VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MA PHÚC DỰ

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MA PHÚC DỰ

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY

Chuyên ngành

: CNDVBC & DVLS

Mã số : 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Đình Tường

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình khoa học của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đình Tường. Các trích dẫn và số

liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn

toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội, năm 2016

Tác giả luận án

Ma Phúc Dự

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................... 7

1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và năng lực

tư duy lý luận ................................................................................................. 7

1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc thiểu

số ................................................................................................................. 16

1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư duy

lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên ......................................................... 22

1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án ............................ 28

Chương 2. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ VIỆC NÂNG CAO

NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN

TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 30

2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận ........................................... 30

2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc nâng

cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 49

Chương 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN

NAY ................................................................................................................. 73

3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một số đặc

điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

hiện nay ....................................................................................................... 73

3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ........................................................ 83

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG

CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI

DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY ....................... 111

4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ............................... 111

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ...... 117

KẾT LUẬN .................................................................................................... 145

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ............. 149

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 150

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là người triển khai những quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân

dân, đồng thời cũng là người tổng kết, phản ánh những tâm tư nguyện vọng

của quần chúng nhân dân đến Đảng, đến Nhà nước. Như vậy người cán bộ,

đảng viên có vai trò rất quan trọng và to lớn - là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước

với nhân dân và ngược lại.

Khi đánh giá về người cán bộ có rất nhiều tiêu chí cũng như phẩm chất,

như: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng triển khai, xử lý các nhiệm vụ

được giao, tuổi tác và kinh nghiệm thực tiễn,… Một trong những yêu cầu

cũng như tiêu chuẩn đặc biệt nữa không thể thiếu của người cán bộ, giúp cho

cán bộ linh hoạt trong giải quyết các công việc được giao đó là phải có năng

lực tư duy lý luận.

Tư duy là một thuộc tính cơ bản của con người, tư duy nói chung và tư

duy lý luận nói riêng là cấp độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những

thuộc tính bản chất, tất nhiên, những mối liên hệ có tính quy luật của khách

thể nhận thức. Tư duy là sự phản ánh khái quát, chủ động, tích cực và sáng

tạo những mối quan hệ bản chất, những quy luật vận động của mọi sự vật hiện

tượng trong thế giới khách quan. Kết quả của quá trình tư duy sẽ đem lại cho

chủ thể nhận thức những tri thức, sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện, đầy đủ, có

tính hệ thống về đối tượng nhận thức. Khẳng định vai trò của tư duy lý luận,

Ăngghen đã cho rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa

học thì không thể không có tư duy lý luận” [43, tr. 489].

Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đang diễn

ra trong điều kiện hoàn cảnh mới. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

2

đại hóa với mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Chúng ta đang đứng trước những thời cơ vận hội mới đồng thời cũng đứng

trước những khó khăn và thử thách mới. Cách mạng trên thế giới có những

bước thăng trầm, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta thường xuyên

bị kẻ thù và các thế lực phản cách mạng chống phá trên mọi phương diện,

nhất là trên phương diện tư tưởng, văn hóa bằng các âm mưu thủ đoạn khác

nhau như: diễn biến hòa bình, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, bôi nhọ uy tín của Đảng, gây chia rẽ kỳ thị dân tộc…

Để đánh giá, phân tích, kết luận, cảnh giác trước những âm mưu của

các thế lực thù địch và các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vô cùng

nhạy cảm, phức tạp này một cách khách quan, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải

được trang bị một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học, sắc bén để chỉ đạo

hoạt động thực tiễn. Muốn được trang bị một hệ thống lý luận, hoàn chỉnh,

khoa học sắc bén đó họ phải nâng cao tầm nhận thức mới về lý luận và hạt

nhân của vấn đề này chính là nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Tư duy lý luận với nền tảng nòng cốt là Triết học Mác - Lênin được

Đảng và Nhà nước ta vận dụng thực tiễn trong công cuộc đổi mới và đã thu

được những thắng lợi mang tính bước ngoặt. Tuy nhiên giữa lý luận và thực

tiễn có một khoảng cách khá xa, tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời quần

chúng, lời nói không đi đôi với việc làm, tư tưởng không nhất quán với hành

động vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quyết, chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước khó đi vào cuộc sống. Thậm chí có một số

nơi, một số địa phương cán bộ còn hiểu và làm sai lệch chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải chú ý đến phát huy tiềm năng trí

tuệ của con người Việt Nam, đẩy mạnh công tác lý luận, đặc biệt là nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

3

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam.

Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và

nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn quyết tâm phấn đấu xây dựng và

phát triển tỉnh nhà về mọi mặt, đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong

các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các vấn đề xã hội khác. Có

được những kết quả đó, một phần là sự quyết tâm của toàn tỉnh, một phần

khác là do năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ của tỉnh.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trình độ nhận thức nói chung và năng lực

tư duy lý luận nói riêng của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang hiện nay (với đặc thù là tỉnh miền núi, đa phần là người dân tộc

thiểu số) còn nhiều hạn chế, tình trạng nghĩ và làm việc theo thói quen, kinh

nghiệm, giáo điều, trực quan, cảm tính vẫn đang là lực cản trong bản thân đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của

một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin

còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời; một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số

khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết

được kinh nghiệm thành lý luận… Những hạn chế cơ bản nêu trên của đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cần được khắc phục

nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới.

Từ kinh nghiệm và thực tiễn công tác tại địa phương, bản thân cũng là

một cán bộ người dân tộc thiểu số và với mong muốn góp một phần tiếng nói

tâm huyết từ cơ sở với công tác cán bộ ở địa phương Tuyên Quang trong giai

đoạn hiện nay, tôi chọn hướng nghiên cứu, cũng như đề tài: “Nâng cao năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nâng cao năng lực tư duy lý luận

4

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay; thực trạng

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang; đưa ra những quan điểm, giải pháp cơ bản nâng cao năng lực

tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ được phạm trù năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh

hưởng tới năng lực tư duy lý luận cũng như vai trò của năng lực tư duy lý

luận đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong

giai đoạn hiện nay.

- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, nguyên nhân của thực trạng và

những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang hiện nay.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

3.1. Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy

vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là lý luận nhận thức và

logic học mác xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng

các Nghị quyết của Đảng ta về công tác cán bộ và vai trò của tư duy lý luận

trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã được công

bố trong những năm gần đây ở nước ta có liên quan đến đề tài. Sử dụng các

tài liệu, số liệu của cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến các xã qua tổng hợp,

thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm.

5

- Để tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp

như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, thống kê…

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay và những vấn

đề mang tính phương pháp cần thiết để nâng cao năng lực tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong những

năm gần đây. Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ năm

2010 đến nay.

5. Đóng góp của Luận án

- Làm sáng tỏ thêm về các phạm trù tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư

duy lý luận; làm rõ được thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.

- Làm sáng tỏ được biểu hiện đặc thù về năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.

- Chỉ ra được thực trạng và từ đó đưa ra quan điểm, giải pháp góp phần

nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

tỉnh Tuyên Quang.

6. Ý nghĩa của Luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ thực trạng,

cung cấp giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.

- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch

định chiến lược, tổ chức đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

6

- Luận án có thể được dùng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy

các vấn đề có liên quan.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

Luận án gồm 4 chương với 10 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và

năng lực tư duy lý luận

Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề

về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành của tư duy và tư duy

biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp, trình độ và

năng lực của tư duy, các nguyên tắc và quy luật của tư duy và tư duy biện

chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy biện chứng, tư

duy lý luận và năng lực tư duy lý luận…

- Tác giả Đào Duy Tùng, “Bàn về đổi mới tư duy”, Nhà xuất bản sự

thật, Hà Nội, 1986.

Bài viết đã tập trung phân tích sự cần thiết phải đổi mới tư duy, tư duy

lý luận về nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra phương hướng,

biện pháp để đổi mới tư duy, đặc biệt là tác giả đã nhấn mạnh sự kết hợp đổi

mới nội dung, phương pháp tư duy phải nắm vững tư duy biện chứng mác xít,

đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, kiểm tra lại hệ thống

tri thức; tích cực nghiên cứu lịch sử tư duy dân tộc và tư duy nhân loại.

- Hồ Văn Thông, “Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở

nước ta” (Tạp chí cộng sản, số 10/1987).

Tác giả đã đưa ra một số nét cơ bản của tư duy trong mối quan hệ với

hoạt động nhận thức và thực tiễn; từ việc chỉ ra vai trò của tư duy đối với hoạt

động thực tiễn của con người, tác giả chỉ ra yêu cầu cần thiết về đổi mới tư

duy ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng đổi mới tư duy hiện nay cần quán

triệt và vận dụng sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là vận dụng những quy

luật cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.

8

- Nguyễn Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới

tư duy” (Tạp chí Cộng sản, số 10/1987)

Tác giả đã tập trung phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng

lực tư duy lý luận như: năng lực ghi nhớ, tái hiện những nhận thức do cảm

tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hoát; năng lực suy luận, suy

lý lôgic, phát hiện và xử lý các vấn đề trong nhận thức và hành động. Tác giả

cũng luận giải sự cần thiết phải phát triển năng lực tư duy lý luận trong thời

kỳ đổi mới đất nước.

- Tác giả Nguyễn Văn Linh “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy”,

Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.

Tác giả đã tập trung phân tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý

luận của Đảng trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trên cơ sở đó luận

giải sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phong cách tư duy của Đảng và đội

ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta; đồng thời tác giả đưa ra những nội dung cần

thực hiện đổi mới tư duy.

- Nguyễn Bá Dương, “Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy

vật” (Tạp chí Triết học số 5/1991).

Tác giả đã đi sâu phân tích năm đặc trưng cơ bản của tư duy biện

chứng duy vật (như tư duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất

so với các hình thức tư duy trong lịch sử; tư duy biện chứng phản ánh hiện

thực đang vận động, biến đổi; phản ánh đúng sự vận động, phát triển và

những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan; tư duy biện chứng có tính

khách quan; tư duy biện chứng được xem là tư duy khoa học, mang tính cách

mạng, có tính chất phê phán và sức chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép).

Trên cơ sở đó đi đến khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy

biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.

9

- Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải: “Tư duy khoa học trong giai

đoạn cách mạng khoa học - công nghệ”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1998.

Tập thể các tác giả đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề

lý luận về bản chất và đặc điểm chủ yếu của tư duy nói chung và tư duy khoa

học nói riêng trên lập trường, cơ sở của Chủ nghĩa Mác-Lênin, các quy luật

của lôgic biện chứng, như: tư duy khoa học hướng vào việc nắm bắt những

mối liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi

phối quá trình phát triển, vận động, của sự vật hiện tượng, của thế giới khách

quan. Từ đó chỉ ra vai trò của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách

mạng khoa học công nghệ.

- Trần Đình Thoả, “Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít” (Tạp chí

Triết học số 2/2002).

Tác giả đã tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng,

so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác để chỉ rõ sự khác

biệt của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc

trưng cơ bản: tính khách quan; tính toàn diện; tính lịch sử; sự thống nhất giữa

lịch sử và lôgíc; quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Từ đó đi đến khẳng

định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy biện chứng mác - xít trong

nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

- Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

Tài liệu được biên soạn trên cơ sở những bài giảng cho học viên các

lớp cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị của Học viện Chính trị -

Hành chính Khu vực I, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí

Minh trong những năm gần đây theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI,

VII, VIII, IX, X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung giáo trình

10

trình bày, phân tích, làm sáng tỏ những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy

luật của Triết học Mác - Lênin nhằm cung cấp cho người đọc những kiến thức

cơ bản, có hệ thống và thiết thực.

- Đoàn Thế Hùng, “Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng

mácxít” (Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2004).

Tác giả đã khái quát lịch sử và điều kiện hình thành, phát triển tư duy

biện chứng duy vật từ thời cổ đại đến giai đoạn V.I.Lênin. Trên cơ sở đó, tác

giả đã chỉ rõ tiền đề lý luận và vai trò của lôgíc học đối với tư duy biện chứng

duy vật; đồng thời phân tích và làm sáng tỏ bản chất, đặc trưng và thực chất

của tư duy biện chứng duy vật.

- Nguyễn Mạnh Cương, “Về bản chất tư duy” (Tạp chí Triết học số

1/2004).

Tác giả đã phân tích, làm rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử

hình thành và phát triển tư duy biện chứng duy vật. Tác giả đã phân tích sự

phụ thuộc của tư duy vào hệ thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ

thể nhận thức. Đặc biệt tác giả đã phân tích, chỉ ra mối quan hệ biện chứng,

sự khác nhau giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá

trình nhận thức.

- Trong cuốn sách: “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết học ở

Việt Nam” do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên (HN,2004).

Tác giả Đinh Ngọc Thạch đã có bài viết: “Muốn phát triển hoàn thiện

tư duy lý luận cần đánh giá đúng tinh hoa tinh thần của các thời đại trước”.

Bài viết đã bàn đến đặc điểm tư duy, lối sống của con người Việt Nam. Tác

giả đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại tư tưởng của

Ph.Ăngghen khi cho rằng tư duy lý luận chỉ là một năng lực bẩm sinh của

con người. Năng lực ấy cần được phát triển, hoàn thiện và muốn hoàn thiện

nó thì cho đến nay không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ Triết học

thời trước...

11

- “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, (Đồng

chủ biên PGS.TS. Tô Huy Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Trần Khắc

Viện, PGS.TS. Lê Ngọc Tòng), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006.

Các tác giả đã tập trung giải quyết một số nội dung như:

- Phân tích bối cảnh xã hội, tình hình trong nước và quốc tế tác động tới

quyết sách chiến lược “đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng.

- Phân tích và đánh giá những thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý

luận của Đảng từ những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội và con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đến những nhận thức lý luận mới

trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và

đối ngoại của Đảng. Làm rõ giá trị và ý nghĩa của những thành tựu đó từ góc

nhìn tư duy lý luận.

- Phân tích những hạn chế, những vấn đề đặt ra, nguyên nhân và bài

học kinh nghiệm về đổi mới tư duy lý luận của Đảng.

- Xác định những quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ

yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và

tổng kết thực tiễn trong tình hình mới của cách mạng nước ta làm cho lý luận

phát huy được vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nâng cao năng lực lãnh đạo

và củng cố vững chắc vị trí cầm quyền của Đảng, thực hiện thắng lợi mục tiêu

đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- “Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt

Nam hiện nay” (Lê Văn Quang, Tạp chí Triết học số 8 (183), 2006).

Trong bài viết, tác giả khẳng định rằng, trong hàng loạt nhân tố tạo nên

sự thành công của quá trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác-

Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay,

triết học Mác-Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên

giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản

12

và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan

chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương

pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết

học mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô

cùng to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận.

- Cuốn: “Triết học và đổi mới” - Dương Phú Hiệp (Nxb Chính trị Quốc

gia, HN, 2008).

Với tuyển tập các bài viết của mình, tác giả Dương Phú Hiệp đã nêu lên

sứ mệnh của các nhà triết học là phải góp phần vào đổi mới tư duy, tư tưởng

trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tác giả đưa ra nguyên nhân của sự lạc hậu

về nhận thức và sự cần thiết phải quán triệt tư duy biện chứng duy vật, phải

khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, phải nâng lên tầm tư duy lý luận.

- Tác giả Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Đặc điểm tư duy và lối sống của

con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới

và hội nhập quốc tế” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước).

Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm của tư duy và lối sống

truyền thống của con người Việt Nam, sự biến đổi của tư duy và lối sống

trong thời kỳ đổi mới (Bao gồm cả đặc điểm tích cực và đặc điểm tiêu cực),

những điều kiện kinh tế-xã hội tác động đến tư duy và lối sống con người Việt

Nam, những vấn đề đặt ra về tư duy và lối sống trước yêu cầu đổi mới và hội

nhập quốc tế; Đề xuất và phân tích các căn cứ lý lụân và thực tiễn của các

phương hướng lớn và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng tư duy và

lối sống mới của con người Việt Nam hiện nay theo yêu cầu của đổi mới và

hội nhập quốc tế.

- “Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý luận” (Nguyễn

Trọng Phúc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011).

13

Giới thiệu khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ thời thơ

ấu đến tuổi thanh niên và quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo sự nghiệp

giải phóng dân tộc. Làm rõ những cống hiến nổi bật của Hồ Chí Minh về tư

duy lý luận gắn liền với cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

và cách mạng Việt Nam. Tác giả phân tích, đánh giá, làm nổi bật những quan

điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi sáng nhận thức của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong công cuộc đổi mới, nhận thức rõ hơn về hình thức, bước đi

của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả khẳng định đổi mới ở Việt

Nam một phần tư thế kỷ qua chính là nhận thức và vận dụng đúng đắn những

luận điểm của V.I.Lênin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội, đặc biệt là quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về lựa chọn con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

* Đánh giá chung

Tất cả các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư

duy, tư duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó làm rõ được một số điểm quan trọng:

Một là, khẳng định được tư duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vật

chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não của con người, là quá trình

phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, suy

lý... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người

và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy

luật của thực tại. Khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách

quan bởi bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con

người về hiện thực khách quan “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận

thức. Ở giai đoạn nhận thức bằng tư duy, sự vật được phản ánh một cách gián

tiếp và khái quát trong các khái niệm (phạm trù), lý thuyết. Sức mạnh trừu

tượng hóa, khái quát hóa của tư duy được hướng vào việc nắm bắt những mối

14

liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi phối

quá trình vận động của sự vật” [73, tr. 350]; thấy được mối quan hệ giữa tư

duy với nhận thức “tư duy không tách rời với nhận thức và nhận thức phải

thông qua tư duy”; phân biệt được tư duy với nhận thức “tư duy không phải là

toàn bộ nhận thức mà chỉ là giai đoạn cao, là cấp độ cao của nhận thức”.

Hai là, từ việc tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện

chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác; phân loại tư

duy, phân tích đặc trưng của tư duy kinh nghiệm, từ đó đi đến xác định khái

niệm tư duy lý luận và phân tích làm rõ những đặc trưng cơ bản của tư duy lý

luận đó là: tính khoa học; tính sáng tạo; biết xử dụng tự giác bộ công cụ của

nhận thức lý tính, vận hành dưới hình thức các phương pháp, biện pháp cụ

thể, dựa trên các căn cứ khoa học; gắn liền với thực tiễn, vừa chỉ đạo tực tiễn,

vừa dựa trên thực tiễn để vận động.

Ba là, khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư

duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn, cải

tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế

“Nhận thức cũng như lý luận không có mục đích tự thân. Lĩnh hội và nắm

vững học thuyết cũng không phải là cứu cánh. Cái sâu xa, cốt yếu nhất là

nắm vững lý luận để cải tạo thực tiễn, vì mục đích phát triển xã hội và hạnh

phúc của con người” [68, tr. 148].

Bốn là, các công trình nghiên cứu trên phân tích, đánh giá những thành

tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng (từ những nhận thức tổng

quát về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

đến những nhận thức lý luận mới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại); các tác giả đã tập trung phân

tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ tập

trung quan liêu bao cấp đến nay “Việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng những

15

năm vừa qua vẫn còn chậm, vừa chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc

đổi mới vừa chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn

đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay...” [68, tr. 482]; từ việc đi

sâu làm rõ bản chất của tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận đối với sự

nghiệp đổi mới, từ đó khẳng định việc đổi mới tư duy nói chung, đổi mới

tư duy lý luận nói riêng là một yêu cầu mang tính tất yếu trong quá trình

phát triển của thời đại, trong thời kỳ đổi mới của đất nước “Đảng phải

thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước

hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của

Đảng cầm quyền” [68, tr. 13].

Năm là, khẳng định triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai

trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay; triết học Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên

giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản

và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan

chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương

pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở đó, nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học

mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng

to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận. “Nguyên tắc bất di,

bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý

luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng

của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi

mới. Các nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết mác

- xít, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được

các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa

chọn để vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới” [59].

16

1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc

thiểu số

Có nhiều đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số và cán bộ người

dân tộc thiểu số cả ở nước ngoài và ở trong nước, tuy nhiên chỉ xin điểm qua

một số đề tài ở trong nước có liên quan đến Luận án.

- Cuốn: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” - Nguyễn Phú

Trọng - Trần Xuân Sầm (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001).

Trong công trình này, các tác giả nêu lên những vấn đề lý luận, phương

pháp luận, quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tác giả khẳng định, sự phát triển

của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc vào nhiều

yếu tố, trong đó có trí tuệ và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ. Để hướng tới một

nền kinh tế phát triển, một xã hội dân chủ, văn minh và tích lũy được những

giá trị tốt đẹp cho cuộc sống thì việc đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ vừa có

tài, vừa có đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng rất cần thiết cho việc chấn

hưng đất nước, cần được coi là một trong những nhân tố tích cực nhất.

- “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê

Ngọc Thắng, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2002).

Cuốn sách Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (TS Bế Trường Thành chỉ đạo

biên soạn) trình bày những vấn đề lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách

dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Những định hướng cơ bản trong việc quy

hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.

Đồng thời kiến nghị những giải pháp giải quyết kịp thời những vấn đề cơ bản

17

như: xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe,

kiện toàn hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc, tôn trọng và phát huy bản

sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng

bào các dân tộc.

- “Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại đoàn kết toàn dân của

Đảng ta” (TS. Lê Ngọc Thắng, Tạp chí Cộng sản, số 14, 2002).

Tác giả đánh giá sự phát triển mọi mặt tại vùng các dân tộc thiểu số

trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Tuy có phát triển và đạt

được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt trong thời gian qua, song hiện

nay khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là nơi khó

khăn và lạc hậu nhất của nước ta. Khoảng cách phát triển giữa miền núi và

miền xuôi, nhất là so với khu vực thành thị, còn khá lớn. Tác giả đã đưa ra

một số giải pháp, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu

số và miền núi. Trong đó nhấn mạnh giải pháp đầu tư cho nguồn nhân lực

mới tạo ra yếu tố quyết định để có thể khắc phục được một cách cơ bản những

thiếu hụt và bất cập về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để đáp ứng sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong

giai đoạn tới.

- Luận án Tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh (2002): “Trí thức

người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới” (chủ yếu ở vùng

dân tộc thiểu số phía Bắc).

Luận án đã khẳng định được vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc

thiểu số góp phần cùng trí thức cả nước trong thực hiện thắng lợi chính sách

của Đảng, Nhà nước, địa phương phù hợp với dân tộc mình; lý giải các quan

điểm của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm rõ cơ sở khoa

học của việc lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng của Đảng ta; góp phần hoạch định chủ trương phát triển kinh tế - xã

18

hội vùng miền núi, vùng đông đồng bào các dân tộc thiểu số. Luận án cũng

chỉ ra được thực trạng (ưu điểm, hạn chế) của đội ngũ trí thức người dân tộc

thiểu số từ đó đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và

phát huy vai trò đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong

công cuộc đổi mới.

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” - TS.Lê Phương Thảo,

PGS.TS.Nguyễn Cúc và TS.Doãn Hùng đồng chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc

gia, HN, 2006).

Cuốn sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” của tập thể

tác giả do TS. Lê Phương Thảo, PGS. TS.Nguyễn Cúc và TS. Doãn Hùng

đồng chủ biên được hình thành trên cơ sở chọn lọc các bài viết tham gia đề tài

khoa học độc lập cấp Nhà nước đã tập trung luận giải các cơ sở lý luận và

thực tiễn, đi sâu phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ dân

tộc thiểu số ở nước ta những năm qua, đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới

công tác cán bộ dân tộc thiểu số trong thời gian tới. Các giải pháp đề xuất vừa

tuân thủ những yêu cầu, nguyên tắc chung của công tác cán bộ, vừa tính toán

đến những đặc thù của đối tượng cán bộ dân tộc thiểu số.

- “Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự

nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)” (Lường Thị Pó, Luận

văn thạc sỹ Triết học, 2007).

Luận văn phân tích nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta

hiện nay; đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực con người các

dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp

nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay

nói chung, ở tỉnh Điện Biên hiện nay nói riêng.

19

- Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Quang Trung (2008): “Phát huy vai

trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi

phía Bắc nước ta hiện nay”.

Trong Luận án của mình tác giả đã khẳng định, đội ngũ cán bộ vùng

dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng to lớn, là nhân tố có tính chất quyết định

để thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc, thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ

nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Trong đội

ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số, tác giả đi sâu vào nghiên cứu đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp cơ sở; khẳng định vai trò vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp cơ sở là đội ngũ cán bộ trực tiếp đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết

của Đảng vào trong đời sống đồng bào các dân tộc, biến những chủ trương

chính sách của Đảng thành hiện thực sinh động. Đây cũng là đội ngũ cán bộ

trực tiếp giải quyết mối quan hệ trong nội bộ nhân dân, đóng vai trò là cầu nối

giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.

Tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề đang đặt ra đối với đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số như: Sự bất cập, sự hạn chế về năng

lực tư duy, năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ; những hạn chế

trong cơ chế chính sách; việc nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ

của cơ sở, cũng như phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ này trong điều kiện

hiện nay ở một số cấp còn phiến diện. Không thấy được quá trình phát huy

vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số không chỉ

quy định bởi trình độ văn hóa, năng lực tư duy, trình độ chuyên môn, mà còn

chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như tâm lý tộc người, phong tục tập

quán, nếp sống, tâm lý cư dân địa phương… và đặc biệt là sự chi phối, quy

định của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, điều kiện sống của đội ngũ cán bộ…

- Cuốn sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh

miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” - Lô Quốc Toản, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2010.

20

Cuốn sách Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi

phía Bắc nước ta hiện nay của Tiến sĩ Lô Quốc Toản là một nghiên cứu mang

tính lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc, chính

sách phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Để phát huy được nội lực của

đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc ở các tỉnh miền núi phía Bắc cần xây dựng được một đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh về năng lực chuyên môn, phẩm chất

chính trị, trình độ tư duy lý luận... Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và thực trạng cán bộ người

dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc ở nước ta hiện nay, tác giả đã

nêu phương hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn cán bộ này một cách

vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.

- “Vấn đề phát huy nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang hiện nay” (Trương Thị Thu Hà, Luận văn thạc sỹ Triết học, 2010).

Tác giả đã khẳng định vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số trong cả nước nói chung, ở Tuyên Quang nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó

khăn nhưng đây là vùng giàu tiềm năng kinh tế, có vị trí quan trọng về chính

trị, văn hoá và có nguồn nhân lực dồi dào, con người cần cù, chịu khó, thông

minh và sáng tạo, rất cần sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.

Tác giả đã chỉ ra thực trạng nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang, đồng thời đưa ra những giải pháp để phát huy nguồn nhân lực

của tỉnh Tuyên Quang hiện nay.

* Đánh giá chung

Các công trình nghiên cứu trên giúp tác giả Luận án nắm được những

vấn đề lý luận về công tác dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước;

thực trạng đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; thực

21

trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, giúp tác giả Luận án có cơ sở lý

luận để thực hiện tốt nhiệm vụ đề tài nghiên cứu đưa ra. Cụ thể:

Một là, các công trình nghiên cứu đều khẳng định vùng đồng bào các

dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội,

quốc phòng, an ninh của đất nước. Hiện nay vùng đồng bào các dân tộc thiểu

số sinh sống là vùng còn nhiều lạc hậu, khó khăn nhất trong cả nước, cần

được quan tâm, tạo điều kiện phát triển hơn cả nhằm đảm bảo sự cân bằng

giữa các vùng miền, đảm bảo cho đất nước phát triển toàn diện “Tuy có phát

triển và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt trong thời gian qua,

song hiện nay khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là

nơi khó khăn và lạc hậu nhất của nước ta. Khoảng cách phát triển giữa miền

núi và miền xuôi, nhất là so với khu vực thành thị, còn khá lớn và có xu

hướng ngày càng doãng ra. Vì vậy, muốn thu hẹp khoảng cách này, chúng ta

cần tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ một số chính sách cụ thể về phát

triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi” [94].

Hai là, đã khẳng định, đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai trò

vô cùng to lớn, là nhân tố có tính chất quyết định để thực hiện sự bình đẳng,

đoàn kết dân tộc, thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trong

cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam “Cán bộ dân tộc thiểu số là

một bộ phận trong đội ngũ cán bộ cả nước, có vị trí và vai trò đặc biệt quan

trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Bởi vì phần lớn đội ngũ này hoạt

động ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số, nơi có tiềm năng to lớn cả về chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...” [92, tr. 264].

Chính vì thế để phát huy được nội lực của đồng bào các dân tộc thiểu

số, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở các

tỉnh miền núi cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững

mạnh về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, có trình độ tư duy lý

22

luận... “Cái mà miền núi và đồng bào các dân tộc cần ở đây, như đồng bào

thường nói, không phải là “xâu cá” mà là “cần câu”, tức là cơ chế, đường lối,

chính sách đúng đắn, phù hợp, là phương thức làm ăn, là đội ngũ cán bộ lãnh

đạo quản lý vừa có cái “tâm” hết lòng vì đồng bào, hiểu đồng bào, được đồng

bào tin yêu, vừa có cái “tầm” tức là tầm nhìn, trí tuệ, năng lực, dám nghĩ, dám

làm, biết cách “cầm tay chỉ việc, biết đưa đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước đến với đồng bào” [92, tr. 257-258].

Ba là, trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về công tác cán bộ, các quan điểm, đường lối của Đảng, Chính sách của

Nhà nước đối với công tác dân tộc chỉ ra những giải pháp trọng yếu nhằm đẩy

mạnh phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó

khăn, vùng đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống; trong đó đặc biệt

chú ý đến các giải pháp, chính sách đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số vì

đây chính là đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết mối quan hệ trong nội bộ

nhân dân, đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ở miền

núi, vùng dân tộc thiểu số. “Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện

hệ thống chính sách ưu tiên, đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số

cũng như những cán bộ địa phương khác đã và đang công tác, phục vụ lâu dài

tại miền núi như giải quyết thỏa đáng chế độ tiền lương, phụ cấp, động viên,

khen thưởng, kịp thời quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của bản

thân và gia đình họ” [92, tr. 261].

1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư

duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng

lực tư duy lý luận gắn với các đối tượng cụ thể là cán bộ, đảng viên, học viên,

sinh viên, lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý các cấp… sau đây là một số

công trình tiêu biểu.

23

- Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo chủ chốt cấp xã hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994).

Tác giả tập trung phân tích làm rõ khái niệm năng lực tư duy, vai trò của

năng lực tư duy đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và mối quan hệ giữa

điều kiện khách quan và chủ quan của chủ thể tư duy. Trên cơ sở phân tích

thực trạng và những yếu kém về năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp xã và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy của họ.

- Nguyễn Đình Trãi, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

giảng viên lý luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh” (Luận án tiến sĩ

Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001).

Tác giả đã tập trung phân tích tính tất yếu và sự cần thiết phải nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở

các trường chính trị tỉnh; phân tích và làm sáng tỏ đặc thù để đi vào nghiên

cứu thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở đó đề xuất

một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ

giảng viên lý luận Mác-Lênin ở trường chính trị tỉnh.

- Nguyễn Thị Bích Thủy, “Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ

lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay” (Luận án Tiến

sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001).

Luận án phân tích bản chất và đặc điểm tư duy biện chứng, vai trò của

tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế ở nước ta là vô cùng quan

trọng; vai trò của tư duy biện chứng không chỉ thể hiện một cách tổng quát ở

sự hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp nhận thức đúng

đắn ở họ, mà cụ thể hơn như ra chủ trương, đường lối, quyết định, tổ chức

thực hiện quyết định, phát hiện và giải quyết các mối quan hệ trong quá trình

lãnh đạo kinh tế, kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm…

24

- “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay” (Hồ

Bá Thâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)

Từ việc phân tích luận giải vấn đề phát triển năng lực tư duy của người

cán bộ lãnh đạo qua việc nghiên cứu tư duy dưới góc độ triết học và cả ở góc

độ khoa học quản lý. Tác giả xem xét một cách hệ thống bản chất, nội dung

của năng lực tư duy, phong cách tư duy, đồng thời kiến nghị một số giải pháp

định hướng phát triển năng lực, tư duy của người cán bộ lãnh đạo trong công

cuộc đổi mới tư duy, phát triển trí tuệ hiện nay.

- Trần Thành (chủ nhiệm): Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Tư duy lý luận

của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải

pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.

Đề tài đã luận giải các vấn đề của tư duy lý luận dưới góc độ chung như

bản chất, đặc điểm, vai trò của tư duy lý luận trong sự phát triển của đất nước

ta hiện nay, nhấn mạnh tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp tỉnh như “chìa khóa” mở ra cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực

tiễn của họ. Có tư duy lý luận, họ nắm được thực chất đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước, có khả năng phân tích, luận giải để nắm

được tinh thần của đường lối đó. Có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh có đủ năng lực phân tích sự phong phú, tính đa

dạng và phức tạp của thực tiễn cuộc sống đời thường để từ đó vận dụng lý

luận một cách chủ động, thích hợp, sáng tạo, hiệu quả. Các tác giả còn cho

rằng, tư duy biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao nhất của lịch sử

phát triển tư duy lý luận. Tư duy biện chứng duy vật có các đặc điểm như tính

trừu tượng hóa, khái quát hóa cao, tính khoa học, tính gợi mở, sáng tạo, tính

phê phán sâu sắc. Do đó, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp tỉnh ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan

trọng để nâng cao trình độ tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ này, từ đó

25

góp phần đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa đi đến thành công.

- Trần Thành, “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh

đạo, chỉ đạo thực tiễn” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003).

Tác giả tập trung phân tích hệ thống bản chất và kết cấu của tư duy lý

luận, vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ. Tác giả

chỉ ra rằng năng lực tư duy lý luận là nhân tố không thể thiếu, có tầm quan

trọng đặc biệt, vừa là yếu tố cấu thành vừa là nhân tố thúc đẩy sự hình thành

và phát triển năng lực ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Tư duy lý luận là tư

duy biện chứng (biết suy nghĩ, xem xét các vấn đề, sự kiện, quan hệ, tình

huống một cách khoa học). Tư duy lý luận được thể hiện ở năng lực suy nghĩ,

khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát từ những hiện tượng sinh động, đa

dạng của đời sống thực tiễn, từ kinh nghiệm muôn vẻ của hoạt động hàng

ngày tích lũy và khái quát thành lý luận. Năng lực tư duy lý luận của người

cán bộ lãnh đạo chủ chốt có giá trị định hướng cho hoạt động nhận thức và

hoạt động thực tiễn của họ. Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri

thức lý luận tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ

đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ sự trải nghiệm

trong hoạt động thực tiễn của chính người cán bộ. Nội dung của năng lực ấy

thể hiện trước hết ở năng lực phản ánh những vấn đề bản chất, tìm ra mâu

thuẫn, phát hiện những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng

các hình thức và phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở

cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh ở địa phương.

- Dương Minh Đức, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

lãnh đạo cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006).

26

Tác giả đã đưa ra định nghĩa năng lực tư duy lý luận và sự cần thiết

phải nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh trong giai

đoạn hiện nay; qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng năng lực tư duy lý luận

của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay

tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hơn nữa năng lực tư duy

lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh.

- Luận văn Thạc sĩ Triết học của Trần Thiên Tú (2006): “Vấn đề nâng

cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung

Bộ - qua thực tế tỉnh Quảng Trị”.

Tác giả Luận văn khẳng định tư duy lý luận là một trong những yêu cầu

quan trọng hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo quản lý, việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề có ý nghĩa

rất quan trọng, vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược. Bởi lẽ, năng

lực tư duy lý luận là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương; là

cơ sở để chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Tác giả đã trình bày được các khái niệm cơ bản “tư duy”, “tư duy lý

luận”, “năng lực tư duy lý luận”; chỉ ra được vai trò của năng lực tư duy lý

luận đối với hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Từ việc đánh giá thực

trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc

Trung Bộ (qua thực tế tỉnh Quảng trị) từ đó đưa ra giải pháp cơ bản nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh

ở Bắc Trung Bộ.

- Vũ Văn Viên, “Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán

bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo của

Đảng” (Tạp chí Triết học, số 12/2007).

Tác giả khẳng định nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán

bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

27

Trên cơ sở đó làm rõ khái niệm năng lực tư duy khoa học, vai trò của nó đối

với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như các bộ phận hợp thành nó, tác giả nhấn

mạnh một số biện pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy khoa học của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo.

- Nguyễn Đức Quyền, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

cán bộ chủ chốt ở tỉnh Lạng Sơn” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội, 2010).

Tác giả đã đi sâu phân tích tầm quan trọng của tư duy lý luận đối với

đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và đánh giá thực trạng tư duy lý luận của đội

ngũ này; phân tích và làm sáng tỏ nguyên nhân hạn chế và những yếu tố ảnh

hưởng tới năng lực tư duy của họ. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra các giải pháp

nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh trong

giai đoạn hiện nay.

* Đánh giá chung

Đây là những công trình nghiên cứu tương đối gần với đề tài nghiên

cứu của Luận án, giúp cho tác giả Luận án nắm được phương pháp luận trong

nghiên cứu, mổ xẻ, phân tích vấn đề để làm rõ được vấn đề cần nghiên cứu và

thực hiện được mục đích nghiên cứu. Cụ thể trên các phương diện sau:

Một là, vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của các chủ thể, đối

tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng viên, người cán bộ quản lý các

cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Hai là, đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của các đối tượng

cụ thể (cán bộ, đảng viên, giảng viên) gắn với từng lĩnh vực công tác, đặc thù

vùng miền của các đối tượng, từ đó đề xuất một số giải để nâng cao năng lực

tư duy lý luận cho các đối tượng đó.

Ba là, việc đề xuất một số quan điểm cũng như giải pháp nâng cao năng

lực tư duy lý luận phải trên cơ sở gắn với đối tượng cụ thể, điều kiện cụ thể,

cũng như với các yếu tố đặc thù khác của từng địa phương, đơn vị.

28

1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án

Có thể nhận định, nghiên cứu về tư duy nói chung và tư duy lý luận nói

riêng không phải là một nội dung mới. Qua việc tiếp cận với các nghiên cứu

đã được lược khảo trên tôi thấy rằng các công trình nghiên cứu trên tạo thành

một bức tranh sinh động, phong phú về mảng nghiên cứu tư duy lý luận. Các

công trình nghiên cứu đã giúp tôi có tiếp cận các tri thức chung về tư duy, tư

duy lý luận, năng lực tư duy lý luận; các vấn đề thực tiễn của các địa phương

trong cả nước; những vấn đề về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà

nước;... Đặc biệt hơn là phương pháp trong việc đánh giá, nhìn nhận vấn đề,

đóng vai trò tiền đề, là phương pháp luận để tôi thực hiện đề tài của mình.

Tuy nhiên tôi thấy rằng, các công trình nghiên cứu trên và công trình nghiên

cứu của chúng tôi có những điểm khác biệt cần có hướng nghiên cứu mới.

Một là, Luận án sẽ khái quát và bổ sung rõ thêm vấn đề tư duy, tư duy

lý luận trong mối quan hệ với vấn đề nhận thức luận.

Hai là, Luận án làm rõ hơn khái niệm “năng lực tư duy lý luận” và

quan trọng nhất là phải giải quyết được “thực chất của việc nâng cao năng lực

tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện

nay” là gì.

Ba là, Trên cơ sở thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, luận án đưa ra một số quan điểm

và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay sát với những điều

kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Tuyên Quang.

29

Kết luận chương 1

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể thấy

hầu hết các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư duy, tư

duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng

lực tư duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn,

cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế;

khẳng định vùng đồng bào các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược quan trọng

trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; khẳng định

đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng to lớn, là nhân tố có

tính chất quyết định để thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc, thực hiện sự

tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc trên đất

nước Việt Nam…

Việc đổi mới tư duy lý luận gắn với việc nâng cao năng lực tư duy lý

luận của các chủ thể, đối tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng viên,

người cán bộ quản lý các cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau của

đời sống xã hội. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý

luận của các đối tượng cụ thể phải gắn với từng lĩnh vực công tác, đặc thù

vùng miền của các đối tượng cụ thể là một việc rất quan trọng, từ đó đề xuất

một số giải pháp thiết thực để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho các đối

tượng đó. Những công trình nghiên cứu được khảo lược là những công trình

nghiên cứu gần với đề tài nghiên cứu của Luận án nhất, giúp cho tác giả Luận

án nắm được phương pháp luận trong nghiên cứu, mổ xẻ, phân tích vấn đề để

làm rõ được vấn đề cần nghiên cứu và thực hiện được mục đích nghiên cứu.

30

Chương 2 NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận

2.1.1. Tư duy lý luận

* Tư duy

Tư duy con người luôn là một trong những vấn đề lớn của triết học.

Nhưng tư duy là gì thì cho đến nay, vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau.

Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với “ý thức”

và “nhận thức” vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống

nhất hữu cơ với nhau. Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm

trù có tính lịch sử.

Theo C.Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc

người và được cải biến đi ở trong đó [42, tr. 35]. Còn V.I.Lênin thì cho rằng ý

thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan [37, tr. 138]. Nói ý thức là

hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền

với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn,

nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách quan. Tuy

là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật,

hiện tượng, quá trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi “cái khách quan” và có

nội dung phản ánh là “cái khách quan” ấy. Tuy nhiên, không phải chỉ cần thế

giới xung quanh tác động lên bộ óc con người là mặc nhiên sẽ sinh ra ý thức.

Bởi vì, ý thức còn là một hiện tượng xã hội, “... ngay từ đầu ý thức đã là một

sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [44, tr.

43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con

người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của

31

các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt

hiện thực của con người quy định. Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều

yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí... Trong đó, tri thức là thành tố

quan trọng nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là quá

trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh. Hiểu biết về

sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật đó càng sâu sắc. Ý thức

là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cho nên hình ảnh chủ quan về

sự vật, hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào sự vật, hiện tượng được phản ánh,

mà còn phụ thuộc vào năng lực, mục đích của chủ thể phản ánh.

Như vậy, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về

chất so với phản ánh tâm lý ở động vật. Ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý

tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan.

Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng -

là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con

người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực

khách quan, trên cơ sở của thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự

phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng sự phản ánh

đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc giản đơn, thụ động mà là

một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo.

Bởi vì, “... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn cải tạo

thế giới khách quan” [38, tr. 228]. Con người cải tạo thế giới khách quan bằng

hoạt động thực tiễn và chính trong quá trình biến đổi thế giới ấy, con người

cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực trí tuệ - năng lực đặc

trưng và bản chất của con người.

Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc

con người nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở

động vật về chất.

32

Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan

một cách tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.

Theo V.I.Lênin, nhận thức là một quá trình “từ trực quan sinh động

đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường

biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”

[38, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai

giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác nhau về chất

nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất hữu cơ, tác

động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con

người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về

các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong thế giới.

Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong

đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội

và gắn liền với hoạt động thực tiễn [106, tr. 407].

Theo triết học, tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của

sự phản ánh tích cực thực tại khách quan của con người, đó là hoạt động phản

ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì

nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm

giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề mang tính bản chất của sự vật

hiện tượng như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, hố đen, cấu tạo tế bào

sống, vận tốc ánh sáng, âm thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp

khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay thế ngoài việc

sử dụng sức mạnh của tư duy.

Vậy tư duy khác gì với nhận thức?

Tư duy là chức năng đặc biệt riêng có của bộ não con người, chỉ có ở

con người. Đó chính là quá trình ý thức của con người tiếp cận và nắm bắt

được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư

33

duy là dạng hoạt động tri thức diễn ra bên trong ý thức của con người có

nguồn gốc từ thực tiễn. Tư duy với tính cách là thuộc tính không thể thiếu

được của hoạt động chủ quan của con người được thể hiện rõ nhất, tập trung

nhất trong hoạt động sáng tạo và trong việc tiên đoán các sự kiện, hiện tượng

của thế giới. Nó cũng được xuất hiện và hiện thực hóa trong quá trình đặt ra

những vấn đề của lý luận và thực tiễn của con người.

Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan bên

trong bộ óc con người. Đó là quá trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản

ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, đem lại

cho quá trình nhận thức những tri thức mới về tính quy luật chi phối sự vận

động và phát triển của sự vật.

Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư

duy, tư duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể

sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy

luật của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật; nếu

không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để lưu giữ, kế thừa và phát triển

tư duy, tư tưởng của loài người.

Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự

nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là “ý niệm tuyệt đối’, “ý niệm

siêu nhiên”... song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và

đã chứng minh được rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức

cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan

bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý... thông qua các phương pháp

như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa.

Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của quá

trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động

của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách

34

quan và định hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những hình ảnh

của sự vật trong thế giới được tư duy chắt lọc loại bỏ những mặt, những yếu

tố bề ngoài ngẫu nhiên, trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản, tất

yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái

niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa

vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng

vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con

người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người trong quá trình phản

ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, phụ

thuộc mà con người chủ động tác động và phản ánh chủ động, sáng tạo thế

giới hiện thực khách quan.

Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm

cách nhận thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại

là cơ sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không

ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự

vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính chất, quy

luật... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là

quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con

người. Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng,

kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan

hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng

thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu được vào

hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó

mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung và

hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch sử

không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người.

Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho

sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này

35

càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát triển theo.

Ăngghen đã nhận định rằng: “Trí tuệ con người đã phát triển song song với

việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [43, tr. 720].

Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ

động nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Tư duy của con người là do

hiện thực khách quan quy định; nhưng chính hoạt động thực tiễn của con

người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy,

thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận

cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục

của tư duy con người.

Tóm lại, ta có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của tư duy như sau:

Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy

luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận

thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt

động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình

độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì phương pháp tư

duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.

Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên

cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng

hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật

vận động và phát triển của thế giới khách quan.

Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm,

phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng

nhằm đạt đến chân lý.

Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự

tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các

nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.

36

Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức

khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là

cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó

là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự

nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó.

Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực

tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự

đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực

tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực

hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với

những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì

trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp

khác nhau.

Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình

biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư

duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn

xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con

người theo Ph.Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện

cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo

bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. V.I.Lênin

khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái

con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết.

Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư

duy là những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự

phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những

quy luật sinh học và xã hội trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định.

Nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất.

37

Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy

rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm

trù đối lập với vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình

độ cao của nhận thức. Như thế, nhận thức, tư duy đều là quá trình hoạt động

để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc hoạt động nhận thức nhưng

là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện

thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.

* Tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận

Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức, hoạt động của

con người cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy

và năng lực tư duy mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh

cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy

kinh nghiệm và tư duy lý luận.

Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng

kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Tư duy kinh nghiệm có

đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian, thời gian với

sự thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm

mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản

ánh các hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Trong khi đó, chủ nghĩa duy

vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách

quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật

trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi

như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài; tự bản thân kinh

nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết mà chỉ nắm

lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách

quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc

phục tính chất trực quan trong trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận

38

kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi

kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác

động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động

đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những

tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm

những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra.

Có thể nói rằng tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực

trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh

nghiệm trong thực tiễn cuộc sống, sản xuất, giao tiếp, người ta có thể rút ra

những kết luận có khi khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng

chưa thể khái quát được những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện

tượng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy.

Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn sản

xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện tượng cụ

thể, khách quan, nhưng rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa sâu sắc, chưa

đi sâu, khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng.

Triết học duy vật biện chứng khẳng định, nhận thức là một quá trình từ trực

quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

Trong quá trình đó con người tích lũy, rèn luyện dần dần phát triển từ trình độ

tư duy kinh nghiệm hay tiền khoa học rồi được nâng lên để đạt tới trình độ tư

duy khoa học phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện

tượng. Vì vậy trong quá trình nhận thức của con người nếu chỉ dừng ở trình

độ kinh nghiệm thì không thể phục vụ tốt cho đời sống hiện thực sinh động

đang diễn ra hàng ngày. Ph.Ăngghen viết: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm

tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [43, tr.

718]. Do đó nhận thức của con người không thể dừng lại ở những kinh

nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận.

39

Trái lại với tư duy kinh nghiệm, nói đến tư duy lý luận là nói đến tư

duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp sự vật hiện

tượng một cách sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của

sự vật, hiện tượng.

Theo PGS. Bùi Thanh Quất thì lý luận là biểu hiện cao nhất của nhận

thức, mà kết quả của nhận thức chính là tri thức và do đó, tư duy lý luận là hệ

tri thức - hệ tri thức này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt logic, tạo thành quan

niệm hoàn chỉnh phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của

khách thể nghiên cứu - đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng

chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Như vậy, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ

bản sau: thứ nhất là tính khoa học; thứ hai tính sáng tạo; thứ ba biết sử dụng

tự giác bộ công cụ của lý tính, như khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý,

các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương pháp, biện pháp cụ

thể dựa trên các căn cứ khoa học; thứ tư gắn liền với thực tiễn, chỉ đạo hoạt

động thực tiễn. Tư duy lý luận khoa học là hoạt động trí tuệ của con người

theo các quy luật nhận thức để nắm được các thuộc tính căn bản của sự vật,

hiện tượng, những mối liên hệ cơ bản giữa chúng, để ngày càng hiểu sâu bản

chất của sự vật, hiện tượng, thấy được những mâu thuẫn và chiều hướng phát

triển khách quan của chúng. Tư duy lý luận khoa học là tư duy về phương

pháp và phương pháp luận. Do đó, tư duy lý luận khoa học chính là trình độ

phát triển cao của năng lực tư duy con người. Người có tư duy lý luận khoa

học là người có ý thức thường xuyên rèn luyện những phương pháp tư duy

khoa học, thường có tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ và hoạt

động thực tiễn.

Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống khái

niệm, phạm trù, quy luật; vì thế nó đem lại hiểu biết sâu sắc về bản chất,

những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách quan.

40

Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực khách quan

dưới dạng tinh thần, theo con đường từu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu vào

nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật của sự vật và hiện

tượng. Vì vậy, tư duy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận

động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cũng chính vì vậy, tư duy lý luận

đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như trong

chỉ đạo hoạt động thực tiễn của xã hội loài người.

2.1.2. Năng lực tư duy lý luận

Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của

nhận thức luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất,

cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc

thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư

duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn về khái niệm năng lực

tư duy, có ý kiến cho rằng, “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí

tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành động sáng tạo

của con người”. Năng lực đó “được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và

hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương

pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của

năng lực tư duy” [41, tr. 48]. Trong quan điểm trên, vấn đề trung tâm, bản

chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ và trên cơ sở

phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo.

Tác giả Hồ Bá Thâm xem năng lực tư duy là “khả năng biến tri thức

thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra

bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy

luật đó trong cuộc sống”. Khả năng ấy được cụ thể: “Năng lực tư duy là tổng

hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên

tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận

41

dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết

quả nhất định” [96, tr. 15 - 18]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản

cấu thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là:

Năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình

ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa

trong phân tích và tổng hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng để

nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động.

Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở

trình độ cao, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính

quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính

khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của

tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau và phải tuân theo một trật

tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích, tổng hợp, so sánh,

trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt động của tư duy, những

phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự

mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa

các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung, tác dụng khác

nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này

là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi

phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng

hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v...

Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức

đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như

vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi

phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự lôgíc

phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức.

Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán

đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò

42

quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện

ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy

mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm

để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để có suy lý

đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm cả

năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả

năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư

duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy

định khách quan của các đối tượng nhận thức.

Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần

nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây

dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó.

Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các góc độ: Năng lực tư duy

thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo

cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy

kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận.

Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm.

Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung,

tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận

động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng

các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái

quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc

và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa,

năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể

hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các

vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn

được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các

43

tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.

Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù

dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình

độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng

hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện,

khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng lực tư duy

là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải... Như vậy,

trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì

thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy

bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các

yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt

năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì

thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được

về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao

đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng: “Năng lực tư duy lý luận là tổng

hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở

trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ

vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực

tiễn của con người” [101, tr.28].

Tác giả Nguyễn Văn Dũng quan niệm, “Năng lực tư duy lý luận của một

chủ thể nhất định (cá nhân, giai cấp, dân tộc…) là tổng hòa các yếu tố tạo nên

khả năng tư duy lý luận của chủ thể ấy, thể hiện ở việc phát hiện, nhận thức đúng

đắn bản chất, quy luật của hiện thực và có những đề xuất sắc bén, đáp ứng định

hướng và quy định chất lượng hoạt động thực tiễn của chủ thể” [19, tr. 31].

Tuy có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đều

thống nhất ở những điểm cơ bản về năng lực tư duy lý luận:

44

- Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào chủ thể tư duy, là tổng hợp

những yếu tố chủ quan của chủ thể như phẩm chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo

tri thức khoa học, kinh nhiệm thực tiễn…

- Năng lực tư duy lý luận là những khả năng sử dụng nội dung, hình

thức, phương pháp, thao tác tư duy khoa học nhằm đáp ứng sự nhận thức ở

trình độ lý luận và sáng tạo ra tri thức mới.

- Đó là khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào hoạt động thực

tiễn mang lại hiệu quả, đồng thời có khả năng dự báo khoa học.

Như vậy có thể hiểu: Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất

trí tuệ của chủ thể nhất định, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn

bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh,

nhạy bén, sáng tạo và có những dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau.

ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao

thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay

trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Năng lực

tư duy lý luận là sự phát triển cao của năng lực tư duy con người, có vai trò to

lớn trong nhận thức cũng như cải tạo thực tiễn. Tùy vào mỗi cấp độ, phạm vi

và đối tượng mà năng lực tư duy lý luận được thể hiện ra. Chính vì thế, năng

lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do

các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.

Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di

truyền của từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di

truyền lại như cấu tạo của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này đóng vai trò

chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác,

nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ nói chung và

45

năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh di truyền mới chỉ

là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát triển, rèn luyện

thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết: “Tư

duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà

có thôi” [43, tr. 487].

Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một

cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng

vai trò quyết định đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều

kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt

được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, không có con đường nào khác

ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. Quá trình

này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri thức mà còn là những

phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là nền tảng,

là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy

nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao

được năng lực tư duy lý luận.

Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của

xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người.

Sự phát triển về năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã

hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những điều

kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học tập, rèn

luyện và công tác của mỗi người. C.Mác đã chỉ rõ, “con người là sản phẩm

của hoàn cảnh”, hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con

người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại xã

hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã

góp phần hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ,

ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình thành được phong cách tư duy năng

46

động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con người đặc biệt phụ thuộc

vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt được. Thật vậy, năng lực tư duy

lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học và

trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút của cái

chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù

của mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm nền tảng tâm sinh lý, khơi dậy mọi

năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng với sự phát triển của khoa học, năng

lực tư duy lý luận cũng có quá trình phát sinh, phát triển của mình; nó không

phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự

phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen nhận xét: “Tư duy lý luận của

mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch

sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do

đó có một nội dung rất khác nhau” [43, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với

mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con

người cũng có những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự

phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc

nâng cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa

học. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình

độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp

tư duy biện chứng.

Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến

năng lực tư duy lý luận của con người. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, “chính việc

người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính

cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người,

và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến

tự nhiên” [43, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu

47

không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực

tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách

quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con

người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực

tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt

ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện

quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành những phương thức, nội

dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn

đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế, trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí

tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng được phát triển.

Thông qua hoạt động thực tiễn, năng lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng

xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức của con người mới được hình thành

và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển.

Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ, động

cơ cho mọi hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện để

hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt động

của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định nào đó về vật chất

hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trích theo V.I.Lênin, Hêghen

đã viết: “Những lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân” [38,

tr. 98]. Như vậy cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích.

Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức,

động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy

lý luận. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn

luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó có thể rèn

luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có được năng lực tư duy lý

luận tốt, những người đó có động cơ không trong sáng thì cũng chỉ là “người

có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng”.

48

Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với

nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác

động đến năng lực tư duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng

tác động đến năng lực tư duy lý luận theo một chiều hướng tích cực sẽ có tác

dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng hơn. Ngược lại, sự tác

động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho năng lực tư

duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các yếu tố

đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực

tư duy. Trong đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của khoa học và

thực tiễn xã hội là điều kiện cần thiết; quá trình giáo dục, đào tạo đóng vai trò

chủ đạo; quá trình tự giáo dục rèn luyện để có được động cơ trong sáng là yếu

tố mang tính quyết định trực tiếp đến việc phát triển năng lực tư duy lý luận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của con người không phải hoàn

toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có.

Như vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, quá trình

học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận là cơ sở chủ yếu của năng

lực tư duy lý luận.

Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của

khoa học và thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không ngừng của

khoa học và thực tiễn, do nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của

con người, năng lực tư duy lý luận cũng luôn trong quá trình phát sinh, phát

triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn. V.I.Lênin đã viết: “Trí tuệ con

người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều điều

kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình với tự nhiên” [118,

tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá trình tự phát mà là quá trình

con người tự giác rèn luyện, học tập nâng cao năng lực tư duy, tự giác tham

gia tích cực vào hoạt động thực tiễn nhằm trau dồi, phát triển khả năng xác

49

lập những tri thức phù hợp với tính quy luật khách quan của sự vật, khả năng

xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng “đối tượng hóa” những tri thức

của loài người vào hoạt động thực tiễn. Chính vì thế mà ý tưởng nâng cao

năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm nắm bắt bản chất sâu xa của sự vật,

biến chúng thành tri thức lý luận trên cơ sở đó mà hình thành được các cách

thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động thực tiễn.

2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc nâng

cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

Việt Nam hiện nay

2.2.1. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và một số vấn đề cơ bản về đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

* Khái niệm “cán bộ”:

Cán bộ là một thuật ngữ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu

thế kỷ XX. Ban đầu, từ “cán bộ” được dùng trong quân đội để phân biệt giữa

chiến sỹ và người chỉ huy. Về sau, từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những

người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân dân.

Trong một thời gian dài ở Việt Nam, từ “cán bộ” được dùng phổ biến thay thế

cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, cán bộ được coi là

tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và

lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính được coi là những người có

mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những người có mức lương

dưới cán sự.

Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “cán bộ” có hai nghĩa cơ bản:

Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan

nhà nước.

Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ

chức, phân biệt với người không có chức vụ.

50

Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/2/1947, khi

giải đáp về người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là

cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động

cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính

sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì

chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [46, tr. 54].

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một

lần nữa khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của

chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình

hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách

cho đúng” [46, tr. 269].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ hoàn toàn phù hợp với quan điểm

của V.I.Lênin. Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi,

đứng trước những nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp của chính quyền Xô

viết non trẻ, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực,

V.I.Lênin đã viết: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh.

Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả những mệnh lệnh và quyết

định chỉ là mớ giấy lộn” [36, tr. 449].

Cán bộ là những cá nhân có trách nhiệm, tư cách cụ thể rõ ràng, gắn

với một tổ chức nhất định. Khi tách rời tổ chức đó, người cán bộ sẽ mất tư

cách của mình. Chính vì vậy, để trở thành cán bộ, mỗi cá nhân phải rèn luyện

và học tập để giữ vững tư cách cán bộ, mỗi cá nhân phải tự tu dưỡng và trau

dồi đạo đức cách mạng.

Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân

dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình

độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao.

Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng

Cộng sản Việt Nam, đảm bảo nguyên tắc tập thể, dân chủ, đi đôi với phát huy

trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

51

Theo quan niệm của Đảng ta hiện nay, “cán bộ” được hiểu là những

người công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao gồm:

bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị; có

năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị trí và

nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với

Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu,

hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.

Tất cả cán bộ công tác trong hệ thống các cơ quan nhà nước và hưởng

lương từ ngân sách nhà nước đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh cán

bộ, công chức. Trong trường hợp này, tất cả các công chức, viên chức nhà

nước; các công chức, viên chức trong các tổ chức chính trị, các tổ chức chính

trị - xã hội; sỹ quan, sỹ quan chuyện nghiệp, công nhân viên quốc phòng công

tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam; sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp

công tác trong lực lượng Công an nhân dân đều được coi là cán bộ.

Tuy nhiên, trên thực tế có một số đối tượng chưa thuộc phạm vi điều

chỉnh của Luật cán bộ, công chức nhưng vẫn được coi là cán bộ như: Một

số chức danh trong đội ngũ cán bộ tại xã, phường, thị trấn; đội ngũ cán bộ

tại thôn, bản.

* Khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”

Cả nước ta hiện nay có 54 dân tộc, trong số 54 dân tộc có những dân

tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thủa ban đầu, có

những dân tộc từ nơi khác lần lượt tới định cư trên đất nước ta. Cộng đồng

các dân tộc Việt Nam cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, có truyền

thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục tự nhiên và đấu

tranh xã hội trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng

phát triển đất nước.

Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, số dân giữa các dân tộc

không đều nhau, có dân tộc số dân trên một triệu người như Tày, Thái…

52

nhưng có dân tộc chỉ vài trăm người như Pu Péo, Ró-măm, Brâu… trong đó

dân tộc Kinh là chiếm đa số. Mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt

Nam đều có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền

thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá

của mỗi dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hoá của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam.

Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau

như anh em một nhà, quý trọng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, chung sức

xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước

ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân

tộc ít người; do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân

tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc

anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường

đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống

nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên

Chủ nghĩa xã hội.

- “Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học được sử dụng một cách

phổ biến và thông dụng trên thế giới. Các học giả phương Tây coi đây là một

thuật ngữ khoa học chuyên ngành dân tộc học dùng để chỉ những dân tộc với

nghĩa là những tộc người có số dân ít, thường là chậm phát triển. Trong một

số trường hợp, họ đánh đồng ý nghĩa “dân tộc thiểu số” với “dân tộc lạc hậu”,

“dân tộc chậm phát triển”, “dân tộc kém phát triển” do sự chi phối bởi quan

điểm của giai cấp thống trị.

Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” biểu thị sự tương quan về

dân số giữa các dân tộc trong một quốc gia. Theo quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, khái niệm này dùng để chỉ sự tương quan về dân số giữa các dân

tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc,

53

khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ

phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của mỗi dân tộc không

phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế

- chính trị - xã hội - lịch sử của từng dân tộc.

Theo quan điểm của Đảng ta, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, khái niệm “dân tộc

thiểu số” được hiểu là những dân tộc có số dân chiếm tỷ lệ thấp trong tương

quan dân số. Trong hơn 80 triệu dân thì dân tộc Kinh chiếm 86% dân số, được

coi là “dân tộc đa số”, 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số được coi là “dân

tộc thiểu số” trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Nội hàm của khái niệm “dân tộc thiểu số” còn được vận dụng và phát

triển trong từng điều kiện cụ thể, tùy theo mối quan hệ tương quan về dân số

của mỗi quốc gia, dân tộc.

- Khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số” về thực chất là một khái niệm

kép - một tập hợp của hai khái niệm “cán bộ” và “dân tộc thiểu số”. Khái

niệm này dùng để chỉ những người đang công tác trong các cơ quan, đơn vị

thuộc hệ thống chính trị có thành phần dân tộc xuất thân là các dân tộc thiểu

số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiêu chí để phân biệt “cán bộ dân tộc

thiểu số” trong đội ngũ cán bộ nói chung là có thành phần dân tộc xuất thân từ

các “dân tộc thiểu số”.

Từ sự phân tích trên có thể hiểu về khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”:

Cán bộ dân tộc thiểu số là những người có thành phần xuất thân từ các dân

tộc thiểu số công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao

gồm: bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính

trị; có năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị trí

và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với

Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu,

hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.

54

Trong một số văn kiện của Đảng và nhà nước ta, cụm từ “cán bộ dân

tộc thiểu số” được thay thế bằng cụm từ “cán bộ người dân tộc thiểu số”. Xét

về ngữ thì đây là những cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm thì đây là những

khái niệm có cùng nội hàm, có thể thay thế cho nhau.

* Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự phấn đấu bền bỉ của đồng bào các

dân tộc thiểu số, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được hình thành ở

khắp mọi miền của Tổ quốc. Một số dân tộc thiểu số ở vùng núi thấp, điều

kiện kinh tế - xã hội có nhiều yếu tố thuận lợi, đội ngũ cán bộ thiểu số phát

triển đồng đều và đông đảo hơn, có cơ cấu đa dạng về lứa tuổi, trình độ học

vấn và thành phần dân tộc. Một số dân tộc khác sinh sống ở vùng núi cao,

điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, giáo dục - đào tạo phát triển

chậm, dân trí thấp, đội ngũ cán bộ phát triển hạn chế, thiếu về số lượng, cơ

cấu bị mất cân đối; thậm chí có một số dân tộc thiểu số chưa có cán bộ tham

gia hệ thống chính trị cấp cơ sở như: Cống, Pu Péo, Si La. Có thể khái quát về

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay như sau:

Về cơ cấu cán bộ, ở không ít địa phương, đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số chiếm gần 50%, trong khi các dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh chiếm

trên 70%. Điều đó cho thấy: mặc dù các cấp, các ngành ở địa phương có số

đông đồng bào dân tộc thiểu số đã quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số, song nhìn chung tỷ lệ còn còn quá ít, chưa tương xứng với vị

thế và tiềm năng. Số lượng ít và phân bổ không đều giữa các cấp các ngành.

Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số cấp xã cao hơn cấp huyện, cấp huyện cao

hơn cấp tỉnh; tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số khối Đảng, đoàn thể cao hơn

khối chính quyền.

Đi sâu vào phân tích từng dân tộc cho thấy, tỷ lệ này còn có sự chênh

lệch lớn hơn so với cơ cấu dân cư. Chẳng hạn: Dân tộc Mường tỉnh hòa Bình

55

chiếm trên 62,8% cư dân trong toàn tỉnh, cán bộ dân tộc Mường chiếm

38,79% trong tổng số cán bộ. Tương ứng như vậy, dân tộc Thái 4% và 4,31%,

dân tộc Tày: 2,7% và 1,93%; dân tộc Dao 1,7% và 0,6%; dân tộc Mông 0,5%

và 0,29%... Trong khi đó, ở một số tỉnh, tỷ lệ này có sự chênh lệch rất cao.

Chẳng hạn: Ở huyện Đồng Văn (Hà Giang), đồng bào Mông chiếm 90% số

dân, nhưng cán bộ chỉ chiếm 21% tổng số cán bộ của huyện. Tỷ lệ này cũng

được phản ánh ở huyện Tủa Chùa (Lai Châu) là 80% và 16%; ở Trạm Tấu

(Yên Bái) là 78,6% và 25%... Dân tộc Dao ở Bảo Lạc (Cao Bằng) là 17,2%

nhưng cán bộ người Dao chỉ chiếm 2,4%. Tỷ lệ này ở huyện Văn Yên (Yên

Bái) là 21,6% và 7% [51, tr. 119]. Ở Phong Thổ (Lai Châu), huyện ủy viên là

người dân tộc thiểu số chiếm 36,35%; Sìn Hồ (Lai Châu) cán bộ người dân

tộc thiểu số là huyện ủy viên chỉ chiếm 44,8%; ủy viên Ban Thường vụ người

dân tộc thiểu số chiếm 42,8% trong khi người dân tộc chiếm 96,6% trong cơ

cấu dân cư [58, tr. 172-173].

Về năng lực, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được hình thành

và phát triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, từ đấu

tranh giành độc lập đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số hiện nay, chủ yếu trưởng thành qua cuộc kháng chiến chống

Mỹ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ bao cấp trước đây và những

năm đổi mới vừa qua, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và tin

tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động trước những âm

mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, trước những biến động phức

tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Đại đa số cán bộ người dân tộc thiểu

số có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng

nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc, cố gắng vươn lên nắm bắt những yêu

cầu mới đặt ra trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mở cửa và

hội nhập. Tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cách mạng của người cán

bộ đảng viên; trung thực, thật thà và thắng thắn đấu tranh chống tiêu cực.

56

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay được đào tạo từ nhiều

nguồn và bằng nhiều phương thức khác nhau. Một số lượng lớn cán bộ trưởng

thành trong môi trường quân đội và lao động sản xuất trực tiếp, có trình độ

chuyên môn thấp đã được đào tạo, bồi dưỡng dần trong quá trình công tác,

song kiến thức không hệ thống và cơ bản; một số thuộc lớp trẻ được đào tạo

chuyên sâu về chuyên môn, đồng thời đã và đang được tiếp tục đào tạo, bồi

dưỡng theo một hệ thống chương trình bao gồm: lý luận chính trị (cử nhân,

cao cấp, trung cấp), kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế (chủ yếu bồi

dưỡng từ 1 tháng đến 3 tháng) và một số chương trình bổ trợ khác. Vì vậy,

trình độ của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt… Mặt

khác do trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và quản lý

nhà nước ngày càng tăng lên, năng lực của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

số cũng được nâng lên và thể hiện rõ ở những cấp độ khác nhau như sau:

- Năng lực nắm bắt tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước; có năng lực cụ thể hóa chủ trương chính sách đó phù hợp với tình

hình thực tiễn của địa phương và triển khai thực hiện có hiệu quả. Năng lực ra

quyết định xử lý các tình huống, các vấn đề đột xuất, nảy sinh của đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số cấp xã thường có phần hạn chế hơn so với đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số cấp huyện và cấp tỉnh. Việc xử lý đó thường

bằng các giải pháp mang tính chất tình thế, còn chủ yếu chờ sự trợ giúp và chỉ

đạo của cấp trên.

- Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số ở các địa phương là vận động quần chúng thực hiện các nhiệm vụ

chính trị. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nắm bắt được những tâm

tư nguyện vọng, hiểu được những đặc điểm tâm lý, tập quán và trình độ của

đồng bào các dân tộc nên có năng lực trong tập hợp, đoàn kết các dân tộc anh

em sống trên địa bàn, biết tuyên truyền, giải thích và hướng dẫn đông đảo

57

quần chúng nhân dân các dân tộc tuyệt đối tin tưởng và hăng hái, tích cực

thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số (kể cả

cán bộ Dân vận, cán bộ Mặt trận và Đoàn thể…) có những hạn chế về năng

lực vận động quần chúng như: thiếu khả năng tuyên truyền, vận động và

thuyết phục, nên đã nôn nóng, áp đặt mệnh lệnh và thiên về lựa chọn, xử lý

bằng các biện pháp hành chính… Bên cạnh những phẩm chất tích cực, đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Một

bộ phận ngại khó ngại khổ, ngại đi công tác ở cơ sở (cán bộ ở cấp tỉnh và

huyện) do địa hình đi lại khó khăn, thiếu hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục,

tập quán của đồng bào các dân tộc… Còn có những cán bộ người dân tộc

thiểu số chưa khắc phục được tâm lý an phận, tự ty, ngại học tập, tiếp thu tri

thức mới. Có tác phong gia trưởng, độc đoán, thói quen tùy tiện của nếp sống

tự nhiên trong xã hội truyền thống. Một số cán bộ người dân tộc thiểu số xử lý

công việc thường "nặng tình", "nhẹ lý" do ảnh hưởng của quan hệ dòng họ

dẫn đến những vi phạm pháp luật. Một bộ phận không nhỏ còn thiếu kiến

thức về quản lý kinh tế, nên việc xác định cơ cấu kinh tế ở nhiều vùng trên địa

bàn tỉnh còn chưa phù hợp, chưa khai thác và phát huy được hết tiềm năng,

thế mạnh từng vùng.

- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là một vấn

đề có tính chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an

ninh - quốc phòng khu vực miền núi nước ta hiện nay. Các chính sách đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số cấp huyện là một trong

những nội dung thiết yếu trong chiến lược đó.

Hệ thống trường Phổ thông Dân tộc nội trú, Trường Phổ thông Dân tộc

bán trú, Trường Dự bị đại học cho con em dân tộc được thành lập; Các trường

được ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách; Nhà nước

58

thực hiện tuyển sinh vào đại học và trung học chuyên nghiệp theo chế độ cử

tuyển đối với con em dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn để đào tạo đội ngũ cán bộ cho vùng này. Điều đó thể hiện sự quan tâm

lớn của Nhà nước ta trong công tác tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số. Chính phủ đã có trên 28 văn bản (nghị quyết, nghị định,

quyết định, chỉ thị và công văn) đôn đốc thực hiện chế độ chính sách trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu số. Các Bộ ngành

(gồm có Bộ Giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính) đã có hơn 20 quyết định, chỉ

thị, thông tư dành riêng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

dân tộc thiểu số.

Hệ thống chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đã được

các Bộ, ngành liên quan cụ thể hóa cho phù hợp với từng giai đoạn cách

mạng, từng đối tượng cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói

riêng, đáp ứng kịp thời công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.

Tuy nhiên, từ chủ trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng của các ban, ngành từ Trung ương đến địa

phương còn là một khoảng cách khá xa. Một mặt, do hệ thống chính sách này

được duy trì quá lâu, chưa kịp thời đổi mới cùng với sự đổi mới chung của cả

nước, chậm được bổ sung điều chỉnh nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; mặt khác, việc triển

khai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ này của các cấp, các ngành chưa thành chương trình, kế hoạch cụ

thể để thực hiện có hiệu quả; chính sách chưa đề cập đến tính đặc thù trong

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, dù rằng từ trước tới

nay ở các văn bản mang tính pháp quy của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo có

thực hiện ưu tiên các dân tộc thiểu số, trong đó có việc cộng thêm điểm (hoặc

hạ thấp điểm chuẩn) tại các kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng

59

cho con em các dân tộc thiểu số và miền núi. Không thể phủ nhận tính tích

cực của chủ trương này là đã tạo được một đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

số ngày càng đông đảo, nhưng thực tế cho thấy cách làm đó cũng phần nào

ảnh hưởng tới chất lượng của đội ngũ cán bộ sau này.

Nhìn chung các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói

chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng ở nước ta hiện nay về cơ bản

vẫn còn thiếu đồng bộ, nhất quán: có địa phương thì áp dụng chế độ chính

sách này, có địa phương thì áp dụng chế độ chính sách khác, kinh phí về đào

tạo, bồi dưỡng do Trung ương cấp chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu của địa

phương nên địa phương nào có nguồn thu ngân sách lớn thì chi cho đào tạo,

bồi dưỡng nhiều, còn địa phương nào có nguồn thu ngân sách ít thì chi cho

đào tạo, bồi dưỡng ít.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số tuy đã được

đẩy mạnh nhưng hiệu quả còn thấp, chất lượng chưa cao. Đào tạo chưa gắn

với quy hoạch, chưa chú ý đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh, thậm chí còn

mang tính tự phát, tràn lan; một bộ phận cán bộ tự thấy: "cần gì, học nấy" nên

dẫn đến tình trạng có những trường hợp cùng một thời điểm tham gia học cả

hai lớp. Trong chỉ đạo, nặng về bồi dưỡng, đào tạo tại chức nhiều hơn đào tạo

chính quy nhưng thiếu kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ một cách có hệ

thống. Chưa tích cực đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng

xa. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thấp, nhất là

chưa có chính sách chế độ riêng cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc

thiểu số (tính từ năm 1996 đến hết năm 2005). Nội dung, phương thức đào tạo

mới dừng lại ở việc đào tạo chung cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành.

Chưa chú trọng đến việc lập kế hoạch, chương trình đào tạo riêng cho đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở.

60

2.2.2. Thực chất, vai trò, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay

Từ những phân tích cụ thể về “tư duy lý luận”, “năng lực tư duy lý

luận”, “cán bộ dân tộc thiểu số” và “một số vấn đề về cán bộ người dân tộc

thiểu số hiện nay”, có thể nhận thấy:

- Năng lực tư duy lý luận được thể hiện ở khả năng nắm bắt được bản

chất, linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với

nhiệm vụ của người cán bộ dân tộc thiểu số; ở khả năng nắm bắt vấn đề,

nhiệm vụ thực tiễn của quốc gia cũng như các xu thế biến đổi của thế giới và

ở khả năng đề ra phương hướng tối ưu để giải quyết vấn đề, nhiệm vụ đó.

- Năng lực tư duy lý luận của người cán bộ dân tộc thiếu số có giá trị

định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ trước

những vấn đề sinh động của thực tiễn đất nước và nhiệm vụ chính trị được

đảm nhiệm.

- Nội dung của năng lực tư duy lý luận thể hiện trước hết ở năng lực

khám phá được những vấn đề mang tính bản chất, tìm ra mâu thuẫn, phát hiện

những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng các hình thức và

phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở cho việc giải quyết

những vấn đề thực tiễn.

- Năng lực tư duy lý luận thể hiện ở khả năng tư duy khoa học về

những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh

thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng sáng tạo trong sử

dụng các khái niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa,

khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, toàn diện,

hệ thống, phù hợp với tính quy định vốn có của hiện thực khách quan. Hơn

nữa, năng lực tư duy lý luận còn có khả năng vận dụng lý luận vào cuộc sống,

61

cụ thể hóa lý luận, dựa vào lý luận mà xây dựng các giải pháp, các phương án

giải quyết các vấn đề của thực tiễn một cách tối ưu.

Do đó, nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiếu số là quá trình tác động tích cực, chủ động, tự giác của các chủ thể

nhằm trang bị, bổ sung, bồi đắp những phẩm chất trí tuệ của chủ thể nhất định,

đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của sự vật,

hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh, nhạy bén, sáng tạo và có những

dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và

hoạt động thực tiễn của con người.

Mục đích của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số là nhằm trang bị, bổ sung, bồi đắp những tri thức và

phương pháp tư duy khoa học để nâng cao hơn nữa khả năng, hiệu quả của

hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Chủ thể của quá trình nâng cao là cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ

quan chức năng, đặc biệt bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là

chủ thể chủ yếu và trực tiếp nhất.

Nội dung cốt lõi của quá trình nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số là đảm bảo cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

được phát triển tri thức, văn hóa (trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận

chính trị…), khả năng thu nhận tri thức, khái quát hóa tri thức, phát triển tri

thức, vận dụng tri thức một cách đúng đắn và sáng tạo để phục vụ cho hoạt

động thực tiễn. Bên cạnh đó nâng cao hơn nữa thể lực, sức khỏe để đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Vậy, thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động

lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri

62

thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng

tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành

bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.

Có thể thấy, chủ thể của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là con

người cụ thể (ở đây là cán bộ người dân tộc thiểu số) và có mục đích rõ ràng;

năng lực tư duy lý luận là khả năng, là phẩm chất tâm sinh lý của con người,

là sự thống nhất biện chứng giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội tạo nên sức

mạnh trí tuệ ở con người. Nói cách khác, năng lực tư duy lý luận vừa mang

tính bẩm sinh, vừa là một sản phẩm của lịch sử - xã hội. Năng lực tư duy lý

luận là khả năng tích lũy vốn kiến thức, là phương pháp huy động nguồn tri

thức, là nghệ thuật sử dụng tri thức và là kỹ năng xử lý thông tin một cách

khoa học, hiệu quả. Chính vì thế năng lực tư duy lý luận phải được mài rũa

thường xuyên, phải thông qua hoạt động thực tiễn để biến những tri thức và

phương pháp tư duy thành phẩm chất trí tuệ và sức mạnh vốn có của chủ thể

tư duy, tạo ra sự nhạy bén, chính xác như một nghệ thuật trong suy nghĩ,

cũng như hành động.

Năng lực tư duy lý luận không hẳn chỉ là trình độ tri thức, học vấn của

mỗi người, nhưng cũng không tách rời trình độ tri thức, học vấn của mỗi

người. Trình độ tri thức, học vấn là nền tảng, là thành tố quan trọng và vô

cùng cần thiết để tạo nên năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận sẽ

được nâng cao khi và chỉ khi học vấn, tri thức được tích lũy càng nhiều. Do

đó, có thể xem năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của

chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của

sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh, nhạy bén, sáng tạo đối

với hiện thực. Từ đó có những dự báo, đề xuất thiết thực, sắc bén, góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

63

Tiêu chí đánh giá cụ thể về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số gồm: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đề ra hoặc tham

mưu được những nghị quyết, chủ trương đúng đắn, kịp thời; khả năng vận

dụng linh hoạt, sáng tạo chị thị nghị quyết vào hoạt động thực tiễn; có năng

lực điều hành, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao;

có khả năng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn.

Vì vậy, vai trò việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở các nội dung sau:

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là tiền đề quan trọng giúp đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nhận thức sâu sắc về bản chất cách mạng

và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức

đúng đắn những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác, kiên định, lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho

mọi hành động.

Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa, hội

nhập và phát triển, hoạt động của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

thường xuyên phải va chạm với những vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa

mang tính thực tiễn, vô cùng khó khăn phức tạp thì việc kiên định lựa chọn lý

luận khoa học, đúng đắn để chỉ đạo hoạt động thực tiễn là vô cùng cần thiết

“…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính

nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [45, tr. 268].

Một mặt, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải tiếp thu, vận dụng

chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát

triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới.

Cho nên, họ phải hiểu rõ và nắm được thực chất bản chất cách mạng và khoa

học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,

chính sách và pháp luật của Nhà nước.

64

Mặt khác, theo Ph.Ăngghen năng lực tư duy lý luận chỉ là bẩm sinh

dưới dạng khả năng, muốn phát triển tư duy lý luận phải có điều kiện và sự

rèn luyện. Một trong những cách tốt nhất để rèn luyện năng lực tư duy lý

luận, đó chính là nghiên cứu triết học và lịch sử triết học. Đó là một trong

những bước để tiếp cận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một

cách sâu sắc nhất, tổng quan và khoa học của triết học nói chung và triết học

Mác - Lênin nói riêng. Trên cơ sở đó hình thành năng lực định hướng đúng

đắn và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của

người cán bộ dân tộc thiểu số. Nếu không nhận thức đúng đắn bản chất khoa

học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong mọi công việc sẽ kém hiệu

quả hơn. Hơn nữa, việc học tập nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, nhuần nhuyễn cả về phương pháp và nội dung lại góp phần nâng

cao chính năng lực tư duy lý luận của họ.

Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số không những nhận thức sâu sắc lý luận mà còn giúp họ triển

khai đường lối của Đảng, chính sách pháp luật cuả Nhà nước bằng cách cụ

thể hóa đường lối chung vào hoạt động thực tiễn của mình một cách hiệu

quả nhất. Nhận thức càng sâu sắc thì hành động càng đúng đắn, vì vậy, công

việc sẽ hiệu quả hơn. Do đó, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận đóng vai

trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị tích lũy các tri thức cho đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số; đồng thời còn giúp họ có khả năng tiếp thu có hiệu

quả những tri thức khoa học khác. Thực tế cũng chỉ ra rằng, nếu hiểu sai,

hiểu không đúng, nắm không chắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

thì cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng sẽ vấp phải

những sai lầm không đáng có trong hoạt động thực tiễn, dẫn tới cản trở, gây

65

ảnh hưởng xấu tới kết quả thực hiện những nhiệm vụ chính trị được tổ chức

và nhân dân giao phó.

Có hiểu biết sâu sắc bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước mới vận dụng được lý luận khoa học đó vào hoạt

động thực tiễn, đặc biệt khi đứng trước những vấn đề mới nảy sinh người cán

bộ không hoang mang, dao động, mới tự tin, bình tĩnh tìm cách giải quyết vấn

đề, nhằm phát triển tiềm lực ở địa phương mình, giải quyết tốt những nhiệm

vụ được giao. Đảng ta xác định rất rõ ràng: công cuộc đổi mới hiện nay phải

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Đổi mới không phải xa rời mà

là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam

cho hành động cách mạng. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về

hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn

trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong hành động. Vì vậy, kiên định

và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn

đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ

công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số không chỉ tự nhận thức đúng đắn những vấn đề đã, đang diễn ra

đồng thời biết vận dụng sáng tạo lý luận trong việc đề ra những hoạt động

thực tiễn tiếp theo.

Nhờ được nâng cao năng lực tư duy lý luận, cán bộ người dân tộc thiểu

số mới có khả năng tự phát hiện bản chất vấn đề đã và đang diễn ra thông qua

nhiều hiện tượng phức tạp ngẫu nhiên, phát hiện ra những mối liên hệ mang

66

tính quy luật cũng như xu hướng và phương thức vận động biến đổi của các

sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội mang tích lịch sử. Từ đó

giúp đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có thể thâm nhập vào các sự vật

hiện tượng, phát hiện mâu thuẫn, tìm ra những vấn đề mới, những mâu thuẫn

mới nảy sinh trong hoạt động thực tiễn cần được giải quyết; giúp họ so sánh

để phân biệt cái giống và cái khác nhau, cái đúng, cái sai; giúp họ từ những

vấn đề riêng lẻ, khái quát tìm ra những đặc tính chung, những nguyên nhân cơ

bản, chủ yếu cũng như nắm bắt vấn đề trong tính chỉnh thể, hệ thống… Trên

cơ sở đó hoạt động chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của họ mới thiết thực,

hiệu quả.

Nhờ được nâng cao năng lực tư duy lý luận, người cán bộ dân tộc

thiểu số dù ở cương vị nào cũng có thể vận dụng một cách sáng tạo lý luận

vào thực tiễn địa phương một cách đúng đắn. Bởi nhiệm vụ chính trị của cán

bộ người dân tộc thiểu số ở mỗi địa phương khác nhau sẽ là khác nhau, mỗi vị

trí khác nhau sẽ là khác nhau do đó phải xuất phát từ thực tiễn địa phương, từ

đường lối của Đảng để xây dựng được các mục tiêu, mô hình, các chương

trình hành động cũng như các giải pháp cụ thể, thiết thực để thực hiện các

mục tiêu đã đề ra. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, việc nâng cao

năng lực tư duy lý luận giúp cán bộ người dân tộc thiểu số nâng cao tính nhạy

bén, phát hiện cái mới, dám nghĩ, dám làm cái khó, dám sáng tạo mô hình

riêng và tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số phát huy được năng lực xử lý thông tin, trên cơ sở đó đưa ra được

các quyết định đúng đắn, chính xác, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của thông tin và các phương tiện

truyền thông hiện đại đã có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến mọi khía

cạnh của đời sống xã hội. Ảnh hưởng tích cực là giúp con người có thể tìm

67

kiếm và tiếp cận với rất nhiều luồng thông tin, sự kiện, có thể trao đổi thông

tin, giao lưu học hỏi… Tuy nhiên, trong thời đại thông tin bùng nổ như hiện

nay, nếu không có phương pháp xử lý thông tin tốt thậm chí con người có thể

“chết ngập trong thông tin mà vẫn thiếu thông tin”. Do đó, điều qua trọng là

phải biết xử lý thông tin đúng đắn, kịp thời, chính xác để phục vụ cho công

tác, đồng thời biết định hướng thông tin cho cộng đồng.

Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số luôn biết cách phân tích, xử lý thông tin, kịp thời bổ sung, điều

chỉnh hoạt động cho phù hợp với thực tiễn địa phương hơn. Vì vậy, có thể

nói, nếu xử lý thông tin tốt sẽ góp phần quan trọng làm cho việc chỉ đạo thực

tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiệu quả hơn.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn.

Năng lực tổng kết thực tiễn được thể hiện ở khả năng nắm bắt vấn đề

thực tiễn cần tổng kết; khả năng phân tích, tổng hợp, chắt lọc những thông tin

cơ bản, chủ yếu của vấn đề, đúc rút bài học góp phần xây dựng đường lối, bổ

sung phát triển lý luận. Để đạt được những yêu cầu này cần phải có sự hỗ trợ

của năng lực tư duy lý luận. Bởi vì, năng lực đó giúp người cán bộ dân tộc

thiểu số có khả năng định hướng công tác tổng kết thực tiễn, biết sử dụng

những phương pháp tư duy khoa học để phát hiện kịp thời cái mới, cái tiến

bộ, tìm ra những mâu thuẫn phát sinh trong thực tiễn để xây dựng các phương

án khuyến khích, nâng đỡ cái mới tiến bộ, giải quyết mâu thuẫn một cách tối

ưu nhất. Hoạt động thực tiễn là quan trọng nhưng không phải cứ có nhiều

kinh nghiệm thực tiễn là khái quát được thành lý luận đúng. Đó mới chỉ là

điều kiện cần cho khái quát lý luận. Muốn khái quát kinh nghiệm thực tiễn

thành lý luận thì phải có lý luận, có năng lực tư duy lý luận.

Chỉ trên cơ sở lý luận khoa học và phương pháp tư duy biện chứng

duy vật, hoạt động tổng kết thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số mới

68

đảm bảo được tính khách quan, khoa học và tính mục đích đúng đắn. Tức là

bảo đảm cho những bài học, những kết luận rút ra mang tính lý luận khoa học,

có giá trị chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số nâng cao năng lực phê phán, đấu tranh với những cái sai, cái lạc

hậu, bảo thủ

Với sự phong phú, sinh động, đa dạng, phức tạp của hoạt động thực

tiễn, người cán bộ dân tộc thiểu số còn vấp phải nhiều vấn đề khó khăn gây

cản trở đến quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn như vấn đề lợi ích,

quyền lực chính trị, vấn đề dân tộc, tôn giáo… Để giải quyết những vấn đề đó

một cách hài hòa, khéo léo, hiệu quả thì phải có bản lĩnh chính trị vững vàng

trên cơ sở lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khả năng

tư duy nhạy bén, tinh thần đấu tranh, phê phán không ngừng nghỉ… Chính vì

vậy việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số nhận thức được chân lý của vấn đề, biết vận dụng lý luận để phê phán

lý luận, biết vận dụng thực tiễn trong những điều kiện cụ thể của thực tiễn và

thực chất là tìm ra lẽ phải, dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai,

cái lạc hậu.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập

hợp cán bộ, quần chúng nhân dân để tạo thành phong trào cách mạng sâu rộng.

Phải khẳng định rằng, để thực hiện được nhiệm vụ chính trị được Đảng,

Nhà nước và nhân dân giao phó, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải

thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết

phục, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Để làm được điều đó, bên cạnh

những thuận lợi của mình như hiểu cơ sở, gần nhân dân, có uy tín nhất định

69

trong cộng đồng dân tộc của mình và cộng đồng dân tộc khác… đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số phải có đạo đức cách mạng trong sáng, liêm khiết,

chí công vô tư, có năng lực thuyết phục mọi người tin tưởng và tự giác hành

động theo. Năng lực công tác ấy sẽ được nâng cao nếu người cán bộ dân tộc

thiểu số nâng cao được năng lực tư duy lý luận của mình. Bởi lẽ, có năng lực

tư duy lý luận, cán bộ người dân tộc thiểu số mới hiểu sâu sắc vấn đề, biết

cách giải thích, thuyết phục quần chúng nhân dân hiểu đúng các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo được sự đồng

thuận của quần chúng nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của

đất nước, địa phương, đơn vị.

- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số nâng cao tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ, thử thách,

khó khăn trong quá trình nghiên cứu lý luận, hoạt động thực tiễn.

Như ta đã biết, người cán bộ dân tộc thiểu số để có thể thực hiện tốt

được nhiệm vụ của mình thì phải luôn nhận thức được đúng đắn những vấn đề

đã, đang diễn ra và phải dự báo được những vấn đề sẽ xảy đến; phải xử lý

được những thông tin đa chiều để đưa ra những quyết định đúng đắn; phải lăn

lộn với cơ sở để tổ chức động viên, thuyết phục cơ sở tạo thành phong trào

cách mạng của quần chúng nhân dân; phải thường xuyên tự trang bị tri thức

khoa học chuyên môn, nghiệp vụ, trang bị một hệ thống lý luận khoa học,

đúng đắn; đồng thời phải thực sự hiểu được bản chất khoa học, đúng đắn của

hệ thống lý luận đó. Từ đó mới vận dụng những tri thức khoa học vào hoạt

động thực tiễn và ngược lại mới suy xét, tổng kết những hoạt động thực tiễn

để soi vào và bổ sung cho lý luận.

Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận của mình,

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số dù luôn luôn cố gắng vẫn gặp phải

muôn vàn những khó khăn cản trở trong cả lý luận và thực tiễn như: nhiều

70

vấn đề về lý luận mà bản thân họ cũng như xã hội vẫn chưa thể trả lời được

một cách thấu đáo; chịu sự tác động của môi trường công tác, điều kiện kinh

tế xã hội; các vấn đề về chính sách thu hút, đãi ngộ dành cho cán bộ người

dân tộc thiểu số vẫn còn bất cập; sự tác động tiêu cực từ xu thế liên kết, hội

nhập và phát triển xã hội; sự hạn chế về khả năng ngôn ngữ; đặc biệt chịu ảnh

hưởng nhiều từ phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phong tục tập

quán dân tộc, vùng miền… Tất cả những yếu tố kể trên tác động rất mạnh đến

người cán bộ dân tộc thiểu số mà nếu như không vượt qua được sẽ ảnh hưởng

rất lớn tới những thành quả mà cả xã hội và chính họ dày công tạo dựng được.

Do đó việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp cho đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số tinh thần lạc quan trước những khó khăn gian khổ, có thêm

động lực mạnh mẽ để vượt qua những thử thách mà họ gặp phải và đặc biệt

họ sẽ tìm thấy niềm vui trong những gian khổ, chông gai bước đầu.

71

Kết luận chương 2

Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận

thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang

tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động

và phát triển của thế giới khách quan. Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi,

vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc

hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý. Tư duy là quá trình sáng

tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những nhận thức

mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động

thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát

trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với

ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt

thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện

để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả

của nhận thức đó.

Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá

trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp

các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở

trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ

vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực

tiễn của con người.

Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau.

ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao

thấp khác nhau. Năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều

kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối như bẩm

sinh, di truyền, môi trường xã hội, quá trình học tập rèn luyện, hoạt động thực

tiễn, nhu cầu, lợi ích…

72

Hiện nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được hình thành ở

khắp mọi miền của Tổ quốc. Họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành

và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động trước những

âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, trước những biến động

phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế; có đạo đức trong sáng, lối sống

lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc,

cố gắng vươn lên nắm bắt những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình chuyển

đổi cơ chế quản lý kinh tế mở cửa và hội nhập.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số có nhiều

hạn chế trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hạn chế

về năng lực vận động quần chúng. Những hạn chế đó là biểu hiện hạn chế về

năng lực tư duy lý luận. Để phát huy được những mặt mạnh, hạn chế những

yếu kém, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số hiện nay là điều vô cùng cần thiết.

Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số hiện nay chính là làm cho đội ngũ này trở thành động

lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri

thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng

tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành

bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.

73

Chương 3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY

3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một số

đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang hiện nay

3.1.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang là tỉnh giàu truyền thống cách mạng. Trong kháng chiến,

nhân dân các dân tộc Tuyên Quang luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng: xây

dựng, chiến đấu, bảo vệ Thủ đô kháng chiến, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ

quan đầu não cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đóng góp sức người, sức

của trong suốt kháng chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng

nước ta. Lịch sử đã hun đúc nên những giá trị truyền thống quý báu của nhân

dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, đó là truyền thống yêu nước nồng nàn,

lòng căm thù giặc sâu sắc, đoàn kết một lòng, khắc phục khó khăn, vượt qua

thử thách, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng. Truyền thống Cách

mạng Tháng Tám quật khởi luôn là mạch nguồn bất tận, thấm sâu vào ý chí,

tình cảm của mọi người dân Tuyên Quang. Kế thừa những truyền thống tốt

đẹp đó, cán bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đang ra sức phấn đấu

xây dựng tỉnh Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với

truyền thống cách mạng hào hùng của miền đất đã vinh dự là Thủ đô Khu giải

phóng, Thủ đô Kháng chiến, tỉnh Anh hùng.

Về dân số và cư trú

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có vị trí địa lý

từ 21o30’ đến 22o41’ độ vĩ Bắc, từ 104o50’ đến 105o35’ độ kinh Đông. Phía

Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, vĩnh Phúc;

74

phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên; phía

Tây giáp tỉnh Yên Bái. Địa hình Tuyên Quang là miền chuyển tiếp từ địa hình

núi sang địa hình đồi, trong đó địa hình núi chiếm ưu thế, bị chia cắt bởi hệ

thống sông ngòi dày đặc, núi đồi trùng điệp thung lũng sâu. Vùng cao phía

Bắc có độ cao trung bình 600m so với mực nước biển, phía Nam của tỉnh là

vùng đồi núi thấp và các soi bãi rộng màu mỡ cùng các thung lũng lớn.

Diện tích tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang là 5.780km2, trong đó vùng cao

chiếm 53% diện tích. Toàn tỉnh gồm có 6 huyện và 1 thành phố, với 141 xã,

phường, thị trấn; 2.096 thôn, bản, tổ nhân dân, trong đó có 761 thôn, bản đặc biệt

khó khăn, 32 xã vùng cao, 2 xã vùng sâu, vùng xa; dân số toàn tỉnh 746.669

người (năm 2013), thành thị 98.693 người, nông thôn 647.796 người; có 61 xã

đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu và 245 thôn, bản đặc biệt khó khăn ở các xã

khu vực I và khu vực II thuộc điện đầu tư Chương trình 135. Tỉnh có 22 dân tộc,

trong đó dân tộc kinh chiếm 46,27%, dân tộc Tày chiếm 25,56%, dân tộc Dao

chiếm 12,39%, dân tộc Sán Cháy 8,45%, còn lại là các dân tộc khác [5].

Đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sinh sống xen kẽ với

các dân tộc khác, chủ yếu ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng núi,

giao thông đi lại khó khăn; nhà ở chủ yếu làm bằng gỗ; mỗi dân tộc có những

đặc điểm riêng về phong tục, tập quán. Từng môi trường sinh sống đó đã ảnh

hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống cũng như phát

triển kinh tế, văn hóa - xã hội trong đồng bào.

Về kinh tế và đời sống

Kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang còn nhiều

khó khăn, sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, chỉ có một bộ phận người dân tộc

thiểu số cư trú lâu đời ở tỉnh Tuyên Quang như dân tộc Tày, Cao Lan, Sán

Dìu do khai phá được ruộng nước, có cuộc sống tương đối ổn định. Chăn nuôi

và ngành nghề thủ công kém phát triển, trình độ canh tác còn lạc hậu, năng

75

suất lao động thấp, sản xuất mang nặng tính tự cấp, tự túc, phụ thuộc vào

thiện nhiên. Những năm qua được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm triển

khai các chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình, dự án đầu tư

phát triển kinh tế - xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số đã khắc phục được

tình trạng du canh, du cư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển; cơ sở hạ tầng

được đầu tư; hệ thống chính trị được củng cố, đến nay 100% thôn, bản vùng

đồng bào dân tộc thiểu số có tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trình độ

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên; bộ mặt nông thôn miền

núi có nhiều đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần đồng bào các dân tộc

thiểu số ngày càng được cải thiện; an ninh chính trị được duy trì và giữ vững,

đồng bào các dân tộc tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước.

Về văn hóa - xã hội

Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang còn

thấp và không đồng đều, tỷ lệ người không biết chữ vẫn còn (theo kết quả

điều tra dân số ngày 1/4/2009 - còn 6%, chủ yếu là ở lứa tuổi già), nhưng đa

số người dân tộc thiểu số biết nói tiếng phổ thông (90% dân số). Việc phát

triển giáo dục trong vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế do giao thông đi lại

khó khăn, đa số học sinh dân tộc thiểu số chỉ học hết cấp I hoặc cấp II là bỏ

học, một phần do quá độ tuổi quy định; số theo học ở các trường Trung học

phổ thông, các trường Đại học, Cao đẳng chiếm tỷ lệ rất ít [5].

Các dân tộc thiểu số có ngôn ngữ riêng, theo các nhà nghiên cứu về văn

hóa, ngôn ngữ, tiếng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang được xếp vào 3

nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, Mông - Dao, Hoa - Hán. Người dân tộc thiểu số

có kho tàng văn học nghệ thuật phong phú, nhiều thể loại như dân ca, truyện

cổ, phản ánh đầy đủ và phong phú cuộc sống của các dân tộc trong quan hệ xã

hội. Đặc biệt hát Then, hát Lượn, Sình ca, Páo dung, tiếng khèn, tiếng sáo,

76

đàn môi, kèn lá được người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sử dụng

trong cuộc sống thường ngày. Văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu

số ở tỉnh Tuyên Quang thường gắn với quá trình lao động, sản xuất, tập quán,

tín ngưỡng thường ngày của đồng bào dân tộc.

3.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Theo như khái niệm về cán bộ dân tộc thiểu số” hay “cán bộ người dân

tộc thiểu số” đã nêu ở mục 2.2.1 (Chương 2) có thể hiểu đội ngũ Cán bộ

người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay là những người công tác

trong các tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội ở 3 cấp (gồm cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) có thành phần

xuất thân từ các dân tộc thiểu số; có năng lực chuyên môn và trình độ công

tác nhất định phù hợp với vị trí và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và

nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục

vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.

Từ khái niệm nêu trên có thể khái quát những đặc điểm cơ bản về đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay như sau:

- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

công tác ở các cấp trong tỉnh (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), nhiều cán bộ

người dân tộc thiểu số đảm nhận những vị trí công tác trọng yếu trong hệ

thống chính trị của tỉnh.

Ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, tổng số cán bộ, công chức, viên chức

gồm có 20.762 cán bộ, trong đó cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc

thiểu số là: 7.739 cán bộ, chiếm 37,27% tổng số cán bộ, công chức, viên chức

trong toàn tỉnh.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đảm

nhiệm những vị trí công tác khác nhau trong hệ thống chính trị của tỉnh, trong

77

đó có nhiều cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số giữ vị trí

lãnh đạo chủ chốt.

Cấp tỉnh:

Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy là người dân tộc

thiểu số: 08/14 người, chiếm 57,14% tổng số Thường vụ Tỉnh ủy

Cán bộ quản lý, lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội là người dân tộc

thiểu số: 06/13 người, chiếm 46,15% lãnh đạo tổ chức chính trị xã hội

Trưởng, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số:

01/02 người, chiếm 50,0%.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân dân, Ủy

viên Thường trực Hội đồng nhân dân là người dân tộc thiểu số: 03/08 người,

chiếm 37,50% tổng số Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban

nhân dân dân, Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân.

Các sở, ban, ngành (Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở và tương đương) là

người dân tộc thiểu số: 21/107 người, chiếm 19,62% tổng số Giám đốc, Phó

Giám đốc sở và tương đương.

Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương là người dân tộc

thiểu số: 128/562 người, chiếm 22,78% tổng số Trưởng phòng, Phó Trưởng

phòng và tương đương các sở, ban, ngành.

Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn

ngạch và vị trí việc làm 1.872/1.876 người, chiếm 99,78% tổng số cán bộ,

công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên

chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào

tạo, bồi dưỡng 04/1.876 người, chiếm 0,22% tổng số cán bộ, công chức, viên

chức là người dân tộc thiểu số

Cấp huyện (cấp trưởng, cấp phó):

Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy (Bí thư, Phó Bí

78

thư, Ủy viên Thường vụ, các tổ chức chính trị xã hội) là người dân tộc thiểu

số: 163/345 người, chiếm 47,25% tổng số Ủy viên Thường vụ Huyện ủy,

Thành ủy, Đảng ủy.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các

huyện, thành phố là người dân tộc thiểu số: 19/40 người, chiếm 47,5% tổng

số Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các huyện,

thành phố.

Trưởng, Phó Trưởng phòng và tương đương là người dân tộc thiểu số:

198/392 người, chiếm 50,51% tổng số Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và

tương đương.

Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn

ngạch và vị trí việc làm 4.375/4.415, người, chiếm 99,09% tổng số cán bộ,

công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên

chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào

tạo, bồi dưỡng 40/4.415 người, chiếm 0,91% tổng số cán bộ, công chức, viên

chức là người dân tộc thiểu số.

Cấp xã:

Bí thư, Phó Bí thư là người dân tộc thiểu số: 163/293 người, chiếm

55,63% tổng số Bí thư, Phó Bí thư các xã.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các xã là

người dân tộc thiểu số: 335/611 người, chiếm 54,82% tổng số Chủ tịch, Phó

Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các xã.

Trưởng, Phó các đoàn thể xã các xã là người dân tộc thiểu số:

217/1.217 người, chiếm 17,83% tổng số Trưởng, Phó các đoàn thể xã.

Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn

ngạch và vị trí việc làm: 1.340/1.448 người, chiếm 92,54% tổng số cán bộ,

công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số; số cán bộ, công chức, viên

79

chức là người dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn ngạch và vị trí việc làm cần đào

tạo, bồi dưỡng: 108/1.448 người, chiếm 7,46% tổng số cán bộ, công chức,

viên chức là người dân tộc thiểu số. Qua số liệu trên, ta thấy: ở cấp xã: tỉnh

Tuyên Quang thuộc vào nhóm số tỉnh có tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số

trong hệ thống chính trị cấp xã tương đương hoặc gần tương đương với tỷ lệ

người dân tộc thiểu số trong dân cư. Việc có tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số

trong hệ thống chính trị cấp xã tương đương với tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số là

những trường hợp đặc biệt. “Điều đó thể hiện quá trình phấn đấu của các cấp

ủy đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng và toàn thể nhân dân các dân tộc ở

địa phương; sự đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, thực hiện bình đẳng dân

tộc trên lĩnh vực đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số” [82].

Ở cấp huyện: Trong 15 tỉnh miền núi phía Bắc, chỉ duy nhất có tỉnh

Tuyên Quang đã xây dựng được đội ngũ dân tộc cấp huyện đạt tỷ lệ +8,2% so

với tỷ lệ dân tộc thiểu số trong cơ cấu dân cư của mình [82]. Điều đó chứng

tỏ cán bộ chủ chốt cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện

nay cũng đang chiếm vị trí khá cao trong hệ thống chính trị của cấp huyện

Ở cấp tỉnh: ở miền núi phía Bắc nước ta, sự thiếu hụt cán bộ dân tộc

thiểu số trong hệ thống chính trị cấp tỉnh là tình trạng phổ biến. Tuy nhiên,

Tuyên Quang là tỉnh không thuộc vào tình trạng thiếu cán bộ dân tộc thiểu số

cấp tỉnh. [82].

Như vậy, có thể thấy công tác cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang được quan tâm, đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác cán bộ dân tộc thiểu số, mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ người dân tộc thiểu số. Việc bố trí, sắp xếp cán bộ được thực hiện đúng quy trình, phù hợp với tình hình đội ngũ cán bộ của tỉnh, đặc điểm tình hình của địa phương và yêu cầu vị trí công tác, năng lực, sở trường của cán bộ; tạo điều kiện để cán bộ nói chung và cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng rèn luyện, trưởng thành nhanh chóng, toàn

80

diện hơn cả về năng lực, trình độ, tư duy, phương pháp công tác và kinh nghiệm thực tiễn.

- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay đa số đều được đào tạo, có năng lực và trình độ công tác cơ bản đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được giao.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quan tâm chỉ đạo các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy, các cơ quan ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hang năm rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; cử cán bộ thuộc diện quy hoạch đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị - hành chính. Kết quả đến nay như sau:

Trình độ chuyên môn: Đào tạo 1.562 cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, (trong đó: sau đại học 88 người, đại học 451 người, cao đẳng 786 người, trung cấp 237 người).

Trình độ lý luận chính trị: Đào tạo, bồi dưỡng 482 cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, (trong đó: Cao cấp lý luận chính trị 43 người, trung cấp lý luận chính trị 439 người)

Trình độ quản lý nhà nước: Đào tạo, bồi dưỡng 808 cán bộ, công chức,

viên chức là người dân tộc thiểu số

Kỹ năng, nghiệp vụ khác: Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ 1.057

cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số

Đào tạo nước ngoài: Tổng số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập 58 người, (trong đó: đào tạo thạc sĩ 03 người, tham quan, học tập kinh nghiệm 55 người).

Có thể thấy trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao, góp phần giúp đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hoàn thành được nhiệm vụ được giao. Đối với các trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ là do bị kỷ luật và chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn (xem biểu 2).

- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

hầu hết đều am hiểu phong tục tập quán của các dân tộc và có khả năng sử

dụng ngôn ngữ của dân tộc mình.

81

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay đa

số đều am hiểu phong tục tập quán của dân tộc mình và hiểu được phong tục

của dân tộc khác, cũng như họ có thể nói được tiếng của dân tộc mình và nói

được tiếng của dân tộc khác. Bởi lẽ, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là vận động quần chúng thực hiện các

nhiệm vụ chính trị chung của tỉnh. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

phải nắm bắt được những tâm tư nguyện vọng, hiểu được những đặc điểm

tâm lý, tập quán và trình độ của đồng bào các dân tộc để tập hợp, đoàn kết các

dân tộc anh em sống trên địa bàn, biết tuyên truyền, giải thích và hướng dẫn

đông đảo quần chúng nhân dân các dân tộc tuyệt đối tin tưởng và hăng hái,

tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương. Để thực hiện

được nhiệm vụ của mình, người cán bộ dân tộc thiểu số ngoài hiểu biết về

phong tục tập quán của dân tộc mình, ngoài nói được tiếng của dân tộc mình

phải luôn hướng đến đi sâu tìm hiểu về phong tục của dân tộc khác, học tiếng

nói của dân tộc khác để từ đó mới thực hiện được nhiệm vụ chính trị mà họ

được phân công đảm nhiệm.

Bên cạnh đó, tỉnh Tuyên Quang cũng thực hiện tốt chính sách dân tộc

nói chung cũng như thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về

xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc gắn với tình hình thực tiễn của tỉnh Tuyên Quang…

- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đều thấm

nhuần truyền thống cách mạng của quê hương.

Tuyên Quang là một vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời

hàng vạn năm. Từ thời các vua Hùng dựng nước, Tuyên Quang đã là một

vùng đất quan trọng, là phên giậu của Nhà nước Văn Lang. Trải qua mấy

nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Tuyên Quang luôn giữ một vị trí

trọng yếu trong sự phát triển chung của đất nước. Từ thời Lý, Trần, Lê, vùng

82

đất cổ Tuyên Quang luôn được các triều đình phong kiến coi trọng, xác lập,

xây dựng trở thành một đơn vị hành chính của đất nước.

Tuyên Quang còn là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, có 22

dân tộc cùng sinh sống. Toàn tỉnh hiện có hơn 500 di tích lịch sử, văn hóa, trong

đó có những di tích nổi tiếng như: Thành nhà Mạc; Khu di tích lịch sử Tân Trào;

Khu di tích Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tại xã Kim Bình,

huyện Chiêm Hoá… Tuyên Quang còn được biết đến với những lễ hội truyền

thống như: Lễ hội Lồng tông của dân tộc Tày ở huyện Chiêm Hoá; múa Nhảy

lửa của dân tộc Pà Thẻn, thôn Thượng Minh, xã Hồng Quang, huyện Lâm Bình;

Lễ hội Động Tiên và chợ quê ở xã Kim Phú, huyện Hàm Yên...

Rừng xanh Tuyên Quang bao la đã chở che cho cách mạng, lòng dân

Tuyên Quang luôn sắt son theo Đảng, theo cách mạng. Tuyên Quang đã hoàn

thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, bảo vệ an toàn lãnh tụ và căn cứ đầu não của

cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tuyên

Quang đã đi vào lịch sử, là niềm tự hào của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và

đồng bào cả nước. Tuyên Quang là địa danh giàu truyền thống văn hóa và lịch

sử cách mạng, là Thủ đô Khu giải phóng, nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng đã

ở và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi; là Thủ đô

Kháng chiến, nơi Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II trong

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhiều tên đất, tên người Tuyên

Quang gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, gắn liền với

những hình ảnh và kỷ niệm sâu đậm về Bác Hồ kính yêu đang được lưu giữ

và sống động trong lòng nhân dân cả nước.

Phát huy truyền thống vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh

Tuyên Quang nói chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu

số nói riêng luôn quyết tâm vượt mọi khó khăn, nêu cao tinh thần trách

nhiệm, năng động sáng tạo, chung sức, đồng lòng, nỗ lực cố gắng xây dựng

83

quê hương cách mạng. Phấn đấu xây dựng và phát triển tỉnh Tuyên Quang

xứng đáng với truyền thống lịch sử, cách mạng, Thủ đô Khu giải phóng, Thủ

đô Kháng chiến. Mỗi cán bộ, đảng viên của tỉnh Tuyên Quang luôn thể hiện

trách nhiệm của mình, thêm tự hào, tự tin vững bước đi lên, thi đua thực hiện

thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI. Đại hội Đảng bộ tỉnh

lần thứ XV phương châm phát triển “đoàn kết thống nhất, tập trung đột phá,

khai thác tiềm năng, phát triển bền vững”, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc

tỉnh Tuyên Quang luôn “Phát huy truyền thống quê hương cách mạng, tiếp

tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đổi mới mạnh

mẽ và vững chắc, phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển khá

trong các tỉnh miền núi phía Bắc”.

Trước những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thấm nhuần truyền thống

cách mạng của quê hương, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang hiện nay có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gần gũi với

đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với công việc, cố gắng vươn lên nắm

bắt những yêu cầu mới đặt ra; luôn kiên định theo con đường cách mạng mà

cha ông đã chọn, kiên định và tin tưởng đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam, tin tưởng và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; luôn phát huy phẩm

chất cách mạng của người cán bộ đảng viên; trung thực, thật thà và thắng thắn

đấu tranh chống tiêu cực… phấn đấu thực hiện tốt những trọng trách, nhiệm

vụ được Đảng và nhân dân giao phó.

3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Qua một số đặc điểm về dân tộc thiểu số và đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có thể thấy đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đang ngày càng được trẻ hóa và có trình

84

độ mọi mặt từng bước được nâng lên rõ rệt. Cùng với nhân dân các dân tộc

trong tỉnh, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay là

lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia vào nhiều vị trí công tác quan trọng

trong hệ thống chính trị của tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp chỉ đạo quá trình

phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, các cấp trong tỉnh.

Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thể

hiện qua nhiều góc độ, trong đó được thể hiện qua việc tiếp thu, triển khai lý

luận khoa học, việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước; năng lực vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối đổi

mới của Đảng, từ đó đưa ra được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội

phù hợp với điều kiện địa phương; năng lực tổng kết thực tiễn, rút ra những

bài học kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn tiếp theo… Qua nghiên cứu, tìm

hiểu thực trạng, bước đầu có thể chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu về

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang hiện nay như sau:

3.2.1. Ưu điểm năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có

nhiều ưu điểm về năng lực tư duy lý luận. Xét trên phương diện lý luận và

thực tiễn, có thể nêu ra một số ưu điểm chủ yếu về năng lực tư duy lý luận của

họ bao gồm:

Một là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang có

bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, dễ dàng vận dụng

được vào thực tiễn công tác của mình góp phần quan trọng trong quá trình

phát triển của tỉnh Tuyên Quang

Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay đã tác động không nhỏ tới

đất nước nói chung, tới tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Trước những khó khăn

85

phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước, trên thế giới và cả ở Việt Nam

đòi hỏi cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng phải có bản

lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và đường lối đổi mới của Đảng. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

ở tỉnh Tuyên Quang đã từng bước đáp ứng yêu cầu này. Bản lĩnh chính trị của

cán bộ là điều kiện tiên quyết để phong trào cách mạng đi đúng hướng, nhất là

ở những thời điểm khó khăn phức tạp.

Đa số cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đều đã được

thử thách, rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn của đất nước và của tỉnh.

Trong quá trình ấy họ đã được giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp

của truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động; hơn thế nữa mảnh đất quê

hương Tuyên Quang đã được Đảng, Bác Hồ chọn làm Thủ đô khu giải phóng,

Thủ đô kháng chiến, chính sự tự hào vì được sinh ra, trưởng thành và cống

hiến trên quê hương cách mạng đã luôn thôi thúc họ phát huy thế mạnh của

quê hương và của bản thân để tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng.

Bên cạnh đó, họ lại nhận được nhiều sự ưu đãi, được đào tạo tương đối có hệ

thống, cho nên đội ngũ cán bộ này có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức

trách nhiệm cao, kiên định đường lối đổi mới và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ đó được nâng lên thành năng lực định hướng chính trị đúng đắn trong hoạt

động nhận thức và tổ chức thực tiễn trên địa bàn được phân công phụ trách.

Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

số trong quá trình phát triển của tỉnh, nhằm khơi dậy thế mạnh của đội ngũ

cán bộ này, đồng thời để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng mới, đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được quan tâm chú trọng về mọi mặt. Đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có sự quan tâm về quy hoạch, bố trí luân

chuyển và sử dụng cán bộ, ưu đãi về chế độ chính sách, đặc biệt là đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn,

86

nghiệp vụ, lý luận, chính trị… Qua đó nâng cao trình độ nhận thức và năng

lực tư duy đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đổi mới của địa phương. “Các

cấp uỷ đảng đã quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng,

nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc quán triệt, học tập

các văn kiện của Đảng có bước đổi mới và hiệu quả hơn; cụ thể hoá và tổ

chức thực hiện sát hợp với tình hình thực tiễn và chức năng, nhiệm vụ của tổ

chức đảng, cơ quan, đơn vị. Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,

đảng viên được chú trọng” [4].

Trên cơ sở trình độ nhận thức và năng lực tư duy được nâng lên đã giúp

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có khả năng giải quyết, xử lý kịp thời

những tình huống mới do thực tiễn đặt ra. Đặc biệt là các vấn đề đòi hỏi tư duy

ở trình độ cao như mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế, giữa phát triển bền

vững với giải quyết tốt những vấn đề xã hội nảy sinh, giữa công bằng xã hội và

tiến bộ xã hội; đặc biệt là phải giải quyết những vấn đề xảy ra hàng ngày thuộc

lĩnh vực phụ trách như giải phóng mặt bằng, triển khai các dự án kinh tế xã hội,

phòng chống buôn lậu, phòng chống thiên tai dịch bệnh, bảo vệ môi trường, an

sinh xã hội, củng cố thế trận an ninh nhân dân, giải quyết các vấn đề phức tạp

nảy sinh từ vấn đề dân tộc, tôn giáo… Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

chính trị được giao, do đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thường xuyên

“nằm ở cơ sở”, “gần dân”, “hiểu dân” nên họ kịp thời nắm bắt được những khó

khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ và có những giải pháp kịp thời giải quyết

một cách khoa học, đúng chính sách, chế độ của nhà nước, hợp lòng dân, thấy

được những khó khăn, thuận lợi, từng nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng

trong tính tổng thể của quá trình phát triển, trên cơ sở đó mà đề ra được những

chương trình, kế hoạch, định hướng phấn đấu cho mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể

của địa phương, mục tiêu lâu dài của tỉnh và đất nước.

87

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhờ có bản lĩnh chính trị vững

vàng và nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận khoa học vào thực tiễn

công tác của mình. Với tinh thần phát huy truyền thống quê hương cách

mạng, giữ vững đoàn kết, chủ động sáng tạo, bám sát mục tiêu, phương châm

phát triển; khắc phục khó khăn, khai thác tiềm năng, nguồn lực để tập trung

vào các lĩnh vực đột phá, các chương trình trọng tâm, đã giúp tỉnh Tuyên

Quang đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm

quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi

các chỉ tiêu quan trọng, đưa Tuyên Quang thoát ra khỏi tình trạng kém phát

triển “Năm 2013, tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 1.070 USD (đã hoàn

thành mục tiêu đưa Tuyên Quang thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển). Năm

2015, đạt 1.368 USD (mục tiêu Nghị quyết là 1.300 USD)” [4, tr.2]

Trong điều kiện khó khăn chung, kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng

khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây

dựng, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp (Công nghiệp - xây dựng: 38,2%; các

ngành dịch vụ: 37,1%; nông lâm nghiệp, thuỷ sản: 24,7%). Công nghiệp duy

trì tốc độ phát triển khá, hoàn thành xây dựng một số dự án công nghiệp có

quy mô lớn của tỉnh; các ngành dịch vụ có nhiều chuyển biến, du lịch bước

đầu khai thác tiềm năng để từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng;

nông, lâm nghiệp chuyển dịch khá mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá gắn

với xây dựng nông thôn mới, tiếp tục phát triển các vùng chuyên canh một số

cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bằng những chủ trương, giải pháp và

cơ chế chính sách phù hợp, đã huy động có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư

hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông và hoàn thành xây dựng một số

công trình quan trọng của tỉnh.

88

Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội tiếp tục phát

triển; quy mô hệ thống giáo dục và đào tạo được mở rộng đồng bộ từ mầm

non tới đại học, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. An sinh xã hội,

bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm; các giá trị văn hoá

truyền thống được gìn giữ và phát huy, đời sống tinh thần của nhân dân được

cải thiện; giảm nghèo đạt được kết quả quan trọng. Hoàn thành tốt các nhiệm

vụ quân sự, quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện tốt các nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, nâng cao

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán

bộ, đảng viên; phương thức lãnh đạo của Đảng bảo đảm nguyên tắc tập trung

dân chủ, đồng thời đổi mới theo hướng năng động, sáng tạo, tập trung, quyết

liệt, phân cấp hợp lý đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Xây

dựng chính quyền được chú trọng, tạo sự chuyển biến về hiệu quả quản lý,

điều hành. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, thiết thực

và hiệu quả hơn.

Hai là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã

vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, từ đó đưa ra được các chủ

trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa phương.

Trong những năm qua, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp; sau

giai đoạn khủng hoảng, kinh tế thế giới có phục hồi nhưng tốc độ tăng trưởng

còn chậm; bất ổn về chính trị, xung đột, tranh chấp chủ quyền xảy ra ở nhiều

nơi; thị trường và giá cả hàng hoá không ổn định. Những năm đầu nhiệm kỳ,

kinh tế trong nước suy giảm, lạm phát tăng cao, cả nước thực hiện chủ trương

kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đã tác động

tới tiến độ thực hiện một số chương trình, dự án của tỉnh. Trong nửa cuối

nhiệm kỳ 2010 - 2015, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế,

89

tăng trưởng kinh tế trong nước có phục hồi nhưng còn chậm, hiệu quả và sức

cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Bên cạnh đó, những căng thẳng, phức tạp

trên biển Đông đã ảnh hưởng tới hoà bình, ổn định và sự phát triển của đất

nước, tác động đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân

dân trong tỉnh.

Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

luôn quán triệt và nắm vững các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa và vận dụng vào tình hình của

địa phương để triển khai thực hiện. Nhìn chung họ đã đã biết huy động kiến

thức vốn có của mình để nhìn nhận thực tiễn, đưa ra phương thức, cách thức

nhằm giải quyết một cách tốt nhất những vấn đề nảy sinh ở đơn vị, lĩnh vực

mình phụ trách; họ đã thấy được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa

phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội; thấy được

nhiệm vụ của từng giai đoạn trong tính chỉnh thể của một quá trình phát triển,

gắn sự phát triển của tỉnh với khu vực và cả nước. Sự liên kết trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội giữa các huyện, thành phố trong tỉnh và sự liên kết

giữa các tỉnh trong phạm vi cả nước. Trên cương vị chức trách nhiệm vụ được

giao, dù là cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã, họ đã cùng Đảng bộ, nhân dân các

dân tộc xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều

kiện ở địa phương với những chỉ tiêu và hệ thống giải pháp cụ thể, đồng bộ

nhằm đạt được chỉ tiêu đó.

Với quyết tâm chính trị cao, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền

thống quê hương cách mạng, đoàn kết nhất trí, vận dụng sáng tạo các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn

diện các lĩnh vực, tập trung 4 lĩnh vực đột phá, một số chương trình trọng

tâm, chủ động khai thác tiềm năng, nguồn lực, đạt được thành tựu toàn diện

90

trên các lĩnh vực, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chủ yếu do Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra. Cụ thể trên các lĩnh vực đột phá như:

Về đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông

Tích cực huy động nguồn lực hoàn thành xây dựng một số cầu lớn; cải

tạo, nâng cấp các tuyến quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị; cơ

bản hoàn thành mục tiêu nhựa hoá, bê tông hoá các tuyến đường từ trung tâm

huyện đến trung tâm các xã, tạo chuyển biến rõ nét trong mạng lưới giao

thông, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Với chủ trương, giải pháp sáng tạo và cơ chế chính sách phù hợp, tạo

sự đồng thuận của nhân dân, đã huy động các nguồn lực để thực hiện có hiệu

quả Đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn theo phương thức "Nhà

nước và nhân dân cùng làm", kết quả đạt trên 2.420 km đường giao thông

nông thôn, vượt kế hoạch đề ra, hoàn thành sớm so với mục tiêu của cả nhiệm

kỳ, tạo ra diện mạo mới ở khu vực nông thôn, sự chuyển biến rõ nét về sản

xuất và đời sống của nhân dân.

Công tác quy hoạch xây dựng được quan tâm, trọng tâm là quy hoạch

thành phố Tuyên Quang theo hướng xây dựng và phát triển thành đô thị loại I;

điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thị trấn huyện lỵ Na Hang, quy hoạch

trung tâm huyện lỵ Lâm Bình; triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng vùng

tỉnh, chương trình phát triển đô thị đến năm 2020...

Hoàn thành xây dựng Tượng đài “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc tỉnh

Tuyên Quang”, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quảng trường Nguyễn Tất

Thành. Quan tâm xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hoá,

chỉnh trang đô thị thành phố Tuyên Quang; từng bước xây dựng trung tâm

huyện Yên Sơn, huyện Lâm Bình và hạ tầng đô thị ở các huyện.

Xây dựng, sửa chữa một số công trình đập đầu mối, kè bờ sông và một

số công trình thủy lợi thiết yếu, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất.

91

Trên cơ sở quy hoạch, đã phát triển hệ thống điện, chú trọng thực hiện cấp

điện cho các thôn, bản vùng sâu, vùng xa chưa có điện.

Về phát duy trì và đẩy mạnh tốc độ phát triển triển, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá

Thực hiện đồng bộ giải pháp phát triển công nghiệp, tập trung vào công

nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, chế biến

sâu khoáng sản. Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành một số dự án công nghiệp

quan trọng với quy mô lớn, tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp cao, góp phần

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo sự gắn kết giữa nhà máy chế biến và

vùng nguyên liệu.

Chủ động có giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho

các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là về nguyên liệu và

các yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm, một số sản phẩm công

nghiệp đạt sản lượng khá cao, giá trị sản xuất công nghiệp đạt mục tiêu Nghị

quyết đề ra. Coi trọng phát triển thủ công nghiệp, một số mô hình tiểu thủ

công nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động.

Về phát triển du lịch

Thực hiện các giải pháp phát triển du lịch, tập trung vào các khu, điểm

du lịch theo quy hoạch; chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch;

tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị

văn hoá, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác phát

triển du lịch, chỉ tiêu thu hút khách du lịch vượt mục tiêu đề ra.

Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả công tác giáo dục

và đào tạo

Giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo

dục trung học cơ sở, chất lượng từng bước được nâng lên. Tập trung nguồn

lực, huy động sự tham gia của các cấp, các ngành và nhân dân, hoàn thành

phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi trước 2 năm so với kế hoạch.

92

Quy mô, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được đầu tư, chú trọng xây

dựng trường chuẩn quốc gia, hoàn thiện hệ thống trường dân tộc nội trú, tạo

điều kiện học tập cho con em các dân tộc trong tỉnh. Đã quan tâm đào tạo, bồi

dưỡng, nâng tỷ lệ chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Quản

lý giáo dục có bước đổi mới, quan tâm công tác khuyến học, khuyến tài, xây

dựng xã hội học tập, chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên.

Thành lập Trường Đại học Tân Trào, hoàn thiện đầy đủ các cấp học,

tạo bước phát triển mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh; tiếp tục

đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung đội ngũ cán bộ, giảng viên, ban hành chính

sách thu hút giảng viên, sinh viên, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu,

ứng dụng khoa học. Từng bước đổi mới hoạt động đào tạo của các trường cao

đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề. Thực hiện chính sách

thu hút và hỗ trợ cán bộ đi đào tạo đạt kết quả bước đầu, góp phần nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.

Kết quả trên là minh chứng sống động cho sự đúng đắn của đường lối

đổi mới của Đảng và sự cụ thể hóa đường lối ấy một cách sáng tạo của đội

ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói

riêng. Điều đó còn có nghĩa là đội ngũ cán bộ này có năng lực tư duy lý luận

ở trình độ nhất định.

Ba là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay hầu hết đều có

thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang về cơ bản

đều trưởng thành qua phong trào hoạt động thực tiễn do họ được “Quan tâm

quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ

nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số” [4, tr.12].

Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

trực tiếp nắm giữ các cương vị công tác từ tỉnh đến cơ sở, hầu như đã trải qua

93

nhiều cương vị công tác từ cơ sở đến cấp tỉnh bởi thế họ đắm mình trong

phong trào quần chúng, gần gũi với nhân dân, hiểu rõ tâm tư tình cảm,

nguyện vọng của nhân dân, đặc điểm thực tế của từng địa bàn; đặc biệt do là

người dân tộc thiểu số, biết được tiếng của dân tộc mình và dân tộc khác nên

khi hoạt động tại cơ sở họ dễ dàng thâm nhập được vào cơ sở, hiểu được

phong tục tập quán và dễ dàng sống hòa đồng với cuộc sống của nhân dân

vùng dân tộc thiểu số.

Do tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú, đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã tạo khả năng phát hiện

những vấn đề và các giải pháp giải quyết vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đặc biệt

là những giải pháp mang tính chất tình huống. Họ có khả năng vận dụng

những kinh nghiệm được rút ra từ chính hoạt động của mình. Những điều đó

phản ánh trình độ, năng lực tư duy kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang; nó có giá trị nhất định trong hoạt động của

họ và trong việc phát triển năng lực tư duy lý luận. Đây là ưu điểm, là cơ sở

để đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có được những chủ trương, chính

sách phù hợp với thực tiễn địa phương.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang thường xuyên trau dồi,

nâng cao trình độ về mọi mặt, thường xuyên vận dụng sáng tạo những đường

lối, chính sách tại cơ sở; đồng thời phải thường xuyên tổng kết để rút ra

những kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn tiếp theo đã giúp cho đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số không những càng ngày càng tăng thêm vốn kinh

nghiệm thực tiễn và đó cũng chính là cơ sở để nâng cao năng lực tư duy lý

luận của họ.

Bốn là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từng bước đấu tranh, phê

phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ

94

Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, của tỉnh, đội ngũ

cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng

luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng trong thực hiện các

nhiệm vụ chính trị được giao phó. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn

thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết và nguyên tắc tập

trung dân chủ trong Đảng. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, khắc phục,

chữa những khuyết điểm, yếu kém, nhất là những vấn đề nổi cộm, gây bức

xúc trong nhân dân. Duy trì nền nếp việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh gắn với thường xuyên tự phê bình và phê bình trong sinh

hoạt của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan,

đơn vị. Nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên nhất là người đứng

đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong thực hiện chức trách, nhiệm

vụ được giao, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị; đẩy lùi tình

trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xây dựng hệ thống

chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ. Công tác thanh tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được

thực hiện toàn diện, tạo chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán

bộ, đảng viên và nhân dân; kịp thời điều tra, xử lý nghiêm các tổ chức, cá

nhân sai phạm. Chủ động ngăn chặn âm mưu, hoạt động của các thế lực thù

địch và những phức tạp nảy sinh ngay từ cơ sở; bảo vệ an toàn các sự kiện

chính trị, các mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng. Công tác bảo đảm an ninh

trên các lĩnh vực được tăng cường; kịp thời thực hiện giải pháp đấu tranh,

ngăn chặn các hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo. Tập trung phòng, chống

tội phạm, tệ nạn xã hội, tỷ lệ điều tra, phá án được nâng lên. Thực hiện có

hiệu quả các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tai nạn giao thông

có xu hướng giảm.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh việc thực

hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng

95

Đảng hiện nay” được các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị,

trong đó không thể không kể đến đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tổ

chức triển khai một cách sâu rộng, nghiêm túc. Đã thẳng thắn chỉ ra những

khuyết điểm, yếu kém để khắc phục, sửa chữa, tập trung một số việc nổi cộm,

gây bức xúc trong nhân dân. Trong đó, toàn tỉnh đã khắc phục, sửa chữa

3.824/4.297 việc (Ban Thường vụ Tỉnh ủy 12/13 việc; ban thường vụ cấp uỷ

huyện và tương đương, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh 392/428

việc; cấp cơ sở 3.420/3.856 việc). Điều đó chứng tỏ và khẳng định đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang từng bước đấu tranh, phê phán

những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ là có

cơ sở rõ ràng.

Năm là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn xác định được khó

khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục,

thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự

nghiệp cách mạng của tỉnh

Có thể thấy rằng những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã

hội ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có đóng góp một phần rất lớn từ đội ngũ cán

bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng. Điều đó cũng thể hiện

sự phấn đấu cao độ, ý thức vươn lên mạnh mẽ của đồng bào các dân tộc thiểu

số và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. Sự quan tâm

của Đảng, Nhà nước, sự chuyển biến của hệ thống chính trị các cấp sẽ không

đạt kết quả nếu không phát huy được vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số. Thực tế đã chứng minh rằng nhân dân Tuyên Quang có tinh thần

đoàn kết, thấm đẫm truyền thống cách mạng và đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số cũng thể hiện được tinh thần đó. Do những điều kiện nhất định, người

dân tộc thiểu số phải cố gắng vượt qua những khó khăn, thiệt thòi; khi có cơ

hội, họ đã vươn lên mạnh mẽ, nhanh chóng vượt qua những thách thức để tận

96

dụng những thời cơ. Mặc dù xuất phát điểm là khó khăn, nhưng những gia

đình đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa vẫn cố gắng hết sức để

tạo điều kiện cho con em mình được học tập. Sau khi được học tập, nâng cao

trình độ, trở về địa phương công tác, trở thành người cán bộ trong hệ thống

chính trị của tỉnh, có được một vị trí nhất định đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số đã tự nhận thức được vị trí, vai trò của mình, đã tự chuyển biến nhận

thức để có những quyết sách, những hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế

của từng vùng, từng địa phương trong tỉnh.

Trưởng thành từ thực tiễn, đã trải qua những khó khăn thử thách, gian

nan, trên cương vị công tác của mình đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã

tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục phát huy sức mạnh đại

đoàn kết toàn dân tộc, vận động, tập hợp nhân dân thực hiện chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực đổi mới nội

dung và phương thức hoạt động, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong tổ

chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; vận động đoàn viên,

hội viên và nhân dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế -

xã hội, quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân. Quan

tâm giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tay

nghề và ý thức kỷ luật của công nhân, người lao động, tăng năng suất lao

động, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát huy

nguồn lực, sự sáng tạo của nông dân để khai thác các tiềm năng, thế mạnh

trong nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của đội

ngũ trí thức trên các lĩnh vực; tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ; khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là

người dân tộc thiểu số phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.

Thực hiện các giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào

dân tộc, đồng bào có đạo; quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,

97

truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh. Tăng cường nắm tình hình, xử

lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về dân tộc, tôn giáo. Củng cố tổ

chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo…

Nguyên nhân của những ưu điểm năng lực tư duy lý luận

Có được những mặt mạnh về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay là do nhiều nguyên

nhân khác nhau, tuy nhiên có thể kể đến những yếu tố như:

Trước hết, đó là sự nỗ lực, tự giác phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn

trong học tập và rèn luyện của bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Thứ hai, do có chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với

người dân tộc thiểu số cũng như sự vận dụng linh hoạt các chủ trương đó vào

điều kiện cụ thể của tỉnh Tuyên Quang - một tỉnh có đông đồng bào dân tộc

thiểu số sinh sống.

Thứ ba, do Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Tuyên Quang thường

xuyên quan tâm và xác định đúng đắn tầm quan trọng của công tác dân tộc,

vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị.

Thứ tư, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên

Quang luôn phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống quê hương cách

mạng từ đó tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được phấn đấu, cống hiến cho sự

nghiệp cách mạng của tỉnh.

Từ thực tiễn quá trình lãnh đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng, chính

quyền trong tỉnh, Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2010 - 2015, Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh rút ra một số bài học kinh nghiệm có tính định hướng cho hệ

thống chính trị các cấp trong tỉnh như sau:

Một là, phát huy truyền thống quê hương cách mạng, giữ vững đoàn

kết thống nhất, bảo đảm dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trên cơ

sở các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

98

Hai là, xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, các lĩnh vực đột phá; đề ra

các chủ trương, giải pháp phù hợp, sát thực tế, tạo sự đồng thuận xã hội, huy

động sức mạnh tổng hợp, khơi dậy nguồn lực, phát huy sự năng động, sáng

tạo của các cấp, các ngành và nhân dân.

Ba là, coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng kinh tế, bảo đảm

phát triển bền vững; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển các

lĩnh vực văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.

Bốn là, quyết tâm chính trị cao trong thực hiện nhiệm vụ; lãnh đạo,

chỉ đạo phải tập trung, quyết liệt, bảo đảm tính khoa học, nhạy bén, sáng tạo,

bám sát cơ sở, gắn với thực tiễn; phân cấp hợp lý, đi đôi với tăng cường kiểm

tra, giám sát.

Năm là, quan tâm xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng và

tổ chức, trong đó coi trọng công tác cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt

trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.

3.2.2. Hạn chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Nhìn chung, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cũng không phải là ngoại lệ.

Trong đó có thể nêu một số hạn chế và biểu hiện cụ thể như sau:

Một là, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa vượt

qua được tư tưởng nặng về tập quán truyền thống

Cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đa số đều có truyền

thống văn hóa lâu đời, sự cố kết cộng đồng, dòng tộc cũng chính là một trong

những đặc trưng của người dân tộc thiểu số nói chung, của cán bộ người dân

tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Chính môi trường sống đã tác

99

động một phần tới tâm lý, tình cảm, nhận thức của một bộ phận cán bộ người

dân tộc thiểu số. Do đó, sức ỳ của tư duy, của tập quán vẫn hiện hữu trong

hoạt động của cán bộ người dân tộc thiểu số. Đặc biệt là tư duy kinh nghiệm,

tính kế thừa. Đây chính là những đặc mang tính đặc thù vùng miền của cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. Tư tưởng này đã trở thành một

rào cản lớn trong hoạt động tư duy lý luận nói riêng và mọi hoạt động thực

tiễn của cán bộ người dân tộc thiểu số nói chung. Sự ảnh hưởng của tập quán,

truyền thống đã làm chậm hoặc ngăn cản sự tiếp thu sâu, đúng bản chất của tư

duy lý luận, đồng thời hạn chế khả năng nắm bắt thực tiễn của cán bộ lãnh

đạo nơi đây. Hệ lụy của điều này chính là sự thiếu hiểu biết về thực tiễn dẫn

tới không thể giải quyết được những vấn đề mới nảy sinh ở và không giải

quyết triệt để được những tồn tại xã hội của tỉnh Tuyên Quang.

Khi làm việc với chính những người dân tộc thiểu số chúng ta mới thấy

được bên cạnh tính thật thà, chất phát, chịu thương chịu khó thì họ có những

hạn chế nhất định về văn hóa, tập quán, lạc hậu so với sự phát triển chung của

xã hội; một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số được trưởng thành từ môi

trường khó khăn, cùng với trình độ dân trí chưa cao đã tạo nên những vết mòn

trong suy nghĩ, trong hành động. Do đó, họ chỉ nhìn được lợi ích trước mắt

hay những chỉ thị, nghị quyết mà Trung ương đề ra, để giải quyết mang tính

bề nổi, thành tích mà quên đi lợi ích lâu dài.

Tư tưởng nặng về tập quán, truyền thống có ảnh hưởng rất lớn tới mọi

quá trình phát triển chung của xã hội. Đặc biệt là trong công tác bố trí, sử

dụng cán bộ vẫn còn biểu hiện cục bộ địa phương, khép kín, né tránh, tình

trạng gia trưởng, tùy tiện, nặng về cơ cấu, hẹp hòi, định kiến vẫn còn biểu

hiện ở đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Rõ ràng, những điều kiện khách quan là hết sức quan trọng cho việc

phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Nhưng yếu tố chủ quan trong hoạt động

100

lãnh đạo, trong đó có năng lực tư duy lý luận của cán bộ người dân tộc thiểu

số có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc khơi dậy tiềm năng phát triển địa

phương. Tạo đòn bẩy cho sự phát triển của địa phương là nhờ những tri thức,

khối óc sáng tạo, linh hoạt và khoa học.

Hai là, một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số khi xử lý công việc

vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh nghiệm

thành lý luận

Tư duy kinh nghiệm có những ưu điểm là gắn trực tiếp với đối tượng

cụ thể, làm cơ sở cho tư duy lý luận, nhưng về trình độ phản ánh nó có những

hạn chế nhất định. Tư duy kinh nghiệm chỉ thích hợp với những công việc cụ

thể trong không gian và thời gian xác định. Đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đảm nhiệm nhiều vị trí công tác khác nhau, ở các

cấp, các ngành khác nhau. Cho nên chỉ bằng tư duy kinh nghiệm thì không

thể giải quyết được những trọng trách được giao, nhất là trong giai đoạn hiện

nay thực tiễn luôn luôn đổi thay từng ngày, từng giờ.

Tư duy kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang trước hết còn biểu hiện ở việc tiếp thu lý luận Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước

một cách thụ động theo kiểu sao chép lại nội dung mà không hiểu thực chất

vấn đề để hình thành phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn

của mình. Còn hiện tượng cứ nghị quyết Trung ương nói tới vấn đề gì thì ở

địa phương cũng đề cập ngay đến vấn đề đó mà không tính đến đặc điểm

riêng của cơ quan, đơn vị, khu vực của mình. Bệnh giáo điều còn biểu hiện ở

chỗ học tập và vận dụng theo kiểu dập khuôn máy móc kinh nghiệm của

người khác, của địa phương khác mà chưa biết chắt lọc, kết hợp nhiều yếu tố,

nhiều mặt trong kinh nghiệm của nhiều người, nhiều địa phương để hình

thành mô hình mới, cách làm hay, thể nghiệm để hoàn chỉnh nó theo yêu cầu

101

thực tế của địa bàn, lĩnh vực mình phụ trách “Có chương trình, dự án còn chủ

quan, áp đặt, phương thức quản lý và quy mô chưa phù hợp, hiệu quả kinh tế

thấp”, “một số chủ trương phát triển kinh tế có việc thiếu tính khoa học, thực

tiễn, chủ quan, nóng vội, thực hiện hiệu quả không cao, lãng phí, gây bức xúc

cho nhân dân” [6].

Đặc biệt, việc hạn chế về tư duy lý luận, đề cao tư duy kinh nghiệm

dẫn đến chưa theo kịp với xu hướng phát triển chung của khu vực, đất nước

đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của toàn

tỉnh, biểu hiện qua “Quy mô kinh tế còn nhỏ; thu hút đầu tư vào một số

ngành công nghiệp, du lịch, dịch vụ chưa tương xứng với tiềm năng. Hệ

thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư nhưng chưa đồng bộ. Chất

lượng một số lĩnh vực văn hoá, xã hội còn thấp; đời sống của một bộ phận

nhân dân còn khó khăn. Có nơi vẫn còn tiềm ẩn sự phức tạp về an ninh, trật

tự an toàn xã hội. Năng lực lãnh đạo của một số tổ chức Đảng chưa đáp

ứng yêu cầu; quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực, địa bàn còn yếu; hoạt

động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có việc còn

hình thức, hành chính hoá” [4, tr. 14- 15].

Cũng chính do nặng về kinh nghiệm, máy móc trong triển khai những

vấn đề mang tính lý luận, đặc biệt chưa chú ý đúng mức khâu tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn để rút ra những bài học cho hoạt động thực tiễn tiếp theo

nên chưa phát hiện ra những thuộc tính và những quy luật vận động, phát

triển của quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức. Do đó chưa đưa ra được

mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể cho hoạt động nhận thức và thực

tiễn tiếp theo. Hay nói cách khác là chưa tổng kết được những kinh nghiệm

thực tiễn, chưa tích lũy, bổ sung những tri thức từ hoạt động thực tiễn để làm

rõ thêm lý luận, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận.

102

Ba là, khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ

người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy bén,

chưa kịp thời

Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, công tác dự báo, đánh

giá tình hình là một trong những yêu cầu hết sức cần thiết. Khả năng phân

tích và dự báo là một yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ các cấp hiện

nay. Yêu cầu của khả năng dự báo là cần phải đảm bảo các yếu tố: đúng lúc,

chính xác, chắc chắn, dễ hiểu và khả thi. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của mình, đội ngũ cán bộ phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đưa ra các kết

quả phân tích và dự báo giúp cho các cấp lãnh đạo đề ra các quyết định mang

tính chiến lược về những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai của các mặt đời

sống chính trị, xã hội. Do đó, về nguyên tắc, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ

cán bộ phải có trình độ chuyên sâu, năng lực thực sự trong nghiên cứu, tổng

kết thực tiễn, có kinh nghiệm trong từng lĩnh vực công tác và khả năng hiểu

biết rộng, đủ tầm mới có thể phân tích và dự báo đúng, trúng các vấn đề. Dự

báo là yêu cầu, tiêu chuẩn cơ bản, quan trọng đối với mỗi cán bộ.

Tuy nhiên, do hạn chế một số mặt, trong đó ít trau dồi lý luận, rèn

luyện khả năng tư duy khoa học, do bệnh chủ quan, một bộ phận cán bộ

người dân tộc thiểu số đã hạn chế về khả năng dự đoán, dự báo, đánh giá

không đúng, không chính xác tình hình cơ sở nên hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Biểu hiện ở các khía

cạnh như “…một số nơi quản lý địa bàn chưa chặt chẽ, có việc chưa nắm

chắc tình hình, xử lý những vấn đề nảy sinh không kịp thời; việc nắm bắt

tình hình các tầng lớp nhân dân có lúc chưa kịp thời; đổi mới nội dung,

phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã

hội có mặt còn chậm; vai trò giám sát, phản biện xã hội chưa rõ nét; một số

nội dung phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền hiệu

quả chưa cao” [4, tr. 10].

103

Từ những hạn chế nêu trên về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã trở thành những yếu tố tác

động gây ảnh hưởng không nhỏ tạo nên những hạn chế trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang, như:

Về phát triển kinh tế

Kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, cơ cấu nguồn thu và thu cân đối

trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ còn nhỏ so với nhu cầu chi; cải cách thủ tục hành

chính chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo môi trường thật sự thông thoáng, thuận

lợi cho người dân và doanh nghiệp. Phát triển nông, lâm nghiệp, dịch vụ, du

lịch chưa tương xứng với tiềm năng; tiến độ thực hiện một số công trình, dự

án còn chậm; doanh nghiệp còn khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; quản lý

địa bàn, quản lý tài nguyên, khoáng sản, kiểm soát ô nhiễm môi trường, vệ

sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế.

Về văn hóa - xã hội

Chất lượng giáo dục toàn diện có mặt còn hạn chế, cơ sở vật chất

tường học, trạm y tế còn thiếu, chưa được đầu tư đồng bộ; việc thực hiện nếp

sống văn minh trong việc cưới, việc tang có nơi chưa nghiêm; chất lượng

giảm nghèo ở một số nơi chưa vững chắc; chất lượng nguồn nhân lực chưa

đồng đều, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển; công tác đào tạo nghề hiệu quả

chưa cao, chưa gắn với các dự án phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu thị

trường lao động.

Về quốc phòng - an ninh, thanh tra - tư pháp, công tác phòng chống

tham nhũng, lãng phí

Công tác nắm và dự báo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội có lúc, có nơi chưa kịp thời; việc giải quyết một số vụ việc khiếu nại, tố cáo

và đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra, kiểm tra còn

chậm; tai nạn giao thông giảm chưa vững chắc; một số địa bàn còn tiềm ẩn

104

những phức tạp về an ninh tôn giáo; công tác chỉ đạo phòng, chống tham nhũng

ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả thấp.

Về công tác xây dựng Đảng

Việc tổ chức học tập, quán triệt các văn kiện của Đảng có nơi, có việc

chưa thật sự tốt; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện còn chậm, chưa

sát thực tế. Đấu tranh phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng, chất

lượng sinh hoạt đảng còn hạn chế. Công tác xây dựng tổ chức đảng và phát

triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước còn chậm và chất lượng

chưa cao.

Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế; cải cách hành

chính hiệu quả chưa cao. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt còn chậm; một số

nội dung phối hợp với chính quyền hiệu quả chưa cao.

Về công tác đối ngoại

Công tác vận động, thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả thấp; công tác

thông tin đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu; tiến độ thực hiện một số

chương trình, dự án đầu tư nước ngoài chưa đảm bảo kế hoạch.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém về năng lực tư

duy lý luận

Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang xuất phát từ những nguyên nhân chính

sau đây:

Một là, do là tỉnh miền núi với những điều kiện khó khăn về điều kiện

tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống, sinh hoạt và làm việc,

trình độ dân trí thấp đã ảnh hưởng đến sự phát triển và nâng cao năng lực tư

duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

105

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, bên cạnh

những thuận lợi nhất định cho quá trình phát triển của tỉnh thì cũng còn không

ít khó khăn như: Địa hình của tỉnh chủ yếu là đồi núi, giao thông đi lại còn

nhiều khó khăn, sự phát triển giữa các vùng trong tỉnh còn nhiều chênh lệch,

trình độ sản xuất, canh tác của nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa còn lạc

hậu, năng suất lao động thấp. Quy mô kinh tế của tỉnh còn nhỏ bé, năng lực

cạnh tranh thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ

- nông, lâm nghiệp còn chậm. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Trình độ

dân trí, đời sống của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc

thiểu số còn nhiều khó khăn...

Những điều kiện khó khăn chung về kinh tế - xã hội của tỉnh đã tác

động không nhỏ tới đời sống, môi trường làm việc của đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ít có cơ hội va chạm, giao lưu

học hỏi, không có môi trường tốt để rèn luyện, thậm chí không có điều kiện

để vận dụng những kiến thức cơ bản có được sau khi được cử đi đào tạo, bồi

dưỡng. Những điều kiện khó khăn về kinh tế - xã hội của tỉnh đã không

những tác động trực tiếp tới đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mà gián tiếp đã ảnh

hưởng không nhỏ tới sự phát triển và nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Đúng như chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ

“Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”.

Hai là, trình độ học vấn, trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ còn

hạn chế, đặc biệt là ý thức tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế đã ảnh hưởng rất lớn

đến năng lực tư duy lý luận của họ.

Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang từ tỉnh

đến cơ sở có chuyển biến tích cực về chất lượng; trình độ chuyên môn, lý luận

106

chính trị, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số được nâng lên, có

cơ cấu tương đối phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của tỉnh; hầu hết cán bộ

có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn được phẩm

chất đạo đức, lối sống, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh.

Điều đó là do đội ngũ cán bộ các cấp ở tỉnh Tuyên Quang được quan

tâm tạo điều kiện học tập để nâng cao trình độ học vấn, trình độ lý luận, trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Bởi vì quá

trình đào tạo cán bộ còn chưa đồng bộ do chưa có chiến lược đào tạo cụ thể,

lâu dài, chủ yếu đào tạo cán bộ theo hướng thiếu gì học đấy, cần gì bổ sung

đấy và đào tạo chủ yếu bằng thực tiễn công tác. Chính vì thế trình độ học vấn,

trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ này còn nhiều hạn

chế, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Bên cạnh đó, những ảnh hưởng của lối suy nghĩ cũ, đề cao kinh nhiệm

hơn lý luận, lòng tin hơn lý trí đã cản trở, tác động không nhỏ tới việc đầu tư

cho học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ; đồng thời còn

tác động mạnh mẽ tới ý thức tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ,

đặc biệt là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Ba là, những hạn chế, bất cập trong công tác quy hoạch, bố trí, sử

dụng, luân chuyển cán bộ người dân tộc thiểu số đã dẫn đến những hạn chế

nhất định trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ người dân

tộc thiểu số.

Mặc dù công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ đã

được các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành quan tâm. Việc đánh giá, sử

dụng cán bộ dân chủ, khách quan, đảm bảo đúng quy trình, phù hợp với tình

hình đội ngũ cán bộ của tỉnh, đặc điểm tình hình của địa phương và yêu cầu

107

của vị trí công tác. Tuy nhiên qua thực tế vẫn nhận thấy việc bố trí cán bộ

lãnh đạo là người dân tộc thiểu số ở một số ngành, địa phương còn hạn chế,

nặng về cơ cấu vùng miền, đặc biệt là bố trí cán bộ công chức ở cấp xã nhiều

nơi chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và chuyên môn được

đào tạo, chưa phù hợp với đặc điểm tình hình ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số sinh sống. Một số cơ quan, đơn vị thực hiện công tác quy

hoạch cán bộ còn khép kín trong địa phương, đơn vị; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ

nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số còn thấp. Việc đánh giá, nhận xét cán bộ

trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số trước và sau luân chuyển còn

hạn chế. Một số cán bộ trẻ, cán bộ nữ được luân chuyển giữ chức vụ mới thời

gian còn ngắn và chưa hợp lý, phần nào ảnh hưởng tới thực hiện nhiệm vụ

của địa phương, đơn vị “Công tác quy hoạch cán bộ thiếu tính chiến lược, đặc

biệt là cấp huyện, cấp xã và một số cơ quan cấp tỉnh; chưa đảm bảo theo yêu

cầu, vẫn còn khép kín ở cơ quan, đơn vị; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít

người, cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch còn thấp, không có nhân tố nổi trội” [6].

Bốn là, cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu

số, đặc biệt trong việc cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn

chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.

Căn cứ vào quy chế, quy định của Trung ương, tỉnh Tuyên Quang đã

chủ động chỉ đạo cấp ủy các cấp, các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt các

chính sách đãi ngộ đối với cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số

nói riêng; đồng thời trên cơ sở rà soát, đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ

để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp

ứng với yêu cầu, nhiệm vụ.

Tuy nhiên, chưa xây dựng được chính sách cụ thể về luân chuyển để

động viên, khuyến khích đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc

thiểu số. Chậm ban hành quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ đối với cán bộ

108

người dân tộc thiểu số, đặc biệt là chính sách thu hút cán bộ người dân tộc thiểu

số có trình độ, chuyên môn, có năng lực thu hút, vận động nhân dân về công tác

ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiếu số có nơi, có thời điểm

chưa gắn với quy hoạch và nhu cầu cán bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

việc cử cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng mới chỉ quan tâm đến số lượng,

chưa quan tâm đến cơ cấu, ngành nghề, chuyên môn được đào tạo; nội dung,

chương trình và phương pháp đào tạo còn chậm đổi mới, nhiều hạn chế.

109

Kết luận chương 3

Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản lĩnh chính

trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn,

vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, đưa ra

được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa

phương; từng bước đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo

thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn vượt qua khó khăn, thử thách, từng

bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp

cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của

tỉnh. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

vẫn còn biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn một bộ

phận cán bộ người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền

thống; khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng

kết được kinh nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của

một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin

còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời.

Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư duy lý luận

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay xuất

phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính phổ biến mà

đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có những nguyên

nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào người dân tộc thiểu số

sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung,

đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy được những ưu điểm, tích cực

110

và khắc phục được những yếu kém, hạn chế trong năng lực tư duy lý luận. Có

như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới đáp

ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

111

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO

NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI

DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY

4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay nói riêng là

nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, vừa thường xuyên vừa liên tục. Quá trình

ấy phải bám sát các quan điểm nhằm bảo đảm cho việc nâng cao năng lực tư

duy lý luận không tách rời thực tiễn; bảo đảm nâng cao năng lực tư duy lý

luận gắn liền với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng; đặc biệt phải

bảo đảm không tách rời với chính sách dân tộc và yếu tố bình đẳng, đoàn kết

dân tộc. Từ đó tạo ra sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và tình cảm cách

mạng; hình thành nên phong cách, năng lực hoạt động thực tiễn khoa học,

mềm dẻo và đúng đắn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Từ thực

trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang, xin đề cập một số quan điểm cơ bản mang tính định hướng

trong quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.

Một là, cần có những quan niệm đúng về thực chất việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Ở một số ít

người hiện tại chỉ xem quá trình này như là kết quả tác động một chiều từ

phía Nhà nước mà không thấy được nó còn là kết quả của quá trình “phát

triển nội tại”, quá trình phát huy hết khả năng, năng lực của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số.

112

Chủ nghĩa Mác - Lênin, đã khẳng định, con người là sản phẩm của xã

hội, đồng thời con người cũng là chủ thể hoạt động, sáng tạo ra xã hội. Con

người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, muốn

đẩy mạnh động lực phát triển xã hội, nhất thiết nhân tố con người phải được

phát huy, điều đó cũng có nguồn lực con người phải được nâng lên qua mỗi

giai đoạn cách mạng. Vì vậy, đồng thời với sự tác động của cơ chế chính sách

của Đảng, Nhà nước thì tự bản thân đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải tự

giác phấn đấu nâng cao vai trò tích cực, nâng cao năng lực để đáp ứng yêu

cầu đổi mới của sự phát triển. Từ quan niệm nay, cần phải tạo ra những tác

nhân, những điều kiện thích hợp kích thích sự sáng tạo, sự vươn lên của đội

ngũ cán bộ này trước sự nghiệp đổi mới.

Hai là, nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao

dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh

Năng lực tư duy lý luận tuy bị chi phối bởi yếu tố bẩm sinh, di truyền

nhưng chủ yếu là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng

giai đoạn lịch sử cụ thể. Do đó, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

lãnh đạo tỉnh phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao

dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ

đó. Mặc dù tư duy con người cũng có tính năng động, sáng tạo, có thể phản

ánh vượt trước tồn tại xã hội, nhưng về cơ bản, con người khó có thể phát

triển năng lực tư duy lý luận của mình trên một cơ sở kinh tế - xã hội với một

nền sản xuất nhỏ lạc hậu, chậm phát triển được. Cho nên, không thể nói đến

nâng cao năng lực tư duy cho cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số

nói riêng nếu không gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

113

Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện để cán bộ người dân tộc

thiểu số có điều kiện học tập, rèn luyện, phát triển nâng cao về mọi mặt một

cách có hệ thống. Mặt khác, kinh tế - xã hội phát triển đặt người cán bộ

người dân tộc thiểu số trước yêu cầu phải nắm chắc thực tiễn đang phát

triển, đòi hỏi cần phải vận dụng lý luận vào điều kiện cụ thể của thực tiễn

như thế nào cho đúng hướng. Chính qua sự tác động hai chiều đó mà đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số mới có cơ hội trau dồi, rèn luyện phát triển

năng lực tư duy lý luận của mình.

Kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện để nâng cao dân trí cho cán

bộ và nhân dân. Khi đời sống được nâng lên, con người sẽ có điều kiện phát

triển cả về thể chất và trí tuệ. Như thế, kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện

khách quan để phát triển, hoàn thiện cơ sở sinh học của tư duy, tạo tiền đề cho

việc phát triển năng lực trí tuệ, tư duy của chủ thể. Nếu nhân dân toàn tỉnh

được nâng lên về trình độ học vấn thì đó là cơ sở để cán bộ lãnh đạo người

dân tộc thiểu số trong tỉnh nâng năng lực tư duy lý luận lên.

Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho công tác

tuyên truyền giáo dục tư tưởng cho nhân dân. Bởi vì kinh tế phát triển, xã hội

ổn định đời sống của cán bộ, nhân dân được nâng lên thì đường lối, chủ

trương của Đảng sẽ được nhân dân tin tưởng và tự giác chấp hành.

Kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

sẽ thôi thúc người cán bộ người dân tộc thiểu số phải trau dồi nghiệp vụ

chuyên môn, tri thức quản lý, tri thức lý luận... Trên cơ sở đó sẽ từng bước

nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, những vấn đề do phát triển kinh tế

- xã hội đặt ra sẽ thử thách về năng lực trí tuệ và phẩm chất cách mạng của

đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng.

Khi gặp những vấn đề mới nảy sinh, buộc đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

114

số phải huy động cao nhất năng lực trí tuệ để giải quyết những vấn đề đó. Từ

việc giải quyết những vấn đề cụ thể mà năng lực trí tuệ, tư duy lý luận sẽ

thường xuyên được mài dũa và không ngừng được nâng cao.

Ba là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số phải kết hợp chặt chẽ với việc tăng cường rèn luyện đạo đức cách

mạng cho họ

Năng lực tư duy lý luận có vai trò to lớn đối với hoạt động lãnh đạo

của người cán bộ nói chung, đối với cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng.

Tuy nhiên, năng lực tư duy lý luận mới chỉ là một trong những phẩm chất mà

người cán bộ dân tộc thiểu số cần phải có. Những phẩm chất của người cán bộ

biểu hiện cụ thể ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực và rất phong phú, có thể khái

quát ở các vấn đề như: tri thức, năng lực trí tuệ, tình cảm, niềm tin, ý chí cách

mạng và khả năng hoạt động thực tiễn... Trong đó tình cảm, niềm tin, ý chí

cách mạng là động cơ thôi thúc bên trong khiến người ta biến những tri thức,

trí tuệ thành hành động thực tiễn. Như vậy, năng lực tư duy lý luận hiện diện

ở người cán bộ mới chỉ là khả năng, là tiền đề, nó có được phát huy hay

không và phát huy theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực phần lớn phụ

thuộc vào phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ. Do vậy, nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải gắn

liền với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho họ. Hồ Chủ tịch đã từng chỉ rõ:

“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây

phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,

không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”

[46, tr. 252 - 253]. Trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng trong điều kiện

ngày nay phải tập trung vào việc bảo vệ, kiên trì và vận dụng sáng tạo lý luận

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,

của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; xây dựng động cơ hành

115

động vì lý tưởng cách mạng, vì sự nghiệp xây dựng một xã hội mới theo mục

tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nếu không có đạo

đức cách mạng như vậy thì người cán bộ dù có năng lực tư duy lý luận cao

đến đâu chăng nữa cũng chỉ trở thành người nói mà không làm hoặc nói một

đằng làm một nẻo. Do đó thiết nghĩ việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng cũng cần

phải “nâng cao nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức,

viên chức trong việc tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên” [4, tr.31].

Trong điều kiện thông tin phát triển rộng khắp hiện nay, sự gương

mẫu trong đạo đức, lối sống của người cán bộ nói chung, cán bộ người dân

tộc thiểu số nói riêng có ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín lãnh đạo và hiệu

quả công việc. Bởi thế, giữ vững, phát huy đạo đức cách mạng trong sáng

trong sự kết hợp với nâng cao dần năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các địa

phương trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, góp phần thành công của sự nghiệp

đổi mới trên cả nước.

Bốn là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số phải đảm bảo với yếu tố bình đẳng, đoàn kết dân tộc.

Trong thực hiện chính sách ưu tiên đối với cán bộ dân tộc thiểu số, dù

muốn hay không chúng ta vẫn phải duy trì quan điểm ưu tiên đầu tư đặc biệt.

Thực hiện chính sách ưu tiên đối với cán bộ người dân tộc thiểu số chính là

góp phần thực hiện sự công bằng, bình đẳng trong quan hệ giữa các dân tộc.

Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc nêu rõ:

“Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở

vùng dân tộc; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp

116

tục thực hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học

tại các trường đại học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị đại học dân tộc ở khu

vực miền Trung, Tây nguyên. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên đào

tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số” [109, tr.38].

Đây là một nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài, đồng

thời là phương hướng chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác phát triển nguồn

cán bộ người dân tộc thiểu số trong quá trình đổi mới. Phương hướng đó

khẳng định rõ chủ trương thực hiện chính ưu tiên, phát triển nguồn cán bộ dân

tộc thiểu số từ nay đến năm 2020. Chỉ có thể thực hiện nhất quán, đồng bộ

chính sách đó thì mới phát triển được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững

mạnh, tương xứng với yêu cầu, đáp ứng với nhiệm vụ cách mạng đặt ra.

Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng, trong quá trình nâng cao năng lực tư

duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chúng ta cũng cần chú

ý đến việc tạo cơ hội, điều kiện như nhau để các dân tộc cùng phát triển. Nên

tránh việc quá ưu tiên đối với dân tộc thiểu số mà coi nhẹ các dân tộc khác;

tránh vì ưu tiên đối với dân tộc thiểu số mà bỏ qua tiêu chí về chất lượng,

phẩm chất đạo đức, yêu cầu về kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ. Việc ưu tiên

và có những chính sách đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đặt

trong sự hài hòa và mang tính lịch sự cụ thể, có như vậy việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số mới đạt được

hiệu quả như mong muốn.

Năm là, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số là một quá trình lâu dài, có những khó khăn nhất định.

Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là một quá trình lâu dài cho nên

cần nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về những thuận lợi, khó khăn, những

trở lực trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số. Trước thực trạng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, cần phải nhìn

117

nhận vấn đề đó trong tính hai mặt của vấn đề và cần có quan điểm lịch sử cụ

thể. Có vấn đề xuất hiện như một lẽ đương nhiên do khách quan quy định (ví

dụ, việc nâng cao điều kiện vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số đang bị giới hạn bởi khả năng của nền tài chính của địa phương, đơn

vị); mức lương và phụ cấp quá thấp. điều kiện đi lại, làm việc còn khó khăn;

có vấn đề bộc lộ ra sự bất hợp lý do nhận thức và cách thức hoạt động của con

người. Không thấy tính khách quan quy định; những nỗ lực giải quyết sẽ sa

vào không tưởng (ví dụ, tiêu chuẩn cán bộ: cần phải có sự nhìn nhận, giải

quyết linh động); không thấy hết khó khăn mặt chủ quan, tình trạng trì trệ sẽ

tiếp tục kéo dài và làm cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số không được hiện thực hóa hoặc sẽ vận động theo

chiều hướng không mong đợi. Chính vì vậy, nhận thức được việc nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đang cần được

tiếp tục và duy trì một cách ổn định và trên nhiều phương diện.

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay

Từ việc nghiên cứu thực trạng, chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế của

thực trạng đó, cũng như đưa ra một số quan điểm cơ bản nhằm nâng cao năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang hiện nay.

4.2.1. Không ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển

biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình độ dân trí cho đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số

Điều kiện Kinh tế - xã hội luôn luôn đóng vai trò là hạt nhân quyết định

hình thành, tồn tại và biến đổi về tinh thần, ý thức của con người. Sự thay đổi

118

của hoàn cảnh sống tất yếu sẽ dẫn đến biến đổi đời sống tinh thần của xã hội.

Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

số cũng là một trong những kết quả cần đạt được trong việc không ngừng đẩy

mạnh phát triển Kinh tế - xã hội. Thành tựu đạt được của tiến trình không

ngừng đổi mới của thời gian qua chính là cơ sở, tiền đề quan trọng trong việc

tạo bước chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình độ dân trí

và khoa học kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, tạo điều kiện

thuận lợi cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thay đổi những cách nhìn, quan

niệm còn mang tính lỗi thời và không ngừng tự nâng cao trình độ, năng lực tư

duy lý luận cho bản thân.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh,

sự điều hành tập trung, quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả của Ủy ban nhân dân

tỉnh, trong đó tập trung vào 04 lĩnh vực đột phá mà Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ XV đề ra; sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, ngành, thành phần kinh

tế, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển, quốc phòng - an ninh

được đảm bảo, đời sống nhân dân ổn định; 21/21 chỉ tiêu đạt và vượt kế

hoạch. Các cấp, ngành từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn

diện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh

nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Kinh tế của tỉnh tiếp tục phát

triển, các chỉ tiêu cơ bản tăng khá so với các năm trước như giá trị sản xuất

công nghiệp, giá trị xuất khẩu hàng hóa, thu hút khách du lịch, thu ngân sách

trên địa bàn... Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng; nông lâm

nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, một số cây trồng

đạt hiệu quả kinh tế cao; các ngành dịch vụ phát triển ổn định. Hệ thống kết

cấu hạ tầng tiếp tục được chú trọng đầu tư, nhất là giao thông. Giáo dục, y tế

tiếp tục được quan tâm đầu tư, kịp thời triển khai thực hiện các chính sách xã

hội, hoạt động văn hóa, thông tin tuyên truyền diễn ra phong phú, tổ chức

119

nhiều lễ hội đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần thu hút khách du lịch;

lao động, việc làm tiếp tục có chuyển biến; công tác giảm nghèo, bảo đảm an

sinh xã hội được quan tâm. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Tuy nhiên, do khó khăn chung của nền kinh tế, hoạt động sản xuất

kinh doanh gặp nhiều khó khăn, kinh tế phát triển chưa vững chắc, sản

lượng một số sản phẩm công nghiệp đạt thấp so với kế hoạch; tiến độ thực

hiện đầu tư một số dự án công nghiệp, xây dựng, giao thông còn chậm. Quản

lý nhà nước về hoạt động khoáng sản, lâm sản, đất đai và bảo đảm trật tự an

toàn giao thông còn hạn chế. Chất lượng giảm nghèo ở một số nơi chưa bền

vững, đời sống của một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh

còn diễn biến phức tạp, nhất là an ninh nông thôn, an ninh trong lĩnh vực

dân tộc, tôn giáo.

Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang trong những năm gần đây cho thấy định

hướng tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tích cực chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy các tiềm

năng, lợi thế huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển để nhanh chóng và

đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên do

địa chính trị của tỉnh không mấy thuận lợi, nền tảng phát triển của tỉnh còn

thấp, phương thức sản xuất chưa phát triển nên việc triển khai, chọn lựa

những nội dung cụ thể để thực hiện cần phải thiết thực, có điểm nhấn, có

trọng tâm, trọng điểm. Chính vì vậy, để đưa nghị quyết đi vào thực tế, đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số phải căn cứ vào những đặc thù về điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội, bám sát quan điểm phát triển của tỉnh đã đề ra tại Nghị

quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVI; phải tích cực

hoạt động, chủ động trong khai thác các tiềm năng, thế mạnh của địa phương;

căn cứ vào vị trí, trách nhiệm của bản thân trong hệ thống chính trị của tỉnh để

thực hiện tốt những nhiệm vụ chính trị được giao. Trọng tâm là:

120

Thu hút đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp, tập trung vào một số

ngành có tiềm năng, lợi thế

Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng

thiết yếu các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch. Tiếp tục hoàn thiện và

thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện

thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính, nguồn nguyên

liệu và các điều kiện khác để thu hút nhà đầu tư phát triển các ngành công

nghiệp có tiềm năng, lợi thế.

Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản đồng bộ với

phát triển vùng nguyên liệu, gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích giữa nhà máy

chế biến với người sản xuất nguyên liệu. Phát huy công suất nhà máy sản xuất

bột giấy, giấy tráng phấn cao cấp; đầu tư nâng công suất, đa dạng hoá sản

phẩm của các nhà máy đường; đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả của các

nhà máy chè, chú trọng phát triển một số sản phẩm chè đặc sản.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; tháo gỡ

khó khăn, bảo đảm hiệu quả sản xuất của các nhà máy xi măng; quản lý chặt

chẽ hoạt động khai thác cát, sỏi; tiếp tục thu hút đầu tư dự án sản xuất gạch, cao

lanh - fenspat, đá xây dựng và một số vật liệu xây dựng có tiềm năng phát triển.

Nâng cao hiệu quả các nhà máy khoáng sản hiện có; trên cơ sở quy

hoạch, tiếp tục triển khai thăm dò, khai thác, đầu tư một số dự án công nghiệp

khoáng sản theo hướng chế biến sâu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và hạn chế

tác động tới môi trường.

Phát huy công suất của các nhà máy thủy điện hiện có; sớm hoàn thành

xây dựng các nhà máy thủy điện theo quy hoạch. Duy trì công suất các nhà

máy may mặc; tích cực thu hút đầu tư các dự án công nghiệp hỗ trợ, giầy da,

cơ khí, điện tử, dự án sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; khuyến khích

121

các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, tạo ra sản phẩm

có giá trị gia tăng cao.

Chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn chất

lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao

hiệu quả sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tăng

nhanh sản lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, nhất là một

số sản phẩm trọng điểm của tỉnh. Tăng cường hoạt động khuyến công, ưu tiên

hỗ trợ các dự án công nghiệp có thế mạnh của tỉnh, khuyến khích phát triển

tiểu thủ công nghiệp.

Phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá theo hướng nâng cao hiệu quả,

gắn với xây dựng nông thôn mới

Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất, chế biến,

tiêu thụ nông, lâm sản hàng hóa, từng bước hướng tới nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao. Tăng cường hợp tác, liên kết, gắn chặt việc phát triển các

vùng sản xuất hàng hoá với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản

phẩm. Chú trọng xây dựng, quảng bá thương hiệu; mở rộng thị trường tiêu thụ

trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo

chuyển biến mạnh về năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản

xuất, tập trung đối với một số cây trồng có lợi thế. Ổn định diện tích đất trồng

lúa, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh.

Quy hoạch nguyên liệu mía với diện tích phù hợp và tăng cường thâm

canh, nâng cao năng suất để cung ứng nguyên liệu cho phát triển công nghiệp

mía đường của tỉnh. Rà soát, quy hoạch phát triển cây chè đáp ứng cho công

nghiệp chế biến; tăng cường thâm canh tăng năng suất chè; thay thế những

diện tích chè già cỗi, có năng suất thấp để trồng mới bằng các giống chè có

năng suất cao và trồng chè đặc sản ở nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp. Phát

triển vững chắc vùng cam sành theo quy hoạch; quản lý chặt chẽ việc sản

122

xuất, cung ứng, sử dụng cây giống; nghiên cứu tạo giống cam sành sạch bệnh,

có năng suất, giá trị cao; ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thu

hoạch, bảo quản, tiêu thụ và tiến tới chế biến sản phẩm từ cam sành. Ổn định

vùng trồng lạc tập trung, chỉ sử dụng giống lạc có năng suất, chất lượng cao.

Phát triển một số nông sản hàng hoá khác có hiệu quả kinh tế, gắn với nhu

cầu của thị trường.

Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hàng hóa, tạo sản phẩm có chất lượng, sức

cạnh tranh cao. Tổ chức chăn nuôi nông hộ với quy mô hợp lý, có kiểm soát, bảo

đảm an toàn sinh học. Tăng quy mô đàn lợn, gia cầm; phục hồi tốc độ tăng

trưởng đàn trâu, đàn bò; duy trì quy mô và nâng cao hiệu quả chăn nuôi đàn bò

sữa. Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm.

Phát triển thuỷ sản theo hướng nuôi thâm canh bằng các loài cao sản ở

ao, hồ; mở rộng diện tích nuôi thâm canh các loài cá đặc sản có giá trị kinh tế

cao gắn với nhu cầu của thị trường. Củng cố hệ thống sản xuất giống, trong

đó chú trọng nhân giống một số loài cá đặc sản bằng phương pháp nhân tạo.

Rà soát quy hoạch đất lâm nghiệp, quản lý và bảo vệ chặt chẽ rừng đặc

dụng, rừng phòng hộ; trồng và khai thác hợp lý rừng sản xuất phục vụ công

nghiệp chế biến, ưu tiên cho sản xuất giấy và bột giấy; phát triển một số diện

tích rừng gỗ lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu. Chuyển đổi một số diện tích đất

lâm nghiệp, đất trồng cây ăn quả có hiệu quả thấp sang trồng các loại cây có

hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu thị trường. Quản lý chặt chẽ, ứng

dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn giống cây lâm nghiệp,

kết hợp với phương thức trồng thâm canh để nâng cao năng suất gỗ rừng trồng.

Rà soát, bổ sung các chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân,

nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế. Ưu tiên nguồn lực đầu tư cho công

nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động

nông thôn; hỗ trợ phát triển các ngành nghề truyền thống, xây dựng sản phẩm

123

đặc trưng của các địa phương gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh cơ giới hóa,

ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản và chế biến

nông, lâm sản. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, sắp xếp, đổi mới các

doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, trọng tâm là nâng cao hiệu quả

hoạt động của các công ty lâm nghiệp, các doanh nghiệp chè; củng cố hoạt

động của hợp tác xã; khuyến khích hình thức sản xuất trang trại, gia trại, tích tụ

đất đai và các nguồn lực phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô phù hợp.

Đa dạng hoá các nguồn lực, trong đó chú ý phát huy nội lực của cộng

đồng dân cư để xây dựng nông thôn mới, thực hiện các tiêu chí bảo đảm vững

chắc, trọng tâm là phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.

Tiếp tục thực hiện dự án điều chỉnh quy hoạch tổng thể di dân tái định cư

thuỷ điện Tuyên Quang, bảo đảm ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho

các hộ tái định cư. Rà soát để sắp xếp ổn định dân cư, di chuyển các hộ dân ở

vùng nguy hiểm do thiên tai, khu vực có ít điều kiện phát triển, vùng rừng đặc

dụng, phòng hộ xung yếu đến định cư tại nơi an toàn, có điều kiện phát triển

tốt. Ưu tiên hỗ trợ ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho các hộ dân phải

di chuyển, tái định cư để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội.

Phát huy tiềm năng, đẩy mạnh phát triển du lịch để trở thành ngành

kinh tế quan trọng của tỉnh

Thực hiện có hiệu quả giải pháp thu hút đầu tư phát triển du lịch; đẩy

nhanh tiến độ quy hoạch chi tiết các khu du lịch và quy hoạch phân khu chức

năng các điểm du lịch; quy hoạch và xây dựng Khu du lịch lịch sử, văn hóa và

sinh thái Tân Trào thành Khu du lịch Quốc gia; tập trung phát triển du lịch

khu vực thành phố Tuyên Quang, Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm, Khu du

lịch sinh thái Na Hang...

124

Khai thác tốt loại hình du lịch lịch sử, văn hoá, nghỉ dưỡng, sinh thái, tâm

linh. Bảo tồn, tôn tạo phát huy các di tích lịch sử, giá trị văn hóa truyền thống; tổ

chức tốt các lễ hội văn hoá để thu hút du khách; xây dựng thương hiệu Lễ hội

Thành Tuyên; xây dựng làng văn hóa dân tộc gắn với các điểm du lịch.

Tổ chức có hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch;

tăng cường liên kết, hợp tác trong nước và nước ngoài; đa dạng hoá loại

hình du lịch, kết nối tua du lịch liên tỉnh và quốc tế, nhất là với các trung

tâm du lịch lớn.

Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch; thu

hút nhà đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch, xây dựng cơ sở lưu trú, khu nghỉ

dưỡng, sân golf… Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích phát triển các sản phẩm

hàng lưu niệm phục vụ du khách. Từng bước đào tạo và phát triển nguồn nhân

lực ngành du lịch bảo đảm đáp ứng yêu cầu.

Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ; thực hiện tốt nhiệm vụ tài

chính, tín dụng; tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ

Phát triển mạnh các công trình hạ tầng thương mại, nhất là các siêu thị,

trung tâm thương mại tại thành phố Tuyên Quang, khu công nghiệp, chợ

trung tâm các huyện; phát triển các chợ nông thôn tại những nơi phù hợp. Đẩy

mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và

xây dựng, quảng bá thương hiệu một số sản phẩm chủ lực của tỉnh. Mở rộng

thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả

cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chính sách

hỗ trợ thị trường trong nước.

Đẩy mạnh phát triển dịch vụ vận tải đồng thời nâng cao hơn nữa chất

lượng của dịch vụ vận tải; mở rộng các tuyến vận tải, khuyến khích tăng

phương tiện vận tải; xã hội hoá đầu tư bến xe khách, điểm đỗ, cảng sông, dịch

vụ vận tải công cộng. Mở rộng phát triển dịch vụ bưu chính, viễn thông; ứng

125

dụng công nghệ thông tin với công nghệ hiện đại, cung cấp các dịch vụ đa

phương tiện có chất lượng cao.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thành mục tiêu thu ngân sách.

Huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính gắn với định

hướng phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên cho các chương trình trọng tâm, xây

dựng các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh và quan tâm thực hiện các

chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế tự chủ đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập; tăng cường trách nhiệm trong quản lý ngân sách, đi đôi

với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán.

Thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, tạo điều kiện thuận

lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh; ưu tiên vốn cho vay đầu tư vào lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, công

nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Thực

hiện tốt chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng

chính sách xã hội.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực, nhất là

trong sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp; chú trọng ứng dụng công nghệ

sinh học, cơ giới hóa các vùng chuyên canh; đổi mới công nghệ sản xuất, thu

hoạch, bảo quản và chế biến sản phẩm các cây trồng, vật nuôi có lợi thế của

tỉnh. Triển khai các đề tài, dự án khoa học có trọng tâm, nâng cao năng lực

tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ.

Tiếp tục huy động có hiệu quả các nguồn lực đầu tư nâng cao chất

lượng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị

Rà soát, bổ sung quy hoạch và huy động các nguồn lực đầu tư phát

triển hệ thống giao thông. Phối hợp đầu tư xây dựng đường cao tốc nối thành

phố Tuyên Quang với đường cao tốc Lào Cai - Hải Phòng; tích cực đề nghị

Trung ương đầu tư tuyến đường sắt Thái Nguyên - Tuyên Quang - Yên Bái;

126

phối hợp cải tạo, nâng cấp các tuyến quốc lộ, đường Hồ Chí Minh. Triển khai

xây dựng một số cầu lớn; cải tạo, nâng cấp các tuyến đường tỉnh và các tuyến

đường đô thị, đường huyện. Tiếp tục thực hiện nhựa hóa hoặc bê tông hóa

đường giao thông nông thôn với quy mô, chính sách phù hợp. Phối hợp với

các tỉnh đầu tư cải tạo tuyến vận tải đường thủy trên sông Lô. Triển khai xây

dựng một số bến cảng sông, bến xe khách, trạm nghỉ, điểm đỗ.

Trên cơ sở quy hoạch, tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng và phát

triển thành phố Tuyên Quang để phấn đấu đạt tiêu chí đô thị loại II, hướng tới

đạt tiêu chí đô thị loại I. Từng bước xây dựng và phát triển hệ thống các đô

thị, tập trung một số đô thị động lực; triển khai nâng cấp thị trấn Na Hang trở

thành thị xã; xây dựng và phát triển thị trấn Sơn Dương đạt đô thị loại IV; tiếp

tục xây dựng hạ tầng trung tâm huyện Yên Sơn, huyện Lâm Bình và chỉnh

trang đô thị ở các huyện.

Căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, triển khai

điều chỉnh địa giới, thành lập các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đáp

ứng yêu cầu phát triển.

Rà soát, bổ sung các quy hoạch chuyên ngành làm cơ sở cho đầu tư hệ

thống hạ tầng kỹ thuật. Tiếp tục quan tâm đầu tư các công trình hạ tầng kinh

tế - xã hội ở vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó

khăn trên địa bàn tỉnh.

Huy động các nguồn lực triển khai xây dựng Khu liên hợp thể thao; tiếp

tục đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi theo quy hoạch, tập trung nâng cấp một

số công trình hồ chứa, cứng hóa một số tuyến đê xung yếu, hoàn thành xây

dựng kè bờ sông qua các đô thị, khu đông dân cư. Cải tạo, nâng cấp hệ thống

điện; triển khai thực hiện Dự án cấp điện nông thôn đến năm 2020, ưu tiên

cho các thôn, bản vùng sâu, vùng xa chưa có điện. Tiếp tục đầu tư nâng cấp,

xây dựng mới các công trình thoát nước đô thị, hệ thống cấp nước sinh hoạt,

127

chú trọng đối với vùng sâu, vùng xa, khu đông dân cư. Từng bước hiện đại

hóa hệ thống hạ tầng viễn thông, thông tin, dịch vụ và các công trình hạ tầng

kinh tế - xã hội khác.

Đẩy mạnh liên kết, hợp tác đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế,

tăng cường hoạt động đối ngoại

Tăng cường hợp tác, liên kết trong phát triển kinh tế- xã hội, trong đó

chú trọng nâng cao hiệu quả liên kết vùng để khai thác tiềm năng phát triển

công nghiệp, nông lâm nghiệp, dịch vụ, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng... Cải

thiện môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng; đổi mới và nâng cao hiệu quả

công tác vận động, thu hút đầu tư; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo

điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư triển khai các chương trình, dự án.

Thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tăng cường định hướng

ngành nghề sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp để khai thác các tiềm

năng, thế mạnh và phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh; thu hút doanh

nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới

các doanh nghiệp nhà nước; củng cố, nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể;

khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao năng lực cho đội ngũ doanh nhân.

Tích cực, chủ động các hoạt động đối ngoại, đẩy mạnh quảng bá hình

ảnh của tỉnh; tăng cường hợp tác, thu hút nguồn lực từ nước ngoài để phát

triển kinh tế - xã hội, nhất là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển

công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn, du lịch, dịch vụ... Nâng cao hiệu quả

quan hệ hợp tác hữu nghị với các tổ chức quốc tế, một số địa phương nước

ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư tại

tỉnh. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

128

Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, tích cực bảo vệ

môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gắn với nhiệm vụ

điều tra cơ bản về đất đai. Bố trí nguồn lực, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản

hoàn thành công tác đo đạc, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu quản

lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh. Tiếp tục triển khai có hiệu quả quy hoạch khai

thác và sử dụng khoáng sản, quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch bảo vệ môi

trường, quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học... Xây dựng một số dự án xử lý rác

thải tập trung, xử lý nước thải đô thị; bảo đảm khu công nghiệp có hệ thống xử

lý nước thải; xử lý cơ bản các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; làm tốt việc thu

gom, xử lý rác thải nguy hại, rác thải rắn, nước thải y tế.

Xã hội hoá, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi

trường, bảo vệ đa dạng sinh học. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao

nhận thức cho cộng đồng về phát triển bền vững, chủ động thực hiện các giải

pháp ứng phó biến đổi khí hậu. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát về

quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Việc không ngừng đẩy mạnh phát triển Kinh tế - xã hội có vai trò to lớn

trong việc tạo bước chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình

độ dân trí cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Sự phát triển đồng thời

này tạo nên nền tảng, là điều kiện tiên quyết cho đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số khắc phục những yếu kém, tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận;

mặt khác, sự phát triển đồng bộ và toàn diện các nhân tố này cũng đặt ra

nhiều vấn đề mới cho chính đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số cần có

chiến lược, mục đích rõ ràng trong việc xác định những việc cần làm, biết

đánh giá, phân tích, nắm bắt được tình hình xã hội trong địa bàn quản lý… để

có phương hướng, biện pháp giải quyết kịp thời, tạo cơ sở nhận thức và hành

động phù hợp với nhu cầu khách quan thực tiễn, nhờ đó khắc phục được bệnh

129

kinh nghiệm, bảo thủ, chủ quan duy ý chí, tạo môi trường thuận lợi từng bước

nâng cao năng lực tư duy lý luận đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới đề ra.

4.2.2. Thường xuyên tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

được đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và nâng cao trình độ lý

luận chính trị

Cần phải xác định rằng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ là công tác

phát hiện được nguồn và tạo được nguồn có được tại địa phương. Đây là một

trong những nội dung quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng. Đối với

các khu vực có người dân tộc thiểu số là cán bộ thì họ là những người của địa

phương, là cán bộ nguồn tại chỗ, là người am hiểu phong tục tập quán, tâm lý,

ngôn ngữ của đồng bào dân tộc, cuộc sống gắn bó với họ hàng bà con làng

bản sẽ giúp họ có nhiều ưu thế trong việc tuyên truyền, thuyết phục, hoạt

động và tổ chức đồng bào thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, công việc tạo nguồn phải bắt đầu từ

việc nâng cao dân trí, tích cực xóa mù chữ, phổ cập giáo dục phổ thông, đầu

tư phát triển các trường dân tộc nội trú, mở rộng hệ cử tuyển con em các dân

tộc thiểu số vào học các trường dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học, các

trường Đảng, đoàn thể. Tạo nguồn càng rộng thì đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử

dụng càng chủ động và sẽ lựa chọn được những người có đức, có tài đảm

đương được các chức danh chủ chốt ở cơ sở.

Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ

chế quản lý kinh tế, xã hội, quản lý cán bộ theo hướng động viên, khuyến

khích mọi cán bộ, trong đó đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số chăm chỉ

học tập, rèn luyện, phương pháp tư duy khoa học trở thành tiêu chí đánh giá

cũng như sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, quy hoạch cán bộ. Nó trở thành phương

châm hành động và ý thức tự giác thực hiện của mỗi người và đồng thời phải

có cơ chế giám sát, khen thưởng, kỷ luật nghiêm túc và khoa học. Phát hiện

130

và bồi dưỡng kịp thời những nhân tố mới, cán bộ có trình độ, năng lực, khả

năng phát triển, ngăn ngừa cán bộ thoái hóa, biến chất, cơ hội làm trong sạch,

lành mạnh đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Để khắc phục được bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, chủ quan duy ý

chí, tư tưởng trông chờ, ỷ lại cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thì

phải nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó phải nâng cao năng lực tư duy lý

luận bằng nhiều phương pháp; quan trọng là phải có kế hoạch, lộ trình cụ thể

để đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số một cách

thường xuyên với nhiều hình thức cụ thể và luôn được đổi mới nội dung. Qua

đào tạo và bồi dưỡng, cần nâng cao những kiến thức cơ bản là phải xây dựng

cho họ có được phương pháp tư duy biện chứng duy vật.

Trong quá trình được đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và

nâng cao trình độ lý luận chính trị, cán bộ được cử đi nói chung và cán bộ

người dân tộc thiểu số nói riêng sẽ có cơ hội được nắm chắc phần lý luận và

bám sát thực tiễn và chủ động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Việc thường

xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là một phương pháp căn bản để làm

sáng tỏ thêm lý luận, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, đảm bảo

sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vì thế tổng kết kinh nghiệm thực tiễn

giúp cho người được đi đào tạo, bổi dưỡng rút ngắn được khoảng cách giữa lý

luận và thực tiễn, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề cần được giải đáp, trên cơ sở

đó mà phát triển lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận. Tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn phải dựa trên trình độ lý luận nhất định, nhất là triết học

Mác - Lênin và các tri thức lý luận khoa học khác.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ, là khâu quan trọng, đòi hỏi phải

có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị.

Trước hết cần tăng cường vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng trong công tác

lập quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xét cử cán bộ đi học, thực hiện các

131

chính sách đối với ván bộ cử đi học. Trường Chính trị tỉnh là nơi trực tiếp đào

tạo các lớp trung cấp lý luận Chính trị - hành chính và phối hợp mở các lớp

quốc phòng cho cán bộ trong tỉnh. Vì vậy, trường phải chủ động phối hợp

chặt chẽ với các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị đào tạo lại cán bộ, đảm bảo chất

lượng trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh, huyện, xã theo chức

năng, nhiệm vụ. Phải tổng kết, đánh giá lại chất lượng công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ trong thời gian qua, xây dựng kế hoạch chiến lược cho công tác

đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ trong giai đoạn tới. Để công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt chất lượng cao cần kịp thời nâng cao chất

lượng đội ngũ giảng viên trường Chính trị tỉnh, giảng viên kiêm chức và trung

tâm bồi dưỡng chính trị các cấp. Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy

Đảng, chính quyền từ tỉnh đến xã thường xuyên chăm lo đến công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Tiếp tục tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức giai đoạn 2011-2015 và kế hoạch hằng năm sát thực tế, trong đó tập

trung đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã;

tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho công chức lãnh

đạo cấp phòng và cấp sở, cấp huyện, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức người dân tộc thiểu số. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã

xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn

2011-2015. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã lập kế hoạch cụ thể và cử

cán bộ đi đào tạo theo nhu cầu sử dụng. Ðặc biệt khi triển khai thực hiện Nghị

quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh đã xác định việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong bốn

khâu đột phá, cho nên công tác đào tạo cán bộ được quan tâm hơn. Từ đó đã

huy động mọi nguồn lực, tranh thủ các dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức của Trung ương và tăng đầu tư ngân sách của tỉnh cho đào tạo, bồi

132

dưỡng cán bộ. Liên kết với các trường đại học mở các lớp đại học tại chức.

Những cán bộ đi học, ngoài việc thực hiện theo chế độ chung, tùy từng

chương trình học cụ thể, tỉnh hỗ trợ tiền ăn, nghỉ, đi lại, mua tài tiệu và được

thanh toán công tác phí như đi công tác.

Tiếp tục củng cố các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức của tỉnh; xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ năng lực trình độ giảng dạy.

Đầu tư cơ sở vật chất tốt nhất cho Trường Chính trị tỉnh, Trường Đại

học Tân Trào, Trường trung học Kinh tế - Kỹ thuật, Trung tâm Giáo dục

Thường xuyên - hướng nghiệp tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện,

thành phố.

4.2.3. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ, coi trọng các khâu

tuyển dụng, thu hút trong công tác cán bộ, trong đó đặc biệt quan tâm đến

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

Báo cáo về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

X chỉ ra rằng: Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh

đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của tổ

chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Xác định rõ trách

nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng

đầu trong công tác cán bộ. Có chính sách, quy chế, bố trí sử dụng đúng những

người có năng lực, năng động, sáng tạo, có tư tưởng đổi mới. Như vậy, công

tác cán bộ được đặt ra yêu cầu về mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện

công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Phải có quy chế cán bộ rõ ràng

đổi mới phương pháp và các khâu trong quá trình đánh giá cán bộ, phải cụ thể

hóa bằng cơ chế, chính sách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ…

Đổi mới quy trình công tác cán bộ từ khâu đánh giá cán bộ, quy hoạch

cán bộ, luân chuyển cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí và sử dụng cán

bộ. Đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, khâu khó nhất và là khâu yếu nhất. Do

133

đó, đòi hỏi người làm công tác tổ chức cán bộ phải dân chủ, công tâm, minh

bạch, phải có đủ “tâm”, “tầm”, trong công tác cán bộ. Công tác quy hoạch cán

bộ phải gắn với yêu cầu và nhiệm vụ chính trị, lấy quy hoạch cấp dưới làm

tiền đề cho quy hoạch cấp trên, thực hiện quy hoạch “mở” và “động”, quy

hoạch cho từng chức danh. Khắc phục bằng được tình trạng bị động, hẫng hụt

cán bộ, mất cân đối giữa các loại cán bộ, đảm bảo tiêu chuẩn cho mỗi loại cán

bộ, chú trọng tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, người

xuất thân từ công nhân.

Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải kịp thời, từng bước khắc phục tình

trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, thiếu khách quan; không công tâm, hẹp

hòi, định kiến; bố trí, sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng việc, kịp thời phù

hợp với yêu cầu, nhiệm vụ “vì việc tìm người” chứ không phải “vì người tìm

việc”. Bố trí, sử dụng cán bộ dựa trên tiêu chuẩn năng lực và trình độ lý luận

là một giải pháp cơ bản tạo động lực thúc đẩy cán bộ nâng cao trình độ, tự

giác học tập, thường xuyên rèn luyện về mọi mặt. Vận dụng và đảm bảo các

chính sách đối với công tác cán bộ, khuyến khích phát hiện và sử dụng người

tài, người có năng lực, phẩm chất tốt, hiệu quả cao trong thực hiện các nhiệm

vụ chính trị tại địa phương, đơn vị.

Trong công tác quy hoạch cán bộ, việc xây dựng quy hoạch cán bộ phải

được thực hiện trên cơ sở quy hoạch nguồn cán bộ đã từng được quy hoạch,

phê duyệt chính xác danh sách nguồn cán bộ, rà soát, bổ sung thường xuyên

nguồn cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đánh giá và xem xét, kiên quyết đưa ra khỏi

nguồn quy hoạch những cán bộ không đảm bảo tiêu chuẩn. Quy hoạch cán bộ

phải gắn với đánh giá cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú

trọng đội ngũ cán bộ trẻ, đủ điều kiện có triển vọng phát triển; đào tạo cán bộ

phải gắn với tiêu chuẩn từng chức danh, tạo điều kiện khuyến khích cán bộ

học tại chức, tự học.

134

Việc bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ phải đảm bảo về tiêu chuẩn, có

quy hoạch rõ ràng, công khai, đúng quy trình trong công tác cán bộ. Mỗi

thời kỳ cách mạng khác nhau thì tiêu chuẩn cán bộ cũng sẽ thay đổi, phải có

sự phát triển và tính kế thừa. Do vậy, đánh giá cán bộ là khâu quan trọng đầu

tiên và là khâu khó nhất để từ đó lựa chọn, sắp xếp để đưa vào quy hoạch; từ

đó, bố trí, sắp xếp, sử dụng mới có hiệu quả. Phải chọn đúng người có phẩm

chất, có năng lực và uy tín; đúng việc là đúng sở trường; đúng lúc chính là

tạo thời cơ cho sự phát triển của cán bộ, không đúng lúc thì quy hoạch coi

như là “treo” không có giá trị. Rõ ràng, quy hoạch cán bộ gắn rất chặt, rất

hữu cơ với những khâu trọng yếu của công tác cán bộ, đó là khâu lựa chọn,

sắp xếp đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, không thể coi nhẹ hoặc

tuyết đối hóa khâu nào.

Về quản lý, kiểm tra, chính sách đối với cán bộ cần thực hiện tốt quy

định về phân cấp quản lý đối với cán bộ từ tỉnh cho đến huyện, xã; tăng

cường thẩm quyền và phân cấp mạnh cho các cấp rõ ràng, cụ thể về trách

nhiệm, quyền hạn của tập thể và cá nhân; nhằm cụ thể hóa các quan điểm,

nguyên tắc chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trước yêu cầu và

nhiệm vụ mới. Thực hiện mạnh mẽ hơn chủ trương phân cấp quản lý cán bộ

đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Xác

định trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng

đầu, khắc phục biểu hiện tiêu cực, cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, nể nang,

tùy tiện, đảm bảo công tâm, khách quan. Thực hiện đồng bộ các quy định,

quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, quy chế kiểm tra, giám

sát cán bộ, cơ chế chính sách cụ thể cho luân chuyển cán bộ và các quy định

khác về công tác cán bộ. Các cơ chế chính sách phải được tiến hành đồng bộ,

nghiêm túc, chặt chẽ, cụ thể tạo niềm tin phấn khởi tu dưỡng rèn luyện đạt

chuẩn hóa đội ngũ cán bộ so với yêu cầu đề ra.

135

Tiếp tục đổi mới, bổ sung quy chế cán bộ, xây dựng các cơ chế, chính

sách phù hợp điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính

trị trong giai đoạn cách mạnh mới. Cụ thể hóa và tiêu chuẩn hóa các chức

danh cho các đối tượng cán bộ về phẩm chất đạo đức, trình độ lý luận chính

trị, năng lực chuyên môn, kiến thức, năng lực thực tiễn cho từng loại cán bộ ở

các chức danh, lĩnh vực, từng cấp cho phù hợp. Đổi mới phương pháp đánh

giá cán bộ lấy hiệu quả công tác quản lý và hoàn thành nhiệm vụ làm thước

đo năng lực, phẩm chất cán bộ. Khắc phục tình trạng biểu hiện lệch lạc, thiếu

công tâm, dân chủ, gia trưởng, cục bộ trong công tác đánh giá và quy hoạch

cán bộ. Nâng cao tinh thần phê bình, tự phê bình, tính chiến đấu, phát huy

tính năng động, sáng tạo trong hoạt động và lãnh đạo, quản lý, điều hành của

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay.

Thực hiện tốt quy chế cán bộ, các khâu trong quy trình công tác cán bộ

đảm bảo tính khách quan, toàn diện, chính xác. Việc bố trí, sử dụng, sắp xếp,

luân chuyển cán bộ chỉ thực sự có hiệu quả, mỗi khi thực hiện tốt công tác

quy hoạch hoạch cán bộ từ đánh giá cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sắp

xếp, sử dụng cán bộ. Cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện, có cơ chế hỗ trợ

bằng ngân sách nhà nước và các nguồn ngân sách khác của địa phương; trong

thời gian tới nhất thiết phải được chuẩn hóa đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, đại học chuyên ngành

và cao cấp lý luận chính trị. Có như vậy mới tạo tiền đề cơ sở cho sự tiếp thu

lý luận chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách về công tác cán

bộ trên cơ sở nguyên tắc, quan điểm của Đảng; phải xuất phát từ yêu cầu

nhiệm vụ của một thời kỳ mới, hoàn thiện cơ chế chính sách cán bộ; phải

quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số để thu hút

họ trong công việc.

136

Đẩy mạnh công tác luân chuyển, bố trí, phân công nhiệm vụ cho đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với trình độ chuyên môn được đào

tạo, vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp gắn liền công tác đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng sau khi đào tạo, bồi dưỡng; mạnh dạn cất nhắc, đề bạt những

cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng vào các

cương vị quản lý chủ chốt.

4.2.4. Tiếp tục duy trì các chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số

Xét trong tổng thể các giải pháp, đây là một giải pháp quan trọng, bao

trùm nhất và là những đảm bảo về kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình phát

huy vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Xác lập cơ chế, chính

sách đồng bộ và hợp lý nhằm tạo động lực kích thích tính tích cực xã hội của

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Trên phương diện cá thể, trong những

môi trường và điều kiện nhất định, mỗi cá nhân có thể phát huy tính tích cực

xã hội (bao gồm cả phẩm chất và năng lực) trong những lĩnh vực hoạt động

đặc thù, chủ yếu nhờ vào sự nỗ lực hoạt động thực tiễn và sự định hướng giá

trị - lợi ích đúng đắn. Song, trên phương diện xã hội, muốn tích cực hóa quá

trình phát huy vai trò của một nhóm xã hội nhất định cần phải tạo ra lực đẩy

từ cả hệ thống, từ chỉnh thể, thông qua việc xác lập hệ thống cơ chế, chính

sách đồng bộ, hợp lý. Như vậy, để phát huy hết vai trò của cán bộ người dân

tộc thiểu số thì phải biết tạo ra động lực kích thích tính tích cực xã hội, lòng

nhiệt tình cách mạng của đội ngũ này. Việc tạo ra động lực để thúc đẩy cán bộ

người dân tộc thiểu số là phải tạo ra động lực vật chất và động lực tinh thần.

Động lực vật chất: là những tác động của lợi ích vật chất nhằm giải

quyết những nhu cầu thiết yếu, đảm bảo đời sống và điều kiện làm việc của

người cán bộ. Hiện nay, đời sống và điều kiện làm việc của cán bộ nói chung

và cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.

137

Do vậy, trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh cụ thể, lợi ích vật chất đối với

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn phản ánh nhu cầu cơ bản và mang

tính cấp bách.

Đảng ta cho rằng, “phải đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh

thần” và coi đây là một chính sách lớn trong việc thể hiện sự đãi ngộ đối với

các cán bộ người dân tộc thiểu số. Tinh thần này được thể hiện rõ trong nghị

quyết Trung ương 3 (khóa VIII). Nghị quyết này nêu rõ: “đổi mới cơ bản

chính sách, đảm bảo lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là tiền

lương, nhà ở, phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ

bản trong thu nhập của cán bộ, đảm bảo tái sản xuất ra sức lao động”. Riêng

đối với cán bộ miền núi, người dân tộc thiểu số, Đảng ta chủ trương: “bổ sung

chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng cao, vùng

sâu, vùng xa, khuyến khích cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, biên

giới, hải đảo”.

Động lực tinh thần là những lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần

của người cán bộ dân tộc thiểu số. Động lực tinh thần khi kết hợp với động

lực vật chất sẽ có sức thúc đẩy mạnh mẽ đối với quá trình phát huy vai trò của

người cán bộ.

Động lực tinh thần của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thể hiện ở lý

tưởng cách mạng mà họ tin theo và phục vụ; ở tình cảm, ý chí, niềm tin vào

Đảng, vào chế độ Xã hội chủ nghĩa; là lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của

người công dân, người cán bộ đối với quê hương, tổ quốc. Động lực tinh thần

trong đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn thường trực và tiềm ẩn sâu

xa trong họ. Hơn nữa, với đặc thù công việc và môi trường hoạt động gần

dân, tiếp xúc trực tiếp với dân, mọi hoạt động đều liên quan đến đời sống, của

cộng đồng, làng, bản… Đặc thù này góp phần tạo nên chiều sâu, độ bền vững

của những lý tưởng, tình cảm cách mạng, ý chí quyết tâm. Thực tế đã chứng

138

minh, vai trò của động lực tinh thần là rất quan trọng. Trong điều kiện, hoàn

cảnh kinh tế - xã hội đặc thù, trong nhiều trường hợp cụ thể, tác động của

động lực tinh thần tỏ ra ưu việt hơn với động lực vật chất; không hiếm trường

hợp động lực tinh thần còn có khả năng chuyển hóa, bù đắp cho những tác

động vật chất còn bị giới hạn bởi điều kiện khách quan.

Thực tiễn đổi mới đã cho thấy, Nhà nước và địa phương đã đóng góp

vai trò quyết định trong việc xác lập và hoàn thiện hệ động lực vật chất và

tinh thần để khuyến khích những người cán bộ vươn lên hoàn thành nhiệm vụ

và tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy vai trò của họ. Tuy nhiên, để có

những giải pháp cụ thể và có tính khả thi cao, cần phải có cơ chế phát huy

thích hợp thông qua việc cải tiến chế dộ tiền lương, phụ cấp, khen thưởng và

đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm khắc phục những

khó khăn trước mắt của người cán bộ dân tộc thiểu số, tạo môi trường xã hội

thuận lợi để cán bộ hoạt động. Hiện nay, đời sống của cán bộ người dân tộc

thiểu số còn nhiều khó khăn, tiền lương và phụ cấp quá thấp, chưa tương

xứng với sức lao động mà họ bỏ ra. Ở nhiều cơ sở đã có quy chế “bất thành

văn”, điều chỉnh chế độ làm việc của cán bộ cơ sở, để họ có điều kiện tham

gia sản xuất cùng gia đình, nhằm đảm bảo nhu cầu, thiết yếu hàng ngày.

Đất nước ta còn nhiều khó khăn, đời sống vật chất của mọi tầng lớp

nhân dân còn đều vất vả, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa - nơi mà hoàn cảnh

khách quan còn nhiều hạn chế, bất lợi. Điều này, tất nhiên các cán bộ là người

dân tộc thiểu số đã nhận thức đúng đắn và phải san sẻ gánh nặng với toàn

Đảng, toàn dân. Song, không vì vậy mà không xem xét đến hoàn cảnh,

nguyện vọng và những khó khăn trong đời sống của đội ngũ cán bộ này. Mặc

dù, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, song chế độ tiền lương, phụ cấp,

chế độ khen thưởng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

139

cần phải có sự bổ sung, sửa đổi để làm sao đời sống vật chất để cho họ làm

việc tốt hơn, đó là yêu cầu cấp bách, là những việc “cần làm ngay”, không thể

trì hoãn với bất cứ lý do nào. Thực tế cho thấy, khi gia đình người cán bộ dân

tộc thiểu số có cuộc sống tương đối ổn định, đỡ thiếu thốn, họ mới có thể yên

tâm, phấn khởi trong công tác và kẻ xấu khó có cơ hội để lợi dụng, mua chuộc

họ bằng vật chất.

Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số có vai trò quan

trọng, nhằm tạo động lực cho quá trình phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ

này. Việc xây dựng chính sách đãi ngộ, phụ cấp khen thưởng, hỗ trợ cán bộ

một cách thích hợp, thỏa đáng, chẳng hạn như chính sách hỗ trợ về vốn để

phát triển kinh tế gia đình, chế độ phụ cấp đi học nâng cao trình độ lý luận,

chuyên môn; chính sách khám chữa bệnh, chế độ thông tin; chế độ hỗ trợ

phương tiện đi lại… Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các chế

độ đãi ngộ, như vậy sẽ giúp cho cán bộ người dân tộc thiểu số toàn tâm toàn ý

để làm việc và phát huy hết khả năng phục vụ cho địa phương.

4.2.5. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số trong việc tự phấn đấu, rèn luyện, nâng cao năng lực tư

duy lý luận

Lịch sử Triết học đã hình thành nên nhiều phương pháp tư duy khác

nhau. Cho đến nay, phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy

khoa học nhất, là công cụ sắc bén giúp cho con người nhân thức đúng đắn

hiện thực khách quan, đi sâu vào bản chất sự việc, phát hiện ra những quy luật

vận động nội tại và chiều hướng phát triển tất yếu của nó. Muốn nắm vững và

sử dụng thành thục nhiều phương pháp tư duy biện chứng duy vật có thể học

tập, rèn luyện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, học ở trường, học

trong hoạt động thực tiễn, trong việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn… Đó là

quá trình phải rèn luyện thường xuyên, liên tục và lâu dài với các phương

140

pháp học tập, nghiên cứu khoa học và sáng tạo. Phương pháp đó đòi hỏi khả

năng suy nghĩ độc lập, nêu vấn đề nghiên cứu, thảo luận, giải đáp, bày tỏ

được nhận thức của mình trước những vấn đề mới mẻ của lý luận và thực tiễn.

Phương pháp này kích thích được tính năng động, sáng tạo của tư duy lý luận,

ý thức tìm tòi cái mới, ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới tiến bộ phát triển.

Vì vậy, đòi hỏi cán bộ là người dân tộc thiểu số cần phải nắm chắc bản chất

của phương pháp này một cách sáng tạo và biện chứng. Vì vậy, khi học tập và

rèn luyện thì phải thể hiện tính nhất quán tinh thần biện chứng và sáng tạo.

Đồng thời, việc học tập, rèn luyện không thể tách rời việc tích lũy, bổ sung

các tri thức khoa học khác, cập nhập thông tin, xử lý thông tin, những thành

tựu của các ngành khoa học khác có liên quan tạo thêm cơ sở và tiền đề để tự

rèn luyện, học tập có phần hiệu quả.

Không ngừng học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận là vấn đề cốt lõi để nâng cao

hiệu quả công tác quản lý. Học tập nâng cao trình độ lý luận là vấn đề cơ bản,

cốt lõi nhưng chưa phải là duy nhất mà đồng thời với nó là phải từng bước tự

nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, cả hai nội dung trên quan hệ mật thiết,

quyết định, phụ thuộc lẫn nhau.

Quá trình hình thành tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận phải trở

thành phương châm học tập và rèn luyện của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số; học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn, chính nhờ phương

pháp nhận thức khoa học mà con người có khả năng xây dựng các phán đoán

đúng, sự lựa chọn phương án tối ưu và đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong

quá trình hoạt động thực tiễn, quá trình đó được diễn ra liên tục lặp đi lặp lại

theo hình xoáy trôn ốc một cách biện chứng. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, trước

tiên phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

141

Thực tiễn là cơ sở, là mục đích của nhận thức, của lý luận, lý luận được

đúc kết trở thành kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. Vì vậy, trong hoạt

động thực tiễn phải chống tư tưởng giáo điều, dập khuôn, lý luận, sách vở, lý

luận suông. Phải phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số trong việc học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực tư

duy lý luận. Bản thân mỗi cán bộ phải có kế hoạch học tập, tự học tập, tự rèn

luyện, tự trau dồi năng lực tư duy lý luận. Do đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số phải vừa học vừa làm nên phải có cơ chế động viên, cổ vũ, khơi dậy

tình cảm, ý thức quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, vượt lên chiếm lĩnh tầm

cao trí thức mới của đội ngũ này. Phải có cơ chế, chính sách khuyến khích,

thúc đẩy, nêu cao tinh thần chủ động, tích cực, nhạy bén, sáng tạo trong học

tập cũng như trong hoạt động thực tiễn; đồng thời cũng phải có cơ chế “gây

áp lực” bắt buộc phải đạt chuẩn về trình độ lý luận nhất định đối với đội ngũ

cán bộ này trong đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch và luân chuyển cán bộ.

Trước yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới đặt ra, cần tiếp tục đổi

mới cơ chế quản lý và chính sách đối với cán bộ theo hướng khuyến khích đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải thường xuyên phấn đấu và học tập, rèn

luyện không ngừng nâng cao đạo đức, phẩm chất cách mạng, trình độ học

vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật cao hơn.

Phải dứt khoát không bố trí, sử dụng hoặc đưa ra khỏi quy hoạch, không chấp

nhận cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn, lý luận cũng như phẩm chất

đạo đức yếu kém, không ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Phải chống

suy thoái về đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, lãng phí, làm ít nói nhiều.

Nhận thức sâu sắc, đầy đủ yêu cầu và nhiệm mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm thực

tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề, những yêu cầu

bức xúc do thực tiễn đặt ra. Nắm vững hệ thống quan điểm khoa học của chủ

142

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề cao tinh thần phê phán và tự

phê phán một cách khoa học, không thỏa mãn với kết quả đạt được. Vì vậy,

đòi hỏi người cán bộ phải có ý thức tự giác và phương pháp học tập khoa học,

biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phải phát huy được tính chủ

động, rèn luyện để nâng cao năng lực, tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số.

Tích cực chủ động học tập, nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

và những tri thức khoa học khác giúp cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu

số nâng cao khả năng nhận thức sâu sắc, đầy đủ, logic, từ đó có khả năng nắm

vững hệ thống những quan điểm cơ bản, chủ trương lớn của Đảng và Nhà

nước. Đồng thời, nó giúp đội ngũ cán bộ này nâng cao năng lực nhận thức và

hoạt động thực tiễn cũng như vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ

trương, pháp luật để đề ra những nghị quyết, chương trình, giải pháp phù hợp

để chỉ đạo sự phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện tốt ở địa phương

có hiệu quả nhất. Năng lực tư duy lý luận còn giúp cho cán bộ người dân tộc

thiểu số nâng cao khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, tìm ra

những nguyên nhân thành công và thất bại, đúc rút kinh nghiệm phục vụ trực

tiếp công tác quản lý.

Cần phải xác định việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là tiền đề, là

nền tảng tạo nên năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số. Do tầm quan trọng như vậy nên cán bộ người dân tộc thiểu số cần

phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tự phấn đấu, rèn luyện,

nâng cao năng lực tư duy lý luận của mình.

143

Kết luận chương 4

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở Tuyên Quang hiện nay thực chất là một quá trình tạo ra và vận

dụng những điều kiện khách quan và chủ quan để không ngừng nâng cao trình

độ, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần

phải xác định nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số là một quá trình liên tục, lâu dài, quá trình đó phải được đặt trong

tổng thể của sự nghiệp đổi mới ở địa phương với những phương hướng và

giải pháp cơ bản. Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cần đặt trong tổng thể

của quá trình củng cố kiện toàn và đổi mới nội dung trong các hoạt động quản

lý. Trong đội ngũ cán bộ tại tỉnh thì cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm

một vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách trực tiếp quyền tham chính

của đồng bào và cũng là lực lượng tổ chức lãnh đạo điều hành phát triển kinh

tế - xã hội. Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang chỉ ra rằng nơi nào cán bộ người

dân tộc thiểu số năng động sáng tạo phát huy tốt mọi nguồn lực cho sự phát

triển thì ở đó đời sống đồng bào được cải thiện và ngược lại nơi nào không có

được cán bộ như vậy thì sẽ không phát huy được thế mạnh và nhiều khi còn

dẫn đến tình trạng lãng phí.

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là

làm cho đội ngũ này trở thành động lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.

Những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số xuất phát từ thực tiễn của địa

phương. Hệ thống các giải pháp đưa ra bước đầu mang tính cơ bản nhưng

trước hết là phải nhận thức được rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số, những đặc thù hoạt động, đặc điểm, điều kiện sống và

thực trạng của năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này trên cơ sở “công tác

144

thực tế, kinh nghiệm thực tế” và quán triệt những quan điểm chỉ đạo của

Đảng ta về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Các giải pháp nêu trên chỉ có tính độc lập tương đối. Trên thực tế,

chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, muốn nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong điều

kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy vậy, để

thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân đội ngũ cán

bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn luyện không

ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một cơ chế

khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế, chính

sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn luyện,

phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang.

145

KẾT LUẬN

Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận

thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang

tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động

và phát triển của sự vật hiện tượng và thế giới khách quan; là quá trình suy

nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc,

quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý; là quá

trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những

nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở

hoạt động thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh

khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn

liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được

diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là

phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát

triển kết quả của nhận thức đó.

Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá

trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp

các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở

trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ

vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực

tiễn của con người. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại

hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp

độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của

lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác

nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các

điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối.

146

Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở

tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản lĩnh chính

trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn,

vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, đưa ra

được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa

phương; từng bước đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo

thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn vượt qua khó khăn, thử thách, từng

bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp

cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của

tỉnh. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

vẫn còn biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn cán bộ

người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền thống; khi xử lý

công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh

nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận

cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy

bén, chưa kịp thời. Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư

duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang

hiện nay xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính

phổ biến mà đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có

những nguyên nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào người

dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất

nước nói chung, đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy được những ưu

điểm, tích cực và khắc phục được những yếu kém, hạn chế trong năng lực tư

duy lý luận. Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang mới đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

147

Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay thực chất là một quá trình tạo ra và vận

dụng những điều kiện khách quan và chủ quan để không ngừng nâng cao trình

độ, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần

phải xác định nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân

tộc thiểu số là một quá trình liên tục, lâu dài, quá trình đó phải được đặt trong

tổng thể của sự nghiệp đổi mới ở địa phương với những phương hướng và

giải pháp cơ bản. Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cần đặt trong tổng thể

của quá trình củng cố kiện toàn và đổi mới nội dung trong các hoạt động quản

lý. Trong đội ngũ cán bộ tại tỉnh thì cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm

một vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách trực tiếp quyền tham chính

của đồng bào và cũng là lực lượng tổ chức lãnh đạo điều hành phát triển kinh

tế - xã hội. Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang chỉ ra rằng nơi nào cán bộ người

dân tộc thiểu số năng động sáng tạo phát huy tốt mọi nguồn lực cho sự phát

triển thì ở đó đời sống đồng bào được cải thiện và ngược lại nơi nào không có

được cán bộ như vậy thì sẽ không phát huy được thế mạnh và nhiều khi còn

dẫn đến tình trạng lãng phí.

Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động lực để

thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri thức,

văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng tạo…)

nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành bản

lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận

thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số.

Những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số xuất phát từ thực tiễn của địa

phương. Hệ thống các giải pháp đưa ra bước đầu mang tính cơ bản nhưng

148

trước hết là phải nhận thức được rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số, những đặc thù hoạt động, đặc điểm, điều kiện sống và

thực trạng của năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này trên cơ sở “công tác

thực tế, kinh nghiệm thực tế” và quán triệt những quan điểm chỉ đạo của

Đảng ta về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Các giải pháp nêu trong luận án chỉ có tính độc lập tương đối. Trên

thực tế, chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy,

muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

trong điều kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy

vậy, để thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân

đội ngũ cán bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn

luyện, không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một

cơ chế khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế,

chính sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn

luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang.

Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới

thực sự đủ năng lực và phẩm chất để cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc

tỉnh Tuyên Quang thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh.

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Ma Phúc Dự (2015), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và

Truyền thông, (5).

2. Ma Phúc Dự (2015), Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng của

V.I. Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị,

(5).

3. Nguyễn Quốc Phẩm, Ma Phúc Dự (2015), Phải chăng Việt Nam nên

chuyển hẳn sang con đường “dân tộc và dân chủ, Tạp chí Lý luận chính

trị, (6).

4. Ma Phúc Dự (2015), Quan niệm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tính

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh

kinh nghiệm, giáo điều của cán bộ, đảng viên, Tạp chí Nhân lực Khoa học

Xã hội, (8).

150

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Ngọc Ánh (2008), Bản chất khoa học và cách mạng là cội nguồn sức

sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tạp chí Khoa học và công nghệ, (3).

2. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2014), Địa chí Tuyên

Quang, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2015), Báo cáo Chính trị tại

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

5. Ban Dân vận Tỉnh ủy Tuyên Quang (2014), Báo cáo công tác lãnh đạo

của cấp ủy đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (từ

năm 1986 đến nay).

6. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (2012), Báo cáo kiểm điểm tự phê

bình và phê bình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội

nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề

cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

7. Hoàng Chí Bảo (1988), Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận, Tạp chí

lý luận, (6).

8. Lê Đức Bình (2002), Về đánh giá cán bộ lãnh đạo quản lý, Tạp chí Cộng

sản, (8).

9. Nguyễn Thị Bình (2008), Sứ mạng giáo dục - đào tạo trước yêu cầu đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu

rộng, Tạp chí Cộng sản, (787).

10. Lò Thị Bình (2015), Kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã

người dân tộc thiểu số, Tạp chí Thanh niên, (37).

151

11. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam

trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc),

LATS Triết học, Hà Nội.

12. Phạm Như Cương (2004), Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận - một đòi hỏi

bức xúc hiện nay của đất nước và của thời đại, Nxb Hà Nội.

13. Nguyễn Mạnh Cương (2004), Về bản chất của tư duy, Tạp chí Triết học, (1).

14. Tiên Châu (1955), Những bước tiến của đồng bào dân tộc thiểu số, Oxb

Sự thật, Hà Nội.

15. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết

học ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo.

16. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan

đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Phan Hữu Dật, Triệu Quang Tiến, Vũ Văn Quân (2006), Xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Dũng (2001), Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ

chính trị cấp trung đoàn quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, LATS

Triết học, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Dũng (2012), Phát triển năng lực tư duy lý luận của chính

ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội

Nhân dân, Hà Nội.

20. Nguyễn Bá Dương (1991), Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật,

Tạp chí Triết học, (5).

21. Bế Việt Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã

hội ở miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

152

22. Dương Minh Đức (2006), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, LATS

Triết học, Hà Nội.

23. Nguyễn Tĩnh Gia (2002), Bồi dưỡng, nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh, Tạp chí lý luận chính trị,

(2).

24. Nguyễn Ngọc Hà (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt

Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập

quốc tế, Đề tài khoa học cấp Nhà nước.

25. Trương Thị Thu Hà (2010), Vấn đề phát huy nguồn nhân lực trẻ các dân

tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học.

26. Phạm Duy Hải (1994), Tìm hiểu một số nét mới của tư duy khoa học hiện

đại, LATS Triết học, Hà Nội.

27. Lương Đình Hải (2006), Triết học và năng lực tư duy của con người trong

kỷ nguyên toàn cầu, Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị quân sự, (4).

28. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Dương Phú Hiệp (2008), Triết học và đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

30. Lê Thị Duy Hoa (2002), Thông tin và vấn đề tiếp nhận, xử lý thông tin

của tư duy người Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội.

31. Đoàn Thế Hùng (2004), Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng

mácxít, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội.

32. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiển, Nguyễn

Viết Thông (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

153

33. Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với

cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở nước ta, LATS Triết học, Hà Nội.

34. Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

35. Phạm Hương Lan (2002), Những giải pháp cho công tác đào tạo nguồn

cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi, Tạp chí giáo dục lý luận, (1).

36. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

37. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

38. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

39. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

40. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách tư duy, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

41. Nguyễn Ngọc Long (1987), Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi

mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, (10).

42. K.Marx - F.Engels (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

43. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

44. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới

(1990-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải (1998), Tư duy khoa học trong giai đoạn

cách mạng khoa học - công nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

154

49. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

50. Lường Thị Pó (2007), Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở

Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên),

Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội.

51. Nguyễn Quốc Phẩm, Trình Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực

tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

52. Trần Văn Phòng (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Trần Văn Phòng (2014), Tăng cường tổng kết thực tiễn để trau dồi tư duy

biện chứng duy vật cho cán bộ, Tạp chí Khoa học Chính trị, (6).

54. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng –

một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Tạp

chí Cộng sản, (775).

55. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Hồ Chí Minh - từ thực tiễn đến tư duy lý luận

về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).

56. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư

duy lý luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

57. Vũ Văn Phúc (2011), Giải pháp quan trọng để rèn luyện đạo đức cách

mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tạp chí Cộng sản, (823).

58. Lê Văn Phụng (2003), Thực trạng tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ của

hệ thống chính trị cấp huyện, xã các tỉnh miền núi phía Bắc, Giải pháp

đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện

nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

59. Lê Văn Quang (2006), Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư

duy lý luận ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (8).

155

60. Bùi Thanh Quất (2010), Góp thêm một vài suy nghĩ về lý luận nhận thức

biện chứng duy vật, Tạp chí Triết học, (11).

61. Phạm Hồng Quý (2004), Tìm hiểu thêm về khái niệm tư duy, Tạp chí Tâm

lý học, (11).

62. Phạm Hồng Quý (2005), Các thành tố trong tư duy giải quyết tình huống

quản lý của người cán bộ chủ chốt cấp huyện, LATS Tâm lý học, Hà Nội.

63. Hồ Sỹ Quý (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm

của Mác và Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64. Nguyễn Đức Quyền (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, LATS Triết học, Hà

Nội.

65. Trần Văn Riễn (2009), Phát triển tư duy biện chứng duy vật của học viên

đào tạo sĩ quan khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay, LATS Triết học, Hà

Nội.

66. Tô Huy Rứa (1999), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ

trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, (3).

67. Tô Huy Rứa (2005), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc đổi

mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

68. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2006),

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

69. Nguyễn Dũng Sinh (1996), Công tác lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam

trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, LATSKH Lịch sử,

Hà Nội.

70. Nguyễn Thanh Sơn (2010), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã

trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc Việt Nam thời kỳ đổi mới,

LATS Triết học, Hà Nội.

156

71. Sở Nội vụ Tuyên Quang (2014), Báo cáo Việc thực hiện chính sách, pháp

luật trong đào tạo, sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

người dân tộc thiểu số.

72. Sở Kế hoạch và đầu tư Tuyên Quang (2014), Báo cáo kết quả thực hiện

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2014; kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2015.

73. Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung (2003), Giáo trình Triết học Mác-Lênin,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

74. Lê Doãn Tá (2004), Một số vấn đề về triết học Mác-Lênin - lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

75. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông: Dành cho cán bộ, Đảng viên

người dân tộc thiểu số (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

76. Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội qua

thực tiễn Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội.

77. Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của chúng ta, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

78. Nguyễn Thanh Tân (2005), Lôgic vận động của khái niệm trong tư duy lý

luận, LATS Triết học, Hà Nội.

79. Tạ Ngọc Tấn (2005), Phương hướng giải pháp lớn nhằm đẩy mạnh, nâng

cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đổi mới tư duy lý luận của

Đảng trong những năm tới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

80. Trần Hữu Tiến (2003), Triết học Mác-Lênin và khoa học tự nhiên hiện

đại, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).

81. Đặng Hữu Toàn (2007), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua tổng kết 20

năm đổi mới trong các văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Triết học, (8).

82. Lô Quốc Toản (2009), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh

miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội.

157

83. Trần Thiên Tú (2006), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung Bộ - qua thực tế tỉnh Quảng

Trị, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.

84. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận và công tác xây dựng Đảng,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

85. Đào Duy Tùng (1986), Bàn về đổi mới tư duy, Nxb Sự thật, Hà Nội.

86. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ

nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

87. Trần Thành (2002), Tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

88. Trần Thành (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh

đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89. Trần Thành (2004), Một số vấn đề phương pháp luận trong tổng kết thực

tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).

90. Trần Thành (2006), Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo

quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

91. Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng (2002), Vấn đề dân tộc

và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

92. Lê Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (2006), Xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa - Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

93. Nguyễn Thế Thắng (1999), Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về vấn đề dân tộc, Nxb Lao Động, Hà Nội.

158

94. Lê Ngọc Thắng (2002), Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại đoàn kết

toàn dân của Đảng ta, Tạp chí Cộng sản, (14).

95. Lê Viết Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

96. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), LATS Triết

học, Hà Nội.

97. Trần Đình Thoả (2002), Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít, Tạp chí

Triết học, (2).

98. Hồ Văn Thông (1987), Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở

nước ta, Tạp chí cộng sản, (10).

99. Nguyễn Thị Bích Thủy (2001), Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán

bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, LATS

Triết học, Hà Nội.

100. Nguyễn Thị Phương Thúy (2001), Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt

Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, LATS Triết

học, Hà Nội.

101. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường Chính trị tỉnh, LATS Triết học,

Hà Nội.

102. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí

Minh với giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

103. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình

đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

104. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Cộng sản, (3).

159

105. Lê Quang Trung (2008), Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta hiện nay,

LATS Triết học, Hà Nội.

106. Từ điển Triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.

107. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch triển khai

chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm

2020.

108. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch thực hiện Đề án

tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng

bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

109. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

110. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

111. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

112. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

IX (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

113. Vấn đề dân tộc và phát triển miền núi của nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam (1999), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

114. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, Đảng viên ở cơ sở (2001), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

115. Vũ Văn Viên (2006), Tư duy lôgic - bộ phận hợp thành của tư duy

khoa học, Tạp chí Triết học, (12).

160

116. Vũ Văn Viên (2007), Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ

cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo

của Đảng, Tạp chí Triết học, (12).

117. Trần Quốc Vượng (1981), Về truyền thống dân tộc, Tạp chí Cộng sản,

(2).

118. Ngô Đình Xây (2002), Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư

duy lý luận, Tạp chí Triết học, (1).

119. Nguyễn Bình Yên (1999), Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến

trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và những hướng khắc phục, LATS Triết

học, Hà Nội.

161

Phụ lục 1: Biểu tổng hợp số lượng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh

Số cán bộ công chức,

Tổng số cán bộ, công

STT

Nội dung

viên chức là người dân

Tỷ lệ %

chức, viên chức

tộc thiểu số

1

Cấp tỉnh

6.346

1.876

29,56

2

Cấp huyện

11.523

4.415

38,31

3

Cấp xã

2.893

1.448

50,05

Tổng cộng

20.762

7.739

37,27

Nguồn: Sở Nội vụ

162

Phụ lục 2: Biểu tổng hợp kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức

Trong đó

Hoàn thành

nhiệm vụ nhưng

Năm/ nội

Hoàn thành

Không

STT

Tổng số

Hoàn thành

còn hạn chế về

dung

xuất sắc

hoàn thành

tốt nhiệm vụ

năng lực (hoàn

nhiệm vụ

nhiệm vụ

thành nhiệm vụ

với viên chức)

Năm 2010

18,524

4,441

10,497

3,504

1

82

Cán bộ,

4,208

1,251

2,404

530

-

23

công chức

Công chức

-

đơn vị sự

547

375

154

18

nghiệp

Viên chức

13,769

2,815

7,939

2,956

-

59

Năm 2014

19,947

4,989

12,388

2,496

2

74

Cán bộ,

4,704

1,054

3,294

331

-

25

công chức

Công chức

-

đơn vị sự

570

348

194

28

nghiệp

-

Viên chức

14,673

3,587

8,900

2,137

49

Nguồn: Sở Nội vụ

163

Phụ lục 3: Biểu tổng hợp đảng viên chia theo dân tộc và trong các

tôn giáo (Có đến 31/12/2014)

TT

Tên dân tộc, tôn giáo

Tỷ lệ (%)

Tổng số

Đảng viên chia theo dân tộc

100,00

I

49.221

1

Kinh

28.165

57,22

2

Tày

14.383

29,22

3

Thái

9

0,02

4

Hoa

112

0,23

5

Khơme

1

0,002

6 Mường

46

0,09

7

Nùng

605

1,23

8 Mông

359

0,73

9

Dao

3.067

6,23

10 Gia Rai

2

0,004

11

Ê – Đê

2

0,004

12 Ngái

1

0,002

13

Sán Chay

2.001

4,07

14

Sán Dìu

403

0,82

15 H’Rê

1

0,002

16 Giáy

7

0,014

17

La Chí

5

0,010

18

Pà Thẻn

45

0,09

19 Bố Y

1

0,002

20

Pu Péo

4

0,008

2

0,004

21 Dân tộc khác

571

100,00

II Đảng viên theo tôn giáo

413

72,33

Đạo Thiên Chúa

74

19,96

Đạo Tin Lành

84

14,71

Đạo Phật

Ghi chú: Đảng viên trong các tôn giáo, so với tổng số đảng viên, chiếm 1,16%

Nguồn: Ban Tổ chức - Tỉnh ủy

164

Phụ lục 4: Biểu thống kê vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị cấp huyện của tỉnh

(Thời điểm 31/12/2013)

TT

Đơn vị

Cấp ủy

Công chức

Viên chức

Đại biểu HĐND

UBND(CT, PCT)

Lãnh đạo cấp phòng

Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc

Tổng

Dân tộc

Tổng

Dân tộc

Tổng

Dân tộc

1 Huyện Lâm Bình

153

114

519

443

30

12

29

24

3

2

57

46

2 Huyện Na Hang

193

136

803

599

28

21

30

5

4

2

58

47

3 Huyện Chiêm Hóa

40

248

137

1.675

1.012

25

40

33

3

1

71

43

4 Huyện Hàm Yên

229

60

1.478

435

33

10

39

22

4

1

60

27

5 Huyện Yên Sơn

264

50

2.173

693

41

12

42

16

4

1

53

14

6 Huyện Sơn Dương

42

286

54

2.244

552

4

44

19

4

1

50

6

8

Thành phố Tuyên

34

213

17

1.045

113

5

30

8

4

1

43

Quang

Tổng

248

89

1.586

568

9.937

3.847

254

147

26

12

392

198

Nguồn: Sở Nội vụ

165

Phụ lục 5: Biểu thống kê chất lượng cán bộ DTTS (Thời điểm 31/12/2013)

TT

Đơn vị

Ngạch công chức

Trình độ chuyên môn

Lý luận chính trị

Cán

Chuyên

Chuyên

Chuyên viên

Tiến

Thạc

Đại

Cao

Trung

Cử

Cao

Trung

Chưa

sự

viên

viên

cao cấp

học

đẳng

cấp

cấp

nhân

cấp

cấp

đào tạo

chính

3

23

1 Huyện Lâm Bình

8

11

1

22

4

30

6

25

2 Huyện Na Hang

6

1

11

25

6

31

1

1

3 Huyện Chiêm Hóa

37

25

27

37

4

57

3

3

19

4 Huyện Hàm Yên

7

10

19

4

25

1

26

5 Huyện Yên Sơn

14

15

1

25

41

2

6 Huyện Sơn Dương

35

10

12

35

3

42

2

1

8

Thành phố Tuyên

1

1

2

1

1

2

Quang

Tổng

143

63

14

1

1

77

1

142

59

147

5

Nguồn: Sở nội vụ

166

Phụ lục 6: Biểu thống kê thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức DTTS (Thời điểm 31/12/2013)

TT Tên cơ quan, đơn vị,

Tổng số cán bộ, công

Số cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS

tổ chức

chức, viên chức

Tổng

Số cán bộ, công chức, viên chức đạt

Số cán bộ, công chức, viên chức đạt

cộng

chuẩn theo ngạch, vị trí việc làm

chưa chuẩn theo ngạch, vị trí việc

làm cần đào tạo, bồi dưỡng

1 Huyện Lâm Bình

48

38

38

2 Huyện Na Hang

58

46

46

3 Huyện Chiêm Hóa

66

48

47

1

4 Huyện Hàm Yên

55

18

18

5 Huyện Yên Sơn

61

16

16

6 Huyện Sơn Dương

65

17

17

Thành phố Tuyên Quang

7

54

3

3

Nguồn: Sở Nội vụ

167

Phụ lục 7: Biểu thống kê cán bộ lãnh đạo, đảng viên là DTTS (Thời điểm 31/12/2013)

Khối Đảng

Chính quyền

Đoàn thể

Đảng viên

Tổng số

Tên cơ quan,

cán bộ,

Cấp

Trưởng

Trưởng

Trưởng

Trưởng

Trưởng

TT

đon vị, tổ

Cấp

Tổng

Dân tộc

lãnh đạo

Trưởng,

phó

phó

phó

phó

phó

chức

ủy/nữ

số

thiểu số

DTTS

phó ban/nữ

phòng/nữ

ngành/nữ

phòng/nữ

ngành/nữ

phòng/nữ

1 Cấp tỉnh

187

20/6

11/2

10/5

21/5

112/37

7/4

6/2

3.645

611

2 Cấp huyện

279

69/21

63/20

60/22/

6.710

2.700

87/18

3 Cấp xã

738

163/10

435/123

1.431

790

140/7

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy