Ngân hàng Anh
| Mô hình ngân hàng quốc gia lần đầu xuất hiện tại Venice đầu thế kỷ 17. Ngày
nay, hai ngân hàng quốc gia hùng mạnh nhất được biết đến trong hthống tài
chính toàn cầu là Ngân hàng Anh (Bank of England) và Ngân hàng trung ương
Hoa Kvới tên gọi chính thức Hệ thống Dtrữ Liên bang (Federal Reserve
System), viết tắt là FED. Tên gọi gắn với tên quốc gia và cụm từ "liên bang'' dễ tạo
ấn tượng đây là các ngân hàng đặt dưới sự kiểm soát của các chính phủ quốc gia.
Thực tế hoàn toàn ngược lại. Đây là hai điển hình của ngân hàng trung ương thuộc
sở hữu tư nhân. Việc đặt tên là hoàn toàn theo chủ đích của các cổ đông sáng lập,
vốn không ai khác ngoài các đại gia tộc tài chính châu Âu dưới sự dẫn dắt của
dòng tộc Rothschild.
Ra đời cách nhau hơn 200 năm, nhưng Ngân hàng Anh (thành lập 1694) và FED
(thành lập 1913) với cùng một thiết kế và lối tổ chức vận hành. Tất cả chỉ hướng
tới mục tiêu: kiểm soát cung tiền, điều khiển van tín dụng tiền tệ và nói như Nam
tước Nathan Rothschild, ai kiểm soát cung tiền, người đó thực sự làm chủ và điều
khiển quốc gia.
Ngân hàng Anh
Sau khi ngân hàng quốc gia đầu tiên được xuất hiện tại Thụy Điển năm 1668, ở
nước Anh, Ngân hàng Anh (Bank of England) được thành lập năm 1694 đánh dấu
một bước ngoặt trong lịch sử ngân hàng thế giới bằng sự kết hợp của một chính
phủ bên bờ vực phá sản và những nhà tài phiệt tiền tệ (Rothbard:1983). Cũng từ
đây, các nhà ngân hàng quốc tế bắt đầu kế hoạch sử dụng van tiền tđể điều khiển
kinh tế thế giới, mở đầu cho một thời kỳ dài tới 70 năm mà theo Glynn Davies
(Davies:2002), hệ thống ngân hàng hiện đại được tạo ra và liên tục biến đổi để
định hình phát triển tới ngày nay.
Nhiều tác phẩm công bố chính thức miêu tsự ra đời của ngân hành Anh như một
kế hoạch được chuẩn bị công phu và triển khai cực kỳ tinh vi trong nhiều năm của
các thế lực cho vay nặng lãi Do Thái châu Âu nhằm khống chế triều đình quyền
lực nhất châu Âu. Trong đó, nổi bật nhất những cuốn sách của Rothbard (xuất bản
1983), Davies (xuất bản 2002), Hitchcock (xuất bản 2007) và Brown (xuất bản
2008).
Trong lược sử phát triển hệ thống ngân hàng thế giới, cộng đồng Do Thái đã phát
huy li thế tôn giáo phát triển hoạt động cho vay nặng lãi ở hầu khắp châu Âu
trong thế kỷ 12. Thông qua các khoản tiền vay, thế lực của người Do Thái ngày
càng mạnh hơn. Đối với người theo Cơ đốc giáo, kiếm lời từ việc cho vay tiền là
một tội lỗi. Với hai lý do này, cộng đồng Do Thái bị xua đuổi khỏi châu Âu và
nhường lại vị trí thống lĩnh các hệ thống tài chính châu Âu cho những gia tộc gốc
Đức chuyển tới định cư và phát triển làm ăn tại Italia.
Tới thế kỷ 16, theo khảo cứu của nữ luật gia Brown, các nhóm Do Thái dần tập
trung về Hà Lan và bắt đầu chuẩn bị kế hoạch trở lại châu Âu. Vua và Nhoàng
của nước Anh, triều đình hùng mạnh của châu Âu, chính là những rào cản vững
chắc đầu tiên cần dỡ bỏ trên đường trở lại châu Âu họ. Trong một khoảng thời
gian ngắn dưới thời trị vì của vua Henry VIII (thế kỷ 16), đạo luật chống vay nặng
lãi được nới lỏng ở Anh khi nhà vua xung đột với nhà thời Thiên chúa giáo.
Nhưng ngay khi tiếp quản ngai vàng, Nhoàng Mary đã siết chặt đạo luật chống
vay nặng lãi một lần nữa. Hệ quả là nước Anh phải đối mặt với tình trạng thiếu
tiền trầm trọng. Tuy nhiên, người chị em của Mary, Nữ hoàng Elizabeth I vẫn
cương quyết tránh xa cái bẫy tín dụng được những gia đình cho vay tiền Do Thái
giăng sẵn. Bà giải quyết vấn đề bằng cách giao Bộ Ngân khố đúc thêm tiền kim
loại, bổ sung cung tiền.
Tới đầu thế kỷ 17, Nữ hoàng Elizabeth cho lưu hành các đồng tiền đúc với giá tr
pháp lý (legal tender). Tiền được làm bằng kim loại nhưng giá trị của chúng lại
được xác định bằng con dấu của triều đình đóng trên đó. Mọi đồng tiền khác đều
bvô hiệu và được gom về các xưởng đúc. Chỉ những đồng tiền do hoàng gia công
nhận mới được coi là hợp pháp. Những ai tự ý phát hành tiền sẽ bị khép tội phản
quốc. Đạo luật này khiến giới thương nhân, thợ kim hoàn, và sau đó là cả Công ty
Đông Ấn vô cùng phn nộ và không ngừng tìm cách phá bỏ nó.
Nước Anh phát triển nhanh chóng với đồng tiền do chính phủ phát hành cho tới
khi vai trò điều hành đất nước của nhà vua bị lung lay trong cuộc cách mạng do
Cromwell khởi xướng. Tầng lớp trung lưu ủng hộ Cromwell, người theo đạo Tin
lành, đòi nhà vua trao nhiều quyền điều hành hơn cho Quốc hội. Những người quí
tộc và thượng lưu đứng về phía vua Charles I, người theo dòng Thiên chúa giáo
chính thống. Những người Tin lành có thái độ khoan dung hơn với hoạt động cho
vay tiền. Do vậy, các dòng họ kinh doanh tiền tệ tại Hà Lan ủng hộ phe Quốc hội.
Những khoản kinh phí được chuyển tới cho Cromwell tổ chức cuộc cách mạng với
điều kiện người Do Thái được trở lại kinh doanh tiền tệ ở nước Anh. Việc Vua
Charles sau đó bị bắt, xét xử và hành quyết. Điều kiện của khoản vay được thực
hiện.
Khi Cromwell mất, Quốc hội mời Charles II trở lại với công việc triều chính
nhưng không trao cho nhà vua quyền quyết định cung tiền như những vương triều
trước. Khi nhà vua cần một đội quân thường trực, Quốc hội đã bỏ phiếu không
thông qua ngân sách và buộc nhà vua phải vay tiền từ những gia đình kim hoàn tại
Anh với mức lãi suất cắt cổ.
Đòn giáng cuối cùng vào đặc quyền của hoàng gia Anh là đạo luật Tự do đúc tiền
(Free Coinage Act) thông qua năm 1666. Bất kỳ ai có vàng và bạc đều có thể đem
đến xưởng đúc để được đóng dấu trở thành tin. Quyền phát hành tiền, vốn thuộc
về duy nhất nhà vua trong nhiều thế kỷ đã được chuyển sang các gia đình kinh
doanh tiền tệ. Những người này có thtạo ra lạm phát hay suy thoái bằng việc
phát hành thêm hoặc giữ lại những đồng tiền vàng của mình.
Không một vị hoàng đế hay nữ hoàng Anh nào đồng tình với việc thành lập một
ngân hàng trung ương tư nhân với quyền lực phát hành tiền và cho chính phủ vay
tại quốc đảo sương mù. Do hoàng tộc có thể tự phát hành tiền, các vương triều
không cần phải đi vay. Nỗ lực cứ tiếp diễn cho tới khi William III, một nời Hà
Lan, một công cụ đắc lực của ngân hàng Wisselbank tại Amsterdam, kế vị Charles
II...
Xuất thân là một quí tộc Hà Lan, William nhanh chóng có được danh hiệu Đại Đô
đốc trong quân đội Hà Lan và sau đó là tước hiệu Hoàng tvới sự hỗ trợ mạnh mẽ
của các gia tộc kinh doanh tiền tệ Do Thái. Hôn nhân của William được sắp đặt
với Công nương Mary xứ York, con gái lớn của Công tước xứ York, người kế vị
ngai vàng của nước Anh, vào năm 1677. Khi Công tước qua đời năm 1689,
William và Mary trở thành Vua và Nữ hoàng Anh.
Ngay sau khi lên ngôi, William phát động chiến tranh với vua Louis XIV của
Pháp. Để tài trợ cho cuộc chiến, nhà vua vay 1,2 triệu bảng vàng tmột nhóm các
nhà cho vay nặng lãi- những người mà danh tính luôn được giữ kín. Tiền được huy
động với phương thức mà ngày nay các chính phủ vẫn tiếp tục sử dụng: những
người cho vay sẽ cung cấp khoản vay dài hạn theo đó lãi suất phải được trả nhưng
phần gốc của khoản vay thì không cần trả. Kèm theo đó là những điều khoản.
Thứ nhất , những người cho vay được quyền xây dựng điều lệ thành lập Ngân
hàng Anh. Ngân hàng này có quyền phát hành tiền giấy và được lưu hành như
đồng tiền quốc gia. Thứ hai, Ngân hàng có quyền phát hành tiền giấy chỉ với một
tỷ lệ nhất định được đảm bảo bằng tiền xu (đúc từ vàng hoặc bạc). Tiền giấy được
phát hành và cho chính phvay trên cơ sở giấy nhận nợ (IOU- I owned You) của
chính phủ. Các giấy nhận nợy được sử dụng như những khoản "dự trữ'' để ngân
hàng tạo các khoản vay với nhưng khách hàng tư nhân. Th ba, mức lãi suất của
khoản nợ được xác định là 8% hàng năm. Điều khoản này đã chính thức khai sinh
nợ chính phủ của Anh. Th, những người cho vay có quyền đảm bảo việc
thanh toán nợ của chính phủ trực tiếp từ nguồn thu thuế từ dân cư. Thuế sẽ ngay
lập tức được áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa để đảm bảo việc trả lãi định kỳ
cho Ngân hàng.
John Houblon, 1632-1712
Thống đốc Ngân hàng Anh: 1694-1697
Trong The Breakdown of Money do Nhà xuất bản Sheed&Ward Inc. phát hành
năm 1934, tác giả Christopher Hollis giải thích, ``... Một nhóm những người Do
Thái giầu có dưới sự chỉ đạo của William Paterson đã đề nghị cho William vay
1,2 triệu bảng với lãi suất 8% cùng điều kiện [như họ tự nhận] có quyền phát
hành tiền giấy tương ứng với qui mô vốn của ngân hàng.'' Điều này có nghĩa là,
với 1,2 triệu bảng bằng vàng, Ngân hàng có quyền phát hành lượng tiền giấy
tương ứng 1,2 triệu bảng. Tổng cộng số tiền sẽ là 2,4 triệu bảng (một nửa bằng
vàng và một nửa bằng giấy). Số tiền vàng được chuyển cho nhà vua. Số tiền giấy
được ngân hàng gilại.