vào 3

vấn đề cốt lõi sau :

Một là, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của thế giới, trọng tâm cụ thể là

các nước phát triển Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn mở rộng và ổn định theo chiều

hướng có lợi cho các nhà sản xuất để có thể yên tâm ổn định đầu ra cho sản phẩm

của mình.

Hai là, thực tiễn hoạt động xuất khẩu suốt nhiều năm qua đã có cơ sở nhất

định để đánh giá được khả năng thực tế của ngành dệt may Việt Nam. Trong giai

đoạn gần đây (1995-2002), kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vẫn tăng

liên tục qua tất cả các năm, trong khi kim ngạch xuất khẩu chung của thế giới có

những năm giảm rõ rệt (1998 và 2001). Đó là thực tế không thể phủ nhận được.

Tuy nhiên, hiện nay chúng ta còn không ít những hạn chế, kể cả những yếu

kém so với các nước xuất khẩu khác như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia…

Điều đáng nói nhất là năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của Việt Nam còn

thấp hơn so với họ do chất lượng thấp và hạn ngạch xuất khẩu nhỏ. Dù sao, năm

2002 vừa qua Việt Nam đã nỗ lực và thành công trong bước đột phá xuất khẩu

dệt may vào thị trường Mỹ, đạt 909 triệu USD, tăng 19 lần so với năm 2001, đưa

kim ngạch xuất khẩu dệt may lên trên 2,7 tỷ USD, tăng trên 38% so với năm

2001. Khởi sắc đó tạo đà cho năm 2003 sẽ là năm kim ngạch xuất khẩu vượt 3 tỷ

USD.

Ba là, từ hai kết luận trên, đồng thời rà soát lại định hướng và giải pháp

đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến năm 2010, có cơ sở để nói rằng,

các yếu tố khách quan và chủ quan đang đảm bảo tính khả thi cao cho mục tiêu

xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường dệt may

thế giới.

Định hướng đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

dệt may Việt Nam sẽ được chú trọng trong nhiều năm tới với vị trí là hàng xuất

khẩu chủ lực thuộc nhóm hàng chế biến mũi nhọn, góp phần xứng đáng hơn nữa

vào tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá nước nhà…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lê Quốc Ân (Tổng giám đốc Tổng công ty dệt may) - Dệt may vẫn còn cơ may - khai thác lợi thế, tăng mạnh xuất khẩu - Thời báo Kinh tế Việt Nam, 25/7/2001, trang 12.

2. Bài giảng của Trung tâm đào tạo Âu - Á INSEAT thuộc Liên hợp quốc

tổ chức tại Văn phòng Chính phủ Việt Nam - Hà Nội 7/1995.

3. Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ Việt Nam đến năm 2020. Bộ

khoa học Công nghệ.

4. Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ ngành công nghiệp dệt may

Việt Nam đến năm 2020. Bộ Công nghiệp .

5. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2010 - Viện Kinh tế - Kỹ thuật dệt may thuộc Tổng công ty dệt may - Bộ công nghiệp.

6. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu hàng năm của Bộ Thương mại. 7. Báo cáo tổng kết tình hình xuất nhập khẩu của Tổng công ty dệt may

Việt Nam qua các năm.

8.Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 của Bộ Thương mại 9. PGS.TS Hoàng Thị Chỉnh - Quan hệ kinh tế Việt - Mỹ - Những biến đổi

và phát triển - Tạp chí Kinh tế và phát triển tháng 10/2000, trang 25, 26.

10. Dự án quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến

năm 2010 của Bộ Công nghiệp.

11. PGS, TS. Đặng Đình Đào - Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam:

Thực trạng và giải pháp - Tạp chí kinh tế và phát triển 12/2000, trang 23 - 27.

12. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Phòng Thương mại và

Công nghiệp.

13. Hội thảo về nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới - Sở Thương mại Tp. Hồ Chí Minh và Hiệp hội dệt may Việt Nam ngày 13/10/2001.

14. Bùi Xuân Khu (nguyên Tổng giám đốc Tổng công ty dệt may Việt Nam)- Ngành dệt may làm gì trước xu thế toàn cầu hoá ? - Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, tháng 1/2000, trang 11.

15. Mác- Ăng ghen tuyển tập, tập II, trang 24, NXB Sự thật Hà Nội - 1962.

16. Những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả ngành may Việt

Nam - NXB Khoa học kỹ thuật.

17. Nhịp cầu doanh nghiệp Việt - Mỹ - Tập thể tác giả - NXB Thống kê

1999.

18. Nhịp cầu doanh nghiệp Việt - Mỹ - Tập thể tác giả - NXB Tài chính

1999.

19. Niên giám thống kê Việt Nam 2000 20. Niên giám thống kê Việt Nam 2001 21. Lưu Phan - Ngành dệt may - Những biện pháp tăng tính cạnh tranh.

Thời báo Kinh tế Sài gòn số 20 tháng 5/2001, trang 16.

22.Quy hoạch tổng thể ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 của Tổng

công ty dệt may Việt Nam.

23. Tạp chí Dệt may và Thời trang Việt Nam của Hiệp hội dệt - may và

Tổng công ty dệt may Việt Nam số 1 - 12 năm 1997-2001.

24. TS. Võ Phước Tấn - Để hàng dệt may Việt Nam chiếm lĩnh thị trường

thế giới - Tạp chí Kinh tế và phát triển tháng 9/2000, trang 31-33.

25. PGS.TS- Võ Thanh Thu - Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ - XNB

Thống kê 2001.

26. TS. Vũ Minh Trai - Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và phát triển số 41, tháng 11/2000, trang 43-45.

27. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá VI của Đảng cộng sản Việt

Nam.

28, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX của Đảng cộng sản Việt

Nam. Tiếng Anh

29. International Year Book of Industrial Statistics - UNIDO, 2001 30. International Trade Statistics - WTO Annual Report, 1998- 2001 31. Philip Kotler- Principles of Marketing - Prentice Hall, 2001 32. Report of International Textile and Clothing Bureau (ITCB) - Council

of Representative 3th Session Hanoi, Vietnam, May 2002

33. Tepstra International Marketing

34. Ira Kalish, Retail Forward reported in Women’s Wear Daily April 11,

2002 and The Trade Partmenship.

35. Textile Asia – ADB qua các năm 36. 2001 World Population Data Sheet of Population Reference Bureau.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ...........∗∗∗∗∗∗∗ ...........

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI :

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH

DỆT - MAY

SAU KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI

THẾ GIỚI

Giáo viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN HỮU KHẢI Sinh viên thực hiện : PHẠM HOÀNG THỤ Lớp A2 - CN9

HÀ NỘI - 2003

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ⎯⎯⎯ ∗∗∗∗∗∗∗ ⎯⎯⎯

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI :

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT – MAY SAU KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Giáo viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN HỮU KHẢI Sinh viên thực hiện : PHẠM HOÀNG THỤ Chuyên ngành : KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG Lớp : A2 CN9

Hà Nội - 2003

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

APEC Asian Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế châu

Cooperation Forum Á - Thái Bình Dương

ASEAN Asociatioon of South-East Hiệp hội các nước Đông Nam Á

Asian Nations

ATC Agreement on Textiles and Hiệp định về hàng dệt may

Clothing

EU European Union Liên minh châu Âu

GATT General Agreement on Tariff Hiệp định chung vế thuế quan và

and Trade thương mại

IMF International Monetary Quỹ tiền tệ Quốc tế

Fund

ITC International Trade Centre Trung tâm Thương mại Quốc tế

ITO International Trade Tổ chức Thương mại Quốc tế

Organisation

MFA Multi-fibre Agreement Hiệp định đa sợi

MFN Most-favoured nation status Qui chế ưu đãi tối huệ quốc

UN United Nations Liên hiệp quốc

WB World Bank Ngân hàng Thế giới

WTO World Trade Organisation Tổ chức Thương mại Thế giới

MỤC LỤC

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT

MAY

SAU KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI

THẾ GIỚI

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

3 CHƯƠNG I – TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

VÀ HIỆP ĐỊNH ĐA SỢI (MFA)

1.1 Tính tất yếu của sự ra đời Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 3

1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - 3

Tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới

1.1.1.1 Bối cảnh ra đời của GATT 3

1.1.1.2 Các chức năng và nguyên tắc cơ bản của GATT 4

1.1.2 Sự ra đời tất yếu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 5

1.2 Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) 7

1.2.1 Các chức năng nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động của

Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) 7

1.2.2 Bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) 7

1.2.3 Những thành tựu chính trong quá trình hoạt động của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) 9

1.3 Hiệp định đa sợi (MFA) và tình hình thực hiện 12

1.3.1 Nội dung chính 12

1.3.2 Tình hình thực hiện Hiệp định đa sợi (MFA) 15

1.4 Hiệp định về hàng dệt – may tại vòng đàm phán URUGUAY 17

1.4.1 Tóm tắt Hiệp định 17

1.4.2 Tình hình thực hiện Hiệp định ATC trong thời gian qua 22

1.4.2.1 Về danh mục đưa vào tự do hóa 22

1.4.2.2 Về các Hiệp định song phương trong khuôn khổ MFA 25

1.4.2.3 Về việc các biện pháp hành chính trong thực hiện

25

các hạn chế

1.4.2.4 Về việc áp dụng các biện pháp tự vệ 25

1.4.3 Tác động của Hiệp định ATC đối với môi trường kinh doanh

dệt – may quốc tế 27

CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH 29

DỆT – MAY VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA

2.1 Giới thiệu về ngành dệt – may Việt Nam 29

2.1.1 Nét chung của ngành dệt – may xuất khẩu Việt Nam 29

2.1.2 Đánh giá tổng quát khả năng sản xuất trong nước 30

2.1.3 Tóm lược tình hình công nghệ của ngành dệt may Việt Nam 32

2.1.4 Cơ cấu sản phẩm của ngành dệt – may Việt Nam 33

2.1.5 Khái quát thị trường tiêu thụ trong nước 36

2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

những năm qua 37

2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 37

2.2.1.1 Tổng quát về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may

của Việt Nam những năm qua 37

2.2.1.2 Phân tích cụ thể tình hình xuất khẩu hàng dệt may

trong năm 2002 38

2.2.2 Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam 39

2.2.2.1 Những chủng loại xuất khẩu chủ yếu trong thời

gian qua 39

2.2.2.2 Thực hiện cơ cấu về hàng dệt may xuất khẩu

của Việt Nam 40

2.2.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu và kênh phân phối 41

2.2.3.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam 41

2.2.3.2 Đặc điểm về hệ thống phân phối của thị trường

mục tiêu xuất khẩu 44

2.2.4 Phương thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 48

2.2.4.1 Gia công xuất khẩu 48

2.2.4.2 Xuất khẩu trực tiếp 50

2.3 Vấn đề năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu 51

2.3.1 Đặc điểm chủ yếu về cạnh tranh của hàng dệt may

Việt Nam xuất khẩu (XK) 51

55 2.3.2 Năng lực canh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu

55 2.3.2.1 Chất lượng hàng dệt may XK của Việt Nam

2.3.2.2 Chí phí XK và mức giá XK của hàng dệt may Việt Nam 58

61 2.3.2.3 Năng lực cạnh tranh trong hệ thống phân phối

hàng dệt may của Việt Nam

2.3.2.4 Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong xuất khẩu

61 hàng dệt may của Việt Nam

2.3.3 Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong xuất khẩu

62 hàng dệt may Việt Nam

62 2.3.3.1 Những kết quả nổi bật

2.3.3.2 Những thách thức lớn đối với hàng dệt may

62 Việt Nam xuất khẩu hiện nay

CHƯƠNG III – ĐỊNH HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ 64

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT – MAY VIỆT NAM

3.1 Định hướng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh 64

hàng dệt may của Việt Nam

3.1.1 Những quan điểm cơ bản trong định hướng xuất khẩu

và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 64

3.1.1.1 Quan điểm thứ nhất 65

3.1.1.2 Quan điểm thứ hai 65

3.1.1.3 Quan điểm thứ ba 66

3.1.1.4 Quan điểm thứ tư 67

3.1.2 Những định hướng chủ yếu cho xuất khẩu và nâng cao

năng lực cạnh tranh XK hàng dệt may của Việt Nam 68

3.1.2.1 Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản đối với

XK và nâng cao năng lực cạnh tranh XK hàng

dệt may của Việt Nam 68

3.1.2.2 Mục tiêu định hướng cho chiến lược đẩy mạnh XK

dệt may của Việt Nam đến năm 2010 70

3.1.2.3 Một số định hướng lớn cụ thể 72

3.2 Hệ thống các nhóm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao

năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 73

3.2.1 Nhóm giải pháp Marketing nghiên cứu thị trường và

hoạch định chiến lược thị trường 73

3.2.1.1 Đẩy mạnh hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường 73

3.2.1.2 Xây dựng chiến lược thị trường XK dệt may của

Việt Nam 77

3.2.2 Nhóm giải pháp về chiến lược sản phẩm và nâng cao năng lực

cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu 78

3.2.2.1 Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và

năng lực cạnh tranh 78

3.2.2.2 Giải pháp tập trung hóa kết hợp đa dạng hóa

sản phẩm với nhiều mẫu mã “mốt” thời trang 81

3.2.3 Nhóm giải pháp về chiến lược đầu tư công nghệ và

nâng cao năng lực cạnh tranh 82

3.2.3.1 Giải pháp về chiến lược công nghệ và nâng cao

năng lực cạnh tranh 82

3.2.3.2 Giải pháp về vốn đầu tư cho chiến lược công nghệ

87

3.2.4 Nhóm giải pháp về chiến lược chi xuất khẩu thấp và

tăng nhanh phương thức tự doanh trong xuất khẩu 88

3.2.4.1 Giải pháp về chiến lược chi phí xuất khẩu thấp,

nâng cao năng lực cạnh tranh 88

3.2.4.2 Giải pháp mở rộng phương thức xuất khẩu trực tiếp

hay tự doanh xuất khẩu 91

3.2.5 Các giải pháp còn lại 93

3.2.5.1 Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng cáo 93

3.2.5.2 Chú trọng hoạt động hội chợ triển lãm thương mại

quốc tế và các công cụ yểm trợ xuất khẩu khác 93

3.5.2.3 Giải pháp qui hoạch và đào tạo nguồn nhân lực 94

KIẾN NGHỊ

96

KẾT LUẬN

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

99