
G/v: Ph¹m ThÞ Hång Phîng Trêng THCS Hång Thuû
1
Luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 7

G/v: Ph¹m ThÞ Hång Phîng Trêng THCS Hång Thuû
2
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập với cộng đồng quốc tế, đặc biệt hơn khi nước ta đã chính thức là thành
viên của tổ chức WTO. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và
chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy nền giáo dục và
đào tạo của nước ta cũng đã thay đổi từ mục tiêu giáo dục và đào tạo đến
phương pháp dạy và học nhằm đóng góp có hiệu quả vào quá trình chuẩn bị
nguồn lực cho đất nước. Đáp ứng mục tiêu giáo dục mới, chương trình sách giáo
khoa phổ thộng đã có sự thay đổi tích cực: tập trung đổi mới phương pháp dạy
học, thực hiện dạy và học dựa vào hoạt động tích cực của học sinh dưới sự tổ
chức và hướng dẫn đúng mực, linh họat của giáo viên nhằm phát triển tư duy
độc lập sáng tạo giúp hình thành phương pháp, nhu cầu tự học, hứng thú học tập,
tạo niềm tin, niềm vui trong học tập cho học sinh.
Ngày nay tiếng Anh chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong các mối quan hệ
đối ngoại trên thế giới. Tiếng Anh giúp chúng ta nghiên cứu, giao tiếp với nước
ngoài ở nhiều lĩnh vực. Vì thế người học phải thành thạo các kỹ năng ngôn ngữ
nghe, nói, đọc và viết. Một thực tế không thể phủ nhận khi học ngoại ngữ nói
chung và tiếng Anh nói riêng là học sinh có thể nghe hiểu tốt nhưng điều này
không có nghĩa là các có thể nói tốt. “ Tai thính” không tương quan với nói tốt.
Mục đích của sử dụng ngôn ngữ là giao tiếp các ý tưởng giữa người với người.
Như vậy, nói dường như kỹ năng quan trọng và khó phát triển nhất. Trong nhiều
tiết học tiếng Anh học sinh có rất ít cơ hội để thực hành ngôn ngữ, giáo viên tập
trung dạy danh mục các đơn vị ngữ pháp - từ vựng. Nhiều học sinh nhớ hàng
trăm đơn vị từ vựng và hàng chục quy tắc ngữ pháp nhưng vẫn không thể nói
được. Điều này giải thích một phần tại sao sau khi tốt nghiệp số lượng học sinh
có thể giao tiếp được bằng tiếng Anh ở mức độ căn bản chiếm một tỉ lệ rất
khiêm tốn. Thực hiện chương trình tiếng Anh cấp Trung học cơ sở được biên
soạn theo quan điểm giao tiếp, coi việc hình thành và phát triển các kỹ năng giao

G/v: Ph¹m ThÞ Hång Phîng Trêng THCS Hång Thuû
3
tiếp: Nghe - Nói - Đọc - Viết là mục tiêu cuối cùng của quá trình giảng dạy,
việc dạy và học môn tiếng Anh ở trường phổ thông nhằm mục đích giúp cho học
sinh có khả năng sử dụng tiếng Anh như một cụng cụ giao tiếp ở mức độ cơ bản
và tương đối thành thạo dưới các hình thức Nghe- Nói - Đọc - Viết, tiến đến việc
hình thành năng lực sử dụng tiếng Anh dễ dàng, có hiệu quả trong giao tiếp
thông thường. Từ yêu cầu bộ môn và thực tế giảng dạy bản thân tôi đã lập kế
hoạch “ Luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 7” làm nền tảng cho học
sinh lớp 8,9 ở những năm sau. Đó là lý do tôi viết đề tài này.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI
1. Mục đích viết đề tài:
Là giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng Anh trường THCS, bản thân tôi không
ngừng nghiên cứu, tích cực, chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi viết đề tài này nhằm chia sẻ kinh nghiệm
nhỏ của mình với các đồng nghiệp về các hình thức luyện kỹ năng nói cho học
sinh lớp 7 để góp phần nâng cao kiến thức hiểu biết và chất lượng bộ môn tiếng
Anh trong nhà trường.
2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Tìm hiểu thực trạng dạy học kỹ năng nói.
- Xây dựng cơ sở lý luận dạy học môn tiếng Anh về các hình thức luyện kỹ
năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 7.
- Đánh giá kết quả thực nghiệm và rút ra bài học sư phạm bổ ích.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Do xuất phát từ thực tế dạy và học tiếng Anh của thầy và trò trường tôi
nên đề tài này tôi chỉ nghiên cứu giới hạn ở lớp 7C, 7E theo chương trình sách
tiếng Anh 7.
B.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
Đổi mới phương pháp dạy học hướng đến việc coi trọng người học, coi học
sinh là chủ thể hoạt động, khuyến khích các hoạt động học tập tích cực, chủ

G/v: Ph¹m ThÞ Hång Phîng Trêng THCS Hång Thuû
4
động, sáng tạo trong quá trình dạy học. Nói cách khác, đổi mới phương pháp
dạy học là qúa trình chuyển từ phương pháp thầy thuyết trình, phân tích ngôn
ngữ - trò nghe và ghi chép thành phương pháp mới: thầy là người tổ chức, giúp
đỡ hoạt động học tập của học sinh, học sinh là người chủ động tham gia vào quá
trình hoạt động học tập. Phương pháp dạy học mới sẽ phát huy tốt nhất vai trò
chủ thể, chủ động, tích cực của học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ
vì những mục đích thực tiển và sáng tạo. Điều này đã được khẳng định trong
Nghị quyết TW 2 khóa VIII: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc
phục lối truyền đạt một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện dạy học hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh”.
Trong quá trình giảng dạy, việc vận dụng các phương pháp dạy học nhằm
hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức một cách nhanh nhất, vận dụng tốt nhất
kiến thức đó là cả một vấn đề lớn đối với các bộ môn văn hóa nói chung và bộ
môn Tiếng Anh nói riêng. Ngành giáo dục huyện Lệ Thủy đã, đang và sẽ tích
cực hướng tới sự hoàn thiện về đổi mới phương pháp dạy học. Đối với việc phát
triển kỹ năng nói, lấy ngôn bản hay chủ đề làm đơn vị dạy nói và lấy trước khi
nói ( Pre-speaking), trong khi nói ( While-speaking) và sau khi nói ( Post-
speaking) làm quy trình chuẩn để rèn luyện những nội dung và ngữ liệu cần thiết
để học sinh có thể nói được một chủ đề nào đó sau một tiết học nói. Ngoài ra, để
học sinh có thêm cơ hội giao tiếp bằng tiếng Anh ở mức độ căn bản và dần hình
thành năng lực sử dụng ngôn ngữ thì giáo viên phải để cho học sinh luyện nói
trong các tiết dạy các kỹ năng khác, trong các tiết học kiến thức ngôn ngữ hoặc
đơn giản hơn chỉ là những lúc làm nóng bầu không khí lớp học ( Warm – up),
lúc kiểm tra miệng hoặc chỉ lúc thầy trò đối đáp bình thường trong lớp học. Tất
cả những điều này rất quan trọng nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả
của quá trình dạy học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỂN
1. Tình hình thực tế học sinh:

G/v: Ph¹m ThÞ Hång Phîng Trêng THCS Hång Thuû
5
Trong những năm qua, theo chương trình và sách giáo khoa mới, phương
pháp mới trong dạy và học, đặc biệt hơn là khi bài giảng của giáo viên soạn trên
phần mềm trình chiếu PowerPoint sinh động, hấp dẫn, nhiều học sinh được rất
yêu thích môn học, năng động hơn trong mọi hoạt động. Tuy nhiên đối tượng
học sinh yếu vẫn còn nhiều. Trong khi học nói Tiếng Anh các em gặp rất nhiều
trở ngại: các em phải đối diện với giáo viên do đó thấy khó diễn đạt bằng ngôn
ngữ, các em sợ mắc lỗi, sợ bị thầy cô chê, xấu hổ khi phải nói trước các bạn
trong lớp nhất là khi các em còn thiếu nhiều yếu tố để có thể nói được một cách
hữu hiệu và tự tin. Bên cạnh được giáo viên yêu cầu nói về một chủ đề nào đó
các em thường không có ý diễn đạt, mặc dù ở một số thời điểm học sinh đã được
chuẩn bị một số ý nhưng khi được yêu cầu nói các em dường như bị quên hết.
Chính vì vậy, khi nói một điều gì đó bằng tiếng Anh các em thường cảm thấy
mình buộc phải nói và do đó không có giao tiếp thực thụ. Một trở ngại nữa là số
học sinh trong lớp khá đông ( trên 40 em) nhưng thường chỉ có một học sinh
được yêu cầu nói một lần trong nhóm lớn. Điều này có nghĩa là học sinh sẽ có
rất ít thời gian và cơ hội để nói. Ngoài ra, khi học sinh có hai phương tiện ngôn
ngữ là tiếng Anh và tiếng Việt để sử dụng thì xu hướng tự nhiên là các em sẽ sử
dụng phương tiện tốt và dể dàng hơn là tiếng Việt. Đây là hạn chế không dễ
khắc phục đặc biệt là các trường ở nông thôn và vùng sâu vùng xa. Điều này
khiến cho giáo viên đứng lớp suy nghĩ tìm ra những mô thức tương tác hiệu quả
hơn.
2. Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học:
Với yêu cầu đổi mới giáo dục, cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư
và ngày càng tăng trưởng. Song do sự thiếu đồng nhất trong nhiều năm liền
trước nên cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học còn thiếu như: chưa có đủ bộ
tranh cho chương trình tiếng Anh 7 ; chưa có phòng học mang tính đặc trưng
riêng của bộ môn nên giáo viên chưa thể sắp xếp bàn ghế theo đường hướng
người học làm trung tâm, kích thích sự tương tác hay giao tiếp của học sinh như
thảo luận, trò chơi ngôn ngữ, phỏng vấn, hỏi - đáp và các hoạt động tự làm việc
của các cá thể học sinh và giáo viên khó cố định vị trí của các phương tiện giảng