
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
382
MÔ HÌNH CHO VAY TRỰC TUYẾN PEER – TO – PEER: KÊNH HUY ĐỘNG
VỐN CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
PEER – TO – PEER LENDING MODEL: A CAPITAL MOBILIZATION CHANNEL FOR
SMES.
ThS. Hoàng Công Huân, ThS. Lê Đắc Anh Khiêm
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng.
TÓM TẮT
Trong nền kinh tế hiện này vốn là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhờ
có vốn mà các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm các trang thiết bị hay triển khai các
kế hoạch khác trong tương lai. Tuy nhiên, trong những năm gần đ y, việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng
và các tổ chức trung gian tài chính truyền thống khá khó khăn. Điều này đ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp. Lúc này, mô hình cho vay trực tuyến Peer – to – peer nổi lên như một kênh huy động vốn
tiên tiến có thể giải quyết vấn đề khát vốn hiện này đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mô hình này đang
được phát triển rất mạnh mẽ tại các nước Anh, Mỹ, Canada nhưng tại Việt Nam mô hình này còn khá mới mẻ. Vì
vậy, bài báo sẽ cung cấp những khái niệm, cách thức hoạt động, lợi ích, hạn chế của mô hình Peer – to – Peer.
Từ đó, nêu lên các điều kiện cần thiết cho việc phát triển mô hình và các đề xuất để xây dựng mô hình này tại
Việt Nam.
Từ khóa: Mô hình Peer –to – Peer; Tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; lợi ích; hạn chế.
ABSTRACT
In the current economy, capital is one of important inputs for small and medium-sized businesses. Thanks to
the capital, enterprises can expand their business, purchase equipment and implement their future plans.
However, access to loans from banks and other traditional financial intermediaries are becoming more difficult in
recent years. It has affected the business activities of enterprises. Today, online Peer - to - peer lending model
has emerged as an advanced capital-raising method that can solve the funding - gap problem for small and
medium-sized businesses. Peer – to –Peer lending model has been growing rapidly in the UK, USA, Canada, but
in Vietnam this model is new. Therefore, the article will provide the concepts, advantages and limitations of the
lending model as well as the description of how it works. Moreover, it points out the requisites for the
development of the online lending model and some proposals for developing this model in Vietnam.
Keyword: Peer-to-Peer model; SMEs financing; Advantages; Limitations
1. Đặt vấn đề
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần lớn và chủ yếu trong nền kinh tế Việt Nam. Nƣớc ta hiện
có hơn 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng doanh nghiệp đang hoạt động, là lực lƣợng sản xuất
hàng hóa, dịch vụ quan trọng, không chỉ tạo ra 40% GDP cho nền kinh tế , mà còn đóng góp vai trò
quan trọng thu hút 50% tổng số lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tƣ phát triển (Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, 2014). Mặc dù đóng góp cho sự phát triển của đất nƣớc nhƣng các doanh
nghiệp này thƣờng rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trƣờng kinh tế, xã hội. Vì vậy, trong cuộc
khủng hoảng kinh tế vừa qua, số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm nhiều do gặp khó khăn trong
sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế dần dần hồi phục, lúc này các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần
nguồn vốn để khắc phục thiệt hại, duy trì hoạt động và tiếp tục đầu tƣ. Trong những năm gần đây nhu
cầu vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp này đang tăng từ 57,3% năm 2012 đến 65,2% năm 2013
(Tổng cục thống kê, 2013).Tuy nhiên, số doanh nghiệp này đang gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận
nguồn vốn để phát triển sản xuất và mở rộng kinh doanh. Theo một cuộc điều tra về thực trạng Doanh

HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2014)
383
nghiệp vừa và nhỏ cả nƣớc trong năm 2013, Cục Phát triển doanh nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ cho hay, chỉ có 32-38% doanh nghiệp có khả năng tiếp cận đƣợc các nguồn vốn vay các ngân hàng
thƣơng mại; 35,24% doanh nghiệp khó tiếp cận; 32,38% doanh nghiệp không tiếp cận đƣợc. Nguyên
nhân là do các rào cản về thủ tục và các điều kiện đƣợc vay vốn đã làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn
của doanh nghiệp. Ngoài ra, con đƣờng tìm vốn mà các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận từ trƣớc
đến nay gần nhƣ duy nhất là tìm đến Ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, trong những năm gần đây tỷ
lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao, phía ngân hàng thiếu mặn mà với doanh nghiệp vừa và nhỏ vì
các doanh nghiệp ngày có hạn chế về thông tin, trình độ nhân lực, quản trị nên chứa đựng nhiều rủi
ro. Xuất phát từ những khó khăn về vốn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đối diện, chúng tôi đặt
câu hỏi là liệu có một kênh huy động vốn nào khác để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết
đƣợc vấn đề này hay không? Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sẽ giới thiệu mô hình cho vay trực
tuyến Peer – to – Peer (P2P), một mô hình mới trong huy động vốn đã đƣợc sử dụng tại các nƣớc phát
triển nhƣng tại Việt Nam mô hình này khá mới mẻ.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Định nghĩa mô hình cho vay trực tuyến Peer to peer
Mô hình cho vay trực tuyến Peer to Peer (P2P) (hay còn đƣợc gọi là People-to-People lending)
có thể đƣợc định nghĩa nhƣ là các giao dịch đƣợc sắp xếp bằng cách sử dụng mạng lƣới Internet, trong
đó một hoặc nhiều cá nhân vay tiền với một hoặc nhiều cá nhân khác, mà không thông qua một trung
gian tài chính truyền thống nhƣ ngân hàng hoặc tổ chức tài chính truyền thống khác (Peter Renton,
2014). Trái ngƣợc với hình thức cho vay "truyền thống", liên quan đến một ngƣời cho vay tổ chức nhƣ
ngân hàng thƣơng mại, tổ chức tín dụng v.v… cho một cá nhân vay tiền. Nền tảng của hình thức cho
vay P2P là các cá nhân, chứ không phải là các tổ chức, đứng trên cả hai mặt của giao dịch. Về cơ bản,
nguyên tắc của hình thức cho vay này vẫn là ngƣời có tiền (nhà đầu tƣ) cho những ngƣời cần tiền
(ngƣời đi vay) vay tiền của họ. Rõ ràng điều này đã đƣợc thực hiện từ cách đây hàng ngàn năm trƣớc.
Ngày nay, với sự phát triển bùng nổ của Internet và các mạng lƣới xã hội trực tuyến. Vì vậy,
ngƣời đi vay có thể vay tiền từ ngƣời mà họ chƣa bao giờ gặp mặt và các nhà đầu tƣ không cần quan
tâm đến danh tính của ngƣời đi vay mà chỉ cho vay dựa vào thông tin tín dụng của họ. Có đến hàng
chục công ty trên khắp thế giới tổ chức thực hiện hình thức cho vay Peer-to-Peer, và tại Hoa Kỳ có hai
công ty đã đƣợc thành lập nhằm thực hiện chức năng này, đó là: Lending Club và Prosper.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều công ty thực hiện hình thức đƣợc gọi là cho vay Peer-to-Peer trực
tiếp (P2P trực tiếp). Hình thức cho vay này chủ yếu dành cho những ngƣời muốn hợp thức hóa một
thỏa thuận vay mƣợn giữa bạn bè và gia đình. Các công ty Hoa Kỳ hiện nay đang thực hiện hình thức
này là ZimpleMoney, LendingKarma, National Family Mortgage và ngày càng nhiều công ty tham gia
tổ chức loại hình cho vay này. Các công ty này giúp thiết lập các thỏa thuận cho vay và quản lý tiến
trình tài trợ cho những ngƣời có nhu cầu.
2.2. Lịch sử hình thành mô hình vay trực tuyến Peer – to – Peer:
Năm 2005, Zopa đƣợc thành lập tại UK với tƣ cách là ngƣời cho vay theo phƣơng thức trực
tuyến P2P đầu tiên trên thế giới, và hiện nay họ vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh trở thành công ty số
một tại thị trƣờng UK. Tại Hoa Kỳ, Prosper đã bắt đầu đi vào hoạt động vào tháng hai năm 2006 và
trong 9 tháng họ đã thu hút 100,000 thành viên và đã tài trợ 20 triệu đô la cho các khoản vay. Họ
chiếm lĩnh thị trƣờng Hoa Kỳ cho đến khi Lending Club đƣợc thành lập vào tháng năm năm 2007. Họ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
384
thiết lập một trang web độc lập để cạnh tranh trực tiếp với Prosper. Cà hai website này đều trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau:
2.2.1. Giai đoạn “tĩnh lặng”
Cả Prosper và Lending Club đều trải qua ―giai đoạn tĩnh lặng‖ trong hai năm 2008 và 2009.
Trong giai đoạn tĩnh lặng, các công ty này vẫn hoạt động nhƣng họ không huy động thêm các khoản
tiền mới từ nhà đầu tƣ. Điều này là cần thiết bởi vì The Securities and Exchange Commission (SEC)
đã yêu cầu họ đăng ký tất cả những khoản cho vay trên sàn cho vay của các công ty này nhƣ các hối
phiếu chính phủ. ―Giai đoạn tĩnh lặng‖ của Lending Club diễn ra trong khoảng 6 tháng từ tháng tƣ đến
tháng mƣời năm 2008. Giai đoạn này của Prosper có phần dài hơn một chút từ tháng mƣời năm 2008
đến tháng bảy năm 2009. Giờ đây, tất cả hối phiếu đã đƣợc đăng ký với SEC và kết quả tài chính của
cả hai công ty đã đƣợc công bố công khai. Các hối phiếu của hai công ty này bây giờ đƣợc cung cấp
bởi một bản cáo bạch thực hiện bởi SEC.
2.2.2. Giai đoạn trỗi dậy
Với sự trỗi dậy sau giai đoạn tĩnh lặng, cả Lending Club và Prosper đều trở nên tập trung hơn
vào quản trị rủi ro. Các khoản vay đầu tiên đƣợc thực hiện tại Prosper vào năm 2006 và 2007 đã
không hoạt động hiệu quả một chút nào đối với nhà đầu tƣ. Hầu hết nhà đầu tƣ đều bị mất tiền do bởi
tỷ lệ vỡ nợ cao. Theo trang phân tích của Prosper, 40% các khoản vay đƣợc phát hành trong năm 2006
và 2007 bị vỡ nợ. Với Lending Club thì con số này tốt hơn một chút nhƣng vẫn không mấy khả quan.
Khoảng 24% các khoản vay đƣợc phát hành trƣớc giai đoạn tĩnh lặng của họ bị vỡ nợ.
Bây giờ, nếu nhìn vào các khoản cho vay đƣợc thực hiện trong năm đầu tiên sau giai đoạn tĩnh
lặng của họ, tỷ lệ vỡ nợ và thu nhập cho nhà đầu tƣ là tốt hơn rất nhiều. Tỷ lệ vỡ nợ của các khoản cho
vay trên sàn Prosper đƣợc phát hành từ tháng bảy năm 2009 đến tháng sáu năm 2010 chỉ là hơn 5%.
Tỷ lệ vỡ nợ trong suốt giai đoạn này của Lending Club cũng chỉ khoảng 4%. Rõ ràng là nó tốt hơn rất
nhiều so với cả thời điểm trƣớc khi giai đoạn tĩnh lặng diễn ra. Gần đây, cả hai công ty này đã tăng
thêm sức hấp dẫn của hình thức cho vay P2P bằng cách bổ sung thêm ―các sản phẩm mới‖. Lending
Club thời gian gần đây đã thực hiện các khoản vay cho doanh nghiệp nhỏ, dù các khoản cho vay này
chỉ giới hạn với một số nhà đầu tƣ đã đƣợc chọn lựa. Cũng nhƣ các khoản cho vay tiêu dùng, ngày nay
chúng ta có thể đầu tƣ vào cả các khoản cho vay ba năm và năm năm tại Lending Club và Prosper.
2.3. Tại sao hình thức cho vay Peer-to-Peer lại trở nên phổ biến?
Cho vay Peer-to-Peer là một lĩnh vực đang tăng trƣởng mạnh mẽ. Trong vòng 12 tháng cho đến
ngày 30 tháng sáu năm 2014, tổng số tiền đƣợc cho vay bởi Lending Club và Prosper lên đến 3.9 tỷ đô
la. Tốc độ tăng trƣởng đạt 166% qua 12 tháng trƣớc đó. Rõ ràng, loại hình cho vay này đang ngày
càng trở nên phổ biến.
Hai biểu đồ dƣới đây mô tả sự tăng trƣởng của loại hình cho vay Peer-to-Peer trong 18 tháng
qua tại thị trƣờng Mỹ. Các biểu đồ này thể hiện tổng giá trị của các khoản vay mới của cả Lending
Club và Prosper. Đƣờng màu đen cho thấy sự dịch chuyển của giá trị trung bình mỗi ba tháng, cả hai
công ty này tiếp tục cho thấy sự tăng trƣởng mạnh mẽ, đặc biệt là Prosper trong những tháng gần đây.

HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2014)
385
Hình 1: Giá trị các khoản cho vay mới tại Lending Club (theo tháng) (đơn vị: đô la)
Nguồn: LendAcademy (2014) bởi Peter Renton, tại LendAcademy.com.
Hình 2: Giá trị các khoản cho vay mới tại Prosper (theo tháng) (đơn vị: đô la)
Nguồn: LendAcademy (2014) bởi Peter Renton, tại LendAcademy.com.
Để hiểu đƣợc tại sao hình thức cho vay Peer-to-Peer lại có thể phát triển nhanh nhƣ vậy, chúng
ta xem xét những lợi ích mà nó mang lại cho cả các nhà đầu tƣ và ngƣời đi vay.
Người đi vay
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã có tác động lớn đến các ngân hàng và tổ chức tài
chính. Nhiều cá nhân đã có thể dễ dàng nhận đƣợc các khoản vay từ ngân hàng trƣớc khi cuộc khủng
hoảng diễn ra và các khoản cho vay này đột nhiên bị cắt giảm. Nếu nhiều ngƣời đã có thể sử dụng
ngôi nhà của họ để cầm cố vay các khoản vay trong hai thập kỷ trƣớc, thì giờ đây với sự mất giá của
thị trƣờng bất động sản trên phạm vi toàn quốc, các ngân hàng đã trở nên thận trọng hơn với hình thức
cho vay này. Các khoản cho vay cá nhân không đƣợc đảm bảo từ ngân hàng hầu nhƣ cũng không còn.
Nhiều ngƣời cần tiền đã phải dựa vào các tấm thẻ tín dụng với lãi suất cao. Rõ ràng, lúc này đã xuất
hiện một lỗ hổng trong lĩnh vực tài trợ tiêu dùng và hình thức cho vay Peer-to-Peer đã giúp lắp đầy lỗ
hổng này. Ngƣời đi vay nhận thấy rằng lãi suất 28% mà họ phải nhận từ việc sử dụng thẻ tín dụng có
thể đƣợc giảm đi một nửa với các khoản vay thông qua Prosper và Lending Club. Nói cách khác, một
trong những lợi ích mà hình thức cho vay P2P mang lại cho ngƣời đi vay đó là họ nhận đƣợc mức lãi
suất tốt hơn nhiều (thƣờng là dƣới 10%) so với mức lãi suất mà các ngân hàng truyền thống đề nghị.
Bên cạnh đó, thời hạn cho vay đƣợc cố định, thƣờng là ba đến năm năm, cũng rất hấp dẫn vì ngƣời đi

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
386
vay có thể thấy đƣợc họ có thể trả hết hoàn toàn khoản nợ của mình trong khoảng thời gian tƣơng đối
ngắn nhƣ thế nào.
Nhà đầu tư
Hình thức cho vay này cũng mang lại nhiều tiện ích cho nhà đầu tƣ. Lợi ích lớn nhất và quan
trọng nhất đó là tỷ suất sinh lợi cao hơn. Một số nhà đầu tƣ của Lending Club và Prosper đang có mức
tỷ suất thu nhập bình quân 10% mỗi năm, và một số lƣợng lớn nhà đầu tƣ có đƣợc tỷ suất sinh lợi hơn
6% năm. Nhà đầu tƣ có thể chọn lựa mức độ rủi ro khi sử dụng hình thức cho vay P2P. Họ có thể chọn
đầu tƣ vào các khoản cho vay loại A với những ngƣời đi vay có mức độ tín dụng cao nhất và khả năng
vỡ nợ của khoản vay là rất thấp. Hoặc nhà đầu tƣ cũng có thể đầu tƣ vào các khoản cho vay có mức
rủi ro cao hơn nhƣng mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Ngoài ra, nhà đầu tƣ cũng có thể chọn lựa một vài
sự kết hợp giữa các khoản cho vay với mức rủi ro cao và thấp này. Nhiều ngƣời đã bị hấp dẫn với hình
thức cho vay Peer-to-Peer bởi vì họ đang đầu tƣ vào những con ngƣời thật sự, chứ không phải vào
những ngân hàng hay các quỹ tƣơng hỗ. Hình thức cho vay Peer-to-Peer cũng tạo ra thêm sự đa dạng
cho danh mục đầu tƣ của nhà đầu tƣ. Nhà đầu tƣ đang đầu tƣ trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, nó
thuộc một nhóm tài sản khác với các hình thức đầu tƣ khác.
2.4. Cơ chế hoạt động của loại hình cho vay trực tuyến Peer – to – Peer
Để hiểu rõ cơ chế hoạt động của loại hình cho vay trực tuyến Peer-to-Peer, bài viết này tập
trung phân tích quy trình tổ chức hoạt động của hai công ty đang chiếm lĩnh thị trƣờng cho vay trực
tuyến P2P tại Hoa Kỳ là Lending Club và Prosper.
Quy trình cơ bản của hình thức P2P là: ngƣời tham gia đăng ký thành viên trên trang web của
Lending Club hoặc Prosper nhƣ một ngƣời đi vay hoặc một nhà đầu tƣ. Một ngƣời đi vay gửi một đề
nghị xin cấp khoản vay, và nếu đề nghị này đƣợc chấp nhận thì khoản vay sẽ đƣợc đƣa lên website
cho các nhà đầu tƣ cung cấp vốn. Các nhà đầu tƣ thƣờng đầu tƣ một tỷ lệ nhỏ trong các khoản cho vay
khác nhau để giúp phân tán rủi ro của họ.
Người đi vay
Yêu cầu khoản vay của một ngƣời đi vay sẽ đăng tải trên website trong một khoảng thời gian
ngắn, trong hai tuần. Trong khoảng thời gian đó, các nhà đầu tƣ có thể yêu cầu ngƣời đi vay giải đáp
một số câu hỏi để từ đó đƣa ra quyết định có đầu tƣ vào khoản vay này hay không. Các thông tin cá
nhân của ngƣời đi vay sẽ không đƣợc tiết lộ mà chỉ có thông tin về báo cáo tín dụng của họ đƣợc cung
cấp đến cho các nhà đầu tƣ. Các nhà đầu tƣ này xem xét các khoản vay dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau.
Một vài tình huống có thể xảy ra trong khi một khoản vay đang đƣợc tài trợ:
Khoản vay có thể bị rút lại bởi vì có vài khâu trong tiến trình xác minh bị thất bại.
Toàn bộ giá trị khoản vay đƣợc tài trợ, trong trƣờng hợp này khoản vay đƣợc rút khỏi bảng
niêm yết và cung cấp cho ngƣời đi vay. Ngƣời đi vay sẽ nhận đƣợc tiền của họ sau khi trừ đi một
khoản lệ phí (chi tiết trong bảng bên dƣới).
Ngƣời đi vay có thể hủy khoản vay của họ và xóa nó khỏi bảng niêm yết.
Khoản vay không nhận đƣợc tài trợ sau 14 ngày. Cho dù nhà đầu tƣ chỉ tài trợ một phần giá trị
khoản vay thì nó vẫn có thể sẽ đƣợc cấp nếu số vốn tài trợ lớn hơn một tỷ lệ phần trăm nhất định.
Nhà đầu tư

