Nên tiếp tục “tháo” trần lãi suất huy
động!
Sẽ hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín
hiệu của thị trường. Thông tư 07 ra đời là rất bình thường. Đây không phải là lần
đầu tiên các ngân hàng thương mại được thực hiện cơ chế “lãi suất thỏa thuận”.
Trước đây, ngày 1/6/2002, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép áp dụng cơ chế lãi
suất thỏa thuận trong cả huy động vàng cho vay vốn. Năm 2009, đối với cho vay
tiêu dùng, Ngân hàng Nhà nước cũng cho phép các ngân hàng thương mại áp dụng
chế này. cơ
Song từ năm 2008 đến nay, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, Ngân hàng
Nhà nước đã khống chế trần lãi suất cho vay và sau đó khống chế cả trần lãi suất
động. huy
Việc khống chế trần cho vay và huy động đã dẫn đến tình trạng “méo mó” giá vốn.
Thị trường vốn trung và dài hạn không được khơi thông. Do lãi suất huy động bị
khống chế dẫn đến tình trạng không huy động được.
Một kiểu “méo mó” khác là mức lãi suất huy động cho các kỳ hạn ngắn, trung và
dài là như nhau mặc dù độ rủi ro là rất khác nhau. Kết quả là, các ngân hàng
thương mại phải tìm mọi cách lách thông qua các hình thức tặng tiền, tặng quà...,
nên chi phí vốn của ngân hàng thương mại vượt cả 12% theo mức trần quy định.
Để bù đắp chi phí này, cũng như doanh nghiệp vay được vốn trung và dài hạn,
giữa các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp đã ngầm chấp nhận một số loại
phí mà chỉ có tổ chức tín dụng với khách hàng đó mới tường tận.
Như vậy, cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp
vay được vốn với giá thỏa thuận minh bạch, vừa chấm dứt tình trạng phí “ngầm”
trong bản thân mỗi tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát.
Thế nhưng, Ngân hàng Nhà nước chỉ mới “tháo” trần lãi suất cho vay, doanh
nghiệp và ngân hàng thương mại được lợi trong khi người gửi tiền lại thiệt?
Chỉ những người gửi tiền nhỏ lẻ là không được lợi còn các doanh nghiệp, tập đoàn
vốn có khoản tiền gửi lớn đã và đang được hưởng mức lãi suất cao hơn mức lãi
suất công bố.
Các hình thức thưởng lũy tiến trên giá trị và thời hạn gửi tiền cho thấy mức lãi suất
thực tế không chỉ dừng lại ở 10,499%/năm cho các kỳ hạn khác nhau như các ngân
hàng thương mại niêm yết.
Điều này cho thấy nếu không xử lý đầu ra của lãi suất sẽ dẫn đến tình trạng méo
mó và không minh bạch về giá vốn.
Tất nhiên, một khi các khoản vay trung và dài hạn được thực hiện theo lãi suất
thỏa thuận, trong khi lãi suất các khoản vay ngắn hạn lại bị chặn bởi các giới hạn
hành chính, sẽ lại làm nảy sinh kiểu méo mó khác. Ranh giới giữa ngắn và dài hạn
rất gần và có thể bị lợi dụng. là
Ví dụ, khoản vay ngắn hạn là 365 ngày không được áp dụng lãi suất thỏa thuận,
nhưng cho vay 366 ngày sẽ được chuyển sang thời hạn trung và dài hạn, lại có thể
thỏa thuận. Khắc phục vấn đề này cần một sự thanh tra giám sát chặt chẽ của Ngân
hàng Nhà nước, cũng như tiếp tục thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất cho
vay ngắn hạn và lãi suất huy động vốn.
Và như vậy, lãi suất cơ bản giữ vai trò gì?
Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này, và trong chỉnh sửa Luật Các tổ
chức tín dụng tới đây trình Quốc hội cũng có ý kiến cho rằng nên bỏ hoặc thay thế
lãi suất cơ bản. Thực ra, lãi suất cơ bản chỉ đóng vai trò định hướng, để xem xét,
tiên liệu xu hướng giá vốn trên thị trường.
Do đó, một khi bỏ lãi suất cơ bản cần có một loại lãi suất khác để trên cơ sở đó
định hướng thị trường. Tuy nhiên, chọn loại lãi suất nào làm đựơc vai trò này cũng
cần tính tới.