VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MA PHÚC DỰ
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MA PHÚC DỰ
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
Chuyên ngành
: CNDVBC & DVLS
Mã số : 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Đình Tường
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình khoa học của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đình Tường. Các trích dẫn và số
liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, năm 2016
Tác giả luận án
Ma Phúc Dự
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................... 7
1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và năng lực
tư duy lý luận ................................................................................................. 7
1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc thiểu
số ................................................................................................................. 16
1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư duy
lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên ......................................................... 22
1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án ............................ 28
Chương 2. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 30
2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận ........................................... 30
2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 49
Chương 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN
NAY ................................................................................................................. 73
3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một số đặc
điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
hiện nay ....................................................................................................... 73
3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ........................................................ 83
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY ....................... 111
4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ............................... 111
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ...... 117
KẾT LUẬN .................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ............. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 150
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là người triển khai những quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân
dân, đồng thời cũng là người tổng kết, phản ánh những tâm tư nguyện vọng
của quần chúng nhân dân đến Đảng, đến Nhà nước. Như vậy người cán bộ,
đảng viên có vai trò rất quan trọng và to lớn - là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân và ngược lại.
Khi đánh giá về người cán bộ có rất nhiều tiêu chí cũng như phẩm chất,
như: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng triển khai, xử lý các nhiệm vụ
được giao, tuổi tác và kinh nghiệm thực tiễn,… Một trong những yêu cầu
cũng như tiêu chuẩn đặc biệt nữa không thể thiếu của người cán bộ, giúp cho
cán bộ linh hoạt trong giải quyết các công việc được giao đó là phải có năng
lực tư duy lý luận.
Tư duy là một thuộc tính cơ bản của con người, tư duy nói chung và tư
duy lý luận nói riêng là cấp độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những
thuộc tính bản chất, tất nhiên, những mối liên hệ có tính quy luật của khách
thể nhận thức. Tư duy là sự phản ánh khái quát, chủ động, tích cực và sáng
tạo những mối quan hệ bản chất, những quy luật vận động của mọi sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan. Kết quả của quá trình tư duy sẽ đem lại cho
chủ thể nhận thức những tri thức, sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện, đầy đủ, có
tính hệ thống về đối tượng nhận thức. Khẳng định vai trò của tư duy lý luận,
Ăngghen đã cho rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa
học thì không thể không có tư duy lý luận” [43, tr. 489].
Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đang diễn
ra trong điều kiện hoàn cảnh mới. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
2
đại hóa với mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Chúng ta đang đứng trước những thời cơ vận hội mới đồng thời cũng đứng
trước những khó khăn và thử thách mới. Cách mạng trên thế giới có những
bước thăng trầm, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta thường xuyên
bị kẻ thù và các thế lực phản cách mạng chống phá trên mọi phương diện,
nhất là trên phương diện tư tưởng, văn hóa bằng các âm mưu thủ đoạn khác
nhau như: diễn biến hòa bình, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bôi nhọ uy tín của Đảng, gây chia rẽ kỳ thị dân tộc…
Để đánh giá, phân tích, kết luận, cảnh giác trước những âm mưu của
các thế lực thù địch và các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vô cùng
nhạy cảm, phức tạp này một cách khách quan, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải
được trang bị một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học, sắc bén để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Muốn được trang bị một hệ thống lý luận, hoàn chỉnh,
khoa học sắc bén đó họ phải nâng cao tầm nhận thức mới về lý luận và hạt
nhân của vấn đề này chính là nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Tư duy lý luận với nền tảng nòng cốt là Triết học Mác - Lênin được
Đảng và Nhà nước ta vận dụng thực tiễn trong công cuộc đổi mới và đã thu
được những thắng lợi mang tính bước ngoặt. Tuy nhiên giữa lý luận và thực
tiễn có một khoảng cách khá xa, tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời quần
chúng, lời nói không đi đôi với việc làm, tư tưởng không nhất quán với hành
động vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quyết, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước khó đi vào cuộc sống. Thậm chí có một số
nơi, một số địa phương cán bộ còn hiểu và làm sai lệch chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải chú ý đến phát huy tiềm năng trí
tuệ của con người Việt Nam, đẩy mạnh công tác lý luận, đặc biệt là nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
3
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn quyết tâm phấn đấu xây dựng và
phát triển tỉnh nhà về mọi mặt, đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các vấn đề xã hội khác. Có
được những kết quả đó, một phần là sự quyết tâm của toàn tỉnh, một phần
khác là do năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ của tỉnh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trình độ nhận thức nói chung và năng lực
tư duy lý luận nói riêng của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay (với đặc thù là tỉnh miền núi, đa phần là người dân tộc
thiểu số) còn nhiều hạn chế, tình trạng nghĩ và làm việc theo thói quen, kinh
nghiệm, giáo điều, trực quan, cảm tính vẫn đang là lực cản trong bản thân đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của
một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin
còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời; một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số
khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết
được kinh nghiệm thành lý luận… Những hạn chế cơ bản nêu trên của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cần được khắc phục
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới.
Từ kinh nghiệm và thực tiễn công tác tại địa phương, bản thân cũng là
một cán bộ người dân tộc thiểu số và với mong muốn góp một phần tiếng nói
tâm huyết từ cơ sở với công tác cán bộ ở địa phương Tuyên Quang trong giai
đoạn hiện nay, tôi chọn hướng nghiên cứu, cũng như đề tài: “Nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nâng cao năng lực tư duy lý luận
4
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay; thực trạng
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang; đưa ra những quan điểm, giải pháp cơ bản nâng cao năng lực
tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ được phạm trù năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh
hưởng tới năng lực tư duy lý luận cũng như vai trò của năng lực tư duy lý
luận đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong
giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, nguyên nhân của thực trạng và
những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là lý luận nhận thức và
logic học mác xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
các Nghị quyết của Đảng ta về công tác cán bộ và vai trò của tư duy lý luận
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã được công
bố trong những năm gần đây ở nước ta có liên quan đến đề tài. Sử dụng các
tài liệu, số liệu của cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến các xã qua tổng hợp,
thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm.
5
- Để tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, thống kê…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay và những vấn
đề mang tính phương pháp cần thiết để nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong những
năm gần đây. Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ năm
2010 đến nay.
5. Đóng góp của Luận án
- Làm sáng tỏ thêm về các phạm trù tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư
duy lý luận; làm rõ được thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Làm sáng tỏ được biểu hiện đặc thù về năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Chỉ ra được thực trạng và từ đó đưa ra quan điểm, giải pháp góp phần
nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang.
6. Ý nghĩa của Luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ thực trạng,
cung cấp giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch
định chiến lược, tổ chức đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
6
- Luận án có thể được dùng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy
các vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận án gồm 4 chương với 10 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và
năng lực tư duy lý luận
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề
về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành của tư duy và tư duy
biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp, trình độ và
năng lực của tư duy, các nguyên tắc và quy luật của tư duy và tư duy biện
chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy biện chứng, tư
duy lý luận và năng lực tư duy lý luận…
- Tác giả Đào Duy Tùng, “Bàn về đổi mới tư duy”, Nhà xuất bản sự
thật, Hà Nội, 1986.
Bài viết đã tập trung phân tích sự cần thiết phải đổi mới tư duy, tư duy
lý luận về nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra phương hướng,
biện pháp để đổi mới tư duy, đặc biệt là tác giả đã nhấn mạnh sự kết hợp đổi
mới nội dung, phương pháp tư duy phải nắm vững tư duy biện chứng mác xít,
đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, kiểm tra lại hệ thống
tri thức; tích cực nghiên cứu lịch sử tư duy dân tộc và tư duy nhân loại.
- Hồ Văn Thông, “Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở
nước ta” (Tạp chí cộng sản, số 10/1987).
Tác giả đã đưa ra một số nét cơ bản của tư duy trong mối quan hệ với
hoạt động nhận thức và thực tiễn; từ việc chỉ ra vai trò của tư duy đối với hoạt
động thực tiễn của con người, tác giả chỉ ra yêu cầu cần thiết về đổi mới tư
duy ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng đổi mới tư duy hiện nay cần quán
triệt và vận dụng sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là vận dụng những quy
luật cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.
8
- Nguyễn Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới
tư duy” (Tạp chí Cộng sản, số 10/1987)
Tác giả đã tập trung phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng
lực tư duy lý luận như: năng lực ghi nhớ, tái hiện những nhận thức do cảm
tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hoát; năng lực suy luận, suy
lý lôgic, phát hiện và xử lý các vấn đề trong nhận thức và hành động. Tác giả
cũng luận giải sự cần thiết phải phát triển năng lực tư duy lý luận trong thời
kỳ đổi mới đất nước.
- Tác giả Nguyễn Văn Linh “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy”,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.
Tác giả đã tập trung phân tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý
luận của Đảng trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trên cơ sở đó luận
giải sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phong cách tư duy của Đảng và đội
ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta; đồng thời tác giả đưa ra những nội dung cần
thực hiện đổi mới tư duy.
- Nguyễn Bá Dương, “Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy
vật” (Tạp chí Triết học số 5/1991).
Tác giả đã đi sâu phân tích năm đặc trưng cơ bản của tư duy biện
chứng duy vật (như tư duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất
so với các hình thức tư duy trong lịch sử; tư duy biện chứng phản ánh hiện
thực đang vận động, biến đổi; phản ánh đúng sự vận động, phát triển và
những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan; tư duy biện chứng có tính
khách quan; tư duy biện chứng được xem là tư duy khoa học, mang tính cách
mạng, có tính chất phê phán và sức chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép).
Trên cơ sở đó đi đến khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy
biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
9
- Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải: “Tư duy khoa học trong giai
đoạn cách mạng khoa học - công nghệ”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998.
Tập thể các tác giả đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về bản chất và đặc điểm chủ yếu của tư duy nói chung và tư duy khoa
học nói riêng trên lập trường, cơ sở của Chủ nghĩa Mác-Lênin, các quy luật
của lôgic biện chứng, như: tư duy khoa học hướng vào việc nắm bắt những
mối liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi
phối quá trình phát triển, vận động, của sự vật hiện tượng, của thế giới khách
quan. Từ đó chỉ ra vai trò của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách
mạng khoa học công nghệ.
- Trần Đình Thoả, “Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít” (Tạp chí
Triết học số 2/2002).
Tác giả đã tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng,
so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác để chỉ rõ sự khác
biệt của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc
trưng cơ bản: tính khách quan; tính toàn diện; tính lịch sử; sự thống nhất giữa
lịch sử và lôgíc; quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Từ đó đi đến khẳng
định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy biện chứng mác - xít trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
- Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
Tài liệu được biên soạn trên cơ sở những bài giảng cho học viên các
lớp cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị của Học viện Chính trị -
Hành chính Khu vực I, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh trong những năm gần đây theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung giáo trình
10
trình bày, phân tích, làm sáng tỏ những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật của Triết học Mác - Lênin nhằm cung cấp cho người đọc những kiến thức
cơ bản, có hệ thống và thiết thực.
- Đoàn Thế Hùng, “Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng
mácxít” (Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2004).
Tác giả đã khái quát lịch sử và điều kiện hình thành, phát triển tư duy
biện chứng duy vật từ thời cổ đại đến giai đoạn V.I.Lênin. Trên cơ sở đó, tác
giả đã chỉ rõ tiền đề lý luận và vai trò của lôgíc học đối với tư duy biện chứng
duy vật; đồng thời phân tích và làm sáng tỏ bản chất, đặc trưng và thực chất
của tư duy biện chứng duy vật.
- Nguyễn Mạnh Cương, “Về bản chất tư duy” (Tạp chí Triết học số
1/2004).
Tác giả đã phân tích, làm rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử
hình thành và phát triển tư duy biện chứng duy vật. Tác giả đã phân tích sự
phụ thuộc của tư duy vào hệ thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ
thể nhận thức. Đặc biệt tác giả đã phân tích, chỉ ra mối quan hệ biện chứng,
sự khác nhau giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá
trình nhận thức.
- Trong cuốn sách: “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết học ở
Việt Nam” do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên (HN,2004).
Tác giả Đinh Ngọc Thạch đã có bài viết: “Muốn phát triển hoàn thiện
tư duy lý luận cần đánh giá đúng tinh hoa tinh thần của các thời đại trước”.
Bài viết đã bàn đến đặc điểm tư duy, lối sống của con người Việt Nam. Tác
giả đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại tư tưởng của
Ph.Ăngghen khi cho rằng tư duy lý luận chỉ là một năng lực bẩm sinh của
con người. Năng lực ấy cần được phát triển, hoàn thiện và muốn hoàn thiện
nó thì cho đến nay không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ Triết học
thời trước...
11
- “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, (Đồng
chủ biên PGS.TS. Tô Huy Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Trần Khắc
Viện, PGS.TS. Lê Ngọc Tòng), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006.
Các tác giả đã tập trung giải quyết một số nội dung như:
- Phân tích bối cảnh xã hội, tình hình trong nước và quốc tế tác động tới
quyết sách chiến lược “đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng.
- Phân tích và đánh giá những thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý
luận của Đảng từ những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đến những nhận thức lý luận mới
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại của Đảng. Làm rõ giá trị và ý nghĩa của những thành tựu đó từ góc
nhìn tư duy lý luận.
- Phân tích những hạn chế, những vấn đề đặt ra, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm về đổi mới tư duy lý luận của Đảng.
- Xác định những quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn trong tình hình mới của cách mạng nước ta làm cho lý luận
phát huy được vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nâng cao năng lực lãnh đạo
và củng cố vững chắc vị trí cầm quyền của Đảng, thực hiện thắng lợi mục tiêu
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- “Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt
Nam hiện nay” (Lê Văn Quang, Tạp chí Triết học số 8 (183), 2006).
Trong bài viết, tác giả khẳng định rằng, trong hàng loạt nhân tố tạo nên
sự thành công của quá trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác-
Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay,
triết học Mác-Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên
giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản
12
và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan
chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương
pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết
học mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô
cùng to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận.
- Cuốn: “Triết học và đổi mới” - Dương Phú Hiệp (Nxb Chính trị Quốc
gia, HN, 2008).
Với tuyển tập các bài viết của mình, tác giả Dương Phú Hiệp đã nêu lên
sứ mệnh của các nhà triết học là phải góp phần vào đổi mới tư duy, tư tưởng
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tác giả đưa ra nguyên nhân của sự lạc hậu
về nhận thức và sự cần thiết phải quán triệt tư duy biện chứng duy vật, phải
khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, phải nâng lên tầm tư duy lý luận.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Đặc điểm tư duy và lối sống của
con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới
và hội nhập quốc tế” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước).
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm của tư duy và lối sống
truyền thống của con người Việt Nam, sự biến đổi của tư duy và lối sống
trong thời kỳ đổi mới (Bao gồm cả đặc điểm tích cực và đặc điểm tiêu cực),
những điều kiện kinh tế-xã hội tác động đến tư duy và lối sống con người Việt
Nam, những vấn đề đặt ra về tư duy và lối sống trước yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế; Đề xuất và phân tích các căn cứ lý lụân và thực tiễn của các
phương hướng lớn và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng tư duy và
lối sống mới của con người Việt Nam hiện nay theo yêu cầu của đổi mới và
hội nhập quốc tế.
- “Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý luận” (Nguyễn
Trọng Phúc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011).
13
Giới thiệu khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ thời thơ
ấu đến tuổi thanh niên và quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Làm rõ những cống hiến nổi bật của Hồ Chí Minh về tư
duy lý luận gắn liền với cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
và cách mạng Việt Nam. Tác giả phân tích, đánh giá, làm nổi bật những quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi sáng nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong công cuộc đổi mới, nhận thức rõ hơn về hình thức, bước đi
của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả khẳng định đổi mới ở Việt
Nam một phần tư thế kỷ qua chính là nhận thức và vận dụng đúng đắn những
luận điểm của V.I.Lênin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đặc biệt là quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
* Đánh giá chung
Tất cả các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư
duy, tư duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó làm rõ được một số điểm quan trọng:
Một là, khẳng định được tư duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vật
chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não của con người, là quá trình
phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, suy
lý... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người
và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy
luật của thực tại. Khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan bởi bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con
người về hiện thực khách quan “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức. Ở giai đoạn nhận thức bằng tư duy, sự vật được phản ánh một cách gián
tiếp và khái quát trong các khái niệm (phạm trù), lý thuyết. Sức mạnh trừu
tượng hóa, khái quát hóa của tư duy được hướng vào việc nắm bắt những mối
14
liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi phối
quá trình vận động của sự vật” [73, tr. 350]; thấy được mối quan hệ giữa tư
duy với nhận thức “tư duy không tách rời với nhận thức và nhận thức phải
thông qua tư duy”; phân biệt được tư duy với nhận thức “tư duy không phải là
toàn bộ nhận thức mà chỉ là giai đoạn cao, là cấp độ cao của nhận thức”.
Hai là, từ việc tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện
chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác; phân loại tư
duy, phân tích đặc trưng của tư duy kinh nghiệm, từ đó đi đến xác định khái
niệm tư duy lý luận và phân tích làm rõ những đặc trưng cơ bản của tư duy lý
luận đó là: tính khoa học; tính sáng tạo; biết xử dụng tự giác bộ công cụ của
nhận thức lý tính, vận hành dưới hình thức các phương pháp, biện pháp cụ
thể, dựa trên các căn cứ khoa học; gắn liền với thực tiễn, vừa chỉ đạo tực tiễn,
vừa dựa trên thực tiễn để vận động.
Ba là, khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư
duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn, cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế
“Nhận thức cũng như lý luận không có mục đích tự thân. Lĩnh hội và nắm
vững học thuyết cũng không phải là cứu cánh. Cái sâu xa, cốt yếu nhất là
nắm vững lý luận để cải tạo thực tiễn, vì mục đích phát triển xã hội và hạnh
phúc của con người” [68, tr. 148].
Bốn là, các công trình nghiên cứu trên phân tích, đánh giá những thành
tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng (từ những nhận thức tổng
quát về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đến những nhận thức lý luận mới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại); các tác giả đã tập trung phân
tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ tập
trung quan liêu bao cấp đến nay “Việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng những
15
năm vừa qua vẫn còn chậm, vừa chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc
đổi mới vừa chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn
đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay...” [68, tr. 482]; từ việc đi
sâu làm rõ bản chất của tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận đối với sự
nghiệp đổi mới, từ đó khẳng định việc đổi mới tư duy nói chung, đổi mới
tư duy lý luận nói riêng là một yêu cầu mang tính tất yếu trong quá trình
phát triển của thời đại, trong thời kỳ đổi mới của đất nước “Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước
hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của
Đảng cầm quyền” [68, tr. 13].
Năm là, khẳng định triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai
trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay; triết học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên
giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản
và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan
chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương
pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở đó, nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học
mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng
to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận. “Nguyên tắc bất di,
bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý
luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng
của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi
mới. Các nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết mác
- xít, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa
chọn để vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới” [59].
16
1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc
thiểu số
Có nhiều đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số và cán bộ người
dân tộc thiểu số cả ở nước ngoài và ở trong nước, tuy nhiên chỉ xin điểm qua
một số đề tài ở trong nước có liên quan đến Luận án.
- Cuốn: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” - Nguyễn Phú
Trọng - Trần Xuân Sầm (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001).
Trong công trình này, các tác giả nêu lên những vấn đề lý luận, phương
pháp luận, quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tác giả khẳng định, sự phát triển
của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có trí tuệ và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ. Để hướng tới một
nền kinh tế phát triển, một xã hội dân chủ, văn minh và tích lũy được những
giá trị tốt đẹp cho cuộc sống thì việc đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ vừa có
tài, vừa có đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng rất cần thiết cho việc chấn
hưng đất nước, cần được coi là một trong những nhân tố tích cực nhất.
- “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê
Ngọc Thắng, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2002).
Cuốn sách Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (TS Bế Trường Thành chỉ đạo
biên soạn) trình bày những vấn đề lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Những định hướng cơ bản trong việc quy
hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Đồng thời kiến nghị những giải pháp giải quyết kịp thời những vấn đề cơ bản
17
như: xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe,
kiện toàn hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc, tôn trọng và phát huy bản
sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng
bào các dân tộc.
- “Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại đoàn kết toàn dân của
Đảng ta” (TS. Lê Ngọc Thắng, Tạp chí Cộng sản, số 14, 2002).
Tác giả đánh giá sự phát triển mọi mặt tại vùng các dân tộc thiểu số
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Tuy có phát triển và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt trong thời gian qua, song hiện
nay khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là nơi khó
khăn và lạc hậu nhất của nước ta. Khoảng cách phát triển giữa miền núi và
miền xuôi, nhất là so với khu vực thành thị, còn khá lớn. Tác giả đã đưa ra
một số giải pháp, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi. Trong đó nhấn mạnh giải pháp đầu tư cho nguồn nhân lực
mới tạo ra yếu tố quyết định để có thể khắc phục được một cách cơ bản những
thiếu hụt và bất cập về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để đáp ứng sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong
giai đoạn tới.
- Luận án Tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh (2002): “Trí thức
người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới” (chủ yếu ở vùng
dân tộc thiểu số phía Bắc).
Luận án đã khẳng định được vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số góp phần cùng trí thức cả nước trong thực hiện thắng lợi chính sách
của Đảng, Nhà nước, địa phương phù hợp với dân tộc mình; lý giải các quan
điểm của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm rõ cơ sở khoa
học của việc lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng của Đảng ta; góp phần hoạch định chủ trương phát triển kinh tế - xã
18
hội vùng miền núi, vùng đông đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận án cũng
chỉ ra được thực trạng (ưu điểm, hạn chế) của đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số từ đó đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và
phát huy vai trò đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” - TS.Lê Phương Thảo,
PGS.TS.Nguyễn Cúc và TS.Doãn Hùng đồng chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc
gia, HN, 2006).
Cuốn sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” của tập thể
tác giả do TS. Lê Phương Thảo, PGS. TS.Nguyễn Cúc và TS. Doãn Hùng
đồng chủ biên được hình thành trên cơ sở chọn lọc các bài viết tham gia đề tài
khoa học độc lập cấp Nhà nước đã tập trung luận giải các cơ sở lý luận và
thực tiễn, đi sâu phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ dân
tộc thiểu số ở nước ta những năm qua, đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới
công tác cán bộ dân tộc thiểu số trong thời gian tới. Các giải pháp đề xuất vừa
tuân thủ những yêu cầu, nguyên tắc chung của công tác cán bộ, vừa tính toán
đến những đặc thù của đối tượng cán bộ dân tộc thiểu số.
- “Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)” (Lường Thị Pó, Luận
văn thạc sỹ Triết học, 2007).
Luận văn phân tích nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta
hiện nay; đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực con người các
dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
nói chung, ở tỉnh Điện Biên hiện nay nói riêng.
19
- Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Quang Trung (2008): “Phát huy vai
trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay”.
Trong Luận án của mình tác giả đã khẳng định, đội ngũ cán bộ vùng
dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng to lớn, là nhân tố có tính chất quyết định
để thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc, thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ
nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Trong đội
ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số, tác giả đi sâu vào nghiên cứu đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở; khẳng định vai trò vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở là đội ngũ cán bộ trực tiếp đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng vào trong đời sống đồng bào các dân tộc, biến những chủ trương
chính sách của Đảng thành hiện thực sinh động. Đây cũng là đội ngũ cán bộ
trực tiếp giải quyết mối quan hệ trong nội bộ nhân dân, đóng vai trò là cầu nối
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề đang đặt ra đối với đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số như: Sự bất cập, sự hạn chế về năng
lực tư duy, năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ; những hạn chế
trong cơ chế chính sách; việc nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ
của cơ sở, cũng như phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ này trong điều kiện
hiện nay ở một số cấp còn phiến diện. Không thấy được quá trình phát huy
vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số không chỉ
quy định bởi trình độ văn hóa, năng lực tư duy, trình độ chuyên môn, mà còn
chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như tâm lý tộc người, phong tục tập
quán, nếp sống, tâm lý cư dân địa phương… và đặc biệt là sự chi phối, quy
định của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, điều kiện sống của đội ngũ cán bộ…
- Cuốn sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” - Lô Quốc Toản, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010.
20
Cuốn sách Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay của Tiến sĩ Lô Quốc Toản là một nghiên cứu mang
tính lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc, chính
sách phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Để phát huy được nội lực của
đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ở các tỉnh miền núi phía Bắc cần xây dựng được một đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh về năng lực chuyên môn, phẩm chất
chính trị, trình độ tư duy lý luận... Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và thực trạng cán bộ người
dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc ở nước ta hiện nay, tác giả đã
nêu phương hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn cán bộ này một cách
vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
- “Vấn đề phát huy nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay” (Trương Thị Thu Hà, Luận văn thạc sỹ Triết học, 2010).
Tác giả đã khẳng định vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số trong cả nước nói chung, ở Tuyên Quang nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó
khăn nhưng đây là vùng giàu tiềm năng kinh tế, có vị trí quan trọng về chính
trị, văn hoá và có nguồn nhân lực dồi dào, con người cần cù, chịu khó, thông
minh và sáng tạo, rất cần sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Tác giả đã chỉ ra thực trạng nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang, đồng thời đưa ra những giải pháp để phát huy nguồn nhân lực
của tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
* Đánh giá chung
Các công trình nghiên cứu trên giúp tác giả Luận án nắm được những
vấn đề lý luận về công tác dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước;
thực trạng đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; thực
21
trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, giúp tác giả Luận án có cơ sở lý
luận để thực hiện tốt nhiệm vụ đề tài nghiên cứu đưa ra. Cụ thể:
Một là, các công trình nghiên cứu đều khẳng định vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước. Hiện nay vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số sinh sống là vùng còn nhiều lạc hậu, khó khăn nhất trong cả nước, cần
được quan tâm, tạo điều kiện phát triển hơn cả nhằm đảm bảo sự cân bằng
giữa các vùng miền, đảm bảo cho đất nước phát triển toàn diện “Tuy có phát
triển và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt trong thời gian qua,
song hiện nay khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là
nơi khó khăn và lạc hậu nhất của nước ta. Khoảng cách phát triển giữa miền
núi và miền xuôi, nhất là so với khu vực thành thị, còn khá lớn và có xu
hướng ngày càng doãng ra. Vì vậy, muốn thu hẹp khoảng cách này, chúng ta
cần tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ một số chính sách cụ thể về phát
triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi” [94].
Hai là, đã khẳng định, đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai trò
vô cùng to lớn, là nhân tố có tính chất quyết định để thực hiện sự bình đẳng,
đoàn kết dân tộc, thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trong
cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam “Cán bộ dân tộc thiểu số là
một bộ phận trong đội ngũ cán bộ cả nước, có vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Bởi vì phần lớn đội ngũ này hoạt
động ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số, nơi có tiềm năng to lớn cả về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...” [92, tr. 264].
Chính vì thế để phát huy được nội lực của đồng bào các dân tộc thiểu
số, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở các
tỉnh miền núi cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững
mạnh về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, có trình độ tư duy lý
22
luận... “Cái mà miền núi và đồng bào các dân tộc cần ở đây, như đồng bào
thường nói, không phải là “xâu cá” mà là “cần câu”, tức là cơ chế, đường lối,
chính sách đúng đắn, phù hợp, là phương thức làm ăn, là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý vừa có cái “tâm” hết lòng vì đồng bào, hiểu đồng bào, được đồng
bào tin yêu, vừa có cái “tầm” tức là tầm nhìn, trí tuệ, năng lực, dám nghĩ, dám
làm, biết cách “cầm tay chỉ việc, biết đưa đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước đến với đồng bào” [92, tr. 257-258].
Ba là, trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ, các quan điểm, đường lối của Đảng, Chính sách của
Nhà nước đối với công tác dân tộc chỉ ra những giải pháp trọng yếu nhằm đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, vùng đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống; trong đó đặc biệt
chú ý đến các giải pháp, chính sách đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số vì
đây chính là đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết mối quan hệ trong nội bộ
nhân dân, đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở miền
núi, vùng dân tộc thiểu số. “Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện
hệ thống chính sách ưu tiên, đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số
cũng như những cán bộ địa phương khác đã và đang công tác, phục vụ lâu dài
tại miền núi như giải quyết thỏa đáng chế độ tiền lương, phụ cấp, động viên,
khen thưởng, kịp thời quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của bản
thân và gia đình họ” [92, tr. 261].
1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng
lực tư duy lý luận gắn với các đối tượng cụ thể là cán bộ, đảng viên, học viên,
sinh viên, lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý các cấp… sau đây là một số
công trình tiêu biểu.
23
- Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994).
Tác giả tập trung phân tích làm rõ khái niệm năng lực tư duy, vai trò của
năng lực tư duy đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và mối quan hệ giữa
điều kiện khách quan và chủ quan của chủ thể tư duy. Trên cơ sở phân tích
thực trạng và những yếu kém về năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy của họ.
- Nguyễn Đình Trãi, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng viên lý luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh” (Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001).
Tác giả đã tập trung phân tích tính tất yếu và sự cần thiết phải nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở
các trường chính trị tỉnh; phân tích và làm sáng tỏ đặc thù để đi vào nghiên
cứu thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
giảng viên lý luận Mác-Lênin ở trường chính trị tỉnh.
- Nguyễn Thị Bích Thủy, “Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ
lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay” (Luận án Tiến
sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001).
Luận án phân tích bản chất và đặc điểm tư duy biện chứng, vai trò của
tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế ở nước ta là vô cùng quan
trọng; vai trò của tư duy biện chứng không chỉ thể hiện một cách tổng quát ở
sự hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp nhận thức đúng
đắn ở họ, mà cụ thể hơn như ra chủ trương, đường lối, quyết định, tổ chức
thực hiện quyết định, phát hiện và giải quyết các mối quan hệ trong quá trình
lãnh đạo kinh tế, kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm…
24
- “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay” (Hồ
Bá Thâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
Từ việc phân tích luận giải vấn đề phát triển năng lực tư duy của người
cán bộ lãnh đạo qua việc nghiên cứu tư duy dưới góc độ triết học và cả ở góc
độ khoa học quản lý. Tác giả xem xét một cách hệ thống bản chất, nội dung
của năng lực tư duy, phong cách tư duy, đồng thời kiến nghị một số giải pháp
định hướng phát triển năng lực, tư duy của người cán bộ lãnh đạo trong công
cuộc đổi mới tư duy, phát triển trí tuệ hiện nay.
- Trần Thành (chủ nhiệm): Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải
pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
Đề tài đã luận giải các vấn đề của tư duy lý luận dưới góc độ chung như
bản chất, đặc điểm, vai trò của tư duy lý luận trong sự phát triển của đất nước
ta hiện nay, nhấn mạnh tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh như “chìa khóa” mở ra cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của họ. Có tư duy lý luận, họ nắm được thực chất đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, có khả năng phân tích, luận giải để nắm
được tinh thần của đường lối đó. Có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh có đủ năng lực phân tích sự phong phú, tính đa
dạng và phức tạp của thực tiễn cuộc sống đời thường để từ đó vận dụng lý
luận một cách chủ động, thích hợp, sáng tạo, hiệu quả. Các tác giả còn cho
rằng, tư duy biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao nhất của lịch sử
phát triển tư duy lý luận. Tư duy biện chứng duy vật có các đặc điểm như tính
trừu tượng hóa, khái quát hóa cao, tính khoa học, tính gợi mở, sáng tạo, tính
phê phán sâu sắc. Do đó, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan
trọng để nâng cao trình độ tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ này, từ đó
25
góp phần đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa đi đến thành công.
- Trần Thành, “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003).
Tác giả tập trung phân tích hệ thống bản chất và kết cấu của tư duy lý
luận, vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ. Tác giả
chỉ ra rằng năng lực tư duy lý luận là nhân tố không thể thiếu, có tầm quan
trọng đặc biệt, vừa là yếu tố cấu thành vừa là nhân tố thúc đẩy sự hình thành
và phát triển năng lực ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Tư duy lý luận là tư
duy biện chứng (biết suy nghĩ, xem xét các vấn đề, sự kiện, quan hệ, tình
huống một cách khoa học). Tư duy lý luận được thể hiện ở năng lực suy nghĩ,
khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát từ những hiện tượng sinh động, đa
dạng của đời sống thực tiễn, từ kinh nghiệm muôn vẻ của hoạt động hàng
ngày tích lũy và khái quát thành lý luận. Năng lực tư duy lý luận của người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt có giá trị định hướng cho hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của họ. Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri
thức lý luận tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ
đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ sự trải nghiệm
trong hoạt động thực tiễn của chính người cán bộ. Nội dung của năng lực ấy
thể hiện trước hết ở năng lực phản ánh những vấn đề bản chất, tìm ra mâu
thuẫn, phát hiện những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng
các hình thức và phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở
cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh ở địa phương.
- Dương Minh Đức, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
lãnh đạo cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006).
26
Tác giả đã đưa ra định nghĩa năng lực tư duy lý luận và sự cần thiết
phải nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh trong giai
đoạn hiện nay; qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng năng lực tư duy lý luận
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay
tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hơn nữa năng lực tư duy
lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học của Trần Thiên Tú (2006): “Vấn đề nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung
Bộ - qua thực tế tỉnh Quảng Trị”.
Tác giả Luận văn khẳng định tư duy lý luận là một trong những yêu cầu
quan trọng hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo quản lý, việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng, vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược. Bởi lẽ, năng
lực tư duy lý luận là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương; là
cơ sở để chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Tác giả đã trình bày được các khái niệm cơ bản “tư duy”, “tư duy lý
luận”, “năng lực tư duy lý luận”; chỉ ra được vai trò của năng lực tư duy lý
luận đối với hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Từ việc đánh giá thực
trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc
Trung Bộ (qua thực tế tỉnh Quảng trị) từ đó đưa ra giải pháp cơ bản nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
ở Bắc Trung Bộ.
- Vũ Văn Viên, “Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng” (Tạp chí Triết học, số 12/2007).
Tác giả khẳng định nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
27
Trên cơ sở đó làm rõ khái niệm năng lực tư duy khoa học, vai trò của nó đối
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như các bộ phận hợp thành nó, tác giả nhấn
mạnh một số biện pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy khoa học của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo.
- Nguyễn Đức Quyền, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt ở tỉnh Lạng Sơn” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2010).
Tác giả đã đi sâu phân tích tầm quan trọng của tư duy lý luận đối với
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và đánh giá thực trạng tư duy lý luận của đội
ngũ này; phân tích và làm sáng tỏ nguyên nhân hạn chế và những yếu tố ảnh
hưởng tới năng lực tư duy của họ. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra các giải pháp
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh trong
giai đoạn hiện nay.
* Đánh giá chung
Đây là những công trình nghiên cứu tương đối gần với đề tài nghiên
cứu của Luận án, giúp cho tác giả Luận án nắm được phương pháp luận trong
nghiên cứu, mổ xẻ, phân tích vấn đề để làm rõ được vấn đề cần nghiên cứu và
thực hiện được mục đích nghiên cứu. Cụ thể trên các phương diện sau:
Một là, vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của các chủ thể, đối
tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng viên, người cán bộ quản lý các
cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Hai là, đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của các đối tượng
cụ thể (cán bộ, đảng viên, giảng viên) gắn với từng lĩnh vực công tác, đặc thù
vùng miền của các đối tượng, từ đó đề xuất một số giải để nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho các đối tượng đó.
Ba là, việc đề xuất một số quan điểm cũng như giải pháp nâng cao năng
lực tư duy lý luận phải trên cơ sở gắn với đối tượng cụ thể, điều kiện cụ thể,
cũng như với các yếu tố đặc thù khác của từng địa phương, đơn vị.
28
1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án
Có thể nhận định, nghiên cứu về tư duy nói chung và tư duy lý luận nói
riêng không phải là một nội dung mới. Qua việc tiếp cận với các nghiên cứu
đã được lược khảo trên tôi thấy rằng các công trình nghiên cứu trên tạo thành
một bức tranh sinh động, phong phú về mảng nghiên cứu tư duy lý luận. Các
công trình nghiên cứu đã giúp tôi có tiếp cận các tri thức chung về tư duy, tư
duy lý luận, năng lực tư duy lý luận; các vấn đề thực tiễn của các địa phương
trong cả nước; những vấn đề về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước;... Đặc biệt hơn là phương pháp trong việc đánh giá, nhìn nhận vấn đề,
đóng vai trò tiền đề, là phương pháp luận để tôi thực hiện đề tài của mình.
Tuy nhiên tôi thấy rằng, các công trình nghiên cứu trên và công trình nghiên
cứu của chúng tôi có những điểm khác biệt cần có hướng nghiên cứu mới.
Một là, Luận án sẽ khái quát và bổ sung rõ thêm vấn đề tư duy, tư duy
lý luận trong mối quan hệ với vấn đề nhận thức luận.
Hai là, Luận án làm rõ hơn khái niệm “năng lực tư duy lý luận” và
quan trọng nhất là phải giải quyết được “thực chất của việc nâng cao năng lực
tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện
nay” là gì.
Ba là, Trên cơ sở thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, luận án đưa ra một số quan điểm
và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay sát với những điều
kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Tuyên Quang.
29
Kết luận chương 1
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể thấy
hầu hết các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư duy, tư
duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng
lực tư duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn,
cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế;
khẳng định vùng đồng bào các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược quan trọng
trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; khẳng định
đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng to lớn, là nhân tố có
tính chất quyết định để thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc, thực hiện sự
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc trên đất
nước Việt Nam…
Việc đổi mới tư duy lý luận gắn với việc nâng cao năng lực tư duy lý
luận của các chủ thể, đối tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng viên,
người cán bộ quản lý các cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý
luận của các đối tượng cụ thể phải gắn với từng lĩnh vực công tác, đặc thù
vùng miền của các đối tượng cụ thể là một việc rất quan trọng, từ đó đề xuất
một số giải pháp thiết thực để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho các đối
tượng đó. Những công trình nghiên cứu được khảo lược là những công trình
nghiên cứu gần với đề tài nghiên cứu của Luận án nhất, giúp cho tác giả Luận
án nắm được phương pháp luận trong nghiên cứu, mổ xẻ, phân tích vấn đề để
làm rõ được vấn đề cần nghiên cứu và thực hiện được mục đích nghiên cứu.
30
Chương 2 NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận
2.1.1. Tư duy lý luận
* Tư duy
Tư duy con người luôn là một trong những vấn đề lớn của triết học.
Nhưng tư duy là gì thì cho đến nay, vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với “ý thức”
và “nhận thức” vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống
nhất hữu cơ với nhau. Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm
trù có tính lịch sử.
Theo C.Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc
người và được cải biến đi ở trong đó [42, tr. 35]. Còn V.I.Lênin thì cho rằng ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan [37, tr. 138]. Nói ý thức là
hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền
với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn,
nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách quan. Tuy
là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật,
hiện tượng, quá trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi “cái khách quan” và có
nội dung phản ánh là “cái khách quan” ấy. Tuy nhiên, không phải chỉ cần thế
giới xung quanh tác động lên bộ óc con người là mặc nhiên sẽ sinh ra ý thức.
Bởi vì, ý thức còn là một hiện tượng xã hội, “... ngay từ đầu ý thức đã là một
sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [44, tr.
43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con
người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của
31
các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của con người quy định. Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều
yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí... Trong đó, tri thức là thành tố
quan trọng nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là quá
trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh. Hiểu biết về
sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật đó càng sâu sắc. Ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cho nên hình ảnh chủ quan về
sự vật, hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào sự vật, hiện tượng được phản ánh,
mà còn phụ thuộc vào năng lực, mục đích của chủ thể phản ánh.
Như vậy, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về
chất so với phản ánh tâm lý ở động vật. Ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý
tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan.
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng -
là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con
người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực
khách quan, trên cơ sở của thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự
phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng sự phản ánh
đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc giản đơn, thụ động mà là
một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo.
Bởi vì, “... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn cải tạo
thế giới khách quan” [38, tr. 228]. Con người cải tạo thế giới khách quan bằng
hoạt động thực tiễn và chính trong quá trình biến đổi thế giới ấy, con người
cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực trí tuệ - năng lực đặc
trưng và bản chất của con người.
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc
con người nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở
động vật về chất.
32
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
một cách tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.
Theo V.I.Lênin, nhận thức là một quá trình “từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”
[38, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai
giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác nhau về chất
nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất hữu cơ, tác
động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con
người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về
các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong thế giới.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong
đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội
và gắn liền với hoạt động thực tiễn [106, tr. 407].
Theo triết học, tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của
sự phản ánh tích cực thực tại khách quan của con người, đó là hoạt động phản
ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì
nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm
giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề mang tính bản chất của sự vật
hiện tượng như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, hố đen, cấu tạo tế bào
sống, vận tốc ánh sáng, âm thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp
khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay thế ngoài việc
sử dụng sức mạnh của tư duy.
Vậy tư duy khác gì với nhận thức?
Tư duy là chức năng đặc biệt riêng có của bộ não con người, chỉ có ở
con người. Đó chính là quá trình ý thức của con người tiếp cận và nắm bắt
được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư
33
duy là dạng hoạt động tri thức diễn ra bên trong ý thức của con người có
nguồn gốc từ thực tiễn. Tư duy với tính cách là thuộc tính không thể thiếu
được của hoạt động chủ quan của con người được thể hiện rõ nhất, tập trung
nhất trong hoạt động sáng tạo và trong việc tiên đoán các sự kiện, hiện tượng
của thế giới. Nó cũng được xuất hiện và hiện thực hóa trong quá trình đặt ra
những vấn đề của lý luận và thực tiễn của con người.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan bên
trong bộ óc con người. Đó là quá trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản
ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, đem lại
cho quá trình nhận thức những tri thức mới về tính quy luật chi phối sự vận
động và phát triển của sự vật.
Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư
duy, tư duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể
sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy
luật của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật; nếu
không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để lưu giữ, kế thừa và phát triển
tư duy, tư tưởng của loài người.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự
nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là “ý niệm tuyệt đối’, “ý niệm
siêu nhiên”... song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và
đã chứng minh được rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan
bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý... thông qua các phương pháp
như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của quá
trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động
của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách
34
quan và định hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những hình ảnh
của sự vật trong thế giới được tư duy chắt lọc loại bỏ những mặt, những yếu
tố bề ngoài ngẫu nhiên, trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản, tất
yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái
niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa
vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng
vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con
người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, phụ
thuộc mà con người chủ động tác động và phản ánh chủ động, sáng tạo thế
giới hiện thực khách quan.
Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm
cách nhận thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại
là cơ sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không
ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự
vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính chất, quy
luật... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là
quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con
người. Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng,
kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan
hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng
thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu được vào
hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó
mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung và
hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch sử
không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người.
Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho
sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này
35
càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát triển theo.
Ăngghen đã nhận định rằng: “Trí tuệ con người đã phát triển song song với
việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [43, tr. 720].
Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ
động nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Tư duy của con người là do
hiện thực khách quan quy định; nhưng chính hoạt động thực tiễn của con
người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy,
thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận
cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục
của tư duy con người.
Tóm lại, ta có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của tư duy như sau:
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy
luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận
thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt
động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình
độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì phương pháp tư
duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.
Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên
cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng
hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật
vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm,
phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng
nhằm đạt đến chân lý.
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự
tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các
nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
36
Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức
khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là
cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự
nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực
tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự
đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực
tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực
hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với
những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì
trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp
khác nhau.
Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình
biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư
duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn
xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con
người theo Ph.Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện
cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo
bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. V.I.Lênin
khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái
con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư
duy là những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự
phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những
quy luật sinh học và xã hội trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định.
Nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất.
37
Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy
rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm
trù đối lập với vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình
độ cao của nhận thức. Như thế, nhận thức, tư duy đều là quá trình hoạt động
để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc hoạt động nhận thức nhưng
là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
* Tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận
Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức, hoạt động của
con người cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy
và năng lực tư duy mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh
cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy
kinh nghiệm và tư duy lý luận.
Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng
kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Tư duy kinh nghiệm có
đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian, thời gian với
sự thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm
mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản
ánh các hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Trong khi đó, chủ nghĩa duy
vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật
trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi
như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài; tự bản thân kinh
nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết mà chỉ nắm
lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc
phục tính chất trực quan trong trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận
38
kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi
kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác
động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động
đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những
tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm
những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra.
Có thể nói rằng tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực
trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh
nghiệm trong thực tiễn cuộc sống, sản xuất, giao tiếp, người ta có thể rút ra
những kết luận có khi khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng
chưa thể khái quát được những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện
tượng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy.
Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn sản
xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện tượng cụ
thể, khách quan, nhưng rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa sâu sắc, chưa
đi sâu, khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng.
Triết học duy vật biện chứng khẳng định, nhận thức là một quá trình từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Trong quá trình đó con người tích lũy, rèn luyện dần dần phát triển từ trình độ
tư duy kinh nghiệm hay tiền khoa học rồi được nâng lên để đạt tới trình độ tư
duy khoa học phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Vì vậy trong quá trình nhận thức của con người nếu chỉ dừng ở trình
độ kinh nghiệm thì không thể phục vụ tốt cho đời sống hiện thực sinh động
đang diễn ra hàng ngày. Ph.Ăngghen viết: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm
tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [43, tr.
718]. Do đó nhận thức của con người không thể dừng lại ở những kinh
nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận.
39
Trái lại với tư duy kinh nghiệm, nói đến tư duy lý luận là nói đến tư
duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp sự vật hiện
tượng một cách sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của
sự vật, hiện tượng.
Theo PGS. Bùi Thanh Quất thì lý luận là biểu hiện cao nhất của nhận
thức, mà kết quả của nhận thức chính là tri thức và do đó, tư duy lý luận là hệ
tri thức - hệ tri thức này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt logic, tạo thành quan
niệm hoàn chỉnh phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của
khách thể nghiên cứu - đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng
chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Như vậy, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ
bản sau: thứ nhất là tính khoa học; thứ hai tính sáng tạo; thứ ba biết sử dụng
tự giác bộ công cụ của lý tính, như khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý,
các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương pháp, biện pháp cụ
thể dựa trên các căn cứ khoa học; thứ tư gắn liền với thực tiễn, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn. Tư duy lý luận khoa học là hoạt động trí tuệ của con người
theo các quy luật nhận thức để nắm được các thuộc tính căn bản của sự vật,
hiện tượng, những mối liên hệ cơ bản giữa chúng, để ngày càng hiểu sâu bản
chất của sự vật, hiện tượng, thấy được những mâu thuẫn và chiều hướng phát
triển khách quan của chúng. Tư duy lý luận khoa học là tư duy về phương
pháp và phương pháp luận. Do đó, tư duy lý luận khoa học chính là trình độ
phát triển cao của năng lực tư duy con người. Người có tư duy lý luận khoa
học là người có ý thức thường xuyên rèn luyện những phương pháp tư duy
khoa học, thường có tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ và hoạt
động thực tiễn.
Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống khái
niệm, phạm trù, quy luật; vì thế nó đem lại hiểu biết sâu sắc về bản chất,
những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách quan.
40
Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực khách quan
dưới dạng tinh thần, theo con đường từu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu vào
nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật của sự vật và hiện
tượng. Vì vậy, tư duy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cũng chính vì vậy, tư duy lý luận
đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như trong
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của xã hội loài người.
2.1.2. Năng lực tư duy lý luận
Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của
nhận thức luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất,
cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc
thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn về khái niệm năng lực
tư duy, có ý kiến cho rằng, “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí
tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành động sáng tạo
của con người”. Năng lực đó “được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và
hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương
pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của
năng lực tư duy” [41, tr. 48]. Trong quan điểm trên, vấn đề trung tâm, bản
chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ và trên cơ sở
phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo.
Tác giả Hồ Bá Thâm xem năng lực tư duy là “khả năng biến tri thức
thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra
bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy
luật đó trong cuộc sống”. Khả năng ấy được cụ thể: “Năng lực tư duy là tổng
hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên
tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận
41
dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết
quả nhất định” [96, tr. 15 - 18]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản
cấu thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là:
Năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình
ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa
trong phân tích và tổng hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng để
nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động.
Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở
trình độ cao, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính
quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính
khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của
tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau và phải tuân theo một trật
tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích, tổng hợp, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt động của tư duy, những
phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự
mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa
các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung, tác dụng khác
nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này
là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi
phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng
hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v...
Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức
đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như
vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi
phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự lôgíc
phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán
đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò
42
quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện
ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy
mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm
để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để có suy lý
đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm cả
năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả
năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư
duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy
định khách quan của các đối tượng nhận thức.
Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần
nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây
dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các góc độ: Năng lực tư duy
thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo
cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy
kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm.
Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung,
tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận
động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng
các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc
và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa,
năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể
hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các
vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn
được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các
43
tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù
dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình
độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng
hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện,
khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng lực tư duy
là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải... Như vậy,
trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì
thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy
bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các
yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt
năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì
thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được
về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao
đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng: “Năng lực tư duy lý luận là tổng
hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở
trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
tiễn của con người” [101, tr.28].
Tác giả Nguyễn Văn Dũng quan niệm, “Năng lực tư duy lý luận của một
chủ thể nhất định (cá nhân, giai cấp, dân tộc…) là tổng hòa các yếu tố tạo nên
khả năng tư duy lý luận của chủ thể ấy, thể hiện ở việc phát hiện, nhận thức đúng
đắn bản chất, quy luật của hiện thực và có những đề xuất sắc bén, đáp ứng định
hướng và quy định chất lượng hoạt động thực tiễn của chủ thể” [19, tr. 31].
Tuy có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đều
thống nhất ở những điểm cơ bản về năng lực tư duy lý luận:
44
- Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào chủ thể tư duy, là tổng hợp
những yếu tố chủ quan của chủ thể như phẩm chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo
tri thức khoa học, kinh nhiệm thực tiễn…
- Năng lực tư duy lý luận là những khả năng sử dụng nội dung, hình
thức, phương pháp, thao tác tư duy khoa học nhằm đáp ứng sự nhận thức ở
trình độ lý luận và sáng tạo ra tri thức mới.
- Đó là khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào hoạt động thực
tiễn mang lại hiệu quả, đồng thời có khả năng dự báo khoa học.
Như vậy có thể hiểu: Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất
trí tuệ của chủ thể nhất định, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn
bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh,
nhạy bén, sáng tạo và có những dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau.
ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao
thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay
trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Năng lực
tư duy lý luận là sự phát triển cao của năng lực tư duy con người, có vai trò to
lớn trong nhận thức cũng như cải tạo thực tiễn. Tùy vào mỗi cấp độ, phạm vi
và đối tượng mà năng lực tư duy lý luận được thể hiện ra. Chính vì thế, năng
lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do
các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.
Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di
truyền của từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di
truyền lại như cấu tạo của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này đóng vai trò
chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác,
nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ nói chung và
45
năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh di truyền mới chỉ
là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát triển, rèn luyện
thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết: “Tư
duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà
có thôi” [43, tr. 487].
Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một
cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng
vai trò quyết định đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều
kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt
được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, không có con đường nào khác
ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. Quá trình
này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri thức mà còn là những
phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là nền tảng,
là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy
nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao
được năng lực tư duy lý luận.
Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của
xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người.
Sự phát triển về năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã
hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những điều
kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học tập, rèn
luyện và công tác của mỗi người. C.Mác đã chỉ rõ, “con người là sản phẩm
của hoàn cảnh”, hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con
người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại xã
hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã
góp phần hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ,
ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình thành được phong cách tư duy năng
46
động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con người đặc biệt phụ thuộc
vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt được. Thật vậy, năng lực tư duy
lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học và
trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút của cái
chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù
của mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm nền tảng tâm sinh lý, khơi dậy mọi
năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng với sự phát triển của khoa học, năng
lực tư duy lý luận cũng có quá trình phát sinh, phát triển của mình; nó không
phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự
phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen nhận xét: “Tư duy lý luận của
mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch
sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do
đó có một nội dung rất khác nhau” [43, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với
mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con
người cũng có những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự
phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc
nâng cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa
học. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình
độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp
tư duy biện chứng.
Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến
năng lực tư duy lý luận của con người. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, “chính việc
người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính
cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người,
và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến
tự nhiên” [43, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu
47
không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực
tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách
quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con
người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực
tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt
ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện
quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành những phương thức, nội
dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn
đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế, trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí
tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng được phát triển.
Thông qua hoạt động thực tiễn, năng lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng
xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức của con người mới được hình thành
và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển.
Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ, động
cơ cho mọi hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện để
hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt động
của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định nào đó về vật chất
hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trích theo V.I.Lênin, Hêghen
đã viết: “Những lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân” [38,
tr. 98]. Như vậy cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích.
Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức,
động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy
lý luận. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn
luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó có thể rèn
luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có được năng lực tư duy lý
luận tốt, những người đó có động cơ không trong sáng thì cũng chỉ là “người
có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng”.
48
Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác
động đến năng lực tư duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng
tác động đến năng lực tư duy lý luận theo một chiều hướng tích cực sẽ có tác
dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng hơn. Ngược lại, sự tác
động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho năng lực tư
duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các yếu tố
đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực
tư duy. Trong đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của khoa học và
thực tiễn xã hội là điều kiện cần thiết; quá trình giáo dục, đào tạo đóng vai trò
chủ đạo; quá trình tự giáo dục rèn luyện để có được động cơ trong sáng là yếu
tố mang tính quyết định trực tiếp đến việc phát triển năng lực tư duy lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của con người không phải hoàn
toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có.
Như vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, quá trình
học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận là cơ sở chủ yếu của năng
lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của
khoa học và thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không ngừng của
khoa học và thực tiễn, do nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của
con người, năng lực tư duy lý luận cũng luôn trong quá trình phát sinh, phát
triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn. V.I.Lênin đã viết: “Trí tuệ con
người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều điều
kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình với tự nhiên” [118,
tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá trình tự phát mà là quá trình
con người tự giác rèn luyện, học tập nâng cao năng lực tư duy, tự giác tham
gia tích cực vào hoạt động thực tiễn nhằm trau dồi, phát triển khả năng xác
49
lập những tri thức phù hợp với tính quy luật khách quan của sự vật, khả năng
xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng “đối tượng hóa” những tri thức
của loài người vào hoạt động thực tiễn. Chính vì thế mà ý tưởng nâng cao
năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm nắm bắt bản chất sâu xa của sự vật,
biến chúng thành tri thức lý luận trên cơ sở đó mà hình thành được các cách
thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động thực tiễn.
2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
Việt Nam hiện nay
2.2.1. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và một số vấn đề cơ bản về đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
* Khái niệm “cán bộ”:
Cán bộ là một thuật ngữ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu
thế kỷ XX. Ban đầu, từ “cán bộ” được dùng trong quân đội để phân biệt giữa
chiến sỹ và người chỉ huy. Về sau, từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những
người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân dân.
Trong một thời gian dài ở Việt Nam, từ “cán bộ” được dùng phổ biến thay thế
cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, cán bộ được coi là
tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và
lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính được coi là những người có
mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những người có mức lương
dưới cán sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “cán bộ” có hai nghĩa cơ bản:
Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan
nhà nước.
Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người không có chức vụ.
50
Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/2/1947, khi
giải đáp về người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là
cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động
cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính
sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì
chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [46, tr. 54].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một
lần nữa khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách
cho đúng” [46, tr. 269].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ hoàn toàn phù hợp với quan điểm
của V.I.Lênin. Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi,
đứng trước những nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp của chính quyền Xô
viết non trẻ, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực,
V.I.Lênin đã viết: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh.
Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả những mệnh lệnh và quyết
định chỉ là mớ giấy lộn” [36, tr. 449].
Cán bộ là những cá nhân có trách nhiệm, tư cách cụ thể rõ ràng, gắn
với một tổ chức nhất định. Khi tách rời tổ chức đó, người cán bộ sẽ mất tư
cách của mình. Chính vì vậy, để trở thành cán bộ, mỗi cá nhân phải rèn luyện
và học tập để giữ vững tư cách cán bộ, mỗi cá nhân phải tự tu dưỡng và trau
dồi đạo đức cách mạng.
Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình
độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao.
Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đảm bảo nguyên tắc tập thể, dân chủ, đi đôi với phát huy
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
51
Theo quan niệm của Đảng ta hiện nay, “cán bộ” được hiểu là những
người công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao gồm:
bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị; có
năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị trí và
nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
Tất cả cán bộ công tác trong hệ thống các cơ quan nhà nước và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh cán
bộ, công chức. Trong trường hợp này, tất cả các công chức, viên chức nhà
nước; các công chức, viên chức trong các tổ chức chính trị, các tổ chức chính
trị - xã hội; sỹ quan, sỹ quan chuyện nghiệp, công nhân viên quốc phòng công
tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam; sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp
công tác trong lực lượng Công an nhân dân đều được coi là cán bộ.
Tuy nhiên, trên thực tế có một số đối tượng chưa thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật cán bộ, công chức nhưng vẫn được coi là cán bộ như: Một
số chức danh trong đội ngũ cán bộ tại xã, phường, thị trấn; đội ngũ cán bộ
tại thôn, bản.
* Khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”
Cả nước ta hiện nay có 54 dân tộc, trong số 54 dân tộc có những dân
tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thủa ban đầu, có
những dân tộc từ nơi khác lần lượt tới định cư trên đất nước ta. Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, có truyền
thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục tự nhiên và đấu
tranh xã hội trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng
phát triển đất nước.
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, số dân giữa các dân tộc
không đều nhau, có dân tộc số dân trên một triệu người như Tày, Thái…
52
nhưng có dân tộc chỉ vài trăm người như Pu Péo, Ró-măm, Brâu… trong đó
dân tộc Kinh là chiếm đa số. Mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam đều có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền
thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá
của mỗi dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hoá của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau
như anh em một nhà, quý trọng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, chung sức
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước
ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân
tộc ít người; do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân
tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc
anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường
đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống
nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên
Chủ nghĩa xã hội.
- “Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học được sử dụng một cách
phổ biến và thông dụng trên thế giới. Các học giả phương Tây coi đây là một
thuật ngữ khoa học chuyên ngành dân tộc học dùng để chỉ những dân tộc với
nghĩa là những tộc người có số dân ít, thường là chậm phát triển. Trong một
số trường hợp, họ đánh đồng ý nghĩa “dân tộc thiểu số” với “dân tộc lạc hậu”,
“dân tộc chậm phát triển”, “dân tộc kém phát triển” do sự chi phối bởi quan
điểm của giai cấp thống trị.
Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” biểu thị sự tương quan về
dân số giữa các dân tộc trong một quốc gia. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, khái niệm này dùng để chỉ sự tương quan về dân số giữa các dân
tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc,
53
khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ
phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của mỗi dân tộc không
phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế
- chính trị - xã hội - lịch sử của từng dân tộc.
Theo quan điểm của Đảng ta, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, khái niệm “dân tộc
thiểu số” được hiểu là những dân tộc có số dân chiếm tỷ lệ thấp trong tương
quan dân số. Trong hơn 80 triệu dân thì dân tộc Kinh chiếm 86% dân số, được
coi là “dân tộc đa số”, 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số được coi là “dân
tộc thiểu số” trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nội hàm của khái niệm “dân tộc thiểu số” còn được vận dụng và phát
triển trong từng điều kiện cụ thể, tùy theo mối quan hệ tương quan về dân số
của mỗi quốc gia, dân tộc.
- Khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số” về thực chất là một khái niệm
kép - một tập hợp của hai khái niệm “cán bộ” và “dân tộc thiểu số”. Khái
niệm này dùng để chỉ những người đang công tác trong các cơ quan, đơn vị
thuộc hệ thống chính trị có thành phần dân tộc xuất thân là các dân tộc thiểu
số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiêu chí để phân biệt “cán bộ dân tộc
thiểu số” trong đội ngũ cán bộ nói chung là có thành phần dân tộc xuất thân từ
các “dân tộc thiểu số”.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu về khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”:
Cán bộ dân tộc thiểu số là những người có thành phần xuất thân từ các dân
tộc thiểu số công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao
gồm: bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị; có năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị trí
và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
54
Trong một số văn kiện của Đảng và nhà nước ta, cụm từ “cán bộ dân
tộc thiểu số” được thay thế bằng cụm từ “cán bộ người dân tộc thiểu số”. Xét
về ngữ thì đây là những cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm thì đây là những
khái niệm có cùng nội hàm, có thể thay thế cho nhau.
* Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự phấn đấu bền bỉ của đồng bào các
dân tộc thiểu số, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được hình thành ở
khắp mọi miền của Tổ quốc. Một số dân tộc thiểu số ở vùng núi thấp, điều
kiện kinh tế - xã hội có nhiều yếu tố thuận lợi, đội ngũ cán bộ thiểu số phát
triển đồng đều và đông đảo hơn, có cơ cấu đa dạng về lứa tuổi, trình độ học
vấn và thành phần dân tộc. Một số dân tộc khác sinh sống ở vùng núi cao,
điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, giáo dục - đào tạo phát triển
chậm, dân trí thấp, đội ngũ cán bộ phát triển hạn chế, thiếu về số lượng, cơ
cấu bị mất cân đối; thậm chí có một số dân tộc thiểu số chưa có cán bộ tham
gia hệ thống chính trị cấp cơ sở như: Cống, Pu Péo, Si La. Có thể khái quát về
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay như sau:
Về cơ cấu cán bộ, ở không ít địa phương, đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số chiếm gần 50%, trong khi các dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh chiếm
trên 70%. Điều đó cho thấy: mặc dù các cấp, các ngành ở địa phương có số
đông đồng bào dân tộc thiểu số đã quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số, song nhìn chung tỷ lệ còn còn quá ít, chưa tương xứng với vị
thế và tiềm năng. Số lượng ít và phân bổ không đều giữa các cấp các ngành.
Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số cấp xã cao hơn cấp huyện, cấp huyện cao
hơn cấp tỉnh; tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số khối Đảng, đoàn thể cao hơn
khối chính quyền.
Đi sâu vào phân tích từng dân tộc cho thấy, tỷ lệ này còn có sự chênh
lệch lớn hơn so với cơ cấu dân cư. Chẳng hạn: Dân tộc Mường tỉnh hòa Bình
55
chiếm trên 62,8% cư dân trong toàn tỉnh, cán bộ dân tộc Mường chiếm
38,79% trong tổng số cán bộ. Tương ứng như vậy, dân tộc Thái 4% và 4,31%,
dân tộc Tày: 2,7% và 1,93%; dân tộc Dao 1,7% và 0,6%; dân tộc Mông 0,5%
và 0,29%... Trong khi đó, ở một số tỉnh, tỷ lệ này có sự chênh lệch rất cao.
Chẳng hạn: Ở huyện Đồng Văn (Hà Giang), đồng bào Mông chiếm 90% số
dân, nhưng cán bộ chỉ chiếm 21% tổng số cán bộ của huyện. Tỷ lệ này cũng
được phản ánh ở huyện Tủa Chùa (Lai Châu) là 80% và 16%; ở Trạm Tấu
(Yên Bái) là 78,6% và 25%... Dân tộc Dao ở Bảo Lạc (Cao Bằng) là 17,2%
nhưng cán bộ người Dao chỉ chiếm 2,4%. Tỷ lệ này ở huyện Văn Yên (Yên
Bái) là 21,6% và 7% [51, tr. 119]. Ở Phong Thổ (Lai Châu), huyện ủy viên là
người dân tộc thiểu số chiếm 36,35%; Sìn Hồ (Lai Châu) cán bộ người dân
tộc thiểu số là huyện ủy viên chỉ chiếm 44,8%; ủy viên Ban Thường vụ người
dân tộc thiểu số chiếm 42,8% trong khi người dân tộc chiếm 96,6% trong cơ
cấu dân cư [58, tr. 172-173].
Về năng lực, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, từ đấu
tranh giành độc lập đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số hiện nay, chủ yếu trưởng thành qua cuộc kháng chiến chống
Mỹ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ bao cấp trước đây và những
năm đổi mới vừa qua, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động trước những âm
mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, trước những biến động phức
tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Đại đa số cán bộ người dân tộc thiểu
số có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng
nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc, cố gắng vươn lên nắm bắt những yêu
cầu mới đặt ra trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mở cửa và
hội nhập. Tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cách mạng của người cán
bộ đảng viên; trung thực, thật thà và thắng thắn đấu tranh chống tiêu cực.
56
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay được đào tạo từ nhiều
nguồn và bằng nhiều phương thức khác nhau. Một số lượng lớn cán bộ trưởng
thành trong môi trường quân đội và lao động sản xuất trực tiếp, có trình độ
chuyên môn thấp đã được đào tạo, bồi dưỡng dần trong quá trình công tác,
song kiến thức không hệ thống và cơ bản; một số thuộc lớp trẻ được đào tạo
chuyên sâu về chuyên môn, đồng thời đã và đang được tiếp tục đào tạo, bồi
dưỡng theo một hệ thống chương trình bao gồm: lý luận chính trị (cử nhân,
cao cấp, trung cấp), kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế (chủ yếu bồi
dưỡng từ 1 tháng đến 3 tháng) và một số chương trình bổ trợ khác. Vì vậy,
trình độ của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt… Mặt
khác do trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và quản lý
nhà nước ngày càng tăng lên, năng lực của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số cũng được nâng lên và thể hiện rõ ở những cấp độ khác nhau như sau:
- Năng lực nắm bắt tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; có năng lực cụ thể hóa chủ trương chính sách đó phù hợp với tình
hình thực tiễn của địa phương và triển khai thực hiện có hiệu quả. Năng lực ra
quyết định xử lý các tình huống, các vấn đề đột xuất, nảy sinh của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số cấp xã thường có phần hạn chế hơn so với đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số cấp huyện và cấp tỉnh. Việc xử lý đó thường
bằng các giải pháp mang tính chất tình thế, còn chủ yếu chờ sự trợ giúp và chỉ
đạo của cấp trên.
- Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở các địa phương là vận động quần chúng thực hiện các nhiệm vụ
chính trị. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nắm bắt được những tâm
tư nguyện vọng, hiểu được những đặc điểm tâm lý, tập quán và trình độ của
đồng bào các dân tộc nên có năng lực trong tập hợp, đoàn kết các dân tộc anh
em sống trên địa bàn, biết tuyên truyền, giải thích và hướng dẫn đông đảo
57
quần chúng nhân dân các dân tộc tuyệt đối tin tưởng và hăng hái, tích cực
thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số (kể cả
cán bộ Dân vận, cán bộ Mặt trận và Đoàn thể…) có những hạn chế về năng
lực vận động quần chúng như: thiếu khả năng tuyên truyền, vận động và
thuyết phục, nên đã nôn nóng, áp đặt mệnh lệnh và thiên về lựa chọn, xử lý
bằng các biện pháp hành chính… Bên cạnh những phẩm chất tích cực, đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Một
bộ phận ngại khó ngại khổ, ngại đi công tác ở cơ sở (cán bộ ở cấp tỉnh và
huyện) do địa hình đi lại khó khăn, thiếu hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục,
tập quán của đồng bào các dân tộc… Còn có những cán bộ người dân tộc
thiểu số chưa khắc phục được tâm lý an phận, tự ty, ngại học tập, tiếp thu tri
thức mới. Có tác phong gia trưởng, độc đoán, thói quen tùy tiện của nếp sống
tự nhiên trong xã hội truyền thống. Một số cán bộ người dân tộc thiểu số xử lý
công việc thường "nặng tình", "nhẹ lý" do ảnh hưởng của quan hệ dòng họ
dẫn đến những vi phạm pháp luật. Một bộ phận không nhỏ còn thiếu kiến
thức về quản lý kinh tế, nên việc xác định cơ cấu kinh tế ở nhiều vùng trên địa
bàn tỉnh còn chưa phù hợp, chưa khai thác và phát huy được hết tiềm năng,
thế mạnh từng vùng.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là một vấn
đề có tính chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh - quốc phòng khu vực miền núi nước ta hiện nay. Các chính sách đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số cấp huyện là một trong
những nội dung thiết yếu trong chiến lược đó.
Hệ thống trường Phổ thông Dân tộc nội trú, Trường Phổ thông Dân tộc
bán trú, Trường Dự bị đại học cho con em dân tộc được thành lập; Các trường
được ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách; Nhà nước
58
thực hiện tuyển sinh vào đại học và trung học chuyên nghiệp theo chế độ cử
tuyển đối với con em dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn để đào tạo đội ngũ cán bộ cho vùng này. Điều đó thể hiện sự quan tâm
lớn của Nhà nước ta trong công tác tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số. Chính phủ đã có trên 28 văn bản (nghị quyết, nghị định,
quyết định, chỉ thị và công văn) đôn đốc thực hiện chế độ chính sách trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu số. Các Bộ ngành
(gồm có Bộ Giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính) đã có hơn 20 quyết định, chỉ
thị, thông tư dành riêng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
dân tộc thiểu số.
Hệ thống chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đã được
các Bộ, ngành liên quan cụ thể hóa cho phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, từng đối tượng cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói
riêng, đáp ứng kịp thời công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.
Tuy nhiên, từ chủ trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng của các ban, ngành từ Trung ương đến địa
phương còn là một khoảng cách khá xa. Một mặt, do hệ thống chính sách này
được duy trì quá lâu, chưa kịp thời đổi mới cùng với sự đổi mới chung của cả
nước, chậm được bổ sung điều chỉnh nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; mặt khác, việc triển
khai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ này của các cấp, các ngành chưa thành chương trình, kế hoạch cụ
thể để thực hiện có hiệu quả; chính sách chưa đề cập đến tính đặc thù trong
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, dù rằng từ trước tới
nay ở các văn bản mang tính pháp quy của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo có
thực hiện ưu tiên các dân tộc thiểu số, trong đó có việc cộng thêm điểm (hoặc
hạ thấp điểm chuẩn) tại các kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng
59
cho con em các dân tộc thiểu số và miền núi. Không thể phủ nhận tính tích
cực của chủ trương này là đã tạo được một đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số ngày càng đông đảo, nhưng thực tế cho thấy cách làm đó cũng phần nào
ảnh hưởng tới chất lượng của đội ngũ cán bộ sau này.
Nhìn chung các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói
chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng ở nước ta hiện nay về cơ bản
vẫn còn thiếu đồng bộ, nhất quán: có địa phương thì áp dụng chế độ chính
sách này, có địa phương thì áp dụng chế độ chính sách khác, kinh phí về đào
tạo, bồi dưỡng do Trung ương cấp chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu của địa
phương nên địa phương nào có nguồn thu ngân sách lớn thì chi cho đào tạo,
bồi dưỡng nhiều, còn địa phương nào có nguồn thu ngân sách ít thì chi cho
đào tạo, bồi dưỡng ít.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số tuy đã được
đẩy mạnh nhưng hiệu quả còn thấp, chất lượng chưa cao. Đào tạo chưa gắn
với quy hoạch, chưa chú ý đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh, thậm chí còn
mang tính tự phát, tràn lan; một bộ phận cán bộ tự thấy: "cần gì, học nấy" nên
dẫn đến tình trạng có những trường hợp cùng một thời điểm tham gia học cả
hai lớp. Trong chỉ đạo, nặng về bồi dưỡng, đào tạo tại chức nhiều hơn đào tạo
chính quy nhưng thiếu kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ một cách có hệ
thống. Chưa tích cực đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thấp, nhất là
chưa có chính sách chế độ riêng cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc
thiểu số (tính từ năm 1996 đến hết năm 2005). Nội dung, phương thức đào tạo
mới dừng lại ở việc đào tạo chung cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành.
Chưa chú trọng đến việc lập kế hoạch, chương trình đào tạo riêng cho đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở.
60
2.2.2. Thực chất, vai trò, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Từ những phân tích cụ thể về “tư duy lý luận”, “năng lực tư duy lý
luận”, “cán bộ dân tộc thiểu số” và “một số vấn đề về cán bộ người dân tộc
thiểu số hiện nay”, có thể nhận thấy:
- Năng lực tư duy lý luận được thể hiện ở khả năng nắm bắt được bản
chất, linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với
nhiệm vụ của người cán bộ dân tộc thiểu số; ở khả năng nắm bắt vấn đề,
nhiệm vụ thực tiễn của quốc gia cũng như các xu thế biến đổi của thế giới và
ở khả năng đề ra phương hướng tối ưu để giải quyết vấn đề, nhiệm vụ đó.
- Năng lực tư duy lý luận của người cán bộ dân tộc thiếu số có giá trị
định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ trước
những vấn đề sinh động của thực tiễn đất nước và nhiệm vụ chính trị được
đảm nhiệm.
- Nội dung của năng lực tư duy lý luận thể hiện trước hết ở năng lực
khám phá được những vấn đề mang tính bản chất, tìm ra mâu thuẫn, phát hiện
những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng các hình thức và
phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở cho việc giải quyết
những vấn đề thực tiễn.
- Năng lực tư duy lý luận thể hiện ở khả năng tư duy khoa học về
những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh
thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng sáng tạo trong sử
dụng các khái niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa,
khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, toàn diện,
hệ thống, phù hợp với tính quy định vốn có của hiện thực khách quan. Hơn
nữa, năng lực tư duy lý luận còn có khả năng vận dụng lý luận vào cuộc sống,
61
cụ thể hóa lý luận, dựa vào lý luận mà xây dựng các giải pháp, các phương án
giải quyết các vấn đề của thực tiễn một cách tối ưu.
Do đó, nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiếu số là quá trình tác động tích cực, chủ động, tự giác của các chủ thể
nhằm trang bị, bổ sung, bồi đắp những phẩm chất trí tuệ của chủ thể nhất định,
đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của sự vật,
hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh, nhạy bén, sáng tạo và có những
dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người.
Mục đích của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số là nhằm trang bị, bổ sung, bồi đắp những tri thức và
phương pháp tư duy khoa học để nâng cao hơn nữa khả năng, hiệu quả của
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Chủ thể của quá trình nâng cao là cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ
quan chức năng, đặc biệt bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là
chủ thể chủ yếu và trực tiếp nhất.
Nội dung cốt lõi của quá trình nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số là đảm bảo cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
được phát triển tri thức, văn hóa (trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận
chính trị…), khả năng thu nhận tri thức, khái quát hóa tri thức, phát triển tri
thức, vận dụng tri thức một cách đúng đắn và sáng tạo để phục vụ cho hoạt
động thực tiễn. Bên cạnh đó nâng cao hơn nữa thể lực, sức khỏe để đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Vậy, thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động
lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri
62
thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng
tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành
bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.
Có thể thấy, chủ thể của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là con
người cụ thể (ở đây là cán bộ người dân tộc thiểu số) và có mục đích rõ ràng;
năng lực tư duy lý luận là khả năng, là phẩm chất tâm sinh lý của con người,
là sự thống nhất biện chứng giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội tạo nên sức
mạnh trí tuệ ở con người. Nói cách khác, năng lực tư duy lý luận vừa mang
tính bẩm sinh, vừa là một sản phẩm của lịch sử - xã hội. Năng lực tư duy lý
luận là khả năng tích lũy vốn kiến thức, là phương pháp huy động nguồn tri
thức, là nghệ thuật sử dụng tri thức và là kỹ năng xử lý thông tin một cách
khoa học, hiệu quả. Chính vì thế năng lực tư duy lý luận phải được mài rũa
thường xuyên, phải thông qua hoạt động thực tiễn để biến những tri thức và
phương pháp tư duy thành phẩm chất trí tuệ và sức mạnh vốn có của chủ thể
tư duy, tạo ra sự nhạy bén, chính xác như một nghệ thuật trong suy nghĩ,
cũng như hành động.
Năng lực tư duy lý luận không hẳn chỉ là trình độ tri thức, học vấn của
mỗi người, nhưng cũng không tách rời trình độ tri thức, học vấn của mỗi
người. Trình độ tri thức, học vấn là nền tảng, là thành tố quan trọng và vô
cùng cần thiết để tạo nên năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận sẽ
được nâng cao khi và chỉ khi học vấn, tri thức được tích lũy càng nhiều. Do
đó, có thể xem năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của
chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của
sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh, nhạy bén, sáng tạo đối
với hiện thực. Từ đó có những dự báo, đề xuất thiết thực, sắc bén, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
63
Tiêu chí đánh giá cụ thể về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số gồm: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đề ra hoặc tham
mưu được những nghị quyết, chủ trương đúng đắn, kịp thời; khả năng vận
dụng linh hoạt, sáng tạo chị thị nghị quyết vào hoạt động thực tiễn; có năng
lực điều hành, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao;
có khả năng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn.
Vì vậy, vai trò việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở các nội dung sau:
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là tiền đề quan trọng giúp đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nhận thức sâu sắc về bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức
đúng đắn những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác, kiên định, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động.
Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa, hội
nhập và phát triển, hoạt động của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
thường xuyên phải va chạm với những vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa
mang tính thực tiễn, vô cùng khó khăn phức tạp thì việc kiên định lựa chọn lý
luận khoa học, đúng đắn để chỉ đạo hoạt động thực tiễn là vô cùng cần thiết
“…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [45, tr. 268].
Một mặt, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải tiếp thu, vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát
triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới.
Cho nên, họ phải hiểu rõ và nắm được thực chất bản chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước.
64
Mặt khác, theo Ph.Ăngghen năng lực tư duy lý luận chỉ là bẩm sinh
dưới dạng khả năng, muốn phát triển tư duy lý luận phải có điều kiện và sự
rèn luyện. Một trong những cách tốt nhất để rèn luyện năng lực tư duy lý
luận, đó chính là nghiên cứu triết học và lịch sử triết học. Đó là một trong
những bước để tiếp cận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một
cách sâu sắc nhất, tổng quan và khoa học của triết học nói chung và triết học
Mác - Lênin nói riêng. Trên cơ sở đó hình thành năng lực định hướng đúng
đắn và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của
người cán bộ dân tộc thiểu số. Nếu không nhận thức đúng đắn bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong mọi công việc sẽ kém hiệu
quả hơn. Hơn nữa, việc học tập nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhuần nhuyễn cả về phương pháp và nội dung lại góp phần nâng
cao chính năng lực tư duy lý luận của họ.
Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số không những nhận thức sâu sắc lý luận mà còn giúp họ triển
khai đường lối của Đảng, chính sách pháp luật cuả Nhà nước bằng cách cụ
thể hóa đường lối chung vào hoạt động thực tiễn của mình một cách hiệu
quả nhất. Nhận thức càng sâu sắc thì hành động càng đúng đắn, vì vậy, công
việc sẽ hiệu quả hơn. Do đó, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận đóng vai
trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị tích lũy các tri thức cho đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số; đồng thời còn giúp họ có khả năng tiếp thu có hiệu
quả những tri thức khoa học khác. Thực tế cũng chỉ ra rằng, nếu hiểu sai,
hiểu không đúng, nắm không chắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
thì cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng sẽ vấp phải
những sai lầm không đáng có trong hoạt động thực tiễn, dẫn tới cản trở, gây
65
ảnh hưởng xấu tới kết quả thực hiện những nhiệm vụ chính trị được tổ chức
và nhân dân giao phó.
Có hiểu biết sâu sắc bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước mới vận dụng được lý luận khoa học đó vào hoạt
động thực tiễn, đặc biệt khi đứng trước những vấn đề mới nảy sinh người cán
bộ không hoang mang, dao động, mới tự tin, bình tĩnh tìm cách giải quyết vấn
đề, nhằm phát triển tiềm lực ở địa phương mình, giải quyết tốt những nhiệm
vụ được giao. Đảng ta xác định rất rõ ràng: công cuộc đổi mới hiện nay phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Đổi mới không phải xa rời mà
là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về
hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn
trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong hành động. Vì vậy, kiên định
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn
đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ
công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số không chỉ tự nhận thức đúng đắn những vấn đề đã, đang diễn ra
đồng thời biết vận dụng sáng tạo lý luận trong việc đề ra những hoạt động
thực tiễn tiếp theo.
Nhờ được nâng cao năng lực tư duy lý luận, cán bộ người dân tộc thiểu
số mới có khả năng tự phát hiện bản chất vấn đề đã và đang diễn ra thông qua
nhiều hiện tượng phức tạp ngẫu nhiên, phát hiện ra những mối liên hệ mang
66
tính quy luật cũng như xu hướng và phương thức vận động biến đổi của các
sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội mang tích lịch sử. Từ đó
giúp đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có thể thâm nhập vào các sự vật
hiện tượng, phát hiện mâu thuẫn, tìm ra những vấn đề mới, những mâu thuẫn
mới nảy sinh trong hoạt động thực tiễn cần được giải quyết; giúp họ so sánh
để phân biệt cái giống và cái khác nhau, cái đúng, cái sai; giúp họ từ những
vấn đề riêng lẻ, khái quát tìm ra những đặc tính chung, những nguyên nhân cơ
bản, chủ yếu cũng như nắm bắt vấn đề trong tính chỉnh thể, hệ thống… Trên
cơ sở đó hoạt động chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của họ mới thiết thực,
hiệu quả.
Nhờ được nâng cao năng lực tư duy lý luận, người cán bộ dân tộc
thiểu số dù ở cương vị nào cũng có thể vận dụng một cách sáng tạo lý luận
vào thực tiễn địa phương một cách đúng đắn. Bởi nhiệm vụ chính trị của cán
bộ người dân tộc thiểu số ở mỗi địa phương khác nhau sẽ là khác nhau, mỗi vị
trí khác nhau sẽ là khác nhau do đó phải xuất phát từ thực tiễn địa phương, từ
đường lối của Đảng để xây dựng được các mục tiêu, mô hình, các chương
trình hành động cũng như các giải pháp cụ thể, thiết thực để thực hiện các
mục tiêu đã đề ra. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận giúp cán bộ người dân tộc thiểu số nâng cao tính nhạy
bén, phát hiện cái mới, dám nghĩ, dám làm cái khó, dám sáng tạo mô hình
riêng và tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số phát huy được năng lực xử lý thông tin, trên cơ sở đó đưa ra được
các quyết định đúng đắn, chính xác, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của thông tin và các phương tiện
truyền thông hiện đại đã có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến mọi khía
cạnh của đời sống xã hội. Ảnh hưởng tích cực là giúp con người có thể tìm
67
kiếm và tiếp cận với rất nhiều luồng thông tin, sự kiện, có thể trao đổi thông
tin, giao lưu học hỏi… Tuy nhiên, trong thời đại thông tin bùng nổ như hiện
nay, nếu không có phương pháp xử lý thông tin tốt thậm chí con người có thể
“chết ngập trong thông tin mà vẫn thiếu thông tin”. Do đó, điều qua trọng là
phải biết xử lý thông tin đúng đắn, kịp thời, chính xác để phục vụ cho công
tác, đồng thời biết định hướng thông tin cho cộng đồng.
Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số luôn biết cách phân tích, xử lý thông tin, kịp thời bổ sung, điều
chỉnh hoạt động cho phù hợp với thực tiễn địa phương hơn. Vì vậy, có thể
nói, nếu xử lý thông tin tốt sẽ góp phần quan trọng làm cho việc chỉ đạo thực
tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiệu quả hơn.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn.
Năng lực tổng kết thực tiễn được thể hiện ở khả năng nắm bắt vấn đề
thực tiễn cần tổng kết; khả năng phân tích, tổng hợp, chắt lọc những thông tin
cơ bản, chủ yếu của vấn đề, đúc rút bài học góp phần xây dựng đường lối, bổ
sung phát triển lý luận. Để đạt được những yêu cầu này cần phải có sự hỗ trợ
của năng lực tư duy lý luận. Bởi vì, năng lực đó giúp người cán bộ dân tộc
thiểu số có khả năng định hướng công tác tổng kết thực tiễn, biết sử dụng
những phương pháp tư duy khoa học để phát hiện kịp thời cái mới, cái tiến
bộ, tìm ra những mâu thuẫn phát sinh trong thực tiễn để xây dựng các phương
án khuyến khích, nâng đỡ cái mới tiến bộ, giải quyết mâu thuẫn một cách tối
ưu nhất. Hoạt động thực tiễn là quan trọng nhưng không phải cứ có nhiều
kinh nghiệm thực tiễn là khái quát được thành lý luận đúng. Đó mới chỉ là
điều kiện cần cho khái quát lý luận. Muốn khái quát kinh nghiệm thực tiễn
thành lý luận thì phải có lý luận, có năng lực tư duy lý luận.
Chỉ trên cơ sở lý luận khoa học và phương pháp tư duy biện chứng
duy vật, hoạt động tổng kết thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số mới
68
đảm bảo được tính khách quan, khoa học và tính mục đích đúng đắn. Tức là
bảo đảm cho những bài học, những kết luận rút ra mang tính lý luận khoa học,
có giá trị chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số nâng cao năng lực phê phán, đấu tranh với những cái sai, cái lạc
hậu, bảo thủ
Với sự phong phú, sinh động, đa dạng, phức tạp của hoạt động thực
tiễn, người cán bộ dân tộc thiểu số còn vấp phải nhiều vấn đề khó khăn gây
cản trở đến quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn như vấn đề lợi ích,
quyền lực chính trị, vấn đề dân tộc, tôn giáo… Để giải quyết những vấn đề đó
một cách hài hòa, khéo léo, hiệu quả thì phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
trên cơ sở lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khả năng
tư duy nhạy bén, tinh thần đấu tranh, phê phán không ngừng nghỉ… Chính vì
vậy việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số nhận thức được chân lý của vấn đề, biết vận dụng lý luận để phê phán
lý luận, biết vận dụng thực tiễn trong những điều kiện cụ thể của thực tiễn và
thực chất là tìm ra lẽ phải, dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai,
cái lạc hậu.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập
hợp cán bộ, quần chúng nhân dân để tạo thành phong trào cách mạng sâu rộng.
Phải khẳng định rằng, để thực hiện được nhiệm vụ chính trị được Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải
thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết
phục, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Để làm được điều đó, bên cạnh
những thuận lợi của mình như hiểu cơ sở, gần nhân dân, có uy tín nhất định
69
trong cộng đồng dân tộc của mình và cộng đồng dân tộc khác… đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số phải có đạo đức cách mạng trong sáng, liêm khiết,
chí công vô tư, có năng lực thuyết phục mọi người tin tưởng và tự giác hành
động theo. Năng lực công tác ấy sẽ được nâng cao nếu người cán bộ dân tộc
thiểu số nâng cao được năng lực tư duy lý luận của mình. Bởi lẽ, có năng lực
tư duy lý luận, cán bộ người dân tộc thiểu số mới hiểu sâu sắc vấn đề, biết
cách giải thích, thuyết phục quần chúng nhân dân hiểu đúng các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo được sự đồng
thuận của quần chúng nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của
đất nước, địa phương, đơn vị.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số nâng cao tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ, thử thách,
khó khăn trong quá trình nghiên cứu lý luận, hoạt động thực tiễn.
Như ta đã biết, người cán bộ dân tộc thiểu số để có thể thực hiện tốt
được nhiệm vụ của mình thì phải luôn nhận thức được đúng đắn những vấn đề
đã, đang diễn ra và phải dự báo được những vấn đề sẽ xảy đến; phải xử lý
được những thông tin đa chiều để đưa ra những quyết định đúng đắn; phải lăn
lộn với cơ sở để tổ chức động viên, thuyết phục cơ sở tạo thành phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân; phải thường xuyên tự trang bị tri thức
khoa học chuyên môn, nghiệp vụ, trang bị một hệ thống lý luận khoa học,
đúng đắn; đồng thời phải thực sự hiểu được bản chất khoa học, đúng đắn của
hệ thống lý luận đó. Từ đó mới vận dụng những tri thức khoa học vào hoạt
động thực tiễn và ngược lại mới suy xét, tổng kết những hoạt động thực tiễn
để soi vào và bổ sung cho lý luận.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận của mình,
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số dù luôn luôn cố gắng vẫn gặp phải
muôn vàn những khó khăn cản trở trong cả lý luận và thực tiễn như: nhiều
70
vấn đề về lý luận mà bản thân họ cũng như xã hội vẫn chưa thể trả lời được
một cách thấu đáo; chịu sự tác động của môi trường công tác, điều kiện kinh
tế xã hội; các vấn đề về chính sách thu hút, đãi ngộ dành cho cán bộ người
dân tộc thiểu số vẫn còn bất cập; sự tác động tiêu cực từ xu thế liên kết, hội
nhập và phát triển xã hội; sự hạn chế về khả năng ngôn ngữ; đặc biệt chịu ảnh
hưởng nhiều từ phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phong tục tập
quán dân tộc, vùng miền… Tất cả những yếu tố kể trên tác động rất mạnh đến
người cán bộ dân tộc thiểu số mà nếu như không vượt qua được sẽ ảnh hưởng
rất lớn tới những thành quả mà cả xã hội và chính họ dày công tạo dựng được.
Do đó việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp cho đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số tinh thần lạc quan trước những khó khăn gian khổ, có thêm
động lực mạnh mẽ để vượt qua những thử thách mà họ gặp phải và đặc biệt
họ sẽ tìm thấy niềm vui trong những gian khổ, chông gai bước đầu.
71
Kết luận chương 2
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận
thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang
tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động
và phát triển của thế giới khách quan. Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi,
vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc
hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý. Tư duy là quá trình sáng
tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những nhận thức
mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động
thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát
trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với
ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt
thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện
để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả
của nhận thức đó.
Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá
trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp
các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở
trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
tiễn của con người.
Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau.
ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao
thấp khác nhau. Năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều
kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối như bẩm
sinh, di truyền, môi trường xã hội, quá trình học tập rèn luyện, hoạt động thực
tiễn, nhu cầu, lợi ích…
72
Hiện nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được hình thành ở
khắp mọi miền của Tổ quốc. Họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành
và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động trước những
âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, trước những biến động
phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế; có đạo đức trong sáng, lối sống
lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc,
cố gắng vươn lên nắm bắt những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế mở cửa và hội nhập.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số có nhiều
hạn chế trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hạn chế
về năng lực vận động quần chúng. Những hạn chế đó là biểu hiện hạn chế về
năng lực tư duy lý luận. Để phát huy được những mặt mạnh, hạn chế những
yếu kém, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số hiện nay chính là làm cho đội ngũ này trở thành động
lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri
thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng
tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành
bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.
73
Chương 3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một số
đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay
3.1.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là tỉnh giàu truyền thống cách mạng. Trong kháng chiến,
nhân dân các dân tộc Tuyên Quang luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng: xây
dựng, chiến đấu, bảo vệ Thủ đô kháng chiến, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ
quan đầu não cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đóng góp sức người, sức
của trong suốt kháng chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng
nước ta. Lịch sử đã hun đúc nên những giá trị truyền thống quý báu của nhân
dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, đó là truyền thống yêu nước nồng nàn,
lòng căm thù giặc sâu sắc, đoàn kết một lòng, khắc phục khó khăn, vượt qua
thử thách, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng. Truyền thống Cách
mạng Tháng Tám quật khởi luôn là mạch nguồn bất tận, thấm sâu vào ý chí,
tình cảm của mọi người dân Tuyên Quang. Kế thừa những truyền thống tốt
đẹp đó, cán bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đang ra sức phấn đấu
xây dựng tỉnh Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với
truyền thống cách mạng hào hùng của miền đất đã vinh dự là Thủ đô Khu giải
phóng, Thủ đô Kháng chiến, tỉnh Anh hùng.
Về dân số và cư trú
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có vị trí địa lý
từ 21o30’ đến 22o41’ độ vĩ Bắc, từ 104o50’ đến 105o35’ độ kinh Đông. Phía
Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, vĩnh Phúc;
74
phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên; phía
Tây giáp tỉnh Yên Bái. Địa hình Tuyên Quang là miền chuyển tiếp từ địa hình
núi sang địa hình đồi, trong đó địa hình núi chiếm ưu thế, bị chia cắt bởi hệ
thống sông ngòi dày đặc, núi đồi trùng điệp thung lũng sâu. Vùng cao phía
Bắc có độ cao trung bình 600m so với mực nước biển, phía Nam của tỉnh là
vùng đồi núi thấp và các soi bãi rộng màu mỡ cùng các thung lũng lớn.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang là 5.780km2, trong đó vùng cao
chiếm 53% diện tích. Toàn tỉnh gồm có 6 huyện và 1 thành phố, với 141 xã,
phường, thị trấn; 2.096 thôn, bản, tổ nhân dân, trong đó có 761 thôn, bản đặc biệt
khó khăn, 32 xã vùng cao, 2 xã vùng sâu, vùng xa; dân số toàn tỉnh 746.669
người (năm 2013), thành thị 98.693 người, nông thôn 647.796 người; có 61 xã
đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu và 245 thôn, bản đặc biệt khó khăn ở các xã
khu vực I và khu vực II thuộc điện đầu tư Chương trình 135. Tỉnh có 22 dân tộc,
trong đó dân tộc kinh chiếm 46,27%, dân tộc Tày chiếm 25,56%, dân tộc Dao
chiếm 12,39%, dân tộc Sán Cháy 8,45%, còn lại là các dân tộc khác [5].
Đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sinh sống xen kẽ với
các dân tộc khác, chủ yếu ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng núi,
giao thông đi lại khó khăn; nhà ở chủ yếu làm bằng gỗ; mỗi dân tộc có những
đặc điểm riêng về phong tục, tập quán. Từng môi trường sinh sống đó đã ảnh
hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống cũng như phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội trong đồng bào.
Về kinh tế và đời sống
Kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang còn nhiều
khó khăn, sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, chỉ có một bộ phận người dân tộc
thiểu số cư trú lâu đời ở tỉnh Tuyên Quang như dân tộc Tày, Cao Lan, Sán
Dìu do khai phá được ruộng nước, có cuộc sống tương đối ổn định. Chăn nuôi
và ngành nghề thủ công kém phát triển, trình độ canh tác còn lạc hậu, năng
75
suất lao động thấp, sản xuất mang nặng tính tự cấp, tự túc, phụ thuộc vào
thiện nhiên. Những năm qua được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm triển
khai các chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình, dự án đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số đã khắc phục được
tình trạng du canh, du cư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển; cơ sở hạ tầng
được đầu tư; hệ thống chính trị được củng cố, đến nay 100% thôn, bản vùng
đồng bào dân tộc thiểu số có tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trình độ
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên; bộ mặt nông thôn miền
núi có nhiều đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần đồng bào các dân tộc
thiểu số ngày càng được cải thiện; an ninh chính trị được duy trì và giữ vững,
đồng bào các dân tộc tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước.
Về văn hóa - xã hội
Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang còn
thấp và không đồng đều, tỷ lệ người không biết chữ vẫn còn (theo kết quả
điều tra dân số ngày 1/4/2009 - còn 6%, chủ yếu là ở lứa tuổi già), nhưng đa
số người dân tộc thiểu số biết nói tiếng phổ thông (90% dân số). Việc phát
triển giáo dục trong vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế do giao thông đi lại
khó khăn, đa số học sinh dân tộc thiểu số chỉ học hết cấp I hoặc cấp II là bỏ
học, một phần do quá độ tuổi quy định; số theo học ở các trường Trung học
phổ thông, các trường Đại học, Cao đẳng chiếm tỷ lệ rất ít [5].
Các dân tộc thiểu số có ngôn ngữ riêng, theo các nhà nghiên cứu về văn
hóa, ngôn ngữ, tiếng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang được xếp vào 3
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, Mông - Dao, Hoa - Hán. Người dân tộc thiểu số
có kho tàng văn học nghệ thuật phong phú, nhiều thể loại như dân ca, truyện
cổ, phản ánh đầy đủ và phong phú cuộc sống của các dân tộc trong quan hệ xã
hội. Đặc biệt hát Then, hát Lượn, Sình ca, Páo dung, tiếng khèn, tiếng sáo,
76
đàn môi, kèn lá được người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sử dụng
trong cuộc sống thường ngày. Văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu
số ở tỉnh Tuyên Quang thường gắn với quá trình lao động, sản xuất, tập quán,
tín ngưỡng thường ngày của đồng bào dân tộc.
3.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Theo như khái niệm về cán bộ dân tộc thiểu số” hay “cán bộ người dân
tộc thiểu số” đã nêu ở mục 2.2.1 (Chương 2) có thể hiểu đội ngũ Cán bộ
người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay là những người công tác
trong các tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội ở 3 cấp (gồm cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) có thành phần
xuất thân từ các dân tộc thiểu số; có năng lực chuyên môn và trình độ công
tác nhất định phù hợp với vị trí và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và
nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục
vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
Từ khái niệm nêu trên có thể khái quát những đặc điểm cơ bản về đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay như sau:
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
công tác ở các cấp trong tỉnh (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), nhiều cán bộ
người dân tộc thiểu số đảm nhận những vị trí công tác trọng yếu trong hệ
thống chính trị của tỉnh.
Ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, tổng số cán bộ, công chức, viên chức
gồm có 20.762 cán bộ, trong đó cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc
thiểu số là: 7.739 cán bộ, chiếm 37,27% tổng số cán bộ, công chức, viên chức
trong toàn tỉnh.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đảm
nhiệm những vị trí công tác khác nhau trong hệ thống chính trị của tỉnh, trong
77
đó có nhiều cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số giữ vị trí
lãnh đạo chủ chốt.
Cấp tỉnh:
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy là người dân tộc
thiểu số: 08/14 người, chiếm 57,14% tổng số Thường vụ Tỉnh ủy
Cán bộ quản lý, lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội là người dân tộc
thiểu số: 06/13 người, chiếm 46,15% lãnh đạo tổ chức chính trị xã hội
Trưởng, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số:
01/02 người, chiếm 50,0%.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân dân, Ủy
viên Thường trực Hội đồng nhân dân là người dân tộc thiểu số: 03/08 người,
chiếm 37,50% tổng số Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân dân, Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân.
Các sở, ban, ngành (Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở và tương đương) là
người dân tộc thiểu số: 21/107 người, chiếm 19,62% tổng số Giám đốc, Phó
Giám đốc sở và tương đương.
Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương là người dân tộc
thiểu số: 128/562 người, chiếm 22,78% tổng số Trưởng phòng, Phó Trưởng
phòng và tương đương các sở, ban, ngành.
Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn
ngạch và vị trí việc làm 1.872/1.876 người, chiếm 99,78% tổng số cán bộ,
công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên
chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào
tạo, bồi dưỡng 04/1.876 người, chiếm 0,22% tổng số cán bộ, công chức, viên
chức là người dân tộc thiểu số
Cấp huyện (cấp trưởng, cấp phó):
Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy (Bí thư, Phó Bí
78
thư, Ủy viên Thường vụ, các tổ chức chính trị xã hội) là người dân tộc thiểu
số: 163/345 người, chiếm 47,25% tổng số Ủy viên Thường vụ Huyện ủy,
Thành ủy, Đảng ủy.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
huyện, thành phố là người dân tộc thiểu số: 19/40 người, chiếm 47,5% tổng
số Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố.
Trưởng, Phó Trưởng phòng và tương đương là người dân tộc thiểu số:
198/392 người, chiếm 50,51% tổng số Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và
tương đương.
Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn
ngạch và vị trí việc làm 4.375/4.415, người, chiếm 99,09% tổng số cán bộ,
công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên
chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào
tạo, bồi dưỡng 40/4.415 người, chiếm 0,91% tổng số cán bộ, công chức, viên
chức là người dân tộc thiểu số.
Cấp xã:
Bí thư, Phó Bí thư là người dân tộc thiểu số: 163/293 người, chiếm
55,63% tổng số Bí thư, Phó Bí thư các xã.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các xã là
người dân tộc thiểu số: 335/611 người, chiếm 54,82% tổng số Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các xã.
Trưởng, Phó các đoàn thể xã các xã là người dân tộc thiểu số:
217/1.217 người, chiếm 17,83% tổng số Trưởng, Phó các đoàn thể xã.
Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn
ngạch và vị trí việc làm: 1.340/1.448 người, chiếm 92,54% tổng số cán bộ,
công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên
79
chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào
tạo, bồi dưỡng: 108/1.448 người, chiếm 7,46% tổng số cán bộ, công chức,
viên chức là người dân tộc thiểu số. Qua số liệu trên, ta thấy: ở cấp xã: tỉnh
Tuyên Quang thuộc vào nhóm số tỉnh có tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số
trong hệ thống chính trị cấp xã tương đương hoặc gần tương đương với tỷ lệ
người dân tộc thiểu số trong dân cư. Việc có tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số
trong hệ thống chính trị cấp xã tương đương với tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số là
những trường hợp đặc biệt. “Điều đó thể hiện quá trình phấn đấu của các cấp
ủy đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân các dân tộc ở
địa phương; sự đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, thực hiện bình đẳng dân
tộc trên lĩnh vực đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số” [82].
Ở cấp huyện: Trong 15 tỉnh miền núi phía Bắc, chỉ duy nhất có tỉnh
Tuyên Quang đã xây dựng được đội ngũ dân tộc cấp huyện đạt tỷ lệ +8,2% so
với tỷ lệ dân tộc thiểu số trong cơ cấu dân cư của mình [82]. Điều đó chứng
tỏ cán bộ chủ chốt cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện
nay cũng đang chiếm vị trí khá cao trong hệ thống chính trị của cấp huyện
Ở cấp tỉnh: ở miền núi phía Bắc nước ta, sự thiếu hụt cán bộ dân tộc
thiểu số trong hệ thống chính trị cấp tỉnh là tình trạng phổ biến. Tuy nhiên,
Tuyên Quang là tỉnh không thuộc vào tình trạng thiếu cán bộ dân tộc thiểu số
cấp tỉnh. [82].
Như vậy, có thể thấy công tác cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang được quan tâm, đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác cán bộ dân tộc thiểu số, mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ người dân tộc thiểu số. Việc bố trí, sắp xếp cán bộ được thực hiện đúng quy trình, phù hợp với tình hình đội ngũ cán bộ của tỉnh, đặc điểm tình hình của địa phương và yêu cầu vị trí công tác, năng lực, sở trường của cán bộ; tạo điều kiện để cán bộ nói chung và cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng rèn luyện, trưởng thành nhanh chóng, toàn
80
diện hơn cả về năng lực, trình độ, tư duy, phương pháp công tác và kinh nghiệm thực tiễn.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay đa số đều được đào tạo, có năng lực và trình độ công tác cơ bản đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quan tâm chỉ đạo các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy, các cơ quan ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hang năm rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; cử cán bộ thuộc diện quy hoạch đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị - hành chính. Kết quả đến nay như sau:
Trình độ chuyên môn: Đào tạo 1.562 cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, (trong đó: sau đại học 88 người, đại học 451 người, cao đẳng 786 người, trung cấp 237 người).
Trình độ lý luận chính trị: Đào tạo, bồi dưỡng 482 cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, (trong đó: Cao cấp lý luận chính trị 43 người, trung cấp lý luận chính trị 439 người)
Trình độ quản lý nhà nước: Đào tạo, bồi dưỡng 808 cán bộ, công chức,
viên chức là người dân tộc thiểu số
Kỹ năng, nghiệp vụ khác: Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ 1.057
cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số
Đào tạo nước ngoài: Tổng số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập 58 người, (trong đó: đào tạo thạc sĩ 03 người, tham quan, học tập kinh nghiệm 55 người).
Có thể thấy trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao, góp phần giúp đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hoàn thành được nhiệm vụ được giao. Đối với các trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ là do bị kỷ luật và chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn (xem biểu 2).
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
hầu hết đều am hiểu phong tục tập quán của các dân tộc và có khả năng sử
dụng ngôn ngữ của dân tộc mình.
81
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay đa
số đều am hiểu phong tục tập quán của dân tộc mình và hiểu được phong tục
của dân tộc khác, cũng như họ có thể nói được tiếng của dân tộc mình và nói
được tiếng của dân tộc khác. Bởi lẽ, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là vận động quần chúng thực hiện các
nhiệm vụ chính trị chung của tỉnh. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
phải nắm bắt được những tâm tư nguyện vọng, hiểu được những đặc điểm
tâm lý, tập quán và trình độ của đồng bào các dân tộc để tập hợp, đoàn kết các
dân tộc anh em sống trên địa bàn, biết tuyên truyền, giải thích và hướng dẫn
đông đảo quần chúng nhân dân các dân tộc tuyệt đối tin tưởng và hăng hái,
tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương. Để thực hiện
được nhiệm vụ của mình, người cán bộ dân tộc thiểu số ngoài hiểu biết về
phong tục tập quán của dân tộc mình, ngoài nói được tiếng của dân tộc mình
phải luôn hướng đến đi sâu tìm hiểu về phong tục của dân tộc khác, học tiếng
nói của dân tộc khác để từ đó mới thực hiện được nhiệm vụ chính trị mà họ
được phân công đảm nhiệm.
Bên cạnh đó, tỉnh Tuyên Quang cũng thực hiện tốt chính sách dân tộc
nói chung cũng như thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc gắn với tình hình thực tiễn của tỉnh Tuyên Quang…
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đều thấm
nhuần truyền thống cách mạng của quê hương.
Tuyên Quang là một vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời
hàng vạn năm. Từ thời các vua Hùng dựng nước, Tuyên Quang đã là một
vùng đất quan trọng, là phên giậu của Nhà nước Văn Lang. Trải qua mấy
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Tuyên Quang luôn giữ một vị trí
trọng yếu trong sự phát triển chung của đất nước. Từ thời Lý, Trần, Lê, vùng
82
đất cổ Tuyên Quang luôn được các triều đình phong kiến coi trọng, xác lập,
xây dựng trở thành một đơn vị hành chính của đất nước.
Tuyên Quang còn là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, có 22
dân tộc cùng sinh sống. Toàn tỉnh hiện có hơn 500 di tích lịch sử, văn hóa, trong
đó có những di tích nổi tiếng như: Thành nhà Mạc; Khu di tích lịch sử Tân Trào;
Khu di tích Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tại xã Kim Bình,
huyện Chiêm Hoá… Tuyên Quang còn được biết đến với những lễ hội truyền
thống như: Lễ hội Lồng tông của dân tộc Tày ở huyện Chiêm Hoá; múa Nhảy
lửa của dân tộc Pà Thẻn, thôn Thượng Minh, xã Hồng Quang, huyện Lâm Bình;
Lễ hội Động Tiên và chợ quê ở xã Kim Phú, huyện Hàm Yên...
Rừng xanh Tuyên Quang bao la đã chở che cho cách mạng, lòng dân
Tuyên Quang luôn sắt son theo Đảng, theo cách mạng. Tuyên Quang đã hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, bảo vệ an toàn lãnh tụ và căn cứ đầu não của
cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tuyên
Quang đã đi vào lịch sử, là niềm tự hào của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và
đồng bào cả nước. Tuyên Quang là địa danh giàu truyền thống văn hóa và lịch
sử cách mạng, là Thủ đô Khu giải phóng, nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng đã
ở và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi; là Thủ đô
Kháng chiến, nơi Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhiều tên đất, tên người Tuyên
Quang gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, gắn liền với
những hình ảnh và kỷ niệm sâu đậm về Bác Hồ kính yêu đang được lưu giữ
và sống động trong lòng nhân dân cả nước.
Phát huy truyền thống vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh
Tuyên Quang nói chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu
số nói riêng luôn quyết tâm vượt mọi khó khăn, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, năng động sáng tạo, chung sức, đồng lòng, nỗ lực cố gắng xây dựng
83
quê hương cách mạng. Phấn đấu xây dựng và phát triển tỉnh Tuyên Quang
xứng đáng với truyền thống lịch sử, cách mạng, Thủ đô Khu giải phóng, Thủ
đô Kháng chiến. Mỗi cán bộ, đảng viên của tỉnh Tuyên Quang luôn thể hiện
trách nhiệm của mình, thêm tự hào, tự tin vững bước đi lên, thi đua thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI. Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XV phương châm phát triển “đoàn kết thống nhất, tập trung đột phá,
khai thác tiềm năng, phát triển bền vững”, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang luôn “Phát huy truyền thống quê hương cách mạng, tiếp
tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đổi mới mạnh
mẽ và vững chắc, phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển khá
trong các tỉnh miền núi phía Bắc”.
Trước những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thấm nhuần truyền thống
cách mạng của quê hương, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gần gũi với
đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc, cố gắng vươn lên nắm
bắt những yêu cầu mới đặt ra; luôn kiên định theo con đường cách mạng mà
cha ông đã chọn, kiên định và tin tưởng đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, tin tưởng và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; luôn phát huy phẩm
chất cách mạng của người cán bộ đảng viên; trung thực, thật thà và thắng thắn
đấu tranh chống tiêu cực… phấn đấu thực hiện tốt những trọng trách, nhiệm
vụ được Đảng và nhân dân giao phó.
3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Qua một số đặc điểm về dân tộc thiểu số và đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có thể thấy đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đang ngày càng được trẻ hóa và có trình
84
độ mọi mặt từng bước được nâng lên rõ rệt. Cùng với nhân dân các dân tộc
trong tỉnh, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay là
lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia vào nhiều vị trí công tác quan trọng
trong hệ thống chính trị của tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp chỉ đạo quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, các cấp trong tỉnh.
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thể
hiện qua nhiều góc độ, trong đó được thể hiện qua việc tiếp thu, triển khai lý
luận khoa học, việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước; năng lực vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối đổi
mới của Đảng, từ đó đưa ra được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp với điều kiện địa phương; năng lực tổng kết thực tiễn, rút ra những
bài học kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn tiếp theo… Qua nghiên cứu, tìm
hiểu thực trạng, bước đầu có thể chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu về
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay như sau:
3.2.1. Ưu điểm năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có
nhiều ưu điểm về năng lực tư duy lý luận. Xét trên phương diện lý luận và
thực tiễn, có thể nêu ra một số ưu điểm chủ yếu về năng lực tư duy lý luận của
họ bao gồm:
Một là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang có
bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, dễ dàng vận dụng
được vào thực tiễn công tác của mình góp phần quan trọng trong quá trình
phát triển của tỉnh Tuyên Quang
Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay đã tác động không nhỏ tới
đất nước nói chung, tới tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Trước những khó khăn
85
phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước, trên thế giới và cả ở Việt Nam
đòi hỏi cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối đổi mới của Đảng. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
ở tỉnh Tuyên Quang đã từng bước đáp ứng yêu cầu này. Bản lĩnh chính trị của
cán bộ là điều kiện tiên quyết để phong trào cách mạng đi đúng hướng, nhất là
ở những thời điểm khó khăn phức tạp.
Đa số cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đều đã được
thử thách, rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn của đất nước và của tỉnh.
Trong quá trình ấy họ đã được giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp
của truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động; hơn thế nữa mảnh đất quê
hương Tuyên Quang đã được Đảng, Bác Hồ chọn làm Thủ đô khu giải phóng,
Thủ đô kháng chiến, chính sự tự hào vì được sinh ra, trưởng thành và cống
hiến trên quê hương cách mạng đã luôn thôi thúc họ phát huy thế mạnh của
quê hương và của bản thân để tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng.
Bên cạnh đó, họ lại nhận được nhiều sự ưu đãi, được đào tạo tương đối có hệ
thống, cho nên đội ngũ cán bộ này có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức
trách nhiệm cao, kiên định đường lối đổi mới và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó được nâng lên thành năng lực định hướng chính trị đúng đắn trong hoạt
động nhận thức và tổ chức thực tiễn trên địa bàn được phân công phụ trách.
Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số trong quá trình phát triển của tỉnh, nhằm khơi dậy thế mạnh của đội ngũ
cán bộ này, đồng thời để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng mới, đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được quan tâm chú trọng về mọi mặt. Đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có sự quan tâm về quy hoạch, bố trí luân
chuyển và sử dụng cán bộ, ưu đãi về chế độ chính sách, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn,
86
nghiệp vụ, lý luận, chính trị… Qua đó nâng cao trình độ nhận thức và năng
lực tư duy đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đổi mới của địa phương. “Các
cấp uỷ đảng đã quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng,
nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc quán triệt, học tập
các văn kiện của Đảng có bước đổi mới và hiệu quả hơn; cụ thể hoá và tổ
chức thực hiện sát hợp với tình hình thực tiễn và chức năng, nhiệm vụ của tổ
chức đảng, cơ quan, đơn vị. Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên được chú trọng” [4].
Trên cơ sở trình độ nhận thức và năng lực tư duy được nâng lên đã giúp
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có khả năng giải quyết, xử lý kịp thời
những tình huống mới do thực tiễn đặt ra. Đặc biệt là các vấn đề đòi hỏi tư duy
ở trình độ cao như mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế, giữa phát triển bền
vững với giải quyết tốt những vấn đề xã hội nảy sinh, giữa công bằng xã hội và
tiến bộ xã hội; đặc biệt là phải giải quyết những vấn đề xảy ra hàng ngày thuộc
lĩnh vực phụ trách như giải phóng mặt bằng, triển khai các dự án kinh tế xã hội,
phòng chống buôn lậu, phòng chống thiên tai dịch bệnh, bảo vệ môi trường, an
sinh xã hội, củng cố thế trận an ninh nhân dân, giải quyết các vấn đề phức tạp
nảy sinh từ vấn đề dân tộc, tôn giáo… Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao, do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thường xuyên
“nằm ở cơ sở”, “gần dân”, “hiểu dân” nên họ kịp thời nắm bắt được những khó
khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ và có những giải pháp kịp thời giải quyết
một cách khoa học, đúng chính sách, chế độ của nhà nước, hợp lòng dân, thấy
được những khó khăn, thuận lợi, từng nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng
trong tính tổng thể của quá trình phát triển, trên cơ sở đó mà đề ra được những
chương trình, kế hoạch, định hướng phấn đấu cho mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
của địa phương, mục tiêu lâu dài của tỉnh và đất nước.
87
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhờ có bản lĩnh chính trị vững
vàng và nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận khoa học vào thực tiễn
công tác của mình. Với tinh thần phát huy truyền thống quê hương cách
mạng, giữ vững đoàn kết, chủ động sáng tạo, bám sát mục tiêu, phương châm
phát triển; khắc phục khó khăn, khai thác tiềm năng, nguồn lực để tập trung
vào các lĩnh vực đột phá, các chương trình trọng tâm, đã giúp tỉnh Tuyên
Quang đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi
các chỉ tiêu quan trọng, đưa Tuyên Quang thoát ra khỏi tình trạng kém phát
triển “Năm 2013, tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 1.070 USD (đã hoàn
thành mục tiêu đưa Tuyên Quang thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển). Năm
2015, đạt 1.368 USD (mục tiêu Nghị quyết là 1.300 USD)” [4, tr.2]
Trong điều kiện khó khăn chung, kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng
khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây
dựng, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp (Công nghiệp - xây dựng: 38,2%; các
ngành dịch vụ: 37,1%; nông lâm nghiệp, thuỷ sản: 24,7%). Công nghiệp duy
trì tốc độ phát triển khá, hoàn thành xây dựng một số dự án công nghiệp có
quy mô lớn của tỉnh; các ngành dịch vụ có nhiều chuyển biến, du lịch bước
đầu khai thác tiềm năng để từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng;
nông, lâm nghiệp chuyển dịch khá mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá gắn
với xây dựng nông thôn mới, tiếp tục phát triển các vùng chuyên canh một số
cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bằng những chủ trương, giải pháp và
cơ chế chính sách phù hợp, đã huy động có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư
hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông và hoàn thành xây dựng một số
công trình quan trọng của tỉnh.
88
Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội tiếp tục phát
triển; quy mô hệ thống giáo dục và đào tạo được mở rộng đồng bộ từ mầm
non tới đại học, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. An sinh xã hội,
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm; các giá trị văn hoá
truyền thống được gìn giữ và phát huy, đời sống tinh thần của nhân dân được
cải thiện; giảm nghèo đạt được kết quả quan trọng. Hoàn thành tốt các nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên; phương thức lãnh đạo của Đảng bảo đảm nguyên tắc tập trung
dân chủ, đồng thời đổi mới theo hướng năng động, sáng tạo, tập trung, quyết
liệt, phân cấp hợp lý đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Xây
dựng chính quyền được chú trọng, tạo sự chuyển biến về hiệu quả quản lý,
điều hành. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, thiết thực
và hiệu quả hơn.
Hai là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, từ đó đưa ra được các chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa phương.
Trong những năm qua, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp; sau
giai đoạn khủng hoảng, kinh tế thế giới có phục hồi nhưng tốc độ tăng trưởng
còn chậm; bất ổn về chính trị, xung đột, tranh chấp chủ quyền xảy ra ở nhiều
nơi; thị trường và giá cả hàng hoá không ổn định. Những năm đầu nhiệm kỳ,
kinh tế trong nước suy giảm, lạm phát tăng cao, cả nước thực hiện chủ trương
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đã tác động
tới tiến độ thực hiện một số chương trình, dự án của tỉnh. Trong nửa cuối
nhiệm kỳ 2010 - 2015, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế,
89
tăng trưởng kinh tế trong nước có phục hồi nhưng còn chậm, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Bên cạnh đó, những căng thẳng, phức tạp
trên biển Đông đã ảnh hưởng tới hoà bình, ổn định và sự phát triển của đất
nước, tác động đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân
dân trong tỉnh.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
luôn quán triệt và nắm vững các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa và vận dụng vào tình hình của
địa phương để triển khai thực hiện. Nhìn chung họ đã đã biết huy động kiến
thức vốn có của mình để nhìn nhận thực tiễn, đưa ra phương thức, cách thức
nhằm giải quyết một cách tốt nhất những vấn đề nảy sinh ở đơn vị, lĩnh vực
mình phụ trách; họ đã thấy được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa
phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội; thấy được
nhiệm vụ của từng giai đoạn trong tính chỉnh thể của một quá trình phát triển,
gắn sự phát triển của tỉnh với khu vực và cả nước. Sự liên kết trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội giữa các huyện, thành phố trong tỉnh và sự liên kết
giữa các tỉnh trong phạm vi cả nước. Trên cương vị chức trách nhiệm vụ được
giao, dù là cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã, họ đã cùng Đảng bộ, nhân dân các
dân tộc xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều
kiện ở địa phương với những chỉ tiêu và hệ thống giải pháp cụ thể, đồng bộ
nhằm đạt được chỉ tiêu đó.
Với quyết tâm chính trị cao, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền
thống quê hương cách mạng, đoàn kết nhất trí, vận dụng sáng tạo các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn
diện các lĩnh vực, tập trung 4 lĩnh vực đột phá, một số chương trình trọng
tâm, chủ động khai thác tiềm năng, nguồn lực, đạt được thành tựu toàn diện
90
trên các lĩnh vực, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chủ yếu do Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra. Cụ thể trên các lĩnh vực đột phá như:
Về đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông
Tích cực huy động nguồn lực hoàn thành xây dựng một số cầu lớn; cải
tạo, nâng cấp các tuyến quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị; cơ
bản hoàn thành mục tiêu nhựa hoá, bê tông hoá các tuyến đường từ trung tâm
huyện đến trung tâm các xã, tạo chuyển biến rõ nét trong mạng lưới giao
thông, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Với chủ trương, giải pháp sáng tạo và cơ chế chính sách phù hợp, tạo
sự đồng thuận của nhân dân, đã huy động các nguồn lực để thực hiện có hiệu
quả Đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn theo phương thức "Nhà
nước và nhân dân cùng làm", kết quả đạt trên 2.420 km đường giao thông
nông thôn, vượt kế hoạch đề ra, hoàn thành sớm so với mục tiêu của cả nhiệm
kỳ, tạo ra diện mạo mới ở khu vực nông thôn, sự chuyển biến rõ nét về sản
xuất và đời sống của nhân dân.
Công tác quy hoạch xây dựng được quan tâm, trọng tâm là quy hoạch
thành phố Tuyên Quang theo hướng xây dựng và phát triển thành đô thị loại I;
điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thị trấn huyện lỵ Na Hang, quy hoạch
trung tâm huyện lỵ Lâm Bình; triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng vùng
tỉnh, chương trình phát triển đô thị đến năm 2020...
Hoàn thành xây dựng Tượng đài “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc tỉnh
Tuyên Quang”, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quảng trường Nguyễn Tất
Thành. Quan tâm xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hoá,
chỉnh trang đô thị thành phố Tuyên Quang; từng bước xây dựng trung tâm
huyện Yên Sơn, huyện Lâm Bình và hạ tầng đô thị ở các huyện.
Xây dựng, sửa chữa một số công trình đập đầu mối, kè bờ sông và một
số công trình thủy lợi thiết yếu, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất.
91
Trên cơ sở quy hoạch, đã phát triển hệ thống điện, chú trọng thực hiện cấp
điện cho các thôn, bản vùng sâu, vùng xa chưa có điện.
Về phát duy trì và đẩy mạnh tốc độ phát triển triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá
Thực hiện đồng bộ giải pháp phát triển công nghiệp, tập trung vào công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, chế biến
sâu khoáng sản. Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành một số dự án công nghiệp
quan trọng với quy mô lớn, tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp cao, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo sự gắn kết giữa nhà máy chế biến và
vùng nguyên liệu.
Chủ động có giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là về nguyên liệu và
các yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm, một số sản phẩm công
nghiệp đạt sản lượng khá cao, giá trị sản xuất công nghiệp đạt mục tiêu Nghị
quyết đề ra. Coi trọng phát triển thủ công nghiệp, một số mô hình tiểu thủ
công nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động.
Về phát triển du lịch
Thực hiện các giải pháp phát triển du lịch, tập trung vào các khu, điểm
du lịch theo quy hoạch; chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch;
tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác phát
triển du lịch, chỉ tiêu thu hút khách du lịch vượt mục tiêu đề ra.
Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả công tác giáo dục
và đào tạo
Giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo
dục trung học cơ sở, chất lượng từng bước được nâng lên. Tập trung nguồn
lực, huy động sự tham gia của các cấp, các ngành và nhân dân, hoàn thành
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi trước 2 năm so với kế hoạch.
92
Quy mô, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được đầu tư, chú trọng xây
dựng trường chuẩn quốc gia, hoàn thiện hệ thống trường dân tộc nội trú, tạo
điều kiện học tập cho con em các dân tộc trong tỉnh. Đã quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng, nâng tỷ lệ chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Quản
lý giáo dục có bước đổi mới, quan tâm công tác khuyến học, khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập, chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên.
Thành lập Trường Đại học Tân Trào, hoàn thiện đầy đủ các cấp học,
tạo bước phát triển mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh; tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung đội ngũ cán bộ, giảng viên, ban hành chính
sách thu hút giảng viên, sinh viên, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu,
ứng dụng khoa học. Từng bước đổi mới hoạt động đào tạo của các trường cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề. Thực hiện chính sách
thu hút và hỗ trợ cán bộ đi đào tạo đạt kết quả bước đầu, góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.
Kết quả trên là minh chứng sống động cho sự đúng đắn của đường lối
đổi mới của Đảng và sự cụ thể hóa đường lối ấy một cách sáng tạo của đội
ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói
riêng. Điều đó còn có nghĩa là đội ngũ cán bộ này có năng lực tư duy lý luận
ở trình độ nhất định.
Ba là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay hầu hết đều có
thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang về cơ bản
đều trưởng thành qua phong trào hoạt động thực tiễn do họ được “Quan tâm
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số” [4, tr.12].
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
trực tiếp nắm giữ các cương vị công tác từ tỉnh đến cơ sở, hầu như đã trải qua
93
nhiều cương vị công tác từ cơ sở đến cấp tỉnh bởi thế họ đắm mình trong
phong trào quần chúng, gần gũi với nhân dân, hiểu rõ tâm tư tình cảm,
nguyện vọng của nhân dân, đặc điểm thực tế của từng địa bàn; đặc biệt do là
người dân tộc thiểu số, biết được tiếng của dân tộc mình và dân tộc khác nên
khi hoạt động tại cơ sở họ dễ dàng thâm nhập được vào cơ sở, hiểu được
phong tục tập quán và dễ dàng sống hòa đồng với cuộc sống của nhân dân
vùng dân tộc thiểu số.
Do tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú, đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã tạo khả năng phát hiện
những vấn đề và các giải pháp giải quyết vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đặc biệt
là những giải pháp mang tính chất tình huống. Họ có khả năng vận dụng
những kinh nghiệm được rút ra từ chính hoạt động của mình. Những điều đó
phản ánh trình độ, năng lực tư duy kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang; nó có giá trị nhất định trong hoạt động của
họ và trong việc phát triển năng lực tư duy lý luận. Đây là ưu điểm, là cơ sở
để đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có được những chủ trương, chính
sách phù hợp với thực tiễn địa phương.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang thường xuyên trau dồi,
nâng cao trình độ về mọi mặt, thường xuyên vận dụng sáng tạo những đường
lối, chính sách tại cơ sở; đồng thời phải thường xuyên tổng kết để rút ra
những kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn tiếp theo đã giúp cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số không những càng ngày càng tăng thêm vốn kinh
nghiệm thực tiễn và đó cũng chính là cơ sở để nâng cao năng lực tư duy lý
luận của họ.
Bốn là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từng bước đấu tranh, phê
phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ
94
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, của tỉnh, đội ngũ
cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng
luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng trong thực hiện các
nhiệm vụ chính trị được giao phó. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn
thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết và nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, khắc phục,
chữa những khuyết điểm, yếu kém, nhất là những vấn đề nổi cộm, gây bức
xúc trong nhân dân. Duy trì nền nếp việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh gắn với thường xuyên tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan,
đơn vị. Nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên nhất là người đứng
đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị; đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xây dựng hệ thống
chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ. Công tác thanh tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được
thực hiện toàn diện, tạo chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán
bộ, đảng viên và nhân dân; kịp thời điều tra, xử lý nghiêm các tổ chức, cá
nhân sai phạm. Chủ động ngăn chặn âm mưu, hoạt động của các thế lực thù
địch và những phức tạp nảy sinh ngay từ cơ sở; bảo vệ an toàn các sự kiện
chính trị, các mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng. Công tác bảo đảm an ninh
trên các lĩnh vực được tăng cường; kịp thời thực hiện giải pháp đấu tranh,
ngăn chặn các hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo. Tập trung phòng, chống
tội phạm, tệ nạn xã hội, tỷ lệ điều tra, phá án được nâng lên. Thực hiện có
hiệu quả các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tai nạn giao thông
có xu hướng giảm.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
95
Đảng hiện nay” được các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị,
trong đó không thể không kể đến đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tổ
chức triển khai một cách sâu rộng, nghiêm túc. Đã thẳng thắn chỉ ra những
khuyết điểm, yếu kém để khắc phục, sửa chữa, tập trung một số việc nổi cộm,
gây bức xúc trong nhân dân. Trong đó, toàn tỉnh đã khắc phục, sửa chữa
3.824/4.297 việc (Ban Thường vụ Tỉnh ủy 12/13 việc; ban thường vụ cấp uỷ
huyện và tương đương, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh 392/428
việc; cấp cơ sở 3.420/3.856 việc). Điều đó chứng tỏ và khẳng định đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang từng bước đấu tranh, phê phán
những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ là có
cơ sở rõ ràng.
Năm là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn xác định được khó
khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục,
thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng của tỉnh
Có thể thấy rằng những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã
hội ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có đóng góp một phần rất lớn từ đội ngũ cán
bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng. Điều đó cũng thể hiện
sự phấn đấu cao độ, ý thức vươn lên mạnh mẽ của đồng bào các dân tộc thiểu
số và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. Sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước, sự chuyển biến của hệ thống chính trị các cấp sẽ không
đạt kết quả nếu không phát huy được vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số. Thực tế đã chứng minh rằng nhân dân Tuyên Quang có tinh thần
đoàn kết, thấm đẫm truyền thống cách mạng và đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số cũng thể hiện được tinh thần đó. Do những điều kiện nhất định, người
dân tộc thiểu số phải cố gắng vượt qua những khó khăn, thiệt thòi; khi có cơ
hội, họ đã vươn lên mạnh mẽ, nhanh chóng vượt qua những thách thức để tận
96
dụng những thời cơ. Mặc dù xuất phát điểm là khó khăn, nhưng những gia
đình đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa vẫn cố gắng hết sức để
tạo điều kiện cho con em mình được học tập. Sau khi được học tập, nâng cao
trình độ, trở về địa phương công tác, trở thành người cán bộ trong hệ thống
chính trị của tỉnh, có được một vị trí nhất định đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số đã tự nhận thức được vị trí, vai trò của mình, đã tự chuyển biến nhận
thức để có những quyết sách, những hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế
của từng vùng, từng địa phương trong tỉnh.
Trưởng thành từ thực tiễn, đã trải qua những khó khăn thử thách, gian
nan, trên cương vị công tác của mình đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã
tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, vận động, tập hợp nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong tổ
chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; vận động đoàn viên,
hội viên và nhân dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân. Quan
tâm giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tay
nghề và ý thức kỷ luật của công nhân, người lao động, tăng năng suất lao
động, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát huy
nguồn lực, sự sáng tạo của nông dân để khai thác các tiềm năng, thế mạnh
trong nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức trên các lĩnh vực; tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ; khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là
người dân tộc thiểu số phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.
Thực hiện các giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
dân tộc, đồng bào có đạo; quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,
97
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh. Tăng cường nắm tình hình, xử
lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về dân tộc, tôn giáo. Củng cố tổ
chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo…
Nguyên nhân của những ưu điểm năng lực tư duy lý luận
Có được những mặt mạnh về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay là do nhiều nguyên
nhân khác nhau, tuy nhiên có thể kể đến những yếu tố như:
Trước hết, đó là sự nỗ lực, tự giác phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn
trong học tập và rèn luyện của bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Thứ hai, do có chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với
người dân tộc thiểu số cũng như sự vận dụng linh hoạt các chủ trương đó vào
điều kiện cụ thể của tỉnh Tuyên Quang - một tỉnh có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống.
Thứ ba, do Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Tuyên Quang thường
xuyên quan tâm và xác định đúng đắn tầm quan trọng của công tác dân tộc,
vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị.
Thứ tư, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên
Quang luôn phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống quê hương cách
mạng từ đó tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được phấn đấu, cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng của tỉnh.
Từ thực tiễn quá trình lãnh đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng, chính
quyền trong tỉnh, Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2010 - 2015, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh rút ra một số bài học kinh nghiệm có tính định hướng cho hệ
thống chính trị các cấp trong tỉnh như sau:
Một là, phát huy truyền thống quê hương cách mạng, giữ vững đoàn
kết thống nhất, bảo đảm dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trên cơ
sở các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
98
Hai là, xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, các lĩnh vực đột phá; đề ra
các chủ trương, giải pháp phù hợp, sát thực tế, tạo sự đồng thuận xã hội, huy
động sức mạnh tổng hợp, khơi dậy nguồn lực, phát huy sự năng động, sáng
tạo của các cấp, các ngành và nhân dân.
Ba là, coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
phát triển bền vững; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển các
lĩnh vực văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Bốn là, quyết tâm chính trị cao trong thực hiện nhiệm vụ; lãnh đạo,
chỉ đạo phải tập trung, quyết liệt, bảo đảm tính khoa học, nhạy bén, sáng tạo,
bám sát cơ sở, gắn với thực tiễn; phân cấp hợp lý, đi đôi với tăng cường kiểm
tra, giám sát.
Năm là, quan tâm xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, trong đó coi trọng công tác cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.
3.2.2. Hạn chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Nhìn chung, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cũng không phải là ngoại lệ.
Trong đó có thể nêu một số hạn chế và biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa vượt
qua được tư tưởng nặng về tập quán truyền thống
Cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đa số đều có truyền
thống văn hóa lâu đời, sự cố kết cộng đồng, dòng tộc cũng chính là một trong
những đặc trưng của người dân tộc thiểu số nói chung, của cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Chính môi trường sống đã tác
99
động một phần tới tâm lý, tình cảm, nhận thức của một bộ phận cán bộ người
dân tộc thiểu số. Do đó, sức ỳ của tư duy, của tập quán vẫn hiện hữu trong
hoạt động của cán bộ người dân tộc thiểu số. Đặc biệt là tư duy kinh nghiệm,
tính kế thừa. Đây chính là những đặc mang tính đặc thù vùng miền của cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. Tư tưởng này đã trở thành một
rào cản lớn trong hoạt động tư duy lý luận nói riêng và mọi hoạt động thực
tiễn của cán bộ người dân tộc thiểu số nói chung. Sự ảnh hưởng của tập quán,
truyền thống đã làm chậm hoặc ngăn cản sự tiếp thu sâu, đúng bản chất của tư
duy lý luận, đồng thời hạn chế khả năng nắm bắt thực tiễn của cán bộ lãnh
đạo nơi đây. Hệ lụy của điều này chính là sự thiếu hiểu biết về thực tiễn dẫn
tới không thể giải quyết được những vấn đề mới nảy sinh ở và không giải
quyết triệt để được những tồn tại xã hội của tỉnh Tuyên Quang.
Khi làm việc với chính những người dân tộc thiểu số chúng ta mới thấy
được bên cạnh tính thật thà, chất phát, chịu thương chịu khó thì họ có những
hạn chế nhất định về văn hóa, tập quán, lạc hậu so với sự phát triển chung của
xã hội; một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số được trưởng thành từ môi
trường khó khăn, cùng với trình độ dân trí chưa cao đã tạo nên những vết mòn
trong suy nghĩ, trong hành động. Do đó, họ chỉ nhìn được lợi ích trước mắt
hay những chỉ thị, nghị quyết mà Trung ương đề ra, để giải quyết mang tính
bề nổi, thành tích mà quên đi lợi ích lâu dài.
Tư tưởng nặng về tập quán, truyền thống có ảnh hưởng rất lớn tới mọi
quá trình phát triển chung của xã hội. Đặc biệt là trong công tác bố trí, sử
dụng cán bộ vẫn còn biểu hiện cục bộ địa phương, khép kín, né tránh, tình
trạng gia trưởng, tùy tiện, nặng về cơ cấu, hẹp hòi, định kiến vẫn còn biểu
hiện ở đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Rõ ràng, những điều kiện khách quan là hết sức quan trọng cho việc
phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Nhưng yếu tố chủ quan trong hoạt động
100
lãnh đạo, trong đó có năng lực tư duy lý luận của cán bộ người dân tộc thiểu
số có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc khơi dậy tiềm năng phát triển địa
phương. Tạo đòn bẩy cho sự phát triển của địa phương là nhờ những tri thức,
khối óc sáng tạo, linh hoạt và khoa học.
Hai là, một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số khi xử lý công việc
vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh nghiệm
thành lý luận
Tư duy kinh nghiệm có những ưu điểm là gắn trực tiếp với đối tượng
cụ thể, làm cơ sở cho tư duy lý luận, nhưng về trình độ phản ánh nó có những
hạn chế nhất định. Tư duy kinh nghiệm chỉ thích hợp với những công việc cụ
thể trong không gian và thời gian xác định. Đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đảm nhiệm nhiều vị trí công tác khác nhau, ở các
cấp, các ngành khác nhau. Cho nên chỉ bằng tư duy kinh nghiệm thì không
thể giải quyết được những trọng trách được giao, nhất là trong giai đoạn hiện
nay thực tiễn luôn luôn đổi thay từng ngày, từng giờ.
Tư duy kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang trước hết còn biểu hiện ở việc tiếp thu lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
một cách thụ động theo kiểu sao chép lại nội dung mà không hiểu thực chất
vấn đề để hình thành phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của mình. Còn hiện tượng cứ nghị quyết Trung ương nói tới vấn đề gì thì ở
địa phương cũng đề cập ngay đến vấn đề đó mà không tính đến đặc điểm
riêng của cơ quan, đơn vị, khu vực của mình. Bệnh giáo điều còn biểu hiện ở
chỗ học tập và vận dụng theo kiểu dập khuôn máy móc kinh nghiệm của
người khác, của địa phương khác mà chưa biết chắt lọc, kết hợp nhiều yếu tố,
nhiều mặt trong kinh nghiệm của nhiều người, nhiều địa phương để hình
thành mô hình mới, cách làm hay, thể nghiệm để hoàn chỉnh nó theo yêu cầu
101
thực tế của địa bàn, lĩnh vực mình phụ trách “Có chương trình, dự án còn chủ
quan, áp đặt, phương thức quản lý và quy mô chưa phù hợp, hiệu quả kinh tế
thấp”, “một số chủ trương phát triển kinh tế có việc thiếu tính khoa học, thực
tiễn, chủ quan, nóng vội, thực hiện hiệu quả không cao, lãng phí, gây bức xúc
cho nhân dân” [6].
Đặc biệt, việc hạn chế về tư duy lý luận, đề cao tư duy kinh nghiệm
dẫn đến chưa theo kịp với xu hướng phát triển chung của khu vực, đất nước
đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của toàn
tỉnh, biểu hiện qua “Quy mô kinh tế còn nhỏ; thu hút đầu tư vào một số
ngành công nghiệp, du lịch, dịch vụ chưa tương xứng với tiềm năng. Hệ
thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư nhưng chưa đồng bộ. Chất
lượng một số lĩnh vực văn hoá, xã hội còn thấp; đời sống của một bộ phận
nhân dân còn khó khăn. Có nơi vẫn còn tiềm ẩn sự phức tạp về an ninh, trật
tự an toàn xã hội. Năng lực lãnh đạo của một số tổ chức Đảng chưa đáp
ứng yêu cầu; quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực, địa bàn còn yếu; hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có việc còn
hình thức, hành chính hoá” [4, tr. 14- 15].
Cũng chính do nặng về kinh nghiệm, máy móc trong triển khai những
vấn đề mang tính lý luận, đặc biệt chưa chú ý đúng mức khâu tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn để rút ra những bài học cho hoạt động thực tiễn tiếp theo
nên chưa phát hiện ra những thuộc tính và những quy luật vận động, phát
triển của quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức. Do đó chưa đưa ra được
mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn tiếp theo. Hay nói cách khác là chưa tổng kết được những kinh nghiệm
thực tiễn, chưa tích lũy, bổ sung những tri thức từ hoạt động thực tiễn để làm
rõ thêm lý luận, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận.
102
Ba là, khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ
người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy bén,
chưa kịp thời
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, công tác dự báo, đánh
giá tình hình là một trong những yêu cầu hết sức cần thiết. Khả năng phân
tích và dự báo là một yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ các cấp hiện
nay. Yêu cầu của khả năng dự báo là cần phải đảm bảo các yếu tố: đúng lúc,
chính xác, chắc chắn, dễ hiểu và khả thi. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, đội ngũ cán bộ phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đưa ra các kết
quả phân tích và dự báo giúp cho các cấp lãnh đạo đề ra các quyết định mang
tính chiến lược về những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai của các mặt đời
sống chính trị, xã hội. Do đó, về nguyên tắc, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ
cán bộ phải có trình độ chuyên sâu, năng lực thực sự trong nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn, có kinh nghiệm trong từng lĩnh vực công tác và khả năng hiểu
biết rộng, đủ tầm mới có thể phân tích và dự báo đúng, trúng các vấn đề. Dự
báo là yêu cầu, tiêu chuẩn cơ bản, quan trọng đối với mỗi cán bộ.
Tuy nhiên, do hạn chế một số mặt, trong đó ít trau dồi lý luận, rèn
luyện khả năng tư duy khoa học, do bệnh chủ quan, một bộ phận cán bộ
người dân tộc thiểu số đã hạn chế về khả năng dự đoán, dự báo, đánh giá
không đúng, không chính xác tình hình cơ sở nên hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Biểu hiện ở các khía
cạnh như “…một số nơi quản lý địa bàn chưa chặt chẽ, có việc chưa nắm
chắc tình hình, xử lý những vấn đề nảy sinh không kịp thời; việc nắm bắt
tình hình các tầng lớp nhân dân có lúc chưa kịp thời; đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội có mặt còn chậm; vai trò giám sát, phản biện xã hội chưa rõ nét; một số
nội dung phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền hiệu
quả chưa cao” [4, tr. 10].
103
Từ những hạn chế nêu trên về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã trở thành những yếu tố tác
động gây ảnh hưởng không nhỏ tạo nên những hạn chế trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang, như:
Về phát triển kinh tế
Kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, cơ cấu nguồn thu và thu cân đối
trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ còn nhỏ so với nhu cầu chi; cải cách thủ tục hành
chính chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo môi trường thật sự thông thoáng, thuận
lợi cho người dân và doanh nghiệp. Phát triển nông, lâm nghiệp, dịch vụ, du
lịch chưa tương xứng với tiềm năng; tiến độ thực hiện một số công trình, dự
án còn chậm; doanh nghiệp còn khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; quản lý
địa bàn, quản lý tài nguyên, khoáng sản, kiểm soát ô nhiễm môi trường, vệ
sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế.
Về văn hóa - xã hội
Chất lượng giáo dục toàn diện có mặt còn hạn chế, cơ sở vật chất
tường học, trạm y tế còn thiếu, chưa được đầu tư đồng bộ; việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang có nơi chưa nghiêm; chất lượng
giảm nghèo ở một số nơi chưa vững chắc; chất lượng nguồn nhân lực chưa
đồng đều, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển; công tác đào tạo nghề hiệu quả
chưa cao, chưa gắn với các dự án phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu thị
trường lao động.
Về quốc phòng - an ninh, thanh tra - tư pháp, công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí
Công tác nắm và dự báo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội có lúc, có nơi chưa kịp thời; việc giải quyết một số vụ việc khiếu nại, tố cáo
và đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra, kiểm tra còn
chậm; tai nạn giao thông giảm chưa vững chắc; một số địa bàn còn tiềm ẩn
104
những phức tạp về an ninh tôn giáo; công tác chỉ đạo phòng, chống tham nhũng
ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả thấp.
Về công tác xây dựng Đảng
Việc tổ chức học tập, quán triệt các văn kiện của Đảng có nơi, có việc
chưa thật sự tốt; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện còn chậm, chưa
sát thực tế. Đấu tranh phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng, chất
lượng sinh hoạt đảng còn hạn chế. Công tác xây dựng tổ chức đảng và phát
triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước còn chậm và chất lượng
chưa cao.
Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
Quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế; cải cách hành
chính hiệu quả chưa cao. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt còn chậm; một số
nội dung phối hợp với chính quyền hiệu quả chưa cao.
Về công tác đối ngoại
Công tác vận động, thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả thấp; công tác
thông tin đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu; tiến độ thực hiện một số
chương trình, dự án đầu tư nước ngoài chưa đảm bảo kế hoạch.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém về năng lực tư
duy lý luận
Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang xuất phát từ những nguyên nhân chính
sau đây:
Một là, do là tỉnh miền núi với những điều kiện khó khăn về điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống, sinh hoạt và làm việc,
trình độ dân trí thấp đã ảnh hưởng đến sự phát triển và nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
105
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, bên cạnh
những thuận lợi nhất định cho quá trình phát triển của tỉnh thì cũng còn không
ít khó khăn như: Địa hình của tỉnh chủ yếu là đồi núi, giao thông đi lại còn
nhiều khó khăn, sự phát triển giữa các vùng trong tỉnh còn nhiều chênh lệch,
trình độ sản xuất, canh tác của nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa còn lạc
hậu, năng suất lao động thấp. Quy mô kinh tế của tỉnh còn nhỏ bé, năng lực
cạnh tranh thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ
- nông, lâm nghiệp còn chậm. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Trình độ
dân trí, đời sống của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn...
Những điều kiện khó khăn chung về kinh tế - xã hội của tỉnh đã tác
động không nhỏ tới đời sống, môi trường làm việc của đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ít có cơ hội va chạm, giao lưu
học hỏi, không có môi trường tốt để rèn luyện, thậm chí không có điều kiện
để vận dụng những kiến thức cơ bản có được sau khi được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng. Những điều kiện khó khăn về kinh tế - xã hội của tỉnh đã không
những tác động trực tiếp tới đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mà gián tiếp đã ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển và nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Đúng như chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ
“Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”.
Hai là, trình độ học vấn, trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ còn
hạn chế, đặc biệt là ý thức tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế đã ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực tư duy lý luận của họ.
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang từ tỉnh
đến cơ sở có chuyển biến tích cực về chất lượng; trình độ chuyên môn, lý luận
106
chính trị, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số được nâng lên, có
cơ cấu tương đối phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của tỉnh; hầu hết cán bộ
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn được phẩm
chất đạo đức, lối sống, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Điều đó là do đội ngũ cán bộ các cấp ở tỉnh Tuyên Quang được quan
tâm tạo điều kiện học tập để nâng cao trình độ học vấn, trình độ lý luận, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Bởi vì quá
trình đào tạo cán bộ còn chưa đồng bộ do chưa có chiến lược đào tạo cụ thể,
lâu dài, chủ yếu đào tạo cán bộ theo hướng thiếu gì học đấy, cần gì bổ sung
đấy và đào tạo chủ yếu bằng thực tiễn công tác. Chính vì thế trình độ học vấn,
trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ này còn nhiều hạn
chế, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Bên cạnh đó, những ảnh hưởng của lối suy nghĩ cũ, đề cao kinh nhiệm
hơn lý luận, lòng tin hơn lý trí đã cản trở, tác động không nhỏ tới việc đầu tư
cho học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ; đồng thời còn
tác động mạnh mẽ tới ý thức tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Ba là, những hạn chế, bất cập trong công tác quy hoạch, bố trí, sử
dụng, luân chuyển cán bộ người dân tộc thiểu số đã dẫn đến những hạn chế
nhất định trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ người dân
tộc thiểu số.
Mặc dù công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ đã
được các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành quan tâm. Việc đánh giá, sử
dụng cán bộ dân chủ, khách quan, đảm bảo đúng quy trình, phù hợp với tình
hình đội ngũ cán bộ của tỉnh, đặc điểm tình hình của địa phương và yêu cầu
107
của vị trí công tác. Tuy nhiên qua thực tế vẫn nhận thấy việc bố trí cán bộ
lãnh đạo là người dân tộc thiểu số ở một số ngành, địa phương còn hạn chế,
nặng về cơ cấu vùng miền, đặc biệt là bố trí cán bộ công chức ở cấp xã nhiều
nơi chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và chuyên môn được
đào tạo, chưa phù hợp với đặc điểm tình hình ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống. Một số cơ quan, đơn vị thực hiện công tác quy
hoạch cán bộ còn khép kín trong địa phương, đơn vị; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số còn thấp. Việc đánh giá, nhận xét cán bộ
trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số trước và sau luân chuyển còn
hạn chế. Một số cán bộ trẻ, cán bộ nữ được luân chuyển giữ chức vụ mới thời
gian còn ngắn và chưa hợp lý, phần nào ảnh hưởng tới thực hiện nhiệm vụ
của địa phương, đơn vị “Công tác quy hoạch cán bộ thiếu tính chiến lược, đặc
biệt là cấp huyện, cấp xã và một số cơ quan cấp tỉnh; chưa đảm bảo theo yêu
cầu, vẫn còn khép kín ở cơ quan, đơn vị; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít
người, cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch còn thấp, không có nhân tố nổi trội” [6].
Bốn là, cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu
số, đặc biệt trong việc cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Căn cứ vào quy chế, quy định của Trung ương, tỉnh Tuyên Quang đã
chủ động chỉ đạo cấp ủy các cấp, các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt các
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số
nói riêng; đồng thời trên cơ sở rà soát, đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ
để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp
ứng với yêu cầu, nhiệm vụ.
Tuy nhiên, chưa xây dựng được chính sách cụ thể về luân chuyển để
động viên, khuyến khích đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc
thiểu số. Chậm ban hành quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ đối với cán bộ
108
người dân tộc thiểu số, đặc biệt là chính sách thu hút cán bộ người dân tộc thiểu
số có trình độ, chuyên môn, có năng lực thu hút, vận động nhân dân về công tác
ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiếu số có nơi, có thời điểm
chưa gắn với quy hoạch và nhu cầu cán bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
việc cử cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng mới chỉ quan tâm đến số lượng,
chưa quan tâm đến cơ cấu, ngành nghề, chuyên môn được đào tạo; nội dung,
chương trình và phương pháp đào tạo còn chậm đổi mới, nhiều hạn chế.
109
Kết luận chương 3
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản lĩnh chính
trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn,
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, đưa ra
được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa
phương; từng bước đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo
thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn vượt qua khó khăn, thử thách, từng
bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp
cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của
tỉnh. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
vẫn còn biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn một bộ
phận cán bộ người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền
thống; khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng
kết được kinh nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của
một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin
còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời.
Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay xuất
phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính phổ biến mà
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có những nguyên
nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào người dân tộc thiểu số
sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung,
đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy được những ưu điểm, tích cực
110
và khắc phục được những yếu kém, hạn chế trong năng lực tư duy lý luận. Có
như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới đáp
ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
111
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay nói riêng là
nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, vừa thường xuyên vừa liên tục. Quá trình
ấy phải bám sát các quan điểm nhằm bảo đảm cho việc nâng cao năng lực tư
duy lý luận không tách rời thực tiễn; bảo đảm nâng cao năng lực tư duy lý
luận gắn liền với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng; đặc biệt phải
bảo đảm không tách rời với chính sách dân tộc và yếu tố bình đẳng, đoàn kết
dân tộc. Từ đó tạo ra sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và tình cảm cách
mạng; hình thành nên phong cách, năng lực hoạt động thực tiễn khoa học,
mềm dẻo và đúng đắn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Từ thực
trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang, xin đề cập một số quan điểm cơ bản mang tính định hướng
trong quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
Một là, cần có những quan niệm đúng về thực chất việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Ở một số ít
người hiện tại chỉ xem quá trình này như là kết quả tác động một chiều từ
phía Nhà nước mà không thấy được nó còn là kết quả của quá trình “phát
triển nội tại”, quá trình phát huy hết khả năng, năng lực của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số.
112
Chủ nghĩa Mác - Lênin, đã khẳng định, con người là sản phẩm của xã
hội, đồng thời con người cũng là chủ thể hoạt động, sáng tạo ra xã hội. Con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, muốn
đẩy mạnh động lực phát triển xã hội, nhất thiết nhân tố con người phải được
phát huy, điều đó cũng có nguồn lực con người phải được nâng lên qua mỗi
giai đoạn cách mạng. Vì vậy, đồng thời với sự tác động của cơ chế chính sách
của Đảng, Nhà nước thì tự bản thân đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải tự
giác phấn đấu nâng cao vai trò tích cực, nâng cao năng lực để đáp ứng yêu
cầu đổi mới của sự phát triển. Từ quan niệm nay, cần phải tạo ra những tác
nhân, những điều kiện thích hợp kích thích sự sáng tạo, sự vươn lên của đội
ngũ cán bộ này trước sự nghiệp đổi mới.
Hai là, nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh
Năng lực tư duy lý luận tuy bị chi phối bởi yếu tố bẩm sinh, di truyền
nhưng chủ yếu là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể. Do đó, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
lãnh đạo tỉnh phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ
đó. Mặc dù tư duy con người cũng có tính năng động, sáng tạo, có thể phản
ánh vượt trước tồn tại xã hội, nhưng về cơ bản, con người khó có thể phát
triển năng lực tư duy lý luận của mình trên một cơ sở kinh tế - xã hội với một
nền sản xuất nhỏ lạc hậu, chậm phát triển được. Cho nên, không thể nói đến
nâng cao năng lực tư duy cho cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số
nói riêng nếu không gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
113
Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện để cán bộ người dân tộc
thiểu số có điều kiện học tập, rèn luyện, phát triển nâng cao về mọi mặt một
cách có hệ thống. Mặt khác, kinh tế - xã hội phát triển đặt người cán bộ
người dân tộc thiểu số trước yêu cầu phải nắm chắc thực tiễn đang phát
triển, đòi hỏi cần phải vận dụng lý luận vào điều kiện cụ thể của thực tiễn
như thế nào cho đúng hướng. Chính qua sự tác động hai chiều đó mà đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số mới có cơ hội trau dồi, rèn luyện phát triển
năng lực tư duy lý luận của mình.
Kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện để nâng cao dân trí cho cán
bộ và nhân dân. Khi đời sống được nâng lên, con người sẽ có điều kiện phát
triển cả về thể chất và trí tuệ. Như thế, kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện
khách quan để phát triển, hoàn thiện cơ sở sinh học của tư duy, tạo tiền đề cho
việc phát triển năng lực trí tuệ, tư duy của chủ thể. Nếu nhân dân toàn tỉnh
được nâng lên về trình độ học vấn thì đó là cơ sở để cán bộ lãnh đạo người
dân tộc thiểu số trong tỉnh nâng năng lực tư duy lý luận lên.
Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho công tác
tuyên truyền giáo dục tư tưởng cho nhân dân. Bởi vì kinh tế phát triển, xã hội
ổn định đời sống của cán bộ, nhân dân được nâng lên thì đường lối, chủ
trương của Đảng sẽ được nhân dân tin tưởng và tự giác chấp hành.
Kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
sẽ thôi thúc người cán bộ người dân tộc thiểu số phải trau dồi nghiệp vụ
chuyên môn, tri thức quản lý, tri thức lý luận... Trên cơ sở đó sẽ từng bước
nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, những vấn đề do phát triển kinh tế
- xã hội đặt ra sẽ thử thách về năng lực trí tuệ và phẩm chất cách mạng của
đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng.
Khi gặp những vấn đề mới nảy sinh, buộc đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
114
số phải huy động cao nhất năng lực trí tuệ để giải quyết những vấn đề đó. Từ
việc giải quyết những vấn đề cụ thể mà năng lực trí tuệ, tư duy lý luận sẽ
thường xuyên được mài dũa và không ngừng được nâng cao.
Ba là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số phải kết hợp chặt chẽ với việc tăng cường rèn luyện đạo đức cách
mạng cho họ
Năng lực tư duy lý luận có vai trò to lớn đối với hoạt động lãnh đạo
của người cán bộ nói chung, đối với cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng.
Tuy nhiên, năng lực tư duy lý luận mới chỉ là một trong những phẩm chất mà
người cán bộ dân tộc thiểu số cần phải có. Những phẩm chất của người cán bộ
biểu hiện cụ thể ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực và rất phong phú, có thể khái
quát ở các vấn đề như: tri thức, năng lực trí tuệ, tình cảm, niềm tin, ý chí cách
mạng và khả năng hoạt động thực tiễn... Trong đó tình cảm, niềm tin, ý chí
cách mạng là động cơ thôi thúc bên trong khiến người ta biến những tri thức,
trí tuệ thành hành động thực tiễn. Như vậy, năng lực tư duy lý luận hiện diện
ở người cán bộ mới chỉ là khả năng, là tiền đề, nó có được phát huy hay
không và phát huy theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực phần lớn phụ
thuộc vào phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ. Do vậy, nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải gắn
liền với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho họ. Hồ Chủ tịch đã từng chỉ rõ:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
[46, tr. 252 - 253]. Trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng trong điều kiện
ngày nay phải tập trung vào việc bảo vệ, kiên trì và vận dụng sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,
của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; xây dựng động cơ hành
115
động vì lý tưởng cách mạng, vì sự nghiệp xây dựng một xã hội mới theo mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nếu không có đạo
đức cách mạng như vậy thì người cán bộ dù có năng lực tư duy lý luận cao
đến đâu chăng nữa cũng chỉ trở thành người nói mà không làm hoặc nói một
đằng làm một nẻo. Do đó thiết nghĩ việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng cũng cần
phải “nâng cao nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức trong việc tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên” [4, tr.31].
Trong điều kiện thông tin phát triển rộng khắp hiện nay, sự gương
mẫu trong đạo đức, lối sống của người cán bộ nói chung, cán bộ người dân
tộc thiểu số nói riêng có ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín lãnh đạo và hiệu
quả công việc. Bởi thế, giữ vững, phát huy đạo đức cách mạng trong sáng
trong sự kết hợp với nâng cao dần năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các địa
phương trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, góp phần thành công của sự nghiệp
đổi mới trên cả nước.
Bốn là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số phải đảm bảo với yếu tố bình đẳng, đoàn kết dân tộc.
Trong thực hiện chính sách ưu tiên đối với cán bộ dân tộc thiểu số, dù
muốn hay không chúng ta vẫn phải duy trì quan điểm ưu tiên đầu tư đặc biệt.
Thực hiện chính sách ưu tiên đối với cán bộ người dân tộc thiểu số chính là
góp phần thực hiện sự công bằng, bình đẳng trong quan hệ giữa các dân tộc.
Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc nêu rõ:
“Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở
vùng dân tộc; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp
116
tục thực hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học
tại các trường đại học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị đại học dân tộc ở khu
vực miền Trung, Tây nguyên. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên đào
tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số” [109, tr.38].
Đây là một nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài, đồng
thời là phương hướng chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác phát triển nguồn
cán bộ người dân tộc thiểu số trong quá trình đổi mới. Phương hướng đó
khẳng định rõ chủ trương thực hiện chính ưu tiên, phát triển nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số từ nay đến năm 2020. Chỉ có thể thực hiện nhất quán, đồng bộ
chính sách đó thì mới phát triển được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững
mạnh, tương xứng với yêu cầu, đáp ứng với nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng, trong quá trình nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chúng ta cũng cần chú
ý đến việc tạo cơ hội, điều kiện như nhau để các dân tộc cùng phát triển. Nên
tránh việc quá ưu tiên đối với dân tộc thiểu số mà coi nhẹ các dân tộc khác;
tránh vì ưu tiên đối với dân tộc thiểu số mà bỏ qua tiêu chí về chất lượng,
phẩm chất đạo đức, yêu cầu về kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ. Việc ưu tiên
và có những chính sách đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đặt
trong sự hài hòa và mang tính lịch sự cụ thể, có như vậy việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số mới đạt được
hiệu quả như mong muốn.
Năm là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số là một quá trình lâu dài, có những khó khăn nhất định.
Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là một quá trình lâu dài cho nên
cần nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về những thuận lợi, khó khăn, những
trở lực trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số. Trước thực trạng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, cần phải nhìn
117
nhận vấn đề đó trong tính hai mặt của vấn đề và cần có quan điểm lịch sử cụ
thể. Có vấn đề xuất hiện như một lẽ đương nhiên do khách quan quy định (ví
dụ, việc nâng cao điều kiện vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số đang bị giới hạn bởi khả năng của nền tài chính của địa phương, đơn
vị); mức lương và phụ cấp quá thấp. điều kiện đi lại, làm việc còn khó khăn;
có vấn đề bộc lộ ra sự bất hợp lý do nhận thức và cách thức hoạt động của con
người. Không thấy tính khách quan quy định; những nỗ lực giải quyết sẽ sa
vào không tưởng (ví dụ, tiêu chuẩn cán bộ: cần phải có sự nhìn nhận, giải
quyết linh động); không thấy hết khó khăn mặt chủ quan, tình trạng trì trệ sẽ
tiếp tục kéo dài và làm cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số không được hiện thực hóa hoặc sẽ vận động theo
chiều hướng không mong đợi. Chính vì vậy, nhận thức được việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đang cần được
tiếp tục và duy trì một cách ổn định và trên nhiều phương diện.
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Từ việc nghiên cứu thực trạng, chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế của
thực trạng đó, cũng như đưa ra một số quan điểm cơ bản nhằm nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
4.2.1. Không ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển
biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình độ dân trí cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số
Điều kiện Kinh tế - xã hội luôn luôn đóng vai trò là hạt nhân quyết định
hình thành, tồn tại và biến đổi về tinh thần, ý thức của con người. Sự thay đổi
118
của hoàn cảnh sống tất yếu sẽ dẫn đến biến đổi đời sống tinh thần của xã hội.
Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số cũng là một trong những kết quả cần đạt được trong việc không ngừng đẩy
mạnh phát triển Kinh tế - xã hội. Thành tựu đạt được của tiến trình không
ngừng đổi mới của thời gian qua chính là cơ sở, tiền đề quan trọng trong việc
tạo bước chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình độ dân trí
và khoa học kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, tạo điều kiện
thuận lợi cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thay đổi những cách nhìn, quan
niệm còn mang tính lỗi thời và không ngừng tự nâng cao trình độ, năng lực tư
duy lý luận cho bản thân.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh,
sự điều hành tập trung, quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả của Ủy ban nhân dân
tỉnh, trong đó tập trung vào 04 lĩnh vực đột phá mà Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV đề ra; sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, ngành, thành phần kinh
tế, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển, quốc phòng - an ninh
được đảm bảo, đời sống nhân dân ổn định; 21/21 chỉ tiêu đạt và vượt kế
hoạch. Các cấp, ngành từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn
diện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh
nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Kinh tế của tỉnh tiếp tục phát
triển, các chỉ tiêu cơ bản tăng khá so với các năm trước như giá trị sản xuất
công nghiệp, giá trị xuất khẩu hàng hóa, thu hút khách du lịch, thu ngân sách
trên địa bàn... Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng; nông lâm
nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, một số cây trồng
đạt hiệu quả kinh tế cao; các ngành dịch vụ phát triển ổn định. Hệ thống kết
cấu hạ tầng tiếp tục được chú trọng đầu tư, nhất là giao thông. Giáo dục, y tế
tiếp tục được quan tâm đầu tư, kịp thời triển khai thực hiện các chính sách xã
hội, hoạt động văn hóa, thông tin tuyên truyền diễn ra phong phú, tổ chức
119
nhiều lễ hội đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần thu hút khách du lịch;
lao động, việc làm tiếp tục có chuyển biến; công tác giảm nghèo, bảo đảm an
sinh xã hội được quan tâm. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, do khó khăn chung của nền kinh tế, hoạt động sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn, kinh tế phát triển chưa vững chắc, sản
lượng một số sản phẩm công nghiệp đạt thấp so với kế hoạch; tiến độ thực
hiện đầu tư một số dự án công nghiệp, xây dựng, giao thông còn chậm. Quản
lý nhà nước về hoạt động khoáng sản, lâm sản, đất đai và bảo đảm trật tự an
toàn giao thông còn hạn chế. Chất lượng giảm nghèo ở một số nơi chưa bền
vững, đời sống của một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh
còn diễn biến phức tạp, nhất là an ninh nông thôn, an ninh trong lĩnh vực
dân tộc, tôn giáo.
Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang trong những năm gần đây cho thấy định
hướng tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tích cực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy các tiềm
năng, lợi thế huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển để nhanh chóng và
đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên do
địa chính trị của tỉnh không mấy thuận lợi, nền tảng phát triển của tỉnh còn
thấp, phương thức sản xuất chưa phát triển nên việc triển khai, chọn lựa
những nội dung cụ thể để thực hiện cần phải thiết thực, có điểm nhấn, có
trọng tâm, trọng điểm. Chính vì vậy, để đưa nghị quyết đi vào thực tế, đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số phải căn cứ vào những đặc thù về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, bám sát quan điểm phát triển của tỉnh đã đề ra tại Nghị
quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVI; phải tích cực
hoạt động, chủ động trong khai thác các tiềm năng, thế mạnh của địa phương;
căn cứ vào vị trí, trách nhiệm của bản thân trong hệ thống chính trị của tỉnh để
thực hiện tốt những nhiệm vụ chính trị được giao. Trọng tâm là:
120
Thu hút đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp, tập trung vào một số
ngành có tiềm năng, lợi thế
Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng
thiết yếu các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch. Tiếp tục hoàn thiện và
thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính, nguồn nguyên
liệu và các điều kiện khác để thu hút nhà đầu tư phát triển các ngành công
nghiệp có tiềm năng, lợi thế.
Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản đồng bộ với
phát triển vùng nguyên liệu, gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích giữa nhà máy
chế biến với người sản xuất nguyên liệu. Phát huy công suất nhà máy sản xuất
bột giấy, giấy tráng phấn cao cấp; đầu tư nâng công suất, đa dạng hoá sản
phẩm của các nhà máy đường; đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả của các
nhà máy chè, chú trọng phát triển một số sản phẩm chè đặc sản.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; tháo gỡ
khó khăn, bảo đảm hiệu quả sản xuất của các nhà máy xi măng; quản lý chặt
chẽ hoạt động khai thác cát, sỏi; tiếp tục thu hút đầu tư dự án sản xuất gạch, cao
lanh - fenspat, đá xây dựng và một số vật liệu xây dựng có tiềm năng phát triển.
Nâng cao hiệu quả các nhà máy khoáng sản hiện có; trên cơ sở quy
hoạch, tiếp tục triển khai thăm dò, khai thác, đầu tư một số dự án công nghiệp
khoáng sản theo hướng chế biến sâu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và hạn chế
tác động tới môi trường.
Phát huy công suất của các nhà máy thủy điện hiện có; sớm hoàn thành
xây dựng các nhà máy thủy điện theo quy hoạch. Duy trì công suất các nhà
máy may mặc; tích cực thu hút đầu tư các dự án công nghiệp hỗ trợ, giầy da,
cơ khí, điện tử, dự án sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; khuyến khích
121
các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, tạo ra sản phẩm
có giá trị gia tăng cao.
Chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao
hiệu quả sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tăng
nhanh sản lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, nhất là một
số sản phẩm trọng điểm của tỉnh. Tăng cường hoạt động khuyến công, ưu tiên
hỗ trợ các dự án công nghiệp có thế mạnh của tỉnh, khuyến khích phát triển
tiểu thủ công nghiệp.
Phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá theo hướng nâng cao hiệu quả,
gắn với xây dựng nông thôn mới
Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất, chế biến,
tiêu thụ nông, lâm sản hàng hóa, từng bước hướng tới nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao. Tăng cường hợp tác, liên kết, gắn chặt việc phát triển các
vùng sản xuất hàng hoá với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Chú trọng xây dựng, quảng bá thương hiệu; mở rộng thị trường tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo
chuyển biến mạnh về năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản
xuất, tập trung đối với một số cây trồng có lợi thế. Ổn định diện tích đất trồng
lúa, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh.
Quy hoạch nguyên liệu mía với diện tích phù hợp và tăng cường thâm
canh, nâng cao năng suất để cung ứng nguyên liệu cho phát triển công nghiệp
mía đường của tỉnh. Rà soát, quy hoạch phát triển cây chè đáp ứng cho công
nghiệp chế biến; tăng cường thâm canh tăng năng suất chè; thay thế những
diện tích chè già cỗi, có năng suất thấp để trồng mới bằng các giống chè có
năng suất cao và trồng chè đặc sản ở nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp. Phát
triển vững chắc vùng cam sành theo quy hoạch; quản lý chặt chẽ việc sản
122
xuất, cung ứng, sử dụng cây giống; nghiên cứu tạo giống cam sành sạch bệnh,
có năng suất, giá trị cao; ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thu
hoạch, bảo quản, tiêu thụ và tiến tới chế biến sản phẩm từ cam sành. Ổn định
vùng trồng lạc tập trung, chỉ sử dụng giống lạc có năng suất, chất lượng cao.
Phát triển một số nông sản hàng hoá khác có hiệu quả kinh tế, gắn với nhu
cầu của thị trường.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hàng hóa, tạo sản phẩm có chất lượng, sức
cạnh tranh cao. Tổ chức chăn nuôi nông hộ với quy mô hợp lý, có kiểm soát, bảo
đảm an toàn sinh học. Tăng quy mô đàn lợn, gia cầm; phục hồi tốc độ tăng
trưởng đàn trâu, đàn bò; duy trì quy mô và nâng cao hiệu quả chăn nuôi đàn bò
sữa. Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm.
Phát triển thuỷ sản theo hướng nuôi thâm canh bằng các loài cao sản ở
ao, hồ; mở rộng diện tích nuôi thâm canh các loài cá đặc sản có giá trị kinh tế
cao gắn với nhu cầu của thị trường. Củng cố hệ thống sản xuất giống, trong
đó chú trọng nhân giống một số loài cá đặc sản bằng phương pháp nhân tạo.
Rà soát quy hoạch đất lâm nghiệp, quản lý và bảo vệ chặt chẽ rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ; trồng và khai thác hợp lý rừng sản xuất phục vụ công
nghiệp chế biến, ưu tiên cho sản xuất giấy và bột giấy; phát triển một số diện
tích rừng gỗ lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu. Chuyển đổi một số diện tích đất
lâm nghiệp, đất trồng cây ăn quả có hiệu quả thấp sang trồng các loại cây có
hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu thị trường. Quản lý chặt chẽ, ứng
dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn giống cây lâm nghiệp,
kết hợp với phương thức trồng thâm canh để nâng cao năng suất gỗ rừng trồng.
Rà soát, bổ sung các chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế. Ưu tiên nguồn lực đầu tư cho công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động
nông thôn; hỗ trợ phát triển các ngành nghề truyền thống, xây dựng sản phẩm
123
đặc trưng của các địa phương gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh cơ giới hóa,
ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản và chế biến
nông, lâm sản. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, sắp xếp, đổi mới các
doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, trọng tâm là nâng cao hiệu quả
hoạt động của các công ty lâm nghiệp, các doanh nghiệp chè; củng cố hoạt
động của hợp tác xã; khuyến khích hình thức sản xuất trang trại, gia trại, tích tụ
đất đai và các nguồn lực phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô phù hợp.
Đa dạng hoá các nguồn lực, trong đó chú ý phát huy nội lực của cộng
đồng dân cư để xây dựng nông thôn mới, thực hiện các tiêu chí bảo đảm vững
chắc, trọng tâm là phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.
Tiếp tục thực hiện dự án điều chỉnh quy hoạch tổng thể di dân tái định cư
thuỷ điện Tuyên Quang, bảo đảm ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho
các hộ tái định cư. Rà soát để sắp xếp ổn định dân cư, di chuyển các hộ dân ở
vùng nguy hiểm do thiên tai, khu vực có ít điều kiện phát triển, vùng rừng đặc
dụng, phòng hộ xung yếu đến định cư tại nơi an toàn, có điều kiện phát triển
tốt. Ưu tiên hỗ trợ ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho các hộ dân phải
di chuyển, tái định cư để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội.
Phát huy tiềm năng, đẩy mạnh phát triển du lịch để trở thành ngành
kinh tế quan trọng của tỉnh
Thực hiện có hiệu quả giải pháp thu hút đầu tư phát triển du lịch; đẩy
nhanh tiến độ quy hoạch chi tiết các khu du lịch và quy hoạch phân khu chức
năng các điểm du lịch; quy hoạch và xây dựng Khu du lịch lịch sử, văn hóa và
sinh thái Tân Trào thành Khu du lịch Quốc gia; tập trung phát triển du lịch
khu vực thành phố Tuyên Quang, Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm, Khu du
lịch sinh thái Na Hang...
124
Khai thác tốt loại hình du lịch lịch sử, văn hoá, nghỉ dưỡng, sinh thái, tâm
linh. Bảo tồn, tôn tạo phát huy các di tích lịch sử, giá trị văn hóa truyền thống; tổ
chức tốt các lễ hội văn hoá để thu hút du khách; xây dựng thương hiệu Lễ hội
Thành Tuyên; xây dựng làng văn hóa dân tộc gắn với các điểm du lịch.
Tổ chức có hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch;
tăng cường liên kết, hợp tác trong nước và nước ngoài; đa dạng hoá loại
hình du lịch, kết nối tua du lịch liên tỉnh và quốc tế, nhất là với các trung
tâm du lịch lớn.
Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch; thu
hút nhà đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch, xây dựng cơ sở lưu trú, khu nghỉ
dưỡng, sân golf… Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích phát triển các sản phẩm
hàng lưu niệm phục vụ du khách. Từng bước đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực ngành du lịch bảo đảm đáp ứng yêu cầu.
Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ; thực hiện tốt nhiệm vụ tài
chính, tín dụng; tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
Phát triển mạnh các công trình hạ tầng thương mại, nhất là các siêu thị,
trung tâm thương mại tại thành phố Tuyên Quang, khu công nghiệp, chợ
trung tâm các huyện; phát triển các chợ nông thôn tại những nơi phù hợp. Đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và
xây dựng, quảng bá thương hiệu một số sản phẩm chủ lực của tỉnh. Mở rộng
thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chính sách
hỗ trợ thị trường trong nước.
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ vận tải đồng thời nâng cao hơn nữa chất
lượng của dịch vụ vận tải; mở rộng các tuyến vận tải, khuyến khích tăng
phương tiện vận tải; xã hội hoá đầu tư bến xe khách, điểm đỗ, cảng sông, dịch
vụ vận tải công cộng. Mở rộng phát triển dịch vụ bưu chính, viễn thông; ứng
125
dụng công nghệ thông tin với công nghệ hiện đại, cung cấp các dịch vụ đa
phương tiện có chất lượng cao.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thành mục tiêu thu ngân sách.
Huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính gắn với định
hướng phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên cho các chương trình trọng tâm, xây
dựng các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh và quan tâm thực hiện các
chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế tự chủ đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập; tăng cường trách nhiệm trong quản lý ngân sách, đi đôi
với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán.
Thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh; ưu tiên vốn cho vay đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, công
nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Thực
hiện tốt chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng
chính sách xã hội.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực, nhất là
trong sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp; chú trọng ứng dụng công nghệ
sinh học, cơ giới hóa các vùng chuyên canh; đổi mới công nghệ sản xuất, thu
hoạch, bảo quản và chế biến sản phẩm các cây trồng, vật nuôi có lợi thế của
tỉnh. Triển khai các đề tài, dự án khoa học có trọng tâm, nâng cao năng lực
tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ.
Tiếp tục huy động có hiệu quả các nguồn lực đầu tư nâng cao chất
lượng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị
Rà soát, bổ sung quy hoạch và huy động các nguồn lực đầu tư phát
triển hệ thống giao thông. Phối hợp đầu tư xây dựng đường cao tốc nối thành
phố Tuyên Quang với đường cao tốc Lào Cai - Hải Phòng; tích cực đề nghị
Trung ương đầu tư tuyến đường sắt Thái Nguyên - Tuyên Quang - Yên Bái;
126
phối hợp cải tạo, nâng cấp các tuyến quốc lộ, đường Hồ Chí Minh. Triển khai
xây dựng một số cầu lớn; cải tạo, nâng cấp các tuyến đường tỉnh và các tuyến
đường đô thị, đường huyện. Tiếp tục thực hiện nhựa hóa hoặc bê tông hóa
đường giao thông nông thôn với quy mô, chính sách phù hợp. Phối hợp với
các tỉnh đầu tư cải tạo tuyến vận tải đường thủy trên sông Lô. Triển khai xây
dựng một số bến cảng sông, bến xe khách, trạm nghỉ, điểm đỗ.
Trên cơ sở quy hoạch, tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng và phát
triển thành phố Tuyên Quang để phấn đấu đạt tiêu chí đô thị loại II, hướng tới
đạt tiêu chí đô thị loại I. Từng bước xây dựng và phát triển hệ thống các đô
thị, tập trung một số đô thị động lực; triển khai nâng cấp thị trấn Na Hang trở
thành thị xã; xây dựng và phát triển thị trấn Sơn Dương đạt đô thị loại IV; tiếp
tục xây dựng hạ tầng trung tâm huyện Yên Sơn, huyện Lâm Bình và chỉnh
trang đô thị ở các huyện.
Căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, triển khai
điều chỉnh địa giới, thành lập các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đáp
ứng yêu cầu phát triển.
Rà soát, bổ sung các quy hoạch chuyên ngành làm cơ sở cho đầu tư hệ
thống hạ tầng kỹ thuật. Tiếp tục quan tâm đầu tư các công trình hạ tầng kinh
tế - xã hội ở vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn trên địa bàn tỉnh.
Huy động các nguồn lực triển khai xây dựng Khu liên hợp thể thao; tiếp
tục đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi theo quy hoạch, tập trung nâng cấp một
số công trình hồ chứa, cứng hóa một số tuyến đê xung yếu, hoàn thành xây
dựng kè bờ sông qua các đô thị, khu đông dân cư. Cải tạo, nâng cấp hệ thống
điện; triển khai thực hiện Dự án cấp điện nông thôn đến năm 2020, ưu tiên
cho các thôn, bản vùng sâu, vùng xa chưa có điện. Tiếp tục đầu tư nâng cấp,
xây dựng mới các công trình thoát nước đô thị, hệ thống cấp nước sinh hoạt,
127
chú trọng đối với vùng sâu, vùng xa, khu đông dân cư. Từng bước hiện đại
hóa hệ thống hạ tầng viễn thông, thông tin, dịch vụ và các công trình hạ tầng
kinh tế - xã hội khác.
Đẩy mạnh liên kết, hợp tác đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế,
tăng cường hoạt động đối ngoại
Tăng cường hợp tác, liên kết trong phát triển kinh tế- xã hội, trong đó
chú trọng nâng cao hiệu quả liên kết vùng để khai thác tiềm năng phát triển
công nghiệp, nông lâm nghiệp, dịch vụ, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng... Cải
thiện môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng; đổi mới và nâng cao hiệu quả
công tác vận động, thu hút đầu tư; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo
điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư triển khai các chương trình, dự án.
Thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tăng cường định hướng
ngành nghề sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp để khai thác các tiềm
năng, thế mạnh và phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh; thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới
các doanh nghiệp nhà nước; củng cố, nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể;
khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao năng lực cho đội ngũ doanh nhân.
Tích cực, chủ động các hoạt động đối ngoại, đẩy mạnh quảng bá hình
ảnh của tỉnh; tăng cường hợp tác, thu hút nguồn lực từ nước ngoài để phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển
công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn, du lịch, dịch vụ... Nâng cao hiệu quả
quan hệ hợp tác hữu nghị với các tổ chức quốc tế, một số địa phương nước
ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư tại
tỉnh. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
128
Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, tích cực bảo vệ
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gắn với nhiệm vụ
điều tra cơ bản về đất đai. Bố trí nguồn lực, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản
hoàn thành công tác đo đạc, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu quản
lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh. Tiếp tục triển khai có hiệu quả quy hoạch khai
thác và sử dụng khoáng sản, quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch bảo vệ môi
trường, quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học... Xây dựng một số dự án xử lý rác
thải tập trung, xử lý nước thải đô thị; bảo đảm khu công nghiệp có hệ thống xử
lý nước thải; xử lý cơ bản các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; làm tốt việc thu
gom, xử lý rác thải nguy hại, rác thải rắn, nước thải y tế.
Xã hội hoá, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi
trường, bảo vệ đa dạng sinh học. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao
nhận thức cho cộng đồng về phát triển bền vững, chủ động thực hiện các giải
pháp ứng phó biến đổi khí hậu. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát về
quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Việc không ngừng đẩy mạnh phát triển Kinh tế - xã hội có vai trò to lớn
trong việc tạo bước chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình
độ dân trí cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Sự phát triển đồng thời
này tạo nên nền tảng, là điều kiện tiên quyết cho đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số khắc phục những yếu kém, tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận;
mặt khác, sự phát triển đồng bộ và toàn diện các nhân tố này cũng đặt ra
nhiều vấn đề mới cho chính đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số cần có
chiến lược, mục đích rõ ràng trong việc xác định những việc cần làm, biết
đánh giá, phân tích, nắm bắt được tình hình xã hội trong địa bàn quản lý… để
có phương hướng, biện pháp giải quyết kịp thời, tạo cơ sở nhận thức và hành
động phù hợp với nhu cầu khách quan thực tiễn, nhờ đó khắc phục được bệnh
129
kinh nghiệm, bảo thủ, chủ quan duy ý chí, tạo môi trường thuận lợi từng bước
nâng cao năng lực tư duy lý luận đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới đề ra.
4.2.2. Thường xuyên tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
được đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và nâng cao trình độ lý
luận chính trị
Cần phải xác định rằng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ là công tác
phát hiện được nguồn và tạo được nguồn có được tại địa phương. Đây là một
trong những nội dung quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng. Đối với
các khu vực có người dân tộc thiểu số là cán bộ thì họ là những người của địa
phương, là cán bộ nguồn tại chỗ, là người am hiểu phong tục tập quán, tâm lý,
ngôn ngữ của đồng bào dân tộc, cuộc sống gắn bó với họ hàng bà con làng
bản sẽ giúp họ có nhiều ưu thế trong việc tuyên truyền, thuyết phục, hoạt
động và tổ chức đồng bào thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, công việc tạo nguồn phải bắt đầu từ
việc nâng cao dân trí, tích cực xóa mù chữ, phổ cập giáo dục phổ thông, đầu
tư phát triển các trường dân tộc nội trú, mở rộng hệ cử tuyển con em các dân
tộc thiểu số vào học các trường dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học, các
trường Đảng, đoàn thể. Tạo nguồn càng rộng thì đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng càng chủ động và sẽ lựa chọn được những người có đức, có tài đảm
đương được các chức danh chủ chốt ở cơ sở.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế, xã hội, quản lý cán bộ theo hướng động viên, khuyến
khích mọi cán bộ, trong đó đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số chăm chỉ
học tập, rèn luyện, phương pháp tư duy khoa học trở thành tiêu chí đánh giá
cũng như sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, quy hoạch cán bộ. Nó trở thành phương
châm hành động và ý thức tự giác thực hiện của mỗi người và đồng thời phải
có cơ chế giám sát, khen thưởng, kỷ luật nghiêm túc và khoa học. Phát hiện
130
và bồi dưỡng kịp thời những nhân tố mới, cán bộ có trình độ, năng lực, khả
năng phát triển, ngăn ngừa cán bộ thoái hóa, biến chất, cơ hội làm trong sạch,
lành mạnh đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Để khắc phục được bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, chủ quan duy ý
chí, tư tưởng trông chờ, ỷ lại cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thì
phải nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó phải nâng cao năng lực tư duy lý
luận bằng nhiều phương pháp; quan trọng là phải có kế hoạch, lộ trình cụ thể
để đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số một cách
thường xuyên với nhiều hình thức cụ thể và luôn được đổi mới nội dung. Qua
đào tạo và bồi dưỡng, cần nâng cao những kiến thức cơ bản là phải xây dựng
cho họ có được phương pháp tư duy biện chứng duy vật.
Trong quá trình được đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
nâng cao trình độ lý luận chính trị, cán bộ được cử đi nói chung và cán bộ
người dân tộc thiểu số nói riêng sẽ có cơ hội được nắm chắc phần lý luận và
bám sát thực tiễn và chủ động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Việc thường
xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là một phương pháp căn bản để làm
sáng tỏ thêm lý luận, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, đảm bảo
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vì thế tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
giúp cho người được đi đào tạo, bổi dưỡng rút ngắn được khoảng cách giữa lý
luận và thực tiễn, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề cần được giải đáp, trên cơ sở
đó mà phát triển lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận. Tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn phải dựa trên trình độ lý luận nhất định, nhất là triết học
Mác - Lênin và các tri thức lý luận khoa học khác.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ, là khâu quan trọng, đòi hỏi phải
có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị.
Trước hết cần tăng cường vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng trong công tác
lập quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xét cử cán bộ đi học, thực hiện các
131
chính sách đối với ván bộ cử đi học. Trường Chính trị tỉnh là nơi trực tiếp đào
tạo các lớp trung cấp lý luận Chính trị - hành chính và phối hợp mở các lớp
quốc phòng cho cán bộ trong tỉnh. Vì vậy, trường phải chủ động phối hợp
chặt chẽ với các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị đào tạo lại cán bộ, đảm bảo chất
lượng trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh, huyện, xã theo chức
năng, nhiệm vụ. Phải tổng kết, đánh giá lại chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong thời gian qua, xây dựng kế hoạch chiến lược cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ trong giai đoạn tới. Để công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt chất lượng cao cần kịp thời nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên trường Chính trị tỉnh, giảng viên kiêm chức và trung
tâm bồi dưỡng chính trị các cấp. Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng, chính quyền từ tỉnh đến xã thường xuyên chăm lo đến công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Tiếp tục tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức giai đoạn 2011-2015 và kế hoạch hằng năm sát thực tế, trong đó tập
trung đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã;
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho công chức lãnh
đạo cấp phòng và cấp sở, cấp huyện, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức người dân tộc thiểu số. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã
xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn
2011-2015. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã lập kế hoạch cụ thể và cử
cán bộ đi đào tạo theo nhu cầu sử dụng. Ðặc biệt khi triển khai thực hiện Nghị
quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh đã xác định việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong bốn
khâu đột phá, cho nên công tác đào tạo cán bộ được quan tâm hơn. Từ đó đã
huy động mọi nguồn lực, tranh thủ các dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của Trung ương và tăng đầu tư ngân sách của tỉnh cho đào tạo, bồi
132
dưỡng cán bộ. Liên kết với các trường đại học mở các lớp đại học tại chức.
Những cán bộ đi học, ngoài việc thực hiện theo chế độ chung, tùy từng
chương trình học cụ thể, tỉnh hỗ trợ tiền ăn, nghỉ, đi lại, mua tài tiệu và được
thanh toán công tác phí như đi công tác.
Tiếp tục củng cố các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức của tỉnh; xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ năng lực trình độ giảng dạy.
Đầu tư cơ sở vật chất tốt nhất cho Trường Chính trị tỉnh, Trường Đại
học Tân Trào, Trường trung học Kinh tế - Kỹ thuật, Trung tâm Giáo dục
Thường xuyên - hướng nghiệp tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện,
thành phố.
4.2.3. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ, coi trọng các khâu
tuyển dụng, thu hút trong công tác cán bộ, trong đó đặc biệt quan tâm đến
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X chỉ ra rằng: Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của tổ
chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Xác định rõ trách
nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng
đầu trong công tác cán bộ. Có chính sách, quy chế, bố trí sử dụng đúng những
người có năng lực, năng động, sáng tạo, có tư tưởng đổi mới. Như vậy, công
tác cán bộ được đặt ra yêu cầu về mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện
công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Phải có quy chế cán bộ rõ ràng
đổi mới phương pháp và các khâu trong quá trình đánh giá cán bộ, phải cụ thể
hóa bằng cơ chế, chính sách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ…
Đổi mới quy trình công tác cán bộ từ khâu đánh giá cán bộ, quy hoạch
cán bộ, luân chuyển cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí và sử dụng cán
bộ. Đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, khâu khó nhất và là khâu yếu nhất. Do
133
đó, đòi hỏi người làm công tác tổ chức cán bộ phải dân chủ, công tâm, minh
bạch, phải có đủ “tâm”, “tầm”, trong công tác cán bộ. Công tác quy hoạch cán
bộ phải gắn với yêu cầu và nhiệm vụ chính trị, lấy quy hoạch cấp dưới làm
tiền đề cho quy hoạch cấp trên, thực hiện quy hoạch “mở” và “động”, quy
hoạch cho từng chức danh. Khắc phục bằng được tình trạng bị động, hẫng hụt
cán bộ, mất cân đối giữa các loại cán bộ, đảm bảo tiêu chuẩn cho mỗi loại cán
bộ, chú trọng tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, người
xuất thân từ công nhân.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải kịp thời, từng bước khắc phục tình
trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, thiếu khách quan; không công tâm, hẹp
hòi, định kiến; bố trí, sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng việc, kịp thời phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ “vì việc tìm người” chứ không phải “vì người tìm
việc”. Bố trí, sử dụng cán bộ dựa trên tiêu chuẩn năng lực và trình độ lý luận
là một giải pháp cơ bản tạo động lực thúc đẩy cán bộ nâng cao trình độ, tự
giác học tập, thường xuyên rèn luyện về mọi mặt. Vận dụng và đảm bảo các
chính sách đối với công tác cán bộ, khuyến khích phát hiện và sử dụng người
tài, người có năng lực, phẩm chất tốt, hiệu quả cao trong thực hiện các nhiệm
vụ chính trị tại địa phương, đơn vị.
Trong công tác quy hoạch cán bộ, việc xây dựng quy hoạch cán bộ phải
được thực hiện trên cơ sở quy hoạch nguồn cán bộ đã từng được quy hoạch,
phê duyệt chính xác danh sách nguồn cán bộ, rà soát, bổ sung thường xuyên
nguồn cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đánh giá và xem xét, kiên quyết đưa ra khỏi
nguồn quy hoạch những cán bộ không đảm bảo tiêu chuẩn. Quy hoạch cán bộ
phải gắn với đánh giá cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú
trọng đội ngũ cán bộ trẻ, đủ điều kiện có triển vọng phát triển; đào tạo cán bộ
phải gắn với tiêu chuẩn từng chức danh, tạo điều kiện khuyến khích cán bộ
học tại chức, tự học.
134
Việc bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ phải đảm bảo về tiêu chuẩn, có
quy hoạch rõ ràng, công khai, đúng quy trình trong công tác cán bộ. Mỗi
thời kỳ cách mạng khác nhau thì tiêu chuẩn cán bộ cũng sẽ thay đổi, phải có
sự phát triển và tính kế thừa. Do vậy, đánh giá cán bộ là khâu quan trọng đầu
tiên và là khâu khó nhất để từ đó lựa chọn, sắp xếp để đưa vào quy hoạch; từ
đó, bố trí, sắp xếp, sử dụng mới có hiệu quả. Phải chọn đúng người có phẩm
chất, có năng lực và uy tín; đúng việc là đúng sở trường; đúng lúc chính là
tạo thời cơ cho sự phát triển của cán bộ, không đúng lúc thì quy hoạch coi
như là “treo” không có giá trị. Rõ ràng, quy hoạch cán bộ gắn rất chặt, rất
hữu cơ với những khâu trọng yếu của công tác cán bộ, đó là khâu lựa chọn,
sắp xếp đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, không thể coi nhẹ hoặc
tuyết đối hóa khâu nào.
Về quản lý, kiểm tra, chính sách đối với cán bộ cần thực hiện tốt quy
định về phân cấp quản lý đối với cán bộ từ tỉnh cho đến huyện, xã; tăng
cường thẩm quyền và phân cấp mạnh cho các cấp rõ ràng, cụ thể về trách
nhiệm, quyền hạn của tập thể và cá nhân; nhằm cụ thể hóa các quan điểm,
nguyên tắc chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trước yêu cầu và
nhiệm vụ mới. Thực hiện mạnh mẽ hơn chủ trương phân cấp quản lý cán bộ
đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Xác
định trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng
đầu, khắc phục biểu hiện tiêu cực, cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, nể nang,
tùy tiện, đảm bảo công tâm, khách quan. Thực hiện đồng bộ các quy định,
quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, quy chế kiểm tra, giám
sát cán bộ, cơ chế chính sách cụ thể cho luân chuyển cán bộ và các quy định
khác về công tác cán bộ. Các cơ chế chính sách phải được tiến hành đồng bộ,
nghiêm túc, chặt chẽ, cụ thể tạo niềm tin phấn khởi tu dưỡng rèn luyện đạt
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ so với yêu cầu đề ra.
135
Tiếp tục đổi mới, bổ sung quy chế cán bộ, xây dựng các cơ chế, chính
sách phù hợp điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính
trị trong giai đoạn cách mạnh mới. Cụ thể hóa và tiêu chuẩn hóa các chức
danh cho các đối tượng cán bộ về phẩm chất đạo đức, trình độ lý luận chính
trị, năng lực chuyên môn, kiến thức, năng lực thực tiễn cho từng loại cán bộ ở
các chức danh, lĩnh vực, từng cấp cho phù hợp. Đổi mới phương pháp đánh
giá cán bộ lấy hiệu quả công tác quản lý và hoàn thành nhiệm vụ làm thước
đo năng lực, phẩm chất cán bộ. Khắc phục tình trạng biểu hiện lệch lạc, thiếu
công tâm, dân chủ, gia trưởng, cục bộ trong công tác đánh giá và quy hoạch
cán bộ. Nâng cao tinh thần phê bình, tự phê bình, tính chiến đấu, phát huy
tính năng động, sáng tạo trong hoạt động và lãnh đạo, quản lý, điều hành của
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay.
Thực hiện tốt quy chế cán bộ, các khâu trong quy trình công tác cán bộ
đảm bảo tính khách quan, toàn diện, chính xác. Việc bố trí, sử dụng, sắp xếp,
luân chuyển cán bộ chỉ thực sự có hiệu quả, mỗi khi thực hiện tốt công tác
quy hoạch hoạch cán bộ từ đánh giá cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sắp
xếp, sử dụng cán bộ. Cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện, có cơ chế hỗ trợ
bằng ngân sách nhà nước và các nguồn ngân sách khác của địa phương; trong
thời gian tới nhất thiết phải được chuẩn hóa đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, đại học chuyên ngành
và cao cấp lý luận chính trị. Có như vậy mới tạo tiền đề cơ sở cho sự tiếp thu
lý luận chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách về công tác cán
bộ trên cơ sở nguyên tắc, quan điểm của Đảng; phải xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ của một thời kỳ mới, hoàn thiện cơ chế chính sách cán bộ; phải
quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số để thu hút
họ trong công việc.
136
Đẩy mạnh công tác luân chuyển, bố trí, phân công nhiệm vụ cho đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với trình độ chuyên môn được đào
tạo, vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp gắn liền công tác đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng sau khi đào tạo, bồi dưỡng; mạnh dạn cất nhắc, đề bạt những
cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng vào các
cương vị quản lý chủ chốt.
4.2.4. Tiếp tục duy trì các chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số
Xét trong tổng thể các giải pháp, đây là một giải pháp quan trọng, bao
trùm nhất và là những đảm bảo về kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình phát
huy vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Xác lập cơ chế, chính
sách đồng bộ và hợp lý nhằm tạo động lực kích thích tính tích cực xã hội của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Trên phương diện cá thể, trong những
môi trường và điều kiện nhất định, mỗi cá nhân có thể phát huy tính tích cực
xã hội (bao gồm cả phẩm chất và năng lực) trong những lĩnh vực hoạt động
đặc thù, chủ yếu nhờ vào sự nỗ lực hoạt động thực tiễn và sự định hướng giá
trị - lợi ích đúng đắn. Song, trên phương diện xã hội, muốn tích cực hóa quá
trình phát huy vai trò của một nhóm xã hội nhất định cần phải tạo ra lực đẩy
từ cả hệ thống, từ chỉnh thể, thông qua việc xác lập hệ thống cơ chế, chính
sách đồng bộ, hợp lý. Như vậy, để phát huy hết vai trò của cán bộ người dân
tộc thiểu số thì phải biết tạo ra động lực kích thích tính tích cực xã hội, lòng
nhiệt tình cách mạng của đội ngũ này. Việc tạo ra động lực để thúc đẩy cán bộ
người dân tộc thiểu số là phải tạo ra động lực vật chất và động lực tinh thần.
Động lực vật chất: là những tác động của lợi ích vật chất nhằm giải
quyết những nhu cầu thiết yếu, đảm bảo đời sống và điều kiện làm việc của
người cán bộ. Hiện nay, đời sống và điều kiện làm việc của cán bộ nói chung
và cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.
137
Do vậy, trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh cụ thể, lợi ích vật chất đối với
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn phản ánh nhu cầu cơ bản và mang
tính cấp bách.
Đảng ta cho rằng, “phải đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh
thần” và coi đây là một chính sách lớn trong việc thể hiện sự đãi ngộ đối với
các cán bộ người dân tộc thiểu số. Tinh thần này được thể hiện rõ trong nghị
quyết Trung ương 3 (khóa VIII). Nghị quyết này nêu rõ: “đổi mới cơ bản
chính sách, đảm bảo lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là tiền
lương, nhà ở, phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ
bản trong thu nhập của cán bộ, đảm bảo tái sản xuất ra sức lao động”. Riêng
đối với cán bộ miền núi, người dân tộc thiểu số, Đảng ta chủ trương: “bổ sung
chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, khuyến khích cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, biên
giới, hải đảo”.
Động lực tinh thần là những lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần
của người cán bộ dân tộc thiểu số. Động lực tinh thần khi kết hợp với động
lực vật chất sẽ có sức thúc đẩy mạnh mẽ đối với quá trình phát huy vai trò của
người cán bộ.
Động lực tinh thần của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thể hiện ở lý
tưởng cách mạng mà họ tin theo và phục vụ; ở tình cảm, ý chí, niềm tin vào
Đảng, vào chế độ Xã hội chủ nghĩa; là lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của
người công dân, người cán bộ đối với quê hương, tổ quốc. Động lực tinh thần
trong đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn thường trực và tiềm ẩn sâu
xa trong họ. Hơn nữa, với đặc thù công việc và môi trường hoạt động gần
dân, tiếp xúc trực tiếp với dân, mọi hoạt động đều liên quan đến đời sống, của
cộng đồng, làng, bản… Đặc thù này góp phần tạo nên chiều sâu, độ bền vững
của những lý tưởng, tình cảm cách mạng, ý chí quyết tâm. Thực tế đã chứng
138
minh, vai trò của động lực tinh thần là rất quan trọng. Trong điều kiện, hoàn
cảnh kinh tế - xã hội đặc thù, trong nhiều trường hợp cụ thể, tác động của
động lực tinh thần tỏ ra ưu việt hơn với động lực vật chất; không hiếm trường
hợp động lực tinh thần còn có khả năng chuyển hóa, bù đắp cho những tác
động vật chất còn bị giới hạn bởi điều kiện khách quan.
Thực tiễn đổi mới đã cho thấy, Nhà nước và địa phương đã đóng góp
vai trò quyết định trong việc xác lập và hoàn thiện hệ động lực vật chất và
tinh thần để khuyến khích những người cán bộ vươn lên hoàn thành nhiệm vụ
và tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy vai trò của họ. Tuy nhiên, để có
những giải pháp cụ thể và có tính khả thi cao, cần phải có cơ chế phát huy
thích hợp thông qua việc cải tiến chế dộ tiền lương, phụ cấp, khen thưởng và
đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm khắc phục những
khó khăn trước mắt của người cán bộ dân tộc thiểu số, tạo môi trường xã hội
thuận lợi để cán bộ hoạt động. Hiện nay, đời sống của cán bộ người dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn, tiền lương và phụ cấp quá thấp, chưa tương
xứng với sức lao động mà họ bỏ ra. Ở nhiều cơ sở đã có quy chế “bất thành
văn”, điều chỉnh chế độ làm việc của cán bộ cơ sở, để họ có điều kiện tham
gia sản xuất cùng gia đình, nhằm đảm bảo nhu cầu, thiết yếu hàng ngày.
Đất nước ta còn nhiều khó khăn, đời sống vật chất của mọi tầng lớp
nhân dân còn đều vất vả, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa - nơi mà hoàn cảnh
khách quan còn nhiều hạn chế, bất lợi. Điều này, tất nhiên các cán bộ là người
dân tộc thiểu số đã nhận thức đúng đắn và phải san sẻ gánh nặng với toàn
Đảng, toàn dân. Song, không vì vậy mà không xem xét đến hoàn cảnh,
nguyện vọng và những khó khăn trong đời sống của đội ngũ cán bộ này. Mặc
dù, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, song chế độ tiền lương, phụ cấp,
chế độ khen thưởng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
139
cần phải có sự bổ sung, sửa đổi để làm sao đời sống vật chất để cho họ làm
việc tốt hơn, đó là yêu cầu cấp bách, là những việc “cần làm ngay”, không thể
trì hoãn với bất cứ lý do nào. Thực tế cho thấy, khi gia đình người cán bộ dân
tộc thiểu số có cuộc sống tương đối ổn định, đỡ thiếu thốn, họ mới có thể yên
tâm, phấn khởi trong công tác và kẻ xấu khó có cơ hội để lợi dụng, mua chuộc
họ bằng vật chất.
Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số có vai trò quan
trọng, nhằm tạo động lực cho quá trình phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ
này. Việc xây dựng chính sách đãi ngộ, phụ cấp khen thưởng, hỗ trợ cán bộ
một cách thích hợp, thỏa đáng, chẳng hạn như chính sách hỗ trợ về vốn để
phát triển kinh tế gia đình, chế độ phụ cấp đi học nâng cao trình độ lý luận,
chuyên môn; chính sách khám chữa bệnh, chế độ thông tin; chế độ hỗ trợ
phương tiện đi lại… Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các chế
độ đãi ngộ, như vậy sẽ giúp cho cán bộ người dân tộc thiểu số toàn tâm toàn ý
để làm việc và phát huy hết khả năng phục vụ cho địa phương.
4.2.5. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số trong việc tự phấn đấu, rèn luyện, nâng cao năng lực tư
duy lý luận
Lịch sử Triết học đã hình thành nên nhiều phương pháp tư duy khác
nhau. Cho đến nay, phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy
khoa học nhất, là công cụ sắc bén giúp cho con người nhân thức đúng đắn
hiện thực khách quan, đi sâu vào bản chất sự việc, phát hiện ra những quy luật
vận động nội tại và chiều hướng phát triển tất yếu của nó. Muốn nắm vững và
sử dụng thành thục nhiều phương pháp tư duy biện chứng duy vật có thể học
tập, rèn luyện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, học ở trường, học
trong hoạt động thực tiễn, trong việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn… Đó là
quá trình phải rèn luyện thường xuyên, liên tục và lâu dài với các phương
140
pháp học tập, nghiên cứu khoa học và sáng tạo. Phương pháp đó đòi hỏi khả
năng suy nghĩ độc lập, nêu vấn đề nghiên cứu, thảo luận, giải đáp, bày tỏ
được nhận thức của mình trước những vấn đề mới mẻ của lý luận và thực tiễn.
Phương pháp này kích thích được tính năng động, sáng tạo của tư duy lý luận,
ý thức tìm tòi cái mới, ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới tiến bộ phát triển.
Vì vậy, đòi hỏi cán bộ là người dân tộc thiểu số cần phải nắm chắc bản chất
của phương pháp này một cách sáng tạo và biện chứng. Vì vậy, khi học tập và
rèn luyện thì phải thể hiện tính nhất quán tinh thần biện chứng và sáng tạo.
Đồng thời, việc học tập, rèn luyện không thể tách rời việc tích lũy, bổ sung
các tri thức khoa học khác, cập nhập thông tin, xử lý thông tin, những thành
tựu của các ngành khoa học khác có liên quan tạo thêm cơ sở và tiền đề để tự
rèn luyện, học tập có phần hiệu quả.
Không ngừng học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận là vấn đề cốt lõi để nâng cao
hiệu quả công tác quản lý. Học tập nâng cao trình độ lý luận là vấn đề cơ bản,
cốt lõi nhưng chưa phải là duy nhất mà đồng thời với nó là phải từng bước tự
nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, cả hai nội dung trên quan hệ mật thiết,
quyết định, phụ thuộc lẫn nhau.
Quá trình hình thành tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận phải trở
thành phương châm học tập và rèn luyện của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số; học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn, chính nhờ phương
pháp nhận thức khoa học mà con người có khả năng xây dựng các phán đoán
đúng, sự lựa chọn phương án tối ưu và đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong
quá trình hoạt động thực tiễn, quá trình đó được diễn ra liên tục lặp đi lặp lại
theo hình xoáy trôn ốc một cách biện chứng. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, trước
tiên phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
141
Thực tiễn là cơ sở, là mục đích của nhận thức, của lý luận, lý luận được
đúc kết trở thành kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. Vì vậy, trong hoạt
động thực tiễn phải chống tư tưởng giáo điều, dập khuôn, lý luận, sách vở, lý
luận suông. Phải phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số trong việc học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực tư
duy lý luận. Bản thân mỗi cán bộ phải có kế hoạch học tập, tự học tập, tự rèn
luyện, tự trau dồi năng lực tư duy lý luận. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số phải vừa học vừa làm nên phải có cơ chế động viên, cổ vũ, khơi dậy
tình cảm, ý thức quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, vượt lên chiếm lĩnh tầm
cao trí thức mới của đội ngũ này. Phải có cơ chế, chính sách khuyến khích,
thúc đẩy, nêu cao tinh thần chủ động, tích cực, nhạy bén, sáng tạo trong học
tập cũng như trong hoạt động thực tiễn; đồng thời cũng phải có cơ chế “gây
áp lực” bắt buộc phải đạt chuẩn về trình độ lý luận nhất định đối với đội ngũ
cán bộ này trong đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch và luân chuyển cán bộ.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới đặt ra, cần tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý và chính sách đối với cán bộ theo hướng khuyến khích đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải thường xuyên phấn đấu và học tập, rèn
luyện không ngừng nâng cao đạo đức, phẩm chất cách mạng, trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật cao hơn.
Phải dứt khoát không bố trí, sử dụng hoặc đưa ra khỏi quy hoạch, không chấp
nhận cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn, lý luận cũng như phẩm chất
đạo đức yếu kém, không ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Phải chống
suy thoái về đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, lãng phí, làm ít nói nhiều.
Nhận thức sâu sắc, đầy đủ yêu cầu và nhiệm mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề, những yêu cầu
bức xúc do thực tiễn đặt ra. Nắm vững hệ thống quan điểm khoa học của chủ
142
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao tinh thần phê phán và tự
phê phán một cách khoa học, không thỏa mãn với kết quả đạt được. Vì vậy,
đòi hỏi người cán bộ phải có ý thức tự giác và phương pháp học tập khoa học,
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phải phát huy được tính chủ
động, rèn luyện để nâng cao năng lực, tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Tích cực chủ động học tập, nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
và những tri thức khoa học khác giúp cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số nâng cao khả năng nhận thức sâu sắc, đầy đủ, logic, từ đó có khả năng nắm
vững hệ thống những quan điểm cơ bản, chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, nó giúp đội ngũ cán bộ này nâng cao năng lực nhận thức và
hoạt động thực tiễn cũng như vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ
trương, pháp luật để đề ra những nghị quyết, chương trình, giải pháp phù hợp
để chỉ đạo sự phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện tốt ở địa phương
có hiệu quả nhất. Năng lực tư duy lý luận còn giúp cho cán bộ người dân tộc
thiểu số nâng cao khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, tìm ra
những nguyên nhân thành công và thất bại, đúc rút kinh nghiệm phục vụ trực
tiếp công tác quản lý.
Cần phải xác định việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là tiền đề, là
nền tảng tạo nên năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số. Do tầm quan trọng như vậy nên cán bộ người dân tộc thiểu số cần
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tự phấn đấu, rèn luyện,
nâng cao năng lực tư duy lý luận của mình.
143
Kết luận chương 4
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay thực chất là một quá trình tạo ra và vận
dụng những điều kiện khách quan và chủ quan để không ngừng nâng cao trình
độ, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần
phải xác định nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số là một quá trình liên tục, lâu dài, quá trình đó phải được đặt trong
tổng thể của sự nghiệp đổi mới ở địa phương với những phương hướng và
giải pháp cơ bản. Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cần đặt trong tổng thể
của quá trình củng cố kiện toàn và đổi mới nội dung trong các hoạt động quản
lý. Trong đội ngũ cán bộ tại tỉnh thì cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách trực tiếp quyền tham chính
của đồng bào và cũng là lực lượng tổ chức lãnh đạo điều hành phát triển kinh
tế - xã hội. Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang chỉ ra rằng nơi nào cán bộ người
dân tộc thiểu số năng động sáng tạo phát huy tốt mọi nguồn lực cho sự phát
triển thì ở đó đời sống đồng bào được cải thiện và ngược lại nơi nào không có
được cán bộ như vậy thì sẽ không phát huy được thế mạnh và nhiều khi còn
dẫn đến tình trạng lãng phí.
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là
làm cho đội ngũ này trở thành động lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.
Những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số xuất phát từ thực tiễn của địa
phương. Hệ thống các giải pháp đưa ra bước đầu mang tính cơ bản nhưng
trước hết là phải nhận thức được rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, những đặc thù hoạt động, đặc điểm, điều kiện sống và
thực trạng của năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này trên cơ sở “công tác
144
thực tế, kinh nghiệm thực tế” và quán triệt những quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Các giải pháp nêu trên chỉ có tính độc lập tương đối. Trên thực tế,
chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, muốn nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong điều
kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy vậy, để
thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân đội ngũ cán
bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn luyện không
ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một cơ chế
khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế, chính
sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn luyện,
phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang.
145
KẾT LUẬN
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận
thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang
tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động
và phát triển của sự vật hiện tượng và thế giới khách quan; là quá trình suy
nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc,
quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý; là quá
trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những
nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở
hoạt động thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh
khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn
liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được
diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là
phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát
triển kết quả của nhận thức đó.
Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá
trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp
các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở
trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
tiễn của con người. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại
hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp
độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của
lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác
nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các
điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.
146
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản lĩnh chính
trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn,
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, đưa ra
được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa
phương; từng bước đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo
thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn vượt qua khó khăn, thử thách, từng
bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp
cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của
tỉnh. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
vẫn còn biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn cán bộ
người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền thống; khi xử lý
công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh
nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận
cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy
bén, chưa kịp thời. Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
hiện nay xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính
phổ biến mà đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có
những nguyên nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào người
dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước nói chung, đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy được những ưu
điểm, tích cực và khắc phục được những yếu kém, hạn chế trong năng lực tư
duy lý luận. Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang mới đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
147
Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay thực chất là một quá trình tạo ra và vận
dụng những điều kiện khách quan và chủ quan để không ngừng nâng cao trình
độ, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần
phải xác định nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số là một quá trình liên tục, lâu dài, quá trình đó phải được đặt trong
tổng thể của sự nghiệp đổi mới ở địa phương với những phương hướng và
giải pháp cơ bản. Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cần đặt trong tổng thể
của quá trình củng cố kiện toàn và đổi mới nội dung trong các hoạt động quản
lý. Trong đội ngũ cán bộ tại tỉnh thì cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách trực tiếp quyền tham chính
của đồng bào và cũng là lực lượng tổ chức lãnh đạo điều hành phát triển kinh
tế - xã hội. Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang chỉ ra rằng nơi nào cán bộ người
dân tộc thiểu số năng động sáng tạo phát huy tốt mọi nguồn lực cho sự phát
triển thì ở đó đời sống đồng bào được cải thiện và ngược lại nơi nào không có
được cán bộ như vậy thì sẽ không phát huy được thế mạnh và nhiều khi còn
dẫn đến tình trạng lãng phí.
Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động lực để
thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri thức,
văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng tạo…)
nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành bản
lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.
Những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số xuất phát từ thực tiễn của địa
phương. Hệ thống các giải pháp đưa ra bước đầu mang tính cơ bản nhưng
148
trước hết là phải nhận thức được rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, những đặc thù hoạt động, đặc điểm, điều kiện sống và
thực trạng của năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này trên cơ sở “công tác
thực tế, kinh nghiệm thực tế” và quán triệt những quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Các giải pháp nêu trong luận án chỉ có tính độc lập tương đối. Trên
thực tế, chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy,
muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
trong điều kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy
vậy, để thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân
đội ngũ cán bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn
luyện, không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một
cơ chế khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế,
chính sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn
luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang.
Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới
thực sự đủ năng lực và phẩm chất để cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Ma Phúc Dự (2015), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, (5).
2. Ma Phúc Dự (2015), Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng của
V.I. Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị,
(5).
3. Nguyễn Quốc Phẩm, Ma Phúc Dự (2015), Phải chăng Việt Nam nên
chuyển hẳn sang con đường “dân tộc và dân chủ, Tạp chí Lý luận chính
trị, (6).
4. Ma Phúc Dự (2015), Quan niệm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tính
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh
kinh nghiệm, giáo điều của cán bộ, đảng viên, Tạp chí Nhân lực Khoa học
Xã hội, (8).
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Ánh (2008), Bản chất khoa học và cách mạng là cội nguồn sức
sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tạp chí Khoa học và công nghệ, (3).
2. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2014), Địa chí Tuyên
Quang, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2015), Báo cáo Chính trị tại
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.
5. Ban Dân vận Tỉnh ủy Tuyên Quang (2014), Báo cáo công tác lãnh đạo
của cấp ủy đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (từ
năm 1986 đến nay).
6. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (2012), Báo cáo kiểm điểm tự phê
bình và phê bình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
7. Hoàng Chí Bảo (1988), Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận, Tạp chí
lý luận, (6).
8. Lê Đức Bình (2002), Về đánh giá cán bộ lãnh đạo quản lý, Tạp chí Cộng
sản, (8).
9. Nguyễn Thị Bình (2008), Sứ mạng giáo dục - đào tạo trước yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu
rộng, Tạp chí Cộng sản, (787).
10. Lò Thị Bình (2015), Kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã
người dân tộc thiểu số, Tạp chí Thanh niên, (37).
151
11. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc),
LATS Triết học, Hà Nội.
12. Phạm Như Cương (2004), Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận - một đòi hỏi
bức xúc hiện nay của đất nước và của thời đại, Nxb Hà Nội.
13. Nguyễn Mạnh Cương (2004), Về bản chất của tư duy, Tạp chí Triết học, (1).
14. Tiên Châu (1955), Những bước tiến của đồng bào dân tộc thiểu số, Oxb
Sự thật, Hà Nội.
15. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết
học ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo.
16. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Phan Hữu Dật, Triệu Quang Tiến, Vũ Văn Quân (2006), Xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Dũng (2001), Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ
chính trị cấp trung đoàn quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, LATS
Triết học, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dũng (2012), Phát triển năng lực tư duy lý luận của chính
ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội
Nhân dân, Hà Nội.
20. Nguyễn Bá Dương (1991), Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật,
Tạp chí Triết học, (5).
21. Bế Việt Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
152
22. Dương Minh Đức (2006), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, LATS
Triết học, Hà Nội.
23. Nguyễn Tĩnh Gia (2002), Bồi dưỡng, nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh, Tạp chí lý luận chính trị,
(2).
24. Nguyễn Ngọc Hà (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt
Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập
quốc tế, Đề tài khoa học cấp Nhà nước.
25. Trương Thị Thu Hà (2010), Vấn đề phát huy nguồn nhân lực trẻ các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học.
26. Phạm Duy Hải (1994), Tìm hiểu một số nét mới của tư duy khoa học hiện
đại, LATS Triết học, Hà Nội.
27. Lương Đình Hải (2006), Triết học và năng lực tư duy của con người trong
kỷ nguyên toàn cầu, Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị quân sự, (4).
28. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Dương Phú Hiệp (2008), Triết học và đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
30. Lê Thị Duy Hoa (2002), Thông tin và vấn đề tiếp nhận, xử lý thông tin
của tư duy người Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội.
31. Đoàn Thế Hùng (2004), Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng
mácxít, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
32. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiển, Nguyễn
Viết Thông (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
153
33. Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với
cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, LATS Triết học, Hà Nội.
34. Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
35. Phạm Hương Lan (2002), Những giải pháp cho công tác đào tạo nguồn
cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi, Tạp chí giáo dục lý luận, (1).
36. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
37. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
38. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
39. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
40. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách tư duy, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
41. Nguyễn Ngọc Long (1987), Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, (10).
42. K.Marx - F.Engels (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
43. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
44. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới
(1990-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải (1998), Tư duy khoa học trong giai đoạn
cách mạng khoa học - công nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
154
49. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
50. Lường Thị Pó (2007), Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên),
Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội.
51. Nguyễn Quốc Phẩm, Trình Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
52. Trần Văn Phòng (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Trần Văn Phòng (2014), Tăng cường tổng kết thực tiễn để trau dồi tư duy
biện chứng duy vật cho cán bộ, Tạp chí Khoa học Chính trị, (6).
54. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng –
một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Tạp
chí Cộng sản, (775).
55. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Hồ Chí Minh - từ thực tiễn đến tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).
56. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư
duy lý luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
57. Vũ Văn Phúc (2011), Giải pháp quan trọng để rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tạp chí Cộng sản, (823).
58. Lê Văn Phụng (2003), Thực trạng tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ của
hệ thống chính trị cấp huyện, xã các tỉnh miền núi phía Bắc, Giải pháp
đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Văn Quang (2006), Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư
duy lý luận ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (8).
155
60. Bùi Thanh Quất (2010), Góp thêm một vài suy nghĩ về lý luận nhận thức
biện chứng duy vật, Tạp chí Triết học, (11).
61. Phạm Hồng Quý (2004), Tìm hiểu thêm về khái niệm tư duy, Tạp chí Tâm
lý học, (11).
62. Phạm Hồng Quý (2005), Các thành tố trong tư duy giải quyết tình huống
quản lý của người cán bộ chủ chốt cấp huyện, LATS Tâm lý học, Hà Nội.
63. Hồ Sỹ Quý (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm
của Mác và Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Nguyễn Đức Quyền (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, LATS Triết học, Hà
Nội.
65. Trần Văn Riễn (2009), Phát triển tư duy biện chứng duy vật của học viên
đào tạo sĩ quan khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay, LATS Triết học, Hà
Nội.
66. Tô Huy Rứa (1999), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ
trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, (3).
67. Tô Huy Rứa (2005), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc đổi
mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2006),
Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Dũng Sinh (1996), Công tác lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam
trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, LATSKH Lịch sử,
Hà Nội.
70. Nguyễn Thanh Sơn (2010), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc Việt Nam thời kỳ đổi mới,
LATS Triết học, Hà Nội.
156
71. Sở Nội vụ Tuyên Quang (2014), Báo cáo Việc thực hiện chính sách, pháp
luật trong đào tạo, sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
người dân tộc thiểu số.
72. Sở Kế hoạch và đầu tư Tuyên Quang (2014), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2014; kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2015.
73. Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung (2003), Giáo trình Triết học Mác-Lênin,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Lê Doãn Tá (2004), Một số vấn đề về triết học Mác-Lênin - lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông: Dành cho cán bộ, Đảng viên
người dân tộc thiểu số (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội qua
thực tiễn Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội.
77. Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của chúng ta, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Thanh Tân (2005), Lôgic vận động của khái niệm trong tư duy lý
luận, LATS Triết học, Hà Nội.
79. Tạ Ngọc Tấn (2005), Phương hướng giải pháp lớn nhằm đẩy mạnh, nâng
cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đổi mới tư duy lý luận của
Đảng trong những năm tới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
80. Trần Hữu Tiến (2003), Triết học Mác-Lênin và khoa học tự nhiên hiện
đại, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).
81. Đặng Hữu Toàn (2007), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua tổng kết 20
năm đổi mới trong các văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Triết học, (8).
82. Lô Quốc Toản (2009), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội.
157
83. Trần Thiên Tú (2006), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung Bộ - qua thực tế tỉnh Quảng
Trị, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
84. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận và công tác xây dựng Đảng,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
85. Đào Duy Tùng (1986), Bàn về đổi mới tư duy, Nxb Sự thật, Hà Nội.
86. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
87. Trần Thành (2002), Tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
88. Trần Thành (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
89. Trần Thành (2004), Một số vấn đề phương pháp luận trong tổng kết thực
tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).
90. Trần Thành (2006), Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo
quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
91. Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng (2002), Vấn đề dân tộc
và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Lê Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (2006), Xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
93. Nguyễn Thế Thắng (1999), Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, Nxb Lao Động, Hà Nội.
158
94. Lê Ngọc Thắng (2002), Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại đoàn kết
toàn dân của Đảng ta, Tạp chí Cộng sản, (14).
95. Lê Viết Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), LATS Triết
học, Hà Nội.
97. Trần Đình Thoả (2002), Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít, Tạp chí
Triết học, (2).
98. Hồ Văn Thông (1987), Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở
nước ta, Tạp chí cộng sản, (10).
99. Nguyễn Thị Bích Thủy (2001), Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán
bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, LATS
Triết học, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Phương Thúy (2001), Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, LATS Triết
học, Hà Nội.
101. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường Chính trị tỉnh, LATS Triết học,
Hà Nội.
102. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh với giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình
đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
104. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Cộng sản, (3).
159
105. Lê Quang Trung (2008), Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta hiện nay,
LATS Triết học, Hà Nội.
106. Từ điển Triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
107. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch triển khai
chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm
2020.
108. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch thực hiện Đề án
tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
109. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
110. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
111. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
112. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
113. Vấn đề dân tộc và phát triển miền núi của nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (1999), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
114. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, Đảng viên ở cơ sở (2001), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
115. Vũ Văn Viên (2006), Tư duy lôgic - bộ phận hợp thành của tư duy
khoa học, Tạp chí Triết học, (12).
160
116. Vũ Văn Viên (2007), Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng, Tạp chí Triết học, (12).
117. Trần Quốc Vượng (1981), Về truyền thống dân tộc, Tạp chí Cộng sản,
(2).
118. Ngô Đình Xây (2002), Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư
duy lý luận, Tạp chí Triết học, (1).
119. Nguyễn Bình Yên (1999), Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến
trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và những hướng khắc phục, LATS Triết
học, Hà Nội.
161
Phụ lục 1: Biểu tổng hợp số lượng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh
Số cán bộ công chức,
Tổng số cán bộ, công
STT
Nội dung
viên chức là người dân
Tỷ lệ %
chức, viên chức
tộc thiểu số
1
Cấp tỉnh
6.346
1.876
29,56
2
Cấp huyện
11.523
4.415
38,31
3
Cấp xã
2.893
1.448
50,05
Tổng cộng
20.762
7.739
37,27
Nguồn: Sở Nội vụ
162
Phụ lục 2: Biểu tổng hợp kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức
Trong đó
Hoàn thành
nhiệm vụ nhưng
Năm/ nội
Hoàn thành
Không
STT
Tổng số
Hoàn thành
còn hạn chế về
dung
xuất sắc
hoàn thành
tốt nhiệm vụ
năng lực (hoàn
nhiệm vụ
nhiệm vụ
thành nhiệm vụ
với viên chức)
Năm 2010
18,524
4,441
10,497
3,504
1
82
Cán bộ,
4,208
1,251
2,404
530
-
23
công chức
Công chức
-
đơn vị sự
547
375
154
18
nghiệp
Viên chức
13,769
2,815
7,939
2,956
-
59
Năm 2014
19,947
4,989
12,388
2,496
2
74
Cán bộ,
4,704
1,054
3,294
331
-
25
công chức
Công chức
-
đơn vị sự
570
348
194
28
nghiệp
-
Viên chức
14,673
3,587
8,900
2,137
49
Nguồn: Sở Nội vụ
163
Phụ lục 3: Biểu tổng hợp đảng viên chia theo dân tộc và trong các
tôn giáo (Có đến 31/12/2014)
TT
Tên dân tộc, tôn giáo
Tỷ lệ (%)
Tổng số
Đảng viên chia theo dân tộc
100,00
I
49.221
1
Kinh
28.165
57,22
2
Tày
14.383
29,22
3
Thái
9
0,02
4
Hoa
112
0,23
5
Khơme
1
0,002
6 Mường
46
0,09
7
Nùng
605
1,23
8 Mông
359
0,73
9
Dao
3.067
6,23
10 Gia Rai
2
0,004
11
Ê – Đê
2
0,004
12 Ngái
1
0,002
13
Sán Chay
2.001
4,07
14
Sán Dìu
403
0,82
15 H’Rê
1
0,002
16 Giáy
7
0,014
17
La Chí
5
0,010
18
Pà Thẻn
45
0,09
19 Bố Y
1
0,002
20
Pu Péo
4
0,008
2
0,004
21 Dân tộc khác
571
100,00
II Đảng viên theo tôn giáo
413
72,33
Đạo Thiên Chúa
74
19,96
Đạo Tin Lành
84
14,71
Đạo Phật
Ghi chú: Đảng viên trong các tôn giáo, so với tổng số đảng viên, chiếm 1,16%
Nguồn: Ban Tổ chức - Tỉnh ủy
164
Phụ lục 4: Biểu thống kê vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị cấp huyện của tỉnh
(Thời điểm 31/12/2013)
TT
Đơn vị
Cấp ủy
Công chức
Viên chức
Đại biểu HĐND
UBND(CT, PCT)
Lãnh đạo cấp phòng
Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc
Tổng
Dân tộc
Tổng
Dân tộc
Tổng
Dân tộc
1 Huyện Lâm Bình
153
114
519
443
30
12
29
24
3
2
57
46
2 Huyện Na Hang
193
136
803
599
28
21
30
5
4
2
58
47
3 Huyện Chiêm Hóa
40
248
137
1.675
1.012
25
40
33
3
1
71
43
4 Huyện Hàm Yên
229
60
1.478
435
33
10
39
22
4
1
60
27
5 Huyện Yên Sơn
264
50
2.173
693
41
12
42
16
4
1
53
14
6 Huyện Sơn Dương
42
286
54
2.244
552
4
44
19
4
1
50
6
8
Thành phố Tuyên
34
213
17
1.045
113
5
30
8
4
1
43
Quang
Tổng
248
89
1.586
568
9.937
3.847
254
147
26
12
392
198
Nguồn: Sở Nội vụ
165
Phụ lục 5: Biểu thống kê chất lượng cán bộ DTTS (Thời điểm 31/12/2013)
TT
Đơn vị
Ngạch công chức
Trình độ chuyên môn
Lý luận chính trị
Cán
Chuyên
Chuyên
Chuyên viên
Tiến
Thạc
Đại
Cao
Trung
Sơ
Cử
Cao
Trung
Chưa
sự
viên
viên
cao cấp
sĩ
sĩ
học
đẳng
cấp
cấp
nhân
cấp
cấp
đào tạo
chính
3
23
1 Huyện Lâm Bình
8
11
1
22
4
30
6
25
2 Huyện Na Hang
6
1
11
25
6
31
1
1
3 Huyện Chiêm Hóa
37
25
27
37
4
57
3
3
19
4 Huyện Hàm Yên
7
10
19
4
25
1
26
5 Huyện Yên Sơn
14
15
1
25
41
2
6 Huyện Sơn Dương
35
10
12
35
3
42
2
1
8
Thành phố Tuyên
1
1
2
1
1
2
Quang
Tổng
143
63
14
1
1
77
1
142
59
147
5
Nguồn: Sở nội vụ
166
Phụ lục 6: Biểu thống kê thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức DTTS (Thời điểm 31/12/2013)
TT Tên cơ quan, đơn vị,
Tổng số cán bộ, công
Số cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS
tổ chức
chức, viên chức
Tổng
Số cán bộ, công chức, viên chức đạt
Số cán bộ, công chức, viên chức đạt
cộng
chuẩn theo ngạch, vị trí việc làm
chưa chuẩn theo ngạch, vị trí việc
làm cần đào tạo, bồi dưỡng
1 Huyện Lâm Bình
48
38
38
2 Huyện Na Hang
58
46
46
3 Huyện Chiêm Hóa
66
48
47
1
4 Huyện Hàm Yên
55
18
18
5 Huyện Yên Sơn
61
16
16
6 Huyện Sơn Dương
65
17
17
Thành phố Tuyên Quang
7
54
3
3
Nguồn: Sở Nội vụ
167
Phụ lục 7: Biểu thống kê cán bộ lãnh đạo, đảng viên là DTTS (Thời điểm 31/12/2013)
Khối Đảng
Chính quyền
Đoàn thể
Đảng viên
Tổng số
Tên cơ quan,
cán bộ,
Cấp
Trưởng
Trưởng
Trưởng
Trưởng
Trưởng
TT
đon vị, tổ
Cấp
Tổng
Dân tộc
lãnh đạo
Trưởng,
phó
phó
phó
phó
phó
chức
ủy/nữ
số
thiểu số
DTTS
phó ban/nữ
phòng/nữ
ngành/nữ
phòng/nữ
ngành/nữ
phòng/nữ
1 Cấp tỉnh
187
20/6
11/2
10/5
21/5
112/37
7/4
6/2
3.645
611
2 Cấp huyện
279
69/21
63/20
60/22/
6.710
2.700
87/18
3 Cấp xã
738
163/10
435/123
1.431
790
140/7
Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy