intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu thâm hụt kép ở Mỹ

Chia sẻ: Nguyen Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

87
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm lược bài nghiên cứu “Chính sách tài khóa trong thập niên gần đây phản ánh ở nhiều khía cạnh chính sách tài khóa của thập niên 1980. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp sự gia tăng của thâm hụt ngân sách được phản ánh trong sự gia tăng của thâm hụt tài khoản vãng lai. Các thâm hụt kép đang quay trở lại! "Jeffrey Frankel (2004),

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu thâm hụt kép ở Mỹ

  1. Nghiên cứu thâm hụt kép ở Mỹ 1
  2. Giới thiệu 1.1 Tóm lược bài nghiên cứu “Chính sách tài khóa trong thập niên gần đây phản ánh ở nhiều khía cạnh chính sách tài khóa của thập niên 1980. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp sự gia tăng của thâm hụt ngân sách được phản ánh trong sự gia tăng của thâm hụt tài khoản vãng lai. Các thâm hụt kép đang quay trở lại! "Jeffrey Frankel (2004), Đại học Harvard. Sự gia tăng thâm hụt ngân sách liên bang và thâm hụt tài khoản vãng lai ở Mỹ và các nơi khác đã làm dấy lên mối quan tâm cao về tác động của thâm hụt trong và ngoài nước lên tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế trong nước. Mối liên kết giữa thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách của nền kinh tế là vấn đề của cân nhắc chính sách quan trọng và kiểm định thực nghiệm những năm đầu thập niên 90. Quan điểm truyền thống (cũng dựa theo quan điểm của Keynes) là khi một nền kinh tế đang vận hành dưới mức toàn dụng, thâm hụt ngân sách thúc đẩy tất cả các thành phần của tổng cầu bao gồm cả nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Miễn là xuất khẩu không tăng tương ứng để bù đắp gia tăng nhập khẩu, thì thâm hụt ngân sách tăng một cách đáng kể thâm hụt đối ngoại. Những người ủng hộ quan điểm này chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách lớn làm tăng lãi suất trong nước và do đó làm tăng tỷ giá hối đoái. Vì vậy, sự kết hợp của tỷ lệ lãi suất cao hơn và đồng tiền mạnh hơn góp phần” làm cho thương mại và tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán thành thâm hụt ". Quan điểm thông thường về mối quan hệ giữa hai thâm hụt này không được biết đến rộng rãi . Nhiều nhà nghiên cứu đã dẫn ra giả thuyết tương đương Ricardo để chứng tỏ rằng thâm hụt ngân sách chủ yếu là kết quả từ việc cắt giảm thuế mà có xu hướng giảm cả thu nhập lẫn tiết kiệm của nhà nước. Trong khi những cắt giảm thuế có tác động làm giảm tiết kiệm công và làm tăng thâm hụt ngân sách, thì việc cắt giảm thuế này làm tăng tiết kiệm tư nhân với một lượng tương đương. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng sự thay đổi trong thành phần nguồn tài chính công (ví dụ nợ so với các loại thuế) không có ảnh hưởng đến lãi suất thực, tổng cầu và chi tiêu tư nhân. Bài nghiên cứu này nghiên cứu chủ đề bằng cách sử dụng dữ liệu từ khu vực “under-researched" (nghiên cứu không đầy đủ) của thế giới bao gồm Ai Cập, Iran, Jordan, Kuwait, Morocoo, Oman, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Yemen. Tác giả: Nozar Hashemzadeh Department of Economics, Radford University Radford, VA 24142 2
  3. E-mail: nhashemz@radford.edu Tel: (540)831-5100 Loretta Wilson Department of Economics, Radford University Radford, VA 24142 E-mail: lwilson@radford.edu Tel: (540)831-5100 1.2 Mục tiêu nghiên cứu. Các lý thuyết về mối liên hệ giữa hai thâm hụt dẫn đến việc phải kết hợp tất cả những tác động ngắn hạn và dài hạn của nợ nằm trong giới hạn của các mô hình toán học. Trong việc giải quyết những vấn đề này, các chuyên gia đã sử dụng phương pháp thực nghiệm để phát hiện bất kỳ các mối liên hệ cơ bản nào thông qua các dữ liệu thô. Cách tiếp cận bằng phương pháp thực nghiệm đã cung cấp một công cụ hữu ích trong việc tìm ra những yếu tố chính đã bị giấu đi trong các dữ liệu mà không có sự hạn chế và giả định thường xuyên tích hợp trong các mô hình toán học phức tạp và phương pháp trừu tượng Mục tiêu tổng thể bài nghiên cứu của chúng tôi nhằm xem xét lại các giả thuyết về thâm hụt kép trong các quốc gia và khu vực bên ngoài phía Tây bán cầu, qua đó mở rộng phạm vi nghiên cứu. Đối với hầu hết các phần, chúng tôi dự đoán rằng giả thuyết thâm hụt kép sẽ không được chứng thực chung. Bằng việc đánh giá cẩn thận các dữ kiện từ nhiều nguồn khác nhau sẽ giúp chúng tôi hiểu rõ một cách sâu sắc về các cách giải thích khác nhau của giả thuyết. Việc phân tích sẽ tập trung lại vào các kiến thức được thừa nhận rộng rãi nhưng không được công nhận trong các lý thuyết kinh tế vĩ mô và các tranh luận về chính sách. Hơn nữa, chúng tôi dự định cung cấp nhiều bằng chứng thực nghiệm về tác động của thâm hụt kép ở các nước mà không có một cơ sở thuế ổn định hay thực thế một hệ thống mã số thuế tương tự như các nền kinh tế phát triển ở Tây bán cầu. Việc nghiên cứu các lý thuyết về mối tương quan cơ bản của thâm hụt kép đưa ra bốn kịch bản đối nghịch như sau: (1) thâm hụt ngân sách gây ra tình trạng thâm hụt thương mại, (2) hai loại thâm hụt này không liên quan với nhau, (3) mối quan hệ nhân quả 2 chiều giữa 2 biến, (4) thâm hụt thương mại gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là có thể sử dụng các mô hình kinh tế lượng đơn giản để chứng minh nguyên do hoặc sự duy trì của mối liên kết giữa hai loại thâm hụt, đặc biệt trong ngắn hạn. Mặc dù, cuộc tranh luận về thâm hụt kép đã giúp mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về những hậu quả của việc ngân sách lớn bất thường và thâm hụt thương mại tác động đến kinh tế vĩ mô, nó vẫn chưa cung cấp bằng chứng không thể chối cãi rằng thâm hụt kép là có liên quan đến các kịch bản đã đề cập trên. Khó khăn trong việc giải thích sự đối ứng của hai loại thâm hụt bắt nguồn từ thực tế rằng không có mô hình duy nhất có thể bao quát hết đầy đủ của sự tác động của các biến số kinh tế vĩ mô và hạn chế chính trị xã hội có ảnh hưởng đến thâm hụt kép. Do đó, cách thức có thể tin cậy được là 3
  4. dựa vào nhiều bằng chứng thực nghiệm hơn và kiểm định giả thuyết bằng thực nghiệm với số mẫu ở càng nhiều khu vực càng tốt. I. Lý thuyết và các bài nghiên cứu trước đây 2.1 Quan điểm lý thuyết Mối liên hệ giữa giữa thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách (thâm hụt kép) mở ra các cuộc tranh luận và những nghiên cứu thực nghiệm trong những năm 1980 và đầu năm 1990. Quan điểm truyền thống (còn gọi là lý thuyết Keynes) cho thấy rằng khi một nền kinh tế đang hoạt động ở (hoặc gần) mức lao động toàn dụng, với các điều kiện khác không đổi thì thâm hụt ngân sách sẽ làm thâm hụt cán cân thanh toán. Thông thường các quan điểm cho rằng thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài sẽ tác động một cách sâu sắc đến việc tạo lập nguồn vốn, giá cả các yếu tố sản xuất, phân phối thu nhập, tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế. Những giải thích để làm rõ giả thuyết về thâm hụt kép được rút ra từ quan điểm định lượng đề cập trong các bài viết của Mundell-Fleming (FM) về mô hình chế độ tỷ giá hối đoái (1962), mô hình các thế hệ gối nhau Blanchard (1984, 1985) và các phiên bản sau đó của Auerbach và Kotlikoff (1987) cùng các nhà nghiên cứu khác, họ đã cố gắng tìm ra câu trả lời thông qua các mô phỏng toán học phức tạp. Các mô hình của Mundell-Felming đề xuất rằng việc gia tăng thâm hụt ngân sách dẫn đến sự mất cân bằng tài khoản vãng lai do bởi sự tăng lãi suất trong nước, tỷ giá hối đoái, và tỷ lệ của các dòng vốn chảy vào nước. Trong khi thừa nhận những tác động gây hại đến nền kinh tế và xã hội của thâm hụt ngân sách lớn, các nhà phê bình phương pháp của FM đã tranh cãi mạnh mẽ về các chuỗi nhân quả của các mô hình này. Trong thực tế, một số nhà nghiên cứu đã sử dụng học thuyết tương đương của trường phái Ricardo để lập luận rằng sự thay đổi trong thành phần của tài chính công (vd như nợ so với thuế) không có tác động đến lãi suất thực, tổng cầu, chi tiêu cá nhân, tỷ giá hối đoái hoặc các tài khoản cán cân thanh toán vãng lai. Những người ủng hộ quan điểm này chỉ ra rằng trong khi việc cắt giảm thuế tác động làm giảm tiết kiệm khu vực công và làm tăng thâm hụt ngân sách, chính sách này làm gia tăng tiết kiệm cá nhân một lượng bằng với mức tăng dự kiến gánh nặng thuế trong tương lai. Trong "học thuyết tương đương" của nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo (1817) cho rằng thâm hụt ngân sách không làm thay đổi việc tạo lập nguồn vốn và tăng trưởng kinh tế hoặc làm thay đổi mức tổng cầu (bao gồm cả nhu cầu đối với hàng hoá nhập khẩu) do các cá nhân sẽ tiết kiệm nhiều hơn khi họ biết được thuế họ sẽ đóng trong tương lai sẽ tăng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Nói cách khác, lý thuyết này ngụ ý rằng không có mối tương quan rõ ràng giữa hai loại thâm hụt trên. Mặc dù gây nhiều tranh cãi nhưng giả thuyết trung lập của Ricardo cho rằng khu vực tư nhân xem thâm hụt ngân sách giống như các khoản đầu tư công và xem các khoản đầu tư công và đầu tư cá nhân như là một sự thay thế hoàn hảo. Do đó, các biện pháp tài chính được đưa ra nhằm tác động đến tổng cầu sẽ không có kết quả vì cá nhân giảm tiêu dùng nhằm tránh các nghĩa vụ về thuế trong tương lai. Blanchard (1985) đã bác bỏ lập luận của Ricardo cho thấy rằng việc tối đa hóa hữu dụng của tượng nộp thuế sẽ hành xử khác nhau trong 4
  5. một chân trời hữu hạn, trái ngược với chân trời vô hạn như giả định của Ricardo. Blanchard cho thấy một mối tương quan tích cực giữa thâm hụt ngân sách kéo dài và nợ nước ngoài của một quốc gia. 2.2 Bài nghiên cứu ủng hộ có thâm hụt kép Những tác động có khả năng xảy ra của thâm hụt ngân sách đến thâm hụt thương mại vẫn là chủ đề còn được tranh luận. Dù kỹ thuật chuỗi thời gian được sử dụng nhiều, các nhà kinh tế học đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm để xem xét tác động qua lại giữa 2 loại thâm hụt. Kết quả là ý nghĩa của chính sách có liên quan đến chủ đề về cơ bản vẫn chưa rõ ràng, sự phụ thuộc giữa thời gian và không gian và từ đó không thể thực hiện. Dựa trên sự đánh giá dữ liệu từ Mỹ, Normandin (1999, p. 74) chỉ ra rằng tăng thuế sẽ trực tiếp làm giảm thâm hụt ngân sách và sẽ gián tiếp làm giảm thâm hụt nước ngoài, nhờ vào lượng cắt giảm tiêu dùng hàng nhập khẩu do thu nhập cá nhân sau thuế bị giảm đi. Kenneth Kasa (1994) chỉ ra mối quan hệ giữa thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách trong thời kỳ chiến tranh giữa Mỹ, Nhật và Đức sau khi kiểm soát tác động của chi tiêu công lên GNP. Giống như vậy, Zietiz and Pemberton (1990) and Vamvoukas (1999) cũng tìm thấy mối tương quan cùng chiều giữa thâm hụt ngân sách và thâm hut thương mại khi chọn mẫu nghiên cứu ở Mỹ và Hy Lạp. Islam (1990) khi sử dụng dữ liệu từ Brazil thấy rằng sự tương quan cùng chiều lâu dài giữa thâm hụt ngân sách và thâm hut thương mại. Miller and Russek (1989) tìm ra những kết quả trái ngược phụ thuộc vào mô hình kinh tế lượng của dữ liệu. Những tác giả cho rằng những mô hình quyết định(deterministic) và mô hình ngẫu nhiên thống kê(stochastic) đưa ra tương quan cùng chiều giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại suốt giai đoạn áp dụng tỷ giá linh hoạt. Ngược lại khi họ đưa ra dữ liệu giống nhau để phân tích sự cùng liên kết(cointegration analysis), họ không tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho mối quan hệ trong dài hạn giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại. 2.3 Bài nghiên cứu không ủng hộ thâm hụt kép Theo những cuộc điều tra khác của Kearney và Monadjemi (1990), Godley và Cripps (1983), Enders và Lee (1990) và Evans (1993) về mối quan hệ giữa hai loại thâm hụt. Những tác giả trên bằng các sử dụng những mẫu thử khác nhau đã không phát hiện sự liên kết ổn định lâu dài giữa hai loại thâm hụt. Tương tự như thế, trong một cuộc nghiên cứu các nước G7, Godley và Cripps (1983) đã nhận ra không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê ngắn hạn giữa hai loại thâm hụt này. Trong một cuộc nghiên cứu tiếp theo đã tập trung vào mối quan hệ dài hạn giữa hai loại thâm hụt ở Mỹ, Bartlett (1999) đã kết luận rằng mối quan hệ giữa hai loại thâm hụt này là không thống nhất. Các bằng chứng của Bartlett cho thấy trong suốt những năm 1980, thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai đồng thời di chuyển(move together). Tuy nhiên, ông phát hiện ra rằng trong những năm 1990, mối quan hệ giữa hai thâm hụt đã đổi hướng. Laney (1986) nhận ra rằng “không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê cho thời kỳ hậu chiến giữa số dư ngân sách thực tế của Mỹ và số dư tài khoản vãng lai”. Ông ta đưa ra kết luận tương tự cho tình hình của hầu hết các nước công nghiệp lớn. Evans (1988, 1993),Miller và Russek (1989), 5
  6. Dewald và Ulan (1990), Enders và Lee (1990), Kasa (1994), Kim (1995) và Barlett (1999) không thể phân biệt quan hệ nhân quả giữa hai thâm hụt trong nghiên cứu của họ. Boucher (1991) đã bác bỏ giả thuyết về mối quan hệ dài hạn giữa hai loại thâm hụt trong trường hợp của nước Mỹ. Tương tự như thế, bằng cách sử dụng phương pháp véc tơ tự hồi quy (VAR), Bhattacharya (1977) thấy rằng ở Hoa Kỳ, sự đổi mới trong thâm hụt ngân sách liên bang không tác động đến thâm hụt thương mại. Papaioannou và Kei-Mu Yi (2001) loại trừ mối quan hệ nhân quả thống kê từ thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại tại Hoa Kỳ trong những năm 1990. Họ báo cáo rằng sự gia tăng thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ từ năm 1966 và 1999 chủ yếu là kết quả của nền kinh tế đang bùng nổ với môi trường lãi suất thấp, đồng đô la mạnh và tăng trưởng năng suất cao. Sử dụng dữ liệu hàng quý từ tám quốc gia trong thời gian tỷ giá thay đổi linh hoạt -1972- I -1987-IV, C. Kearney và M. Monadjemi (1990, trang 197-219) cho thấy một mối quan hệ tạm thời giữa hai thâm . Tuy nhiên, họ cũng phát hiện ra bằng chứng quan trọng của mối quan hệ nhân quả đảo ngược giữa lập trường của các chính sách tài chính và tài khoản cán cân vãng lai. Các kết luận của các tác giả nhấn mạnh rằng mối quan hệ giữa hai thâm hụt ngân sách rất phức tạp và chính sách tài khóa không nên được sử dụng độc lập để quản lý tài khoản vãng lai. 2.4 Bài nghiên cứu ủng hộ mối Quan hệ nhân quả hai chiều(song phương) Darrat (1988) đã đưa ra bằng chứng ủng hộ quan hệ nhân quả hai chiều giữa thâm hụt kép. Sử dụng dữ liệu hàng quý cho giai đoạn năm 1960- I - 1984-IV, ông kết luận rằng trong trường hợp của Hoa Kỳ, có bằng chứng về "mối quan hệ nhân quả thâm hụt ngân sách đến thương mại, nhưng cũng là bằng chứng mạnh mẽ của thương mại thâm hụt ngân sách đến quan hệ nhân quả. "Darrat cho rằng nghiên cứu đã giả định thâm hụt ngân sách là biến ngoại sinh" có thể bị sai lệch và không phù hợp. Hơn nữa, như Cuddington và Vinals (1986) đã chứng minh được mối liên hệ giữa hai thâm hụt bị ảnh hưởng bởi mức độ thất nghiệp và giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Các tác giả đã chỉ ra rằng khi nền kinh tế phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cổ điển trong ngắn hạn, "một tương lai dự kiến sẽ tăng chi tiêu chính phủ sẽ cải thiện tài khoản vãng lai ngày nay." (Ibid, trang 115). II. Nội dung bài nghiên cứu 3.1 Mẫu nghiên cứu và mô hình Những ngữ cảnh khác nhau về thời gian và không gian đưa ra những kết quả nghiên cứu khá đa dạng, những kết quả này đưa ra mối quan hệ giả định giữa hai loại thâm hụt của các quốc gia là khác nhau. Để tìm hiểu thêm về vấn đề trên, bài nghiên cứu này nghiên cứu mẫu hình về thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách của mẫu nghiên cứu của 6 nền kinh tế: Ai Cập, Iran, Jordan, Kuwait, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Thật không may, chúng tôi đã không thành công trong việc định vị dữ liệu một cách kịp thời và phù hợp cho các nước khác trong khu vực bao gồm Iraq, Ả-rập Xê-út, Oman, và vương quốc Ả-Rập thống nhất. Một vài nước trong số đó phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ xuất khẩu dầu mỏ. 6
  7. Một cách hợp lý thì đối với các nước có dự trữ dầu lớn ở Trung Đông, mức độ thâm hụt ngân sách gắn chặt với giá dầu thế giới, nhu cầu về sản phẩm dầu mỏ trên thế giới và hạn ngạch của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Đối với các nền kinh tế xuất khẩu dầu, nguồn thu từ xuất khẩu dầu chiếm phần chính yếu trong nguồn thu ngoại tệ của quốc gia. Tuy nhiên, sự biến động của giá dầu thế giới và các nhiên liệu hóa thạch khác đã buộc một số nền kinh tế như Iran phải dựa vào nguồn thu từ xuất khẩu sản phẩm khác(không phải gốc dầu). Trong một bài báo gần đây, MA Alkswani (2002) đã lập luận rằng quan điểm của Keynes cũng như Ricardo về sự tương ứng của hai loại thâm hụt dường như không xảy ra tại Vương quốc Ả-rập Xê-út. Ông đã chỉ ra một cách chính xác rằng nguồn thu nhập chủ yếu của một nền kinh tế phụ thuộc vào dầu chính là doanh thu từ xuất khẩu dầu và các sản phẩm phụ gốc dầu. Đổi lại, doanh thu từ xuất khẩu tác động các khoản thu, chi tiêu của chính phủ và việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Alkswani kết luận rằng ở Ả-rập Xê-út xu hướng của quan hệ nhân quả chạy từ thâm hụt thương mại đến thâm hụt ngân sách. Bằng việc sử dung cơ cấu GNP của Matthew Higgins và Thomas Klitgaard (Tháng 12 năm 1998) và những người khác, chúng tôi xác định tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng thu nhập phát sinh từ sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng tư nhân (C), đầu tư tư nhân (Ip), chi tiêu chính phủ về mua hàng hóa và dịch vụ (G) và xuất khẩu (X). Phù hợp cách tính GNP thông thường, khoản nhập khẩu (M) được trừ ra để tránh tính lặp lại của việc tiêu thụ hoặc đầu tư hàng hóa được mua nước nhưng sản xuất ở nước ngoài. Như vậy, GNP được tính như sau: GNP = C + Ip + G + X - M, (1) Trong đó (X – M) đại diện cho xuất khẩu ròng cộng với yếu tố thu nhập ròng. Thứ hai phương trình cơ bản trong các tài khoản thu nhập quốc gia được thành lập trên nguyên tắc là thu nhập cá nhân có bốn khả năng xảy ra: dùng để tiêu sài (C), tiết kiệm (Sp, tiết kiệm tư nhân), đóng thuế (T), hoặc chuyển ra nước ngoài (Tr). Bởi vì GNP chỉ đơn giản là tổng thu nhập nhận được của tất cả các cá thể trong nền kinh tế, chúng ta có: GNP = C + Sp + T + Tr, (2) Vì tính chất tương đương của hai phương trình chúng ta loại bỏ C, và sắp xếp lại thành phương trình sau: X - M - Tr = (Sp - Ig) + (T - G), (3) Khoản [X - M - Tr] bằng số dư của tài khoản vãng lai. Nói cách khác, số dư tài khoản vãng lai bằng thặng dư tiết kiệm tư nhân đối với đầu tư cộng với hiệu số của thuế và chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá và dịch vụ, đó là thặng dư ngân sách của chính phủ. Trong khi phương trình (3) cho thấy số dư tài khoản vãng lai liên quan đến khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước, nó không đưa ra lý thuyết về số dư tài khoản vãng lai được xác định như thế nào. Trong giai đoạn này của bài nghiên cứu, chúng tôi đã không kết hợp các mối liên hệ về lý thuyết phức tạp giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất trong nước và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến độ lớn của tiết kiệm, đầu tư, xuất khẩu, nhập khẩu trong mẫu các nước nghiên cứu. Bên cạnh đó, vì số liệu tài khoản vãng lai và ngân sách của chính phủ được báo cáo với 7
  8. cùng một tần số chúng tôi tin rằng phương trình (3) không cung cấp một cơ sở thỏa đáng cho nghiên cứu thực nghiệm và tranh luận về chính sách thương mại. Đặc biệt, nếu có một mối quan hệ chặt chẽ và rõ ràng giữa hai loại thâm hụt ngân sách, nó cần được phát hiện một cách dễ dàng trong phương trình 3, kết hợp những tập hợp kinh tế vĩ mô. 3.2 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi cố gắng để khám phá những khái quát các giả thiết thâm hụt kép bằng cách áp dụng thử nghiệm quan hệ nhân quả và kỹ thuật hồi quy Vector tự động (VAR) về thâm hụt ngân sách hàng năm và thâm hụt tài khoản vãng lai cho các quốc gia lựa chọn. Thông qua phương pháp VAR bài nghiên cứu cố gắng bộc lộ nếu có tồn tại mối quan hệ nhân quả phù hợp giữa 2 loại thâm hụt hay không. Kết quả của chúng tôi có ý nghĩa đối với các nhà hoạch định chính sách và nhà nghiên cứu bằng cách làm nổi bật phạm vi mà lý thuyết tương đồng với thực tế trong hai thập kỷ qua. Chúng tôi áp dụng mô hình VAR nhỏ gọn để theo dõi sự cải tiến trong thâm hụt ngân sách của Chính phủ (cán cân tài khoản vãng lai) về thâm hụt thương mại của một quốc gia (thâm hụt ngân sách) so với độ trễ thời gian khác nhau. Mô hình Var đã được chứng minh thành công cho hệ thống dự báo của các biến thời gian trong ngắn hạn (Watson 1994). Nói ngắn gọn, trong mô hình Var, mỗi phương trình có biến bên vế phải của phương trình, và các biến bao gồm độ trễ của tất cả các biến nội sinh. Bao gồm các giá trị trễ của các biến nội sinh được thiết kế để loại bỏ sự ước lượng sai lệch liên quan đồng thời và tương quan nối tiếp. Trong mô hình VAR, độ trễ của chiều dài được lựa chọn bằng cách sử dụng các tiêu chí khác nhau bao gồm các tiêu chí thông tin Akaike (AIC) cũng như Sim (1980) và Blanchard (1993) Các dữ liệu thô được thu thập từ các nguồn tuân thủ bởi IMF. Để thống nhất tất cả các biến được đo bằng USD chứ không phải là đơn vị của đồng nội tệ. Dữ liệu kéo dài từ giữa những năm 1970 đến cuối những năm 1990. Hầu hết các đồ thị thời gian (không được hiển thị ở đây) của các dữ liệu thô có vẻ liên kết chặt chẽ giữa các dòng dữ liệu cho tất cả các quốc gia trong giai đoạn mẫu. 3.3 Kết qủa từ mô hình VAR Phương trình (3) được ước lượng theo các đặc tính thống kê của mô hình VAR bằng cách sử dụng 2 độ trễ cho mỗi biến nội sinh, hằng số ci – để đánh giá sự tác động của các biến ngoại sinh bao gồm khoảng cách ( the spread) giữa tiết kiệm trong nước và tổng đầu tư tư nhân trong nước. Var1: CABt = α11(CABt-1) + α12(GBBt-1) + β11(CABt-2) +β12(GBBt-2) + c1 + ε1t Var2: GBBt = α21(CABt-1) + α22(GBBt-1) + β21(CABt-2) +β22(GBBt-2) + c2 + ε2t CAB là cán cân tài khoản vãng lai, GBB là cân đối ngân sách chính phủ, c1 và c2 là hằng số, ε1t và ε2t là các phần dư VAR dạng rút gọn của CAB và GBB tương ứng. Để cho các 8
  9. phần dư này không tương quan nhau, thì chúng sẽ bị loại bỏ bất cứ thành phần nào tương đương nhau trước khi ước lượng các tham số. Đầu tiên là phan tích phản ứng xung lực(Impulse Response Functions – IFRS) để ước lượng tác động của phần dư trong một biến cố định trên các biến nội sinh trong mô hình. Các hàm phản ứng ( Fischer, 1981) là tương đương với số nhân động ( dynamic multipliers) cung cấp ước lượng của phản ứng hiện tại và tương lai của một biến bên trái phương trình đến phần dư VAR của một trong các biến bên phải phương trình. Sau khi ước lượng mỗi hệ thống, (IRFs) và ước lượng phân tích phương sai được sử dụng đề theo dõi các tác động của sự đổi mới trong thâm hụt chi tiêu ( cán cân tài khoản vãng lai) trên cán cân tài khoản vãng lai (cân đối ngân sách). Ở mỗi quốc gia, chúng tôi hiển thị đồ thị IRFs cho mỗi biến phát sinh từ các phần dư VAR dạng rút gọn trọng giá trị độ trễ của chúng cụng như “biến ngoại sinh”. Những biểu đồ này được thiết kế để đứa ra một cách nhìn trực quan của các hiệu ứng động của cú sốc đến hệ thống. Như trong biểu đồ 1 (hình bên trái phía dưới), đồ thị IRFs của Iran, Jordan, Kuwait, Oman và Morocco cho thấy phần dư VAR trong thâm hụt ngân sách có xu hướng ảnh hưởng đến cân đối ngân sách có độ trễ tối đa 2 đến 3 lần. Khi so sánh, quan sát ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Yemen thì không có tác động rõ rệt nào từ cân đối ngân sách đến cán cân thương mại. 3.4 Phân tích phương sai Bên cạnh IRFs, phân tích phương sai cũng được sử dụng để tìm ra ảnh hưởng của phần dư dạng rút gọn đến thâm hụt chi tiêu (cán cân tài khoản vãng lai) trên cán cân tài khoản vãng lai (cân đối ngân sách). Các phân tích phương sai cho thấy độ lớn và độ dài của phương sai trong các biến hệ thống mà nó có thể là do ảnh hưởng của cú sốc bên ngoài. Ở đây, mục đích của chúng tôi là tìm ra mức độ sai số dự báo trong thâm hụt thương mai có thể giải thích cho sai số dự báo trong thâm hụt ngân sách. Ví dụ, nếu các cú sốc thương mại (thâm hụt ngân sách) không giải thích bất kỳ phương sai dự báo nào của thâm hụt ngân sách (thâm hụt thương mai) tại tất cả các trường hợp dự báo, chúng ta có thể kết luận rằng thâm hụt ngân sách (thâm hụt thương mại) là biến ngoại sinh. Các kết quả này được thể hiện ở bảng 1 tính toán bằng cách sử dụng các thuật toán phân tích Choleski, đảm bảo rằng các phần dư là trực giao (orthogonal). 3.5 Thảo luận Các kết quả hiển thị trong Bảng 1 và 2 là không đủ kết luận hoặc xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết thâm hụt kép trên tất cả các mẫu. Dựa trên các kết quả báo cáo trong Bảng 1, với ngoại lệ của Ma-rốc và Yemen, sự cân bằng ngân sách không xuất hiện là một yếu tố dự báo quan trọng của cán cân tài khoản vãng lai. Trong bảng 2, ví dụ duy nhất mà cán cân thương mại được dự đoán bởi thâm hụt ngân sách (độ trễ của một khoảng thời gian) được nhận thấy ở Oman. Trong hai trường hợp, cụ thể là, Syria và Yemen, có một số bằng chứng về mối quan hệ nhân quả ngược lại chạy từ cán cân thương mại đến cân đối ngân sách. Đối với những quốc gia đổi mới trong cán cân tài khoản vãng lai dự đoán khoảng 77 đến 94% của phương sai trong cân đối ngân sách. Kể từ khi không ai trong số các nước này kiếm được nhiều doanh thu từ xuất 9
  10. khẩu dầu hoặc xăng dầu theo sản phẩm, chúng tôi hy vọng rằng chiến lược xuất khẩu, nhập khẩu trong các nền kinh tế đang có nhiều ảnh hưởng bởi những cân nhắc ngân sách. Đối với Kuwait, Iran và Oman là nhà xuất khẩu dầu lớn trong mẫu, hiện tại số dư tài khoản dự đoán nằm từ giữa 23 đến 33% của phương sai trong cân đối ngân sách. Đây là những gì chúng ta có thể mong đợi đối với các nền kinh tế mà chính phủ chủ yếu dựa vào xuất khẩu thay vì thuế để tài trợ trên sẽ chi tiêu. Một bức tranh tương tự, nhưng mạnh mẽ hơn sẽ xuất hiện để giữ cho Yemen (một nhà sản xuất dầu nhỏ) nơi đổi mới trong số dư tài khoản hiện tại dự đoán 43% phương sai trong cân đối ngân sách. Bảng 1: Bảng tổng hợp phân tích phương sai (Summary of Variance Decomposition Analysis) % of % of Predicted Variable In the Predicted Variance after 4-lags: County Sample Period Variance After 4-lags: Right- Hand side Variable: Variable: Budget Current Egypt 1984-1998 Budget Balance Balancepercent 97.00 Account 2.30 percent Egypt 1984-1998 Current Acct. Balance 29.60 percent 70.40 percent Iran 1982-2000 Budget Balance 83.00 percent 23.00 percent Iran 1982-2000 Current Acct. Balance 32.40 percent 67.60 percent Jordan 1987-2001 Budget Balance 93.00 percent 6.50 percent Jordan 1987-2001 Current Acct. Balance 35.60 percent 64.36 percent Kuwait 1977-2001 Budget Balance 73.00 percent 27.00 percent Kuwait 1977-2001 Current Acct. Balance 26.60 percent 74.40 percent Morocco 1977-2003 Budget Balance 85.30 percent 14.70 percent Morocco 1977-2003 Current Acct. Balance 47.30 percent 53.70 percent Oman 1977-2001 Budget Balance 66.70 percent 33.30 percent Oman 1977-2001 Current Acct. Balance 14.21 percent 85.70 percent Syria 1979-1999 Budget Balance 51.00 percent 49.00 percent Syria 1979-1999 Current Acct. Balance 3.25 percent 96.75 percent Turkey 1989-2000 Budget Balance 76.00 percent 24.00 percent Turkey 1989-2000 Current Acct. Balance 0.05 percent 99.95 percent Yemen 1992-1999 Budget Balance 48.20 percent 51.80 Percent Yemen 1992-1999 Current Acct. Balance 56.90 percent 43.10 percent 10
  11. Bảng 2: Bảng tổng hợp hệ số ước lượng của mô hình Var (Summary of Coefficient Estimates from the Var Models) Country Dependent Const Budget Balance(-1) Budget Trade Trade Adjusted Variables and t- coefficient and (t- Balance (2) balance (-1) balance R - Squared value value) (2) 11
  12. Egypt Budget -95.36 0.15 0.38 -4.28 5.83 0.66 Balance (-0.96) (0.48) (1.25) (-0.44) (0.57) Egypt Trade -3.23 0.004 -0.01 1.40 -0.32 0.98 Balance (-0.72) (0.31) (-1.08) (3.20*) (-0.70) Iran Budget -1029.21 0.13 0.06 -0.09 -0.34 0.0 Balance (-0.87) (0.49) (0.22) (-0.32) (-1.17) Iran Trade 272.16 -0.29 -0.48 0.43 0.01 0.26 Balance (0.22) (-1.06) (-1.67) (1.52) (0.04) Jordan Budget -2.90 0.98 -0.39 0.20 -0.18 0.70 Balance (-0.66) (3.49*) (-1.47) (0.98) (-0.96) Jordan Trade 10.41 0.73 -0.63 0.89 0.01 0.96 Balance (1.69) (1.84) (-1.68) (3.01*) (0.06) Kuwait Budget 177.85 0.35 -0.19 -0.54 -1.44 0.52 Balance (3.16*) (1.25) (-1.06) (-0.53) (-1.20) Kuwait Trade 35.55 0.01 -0.04 0.79 -0.21 0.52 Balance (2.23*) (0.25) (-0.86) (2.81*) (-0.64) Morocco Budget 0.14 0.41 -0.08 1.28 1.74 0.77 Balance (0.05) (1.87) (-0.37) (0.76) (1.10) Morocco Trade -0.42 0.05 -0.07 0.60 0.33 0.81 Balance (-0.97) 1.67 (-2.07*) (2.35*) (1.37) Oman Budget 1.00 0.18 0.31 0.03 -0.26 0.22 Balance 0.34 (0.78) (1.34) (0.36) (-1.94) Oman Trade 9.56 -1.51 0.90 0.95 -0.53 0.42 Balance (1.47) (-2.93*) (1.68) (4.20*) (-1.73) Syria Budget -10.68 -0.75 -0.42 0.72 0.10 0.77 Balance (-2.12*) (-3.59*) (-2.30*) (3.21*) (0.36) Syria Trade 0.08 -0.05 0.02 1.24 -0.22 0.90 Balance (0.01) (-0.19) (0.11) (4.35*) (-0.60) Turkey Budget -8637153 -0.14 3.30 -388.82 -182.55 0.99 Balance (-3.06*) (-0.49) (6.89*) (-1.53) (-1.04) Turkey Trade e 465.60 1.23E-05 -1.36E-05 0.60 0.21 0.50 Balanc (0.13) (0.03) (-0.02) (1.96) (1.00) Yemen Budget 10.43 0.01 0.21 2.07 0.48 0.94 Balance (1.20) (0.01) (0.82) (6.47*) (0.23) Yemen Trade 0.94 2.01 -0.55 1.01 -4.54 0.11 Balance (0.07) (1.39) (-1.41) (2.09*) (-1.42) * kiểm định t có mức tin cậy trên 95%. 12
  13. III. Kết luận Giả thuyết thâm hụt kép thường được gọi bởi các nhà kinh tế có ảnh hưởng ở phương Tây như là một cơ sở lý luận để tranh luận chống lại bội chi của chính phủ và hậu quả xấu của nó trên cán cân thương mại. Từ một quan điểm chính sách, nhiều vấn đề cho dù giả thuyết là thâm hụt kép áp dụng rộng rãi hoặc chủ yếu là hợp lệ cho số ít quốc gia trong khoảng thời gian được chọn. Mặc dù việc tài trợ thâm hụt có xu hướng kích thích dòng chảy nhập khẩu trong nền kinh tế mở rộng, nó có thể không dẫn đến vấn đề nghiêm trọng khi nền kinh tế suy thoái. Theo Higgins và Klitgaard (tháng 12 năm 1998) đã ghi nhận một cách chính xác rằng khi thâm hụt tài khoản vãng lai cao có thể gây thất nghiệp và trì trệ sản xuất trong một số lĩnh vực của nền kinh tế, thì dòng vốn từ nước ngoài vào tạo ra việc làm và cơ hội phát triển cho lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đáng tiếc, việc tranh luận công khai về thâm hụt kép thường tập trung vào tác động có hại của thâm hụt ngân sách mà ít chú ý đến tác động đầy đủ của chúng lên toàn bộ nền kinh tế. Nếu không có một nền tảng lý thuyết vững chắc về bản chất của mối liên hệ giữa hai loại thâm hụt, và những chứng thực đáng kể thì nó là vô nghĩa để tìm ra cách thức để giải quyết các vấn đề trên, thay vì nhấn mạnh rằng các nhà nghiên cứu cần phải chấp nhận một nền tảng lý thuyết phù hợp trước khi rút ra kết luận từ những quan sát. Để chắc chắn mối quan hệ giữa nợ công và nền kinh tế hỗn hợp, nó có thể không xác minh mối quan hệ chặt chẽ và ổn định giữa hai thâm hụt. Trong bài báo này, chúng tôi đã cố gắng để chứng minh rằng các đề xuất thâm hụt kép thì không được hỗ trợ phổ biến. Bất cứ điều gì, tỷ lệ thâm hụt kép xuất hiện ở các quốc gia cụ thể. Ví dụ, ở một số nước như Nhật Bản, chúng tôi quan sát thấy cấu trúc tự nhiên của thặng dư thương mại, thặng dư ngân sách và đầu tư cao và tiết kiệm trong khi ở những nước khác như Mỹ, thâm hụt ngân sách cao, thâm hụt thương mại cao và mức thấp tiết kiệm có xu hướng là tiêu chuẩn. Rõ ràng kết quả báo cáo cho thấy sự tương quan giữa hai thâm hụt là phức tạp và không rõ ràng. Những gì chúng tôi cố gắng nhấn mạnh là mối quan hệ tác động giữa hai thâm hụt ngân sách là để thay đổi tùy thuộc vào hệ thống thuế cơ bản, mô hình thương mại và các rào cản, tỷ giá và một sự liên hợp các lực trong nước và quốc tế giúp đỡ để hình thành nền kinh tế của một quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. 13
  14. PHỤ LỤC 1 14
  15. 15
  16. 16
  17. 17
  18. TÀI LIỆU THAM KHẢO References [1] Abell, J.D. 1990. “Twin Deficits During the 1980’s: An Empirical Investigation.” Journal of Macroeconomics, 12, 81-96. [2] Ahmed, S. 1987. “Government Spending: The Balance of Trade and the Terms of Trade in British History.” Journal of Monetary Economics, 201, 195-220. [3] Ahmed, S. 1986. “Temporary and Permanent Government Spending in an Open Economy: Some Evidence for the United Kingdom.” Journal of Monetary Economics, 171, 197-224. [4] Alkswani, M. A., 2002. “The Twin Deficits Phenomenon in Petroleum Economy, Evidence from Saudi Arabia.” Retrieved in January 17, 2005, from http://www.erf.org.eg/html/finance1.pdf. [5] Auerbach, Alan and Laurence J. Kotlikoff, 1987. Dynamic Fiscal Policy, Cambridge, MA: Cambridge University Press. [6] Bachman, D.D. 1992. “Why is the U.S. Current Account Deficit So Large? Evidence from Vector Autoregressions.” Southern Economic Journal, 59, 232-40. [7] Barro, R. J. 1974. “Are Government Bonds Net Worth.” Journal of Political Economy, 82, 1095-1117. [8] Bartlett, B. “Are Budget Surpluses Equivalent to Tax Cuts? Idea House.” National Center for Policy Analysis, 1-3. [9] Beard, T.R. and McMillin, W.D. 1991. “The Impact of Budget Deficits in the Interwar Period.” Journal of Macroeconomics, 13, 2, 239-66. [10] Bhattacharya, R. 1997. “The Trade Balance and the Real Exchange Rate: Evidence from a VAR for the United States.” The Journal of Economics, XXIII, I. [11] Blanchard, O.J. 1985. “Debt, Deficits and Finite Horizons.” Journal of Political Economy, 93, 233-247. [12] Blanchard, O.J. 1984. “Debt, Deficits and Finite Horizons.” NBER Working Papers 1389, National Bureau of Economic Research, Inc. [13] Boucher, J.L. 1991. “The U.S. Current Account: A Long and Short Run Empirical Perspective.” Southern Economic Journal, July, 58, 1, 93-111. [14] Darrat, A.F. “Fiscal Deficits and Long-Term Interest Rates: Further Evidence from Annual Data.” Southern Economic Journal, 56, 2, 363-74. [15] Darrat, A.F. 1988. “Have Large Deficits Caused Rising Trade Deficits?” Southern Economic Journal, 54, 879-87. [16] Darrat, A.F. 1990. “Structural Federal Deficits and Interest Rates: Some Causality and Co- Integration Tests.” Southern Economic Journal, 56, 3, 752-9. [17] Dewald, W.G. and Ulan, M. 1990. “The Twin Deficit Illusion.” Cato Journal, 10-689- 707. 18
  19. [18] Dickey, D.A. and Fuller, W.A. 1981. “Likelihood Ratio Statistics for Autoregressive Times Series with a Unit Root.” Econometrica, 49, 4, 1057-72. [19] Enders, W. 1995. Applied Econometric Times Series. New York, NY: John Wiley and Sons. [20] Enders, W. and Lee, B. 1990. “Current Account and Budget Deficits: Twin or Distant Cousins.” Review of Economics and Statistics, 72, 374-382. [21] Engle, R.F. and Granger, C.W. J. 1987. “Co-Integration and Error Correction: Representation, Estimation and Testing.” Econometrica, 55, 2, 251-76. [22] Evans, P. 1988. “Are Consumers Ricardian? Evidence for the United States.” Journal of Political Economy. 69, 983-1004. [23] Evans, P. “Consumers are not Ricardian: Evidence from Nineteen Countries.” Economic Inquiry, 31, 25-40. [24] Evans, P. 1988. “Do Budget Deficits Affect the Current Account?” Paper, Ohio State University. [25] Evans, P. 1985. “Do Large Deficits Produce High Interest Rates?” American Economic Review, 75, 1, 68-87. [26] Evans, P. 1987. “Interest Rates and Expected Future Budget Deficits in the United States.” Journal of Political Economy, 95, 1, 34-58. [27] Fackler, J.S. and McMillin, W. D. 1989. “Federal Debt and Macroeconomic Activity.” Southern Economic Journal, 55, 4, 994-1003. [28] Feldstein, M. 1982. “Government Deficits and Aggregate Demand.” Journal of Monetary Economics, 9, 1, 1-20. [29] Feldstein, M. 1988. “The Effects of Fiscal Policies When Incomes Are Uncertain: A Contradiction of Ricardian Equivalence.” American Economic Review, 78, 1, 14-23. [30] Fischer, Stanley. 1981. “Relative Shocks, Relative Price Variability, and Inflation.” Brookings Papers on Economic Activity, 2, 381-431. [31] Franek, Jeffrey. 2004. Twin Deficits and Twin Decades.” ksghome.harvard.edu/~jfrankel/ Twin_Deficits_Twin_Decades.pdf [32] Godley, W. and Cripps, F. 1983. Macroeconomics, Oxford University Press. [33] Hafer, R. W. and Sheehan, R.G. 1991. “Policy Inference Using VAR Models.” Economic Inquiry, 29, 1, 44-52. [34] Higgins, M. and Klitgaard, T. 1998. “Viewing the Current Account Deficit as a Capital Inflow.” Federal Reserve Bank of New York in Economics and Finance, 4, 13. [35] International Monetary Fund (IMF), August 2004. International Financial Statistics, Publication Services, Washington, D. C. [36] Johansen, S. 1988. “Statistical Analysis of Cointegration Vectors.” Journal of Economic Dynamics and Control, 12, 2/3, 231-54. [37] Kasa, K. 1994. “Finite Horizons and the Twin Deficits.” Economic Review, Federal 19
  20. Reserve Bank of Boston, 3, 19-28. [38] Kearney, C. and Monadjemi, M. 1990. “Fiscal Policy and Current Account Performance: International Evidence on the Twin Deficits.” Journal of Macroeconomics, 197-218. [39] Kim, K.H. 1995. “On the Long-Run Determinants of the U.S. Trade Balance: A Comment.” Journal of Post Keynesian Economics, 17, 447-55. [40] Kochin, L. 1974. “Are Future Taxes Anticipated by Consumers?” Journal of Money, Credit andBanking, 6, 3, 385-94. [41] Kormendi, R.C. 1983. “Government Debt, Government Spending, and Private SectorBehavior.” American Economic Review, 73, 5, 994-1010. [42] Laney, L.O. 1984. “The Strong Dollar, the Current Account and Federal Deficits: Cause andEffects.” Federal Reserve Bank of Dallas Economic Review, 1-14. [43] Miller, S.M. and Russek, F.S. 1989. “Are the Deficits Really Related.” Contemporary PolicyIssues, 7, 4, 91-115. [44] Miller, S.M. and Russek, F.S. 1996. “Do Federal Deficits Affect Interest Rates? Evidence from Three Econometric Methods.” Journal of Macroeconomics, 18, 3, 403-28. [45] Normandin, M. 1994. “Budget Deficit Persistence and the Twin Deficits Hypothesis.” Center for Research on Economic Fluctuations and Employment. Universite du Quebec, Montrel. Working Paper No. 31. [46] Papaioannou, S. and Yi, K. 2001. “The Effects of a Booming Economy on the U.S. Trade Deficit.” Current Issues in Economics and Finance, Federal Reserve Bank of New York, 7, 2. [47] Purvis, Doguglas D. 1985. “Public Sector Deficits, International Capital Movements, and the Domestic Economy: The Medium-Term Is the Message.” The Canadian Journal of Economics, Volume 18, Issue4, pp. 723-742. [48] Ricardo, David, On the Principles of Political Economy and Taxation. John Murray. 1821. Library of Economics and Liberty. 5 October 2004. [49] Sims, C.A. 1980. “Macroeconomics and Reality.” Econometria, 48, 1-49. [50] Stock, J.H. and Watson, M.W. 1993. “A Simple Estimator of Cointegrating Vectors in Higher Order Integrated Systems.” Econometrica, 61, 783-820. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2