Nhập nhèm góp vốn bằng

thương hiệu

Việc Bộ Tài chính nói “không” với yêu cầu được góp vốn bằng

thương hiệu của các doanh nghiệp đã và đang dẫn đến tình trạng

các doanh nghiệp “lách” hoặc “chui” để góp vốn.

Tuy nhiên, cơ quan chức năng cũng chưa hề có ý kiến về những

trường hợp này. Giá trị thương hiệu của một số công ty lớn có

thể đang bị pha loãng.

Trên thị trường chứng khoán, nhắc đến "SD", giới đầu tư hiểu là

một doanh nghiệp có “họ” với Tổng công ty Sông Đà; những

doanh nghiệp có mã chứng khoán "VC" được hiểu “có thể là một

công ty con của Vinaconex”.

Việc các doanh nghiệp góp vốn bằng thương hiệu vào doanh

nghiệp khác đang diễn ra bằng cách này hoặc cách khác mặc dù

chuẩn mực kế toán không cho phép. Trong khi các văn bản của

ngành tài chính không thừa nhận loại tài sản vô hình này là tài

sản, thì giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp lớn vẫn đang

hiển hiện và có giá trị rất lớn đối với một doanh nghiệp mới thành

lập được khoác chiếc áo “có họ hàng”.

Quyết định 203/BTC về Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu

hao tài sản cố định nêu rõ: “Các chi phí phát sinh trong nội bộ để

doanh nghiệp có nhãn hiệu hàng hóa không được xác định là tài

sản cố định vô hình mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong

kỳ”.

Quyết định này không thừa nhận giá trị thương hiệu là tài sản cố

định vô hình. Trong chuẩn mực kế toán 04 của Bộ Tài chính,

thương hiệu cũng không được xem là tài sản và do đó không

được góp vốn.

Theo ông Phạm Duy Khương, Phó tổng cục trưởng, Tổng cục

Thuế, thương hiệu mặc dù là tài sản vô hình được tạo từ nội bộ

doanh nghiệp nhưng họ không được ghi nhận là tài sản vì nhiều

lý do.

Thứ nhất, thương hiệu không phải là nguồn lực có thể xác định

được, không đánh giá được một cách đáng tin cậy và doanh

nghiệp không kiểm soát được.

Chính vì lý do đó, trước đây, Công ty Kinh Đô đã từng bị Bộ Tài

chính trả lời không được phép khi công ty này có ý định góp vốn

bằng thương hiệu vào doanh nghiệp khác. Vì các lý do này, các

công ty không được góp vốn thành lập công ty cổ phần bằng giá

trị quyền sử dụng thương hiệu.

Tổng cục Thuế có ý kiến kết luận “doanh nghiệp có thể tự xác

định giá trị thương hiệu nhưng không được ghi tăng nguồn vốn

chủ sở hữu”.

Có ý kiến cho rằng giá trị thương hiệu là có thể xác định được để

phân biệt lợi thế thương mại, thêm vào đó, có thể xác định được

thông qua việc góp vốn với doanh nghiệp khác và được định giá

do các thành viên, cổ đông sáng lập theo nguyên tắc nhất trí hoặc

do tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá.

Thứ hai, việc góp vốn bằng thương hiệu là có thể kiểm soát được,

doanh nghiệp có quyền thu lợi ích kinh tế trong tương lai mà tài

sản đó đem lại và lợi ích kinh tế trong tương lai mà thương hiệu

đem lại có thể làm tăng doanh thu hoặc lợi ích khác.

Theo ông Bùi Văn Mai, Phó Chủ tịnh Thường trực kiêm Tổng Thư

ký Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), hiện nay

một số công ty đã làm việc này, về mặt pháp lý việc góp vốn bằng

thương hiệu là không được và giá trị thương hiệu chỉ được xác

định khi có mua bán thật sự theo thỏa thuận của hai bên hoặc

của một bên thứ ba.

Trước đây, Văn phòng Chính phủ đã cho phép thí điểm thực hiện

việc góp vốn bằng thương hiệu nhưng về sau lại không thấy văn

bản pháp luật quy định cụ thể.

Ý kiến của VACPA là Nhà nước nên quy định tiêu chuẩn, điều

kiện, giới hạn nhất định của việc góp vốn bằng thương hiệu thông

qua các văn bản pháp luật chỉ đạo. Một chuyên gia về định giá

cho rằng chuyện góp vốn bằng thương hiệu là có thể được, và

thực tế đang diễn ra dù Bộ Tài chính không đồng tình.

Do đó, có doanh nghiệp sẽ hạch toán thương hiệu vào mục “phí

thuê thương hiệu”, còn nếu muốn nhập nhèm, doanh nghiệp sẽ

tìm cách “lách”.

“Một đơn vị sản xuất mới chưa có thương hiệu được mang

thương hiệu của một đơn vị khác đã có danh tiếng thì giá trị hàng

hóa sẽ tăng. Tuy nhiên, một thương hiệu đem góp vào nhiều

doanh nghiệp khác nhau sẽ làm loãng giá trị. Bởi vì, với một tổng

công ty hoạt động tại một phạm vi này thì giá trị thương hiệu

khác, nhưng nếu góp vốn vào nhiều doanh nghiệp khác nhau thì

giá trị thương hiệu có thể giảm dần”, ông Mai phân tích.

Như vậy, nhiều doanh nghiệp có giá trị thương hiệu lên đến hàng

tỷ USD nhưng vì cách cấm không chặt chẽ và rõ ràng nên giá trị

thương hiệu của nhiều doanh nghiệp có phần bị “chia sẻ” tùy tiện.

Ông Mai cho rằng, Nhà nước cần có quy định rạch ròi để giám

sát kiểm tra việc góp vốn bằng thương hiệu, nếu không các

doanh nghiệp sẽ mạnh ai nấy làm. Có thể sẽ có trường hợp bên

nhận góp vốn lạm dụng thương hiệu, làm giảm giá trị thương

hiệu.

Trong khi đó, ở các nước, khi một doanh nghiệp sử dụng thương

hiệu của doanh nghiệp khác phải ký cam kết chặt chẽ về tiêu

chuẩn, điều kiện sử dụng thương hiệu, quy định chi tiết cách sử

dụng màu, kích thước và điều kiện sử dụng logo.