Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương chín
NGOI GIAO THỜI QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ
(Thế k XVIII)
I. QUAN HVỚI CHÂN LẠP
Phong trào nông dâny Sơn phát động khởi nghĩa vũ trang năm 1771 tại Quy Nhơn.
Năm 1782, Nguyễn Huệ, lãnh tụ phong trào đưa quân vào Gia Định, đánh đuổi Nguyễn
Ánh. Bị đại bại, Nguyễn Ánh phải bỏ thành Gia Định chạy vào Hậu Giang trước khi chạy
tiếp ra vùng biển, rồi cho một phái bộ gồm 150 người do Nguyễn Hữu Thụy - em r
Nguyễn Ánh cầm đầu, qua Chân Lạp sang Xiêm cầu viện.
Một nm chân tay của Nguyễn Ánh là giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ Pháp,
y Ban Nha đem theo hơn 80 người Việt Nam theo đạo Thiên chúa chạy sang Chân
Lạp.
Thấy bọn phản động chy sang Chân Lạp, Nguyn Huệ cho người sang thông hiếu với
Chân Lạp. Để t tình giao hảo với nghĩa quân Tây Sơn, triều đình Chân Lạp cho quân
chia làm ba đạo đi chặn bắt Nguyn Ánh và chân tay của y.
Đạo quân Chân Lạp thứ nhất gồm hơn 30 thuyền chiến đi theo hướng Rạch Giá đánh
đuổi Nguyễn Ánh tới Sơn Chiết. Nguyn Ánh và tùy tùng trốn thoát ra Hà Tiên, xuống
thuyn chạy ra đảo Phú Quốc.
Đạo quân Chân Lạp thứ hai đi đón bắt bn Nguyễn Hữu Thy. Toàn b phái đoàn đi cầu
viện Xiêm của Nguyễn Ánh bị quân Chân Lạp bắt và tiêu diệt gọn.
Đạo quân Chân Lạp thứ ba được lnh đi lùng bắt bọn Bá Đa Lộc đang ẩn náu trong đất
Chân Lạp. Bọn Bá Đa Lộc phải lẩn trốn vào rừng.
Vì có quan hệ ngoại giao t trước, Nguyễn Huệ được sự giúp đỡ tận tình của Chân Lạp
v quân sự để truy kích bọn phản động Nguyn Ánh.
Cũng do mi quan hhữu nghị đó mà mt năm sau nghĩa quân Tây Sơn đã giúp Chân
Lạp giữ được nước. Số là trong mấy tháng cuối năm 1783, mt s người Mã Lai đem
quân sang đánh chiếm Chân Lạp. Nước Chân Lạp cầu viện nghĩa quân Tây Sơn. Tháng
12 năm 1783, tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đem quân sang Chân Lạp đánh đuổi quân
Mã Lai, giải phóng đất nước Chân Lạp. Quân Mã Lai chạy trốn sang Xiêm. Sau khi giúp
Chân Lạp thànhng, nghĩa quân Tây Sơn rút về Gia Định.
Dưới sự lãnh đạo của anh hùng Nguyn Huệ, quan hhữu nghị Nguyễn (Tây Sơn) - Chân
Lạp đã giúp Chân Lạp thoát được cuc xâm lược của người Mã Lai .
II. QUAN HVỚI TRUNG QUỐC
Nghĩa quân Tâyn do Nguyn Huệ lãnh đạo đã chiến thắng oanh liệt hơn 30 vạn quân
Thanh và quân nhà Lê, bo vệ được nền độc lập của Tổ quc. Nhưng nạn ngoi xâm vn
còn đe dọa nghiêm trọng. Hai mươi chín vạn quân Thanh bị tiêu diệt hoàn toàn trên đất
nước Việt Nam là mt thất bại nhc nhã của quân xâm lược. Chúng không thể không tính
đến việc trả thù.
Tin n Sĩ Nghị thất bại thảm hại vtới Yên Kinh, vua tôi nhà Thanh vi vàng cho tng
đốc Vân Quý là Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị làm tng đốc Lưỡng Quảng, kiêm đô
đốc 9 tỉnh với trọng trách điều động quân dân 9 tỉnh, lấy 50 vạn quân tiến sang Việt Nam
đánh trả thù cho trận thất bại vừa qua.
Nhưng đánh trả thù cũng không phải là việc dễ. Muốn phục thù mà vẫn trờn trợn, vì thua
đau quá. Nhất là nhng nơi nhng kẻ vừa chiến bại ở Việt Nam về thì không ch
trờn trợn mà sợ thật sự, sợ chiến tranh li tái diễn với Việt Nam.
Tin quân đội Tâyn sẽ vượt biên giới đi sâu vào ni địa Trung Quốc để truy nã bọn bán
nước Lê Chiêu Thống đã làm náo động cả miền Hoa Nam. Từ cửa ải nam Quan trở lên
phía bắc, già trlớn bé dắt u bồng bế nhau chạy trốn, cả một quãng dài vài trăm dặm,
lặng ngắt không còn bóng người. Trước tình hình y, quan quân nhà Thanh ở vùng biên
giới không thể không lo đối phó. Người chịu trách nhiệm về việc quân ở biên giới Quảng
y li chính là "Tgiang binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp" vừa chết hụt ở Việt Nam,
mới chạy trốn được về tới Quảng Tây. Thang Hùng Nghiệp tự lượng thấy không th
đương đầu với quân đội Tây n, mt khi Nguyễn Huệ cho quân vượt biên giới tiến sang,
cho nên y tìmch hòa hoãn với quân đội y Sơn.
Sáng sớm ngày 5 tháng giêng năm K Dậu (1789, Thang Hùng Nghiệp từ bến Tây Long
theo Tôn Sĩ Nghị lật đật chy trốn lên phía i Nam Quan qua biên giới về nước. Sau khi
v được Quảng Tây, ngày 18 tháng giêng K Dậu (1789), y viết thư cho đại tướng Việt
Nam là Hám Hổ Hầu (chưa rõ lai lịch của Hám Hổ Hầu. Có ý kiến cho Hám Hổ Hầu là
Văn Dũng (?)) đề nghị hoãn binh và yêu cầu Hám Hổ Hầu trình bày với Nguyn Huệ
những lẽ hơn thiệt về việc giảng hòa với triều đình nhà Thanh; Thang Hùng Nghiệp xin
tình nguyện đứng ra làm trung gian điều đình.
Cũng tháng giêng năm Kỷ Dậu, Phúc Khang An - người thay n Sĩ Nghị làm tổng đốc
Lưỡng Quảng, tới Quảng Tây thi hành nhiệm vụ điều động 50 vạn quân để tiến đánh Việt
Nam, phục thù cho trận thất bại của Tôn Sĩ Nghị. Nhưng Phúc Khang An người từng
phụ trách quân lương trong đoàn quân xâm lược của Tôn Nghị trước đây, đã chứng
kiến sự thất bại nhục nhã của Tôn Sĩ Nghị, cho nên cũng thấy cái thế khó thắng của mình.
Vì vậy,ng như Thang Hùng Nghiệp, tổng đốc Phúc Khang An cũng muốn hòa hoãn
với quân đội Tây Sơn, dập tắt mưu đồ phục thù của triều đình nhà Thanh. Tới Quảng
y, Phúc Khang An cho viên phân phủ Thái Bình viết thư sang Việt Nam cho Ngô Thì
Nhậm nói rõ lnên cùng nhau giảng hòa và Phúc Khang An cũng tình nguyện xin làm
trung gian đứng ra điều đình gia triều đình Việt Nam và triều đình nhà Thanh.
Thấy thời cơ ngoại giao thuận lợi, tháng giêng năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ cho Nguyn
Hữu Trù, Võ Huy Phúc sang gặp Thang Hùng Nghiệp; tháng hai năm Kỷ Dậu lại cho
Ngô T Nhậm sang Quảng y gặp Phúc Khang An. Biết rõ bọn tướng lĩnh nhà Thanh
Quảng Đông, Quảng Tây còn đang trong cơn hong sợ sau trận thất bi thảm hại ở Việt
Nam, việc điều động 50 vạn quân sang đánh Việt Nam chưa thể thực hiện được, quan hệ
với nhà Thanh thể tạm thời hòa hoãn, Nguyn Huệ được rảnh tay ở phía Bắc để lo đối
phó với tình hình ở phía Nam. Cuối tháng hai năm Kỷ Dậu (1789), Nguyn Huệ quyết
đnh trở về Phú Xuân, trao binh quyền ở Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ
Vănng và trao quyền giao thiệp với nhà Thanh cho Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm và
Phan Huy Ích.
Đối với nhà Thanh, t sau khi Ngô Thì Nhm gặp Phúc Khang An, việc giao thiệp giữa
hai nước được tiến hành khẩn trương. Tháng ba năm Kỷ Dậu (1789), một sứ bộ Việt Nam
gồm có Nguyễn Quang Hiển, Võ Huy Tn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Clên đường
sang Yên Kinh gặp vua Càn Long. Việt Nam trao trả cho nhà Thanh 800 binh. Nhà
Thanhphải đem mt số cựu thần nhà Lê là bọn Nguyễn Đình ing với gia đình họ,
gồm khong ngót mt trăm người, trao trả cho quân đội Tây Sơn. Càn Long mời Nguyễn
Hu- lãnh tụ Tây Sơn sang thăm triều đình Yên Kinh, nhân dp lễ mừng thọ Càn Long
80 tuổi năm 1790. Sứ b Việt Nam nhận lời. Cuối thảng bảy năm Kỷ Dậu, Càn Long làm
chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quc vương. Tháng mười một năm Kỷ Dậu, Càn
Long cho sứ bộ mang chiếu phong vương sang Thăng Long. Ngô Thì Nhậm cho người
giả làm Nguyễn Huệ đứng ra nhận chiếu phong vương.
__________________
Cũng trong năm K Dậu (1789), Nguyn Huệ cho viết thư gửi Phúc Khang An ở Quảng
y yêu cầu "mở cửa ải, thông chbúa, khiến cho hàng hóa không ngừng đọng để làm
lợi cho dân dùng". Phúc Khang An phải cho mở các cửa ải Bình Nhi, Thủy Khẩu, Du
Thôn để nhân dân hai nước Việt, Trung qua li buôn bán. Năm 1790, Phúc Khang An li
nhận lời đlập mt "nhà hàng" , tức thương điếm, của nhà nước Việt Nam tại phủ Nam
Ninh, tỉnh Quảng Tây.
Trong năm 1790, có việc vua Quang Trung sang Trung Quốc gặp vua Thanh Càn Long,
như sứ Việt Nam đã nhận lời mời từ trước. Cố nhiên là vua Quang Trung không đi. Phúc
Khang An cũng biết như thế. Nhưng Phúc Khang An mun lấy việc Quang Trung sang
Trung Quc để thắt chặt tình hòa hảo giữa hai nước, nên Phúc Khang An cùng Thang
Hùng Nghiệp mật bàn với Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm cho người đóng giQuốc ' vương
Quang Trung sang mừng thọ Càn Long.
Mưu này được thực hin rất êm đẹp. Phúc Khang An được chiếu chỉ của vua Càn Long,
làm nhiệm vđưa đón và hộ tống vua Quang Trung từ biên giới Việt Trung và trong suốt
cuộc hành trình của vua Quang Trung trên đất Trung Quốc. Ở Việt Nam, phái đoàn vua
Quang Trung đi Trung Quốc cũng được tổ chức trang trọng. Phái đoàn gồm 159 người,
Quốc vương giả là Phm Công Tr, cháu gọi bà Phạm Thị Liên vợ cả vua Quang
Trung là cô (Bà Liên chết sớm. Sách Đại Nam chính biên liệt truyn, sơ tập, (bản dịch)
viết Phạmng Trị gọi Nguyễn Huệ bằng cậu. Gọi chồng cô bằng cậu có lẽ không đúng
cách xưng hô (?)). Tướng đi h vệ là đô đốc Nguyễn Duật, trng thần hàng võ là Ngô
Văn Sở, trọng thần hàng văn là Phan Huy Ích,n thần trông coi văn thư là Võ Huy Tấn,
12 nhạc công, 16 phiên dịch, 9 quản tượng và các tướng sĩ tùy tùng.
Sứ bộ lên đường từ Bắc Thành ngày 9 tháng tư qua ải Nam Quan ngày 15 tháng tư. Tổng
đốc Phúc Khang Anng các quan văn võ hai tnh Quảng Đông, Quảng Tây tổ chức đón
tiếp rất long trọng và đưa sứ bộ tới Quảng Châu nghỉ lại ở đây ít ngày. Ti ngày 11 tháng
năm, sứ bộ tiếp tục lên đường. Dọc đường, sứ bộ được quan lại và nhân dân đa phương
tiếp đón và hộ tống rất chu đáo.
Ngày 11 tháng by, Quốc vương (giả) tới yết kiến Càn Long tại hành cung Nhiệt Hà. Càn
Long yên .t là vua Quang Trung đã tới. Hai vua ân cần trân trọng đón tiếp nhau. Yến
tiệc liên miên, các cuc vui chơi múa hát cũng liên miên. Chi tiêu cực k tn kém.
Ngày 22 tháng m, phái đoàn Việt Nam lên đường về nước. Nhà Thanh đã chi mt số
tiền rất lớn để đón tiếp phái đoàn vua Quang Trung giả. Mỗi bữa yến tiệc là 1.000 lng
bc, chi phí đón tiếp mi ngày 4.000 lng bạc. Phái đoàn Việt Nam va đi vừa về 200
ngày. Nhà Thanh phải chi 80 vạn lạng bạc để đón tiếp. Khi phái đoàn ta đã về nước, Càn
Long tiếc của, nói: "Giá ly s tiền ấy làm quân phí sang đánh báo thù cho Hứa Thế Hanh
còn hơn" (Đại Thanh thực lục, q. 1356).
Càn Long nói thế thôi, chứ không làm như vy được và cũng không dám làm. Trái lại,
hoạt động của phái đoàn ta đã có ảnh hưởng lớn tới thái độ chính trị và tinh thần hòa hảo
của triều đình nhà Thanh.
Ngày 29 tháng mười mt năm Canh Tuất, phái đoàn vua Quang Trung (giả) về tới Thăng
Long. Tháng tư năm n Hợi (1791), triều đình nhà Thanh cho đem đày bọn quan lại nhà
ở Trung Quốc đi các nơi xa xôi hẻo lánh. Lê Chiêu Thng và gia đình hắn bị giam
lng tại "Tây An nam dinh" trong kinh thành Yên Kinh.
Như thế là với thực lc của quân đội Tây Sơn với tài ngoi giao của các văn quan võ
tướng Tây Sơn, mưu đồ phục thù của nhà Thanh đã bị dẹp tan.
Đầu năm 1792, sau khi đánh thắng bọn phản động ở Vạn Tượng, Nguyễn Huệ cho người
đem tặng phẩm sang biếu nhà Thanh. Tặng phm gồm có: nhng chiến lợi phẩm lấy được
ở Vạn Tượng, những sách binh thư Việt Nam và một quyển viết vtriều đại thối nát Lê
Chiêu Thng. (Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q.6)
Những tặng phẩm ấy vừa có ý nghĩa biểu dương sức mạnh của quân đội Tây Sơn, vừa nói
lên lòng tự hào về nghệ thuật quân sự của dân tộc mình, vừa vạch rõ cho vua tôi nhà
Thanh biết rằng những hành động theo gót bọn phản động nhà Lê, xâm lược Việt Nam là
trái vi nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, không thđược nhân dân Việt Namng hộ
nhất định phải thất bại.
Tiếp theo đó, vua Quang Trung cho đại tướng Võ Văn Dũng sang cầu hôn công chúa nhà
Thanh, ly cớ bà Hoàng hậu vua Quang Trung mt đầu năm 1792, và đặt vấn đề đòi lại
hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây là đất cũ của ta. Vua Thanh, Càn Long vui lòng g
công chúa cho vua Quang Trung và nhn trả tỉnh Quảng Tây cho ta, sau đó lnh cho bộ
Lễ chun bị t chức lễ cưới và tiễn đưa công chúa sang Việt Nam.
Mọi việc đương tiến hành tốt đẹp thì một tin sét đánh đưa tới triều đình nhà Thanh: vua
Quang Trung mất đêm 29 tháng bảy nhuận (năm Nhâm Tý). Vua Càn Long và triều đình
nhà Thanh rất sửng sốt, luyến tiếc. Võ Văn Dũng cùng sbộ đau buồn, xin trở về nước.
Văn thần Ngô Thì Nhậm cầm đầu mt phái đoàn lên đường sang Trung Quốc chính thức
o tang: ngày 2 tháng hai m Quý Sửu (1793) , vua Càn Long phê vào biểu báo tang
hai chữ "đáng tiếc" và làm mt bài thơ viếng vua Quang Trung. Ngô Thì Nhậm ghi lại
việc triều đình nhà Thanh làm lễ truy điệu:
Tất cả các quan to đều cúi đầu làm l
Ai ai cũng không quên đức Tiên vương ta
(bài thơ Vũ hành )
Vua Càn Long đưa gửi đoàn sứ giả Việt Nam ba nghìn lạng bạc và mt tấm lụa quý để
triều đình Việt Nam tổ chức lễ chay vua Quang Trung. Vua Trung Quốc sai viên án sát
Quảng Tây là Thành Lâm làm khâm sai sang Việt Nam làm lễ đọc bài thơ của vua Trung
Quốc trước phần m vua Quang Trung và phong cho con vua Quang Trung là Nguyễn
Quang Toản làm An Nam quc vương.
Uy tín của vị anh hùng trẻ tui Quang Trung Nguyễn Huệ, cho tới khi đã chết vẫn làm
rạng rỡ non sông đất nước và giúp cho công việc ngoại giao thời đó thành công tốt đẹp.