BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

------------------------------------------

NGUYỄN VĂN TRINH

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN

GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

CÁC GIA ĐÌNH NHẬP CƯ

VÀO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUÂN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

------------------------------------------

NGUYỄN VĂN TRINH

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN

GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

CÁC GIA ĐÌNH NHẬP CƯ

VÀO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành chính sách công

Mã số: 603114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS. TS. Dwight H. Perkins

ThS. Đinh Vũ Trang Ngân

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012

i

LỜI CAM KẾT

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số

liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi

hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điển của Trường Đại học

Kinh tế TP. Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Người thực hiện luận văn

Nguyễn Văn Trinh

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn GS. TS. Dwight H. Perkins và ThS Đinh Vũ Trang

Ngân đã nhiệt tình, tận tâm và kiên nhẫn trong quá trình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn

này.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý ban giảng viên của Chương trình Giảng dạy Kinh tế

Fulbright đã truyền đạt cho tôi những kiến thức cần thiết làm nền tảng cho tôi thực hiện

luận văn tốt nghiệp.

iii

TÓM TẮT

Nghiên cứu về “Nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em các gia đình nhập

cư đến Thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy trẻ em thuộc các gia đình nhập cư, bao gồm các

trẻ em tự lên TP.HCM để sinh sống và làm việc, trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM và trẻ em

ở lại quê khi cha mẹ di cư có khả năng tiếp cận giáo dục bị hạn chế so với các nhóm trẻ em

bản địa. Các em này có tỉ lệ đến trường thấp hơn, tỉ lệ theo học trong hệ thống công lập ít

hơn và tỉ lệ nghỉ học hoặc không đi học cao hơn mức trung bình. Việc đi học của các trẻ

em nhập cư gặp khó khăn do vấn đề về chi phí học tập, thu nhập của gia đình và sự thiếu

quan tâm của một số bậc cha mẹ, đặc biệt là những cha mẹ là người lao động di cư có công

việc bấp bênh và thu nhập thấp.

Nghiên cứu đề xuất việc hình thành một hệ thống giáo dục bắt buộc và miễn phí ít

nhất trong cấp tiểu học dành cho toàn bộ trẻ em trong dài hạn. Trong ngắn hạn, nghiên cứu

đề xuất sự mở rộng sự tham gia của cộng đồng để hỗ trợ cùng nhà nước, thông qua việc

chuẩn mực hóa và nâng cấp các lớp học tình thương, tiếp tục chính sách miễn giảm học phí

mở rộng, xây dựng khung pháp lý đảm bảo cho lao động trẻ em và nâng cao khả năng tiếp

cận thông tin của những người chăm chính.

Từ khoá: di cư, nhập cư, trẻ em, tiếp cận giáo dục

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT ..................................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... ii TÓM TẮT ............................................................................................................................ iii MỤC LỤC ............................................................................................................................ iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... vi DANH MỤC BIỂU ĐỒ ..................................................................................................... vii DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................... viii 1. DẪN NHẬP .................................................................................................................... 1 1.1. Bối cảnh chính sách ................................................................................................ 1 1.1.1. Thực trạng lao động nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh............................. 1 1.1.2. Vai trò của giáo dục và thực trạng giáo dục của trẻ em nhập cư .................... 3 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: .............................................................................................. 5 1.3. Câu hỏi nghiên cứu: ................................................................................................ 5 1.4. Các định nghĩa được sử dụng trong nghiên cứu ..................................................... 6 1.4.1. Khái niệm người nhập cư ................................................................................ 6 1.4.2. Khái niệm trẻ em nhập cư ................................................................................ 6 1.4.3. Khái niệm khả năng tiếp cận giáo dục ............................................................ 7 1.5. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 7 2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC............................................................... 8 2.1. Tác động của giáo dục đến việc cải thiện các điều kiện sống ................................. 8 2.2. Di cư và khả năng tiếp cận giáo dục ..................................................................... 10 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................ 13 3.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 13 3.2. Các nguồn dữ liệu chủ yếu .................................................................................... 13 4. PHÂN TÍCH VÀ NHỮNG PHÁT HIỆN .................................................................... 16 4.1. Đặc điểm nhân khẩu học ....................................................................................... 16 4.2. Thực trạng tiếp cận giáo dục của nhóm trẻ em thuộc gia đình nhập cư ................ 17 4.3. Những nhân tố tác động đến việc tiếp cận giáo dục.............................................. 23 4.3.1. Chi phí dành cho giáo dục ............................................................................. 23 Thu nhập và điều kiện sống của người nhập cư ............................................ 29 4.3.2. 4.3.3. Sự quan tâm và trình độ giáo dục của cha mẹ và/hoặc người chăm sóc chính 34

v

4.3.4. Chính sách hộ khẩu và hỗ trợ cho người nghèo ............................................ 37 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 40 5.1. Kết luận ................................................................................................................. 40 5.2. Các kiến nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư ............................................................................................... 41 Trong dài hạn ..................................................................................................................... 41 5.2.1. Xây dựng hệ thống giáo dục bắt buộc và miễn phí ........................................ 41 Trong ngắn hạn .................................................................................................................. 42 5.2.2. Xây dựng cơ chế hoạt động để nâng cao tính bền vững của hệ thống lớp học tình thương ................................................................................................................... 42 Tiếp tục các chính sách miễn học phí, giảm học phí ..................................... 42 5.2.3. 5.2.4. Chính sách đảm bảo quyền của trẻ em tham gia lao động ............................ 43 5.2.5. Chính sách tăng cường tiếp cận thông tin về giáo dục và các kiến thức xã hội cho cha mẹ và người chăm sóc của trẻ em ................................................................... 44 5.3. Kết luận của Luận văn ........................................................................................... 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 46 PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 49

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

KSDC 2011 Khảo sát di cư “Kế sinh nhai của các hộ di cư và con cháu ở Thành phố

Hồ Chí Minh và nơi xuất xứ” (2011)

GSO Tổng cục Thống kê

TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

UPS 2009 Khảo sát Nghèo Đô thị 2009

UNICEF Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc

VHLSS 2008 Khảo sát Mức sống Hộ gia đình Việt Nam 2008

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1-1:Tăng trưởng GDP Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước, 2005 – 2010 ....... 1 Biểu đồ 1-2: Mức chi tiêu cho giáo dục tính trên tổng GDP ................................................. 4 Biểu đồ 2-1:Tăng lương theo trình độ giáo dục .................................................................... 9 Biểu đồ 4-1: Cơ cấu nhóm tuổi và giới tính ........................................................................ 16 Biểu đồ 4-2:Trình độ học vấn của người dân từ 15 tuổi trở lên .......................................... 18 Biểu đồ 4-3:Phân chia dân số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ học vấn cao nhất (%) ........ 19 Biểu đồ 4-4: Loại hình cơ sở giáo dục trẻ em TP.HCM theo học ....................................... 19 Biểu đồ 4-5:Trình độ học vấn cao nhất đã hoàn thành theo tuổi của nhóm trẻ 1 ............... 20 Biểu đồ 4-6: Trình độ học vấn cao nhất đã hoàn thành theo tuổi của nhóm trẻ 2 .............. 20 Biểu đồ 4-7:Trình độ học vấn cao nhất đã hoàn thành của nhóm trẻ 3 .............................. 21

Biểu đồ 4-8:Trình độ học vấn cao nhất tại thời điểm phỏng vấn của trẻ em các gia đình nhập cư ................................................................................................................................ 21 Biểu đồ 4-9:Tình trạng học tập của trẻ em được khảo sát .................................................. 22 Biểu đồ 4-10:Tỷ lệ dân số 5- 18 tuổi bỏ học 1989-2009 ..................................................... 22 Biểu đồ 4-11:Nguồn đóng góp chi phí cho giáo dục ở Việt Nam và các nước .................. 23

Biểu đồ 4-12:Chi phí dành cho việc học của trẻ em các gia đình nhập cư (2010 – 2011) . 24

Biểu đồ 4-13: Thống kê các khoản chi phí cho một người đi học ....................................... 26

Biểu đồ 4-14: Phân chia lao động theo nhóm ngành nghề sử dụng nhiều thời gian nhất trong vòng 12 tháng ............................................................................................................. 30

Biểu đồ 4-15: Việc làm của nhóm cha mẹ mang con lên TP.HCM và để con lại quê ......... 31

Biểu đồ 4-16: Nguồn trợ giúp về tài chính khi gặp khó khăn .............................................. 33

Biểu đồ 4-17: Tình trạng học tập của trẻ em phân theo mức ràng buộc kinh tế (tần suất chu cấp) ...................................................................................................................................... 34

Biểu đồ 4-18: Tỉ lệ đi học và bỏ học của trẻ em nhập cư dựa trên tình trạng học vấn của người chăm sóc (2010 – 2011) ............................................................................................ 37

viii

DANH MỤC HÌNH

Hình 2-1: Hệ thống hộ tịch và ưu tiên tiếp cận dịch vụ công ............................................. 11 Hình 3-1: Hệ thống các cơ sở dữ liệu chủ yếu và thuộc tính ............................................. 15

1

1. DẪN NHẬP

1.1. Bối cảnh chính sách

1.1.1. Thực trạng lao động nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một khu vực kinh tế quan trọng và năng

động hàng đầu cả nước. GDP của TP.HCM vào khoảng 414,068 tỷ đồng (2010), chiếm

20,9 % tổng GDP cả nước (GSO, 2010). GDP bình quân đầu người của TP.HCM cũng ở

mức rất cao (2.800 USD/người/năm so với trung bình cả nước là 1.168 USD/người/năm –

GSO, 2010). Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của TP.HCM từ năm 2001 đến 2010 vào

khoảng trên 11% mỗi năm, luôn ở mức cao hơn so với mức chung của cả nước.

14%

12.20% 12.60%

11.80%

11.20%

12%

10.70%

10%

8.60%

8.44% 8.23% 8.46%

8%

6.78%

6.31%

Tốc độ tăng GDP của TP HCM

5.32%

6%

4%

Tốc độ tăng GDP của cả nước

2%

0%

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Nguồn: GSO, 2010

Biểu đồ 1-1:Tăng trưởng GDP Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước, 2005 – 2010

Là đô thị lớn nhất Việt Nam, TP.HCM hiện có khoảng 7,396 triệu dân (GSO,

2010), trong đó có một lượng không nhỏ người dân nhập cư từ các địa phương khác đến.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng một lượng lớn dân lao động nhập cư từ

các địa phương khác chuyển đến TP.HCM. Thứ nhất, lượng lao động di cư có thể xuất phát

từ các yếu tố đẩy từ địa phương. Tình trạng nghèo đói tại một số địa phương không phát

triển nhanh về kinh tế đã đẩy một lượng lớn người lao động vào tình trạng thất nghiệp,

thiếu cơ hội việc làm. Đặc biệt tại một số địa phương, khi tình trạng đô thị hoá diễn ra

2

nhanh nhưng không đi kèm với việc hình thành công việc mới trong lĩnh vực công nghiệp,

dịch vụ đã khiến một lượng đáng kể lao động trong khu vực nông nghiệp rơi vào tình trạng

phải ly hương để sinh nhai.

Thứ hai, di cư có thể diễn ra do các yếu tố kéo. TP.HCM với một nền kinh tế năng

động luôn có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn mức trung bình cả nước 3-4 điểm % tạo ra

một lượng cầu lớn việc làm, từ lao động phổ thông đến lao động trình độ cao. Dân số hàng

triệu người của thành phố này cũng tạo ra cầu dịch vụ to lớn. Người nhập cư đến TP.HCM

làm việc tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp, học tập và nâng cao điều kiện sống.

Xu hướng nhập cư vào TP.HCM đã diễn ra từ nhiều năm qua. Số lượng người nhập

cư được cho là chiếm khoảng gần 30% tổng dân số TP.HCM. Đặc biệt, xu hướng nhập cư

tại TP. HCM tăng rất mạnh trong 2 thập niên gần đây, từ 12,9% năm 1998 (Lê Văn Thành,

2005) lên đến gần 30% năm 2010.

Đóng góp của người nhập cư cho nền kinh tế TP.HCM cũng rất đáng kể. Những lập

luận ủng hộ người di cư từ nơi khác đến nhập cư tại các đô thị lớn cho rằng người di cư

giúp thúc đẩy phát triển kinh tế với chi phí rất thấp, thậm chí là bằng không đối với người

dân bản địa do người di cư có khuynh hướng làm những công việc mà người dân bản địa

không muốn làm. Đồng thời, người di cư cũng giúp cải thiện đời sống nơi quê nhà, cải

thiện tình trạng tiếp cận giáo dục, y tế…của người thân của mình và điều này có tác động

lan toả đến cộng đồng xung quanh (UNDP, 2011).

Năm 2010, số liệu nghiên cứu cho thấy người lao động nhập cư đóng góp đến 30%

GDP (Thu Thảo, 2006). Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng số liệu này chưa tính hết đóng

góp thực tế của người nhập cư. Theo Đỗ Văn Bình (2011), có đến gần 90% người nhập cư

nằm trong độ tuổi lao động. Lượng lao động nhập cư này chiếm đến 70% lao động trong

các khu công nghiệp và trên 55% lượng người buôn bán lưu động (Thu Thảo, 2006). Như

vậy, nhóm lao động nhập cư về cơ bản có những tác động rất tích cực lên sự phát triển kinh

tế của TP.HCM.

Mặc dù được xem là có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế – xã hội

tại địa phương, lao động nhập cư phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc

biệt là nhóm lao động phổ thông. Tình trạng dễ bị tổn thương của lao động nhập cư so với

3

lao động tại địa phương khá cao do sự bấp bênh trong việc làm. Đa phần những người

nhập cư tham gia các công việc đơn giản, lương thấp, không ký kết hợp đồng lao động, dễ

bị thay thế và do đó dễ dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Đa phần các lao động nhập cư đang

làm việc trong những ngành nghề không đòi hỏi chuyên môn cao, đồng thời cũng có thu

nhập hạn chế như giày da, xây dựng, chế biến thực phẩm (Đỗ Văn Bình, 2011). Ngoài ra,

có đến khoảng 30% người nhập cư là lao động tự do. Nghiên cứu của Lê Xuân Bá và các

đồng sự (2006) cho thấy gần 60% lao động nhập cư có trình độ thấp hơn cấp trung học cơ

sở. Những lao động phổ thông này cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch

vụ công ích như y tế, giáo dục, tư vấn pháp luật,…

Một trong những thiệt thòi lớn nhất của lao động nhập cư, đặc biệt là lao động phổ

thông nhập cư, là sự hạn chế trong khả năng tiếp cận giáo dục của bản thân người lao động

và trẻ em trong các gia đình lao động nhập cư. Không có nhiều chính sách cải thiện khả

năng tiếp cận giáo dục của nhóm trẻ em trong các gia đình nhập cư. Do đó, trẻ em trong

các gia đình này chịu nhiều thiệt thòi và xã hội cũng chịu những tác động tiêu cực từ tình

trạng này.

1.1.2. Vai trò của giáo dục và thực trạng giáo dục của trẻ em nhập cư

Giáo dục được xem là một trong những tiêu chí đánh giá sự thịnh vượng của một

quốc gia (World Bank, 2008). Giáo dục cũng là nền tảng vững chắc cho sự tăng trưởng và

phát triển vì giáo dục tác động đến dân trí và nâng cao năng suất lao động. Tác động lan

toả của giáo dục sẽ góp phần làm giảm tình trạng nghèo của những gia đình có con được đi

học, tiếp thu tri thức và nâng cao tính di động trong việc tìm kiếm công việc.

Việt Nam là một trong những quốc gia ở khu vực Đông Nam Á có đầu tư rất lớn

cho giáo dục, chiếm khoảng 20% tổng chi ngân sách hàng năm (Trần Trọng Thức, 2008),

cao hơn mức đầu tư của nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan và thậm chí là các

quốc gia phát triển như Singapore, Nhật Bản, trong lĩnh vực này. Giáo dục cũng được xem

làm một trong những quốc sách hàng đầu Việt Nam.

4

Mỹ (2008)

Việt Nam (2008)

Hàn Quốc (2008)

Malaysia (2008)

Thái Lan (2008)

Nhật Bản (2010)

Singapore (2008)

Campuchia (2010)

0

1

2

3

4

5

6

Biểu đồ 1-2: Mức chi tiêu cho giáo dục tính trên tổng GDP

% của GDP

Nguồn: số liệu Ngân Hàng Thế Giới http://data.worldbank.org/indicator/SE.XPD.TOTL.GD.ZS

Hiệu quả đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam, tính về mặt số liệu tỉ lệ, là rất đáng kể.

Năm 2009, 94% dân số (người lớn) biết đọc và viết, tỉ lệ học sinh phổ trên tổng dân số

trong độ tuổi học phổ thông (6 đến 17) là 87,39% (Sách trắng CNTT & Truyền thông Việt

Nam, 2010). Tuy nhiên, còn rất nhiều bất cập trong việc tiếp cận giáo dục ở Việt Nam mà

trong đó, nhóm trẻ em thuộc các gia đình nhập cư làm lao động phổ thông là nhóm gặp

nhiều khó khăn trong việc tiếp tục học hành.

Là một địa phương đông dân nhập cư vào loại hàng đầu tại Việt Nam, thành phố

Hồ Chí Minh cũng phải đối mặt với những bất cập trong quá trình tiếp cận giáo dục của trẻ

em các gia đình nhập cư. Các chính sách giáo dục truyền thống của thành phố chủ yếu

nhắm đến nhóm đối tượng là trẻ em ở địa phương, chưa xét nhiều đến nhóm trẻ em nhập

cư. Trước năm 2007, chính sách hộ khẩu phân theo 4 khu vực (KT) đã khiến cho nhiều trẻ

em nhập cư không thể theo học ở các trường công lập, đồng nghĩa với việc các em phải bỏ

học vì gia đình không có điều kiện để gửi con đến các trường tư có mức học phí và các chi

phí khác cao hơn nhiều lần. Sau năm 2007, các chính sách hộ khẩu cởi mở hơn về nguyên

tắc giúp cho người nhập cư có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận giáo dục nhưng sự vận

dụng lúng túng của các địa phương, hệ thống trường công hạn chế cũng không khiến cho

tình hình được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, trẻ em thuộc các gia đình có “sổ hộ nghèo” chỉ

được hưởng những chính sách ưu đãi miễn, giảm học phí khi đi học ở tại địa phương đăng

5

ký hộ khẩu. Nếu chúng theo cha mẹ lên Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống, những ưu

đãi này sẽ mất đi. Như vậy, trẻ em trong các gia đình lao động nhập cư, đặc biệt là những

nhóm lao động phổ thông, có khả năng tiếp cận giáo dục hạn chế hơn trẻ em bản địa. Điều

này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ em, hạn chế khả năng tìm

việc và cải thiện mức sống trong tương lai của nhóm trẻ em này.

Trước bối cảnh chính sách trên, nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng tiếp cận

giáo dục phổ thông của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư, bao gồm các trẻ em theo cha mẹ

đến TP.HCM để sinh sống và các trẻ em có cha mẹ di cư đến TP.HCM trong khi bản thân

vẫn đang ở lại quê. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, số liệu thống kê sẽ lấy chủ yếu từ bộ

dữ liệu của Khảo sát di cư "Kế sinh nhai của các hộ di cư và con cháu ở TP.HCM và nơi

xuất xứ" (“KSDC 2011”) do UNICEF liên kết với Chương trình Giảng dạy Kinh tế

Fulbright thực hiện vào năm 2011. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng những dữ liệu trong

nghiên cứu Nghèo đô thị 2009 (UPS 2009) và các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê

(GSO). Hy vọng với việc sử dụng hỗ trợ và đối chiếu các nhóm dữ liệu này, nghiên cứu có

thể phác thảo được bức tranh tương đối chân thực về hiện trạng tiếp cận giáo dục của nhóm

trẻ em thuộc các gia đình nhập cư vào TP.HCM và đề ra được những kiến nghị chính sách

phù hợp để nâng cao khả năng đến trường của các trẻ em thuộc các gia đình nhập cư.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu:

Nghiên cứu này nhằm mục tiêu tìm hiểu khả năng tiếp cận giáo dục và các yếu tố

tác động đến khả năng này của trẻ em nhập cư, qua đó đề xuất những kiến nghị chính sách

nhằm cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư tại TP HCM.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu:

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài hướng tới việc trả lời hai câu hỏi

nghiên cứu. Thứ nhất, có cần thiết phải đưa ra chính sách nhằm nâng cao việc tiếp cận giáo

dục của trẻ em nhập cư ở TP Hồ Chí Minh hay không? Thứ hai, nếu cần thiết thì đó là

những chính sách nào ?

6

1.4. Các định nghĩa được sử dụng trong nghiên cứu

1.4.1. Khái niệm người nhập cư

Lê Văn Thành (2005) cho rằng dân nhập cư được xác định là những người từ các

tỉnh khác đến sinh sống, làm việc tại TP.HCM và chưa có hộ khẩu thường trú tại TP.HCM.

Trong chuyên khảo về Di cư và Đô thị hoá ở Việt Nam (2009), các tác giả định nghĩa

người nhập cư là người có nơi thường trú tại thời điểm năm năm trước thời điểm điều tra

khác với nơi thường trú hiện tại. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, người nhập cư vào

TP.HCM được xem là người di chuyển từ địa phương khác đến TP.HCM để sinh sống vì

mục đích công việc trong thời gian dưới năm năm (tức là sau năm 2006 – tính tại thời điểm

Khảo sát Di cư 2011). Như vậy, những người nhập cư đến TP.HCM với mục đích chính là

học tập sẽ không được xem là đối tượng của nghiên cứu.

1.4.2. Khái niệm trẻ em nhập cư

Khái niệm trẻ em nhập cư trong nghiên cứu này được xác định là những đối tượng

từ sáu đến mười lăm tuổi trong các gia đình nhập cư. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, các

trẻ em thuộc các gia đình nhập cư sẽ được phân loại trong 3 nhóm chính.

Hộp 1: Phân nhóm trẻ em trong nghiên cứu

• Nhóm 1: nhóm trẻ em lên TP.HCM để làm việc. Nhóm này thường không đi chung

với gia đình mà đi một mình hay đi cùng bạn bè lên TP.HCM để tìm việc làm. Một

phần các em vẫn tiếp tục tham gia các lớp học tình thương bán thời gian trong khi một

số khác đã hoàn toàn nghỉ học. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chỉ nhóm trẻ em lên

TP.HCM làm việc trong nhóm tuổi dưới 16 được nghiên cứu.

• Nhóm 2: nhóm trẻ em theo cha mẹ hoặc người chăm sóc chính từ nơi khác đến sinh

sống tại TP.HCM.

• Nhóm 3: nhóm trẻ em có cha, hoặc mẹ, hoặc cả cha và mẹ bỏ quê lên sinh sống và làm

việc tại TP.HCM. Nhóm trẻ em này hiện được chăm sóc bởi người chăm sóc chính ở

địa phương nơi các em đang sinh sống, có thể là ông bà, cô chú bác, hay một người

thân khác.

7

1.4.3. Khái niệm khả năng tiếp cận giáo dục

Khả năng tiếp cận với giáo dục trong nghiên cứu này là khả năng trẻ em được đến

trường, tham gia các chương trình học ở bậc phổ thông, được đào tạo và phát triển các kỹ

năng cần thiết cho tương lai trong các cơ sở giáo dục. Nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục

là một trong những yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển theo chiều sâu của một

quốc gia. Nếu không nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khoẻ có chất

lượng và sự bảo vệ đối với trẻ em, trẻ em nói riêng và xã hội nói chung sẽ không thoát ra

được vòng luẩn quẩn của nghèo đói, tình trạng bị gạt ra lề và mất cơ hội phát triển tối đa

tiềm năng.

1.5. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm 5 phần. Phần dẫn nhập giới thiệu bối cảnh chính sách của nghiên

cứu, tính bức thiết của đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, các câu hỏi nghiên cứu, giới

hạn của nghiên cứu và các định nghĩa. Phần Tổng quan lý thuyết và nghiên cứu trước giới

thiệu các khái niệm, định nghĩa được sử dụng trong nghiên cứu, các phân tích về việc tiếp

cận giáo dục của trẻ em nhập cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế, xã hội.

Phần ba, phương pháp nghiên cứu, giới thiệu phương pháp và cách thức tiến hành nghiên

cứu. Chương phân tích và phát hiện phân tích những kết quả có được từ những dữ liệu

nghiên cứu tổng hợp từ nhiều nguồn. Phần cuối cùng, kết luận và kiến nghị, tác giả đưa ra

những nhận định, đúc kết từ những phân tích đồng thời đề xuất những chính sách để giúp

nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư.

8

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

2.1. Tác động của giáo dục đến việc cải thiện các điều kiện sống

Có nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển về khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em

nhập cư từ các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia đang và chậm phát triển. Tuy nhiên,

không có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về những hạn chế trong tiếp cận giáo dục của trẻ

em nhập cư đến các đô thị lớn ở Việt Nam. Các nghiên cứu về đời sống của người nhập cư

thường chỉ đề cập đến đời sống của trẻ em và việc đi học của nhóm trẻ em nhập cư như

một phần rất nhỏ trong nội dung nghiên cứu.

Theo Jon Sward và Nitya Rao (2009), giáo dục và di cư được xem là hai nhân tố

tác động đến sự phát triển. Giáo dục được xem là có ảnh hưởng tích cực đến phát triển, và

nó đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống của người dân nghèo thông qua

việc cung cấp cho họ kỹ năng, khả năng phân tích, sự tự do và tự tin. Bên cạnh đó, di cư

đóng vai trò như một nhân tố tiềm tàng tạo ra sự phát triển nhưng đồng thời cũng tạo ra

những chi phí và sự rủi ro nhất định cho xã hội (Sward và Rao, 2009). UNICEF (2011) cho

rằng giáo dục làm tăng khả năng di động và tiếp cận cơ hội nghề nghiệp và qua đó, nâng

cao khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống.

Giáo dục được xem là lĩnh vực đầu tư quan trọng hàng đầu, bên cạnh y tế. Đầu tư

cho giáo dục không chỉ được cho là mang đến suất sinh lợi cao, mà còn thể hiện rất rõ tác

động của nó đến sự phát triển của cá nhân người được đầu tư và xã hội.

“Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển và an sinh của người

chưa thành niên. Để có thể giải quyết thành công rất nhiều các nguy cơ đối với sự phát

triển và các quyền của mình, trẻ vị thành niên cần được trang bị nhiều kiến thức và kỹ

năng thiết yếu, trong đó có kỹ năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, tìm hiểu và đánh

giá thông tin dựa một cách tư duy và giao tiếp hiệu quả. Ở những nơi có giáo dục trung

học, các trường tiểu học thường có chất lượng cao hơn và có nhiều học sinh hơn, đồng

thời địa phương đó có sự tham gia lớn hơn của người dân, mức độ xảy ra bạo lực thanh

thiếu niên thấp hơn, nghèo đói giảm và năng lực xã hội lớn hơn”.

Hộp 2: Quan điểm của UNICEF về vai trò của giáo dục

UNICEF, 2011

9

Trẻ em cần được đầu tư đúng mức trong việc tiếp cận giáo dục và đầu tư vào trẻ em

được xem là một trong những khoản đầu tư tối ưu, không chỉ cho bản thân trẻ em,gia đình

và xã hội. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ Em là một minh chứng cho tính

quan trọng và đúng đắn của loại hình đầu tư này. Đầu tư cho trẻ em được cho là sẽ có tác

động rất tích cực đến “cuộc đấu tranh chống đói nghèo, bất bình đẳng kinh tế – xã hội và

phân biệt đối xử giới và giúp giải quyết các thách thức lớn của thời đại” như biến đổi khí

hậu, đô thị hoá và di dân,… (UNICEF, 2011).

Giáo dục là một lĩnh vực phát triển đặc trưng cho trẻ em, là nhu cầu cơ bản và

quyền con người.“Mỗi đứa trẻ đều có nhu cầu giáo dục cho bản thân để có thể thực hiện

vai trò như một chủ thể kinh tế độc lập trong tương lai và đảm bảo cuộc sống của mình”

(Bộ LĐ, TB & XH, 2008, tr.27). Quyền tiếp cận giáo dục được quy định trong Công ước

về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc (UNHCHR 1989), trong Mục tiêu Phát triển Thiên

niên kỷ (UN, 2008) và Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam (2004).

Ian Coxhead và các đồng sự (2009) đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 1998 – 2006, ở

Việt Nam mức độ gia tăng thu nhập của người lao động tỷ lệ thuận với trình độ giáo dục

của người lao động. Như vậy, giáo dục có tác động tích cực trong việc cải thiện cơ hội việc

làm và thu nhập của người lao động, đồng thời, làm tăng khả năng cải thiện mức sống.

350%

301%

300%

250%

Không bằng cấp và trình độ tiểu học

190%

Trung học phổ thông

200%

159%

Phổ thông trung học

150%

120%

Cao đẳng trở lên

76%

75%

100%

63%

54%

51%

48%

29%

50%

22%

11%

1%

0%

0%

93-98

98-02

-2% 02-06

93-06

-50%

Nguồn: Ian Coxhead và các đồng sự (2009)

Biểu đồ 2-1: Tăng lương theo trình độ giáo dục

10

2.2. Di cư và khả năng tiếp cận giáo dục

Di cư tác động đến giáo dục theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực (GSO, 2011).

Đối với một số hộ gia đình, di cư là để nhằm đạt được trình độ học vấn cao hơn và điều

kiện giáo dục tốt hơn.Tuy nhiên, đối với nhiều gia đình khác, di cư có thể tạo ra sự gián

đoạn học hành và các tác động tiêu cực đến người di cư và các thành viên trong hộ gia

đình.

Đã có nhiều nghiên cứu về tác động qua lại của di cư và giáo dục ở các nước trên

thế giới, và đa phần các nghiên cứu chỉ ra rằng các trẻ em thuộc các gia đình nhập cư phải

đối mặt với những khó khăn khi muốn được đến trường so với các nhóm trẻ khác.

Hộp 3: Hạn chế tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư – vấn đề về vốn xã hội

Trong một nghiên cứu về tình trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư ở các quốc

gia Châu Âu, Hechmann và các đồng sự (2008) chỉ ra rằng trẻ em nhập cư có tỉ lệ

nhập học đúng tuổi thấp hơn trẻ em thuộc các gia đình bản địa, đồng thời các trẻ em

nhập cư cũng thường theo học tại những trường “ít đòi hỏi về học thuật”, tức là

những trường được xem như có chất lượng đào tạo thấp hơn trung bình trong hệ

thống giáo dục, hơn là những trẻ em khác và kết quả học tập của các em cũng tương

đối thấp. Ngoài ra, tỉ lệ bỏ học, ngưng học của trẻ em nhập cư cũng ở mức cao hơn so

với trung bình và bằng cấp người nhập cư đạt được ở lứa tuổi trưởng thành cũng có

dấu hiệu thấp hơn so với người bản địa. Nghiên cứu này đưa ra kết luận là các trẻ em

nhập cư chịu nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận với giáo dục. Một trong những

nguyên nhân quan trọng được cho là nền tảng kinh tế – xã hội của gia đình. Ngoài ra,

những yếu tố quan trọng khác khiến trẻ em nhập cư gặp khó khăn khi tiếp cận với

giáo dục là do vốn văn hoá, xã hội và kinh tế của các gia đình nhập cư. Hechmann và

các đồng sự (2008) cho rằng các gia đình nhập cư thường không chỉ thiếu vốn làm ăn

(economic capital) mà còn thiếu vốn xã hội (cultural and social capital), là những nền

tảng quan trọng hàng đầu cho sự hội nhập xã hội và tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập

cư, và do đó, trẻ em nhập cư khó có thể cạnh tranh một cách bình đẳng với trẻ em

bản địa trong nhiều trường hợp.

Trích Hechmann và các đồng sự (2008)

11

Báo cáo “đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí

Minh” của nhóm nghiên cứu Trịnh Hồ Hạ Nghi, Huỳnh Thị Ngọc Tuyết và sự hỗ trợ của

Bill Tod (2003) đã chỉ ra rằng trẻ em thuộc các gia đình nhập cư ít có cơ hội được theo học

tại hệ thống trường công hơn do sự hạn chế khả năng cung ứng của ngành giáo dục ở

TP.HCM. Nhóm trẻ em có hộ khẩu KT-3 chỉ được vào trường công khi trường còn chỗ

trống, còn xác suất để nhóm trẻ em trong gia đình có hộ khẩu KT-4 vào hệ thống trường

công là hầu như không thể. Trẻ em nhập cư, do đó, phải tham gia các lớp học phổ cập buổi

tối có chất lượng thấp hơn. Một số trẻ em nhà ở xa lớp học lại không thể tham gia các lớp

này để đảm bảo an toàn (nhất là đối với trẻ em gái). Việc rời ghế nhà trường quá sớm khiến

nhiều trẻ em gặp nhiều cám dỗ. Đồng thời, các gia đình nhập cư cũng không được hưởng

các khoản trợ cấp thường xuyên do không có hộ khẩu thường trú.

Hình 2-1: Hệ thống hộ tịch và ưu tiên tiếp cận dịch vụ công

NGƯỜI BẢN ĐỊA NGƯỜI NHẬP CƯ

Người địa phương sống tại quận đăng ký hộ khẩu.

Người di cư từ tỉnh khác, ở dài hạn (trên 12 tháng)

Người di cư từ tỉnh khác, ở ngắn hạn (dưới 12 tháng)

Người địa phương sống quận tại KHÁC quận đăng ký hộ khẩu.

Hầu như không được theo học ở trường công

Có quyền theo học ở trường công khi còn chỗ (sau KT1 và KT2)

Có đầy đủ các quyền cư trú với ưu tiên cao nhất (tiếp cận giáo dục, y tế công,…)

Có các quyền cư trú (tiếp cận giáo dục, y tế công,…) nhưng hạn chế (chỉ ở khu vực đăng ký hộ khẩu)

Nguồn: Waibel (2007)

KT1 KT3 KT4 KT2

Trước đó, trong nghiên cứu của mình, Michael Waibel (2007) cũng cho rằng chính

sách hộ khẩu là một trong những chính sách có tác động lớn đến việc trẻ em nhập cư theo

cha mẹ lên TP.HCM có được đến trường hay không do chính sách phân người dân theo

bốn dạng cư trú hạn chế những quyền tiếp cận giáo dụng công của trẻ em tạm trú.

12

Hộp 4: Khó khăn của người nhập cư

Người nhập cư chưa có hộ khẩu thành phố xin cho con học, đăng ký các dịch vụ xã hội

rất khó, gần như bị đẩy khỏi các dịch vụ này, không được xét vào diện hộ nghèo nên

con cái họ không được miễn giảm học phí, không được hỗ trợ tiền mua bảo hiểm y tế.

Giả như họ muốn phát triển kinh doanh cũng rất khó vay vốn vì không có nhà cửa thế

chấp, không có hộ khẩu thường trú. Dân nhập cư còn gặp khó khăn khi làm các thủ tục

Trung Vũ (2011)

như khai sinh, kết hôn, vay vốn xoá đói giảm nghèo.

Bên cạnh những tác động đã đề cập, báo cáo về xu hướng và cấu trúc di cư ở Việt

Nam tại hội thảo vùng về Di cư, phát triển và các chính sách giảm nghèo của nhóm nghiên

cứu Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli và Hoàng Xuân Thành (2003) quan tâm nhiều đến

tác động của di cư đến cấu trúc gia đình, và gián tiếp ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục

của trẻ em thuộc nhóm các gia đình nhập cư. Mặc dù việc di cư có thể giúp cải thiện kinh

tế của người dân nông thôn, những ảnh hưởng của nó đến các đời sống cũng rất đáng kể.

Người di cư thường để lại vợ hoặc chồng và con cái và điều này có thể ảnh hưởng đến sự

bền vững của gia đình, nhiều gia đình ly tán, nhiều làng quê chỉ còn lại những đứa trẻ và

người già (Đặng Nguyên Anh và các đồng sự, 2003, trang 15-17). Các khoản tiền gửi về

quê đôi khi quá khiêm tốn, không đủ để trang trải những chi phí như tiền chi tiêu, tiền học

của trẻ em và tiền chữa bệnh. Trẻ em sống xa cha mẹ cũng thiếu đi sự chăm sóc trực tiếp,

gần gũi nhất, điều này ít nhiều tác động đến kết quả học tập của các trẻ em ở lại nông thôn

khi cha mẹ đi làm ăn ở xa. Báo cáo này cũng đề xuất các nhà làm chính sách nên có những

hỗ trợ để cải thiện an sinh xã hội cho người nhập cư, nhằm giúp hạn chế những thiệt thòi

của nhóm người này.

Chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về ảnh hưởng của việc di cư lên khả năng

tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình lao động nhập cư, và nhóm đối tượng này

thường không được đề cập đến trong các bộ dữ liệu chính thống. Cụ thể hơn, các nghiên

cứu về việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư đến

TP.HCM càng hiếm hoi hơn và do đó các nhà làm chính sách, đặc biệt là các chính sách về

giáo dục và an sinh xã hội, sẽ khó có cơ sở để làm nền tảng cho các chính sách của mình.

13

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu dùng phương pháp định tính, sử dụng các số liệu để minh hoạ cho các

nhận định và đánh giá. Nghiên cứu sử dụng các số liệu thống kê thứ cấp về dân số, xã hội,

kinh tế,…tại TP.HCM và trên địa bàn cả nước. Các số liệu về di cư, lao động và việc làm

từ các nghiên cứu trước cũng được sử dụng. Những số liệu sẽ được xử lý bằng phần mềm

STATA và Excel và được trình bày trong chương 4 của nghiên cứu.

3.2. Các nguồn dữ liệu chủ yếu

Do đặc thù của các bộ số liệu về dân cư ở Việt Nam thường thiếu hẳn hoặc thu thập

không toàn diện các mẫu nghiên cứu là người nhập cư, đặc biệt là người tạm trú ngắn hạn

hoặc tạm trú không đăng ký do các nhóm đối tượng này thường bị “bỏ qua” trong các

nhóm đối tượng mục tiêu phỏng vấn, nghiên cứu “Khảo sát Di cư 2011” nhắm trực tiếp

đến nhóm đối tượng bị bỏ sót này nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng

đời sống của nhóm người nhập cư. Nghiên cứu này do chương trình giảng dạy kinh tế

Fulbright phối hợp cùng UNICEF thực hiện, trong đó tác giả là thành viên trực tiếp tham

gia nghiên cứu. Các khảo sát được tiến hành dựa trên 332 mẫu phỏng vấn sâu, bao gồm

bảng hỏi và ghi chú bảng hỏi (field notes). Các đối tượng phỏng vấn mục tiêu trong nghiên

cứu bao gồm những người lao động nhập cư làm lao động phổ thông đến TP.HCM dưới 5

năm. Đây là một nhóm đối tượng thường bị “bỏ quên’ trong các cuộc khảo sát. Bộ dữ liệu

này bao gồm 332 mẫu người nhập cư được phỏng vấn, thoả mãn các điều kiện theo như

định nghĩa người nhập cư của nghiên cứu này (từ nơi khác đến TP.HCM sinh sống dưới 5

năm). Mô tả chi tiết hơn về các mẫu được sử dụng trong bộ dữ liệu này được cung cấp

trong phần phụ lục. Không chỉ các số liệu trong các mẫu phỏng vấn được sử dụng mà các

ghi chú phỏng vấn (field notes) cũng được tham khảo để xây dựng một bức tranh rõ nét

hơn về thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư đến TP.HCM.

Quá trình lọc từ 332 mẫu phỏng vấn đã giới hạn còn 194 mẫu phỏng vấn phù hợp với các

điều kiện của nghiên cứu là có các trẻ em phù hợp với các tiêu chí đã đề cập trong phần

khái niệm.

14

Bên cạnh bộ dữ liệu “Khảo sát Di cư 2011”, nghiên cứu còn sử dụng nguồn dữ liệu

từ nghiên cứu Nghèo Đô thị 2009 (UPS 2009) do UNDP phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân

Thành phố Hà Nội và TP.HCM thực hiện vào năm 2009. Bộ dữ liệu này bao gồm hơn

3.000 mẫu phỏng vấn ở 2 đô thị lớn này và phân nhóm mẫu chủ yếu theo phân loại “người

dân địa phương” (bản địa) tức là những người có đăng ký hộ tịch theo nhóm KT1 và KT2

và “người nhập cư” – người có đăng ký hộ tịch KT3 và KT4, cùng với một số lượng nhỏ

các mẫu không đăng ký hộ tịch. Ngoài ra, dữ liệu trong nghiên cứu VHLSS 2008 và số liệu

trong một số nghiên cứu về mức sống và nghiên cứu về người nhập cư cũng được sử dụng.

Bảng 3-1: Cơ cấu mẫu trong bộ dữ liệu UPS 2009

Thành phố

Tình trạng hộ tịch

Tổng cộng

Hà Nội

TP.HCM

Thường trú

Tạm trú

Tổng số bảng hỏi

3.349

1.637

1712

1610

1739

Bảng hỏi dành cho hộ

1.748

875

873

1479

269

Bảng hỏi dành cho cá nhân

1.601

762

839

131

1470

Tổng số người

8.208

4.197

4.011

5.859

2.349

Nguồn: UPS 2009

Các bộ dữ liệu khác nhau đóng vai trò tương hỗ trong việc lý giải các phân tích liên

quan đến thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư. Các bộ dữ

liệu quốc gia của GSO, bao gồm cả VHLSS 2008 và UPS 2009 đưa ra những số liệu tổng

quát và có tính định hình vấn đề trong khi bộ dữ liệu của nghiên cứu “Khảo sát di cư 2011”

xoáy trọng tâm vào một nhóm đối tượng chuyên biệt (người nhập cư trong thời gian ngắn)

và đi sâu vào phân tích các điều kiện sống, khó khăn của nhóm này, trong đó có việc tiếp

cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư.

Bộ dữ liệu này cùng với các bộ dữ liệu quốc gia và địa phương đã đề cập ở trên là

nền tảng chính cho các phân tích trong nghiên cứu này và cũng là nền tảng cho các kiến

nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư tại TP.HCM

nói riêng và có thể được nhân rộng trên địa bàn cả nước trong những điều kiện thích hợp

15

Số lượng mẫu nhỏ Phỏng vấn chuyên sâu Nhóm đối tượng lao động nhập cư phổ thông

Khảo sát di cư 2011

Số lượng mẫu tương đối lớn Địa bàn TP.HCM, Hà Nội Nhóm người bản địa & nhập cư Các chỉ báo về tình trạng nghèo

Hình 3-1: Hệ thống các cơ sở dữ liệu chủ yếu và thuộc tính

Đề xuất chính sách

UPS 2009

Trẻ em các gia đình nhập cư đến TP.HCM

Số lượng mẫu rất lớn Địa bàn toàn quốc Các chỉ báo về mức sống

VHLSS 2008

16

4. PHÂN TÍCH VÀ NHỮNG PHÁT HIỆN

4.1. Đặc điểm nhân khẩu học

Theo bộ dữ liệu của nghiên cứu Khảo sát Di cư 2011, số lượng trẻ em này bao gồm

267 trẻ em, thuộc 194 mẫu phỏng vấn, Các trẻ em này nằm trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi,

trong đó có 121 trẻ em gái, chiếm 45,3% tổng số.

Biểu đồ 4-1: Cơ cấu nhóm tuổi và giới tính

10

10

14

15 16

15

Nam

13 12

13 14

i ổ u T

6

Nữ

8

14 9

15

13

19

16

15 14 13 12 11 10 9 8 7 6

23

12

Nguồn: KSDC 2011

Các trẻ em là đối tượng trong nghiên cứu được chia thành 3 nhóm nhỏ: (i) nhóm

các trẻ em lên TP.HCM để sinh sống và làm việc (thường là đi một mình hoặc đi với bạn

bè mà không có gia đình); (ii) nhóm các trẻ em theo cha mẹ lên sinh sống ở TP.HCM; và

(iii) nhóm các trẻ em được cha mẹ để lại quê cho người khác chăm sóc do cha mẹ phải lên

làm việc ở TP.HCM.

Trong số 194 mẫu thoả điều kiện của nghiên cứu, có 77 trường hợp phỏng vấn đối

với người chăm sóc chính cho trẻ em ở quê, chiếm 39% tổng số mẫu. Số lượng những

người mang trẻ em lên thành phố là 55 người, chiếm tỷ lệ 28% và số người gửi trẻ lại quê

cho người thân chăm sóc chiếm 13% (27 người). Số trẻ em từ nơi khác di cư đến TP.HCM

để làm việc chiếm 14% trong bộ mẫu phỏng vấn. Đồng thời, có 8 người (4%) những người

được phỏng vấn vừa mang con lên TP.HCM cùng với họ, vừa gửi những đứa con khác ở

nhà. Đa phần trong các đối tượng được phỏng vấn đều là nữ, chiếm từ trên 67% trong mỗi

nhóm đối tượng, và chiếm khoảng 72% trong tổng số 194 mẫu nghiên cứu.

17

Độ tuổi trung bình của nhóm người chăm sóc chính ở quê là 57 tuổi, của người trả

lời phỏng vấn là cha mẹ mang theo con lên TP.HCM là 36 tuổi. Những người chăm sóc

chính ở quê thường là ông bà, cô dì và những người có quan hệ họ hàng, huyết thống với

cha mẹ của trẻ. Rất ít người chăm sóc chính (dưới 5%) không có quan hệ họ hàng với đứa

trẻ được chăm sóc. Nhóm cha mẹ để con lại quê cho người thân chăm sóc có độ tuổi trẻ

hơn tương đối so với nhóm cha mẹ mang con theo, 33 tuổi. Độ tuổi trung bình của nhóm

trẻ em (nhóm 1) trả lời phỏng vấn là 13 tuổi.

Trên 72% những người trả lời phỏng vấn chỉ mới có bằng tiểu học hoặc chưa hoàn

thành bậc tiểu học. Có đến 10% những người trả lời phỏng vấn mù chữ. Đây là một tỉ lệ

mù chữ tương đối cao so với tỉ lệ biết đọc, biết viết ở Việt Nam (vào khoảng trên 95%).

Do quy trình thực hiện phỏng vấn, những cha mẹ để con lại quê để lên TP.HCM

làm việc được thực hiện sau khi phỏng vấn những người chăm sóc chính của trẻ ở quê,

những trẻ em trong nhóm này sẽ không được tính vào nhóm mẫu cuối cùng để tránh sự

trùng lắp.

4.2. Thực trạng tiếp cận giáo dục của nhóm trẻ em thuộc gia đình nhập cư

Những người nhập cư có hai lựa chọn cơ bản là mang con theo khi đến TP.HCM và

để con lại nhà. Khi di cư đến TP.HCM với cha mẹ, trẻ em có nguy cơ phải bỏ học cao hơn

so với các trẻ em có cha mẹ di cư nhưng vẫn ở lại quê và có người thân chăm sóc trong khi

cha mẹ đi làm xa. Nhưng bỏ con cái ở lại quê đồng nghĩa với việc người làm cha mẹ mất

quyền gần gũi thường xuyên con cái vì họ thường không được gặp con mình trong một

thời gian tương đối dài. Ngoài ra, việc để lại trẻ ở quê khi cha mẹ di cư cũng có những hạn

chế vì lựa chọn chỉ thực hiện được trong trường hợp người di cư có người thân ở lại quê và

có thời gian để trông đứa trẻ được gửi lại.

Với lựa chọn đầu tiên, khi mang con theo họ có thể gần con hơn, nhưng nguy cơ

con cái của họ phải nghỉ học cao hơn và nếu đứa trẻ được đi học, chi phí dành cho việc đi

học của đứa trẻ cao hơn so với những đứa trẻ ở lại quê, bao gồm có những chi phí tính

được bằng tiền như học phí, học thêm, sách vở,…và cả những chi phí không tính được như

chi phí thời gian (để làm thủ tục cho trẻ nhập trường tại địa bàn tạm trú, thời gian đưa con

đến nơi học và những chi phí thời gian khác).

18

Nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM và các thành phố lớn

nói chung gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục so với các trẻ em bản địa. Trong dữ

liệu nghiên cứu UPS 2009, tỷ lệ đến trường của nhóm trẻ em thuộc các gia đình nhập cư ở

các cấp thấp hơn so với nhóm trẻ em thuộc các gia đình người bản địa, đặc biệt là ở cấp

trung học phổ thông. Kết quả khảo sát UPS 2009 cho thấy ở bất kỳ độ tuổi nào thì tỉ lệ trẻ

em nhập cư được đến trường cũng đều thấp hơn nhóm trẻ bản địa cùng tuổi. Điển hình là ở

nhóm tuổi từ 5 đến 9 tuổi, đến 99% trẻ em bản địa được đi học trong khi tỉ lệ này ở trẻ em

nhập cư ở khoảng chưa đến 90%. Ở nhóm tuổi 10 – 14, tỉ lệ này là 97% và 71%. Đến

nhóm tuổi 15 – 19, tỉ lệ chênh lệch còn cao hơn (77% và 21%) (UPS 2009).

50

40

30

Nhập cư

Biểu đồ 4-2: Trình độ học vấn của người dân từ 15 tuổi trở lên

%

Thành phố

20

10

0

Mẫu giáo

Tiểu học

THCS

THPT

Nguồn: UPS 2009

Khảo sát UPS 2009 cũng cho thấy trong nhóm dân cư từ 15 tuổi trở lên, trình độ

học vấn cao nhất đạt được của nhóm người dân bản địa (thành phố) có khuynh hướng cao

hơn so với người dân nhập cư. Trên 35% người dân nhập cư từ 15 tuổi trở lên chỉ có bằng

tiểu học hoặc thậm chí không có bằng cấp gì. Đồng thời trong khi tỷ lệ có bằng đại học của

người dân bản địa ở mức gần 15% thì trong nhóm nhập cư chỉ khoảng 5%. Tuy số liệu này

chưa phản ánh hết thực tế vì có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi trong cơ cấu dân số nhưng

có thể khẳng định rằng người nhập cư, đặc biệt là người nhập cư làm lao động phổ thông

có trình độ học vấn thấp hơn tương đối so với người dân bản địa.

19

40

30

%

20

Thành phố

10

Nhập cư

0

Tiểu học

THCS THPT Cao đẳng

Đại học

Thạc sỹ

Tiến sỹ

Không bằng cấp

Nguồn: UPS 2009

Biểu đồ 4-3: Phân chia dân số từ Phân chia dân số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ học vấn cao nhất tuổi trở lên theo trình độ học vấn cao nhất (%)

Kết quả khảo sát UPS 2009 ác gia đình người bản địa UPS 2009 cũng chỉ ra trẻ em thuộc các gia đình người bản địa

được theo học tại các trường công với tỷ lệ cao hơn hẳn trẻ em thuộc các gia đình nhập cư được theo học tại các trường công với tỷ lệ cao hơn hẳn trẻ em thuộc các gia đình nhập cư được theo học tại các trường công với tỷ lệ cao hơn hẳn trẻ em thuộc các gia đình nhập cư

trong khi tỉ lệ trẻ em thuộc các gia đình nhập cư theo học tại các trường (82% so với 65%), trong khi tỉ lệ trẻ em thuộc các gia đình nhập cư theo học tại các trường trong khi tỉ lệ trẻ em thuộc các gia đình nhập cư theo học tại các trường

tư thục lại cao hơn gấp 3 lần so với trẻ em thành phố lần so với trẻ em thành phố.

%

100

80

60

Thành phố

40

Nhập cư

20

0

Khác

Trường công

Trườ Trường bán công bán công

Trường dân lập

Trường tư thục

Nguồn: UPS 2009

Biểu đồ 4-4: Loại hình cơ sở giáo dục trẻ em TP Loại hình cơ sở giáo dục trẻ em TP.HCM theo học

Trong KSDC 2011, trường học của các trẻ , số liệu thống kê không cho biết loại hình trường học của các trẻ

em thuộc các gia đình nhập cư nhưng thông tin từ các ghi chú phỏng vấn cho thấy có nhiều em thuộc các gia đình nhập cư nhưng thông tin từ các ghi chú phỏng vấn cho thấy có nhiều em thuộc các gia đình nhập cư nhưng thông tin từ các ghi chú phỏng vấn cho thấy có nhiều

20

trẻ em lên TP.HCM để làm việc và theo cha mẹ lên TP.HCM theo học tại các lớp học tình

thương ở địa bàn. Một số trẻ em ở lại quê cũng theo học các lớp học tình thương, còn lại là

học ở các trường công lập. Điều đáng tiếc là do không phải toàn bộ các ghi chú đều ghi

nhận loại hình giáo dục theo học nên khó có thống kê rõ ràng.

Nhóm trẻ 1 có độ tuổi khá trẻ, từ 9 đến 15 tuổi. Trong đó, toàn bộ các trẻ em dưới

12 tuổi đều chưa tốt nghiệp tiểu học. Điều này phù hợp vì độ tuổi tốt nghiệp tiểu học ở Việt

Nam là 12 tuổi. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận các trẻ em lớn tuổi hơn nhưng vẫn chưa

hoàn thành bậc tiểu học. Thậm chí có trẻ em chưa hoàn thành bậc tiểu học ở tuổi 15.

Trung học cơ sở

Tiểu học

Chưa hoàn thành tiểu học

8 7 6 5 4 3 2 1 0

9

10

11

12

13

14

15

Tuổi

Nguồn: KSDC 2011

Biểu đồ 4-5: Trình độ học vấn cao nhất đã hoàn thành theo tuổi của nhóm trẻ 1

Một nhóm trẻ em trong nhóm 2 chưa từng đi học. Các em này nằm trong độ tuổi từ

6 – 7. Như vậy, nhóm trẻ em này có sự hạn chế trong việc tiếp cận với giáo dục vì 6 tuổi là

độ tuổi bắt đầu đi học tiểu học ở Việt Nam.Trong nhóm trẻ này cũng có những em chưa

hoàn thành bậc tiểu học dù đã 14 tuổi.

THPT

THCS

Tiểu học

Chưa hoàn thành tiểu học

16 14 12 10 8 6 4 2 0

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

Tuổi

Nguồn: KSDC 2011

Biểu đồ 4-6: Trình độ học vấn cao nhất đã hoàn thành theo tuổi của nhóm trẻ 2

21

Nhóm trẻ em ở lại nông thôn có tình trạng học vấn cao nhất theo tuổi khá nông thôn (nhóm 3) có tình trạng học vấn cao nhất theo tuổi khá

tương đồng với nhóm trẻ 2 tuổi nhưng chưa hoàn thành bậc tiểu 2, vẫn có những trẻ em 15 tuổi nhưng chưa hoàn thành bậc tiểu

học và một số trẻ em chưa đến trường ở độ tuổi lên em chưa đến trường ở độ tuổi lên 6 và 7.

THCS

Tiểu học

Chưa hoàn thành ti

a hoàn thành tiểu học

a bao giờ đi học hoặc mù

Chưa bao giờ đ chữ

20 18 16 14 12 10 8 6 4 2 0

10

11

12

13

14

15

6

7

8

9

Tuổi

Nguồn: KSDC 2011

Biểu đồ 4-7: Trình độ học v c vấn cao nhất đã hoàn thành của nhóm trẻ 3

trình bày tổng hợp trình độ học vấn cao nhất tại thời điểm phỏng vấn Biểu đồ 4-6 trình bày tổng hợp trình độ học vấn cao nhất tại thời điểm phỏng vấn trình bày tổng hợp trình độ học vấn cao nhất tại thời điểm phỏng vấn

Số liệu không cho thấy sự khác của các trẻ em thuộc gia đình nhập cư, phân theo giới tính. Số liệu không cho thấy sự khác của các trẻ em thuộc gia đình nhập cư

ai và gái thuộc các gia đình nhập biệt đáng kể giữa trình độ học vấn cao nhất của trẻ em trai và gái thuộc các gia đình nhập biệt đáng kể giữa trình độ học vấn cao nhất của trẻ em tr

cư tại thời điểm phỏng vấn. .

77

74

80

60

Nam

33

34

40

Nữ

c vấn cao nhất tại thời điểm phỏng vấn của trẻ em các gia em các gia đình Biểu đồ 4-8: Trình độ học v nhập cư

m e ẻ r t

15

15

12

ố S

7

20

0

1

0

Mù chữ

Tiểu học

THCS

THPT

Chưa hoàn thành tiểu học

Trình đ

nh độ học vấn

Nguồn: KSDC 2011

22

Khảo sát Di cư cho thấy có đến 18% trong số những trẻ em theo gia đình di cư đến

TP.HCM và gần 50% trong số trẻ em tự di cư đến TP.HCM không được tiếp tục học. Tỉ lệ

bỏ học đối với các em ở khu vực nông thôn là 17%, thấp hơn một chút so với trẻ em theo

cha mẹ lên thành phố và thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ em lao động ở TP.HCM. Thông

tin từ các ghi chú phỏng vấn cho thấy đa phần các trẻ em vừa đi làm vừa đi học tham gia

các lớp học tình thương, và một số tham gia các lớp học bổ túc vào buổi tối.

Trẻ ở nông thôn

Trẻ theo cha mẹ lên thành phố

Trẻ đi làm

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Bỏ học

Đi học mẫu giáo

Đi học

Nguồn: KSDC 2011

Biểu đồ 4-9: Tình trạng học tập của trẻ em được khảo sát

Để so sánh, số liệu về tỉ lệ bỏ học của trẻ từ 6 tuổi trở lên trên địa bàn TP.HCM là

15,4% (Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, 2011). Như vậy, tỷ lệ bỏ học ở trẻ em nhập cư cao hơn so

với nhóm trẻ em bản địa ở tuổi đến trường, đồng thời cũng cao hơn mức bỏ học chung toàn

quốc được điều tra trong tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2011), “Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009: phân tích những số liệu

chủ yếu”, Hình 4.3, tr.35

Biểu đồ 4-10: Tỷ lệ dân số 5- 18 tuổi bỏ học 1989-2009

23

4.3. Những nhân tố tác động đến việc tiếp cận giáo dục

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu dẫn đến việc bỏ học của trẻ em nhập cư là do

không tìm được hứng thú trong việc học. Rất nhiều trẻ em lên TP.HCM làm việc đã nghỉ

học từ vài năm trước hoặc đã lựa chọn nghỉ học trước khi di cư, trong đó một số em nghỉ

học để đi làm thêm phụ giúp gia đình và một số khác chỉ đơn thuần nghỉ học ở nhà. Một số

trẻ em được phỏng vấn trong bộ dữ liệu Khảo sát Di cư 2011 đã cho biết mình nghỉ học vì

chán, vì đi học không hiểu và vì thi rớt (chuyển cấp, tốt nghiệp,…). Cá biệt có trường hợp

nghỉ học vì bạn bè nghỉ học hết nên không muốn tiếp tục đi học nữa. Đa phần các trẻ em tự

lựa chọn nghỉ học có sức học dưới mức trung bình và gia đình (bao gồm cha mẹ và những

người chăm sóc chính khác) không có thái độ cương quyết đối với việc học của trẻ.

Có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến việc bỏ học của trẻ em thuộc các gia

đình nhập cư, bao gồm chi phí đắt đỏ cho việc học và thu nhập hạn chế của các gia đình

nhập cư, việc gia tăng chi phí qua các cấp học, và chính sách hộ tịch phân biệt trẻ em nhập

cư và trẻ em bản địa, làm giới hạn khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư.

4.3.1. Chi phí dành cho giáo dục

Tỷ trọng chi phí dành cho giáo dục mà gia đình phải bỏ ra để trẻ em có thể đến

trường ở Việt Nam khá cao nếu so với các quốc gia khác. Vào năm 2006, tỷ lệ chi phí giáo

dục từ ngân sách cho mỗi học sinh ở Việt Nam là 60% so với mức 80% của các nước

OECD và trên 70% của Mỹ. Như vậy, các khoản đóng góp từ gia đình trẻ em đi học và

một số nguồn khác sẽ có tỉ lệ lên đến 40%.

OCDE

Hàn Quốc

Nhật

Từ ngân sách

Pháp

Từ dân và các nguồn khác

Mỹ

Việt Nam

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Nguồn: Vũ Quang Việt (2006)

Biểu đồ 4-11: Nguồn đóng góp chi phí cho giáo dục ở Việt Nam và các nước

24

chi phí trung bình cho trẻ Do chính sách trợ cấp nhằm phổ cập giáo dục tiểu học, chi phí trung bình cho trẻ Do chính sách trợ cấp nhằm phổ cập

em đi học tiểu học thấp hơn hẳn chi phí cho trẻ em học trung học cơ sở nên nhiều gia đình em đi học tiểu học thấp hơn hẳn chi phí cho trẻ em học trung học cơ sở nên nhiều gia đình em đi học tiểu học thấp hơn hẳn chi phí cho trẻ em học trung học cơ sở nên nhiều gia đình

Trẻ em nhập cư đã nghỉ học có đã lựa chọn cho con mình nghỉ học khi trẻ học hết lớp 5. Trẻ em nhập cư đã nghỉ học có đã lựa chọn cho con mình nghỉ

trong đó một lượng lớn trong trình độ văn hoá trung bình là chưa hoàn thành bậc tiểu học, trong đó một lượng lớn trong trình độ văn hoá trung bình là chưa hoàn thành b

Việc tăng đột ngột chi phí học tập số những trẻ em này học đến lớp 5 trước khi nghỉ học. Việc tăng đột ngột chi phí học tập số những trẻ em này học đế

đồng thời là một có thể là một nguyên nhân chủ yếu khiến các trẻ em này phải bỏ học, đồng thời là một có thể là một nguyên nhân chủ yếu khiến cá

HCM để tìm kiếm cơ hội việc làm nguyên nhân gián tiếp thúc đẩy các em di cư đến TP.HCM để tìm kiếm cơ hội việc làm nguyên nhân gián tiếp thúc đẩy các em di cư đến TP

Trong tổng số 8 trẻ em đang đi trong điều kiện những cơ hội này rất hạn chế nơi xuất cư. Trong tổng số trong điều kiện những cơ hội này rất hạn chế nơi xuất cư

học tiểu học được điều tra trong bộ dữ liệu không phải chi khoản nào cho việc đi u học được điều tra trong bộ dữ liệu, có 4 em không phải chi khoản nào cho việc đi

học, và mức học phí trung bình trong năm học đối với các em còn lại là vào và mức học phí trung bình trong năm học 2010 – 2011 đối với các em còn lại là vào

khoảng 850.000 đồng, thấp hơn mức trung bình chung thấp hơn mức trung bình chung.

i với các trẻ em vẫn tiếp tục được đi học sau khi theo cha mẹ nhập cư đến Đối với các trẻ em vẫn tiếp tục được đi học sau khi theo cha mẹ nhập cư đến i với các trẻ em vẫn tiếp tục được đi học sau khi theo cha mẹ nhập cư đến

chi phí dành cho giáo dục cũng là một khoản không nhỏ so với tổng thu nhập TP.HCM, chi phí dành cho giáo dục cũng là một khoản không nhỏ so với tổng thu nhập chi phí dành cho giáo dục cũng là một khoản không nhỏ so với tổng thu nhập

chịu thêm các loại chi phí của gia đình các trẻ em này, trong khi các gia đình này còn phải chịu thêm các loại chi phí của gia đình các trẻ em này

chi phí điện và nước cao hơn so phát sinh khác của người nhập cư như chi phí thuê nhà, chi phí điện và nước cao hơn so phát sinh khác của người nhập cư như chi phí thuê nhà

để cho trẻ em trong các gia đình nhập cư với các gia đình có hộ khẩu thường trú. Như vậy, để cho trẻ em trong các gia đình nhập cư với các gia đình có hộ khẩu thường trú

c gia đình phải chi một khoản đáng kể trong khi thu nhập trung bình được đến trường, các gia đình phải chi một khoản đáng kể trong khi thu nhập trung bình c gia đình phải chi một khoản đáng kể trong khi thu nhập trung bình

của các gia đình này cũng ở mức thấp hơn so với mức trung bình ở TP.HCM của các gia đình này cũng ở mức thấp hơn so với mức trung bình ở TP .HCM.

Biểu đồ 4-12:Chi phí dành cho vi Chi phí dành cho việc học của trẻ em các gia đình nhập cư (2010 p cư (2010 – 2011)

25

Đối với nhóm những trẻ từ tỉnh thành khác đến TP.HCM lao động và vẫn còn đi

học, khoản chi dành cho học phí của nhóm trẻ này ở mức trung bình là 369.000 đồng,

trong đó trẻ đóng nhiều nhất là 3.000.000 đồng và ít nhất là không (0) đồng. Điều này đúng

với các trẻ em ở các lớp học tình thương vì các em này không phải đóng học phí. Các

khoản chi phí khác bao gồm đóng góp quỹ trường, lớp hay đồng phục, sách giáo khoa bắt

buộc và không bắt buộc, tiền học thêm, …ở mức không đáng kể, trung bình khoảng 60.000

đồng mỗi trẻ em cho cả năm học.

Đối với cả hai nhóm trẻ em theo cha mẹ lên sinh sống ở TP.HCM và nhóm trẻ em ở

lại quê khi cha mẹ di cư, mức học phí cũng dao động ở biên độ rất lớn nhưng mức học phí

trung bình giữa hai khu vực tương đối không chênh lệch. Đối với nhóm trẻ em theo cha mẹ

lên TP.HCM, mức học phí trung bình là khoảng 1.080.000 đồng/năm, trong khi mức học

phí của trẻ em ở lại quê cao hơn không đáng kể, khoảng 1.100.000 đồng/năm. Chênh lệch

về chi phí không cao do trong các mẫu nghiên cứu, số lượng trẻ em thuộc nhóm 2 theo học

các lớp học tình thương miễn phí khá nhiều, làm giảm mức học phí trung bình của nhóm.

Ngoài ra, chi phí này cũng chỉ mới là phần chi phí tính bằng tiền cho việc đi học của trẻ

em, còn các chi phí khác (chi phí thời gian, việc khó khăn trong việc hoàn thành thủ tục

giấy tờ) cho trẻ đi học ở TP.HCM chưa được tính đến. Cũng như các trẻ em theo cha mẹ

lên TP.HCM, trẻ em ở lại quê cũng chịu cú sốc về tăng chi phí khi chuyển từ cấp tiểu học

lên cấp trung học cơ sở. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng đến lớp của một số trẻ em.

Trong các nhóm trẻ em thuộc các gia đình nhập cư, một số lượng nhỏ phải nghỉ học

phổ thông và mẫu giáo trong năm qua vì khó khăn về tài chính. Ở nhóm trẻ lên TP.HCM

để làm việc, tỉ lệ gặp khó khăn về tài chính nên phải nghỉ học là 16%. Đối với các trẻ em đi

cùng cha mẹ hoặc người thân lên TP.HCM hoặc ở lại quê khi cha mẹ di cư, tỉ lệ này thấp

hơn đáng kể, ở mức khoảng hơn 6%.

Một vấn đề rất rõ thể hiện trong bản chi phí dành cho việc học là học phí luôn là

khoản chi quan trọng nhất, cấu thành trên 50% tổng chi phí dành cho việc học mỗi năm.

Một khoản chi khá đáng kể khác là tiền học thêm, chiếm 21% đối với tổng chi phí dành

cho việc học của trẻ em ở thành phố và 17% trong tổng chi phí của trẻ em ở nông thôn.

Điều này khá khác biệt so với cơ cấu chi trung bình của một học sinh do Vụ Kế hoạch Tài

chính, bộ Giáo dục Đào tạo tính toán năm 2002 vì trong cơ cấu chi này, học phí chỉ chiếm

khoảng 27%.

26

14%

Biểu đồ 4-13: Thống kê các khoản chi phí cho một người đi học

27%

Học phí

7%

Đóng góp cho trường lớp

Sách giáo khoa

Dụng cụ học tập

Học thêm

20%

Quần áo đồng phục

12%

Các khoản chi khác

11%

9%

Nguồn: “Cơ cấu tài chính cho giáo dục Việt Nam: còn nhiều bất cập” (2007)

Chi phí học tập các trẻ em nhập cư tập trung rất nhiều vào khoản học phí, và do đó,

việc miễn giảm học phí sẽ là một hỗ trợ cực kỳ to lớn, đóng vai trò hầu như quyết định

trong việc giúp cho trẻ được tiếp tục đến trường. Tỉ phần rất cao dành cho học phí cũng

cho thấy rằng các gia đình nhập cư chi rất hạn chế cho các khoản cần thiết khác khi cho trẻ

đi học, như sách giáo khoa và dụng cụ học tập.

Hộp 5: Chi phí giáo dục ảnh hưởng đến khả năng đi học

Cháu trai của bà Ba đang theo học lớp 6 tại một trường công lập ở huyện Chợ Mới, tỉnh

An Giang. Con trai và con dâu của bà đã theo anh em bên vợ đi Bình Dương làm công

nhân từ hai năm nay. Gia đình bà thuộc diện chính sách do chồng bà là liệt sĩ, nhà lại

thuộc diện hộ nghèo nên cháu bà được miễn học phí hoàn toàn, gần đây nó còn nhận

được học bổng khuyến học của tỉnh, nếu không chắc bà đã phải cho nó nghỉ học.

Con bà cũng muốn mang con trai của mình lên để được gần gũi chăm sóc, nhưng không

biết khi lên thì bé có được tiếp tục đi học không và thêm người thêm tốn kém chi phí

sinh hoạt. Do đó, con và dâu bà phải cắn răng chịu xa con để có tiền gửi về cho bà chăm

cháu.

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011

27

Trẻ em ở lại quê có ưu thế hơn trẻ em theo cha mẹ di cư trong việc hưởng thụ các

chính sách dành cho gia đình nghèo của các địa phương. Các trẻ em thuộc gia đình có sổ

hộ nghèo theo chuẩn của nhà nước được miễn hoàn toàn học phí và đây là một động lực và

khuyến khích to lớn đối với các người chăm sóc của trẻ và bản thân các trẻ em này. Trong

nhiều trường hợp, khi gia đình không còn được hưởng những hỗ trợ dành cho hộ nghèo,

các trẻ em của các gia đình ấy phải dừng việc học. Các chính sách trợ cấp song song hỗ trợ

cho chính sách miễn giảm học phí là chính sách bảo hiểm y tế bắt buộc dành cho học sinh.

So sánh mức chi phí dành cho việc học và chi phí dành cho nhà ở tính theo hộ trung

bình thì mức chi phí dành cho việc học chiếm khoảng trên dưới 20% so với tổng chi phí

dành cho việc thuê nhà trọ, tiền điện, nước và các loại phí khác liên quan đến nhà ở. Cụ

thể, chi tiêu dành cho việc học của trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM chiếm 23% so với chi

tiêu dành cho nhà ở và trẻ đi làm ở TP.HCM chiếm 11%. Về cơ bản, tỉ lệ chi phí thuê nhà

và chi phí dành cho việc học của nhóm trẻ em đến lao động (không đi kèm gia đình) tại

TP.HCM thấp hơn đáng kể so với các nhóm còn lại. Tuy nhiên, các trẻ em thuộc nhóm 1

thường phải một mình chi trả (hoặc chia sẻ với người cùng thuê trọ) cho các khoản chi về

nhà ở và chi phí học hành.

Rất nhiều trẻ em nhập cư chỉ có thể theo học tại các lớp tình thương mở ở các địa

phương, nơi mà các em được miễn phí hoàn toàn cho việc học, được tài trợ một số dụng cụ

học tập nhất định. Tuy nhiên, đây lại là một mô hình không ổn định do đa phần hoạt động

của các lớp học này phụ thuộc vào các nhóm tình nguyện và dựa vào hảo tâm đóng góp từ

các nguồn khác nhau

28

Hộp 6: Lớp học tình thương ở Thành phố

Lớp học tình thương dành cho trẻ em lang thang, trẻ em thuộc các gia đình

nghèo ở Phường Linh Trung, quận Thủ Đức thu hút trung bình khoảng 20 học sinh

theo học theo các trình độ riêng từ lớp 1 đến lớp 5 đã hơn 3 năm nay. Tuy nhiên, lớp

học duy trì được là dựa vào sự nhiệt tình của cán bộ chuyên trách công tác phụ nữ và

trẻ em của địa phương cùng với các nhóm sinh viên tình nguyện trong một căn phòng

chưa được sử dụng của Đoàn Thanh Niên phường Linh Trung, quận Thủ Đức. Bất cứ

biến động nào cũng có thể làm lớp học này đóng cửa và các trẻ em đang theo học hầu

như không có cơ hội để tiếp tục việc học tại một trung tâm hay trường khác. Trên

thực tế, lớp học này đang phải đối mặt với việc mất địa điểm học do căn phòng sắp

được thu hồi.

Dương Thị Tú Uyên năm nay 9 tuổi quê ở Cái Bè, Tiền Giang, theo cha mẹ

lên ở Tp Hồ Chí Minh được 4 năm. Hiện gia đình Uyên đang sống bất hợp pháp ở

một xóm tạm ở Thủ Đức. Đây vốn là một khu đất bỏ hoang cho rác thải và cỏ lau

được những người dân di cư từ khắp nơi đến dựng nhà ở tạm.Cha của Uyên đi làm

thợ sơn cả ngày còn mẹ thì đi bán bánh bao buổi sáng, buổi chiều thì ở nhà. Do cư trú

bất hợp pháp nên Uyên không đủ điều kiện đi học ở các trường công lập. Nhưng

Uyên được đi học lớp tình thương do Đoàn thanh niên của phường tổ chức. Hiện giờ

Uyên đã học hết lớp 2 và chuẩn bị lên lớp 3.

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011

29

4.3.2. Thu nhập và điều kiện sống của người nhập cư

Đa phần trẻ em nhập cư đến TP.HCM có điều kiện sống thấp hơn mặt bằng chung

và các gia đình nhập cư cũng có thu nhập khiêm tốn hơn các gia đình bản địa tính trên mặt

bằng chung. Theo dữ liệu trong nghiên cứu UPS 2009, thu nhập trung bình của người nhập

cư chỉ bằng khoảng 86% so với thu nhập trung bình của người dân bản địa trong khi chi

tiêu cho các khoản ngoài thực phẩm của người dân nhập cư (bao gồm chi cho nhà ở và chi

khác) cao gấp 2 lần người dân bản địa. Trái lại, chi tiêu dành cho thực phẩm của người dân

nhập cư lại chiếm chưa đến 80% chi tiêu tương ứng của người dân thành phố, điều này

chứng tỏ chế độ dinh dưỡng của người nhập cư thấp hơn đáng kể so với người dân bản địa.

Hộp 7: Gia đình phân tán để trẻ được đi học

Gia đình anh Hoàng Văn Lâm (40 tuổi), chị Trần Thị Tròn (40 tuổi) quê ở huyện Phú

Vang, Huế vào TP.HCM được gần 1 năm nay. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, anh chị

nghe theo lời người quen di cư vào Nam sinh sống nhằm kiếm thu nhập tốt hơn.

Anh chị có ba đứa con trai, nhưng hiện giờ chỉ có đứa con giữa (12 tuổi ) ở nhà với ông

bà nội là được tiếp tục đi học. Đứa lớn nhất năm nay 16 tuổi cũng đã vừa nghỉ học vào

Tp.HCM học nghề may. Đứa con út năm nay 7 tuổi bị bệnh không thể để ở nhà cho ông

bà nội chăm sóc nên cũng theo cha mẹ vào Tp.HCM. Tuy nhiên, do không có hộ khẩu

và đăng ký tạm trú ở địa phương nên anh Lâm không thể cho con theo học tại trường

công ở Tp.HCM nên đành cho con nghỉ học.

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011

30

ngành nghề được Số liệu của nghiên cứu UPS 2009 cũng cho thấy, trong các nhóm ngành nghề được Số liệu của nghiên cứu UPS

xem là có thu nhập bấp bênh hơn p bấp bênh hơn (lao động không kỹ năng, công nhân phổ thông công nhân phổ thông, ...) lao

Điển hình, tỉ lệ lao động nhập cư chiếm tỷ lệ cao hơn đáng kể so với lao động bản địa. Điển hình động nhập cư chiếm tỷ lệ cao hơn đáng kể so với lao động bản địa

trong tổng số lao động nhập cư thuộc nhóm “lao động không có kỹ năng” chiếm gần 24% trong tổng số lao động nhập cư thuộc nhóm “lao động k

động nhập cư, trong khi nhóm tương ứng của người bản địa chỉ chiếm trong khi nhóm tương ứng của người bản địa chỉ chiếm 16 16,4%. Tỉ lệ nhóm

Tỷ lệ lao động nhập cư “công nhân” ở nhóm nhập cư và bản địa lần lược là 23% và 15%. Tỷ lệ lao động nhập cư “công nhân” ở nhóm nhập cư và bản địa lần lược là

g các ngành mang tính ổn định hơn lại thấp hơn đáng kể so với người bản địa trong các ngành mang tính ổn định hơn lại thấp hơn đáng kể so với người bản địa. Ví dụ

như tỉ lệ nhóm công nhân có tay nghề gấp đôi tỉ lệ công nhân nhập cư có tay nghề. Như như tỉ lệ nhóm công nhân có tay nghề gấp đôi tỉ lệ công nhân nhập cư có tay nghề như tỉ lệ nhóm công nhân có tay nghề gấp đôi tỉ lệ công nhân nhập cư có tay nghề

vậy, khi thu nhập của người nhập cư đã có mặt bằng c hung thấp hơn nhóm người bản địa khi thu nhập của người nhập cư đã có mặt bằng chung thấp hơn nhóm người bản địa

cùng trình độ, người nhập cư lại còn làm việc trong khu vực có thu nhập hạn chế và người nhập cư lại còn làm việc trong khu vực thường có thu nhập hạn chế và

bấp bênh hơn.

Lao động không có k

động không có kỹ năng

Công nhân phổ thông Công nhân ph

Công nhân trong dây chuyền lắp ráp Công nhân trong dây chuy

Bán hàng và dịch vụ Bán hàng và d

Chuyên gia cao cấp Chuyên gia cao c

Nhập cư

Thành phố

Chuyên gia trung cấp Chuyên gia trung c

Chuyên gia sơ cấp/ cổ cồn trắng Chuyên gia sơ cấ

Công nhân có kỹ năng trong nông lâm ng

ng trong nông lâm ngư …

Lãnh đạo/ T

đạo/ Tự kinh doanh

%

0

10

20

30

40

50

Nguồn: UPS 2009

ngành nghề sử dụng nhiều thời gian nhất Phân chia lao động theo nhóm ngành nghề sử dụng nhiều thời gian nhất Biểu đồ 4-14: Phân chia lao động theo nhóm trong vòng 12 tháng

Bảng tổng hợp việc làm của người nhập cư theo ba nhóm từ số liệu của KSDC Bảng tổng hợp việc làm của người nhập cư theo ba nhóm từ số liệu của Bảng tổng hợp việc làm của người nhập cư theo ba nhóm từ số liệu của

tuần trong năm vừa cho thấy thời gian làm việc trung bình của các nhóm này là trên 6 tuần trong năm vừa 2011 cho thấy thời gian làm việc trung bình của các nhóm này là trên

qua. Tuy nhiên, một số người lao động hai việc để kiếm thêm thu nhập nhằm một số người lao động làm một lúc hai việc để kiếm thêm thu nhập nhằm

này không khác nhau đáng kể giữa các trang trải cho các chi phí trong cuộc sống, và tỉ lệ này không khác nhau đáng kể giữa các trang trải cho các chi phí trong cuộc sống

nhóm.

Đi sâu hơn vào tình hình việc làm của hai nhóm nhập cư là nhóm mang con lên Đi sâu hơn vào tình hình việc làm của hai nhóm nhập cư là nhóm mang con lên Đi sâu hơn vào tình hình việc làm của hai nhóm nhập cư là nhóm mang con lên

HCM và nhóm để con lại quê cho người thân chăm sóc cho thấy nhóm công nhân ở các TP.HCM và nhóm để con lại quê cho người thân chăm sóc cho thấy nhóm công nhân ở các HCM và nhóm để con lại quê cho người thân chăm sóc cho thấy nhóm công nhân ở các

31

nhà máy và nhóm người giúp việc có khuynh hướng để con lại quê nhiều hơn. Đây có lẽ do

ảnh hưởng của điều kiện lao động. Nếu mang con theo, cha mẹ làm công nhân ở các nhà

máy sẽ phải tốn thêm nhiều chi phí hơn (thuê trọ riêng, phải nghỉ việc để ở nhà trông

con,…). Trong điều kiện kinh tế eo hẹp của người nhập cư làm lao động phổ thông, lựa

chọn này không mấy khả thi. Còn nhóm lao động giúp việc lại có khuynh hướng ở trong

nhà của người chủ, do đó cũng khó mang con theo lên ở chung. Ghi chú phỏng vấn một

trường hợp nữ giúp việc cho biết chị này đã phải ra ngoài thuê nhà trọ để được mang con

lên TP.HCM sống với mình vì nhà chủ không chấp nhận đứa bé vào ở chung.

Biểu đồ 4-15: Việc làm của nhóm cha mẹ mang con lên TP.HCM và để con lại quê

32

30%

25%

20%

Hoa hồng

15%

Tự trả lương

10%

Tư nhân trả thù lao (ngày, tuần)

5%

0%

Tư nhân trả lương (tháng)

Khác

Lao động mùa vụ

bán hàng rong

Dịch vụ vận chuyển

Người giúp việc

Nhân viên bảo vệ

Công nhân nhà máy

Lao động nông nghiệp ổn định

Thu gom thức ăn/phế liệu

Nông dân (trên ruộng bản thân)

Nguồn: KSDC 2011

Việc làm của nhóm cha mẹ để con lại quê

Lựa chọn giữa đi học và làm việc cũng là một vấn đề thường gặp ở các trẻ em nhập

cư. Một số ngành nghề mà các trẻ em thường chọn đi làm là bán vé số, thu thập chất thải

và làm thuê trong các nhà hàng, quán ăn, tiệm sửa xe…Trong nhóm 1, các em có việc làm

thường xuyên chiếm 74% và 26% còn lại có việc làm bán thời gian và các em thường có

việc làm ngay chứ không tốn nhiều thời gian cho việc tìm việc. Tuy nhiên, tính chất công

việc của các trẻ em thuộc nhóm này lại là một vấn đề đáng quan ngại. Tất cả các em đều

đang làm những công việc mang tính chất tạm bợ, hoàn toàn không có hợp đồng lao động

(do chưa đủ tuổi), thu nhập thấp và không có cơ hội thăng tiến. Thời gian làm việc và học

tập nhiều khi trùng lắp và có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập, hứng thú đối

với học tập của các trẻ em này.

33

đi học Hộp 8: Lựa chọn đi làm – đi học

Trong Khảo sát Di cư 2011 nhóm trẻ em theo học lớp tình thương tại phường Linh 2011, nhóm trẻ em theo học lớp tình thương tại phường Linh

Trung, Quận Thủ Đức thường đi bán báo rác vào ban ngày và đi học vào Quận Thủ Đức thường đi bán báo, vé số và nhặt rác vào ban ngày và đi học vào

buổi tối. Những hôm làm việc mệt nhọc các em đôi khi nghỉ học hoặc tới lớp với tâm Những hôm làm việc mệt nhọc, các em đôi khi nghỉ học hoặc tới lớp với tâm

trạng mệt và đói, không thể tập trung cho việc học không thể tập trung cho việc học. Đa phần các trẻ em thuộc nhóm Đa phần các trẻ em thuộc nhóm 3 (ở

ọc không tham gia làm việc toàn thời gian trừ một em làm việc dưới 6 ọc không tham gia làm việc toàn thời gian trừ một em làm việc dưới lại quê) đang đi học không tham gia làm việc toàn thời gian trừ một em làm việc dưới

các em còn lại có tham gia công việc bán thời gian vào những lức rảnh rỗi nhưng tuần, các em còn lại có tham gia công việc bán thời gian vào những lức rảnh rỗi nhưng các em còn lại có tham gia công việc bán thời gian vào những lức rảnh rỗi nhưng

không đáng kể. Tình trạng cũng tương tự như vậy đối với các trẻ em Tình trạng cũng tương tự như vậy đối với các trẻ em thuộc nhóm thuộc nhóm 2. Như

những trẻ em được đi học sẽ tương đối ít tham gia vào các việc vậy, ngoài trừ nhóm 1, những trẻ em được đi học sẽ tương đối ít tham gia vào các việc những trẻ em được đi học sẽ tương đối ít tham gia vào các việc

Khảo sát UPS cũng cho thấy các gia đình nhập cư có tỷ lệ gặp khó khăn làm kiếm tiền. Khảo sát UPS cũng cho thấy các gia đình nhập cư có tỷ lệ gặp khó khăn Khảo sát UPS cũng cho thấy các gia đình nhập cư có tỷ lệ gặp khó khăn

về tài chính nhiều hơn các gia đình người bản địa. Đồng thời, khi gặp khó khăn về tài chính nhiều hơn các gia khi gặp khó khăn, người

nhập cư thường phải tìm sự trợ giúp từ những nguồn phi chính thức bên ngoài hơn là dựa nhập cư thường phải tìm sự trợ giúp từ những nguồn phi chính thức bên ngoài hơn là dựa nhập cư thường phải tìm sự trợ giúp từ những nguồn phi chính thức bên ngoài hơn là dựa

vào nguồn tín dụng chính thức từ các ngân hàng và quỹ xoá đói giảm nghèo. Việc sử vào nguồn tín dụng chính thức từ các ngân hàng và quỹ xoá đói giảm nghèo vào nguồn tín dụng chính thức từ các ngân hàng và quỹ xoá đói giảm nghèo

tín dụng tư nhân và thậm chí tín dụng nguồn tín dụng phi chính thức (vay từ người quen, tín dụng tư nhân và thậm chí tín dụng nguồn tín dụng phi chính thức

dụng đen) là do những rào cản trong tiếp cận dịch vụ các ngân hàng là do những rào cản trong tiếp cận dịch vụ. Thông thường, các ngân hàng

được chỉ định cho vay đối với người có hộ khẩu tại địa phương. được chỉ định cho vay đối với người có hộ k

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011 Tình huống phỏng vấn KSDC

- Khác - Người quen/ bạn bè - Tín dụng tư nhân - Ngân hàng nông nghiệp

Nhập cư

Thành phố

- Ngân hàng chính … - Quỹ giảm nghèo - Ngân hàng khác - Tín dụng vi mô - Các tổ chức xã hội - Quỹ quốc gia về tạo …

0

5

10

15

%

Nguồn: UPS 2009

Nguồn trợ giúp về tài chính khi gặp khó khăn Biểu đồ 4-16: Nguồn trợ giúp về tài chính khi gặp khó khăn

34

thu nhập không ổn định và sự ình trạng việc làm của cha mẹ bấp bênh dẫn đến thu nhập không ổn định và sự Tình trạng việc làm của cha mẹ bấp bênh dẫn đến

cũng ảnh hưởng đến khả quan tâm hạn chế của phụ huynh đến việc học tập của trẻ em cũng ảnh hưởng đến khả quan tâm hạn chế của phụ huynh đến việc học tập của trẻ em

Công việc bận rộn khiến cho cha mẹ không năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư. Công việc bận rộn khiến cho cha mẹ không năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nhập cư

c và quan tâm đến việc học hành của con cái và tình trạng bấp dành đủ thời gian chăm sóc và quan tâm đến việc học hành của con cái và tình trạng bấp dành đủ thời gian chăm só

bênh trong thu nhập của những gia đình lao động phổ thông vốn chiếm phần đông trong bênh trong thu nhập của những gia đình lao động phổ thông vốn chiếm phần đông trong bênh trong thu nhập của những gia đình lao động phổ thông vốn chiếm phần đông trong

những nhóm lao động nhập cư khiến cho cơm áo gạo tiền trở thành những vấn đề quan những nhóm lao động nhập cư khiến cho cơm áo gạo tiền trở thành những vấn đề những nhóm lao động nhập cư khiến cho cơm áo gạo tiền trở thành những vấn đề

trọng hơn là việc đến trường và tận hưởng tuổi thơ của nhóm trẻ em nhập cư. trọng hơn là việc đến trường và tận hưởng tuổi thơ của nhóm trẻ em nhập cư trọng hơn là việc đến trường và tận hưởng tuổi thơ của nhóm trẻ em nhập cư

4.3.3. Sự quan tâm quan tâm và trình độ giáo dục của cha mẹ và/hoặc người chăm hoặc người chăm

sóc chính

Hoà Triều (2011) cho rằng s ự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với việc học của con cho rằng sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với việc học của con

cái cũng là một trong những yếu tố khiến trẻ em nhập cư dễ dàng bỏ học hơn cái cũng là một trong những yếu tố khiến trẻ em nhập cư dễ dàng bỏ học hơn. Nhiều cha

mẹ nhập cư khoán trắng việc học tập của con mình cho nhà trường. Tuy nhiên,trong mẹ nhập cư khoán trắng việc học tập Tuy nhiên,trong KSDC

khi cha mẹ dù đi xa vẫn quan tâm đến việc học của con cái thông qua việc gọi điện 2011, khi cha mẹ dù đi xa vẫn quan tâm đến việc học của con cái thông qua việc gọi điện khi cha mẹ dù đi xa vẫn quan tâm đến việc học của con cái thông qua việc gọi điện

đứa trẻ thường có khuynh hướng tiếp tục đi học nhiều hơn. Thông thường, đứa trẻ thường có khuynh hướng tiếp tục đi học nhiều hơn hoặc về thăm, đứa trẻ thường có khuynh hướng tiếp tục đi học nhiều hơn

n về nhà hoặc mang tiền về khi về quê cha mẹ của những trẻ em ở nhóm 3 thường gửi tiền về nhà hoặc mang tiền về khi về quê cha mẹ của những trẻ em ở nhóm

Mức độ thường xuyên của việc gửi tiền phụ thuộc vào tính ổn định trong thu thăm con cái. Mức độ thường xuyên của việc gửi tiền phụ thuộc vào tính ổn định trong thu Mức độ thường xuyên của việc gửi tiền phụ thuộc vào tính ổn định trong thu

nhập của cha mẹ ở TP.HCM thu nhập gửi về của cha mẹ rất bất HCM. Có nhiều trường hợp, thu nhập gửi về của cha mẹ rất bất

thường và số tiền cũng không đáng kể việc chăm sóc và các số tiền cũng không đáng kể. Trong những trường hợp đó, việc chăm sóc và các

chi phí cho việc ăn học của trẻ em thường là do người chăm sóc chính (thường là ông chi phí cho việc ăn học của trẻ em thường là do người chăm sóc chính thường là ông, bà)

lo toàn bộ.

92%

100%

80%

% 59%

60%

33%

Đang đi học

40%

Đã bỏ học

8%

6%

20%

2%

0%

Không bao giờ

Thường xuyên ng xuyên

Không thường xuyên

Nguồn: KSDC 2011

Biểu đồ 4-17: Tình trạng học tập của trẻ em phân theo mức ràng buộc kinh tế Tình trạng học tập của trẻ em phân theo mức ràng buộc kinh tế (tần Tình trạng học tập của trẻ em phân theo mức ràng buộc kinh tế suất chu cấp)

35

Mặc dù với số lượng mẫu nghiên cứu tương đối nhỏ, không thể chỉ ra tương quan

trực tiếp giữa sự ràng buộc về kinh tế (thể hiện một phần sự quan tâm của cha mẹ hoặc

người chăm sóc đối với đời sống trẻ em), nhưng cũng có thể nhận thấy rất rõ một điểm là ở

những trường hợp cha mẹ thường xuyên liên hệ thông qua việc gửi tiền về, mức độ bỏ học

của trẻ em thấp hơn đáng kể so với số trẻ em vẫn đang đi học. Số liệu từ KSDC 2011 cho

thấy, 92% các trẻ em đang đi học nhận sự hỗ trợ về kinh tế một cách thường xuyên. Trong

khi đó, chỉ có 59% các em đã nghỉ học nhận được sự hỗ trợ tương tự. Có đến 41% các em

đã bỏ học chỉ nhận được các khoản đóng góp mộ cách không thường xuyên hoặc thậm chí

không bao giờ trong khi con số này ở các trẻ em còn đang đi học chỉ là 8%.

Hộp 9: Quan tâm của người chăm sóc đến tình trạng học tập của trẻ em

Quân được cha mẹ gửi lại nhà dì hai khi cha mẹ em lên TP.HCM làm nghề buôn bán

dạo. Cha mẹ em hiện nợ một số tiền khá lớn (lên đến hơn 100 triệu) của những người

láng giềng và không có khả năng trả nợ. Do đó, họ phải lặng lẽ ra đi, chỉ mang theo một

ít tư trang và đứa em gái còn rất bé của Quân.

Dì hai chưa từng đi học, dượng hai cũng nghỉ học từ năm lớp 3 nên việc học hành của

các con, cháu cả hai người đều không nắm rõ. Thậm chí dì hai của Quân không biết con

ruột của mình đang học với cô nào và học tập như thế nào thì việc dì không viết Quân

còn đi học hay không cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. Kết quả học tập của

Quân càng đi xuống vì em thích “cúp” học đi chơi với các bạn hơn là đến trường. Cha

Quân, một cựu giáo viên tiểu học và giờ đang đi bán hàng rong, khá buồn phiền vì điều

này nhưng ông ở quá xa để có thể theo dõi sát sao việc học của con mình.

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011

Khả năng tiếp cận thông tin và trình độ học vấn của người chăm sóc chính của trẻ ở

quê cũng có ảnh hưởng rất đáng kể đối với việc tiếp cận giáo dục. Khi người chăm sóc

chính có những kiến thức cần thiết về tầm quan trọng của việc học, có lưu tâm đến quá

trình học tập của trẻ thì trẻ em có khuynh hướng được tiếp tục học nhiều hơn. Trong rất

nhiều trường hợp trẻ em bỏ học ở quê, việc thiếu quan tâm, thiếu hiểu biết của người chăm

sóc chính được xem là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến trẻ bỏ học. Đặc

biệt, một bộ phận những người chăm sóc có tâm lý “được đến đâu hay đến đó”, khi trẻ em

có tâm lý chán học hoặc khi gặp khó khăn tài chính, họ dễ dàng để trẻ nghỉ học.

36

Trình độ học vấn cao nhất của những người chăm sóc chính cho trẻ ở khu vực nông

thôn là tốt nghiệp trung học phổ thông, tuy nhiên nhóm trình độ này chiếm tỷ lệ rất nhỏ

(3,9%) còn đa phần người chăm sóc có trình độ tiểu học. Trong số những cha mẹ mang

theo con lên TP.HCM, có đến 94% có bằng cấp từ trung học cơ sở và thấp hơn. Đối với

những trẻ em dưới 16 tuổi đến lao động tại TP.HCM, có đến 51% chưa học hết bậc tiểu

học và khoảng 40% chỉ mới tốt nghiệp tiểu học. Đây là một con số thấp nếu so với mặt

bằng chung về giáo dục của cả nước và khu vực TP.HCM.

Bảng so sánh tỷ lệ bỏ học của trẻ em các gia đình nhập cư phân theo trình độ học

vấn cao nhất của người chăm sóc chính (cha mẹ hoặc người thân ở quê) cho thấy trong

nhiều trường hợp trình độ của người chăm sóc chính cao thì tỉ lệ bỏ học của trẻ em cũng ít

đi tương ứng. Đối với nhóm trẻ em có người chăm sóc chính mù chữ hoặc chưa bao giờ đi

học, tỉ lệ không đi học của các em rất cao, lên đến 30%. Tỉ lệ này cũng tương tự đối với

nhóm người chăm sóc chính có trình độ tiểu học.Đối với hai nhóm người chăm sóc đã

hoàn thành bậc tiểu học và có bằng trung học cơ sở, số lượng trẻ em trong tuổi không đi

học ở mức 5%.Đối với hai nhóm người chăm sóc có trình độ trung học phổ thông và

đạihọc, không có trẻ em thuộc các gia đình này phải bỏ học. Tuy nhiên, hai nhóm này

chiếm số lượng không lớn trong bộ dữ liệu do đa phần những người nhập cư được phỏng

vấn có trình độ học tương đối thấp.

37

100%

90%

80%

70%

60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%

Mù chữ (1)

Tiểu học (3)

THCS (4)

THPT (5)

học Đại họ (9)

chưa hoàn thành tiểu học (2)

Không đi họ

học (1)

Đang đi học mẫu giáo (2)

Đang đi học (3 3)

Nguồn: KSDC 2011

trẻ em nhập cư dựa trên tình trạng học vấn của Tỉ lệ đi học và bỏ học của trẻ em nhập cư dựa trên tình trạng học vấn của Biểu đồ 4-18: Tỉ lệ đi học và bỏ học của 2011) người chăm sóc (2010 – 2011)

4.3.4. Chính sách hộ khẩu và hỗ trợ cho người nghèo Chính sách h

đa phần nhóm trẻ em Bảng tình trạng hộ tịch của các nhóm trẻ em nhập cư cho thấy đa phần nhóm trẻ em Bảng tình trạng hộ tịch của các nhóm trẻ em nhập cư cho thấy

phần có tình trạng đăng ký cư trú là “tạm trú” và “tạm trú dài hạn”, và không có phần có tình trạng đăng ký cư trú là “tạm trú” và “tạm trú dài hạn” 1 và 2 đa phần có tình trạng đăng ký cư trú là “tạm trú” và “tạm trú dài hạn”

bản thân người trả lời phỏng bất cứ trường hợp nào có hộ khẩu tại TP.HCM. Tuy nhiên, bản thân người trả lời phỏng bất cứ trường hợp nào có hộ khẩu tại TP

trú như thế nào vì mọi liên hệ với vấn cũng không xác thực được việc mình đăng ký tạm trú như thế nào vì mọi liên hệ với vấn cũng không xác thực được việc mình đăng ký tạm

hầu hết trẻ em trong chính quyền địa phương thường thông qua chủ nhà trọ. Ngược lại, hầu hết trẻ em trong chính quyền địa phương thường thông qua chủ nhà trọ

nhóm 3 đều có hộ khẩu ở nơi cư trú và 22% ở nhóm 2 đều có hộ khẩu ở nơi cư trú.Ngoài ra, có đến 16% ở nhóm 1 và

không có giấy tờ đăng ký cư trú đăng ký cư trú.

HCM chịu thiệt thòi về vấn đề hộ khẩu và các thủ tục giấy Trẻ em nhập cư đến TP.HCM chịu thiệt thòi về vấn đề hộ khẩu và các thủ tục giấy Trẻ em nhập cư đến TP

tờ khác hơn trẻ em bản địa bản địa, và điều này tác động rất tiêu cực đến khả năng tiế và điều này tác động rất tiêu cực đến khả năng tiếp cận giáo

dục của các em. Chính quyền TP Chính quyền TP.HCM, dưới sức ép của các tệ nạn chạy trường chuyên dưới sức ép của các tệ nạn chạy trường chuyên,

trường điểm và sự quá tải của hệ thống trường công đã phải áp dụng chính sách nhập trường điểm và sự quá tải của hệ thống trường công đã phải áp dụng chính sách nhập trường điểm và sự quá tải của hệ thống trường công đã phải áp dụng chính sách nhập

chính sách này tác động trường theo tuyến hộ khẩu để hạn chế các tình trạng tiêu cực, và chính sách này tác động trường theo tuyến hộ khẩu để hạn chế các tình trạng tiêu cực

vốn không có khả năng nhập hộ khẩu thành mạnh đến trẻ em thuộc các gia đình nhập cư, vốn không có khả năng nhập hộ khẩu thành mạnh đến trẻ em thuộc các gia đình nhập cư

38

phố. Trước năm 2007, chính sách hộ tịch phân người dân sống tại thành phố thànhh 4

nhóm (KT-1 đến KT-4), trong đó người nhập cư chưa có hộ khẩu sẽ được phân theo hai

nhóm KT-3 và KT-4, và hai nhóm này có quyền tiếp cận rất hạn chế với các dịch vụ giáo

dục công, trong đó nhóm KT-4 hầu như không có cơ hội vào học trường công, đồng nghĩa

với việc nhiều trẻ em nhập cư phải theo học các trường tư với chi phí cao hơn đáng kể.

Tuy nhiên, kể từ 2007, với Luật Cư Trú 2007 và chính sách phổ cập giáo dục tiểu

học và trung học cơ sở, “theo đó, mọi trẻ em trong độ tuổi dù là thường trú hay tạm trú đều

phải được đến trường. Các trường học trên địa bàn thành phố không có lý do gì để nói

“không” với trẻ nhập cư” (Hoà Triều, 2011), nhưng điều này chỉ đúng đối với trường hợp

các trẻ em thuộc diện tạm trú dài hạn có đăng ký, trong khí rất nhiều trường hợp người

nhập cư không thực hiện, hoặc không đủ điều kiện để hoàn thành các thủ tục giấy tờ này.

Như đã đề cập, đa phần người nhập cư không tiếp xúc trực tiếp với chính quyền địa

phương mà thông qua các chủ nhà trọ nơi mình sinh sống. Trong nhiều trường hợp được

hỏi, người nhập cư chỉ biết là mình đã đưa giấy tờ tuỳ thân (chứng minh nhân dân) cho chủ

nhà trọ để họ làm các thủ tục tạm trú cho mình chứ hoàn toàn không biết mình đã có đăng

ký tạm trú hay chưa và dưới hình thức nào.

Hộp 10: Khó khăn trong việc vào học trường công của trẻ em nhập cư

Nhiều trường hợp khi được hỏi vì sao không để cho con tiếp tục đi học đã trả lời

do những khó khăn trong việc hoàn thành thủ tục giấy tờ nên không thể tiếp tục cho con đi

học. Các thủ tục giấy tờ này nhằm để xác nhận là trẻ em thuộc các gia đình nhập cư tạm

trú dài hạn trên địa bàn tuyển sinh của trường và không dễ có được nếu người nhập cư

thường xuyên di chuyển đến các nhà trọ khác nhau hay người chủ nhà trọ không làm thủ

tục đăng ký tạm trú dài hạn cho người thuê nhà.

Ngoài ra, trẻ theo cha mẹ lên TP.HCM phải đánh đổi giữa việc ở gần cha mẹ và được đi

học miễn phí. Với chính sách miễn giảm học phí hiện tại dành cho con em các gia đình có

sổ hộ nghèo (miễn) và xác nhận cận nghèo (giảm), nhà nước hậu thuẫn việc đến trường

của những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Nhưng chính sách này thường chỉ được áp dụng

tại địa bàn đăng ký hộ khẩu. Tại các trường ở TP.HCM, lượng người nhập cư nhập học

hạn chế nên chính sách này cũng không được mấy lưu tâm. Do đó, thường chỉ có trẻ em ở

lại quê được theo học miễn học phí và các khoản đóng góp tiền trường, tiền hội phí trong

hệ thống giáo dục công lập.

Tình huống phỏng vấn KSDC 2011

39

Một số trẻ em không phải đóng học phí và các loại quỹ trường, lớp do chính sách

miễn giảm học phí dành cho gia đình có sổ hộ nghèo. Thường các trẻ em này sống ở nông

thôn, do đó được sử dụng các phúc lợi dành cho thành viên hộ nghèo, căn cứ theo hộ khẩu.

Phúc lợi này hầu hết các trẻ em theo cha mẹ đến sinh sống ở TP.HCM không có được do

không có hộ khẩu. Trong số 11 em còn đang đi học song song với đi làm, có đến 8 em đi

học các lớp tình thương không đóng phí, chiếm khoản 73% tổng số, đồng thời trong số các

trẻ em đang đi học ở quê (nhóm 3), có đến 36 em được miễn học phí.Có 14 em theo cha

mẹ lên thành phố không tốn tiền học phí trong năm học vừa rồi. Thông tin trong bộ dữ liệu

nghiên cứu không làm rõ nguyên nhân các em được miễn học phí nhưng các bảng ghi chú

phỏng vấn ghi nhận một số lượng đáng kể các trẻ em được miễn học phí theo diện hộ

nghèo, hoặc theo học ở các lớp tình thương.

Hộp 11: Chính sách hộ khẩu sau 2007

Năm 2007, Luật cư trú mới bắt đầu có hiệu lực theo đó chỉ còn hai hạng mục cư trú cụ thể

là cư trú thường xuyên và tạm trú đồng thời nới lỏng các điều kiện xin cư trú thường

xuyên. Đối với những trường hợp xin chuyển từ đăng ký tạm trú sang thường trú tại các

thành phố trực thuộc trung ương, yêu cầu đã thay đổi từ chứng minh 3 năm cư trú liên tục

sang 1năm làm việc và cư trú liên tục. Ngoài ra luật năm 2007 cũng bỏ đi những điều

kiện có việc làm khi xin đăng ký hộ khẩu. Người ta cho rằng Luật Cư trú khi được các cấp

chính quyền địa phương áp dụng còn thiếu tính thống nhất do chưa có hướng dẫn cụ thể

và do có sự hiểu về luật tại mỗi địa phương khác nhau. Chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí

Minh, các cấp chính quyền vẫn sử dụng 4 loại từ KT1-KT4 trong khi ở Hà Nội chỉ áp

dụng hai loại là cư trú thường xuyên và đăng ký tạm trú. Sự chưa thống nhất này khiến

người dân nhầm lẫn vì họ không biết phải tuân theo những thủ tục nào khi xin thay đổi

đăng ký hộ khẩu ở Việt Nam và điều này cũng có thể có nghĩa là những người đủ điều

kiện được cấp hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú theo luật của năm 2007 sẽ không được cấp

và hơn thế nữa nhiều người nản lòng không muốn xin đăng ký hộ khẩu vì không chắc

chắn luật này đang có hiệu lực.

Trích từ UNDP, 2010. “Di cư trong nước: cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh

tế – xã hội ở Việt Nam”.

40

5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Trẻ em thuộc các gia đình nhập cư, dù theo cha mẹ lên sinh sống ở TP.HCM hay ở

lại quê cũng chịu một số khó khăn, và những khó khăn này ảnh hưởng đến khả năng tiếp

cận giáo dục của nhóm trẻ em này.

Đối với các trẻ theo cha mẹ lên TP.HCM sinh sống, một trong những vấn đề quan

trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của nhóm trẻ em này là chi phí đắt đỏ

của việc đi học. Số liệu trong nghiên cứu cho thấy một phần đáng kể thu nhập được chi cho

việc đóng học phí và nhiều gia đình đã không kham nổi chi phí này khi các chi phí khác

cũng đều tăng cao, trong khi thu nhập trung bình của nhóm này thấp hơn so với thu nhập

trung bình chung của người dân ở TP.HCM. Những lớp học tình thương miễn phí mà nhiều

trẻ em nhập cư đang theo học không mang tính ổn định vì các nguồn lực dành cho chúng,

bao gồm giáo viên, lớp học và chi phí vận hành đều mang tính chất thiện nguyện, không có

các quy định và chính sách rõ ràng cho các lớp học này.

Trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM còn phải đối mặt với các vấn đề thuộc về thủ tục

hành chính khi muốn đi học. Chính sách giới hạn nhập học dựa vào hộ khẩu của các trường

công lập khiến cho trẻ em thuộc các gia đình nhập cư gặp thêm khó khăn trong việc đi học.

Sự quan tâm của cha mẹ và người chăm sóc đối với việc học cũng sẽ là động lực to lớn

thúc đẩy trẻ em nhập cư hứng thú hơn với việc học.

Trẻ em ở lại quê khi cha mẹ lên thành phố HCM làm việc cũng phải đối mặt với

nhiều vấn đề như sự thiếu chăm sóc từ phía người chăm sóc thay thế và sự thiếu quan tâm

của cha mẹ đi làm ăn ở xa. Thu nhập bấp bênh của cha mẹ ở TP.HCM cũng khiến cho sự

đóng góp tài chính của họ không thường xuyên trong rất nhiều trường hợp.

Tóm lại, trẻ em thuộc các gia đình nhập cư phải đối mặt với những vấn đề trong

việc tiếp cận giáo dục, kể cả đối với những trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM sinh sống hay

ở lại quê. Giáo dục là nền tảng của thịnh vượng quốc gia và cũng đồng thời là nền tảng cho

việc cải thiện chất lượng cuộc sống của trẻ em nhập cư trong tương lai. Do đó, cần có

những chính sách thích hợp, giải quyết những vướn mắc trong việc tiếp cận giáo dục của

trẻ em thuộc các gia đình nhập cư.

41

5.2. Các kiến nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục

của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư

Trong dài hạn

5.2.1. Xây dựng hệ thống giáo dục bắt buộc và miễn phí

Học phí và các chi phí khác dành cho giáo dục tỏ ra là một khoản chi quá lớn và

ngoài khả năng chi trả của rất nhiều gia đình trong KSDC 2011. Còn nhiều triệu trẻ em

Việt Nam sẽ không được tiếp cận với giáo dục trong điều kiện kinh tế nhiều biến động, thu

nhập người lao động (đặc biệt là lao động nhập cư) ở mức thấp, bấp bênh và chi phí cho

giáo dục chiếm một khoản quá lớn trong tổng các chi phí trong khi các nhu cầu thiết yếu

vẫn chưa được thoả mãn.

Trong dài hạn, nhà nước cần hình thành một hệ thống giáo dục bắt buộc và miễn

phí, tối thiểu là dành cho các học sinh tiểu học. Hệ thống giáo dục bắt buộc này mang tính

phổ quát, dành cho mọi trẻ em trong độ tuổi đi học và phải được xem là quyền, đồng thời

cũng là nghĩa vụ của các bậc cha mẹ. Chính sách này sẽ giúp cho trẻ em thuộc các gia đình

nhập cư được tiếp cận với hệ thống giáo dục công một cách dễ dàng hơn. Hệ thống giáo

dục bắt buộc và miễn phí này được áp dụng trong tất cả các trường công lập và dành cho

học sinh không kể địa bàn cư trú với cái quy định về tiêu chuẩn chung, đồng thời có thái độ

cởi mở hơn đối với hệ thống trường tư, cho phép các trường này mở rộng hoạt động và đón

một lượng lớn hơn học sinh có khả năng đóng học phí cao hơn. Như vậy, có thể giải quyết

đồng loạt hai vấn đề là sự quá tải của hệ thống trường công và những rào cản tiếp cận dịch

vụ giáo dục công của trẻ em nhập cư.

Chính sách này cũng có thể làm tăng tính lưu động của lao động nhập cư khi người

nhập cư an tâm rằng họ đi đến nơi khác làm việc và vẫn có thể mang theo con cái, đồng

thời con cái họ vẫn có cơ hội học hành. Sự gia tăng tính lưu động này sẽ là động lực thúc

đẩy lao động nhập cư đến các khu vực có điều kiện công việc thuận lợi hơn, qua đó cải

thiện đời sống, trong đó có cả việc cải thiện các điều kiện học tập của trẻ em trong các gia

đình nhập cư.

Việc xây dựng hệ thống chính sách này là không hề dễ dàng vì dự trù nguồn lực

dành cho nó ở mức rất cao. Tuy nhiên, nếu nhà nước cắt giảm được những khoản chi

“không tên” và không cần thiết, sử dụng thêm nguồn lực tài chính hỗ trợ từ hệ thống

42

trường tư, trong dài hạn chính sách giáo dục miễn phí và bắt buộc sẽ được hình thành và

tạo ra những tác động tích cực đối với trẻ em thuộc các gia đình nghèo, gia đình nhập cư.

Trong ngắn hạn

5.2.2. Xây dựng cơ chế hoạt động để nâng cao tính bền vững của hệ

thống lớp học tình thương

Hệ thống các lớp học miễn phí cả ở thành phố và nông thôn đã chứng tỏ hiệu quả

trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên, đây là một hệ thống không mang tính bền vững do

không có những quy định và cơ chế chính sách cụ thể cho các lớp học thuộc hệ thống này.

Xây dựng hệ thống các lớp học tình thương miễn phí với thời gian biểu linh hoạt sẽ giúp

cho các trẻ em nhập cư nói riêng và trẻ em nghèo nói chung có cơ hội đến lớp sau khi kết

thúc giờ làm việc.

Đề xuất đưa ra là hình thành nên nguồn quỹ riêng dành cho các hoạt động của hệ

thống lớp học này, trích từ nguồn thu của địa phương và nguồn thu của chính quyền thành

phố tại những khu vực khó khăn, không có nguồn thu tại chỗ. Tuy nhiên, việc này cũng

làm nảy sinh vấn đề quản lý nguồn quỹ và sử dụng một cách đúng đắn, tránh tình trạng thu

chi không phân minh và các tiêu cực khác.

Đồng thời với việc hệ thống hoá, chuẩn hoá các lớp học tình thương, lớp học miễn

phí tại các địa phương có đông hộ nghèo, hộ người nhập cư, những nguồn lực sẵn có cũng

cần được sử dụng triệt để. Tại các địa phương gần các trường đại học học như Thủ Đức,

Gò Vấp,…có thể vận động sinh viên tham gia giảng dạy và quản lý các lớp này thông qua

các cơ chế khuyến khích phù hợp như phối hợp với nhà trường, xem đây là một hoạt động

ngoại khoá được đánh giá, các hỗ trợ về chi phí như đối với một tình nguyện viên. Kỳ

vọng với mô hình lớp học tình thường mang tính bền vững hơn, sẽ có nhiều trẻ em nghèo

nói chung và trẻ em nhập cư nghèo nói riêng được tiếp cận với giáo dục.

5.2.3. Tiếp tục các chính sách miễn học phí, giảm học phí

Các chính sách miễn, giảm học phí đối với học sinh là trẻ em thuộc các gia đình có

sổ hộ nghèo theo quy định của nhà nước đã chứng tỏ có tác dụng tích cực trong việc giữ

chân các trẻ em thuộc các gia đình nhập cư. Trước khi hình thành được một hệ thống giáo

dục phổ cập và miễn phí, chính sách này phải được duy trì nhằm đảo bảo một số lượng

đáng kể trẻ em nghèo được đi học. Với điều kiện chi phí cho việc học ở mức rất cao so với

43

tổng thu nhập, việc được miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp khác là hết sức có ý

nghĩa. Trong nhiều trường hợp trong bộ dữ liệu của Khảo sát Di cư 2011 của UNICEF và

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, trẻ em được cha mẹ hoặc người chăm sóc cho

tiếp tục đi học vì các em thuộc diện hộ nghèo nên được miễn hoàn toàn học phí. Tuy nhiên,

chính sách hỗ trợ này chỉ áp dụng cho các trẻ em có hộ khẩu tại địa phương, do đó không

khả thi với các trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM sinh sống. Đề xuất chính sách là nên áp

dụng chính sách này đối với cả các trẻ em di cư theo cha mẹ đến TP.HCM. Có nghĩa là nếu

trẻ em thuộc hộ nghèo di cư theo cha mẹ lên TP.HCM và theo học tại đây, các em sẽ được

miễn, giảm học phí nếu xuất trình được sổ hộ nghèo (tại địa phương) và không kèm theo

các thủ tục rườm rà khác.

5.2.4. Chính sách đảm bảo quyền của trẻ em tham gia lao động

Nguyên nhân chính đẩy trẻ em ra khỏi gia đình và phải tham gia vào việc lao động

kiếm tiền bất chấp nguy hiểm là cái nghèo (Thu Hiền, 2012), và như thế, không nỗ lực nào

ngoài nỗ lực làm giảm nghèo ở tại gia đình các trẻ em này mới có thể thúc đẩy trẻ em đến

trường, hay nói cách khác, việc cấm đoán lao động vị thành niên là rất khó khăn vì đôi khi

các em là nguồn sống chính của gia đình. Thực hiện các chính sách đảm bảo quyền của trẻ

em tham gia lao động để tạo ra khung pháp lý bảo vệ cho nhóm trẻ em này.KSDC 2011

cũng cho thấy trẻ em tham gia lao động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng điểm chung

là các trẻ em này để làm việc trong khu vực phi chính thức, không có hợp đồng lao động.

Việc cấm sử dụng lao động trẻ em là không khả thi, đẩy trẻ em trở thành những lao động

ngoài vòng pháp luật, rất khó kiểm soát và rất khó được bảo vệ. Các chính sách quy định

cụ thể về lao động trẻ em như số giờ làm việc, chính sách bảo hiểm y tế hay các quy định

về môi trường làm việc sẽ giúp các trẻ em được bảo vệ tốt hơn. Đồng thời, việc quy định

thời gian làm việc cũng sẽ tạo điều kiện để các trẻ em này tham gia vào các lớp học tình

thương, miễn phí trong những thời gian thích hợp ngoài giờ đi làm. Một số chính sách gợi

ý là:

• Chính sách quyền giám hộ

Địa phương nơi có trẻ em dưới 15 tuổi tham gia lao động phải có cán bộ chính

quyền cấp cơ sở đứng ra nhận trách nhiệm giám hộ trẻ. Tức là giám sát và báo cáo

cho chính quyền cơ sở về tình hình của trẻ, đồng thời đứng ra đảm bảo quyền lợi

chính đáng của trẻ trước chủ lao động.

44

• Chính sách hợp đồng lao động

Yêu cầu người chủ sử dụng lao động phải có hợp đồng lao động, quy định cụ thể

lương thưởng và giờ giấc làm việc để đảm bảo quyền lợi của lao động vị thành

niên. Điều này bắt buộc kể cả trong trường hợp trẻ chỉ đến học việc hay phụ giúp

lặt vặt.

• Chính sách cung cấp/đảm bảo chỗ ở cho lao động vị thành niên.

Người sử dụng lao động là trẻ vị thành niên bắt buộc phải có trách nhiệm lo chỗ ăn

ngủ cho trẻ đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản.

5.2.5. Chính sách tăng cường tiếp cận thông tin về giáo dục và các kiến

thức xã hội cho cha mẹ và người chăm sóc của trẻ em

Khi người chăm sóc chính có trình độ học vấn và kiến thức tốt hơn và có cơ hội

tiếp cận nhiều hơn với các kiến thức về y tế, giáo dục, người chăm sóc sẽ có động cơ cao

hơn trong việc giữ cho trẻ tiếp tục đến trường, quan tâm hơn đến tình hình học tập của trẻ.

Chính vì vậy, cần tạo ra những cơ hội để người chăm sóc trẻ được tiếp cận với

những loại thông tin cần thiết này.

Hộp 12: Đề xuất các hoạt động tăng cường nhận thức của người chăm sóc

• Kênh thông tin truyền thống: nhắm hướng đến đối tượng là những người nhập cư

làm lao động phổ thông, hay nói rộng hơn là người nghèo. Các kênh thông tin

truyền thống (radio, kênh ti vi, báo in,…) có thể được sử dụng rất hiệu quả. Có thể

sử dụng các hình thức trực quan để phổ biến những kiến thức xã hội thường thức,

nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, của việc cho con em được tiếp tục đi

học,…Mục đích là làm cho những người chăm sóc chính của trẻ nhập ra việc học có

ảnh hưởng tích cực đến tương lai của trẻ và khuyến khích việc theo dõi quá trình

học tập của trẻ.

• Liên lạc nhà trường – gia đình: mối liên hệ giữa nhà trường và gia đình (hay người

chăm sóc chính) phải trở thành một liên hệ mang tính chính thức và bắt buộc. Việc

gặp gỡ định kỳ có vai trò hết sức quan trọng trong việc cập nhật trong tin về tình

hình học tập và phát triển của trẻ. Có thể tổ chức những buổi gặp mặt tại những thời

điểm linh hoạt, giúp cho các người chăm sóc có thể đến tham dự.

45

5.3. Kết luận của Luận văn

Nghiên cứu về thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em thuộc các gia đình nhập cư

đến TP.HCM chỉ ra rằng để được đến trường, các trẻ em này phải vượt qua nhiều chướng

ngại, trong đó những chướng ngại chính bao gồm chi phí (đang có khuynh hướng ngày

càng tăng) cho việc học và hệ thống các chính sách hộ khẩu và các hỗ trợ liên quan đến nơi

cư trú. Nghiên cứu đề xuất trong dài hạn, nhà nước cần hình thành một hệ thống giáo dục

bắt buộc phổ quát cho toàn dân nhằm nâng cao dân trí, đồng thời cải thiện khả năng tiếp

cận giáo dục của nhóm trẻ em thuộc các gia đình nhập cư. Để làm được điều này, Bộ Giáo

Dục và Đào Tạo cần có quyết tâm cắt giảm những khoản chi phí được xem là lãng

phí.Trong ngắn hạn, nhà nước nên xây dựng cơ chế hoạt động để làm cho hệ thống các lớp

học tình thương, miễn phí mang tính bền vững hơn. Các chính sách miễn, giảm học phí

cũng cần được tiếp tục, đồng thời cho phép trẻ em theo cha mẹ lên TP.HCM sinh sống

được tiếp tục hưởng các chính sách ưu đãi dành cho hộ nghèo mà không cần bổ sung thêm

nhiều loại giấy tờ thủ tục. Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất việc xây dựng một khung

pháp lý để bảo vệ trẻ em lao động, nhằm một mặt đảm bảo các quyền lợi của các trẻ em

này và qua đó cũng nâng cao việc tiếp cận giáo dục của các trẻ em lao động.

Do những giới hạn về kiến thức, thời gian nghiên cứu và phạm vi của bài viết, tác

giả chưa thể đi sâu nghiên cứu về những chính sách cần thiết để giúp trẻ em thuộc các gia

đình nhập cư có khả năng tiếp cận giáo dục tốt hơn. Trong tương lai, tác giả hy vọng có thể

nghiên cứu sâu hơn về một hệ thống giáo dục bắt buộc ở Việt Nam và tính khả thi của nó.

Đồng thời, tác giả cũng đề xuất những nghiên cứu về việc hình thành các chính sách bảo

vệ lao động trẻ em vì đây là một thực trạng trong xã hội nhưng chưa được đề cập nhiều.

46

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Benedict Mann và Đặng Thị Hải Thơ (2010). Nghiên cứu tài liệu: nguyên nhân bỏ

học của trẻ em Việt Nam từ 11 đến 18 tuổi. UNICEF

2. Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội (2008). Trẻ em nghèo Việt Nam sống ở

đâu? Xây dựng và áp dụng cách tiếp cận đa chiều về nghèo trẻ em.

3. Hồ Trịnh Hạ Nghi và Huỳnh Thị Ngọc Tuyết (2003). Đánh giá nghèo có sự tham

gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ Chức Cứu trợ Trẻ em Anh –

Văn phòng Thành phố Hồ Chí Minh

4. Hoà Triều (2011). Áp lực mang tên…học sinh nhập cư – Kỳ 2: phụ huynh khoán

trắng cho nhà trường. Đọc tại http://www.giaoduc.edu.vn/news/thoi-su-655/ap-luc-

mang-ten-hoc-sinh-nhap-cu-ky-2-phu-huynh-khoan-trang-cho-truong-170711.aspx

vào ngày 26/3/2012.

5. Hoài Hương (2004). Học sinh không có hộ khẩu sẽ được học lớp 10 công lập? Đọc

tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/58349/Hoc-sinh-khong-co-ho-khau-se-duoc-

hoc-lop-10-cong-lap.html

6. Ian Coxhead, Diệp Phan, Dinh Vũ Trang Ngân & Kim N.B.Ninh (2009). “Báo cáo

số 8: Thị trường lao động, Việc làm, và Đô thị hoá ở Việt Nam đến năm 2020: học

hỏi từ kinh nghiệm quốc tế. Dự án 005050577: Hỗ trợ Xây dựng Chiến lược Phát

triển Kinh tế Xã hội Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2020”.

7. Lê Văn Thành (2005). “Đô thị hóa với vấn đề dân nhập cư tại TP HCM”. Viện

Nghiên cứu phát triển TP.HCM

8. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng và Lưu

Đức Khải. (2006). “Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động

nông thôn Việt Nam”. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương. Hà nội

9. LHQ (2009). “Di cư trong nước: cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội ở Việt Nam”.

10. Mai Minh (2007). “Cơ cấu tài chính cho giáo dục Việt Nam: còn nhiều bất cập”.

Đọc tại http://dantri.com.vn/c25/s25-205414/co-cau-tai-chinh-giao-duc-viet-nam-

con-nhieu-bat-cap.htm

47

11. Thu Thảo (2006). “Lao động nhập cư đóng góp 30% GDP”. Đọc tại báo

Tuoitreonline

http://chuyentrang.tuoitre.vn/Vieclam/Index.aspx?ArticleID=152431&ChannelID=

269 vào ngày 12/11/2011

12. Tổng cục thống kê (2004). Báo cáo “di dân và Sức khoẻ - GSO1206” 13. Tổng cục thống kê (2011). “Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 – Di cư

và đô thị hoá ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt”.

14. Tổng cục Thống kê (2011). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 – Giáo

dục ở Việt Nam: phân tích những chỉ số chủ yếu.

15. Trần Trọng Đức (2008). “Tác động tương hỗ giữa giáo dục và kinh tế”. Đọc tại

http://tuoitre.vn/Giao-duc/276138/Tac-dong-ho-tuong-giua-giao-duc-va-kinh-

te.html vào 12/12/2011.

16. UNDP (2011). Vượt qua rào cản: di cư và phát triển con người. Tóm tắt báo cáo

phát triển con người 2009

17. UNICEF (2010). “Báo cáo tổng thể tình hình trẻ em Việt Nam 2010” 18. UNICEF (2011). “Tình hình trẻ em thế giới 2011 - tuổi vị thành niên: tuổi của

những cơ hội”.

19. Vũ Quang Việt (2006). “Chi tiêu cho giáo dục Việt Nam: những con số giật mình”.

Đọc tại http://vnn.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/02/540758/ vào ngày 23/3/2012 20. Vũ Trường Giang (2011). Tài chính cho giáo dục đại học ở một số nước trên thế

giới và khuyến nghị đối với Việt Nam. Đọc tại

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tri-thuc-viet-nam/2011/12794/Tai-chinh-

cho-giao-duc-dai-hoc-o-mot-so-nuoc-tren.aspx vào ngày 25/02/2012

48

TIẾNG ANH

21. Michael Waibel (2007). Di cư tới các vùng phụ cận của Thành phố Hồ Chí Minh

trong quá trình Đổi mới: Qui mô, Hậu quả và Các thay đổi chính sách liên quan tới

nhà ở. (“Migration to Greater Ho Chi Minh City in the course of Doi Moi Policy:

Spatial Dimensions, Consequences and Policy Changes with special reference to

Housing”).

22. Thu Hiền (2012). Cái nghèo triệt đường trẻ em (“poverty gives children nowhere to

turn”). Đọc tại

http://vietnamnews.vnagency.com.vn/Sunday/Features/225020/poverty-gives-

children-nowhere-to-turn.html vào ngày 01/06/2012

23. UNDP (2010). Đánh giá nghèo đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (Urban

Poverty Assessment – HCMC and Ha Nội)

49

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN

TÌNH TRẠNG BỎ HỌC CỦA TRẺ EM

Trích từ: “nghiên cứu tài liệu nguyên nhân bỏ học của trẻ em Việt Nam từ 11-18 tuổi”

của Benedict Mann và Đặng Thị Hải Thơ (11/2010)

Bốn nhóm nguyên nhân tác động đến tình trạng bỏ học ở trẻ em bao gồm

1. Nguyên nhân từ gia đình

- Kinh tế khó khăn, sống trong đói nghèo - Trẻ sớm phải tham gia lao động để phụ giúp gia đình - Gia đình không hạnh phúc, bố mẹ ly hôn hoặc bạo lực gia đình - Nhận thức chưa đầy đủ về giá trị của học tập đối với tương lai của trẻ, đặc biệt với

con gái

- Gia đình không có truyền thống hiếu học nên không khuyến khích trẻ tiếp tục đi

học

- Gia đình có người luôn đau ốm, bệnh tật trẻ phải chăm sóc dẫn đến bỏ học

2. Nguyên nhân từ nhà trường

- Chương trình giáo dục không thiết thực, ít phù hợp, đơn điệu, nghèo nàn - Chất lượng dạy học và phương pháp giảng dạy thiếu sự hấp dẫn, sự thuyết phục - và tính sáng tạo để gây hứng thú học tập với học sinh - Mối quan hệ thầy trò ít thân mật, học trò kém chủ động và thiếu tự tin - Xảy ra tình trạng bạo lực hoặc lạm dụng - Thiếu cơ sở vật chất, cơ cấu quản lý trường học yếu kém và thiếu an toàn - Ngôn ngữ sử dụng trong dạy và học không phù hợp (với nhóm dân tộc ít người)

3. Nguyên nhân từ phía xã hội và cộng đồng

- Các mục tiêu giáo dục của chính phủ dựa vào số lượng và chưa đặt ra chỉ tiêu chất

lượng.

- Tình trạng di cư ồ ạt

50

chịu nhiều thiệt thòi (đường phố, khuyết tật, mồ côi, HIV,..)

- Thiếu môi trường hỗ trợ và sự khích lệ từ cộng đồng cho nhóm trẻ đặc biệt và - - Trong hoạch định chính sách, quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự - phát triển chưa được nhận thức đúng mức ở một số ít quan chức các địa phương - Vai trò của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia phát triển sự nghiệp

giáo dục chưa được phát huy đúng mức, công tác xã hội hoá giáo dục còn lung

túng, thiếu cơ chế phối hợp, dẫn đến việc huy động trẻ em bỏ học đi

- học lại còn nhiều khó khăn, bất cập

4. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân trẻ

- Xấu hổ với bạn bè và thầy cô vì các vấn đề của bản thân hoặc gia đình - Không có thời gian dành cho học tập (do nguyên nhân bản thân hoặc bị tác động

xấu từ bạn bè, môi trường)

- Thiếu kỉ luật, không đủ kiên nhẫn theo học - Cảm thấy việc học quá buồn tẻ - Học đuối so với bạn, kết quả học tập kém - Sức khoẻ kém, bệnh tật hoặc khuyết tật

51

PHỤ LỤC 2

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI NHẬP CƯ –

CHÍNH SÁCH HỘ KHẨU TRƯỚC 2007

KT – 1: người có “hộ khẩu” KT-1 có quyền cư trú đầy đủ và được hưởng mọi quyền của

công dân ở bản quán. Một trong những quyền quan trọng nhất của người có hộ khẩu KT-1

là quyền sử dụng các dịch vụ xã hội và phương tiện công cộng, ví dụ như quyền đi học ở

trường của trẻ em. Công dân có hộ khẩu KT-1 có quyền gửi con đến học ở những trường

mẫu giáo và phổ thông trên địa bàn quận cư trú và có quyền khám sức khoẻ ở dịch vụ y tế

địa phương.

KT-2: là những công dân thường trú trên địa bàn TP.HCM nhưng không sinh sống ở địa

bàn đăng ký hộ khẩu. Họ bị hạn chế về quyền gửi trẻ đến học ở trường cũng như những

dịch vụ công ích khác (họ chỉ được sử dụng những dịch vụ này tại quận đăng ký hộ khẩu).

KT-3: là những gia đình người nhập cư trong vòng 6 – 12 tháng, và có thể được dễ dàng

gia hạn. Một trong những hạn chế đối với việc tiếp cận dịch vụ là trẻ em thuộc các gia đình

có KT-3 chỉ được nhập học ở trường công khi các trường này còn dư chỗ (sau khi đã nhận

hết những học sinh thuộc các gia đình có KT-1 và KT-2). Nếu những trường công đã kín

chỗ, các trẻ em thuộc gia đình có KT-3 phải đến học tại các trường tư với mức phí cao hơn.

KT-4: là những người đăng ký tạm trú một mình mà không có gia đình tại khu vực

TP.HCM. Họ thường được gọi là “di dân trôi nổi”, thường sống trong những nhà trọ với

giấy tờ tạm trú (có thể gia hạn) trong vòng 3 tháng.Họ cũng bị hạn chế tiếp cận những dịch

vụ công ích giống như nhóm KT-3. Phần lớn những người lao động ở các khu công nghiệp

ở TP.HCM hay Bình Dương và Đồng Nai đều là những người nhập cư đăng ký theo diện

KT-4.

Dịch từ Michael Waibel (2007), Di cư tới các vùng phụ cận của Thành phố Hồ Chí

Minh trong quá trình Đổi mới: Qui mô, Hậu quả và Các thay đổi chính sách liên quan

tới nhà ở, tr.3

52

PHỤ LỤC 3

Mẫu điều tra chia theo nghề nghiệp - Khảo sát di cư "Kế sinh nhai của các hộ di cư và con cháu ở TP.HCM và nơi xuất xứ"

Nhóm A Người chăm sóc chính ở ĐBSCL Nhóm B Người nhập cư có con nhỏ ở ĐBSCL Nhóm C Người nhập cư có đem theo con nhỏ ở HCM Nhóm D Lao động nhập cư vị thành niên Tổng (B, C, D)

Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

86 75 34 19 66 36 44 25 224 Tổng

Giúp việc gia đình 13 1 1 9 - 5 - 6 21

Lao động nông nghiệp - - - - 17 8 - 2 27

Lao động xây dựng 5 15 5 4 8 8 - 2 27

vụ (bars, hotels, Dịch salon...) 13 19 2 1 6 6 9 5 29

Buôn bán nhỏ 9 6 - 4 20 8 5 3 40

Công nhân nhà máy lớn 30 16 10 6 9 4 4 5 2

Công nhân nhà máy nhỏ 23 21 2 5 1 1 18 9 36

Khác/Hỗn hợp/Chưa biết 7 3 3 2 1 4 - 4 14