NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 5 8

PHÂN Kì VĂN HÓR -

NHÌN Từ VĂN H ó a

CHÃO ÂCl

TRẦN THị PHƯƠNG HOA

ài viết này được gợi mở từ bài viết trước đó của GS. Nguyễn Xuân Kính “Về việc phân kì văn hoá Việt Nam”* (l). Việc nghiên cứu văn hoá châu Âu cũng đưa ra những vấn đề tương tự, cho phép chúng tôi đặt ra một tiểu luận trình bày về phân kì văn hoá châu Âu, bao gồm khái niệm phân kì văn hoá cũng như thực tiễn phân kì văn hoá, trên cơ sở khảo sát một số tài liệu liên quan đến phân kì văn hoá được viết bằng tiếng Anh.

1. Nghiên cứu về phân kì văn hoá ở

châu Âu

tại, con người đều phải đối diện với những vấn đề giống nhau thuộc về bản chất loài người. Tuy nhiên, tác giả này cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có phân kì bởi vì “có sự khác biệt trong hình thức và cách thể hiện bản chất”. Tán thành quan điểm cho là cần thiết, rằng nghiên cứu phân kì William Green nhận xét “lịch sử là một quá trình liên tục như một tấm vải không có vết nối, nhưng chúng ta sẽ không thể hiểu lịch sử vấn đề một cách rõ ràng nếu không phân chia dòng chảy thời gian của nó ra làm các thời kì khác nhau. Giờ đây, người ta đẫ thừa nhận rằng biên giới thời gian là những vỏ bọc thông tuệ gây tác động to lớn đến nhận thức của chúng ta - đến cách lưu giữ hình ảnh, liên tưởng và ý thức được về điểm khởi đầu và kết thúc cùa các vấn đề”(3). Năm 2004, khi nghiên cứu về phân kì lịch sừ văn học châu Âu, Miah Matrix cho rằng “Việc phân kì lịch sử văn học là một công việc mới được tiến hành gần đây... Việc sử dụng tên gọi các thời kì văn học(4) để phân tích tác phẩm văn học ngày càng bị chỉ trích... Tuy nhiên, bất chấp những chỉ trích đổ, phân kì vẫn là điều cần thiết để hiểu được văn bản, vì nó nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa các văn bản với nhau... Phân kì còn giúp hiểu được bối cảnh ra đời văn bản và bối cảnh sáng tác của tác giả”(5). Trong khi nhiều tác giả cho rằng có thể tiến hành một phân kì chung cho văn hoá châu Âu, thì số khác cảm thấy khó có thể cho văn hoá của tất cả các quốc gia châu Âu vào chung một “giỏ”. Trong một nghiên cứu về phân kì văn học Tây Ban Nha, James Parr cho rằng “phân kì là một vấn đề đầy khó khăn và đôi khi không thể thực hiện được”(6). Tác giả này cho rằng, trong phân kì văn học Tây Ban Nha, chỉ cổ thuật ngữ thời Trung cổ là khá rõ ràng, còn các thuật ngữ chỉ giai đoạn sau đó như Phục hưng, Mặc dù phân kì được coi là rất quan họng, đặc biệt đối với những nghiên cứu sử dụng phương pháp luận sử học, một số học giả cho rằng có rất ít công trình đi sâu nghiên cứu về vấn đề này và nhiều ý kiến khẳng định phân kì mang nặng tính “nhân tạo” và “võ đoán” (Dietrich Gerhart, 1956; Alastair Fowler, 1972; W illiam Green, 1992; James Parr, 2001; Micah Matrix, 2004; Matt Hodges 2010). Nhiều tác giả cho rằng, phân kì là điều không thuận với văn hoá - vốn được coi là dòng chảy mang tính tự nhiên và đôi khi lặp đi lặp lại. Alastair Fowler đưa quan niệm “bất cứ thời kì lịch sử nào cũng tồn tại những vấn đề của loài người... và bản chất của con người là không đổi trong tiến trình lịch sử”(2), tức là về mặt triết học, trong quá khứ cũng như hiện

TẠP CHÍ VHDG s ố 4/2011 5 9

Hoàng Vinh, Huỳnh Công Bá, chứng tỏ phân kì văn hóa là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu văn hoá Việt Nam.

Baroque hay Kỉ nguyên vàng đều khó chấp nhận, vì những thuật ngữ này chỉ có thể áp dụng với nghệ thuật và văn học Ý mà thôi. Xung quanh việc phân kì thơ ca ở châu Âu cũng có nhiều tranh luận, vì người ta không tìm ra đâu là tiêu chí để phân biệt các thời kì phát triển của thơ. Theo Micah Mattix, việc phân chia thơ ra làm thời kì “lãng mạn” và “hiện đại” là đề tài đã được đưa ra bàn cãi hơn 50 năm nay ở Âu Mỹ, và đặc biệt, không có cuộc tranh luận nào sôi nổi

trị như

Đối với văn hoá châu Âu, khi đề cập đến phân kì, người ta thường lấy đối tượng văn học, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, sân khấu, triết học, khoa học - như những vỏ bọc hình thức để thể hiện cho nội hàm văn hoá. Trong khi đó, văn hoá được coi là “cốt lõi của tinh thần”(10), là một quá trình tổng thể, thì lại ít được đưa ra làm đối tượng phân kì. Cụ thể hơn, ở châu Âu, văn hoá được hiểu như là “những dạng thức của hành vi và thói quen. Văn hoá là hành vi, tín ngưỡng, tư duy,,(11\ Do văn hoá được coi là một thực tiễn ít biến đổi, vấn đề phân kì văn hoá chấu Âu được bàn đến với một thái độ dè dặt. Thường khi nói đến phân kì, khái niệm văn hoá đã bao hàm cả yếu tố văn minh, trong đó, văn hoá được hiểu như là “văn hoá tinh thần” và văn minh được hiểu như “văn hoá vật chất và kĩ thuật”. Ở đây, văn minh không phải là khái niệm đối lập với vãn hoá mà là một phần của văn hoá, là điều kiện đầu tiên của văn hoá. Theo quan điểm này, văn minh tạo ra cơ sở vật chất cho văn hoá phát triển, là cái vỏ bọc bên ngoài cùa văn hoá(l2). Trong khi đó, văn hoá là “linh hồn”, là nội dung bên trong.

GS. Nguyễn Xuân Kính có đề cập đến một số thuật ngữ chỉ thời gian trong nghiên

hơn xung quanh tên gọi thời kì “hậu hiện đại”. Những cách phân kì dựa vào chế độ “thời Elizabeth” hay chính “Victoria” hoặc dựa vào những thay đổi về văn hoá như “thời Phục hung” hay “Khai sáng” cũng không hề có ý nghĩa với việc phân kì thơ ca. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những thay đổi về chính trị hay xã hội không ảnh hưởng tới việc các nhà thơ viết như thế nào(7). Trong khi đó, bong một nghiên cứu về thơ ca Anh, Stephanie Kuduk cho rằng chính thơ ca đã tạo ra nét đặc thù cho thời kì Victoria ở Anh(8). Điều đó có nghĩa rằng, đây là một thời kì văn hoá đặc biệt với dấu ấn đậm nét của thơ ca... Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phân kì văn hoá, các nghiên cứu cho thấy, có hai hướng tiếp cận chính đối với vấn đề phân kì: Thứ nhất, là phân kì theo đường thẳng tuyến tính (theo trục thời gian); Thứ hai, là phân kì theo vòng tròn chu kì (tiêu biểu là Nietzsche và Toynbee)(9). cứu phân kì nói chung và phân kì văn hoá nói riêng(13).

Tương tự, trong các công trình viết bằng tiếng Anh, thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất là period (thời kì), bản thân từ periodization (phân kì) cũng sử dụng gốc từ này. Ngoài ra, một từ xuất hiện sớm hơn là epoch cũng được sử dụng với ý nghĩa tương tự, tuy tần số xuất hiện trong các văn bản ít hơn. Từ age (kỉ nguyên, thời đại) để Nghiên cứu của GS. Nguyễn Xuân Kính cho thấy, vấn đề phân kì văn hoá Việt Nam được rất nhiều tác giả quan tâm. Trong trích dẫn mà bài viết cung cấp, có thể thấy gần đủ tên tuổi của các nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam tiêu biểu, gồm Nguyễn Khánh Toàn, Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Chưởng, Chu Xuân Diên,

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 6 0

xã hội châu Âu. Sự phân chia này không chỉ phản ánh các mối quan hệ kinh tế mà còn “thay đổi cả cấu trúc thực thể của châu Ầu, tâm lí xã hội, mô hình thiết chế và phương thức vươn ra thế giới bên ngoài của châu lục này”(16). Khi nói đến thời kì Phong kiến hay thời kì Tư bản chủ nghĩa, trong tâm trí mọi người không chỉ hình dung ra những biến đổi về phương thức sản xuất mà cả các mối quan hệ văn hoá - xã hội trong đó. Tuy nhiên, lí thuyết của Marx bị coi là mang tính hệ thống phổ quát, nó không đại diện cho nhiều vùng ở châu Âu.

chỉ một thời kì đặc biệt trong lịch sử như the Golden Age (Kỉ nguyên vàng), the Bronze Age (thời đại đồ đồng), the Middle Ages (thời Trung cổ), the Prehistoric Age (thời Tiền sử). Từ era (kỉ nguyên, thời đại) để chỉ một thời kì lịch sử chịu ảnh hưởng của những tác nhân đặc biệt hay những điều kiện xã hội đặc biệt, chẳng hạn M eiji era (thời Minh Trị)(14). Trong các chuyên khảo, nhiều tác giả vẫn sử dụng thuật ngữ era để chỉ những giai đoạn mà họ coi là có dấu ấn văn hoá đặc biệt. Chẳng hạn, có tác giả đã dùng từ này để chỉ giai đoạn từ đầu thể kỉ XV đến cuối thế kỉ XVII trong văn hoá châu Âu, vì sự liên quan của nó đến các kĩ thuật tiếp nhận và thể hiện hình ảnh(15).

2. Tiêu chí xác định mốc thời gian

trong phân kì vãn hoá

Một trong những câu hỏi đầu tiên đựơc đưa ra ưong nghiên cứu về phân kì là “tiêu chí để xác định mốc thời gian cho từng thời kì là gì?”. Trong tiểu luận về phân kì lịch sử châu Âu, Green cho rằng, vãn hoá cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để xác định ranh giới giữa các thòi kì lịch sử. Tác giả này viết: “Do các khía cạnh khác nhau của đời sống loài người - chính trị, kinh tế, nhân khẩu, văn hoá - có tốc độ thay đổi khác nhau, các nhà sử học phải xác định khía cạnh nào cần được ưu tiên hơn cả trong việc phản ánh hiện thực của quá khứ”.

Nhiều nhà nghiên cứu đã lựa chọn những tiêu chí mang tính cụ thể hơn và phản ánh đặc trưng riêng của thời đại ở từng vùng đất khác nhau nhưng lại có những điểm tương đồng để tạo nên biến đổi chung. Ở đây, văn hoá đã cất lên tiếng nói. Chẳng hạn, xung quanh mốc năm 1500, người ta đã lựa chọn những “biến cố” sau để cho rằng châu Ầu bước vào một thời kì Hiện đại, chấm dứt thời Trung cổ: thuyết địa tâm của Ptoleme bị lung lay, nghề in bắt đầu phát triển, Columbus phát hiện châu Mỹ, Bồ Đào Nha mở đường biển tới Ấn Độ, cải cách Tin lành, Constantinople rơi vào tay Thổ N hĩ Kỳ, các vương quốc Pháp, Tây Ban Nha và Anh liên kết với nhau. Rõ ràng, những “biến cố” này không cho ta thấy hoặc chỉ thấy rất ít biến đổi của “phương thức sản xuẩt” hay “quan hệ sản xuất” mà chỉ thây châu Âu đang dần có những quan niệm mới về thế giới và vũ trụ, và bắt đầu xác lập những giá trị mới.

Trong nghiên cứu về phân kì, người ta thường đào sâu tìm hiểu những sự kiện nói trên để thấy được bước chuyển trong xã hội châu Ầu, trong đó, những yếu tố văn hoá được xem xét: quan điểm mới về vũ trụ, cài Lịch sử châu Âu thường được phân chia thành ba thời kì chính là: thời c ổ đại (ancient), Trung đại (medieval) và Hiện đại (modem). Việc phân chia này hoàn toàn mang tính chất .biên niên và thường được sử dụng trong các trường đại học để tiện cho việc giảng dạy học tập. Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu dựa vào lí thuyết về các hình thái kinh tế xã hội của Marx làm cơ sở xác định các giai đoạn trong sự phát triển của cách Tin lành và bao trùm lên cả là nhận

TẠP CHÍ VHDG s ố 4/2011 61

thức về tôn giáo hay là sự rời bỏ các học thuyết tôn giáo giáo điều, đưa châu Âu chuyển sang một thời kì mới - thời kì của tư

chia thành những thời kì này đều chịu" tác động của các tương tác tiếp biến văn hoá có ảnh hưởng đến các đường phân chia ranh giới giữa các xã hội và vùng văn hoá”(18). Sáu thời kì mà Bentley đưa ra là:

1) Thời kì của những xã hội sơ khai

(năm 3500 - năm 2000 Tr CN);

duy độc lập và sáng tạo. Đặc biệt, nghệ thuật đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển lịch sử châu Âu sang thời hiện đại, đó là sự bắt đầu của thời kì Phục hưng (Renaissance). Ngoài ra, yếu tố tiếp biến 2) Thời kì các nền văn minh cổ đại

(năm 2000 - năm 500 Tr CN); văn hoá (cross cultural) cũng được coi là tác nhân làm biến đổi diện mạo văn hoá và 3) Thời kì của các nền văn minh cổ

điển (năm 500 Tr CN - năm 500 sau CN); tạo ra một thời kì văn hoá mới. Jerry Bentley, trong một nghiên cứu về phân kì 4) Thời kì hậu cổ điển (năm 500 - năm

1000 sauCN );

5) Thời kì của các đế chế liên khu vực

(năm 1000 - năm 1500 sau CN); văn hoá, đã nhìn nhận vai trò quan trọng của tiếp biến văn hoá: “Từ xưa tới nay, tiếp biến văn hoá có ý nghĩa nhất định để phân biệt về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá đối 6) Thời kì hiện đại (năm 1500 đến hiện

nay).

với các dân tộc tham gia vào quá trình này. Chính vì thế, tiếp biến văn hoá đóng góp cho việc phân kì lịch sử từ góc độ toàn cầu. Ngoài ra, nếu lấy tiếp biến văn hoá làm tiêu chí để phân kì, các nhà sử học có thể tránh được việc phân kì dựa vào thuyết lấy tộc

người làm trung tâm như trước đây chúng ta vẫn coi việc xác lập cấu trúc thế giới là theo kinh nghiệm của m ột số dân tộc. Các học giả cho rằng, lịch sử là sản phẩm của sự tương tác giữa các dân tộc trên toàn thế giới”~17)

GS. Nguyễn Xuân Kính cũng đã đề Theo Bentley, tiếp biến văn hoá tác động đến các hoạt động của loài người từ thời sơ khai của lịch sử, với những luồng di cư khổng lồ diễn ra ữên những vùng lãnh thổ rộng lớn. Dựa vào phân tích đặc điểm và phân bố các hệ ngôn ngữ, các học giả cho rằng, quá trình di cư tạo ra những tiếp xúc văn hoá từ thời tiền sử(19). Nghiên cứu cùa Bentley cho thấy, tiếp biến văn hoá có vai trò quan trọng không chỉ như một trong những yếu tố cấu thành nên lịch sử, mà còn là động lực thúc đẩy lịch sử với những mức

độ khác nhau, tạo thành những thời kì phát triển khác nhau.

xuất phân kì văn hoá Việt Nam dựa vào tiêu chí tiếp biến văn hoá, chẳng hạn, thời kì Bắc thuộc với tiếp biến văn hoá với Trung Hoa, Ấn Độ hoặc tiếp biến, giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Âu Tây thời kì Cận - Hiện đại. Đối với văn hoá châu Âu, tiếp biển văn hoá có một ý nghĩa không nhỏ đối

với phân kì văn hoá.

Mặc dù việc lấy văn hoá làm tiêu chí phân kì lịch sử châu Âu được nhiều tác giả tán thành, nhưng đối với vấn đề phân kì văn hoá thì dường như vẫn còn nhiều tranh luận và như trên đã đề cập, thường thì người ta lấy đối tượng phân kì là lịch sử nghệ thuật, văn học, sân khấu. Và câu hỏi “tiêu chí nào để phân kì?” lại được đặt ra. Alastair Tác giả Jerry Bentley cho rằng, lịch sử loài người có sáu thời kì lớn và ’“sự phân

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 6 2

1) Các đế chế và thể chế chính trị: Ai cập, Athen, Hellen, La Mã, La M ã thần thánh, Hapsburg, Georgia, Sa hoàng, cộng sản...;

thời Victoria, 2) Các triều đại quân chủ: Elizabeth, sân khấu trong cung Vua Louis XIV, Thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ ở Anh (restoration 1660), thời Edward...;

3) Các thời kì truyền thống: c ổ điển,

Trung cổ, Phục hưng, Khai sáng, hiện đại;

Fowler có liệt kê một số tiêu chí để phân kì nghệ thuật châu Âu, trong đó có nhắc tới thuyết ductus của Praz và các chuẩn mực của Gombrich; các lí thuyết về phản ánh xã hội và tiến bộ kĩ thuật; và lí thuyết của nhóm Zeitgeist. Quan điểm ductus của Praz cho rằng “mỗi thời kì có một dạng chữ viết đặc thù... và nó cho thấy đặc điểm, thậm chí diện mạo, cũng tương tự như ta lấy một mẩu xương hoá thạch để tái hiện lại toàn bộ con vật”(20). Quan điểm này là sự tiếp nối học thuyết của Oswald Spengler: “có thể dùng những chi tiết vụn vặt của các đường trang trí, kiến trúc, chữ viết để tái hiện lịch sử của hàng thế kỉ”(21). Trong khi đó, nhóm Zeigeist chỉ chú trọng đến cốt lõi tinh thần 4) Dựa vào các thuộc tính sân khấu: sơ khai, lễ nghi, lễ hội, trường phái kiểu cách (mannerism), tân cổ điển, truyền thống, amateur (không chuyên), chuyên nghiệp, tư sản, công nhân, đại chúng (pop);

5) Tôn giáo: Thiên Chúa giáo, Do Thái, Tin lành, thế tục;

của các phong trào, của cả một thời kì hay các trào lưu văn hoá, bất chấp hình thức thể hiện là gì. Quan điểm này có ảnh hưởng rất lớn đối với nghiên cứu phân kì. Nó đòi hỏi phải phát hiện được ý nghĩa và tinh thần

của từng thời kì lịch sử. 6) Các trường phái triết học: Stoic (khắc kỉ), kinh viện, nhân văn, duy lí, cá nhân chủ nghĩa, thuyết tương đối, thuyết phi lí, hiện sinh;

7) Theo biên niên: thế kỉ thứ năm, quatrocento (thế kỉ XV), thế kỉ XVII, thập kỉ 1890, sân khấu giữa hai cuộc chiến (từ 1918 đến 1938); Khi nghiên cứu về lịch sử sân khấu châu Âu, Thomas Postlewait đưa ra một số tiêu chí phân kì sân khấu mà chúng tôi cho là mang tính tổng hợp. Theo tác giả này, có ba cách để phân kì sân khấu:

1) Dựa vào phân tích thể loại sân khấu

(bi kịch, hài kịch...); 8) Theo thể chế (tôn giáo, chính trị, xã hội và kinh tế): nhà thờ, phong kiến, các nhà hát cung đình, tư bản, cộng sản;

2) Dựa vào ảnh hưởng của một nhân vật có tầm quan trọng đặc biệt (thời kì

Shakespeare, Garrick, Irving...); 9) Các hình thái hỗ trợ: tăng lữ, thợ thù công, dân đô thị, nhà nước, mạnh thường quân, thương mại;

3) Dựa vào phân kì của các lĩnh vực khác như lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử nghệ thuật (thời Trung cổ, Phục hưng, 10) Phân kì theo trào lưu nghệ thuật và văn học: lãng mạn, tự nhiên, avant-gard (tiên phong), biểu hiện, hiện đại, hậu hiện Baroque, Hiện đại). đại;

Ngoài ra, tác giả Thomas Postlewait cho rằng, có thể dựạ vào rất nhiều tiêu chí, chẳng hạn như: 11) Các kiểu khán giả: quý tộc, bình dân, dân gian, tư sản, đại chúng, thượng lưu;

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 6 3

12) Các kiểu phong cách thể hiện: hiện

thực, sân khấu, minh hoạ, phản minh hoạ;

2) Diện mạo trong sự đối lập “chúng ta” và “họ” (Người Nga nói về đặc thù nước Nga và người N ga nói về người nước ngoài);

13) Các kiểu thiết kế sân khấu: trung tâm nghi lễ, sân khâu ngoài trời, sân khấu có lô bao quanh, cung đình, sân khấu trong nhà không mái, sân khấu trong nhà có

mái...; 3) Những diện mạo căn bản (Diện mạo Nga và tôn giáo, Âm nhạc và tâm hồn, Diện mạo trong ngôn ngữ, Diện mạo trong đời sống hàng ngày);

4) Những biểu tượng và diện mạo. 14) Theo ảnh hưởng của các nhân vật Ibsen, tiếng: Shakespeare, Garrick,

nổi Bretch...;

15) Các phong cách cùa nghệ thuật thị giác: cổ điển, baroque, mannerist, rococo,

lãng mạn, hiện thực, hiện đại, hậu hiện đại(22). ’ T 1 ’

Theo Postlewait, khi phân kì lịch sử sân khấu có thể kết hợp một vài tiêu chí với nhau, tuy nhiên, đôi khi khó có thể phân định rạch ròi đâu là điểm khởi đầu và kết

thúc của từng thời kì.

3. Một số hướng tiếp cận nghiên cứu

văn hoá - trường hợp văn hoá Nga, Pháp và Anh.

Chúng tôi thực hiện một khảo sát nhỏ đối với các nghiên cứu gần đây về văn hoá

Nga, Pháp, Anh - là đại diện cho ba nhóm văn hoá chính ở châu Âu là văn hoá Slavơ,

văn hoá La Tinh và văn hoá Anglo-Saxon.

Năm 2004, Simon Franklin và Emma Widdis xuất bản Diện mạo dân tộc trong

văn hoá Nga: đôi lời giới thiệu {National identity ỉn Russian culture: an introduction) do Nhà xuất bàn Đại học Cambridge thực hiện(23). Cuốn sách đưa ra những vấn đề được thảo luận sôi nổi: “Thế nào là diện mạo dân tộc của nước Nga?”, “Nước Nga là gì?”. Cuốn sách dày gần 240 ưang, được trình bày trong bốn phần, lần lượt là:

1) Diện mạo trong thời gian và không Tất cả những chủ đề này đều được lấy dữ liệu trong lịch sử xuyên suốt của văn hoá Nga từ thời cổ đại cho đến hiện tại, trên một không gian rộng lớn của nước Nga trải dài từ Âu sang Á. Đặc biệt, một số nhà nghiên cứu cho rằng văn học chiếm một tỉ trọng lớn trong nghiên cứu về văn hoá Nga(24). Trong hội thảo quốc tế tổ chức tại Anh năm 1992 về văn hoá Nga, các nhà nghiên cứu Nga và quốc tế đã thảo luận các chù đề trong văn học và thơ ca Nga, trong đó có “cái chết như một chủ đề của tác phẩm” (do Lotman viết bằng tiếng Nga), hay phân tích chủ nghĩa hình thức trong văn học Nga từ thời Pushkin đến thời hiện đại và một số bài tham luận về thơ ca Nga với các chủ đề như: trường phái pamas trong thơ Nga, về các nhà thơ N ga như Tiuchev, Parstemak, Svetaeva, Baratynsky... với xã hội Nga đương thời. Gần đây, một số chủ đề mới xuất hiện trong nghiên cứu về văn hoá Nga như: những tính cách điên khùng trong văn hoá Nga (hình ảnh người điên trong tác phẳm của Dostoevsky, tính cách của Nữ hoàng Catherine và vấn đề tâm lí của các Sa hoàng, và những biểu hiện điên khùng trong giới trí thức Nga..)(25); người phụ nữ trong văn hoá Nga(26); bạo lực trong văn hoá Nga(27), sự hài hước trong văn hoá Nga(28) và rất nhiều vấn đề khác đã được khai thác liên quan đến văn hoá Nga trong lịch sử và hiện tại. Có thể nói, hầu hết các gian;

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 6 4

thời gian và không gian, bởi tôn giáo, nghề nghiệp và thể chế chính ừ ị”(31). Cuốn sách đã giới thiệu một số chủ đề như: gia đình và xã hội nhìn từ cuộc sống gia đình Pháp thông qua các nghiên cứu về luật pháp, qua phân tích phim ảnh và các phương tiện nghe nhìn, qua tiếp cận các tư liệu cá nhân và văn học. Ngoài ra, trong nhiều công công trình nói trên đều đưa ra các vấn đề được coi là nổi bật xuyên suốt lịch sử nước Nga. Bên cạnh đó, văn hoá Nga cũng được trình bày trong những nghiên cứu theo giai đoạn, chẳng hạn, văn hoá thời Piotr Đại Đế, văn hoá Nga thế kỉ XIX, văn hoá Nga thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội, văn hoá Nga đương đ ại... Mỗi giai đoạn đều gắn liền với những nội dung văn hoá cụ thể.

Nếu văn học được coi là điểm nhấn trong nghiên cứu về văn hoá Nga thì đối với văn hoá Pháp, phương pháp tiếp cận nhân học được nhiều tác giả sử dụng. Kauppi Niilo, trong cuốn sách Chủ nghĩa cấp tiến

trình khác, văn hoá Pháp cũng được giới thiệu qua các giai đoạn lịch sử như: văn hoá Pháp thời Trung cổ (kiến trúc, nhà thờ, trang phục), văn hoá Pháp thời Phục hưng, vãn hoá Pháp thời Khai sáng, văn hoá Pháp trong các cuộc chiến tranh (chiến tranh Pháp - Phổ, chiến tranh thế giới thứ hai,..), giai đoạn xâm chiếm thuộc địa, văn hoá Pháp đương đại với những chủ đề cụ thể, nêu bật được đặc điểm văn hoá xã hội Pháp

đương thời.

the and sociology

Đối với nghiên cứu về văn hoá Anh, hầu hết các công trình đi sâu vào chi tiết cùa từng giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn, trong cuốn sách gần đây nhất Ảnh ỉn ở nước Anh thời Cận đại {Printed images ỉn early modem Britain: essays in interpretation)^, các tác giả đã

trong văn hoá Pháp: một nghiên cứu xã hội học về lí thuyết Pháp trong thập ìả 1960 - trí thức đại chúng và xã hội học tri thức" {Radicalism in French culture: a sociology o f French theory in the 1960s - Public o f intellectuals knowledge) cho rằng, vào nửa cuối thập kỉ 1960, ở Pháp đã diễn ra một cuộc cách mạng văn hoá và “cuộc cách mạng này làm xói mòn những quan điểm xã hội truyền thống về quyền lực và tạo ra một diện mạo trí thức mới”(29), trong đó, vai trò của Pierre Bourdieu và Jaques Derrida được nhấn mạnh đặc biệt. Cuốn sách Những chủ đề trong vân hoả Pháp - m ở đề cho một nghiên cứu về xã hội Pháp {Themes ỉn French

giới thiệu công nghệ in hình ảnh ở nước Anh từ đầu thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XVIII. Cúốn sách được bắt đầu bằng bài viết giới thiệu về phản ứng của nhà thờ, của chính quyền và người dân đối với những cuốn kinh thánh có kèm hình ảnh được thực hiện nhờ công nghệ in hiện đại, về quá trình kiểm duyệt các hình ảnh sử dụng cho mục tiêu tôn giáo. Tiếp sau đó, các tác giả

culture - a preface to a study o f French c o m m u n ity)^ đã sử dụng triệt để các phương pháp nhân học để tiếp cận tới văn hoá Pháp, trong đó có phỏng vấn, phân tích các tài liệu lịch sử, phân, tích phim ảnh, các tác phẩm văn học. Tác giả của cuốn sách thừa nhận rằng: “Nhấn mạnh vào văn hoá Pháp nhằm hiểu được hành vi của một dân tộc, chúng tôi không đi vào phân loại văn hoá Pháp theo khu vực, mặc dù mỗi chứng cứ minh hoạ đều được đặt ữong bối cảnh nghiên cứu việc sử dụng hình ảnh cho các mực tiêu khoa học và chính trị. Thông qua việc nghiên cứu một lĩnh vực tưởng như khá hạn hẹp là công nghệ in hình ảnh, cuốn sách đã trình bày diện mạo văn hoá - xã hội của nước Anh thời Cận đại (thế kỉ XVI - XVII), mối quan hệ phức tạp giữa nhà thờ,

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 65

nền quân chủ và thể chế cộng hoà mới nổi ở từng giai đoạn cụ thể, các chủ đề vãn hoá

Anh là vô cùng đa dạng và phong phú.

4. Một vài suy nghĩ về phân kì văn

hoá Việt Nam trong so sánh với phân kì văn hoá châu Âu

nước Anh với Oliver Cromwell. Một nghiên cứu khác về giai đoạn muộn hơn, nửa cuối thế ki XVII và nửa đầu thế kỉ XVIII cũng được đề cập đến qua một công trình của Paul Davis Dịch thuật và đời sổng củá nhà thơ: về đạo đức dịch thuật trong văn hoá Anh, 1646 -1 7 2 6 {Translation and the p o e t’s life: the ethics o f translating in English culture, 1646 - 1 7 2 6 f33\ Cuốn sách

Sau khi đọc kĩ bài viết về phân kì lịch sử văn hoá Việt Nam cùa GS. Nguyễn Xuân Kính và so sánh với các tiêu chí phân kì đối với văn hoá châu Âu, chúng tôi nhận thấy rằng: phần lớn các phân kì của văn hoá Việt Nam vẫn nặng theo tính chất biên niên sử (chronical), xác lập theo trình tự thời gian. Chẳng hạn, việc xác định “Thời kì văn hoá truyền thống ừong quốc gia độc lập (từ là hoàn toàn lấy năm 939 đến 1884)’^

đã giới thiệu một thời kì được coi là kỉ nguyên vàng trong dịch thuật thơ ca ở Anh (được gọi là thời đại August - Augustan age, hoặc thời Id Tân cổ điển}. Tác giả đã khảo sát các tác phẩm thơ ca của một số nhà thơ Anh nổi tiếng thời bấy giờ là Denham, Vaughan, Cowley, Dryden và Pope, cũng như nghiên cứu xã hội Anh để đưa ra những kết luận về một giai đoạn khá

mốc sự kiện lịch sử Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kì 1000 năm Bắc thuộc và mốc thực dân Pháp xác lập chế độ bảo hộ ở Việt Nam. Điều này đặt ra m ột sự băn khoăn: Vậy thì sự kiện văn hoá đầu tiên trong thời kì văn hoá của quốc gia Việt Nam độc lập là gì?, cũng như sự kiện vãn hoá xác lập ách thống trị củạ thực dân Pháp ở Việt Nam

làg ì?

đặc biệt trong lịch sử thơ ca nước Anh. Tác giả bác bỏ nhận định của nhiều nghiên cứu cho rằng “hầu hết các tác phẩm giai đoạn này đều là các bản dịch” từ tiếng La Tinh và kết luận “khó có thể phân biệt giữa việc chuyển dịch và sự bắt chước trong các tác phẩm giai đoạn này” và thậm chí “khó có thể phân biệt giữa việc chuyển dịch các tác phẩm cổ điển với sáng tác cá nhân”(34). Sự phản ánh những đặc điểm xã hội và tư duy

hiện đại của nước Anh đương thời đã giúp tác giả bước đầu kết luận về tính chất độc Như ở trên chúng tôi đã đề cập, để xác định sự chấm dứt của thời kì văn hoá Trung cổ và bước vào thời kì hiện đại, ở châu Âu thường dùng một số mốc sự kiện như: sự xuất hiện của thuyết nhật tâm của Copemic, sự xuất hiện của ngành in, chuyến hành

lập sáng tác của các nhà thơ Anh trong các tác phẩm được coi là dịch từ các tác phẩm kinh điển.

Trong một khảo sát cũng về thế kỉ

XVII, Donna Landry lại tập trung vào một chủ đề hoàn toàn khác “loài ngựa từ phương Đông đã chuyên đổi văn hoá Anh thế nào”(35), trong đó tập trung vào mô tả văn hoá và đời sống cùa giới quý tộc Anh giai đoạn này. Có thể nói, liên quan đến trình tìm ra châu Mỹ của Colombo... chứ không chỉ đưa ra một mốc thời gian nhất định. Tuy nhiên, tồn tại những cụm từ chỉ thời gian đơn thuần như “thế kỉ mười sáu” đã bao hàm nội dung về sự khởi đầu cùa thời kì hiện đại {modern e r a fĩr>, khi phương Tây với văn hoá văn minh của nó bắt đầu vươn ra thế giới bên ngoài; thuật ngữ “thế kỉ mười bảy” để chỉ một thời kì phát triển rực rỡ của văn hoá châu Âu với

NGHIÊN CỨ U-TRAOĐỔI 6 6

thường, về sự đứt quãng ở trong và giữa các

nhiều cách tân hiện đại (kỉ nguyên vàng ở Hà Lan, văn hoá Baroque...). Mỗi tên gọi đã mang trong lòng nó một nội dung tinh thần, chuyển tải một ý nghĩa văn hóa khái quát. Ngoài ra, trong lịch sử văn hoá châu Âu có khái niệm “kỉ nguyên vàng” để chi một thòi kì hội tụ của những công trình văn hoá đặc sắc, là sự hồi tưởng lại kỉ nguyên vàng của văn minh Hy Lạp. Vô sổ các nghiên cứu được tiến hành ở các nước châu Âu để xác

thời kì... Chúng ta phải thừa nhận có một sự mâu thuẫn: mặc dù mỗi thời kì có một ý nghĩa tinh thần nhất định, nhưng không một thời kì nào, dù ngắn hay dài, hoàn toàn đứng tách biệt. Tất cả các thời kì đều có mối quan hệ nào đó với nhau và mang trong mình những nét tương đồng lẫn khác biệt. Do đó, phân kì là một vấn đề chúng ta không thể giải quyết rốt ráo, đồng thời cũng không thể bỏ qua”(38).n

T.T.P.H

CHÚ THÍCH

định “kỉ nguyên vàng” trong văn hóa của họ và trong từng lĩnh vực như “kỉ nguyên vàng” trong hội hoạ, thơ ca, văn học, sân khấu... Vậy ở Việt Nam, khái niệm “kỉ nguyên vàng” có được sử dụng không, và nếu có thì thường được dùng để mô tả giai

đoạn nào trong lịch sử vãn hoá Việt Nam?

(1) . Nguyễn Xuân Kính (2011), “v ề việc phân kì văn hoá Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 1, tr. 3 - 11.

Kết luận

GS. Nguyễn Xuân Kính đã đưa ra một nghiên cứu khái quát về phân kì văn hoá

(2) . Alastaừ Fowler (1972), Periodization and Interart Analogies, New Literary History, Vol 3, No3, Literary and Art History (Spring 1972), pp 487 - 509, p. 487 (Phân kì và những tương đồng nghệ thuật trung gian).

(3) . William Green (1992), Periodization in European and World History, Journal o f World History, Vol 3, N ol (Spring 1992), pp, 3 - 53, p. 13 (Phân kì trong lịch sử châu Ầu và thế giới).

Việt Nam, gợi mở cho một so sánh với nghiên cứu về phân kì vãn hoá châu Âu. Có thể nói, các nhà nghiên cứu châu Âu có cách nhìn nhận khác nhau đối vợi vấn đề phân kì văn hoá. Một số người không chấp nhận khái niệm này, một số khác sa lầy

(4) . Dựa vào phân kì nghệ thuật châu Âu, văn học châu Âu được phân chia thành các thời kỉ như “cổ điển”, “lãng mạn”, “baroque”, “hiện đại”, “hậu hiện đại” ...

trong vô vàn tiêu chí phân kì văn hoá châu Âu và thậm chí, chấp nhận cả việc “phân kì” những giai đoạn rất ngắn, chỉ kéo dài

(5) . Micah Matrix (2004), Periodization and Difference, New Literature History, Vol 35, No4, (Autumn 2004), tr. 686 (Phân Id và khác biệt)

(6) . James Parr (2001), A Modest Proposal: -

(Early Modem)

một thập kỉ. Tuy nhiên, cũng có những nhận định mang tính “dung hoà”. Xin được trích dẫn ở đây: “Mặc dù chúng ta gặp phải vô số những vấn đề khi đối diện với các quan điểm về phân kì, chúng ta không thể né tránh vấn đề này. Trên thực tế, một trong

to Borrowing That We Use Alternatives and . (Renaissance, Baroque, Golden Age) in Periodization, Leveling Hispania, Vol 84, No 3 (Sept 2001), tr. 406 (Một đề xuất khiêm tốn: Sử dụng việc vay mượn các thuật ngữ Phục hưng, Baroque, Ki nguyên vàng và thuật ngữ chỉ thời gian (Cận đại) trong phân kì).

(7) . Micah Matrix (2004), sdd, tr. 687.

những nguyên nhân mà chúng ta né tránh là do tính khái quát hoá của nó... Lịch sử là quá trình của những thay đổi, chúng ta phải xem xét bản chất của những thay đổi đó - về tăng trưởng, về sự đa dạng, về sự bất

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 67

(18) . Jerry H. Bentley (1992), sđd, tr. 756.

(8) . Stephanie Kuduk

(19) . Jerry H. Bentley (1992), sđd, tr. 75

(20) . D ln theo Alastair Fowler (1972), sđd,

(2003), Victorian Poetry as Victorian Studies, Victorian Poetry, Vol 41, No4, (2003), tr. 513 (Thơ ca thời Victoria như nghiên cứu về thời kì Victoria).

tr. 489.

(21) . D ln theo Alastair Fowler (1972), sđd,

tr. 489.

(9) . Theo Thomas Postlewait (1988), The Criteria for Periodization in Theatre History, Theatre Journal, Vol 40, No3, (1988), tr. 299 - 318 (Tiêu chí phân kì trong lịch sử sân khấu).

(22) . Thomas Postlewait (1988), sđd, tr. 305 -

306.

identity

(23) . Simon Franklin, Emma Widdis (2004), culture: an in Russian National introduction, Cambridge University Press, Cambridge, New York. (Diện mạo dân tộc trong văn hóa Nga - đề dẫn)

(10) . Xem Adolf Weber, "Prinzipielles zur Kultursoziologie," in Archiv fur Sozialwissenschaft, no. 47, 1921. Dẩn theo: Kaniowski (1999). A Diagnosis of the Crisis in European Culture the Antithesis of Culture and Civilization (Dự báo về khủng hoảng văn hoá châu Âu - phản đề về văn hoá văn minh/ Germany: Dialogue and Universalỉsm, Vol.9, Issue 5/6. Xem: Trần Thị Phương Hoa (2008), M ột số nét cơ bản về diện mạo, đặc trưng và vai trò của văn hoả châu Âu, Báo cáo đề tài cấp Bộ 2008).

(11) . D ln theo O’Hara, P.A. (2004) trong ‘Cultural Contradictions of Global Capitalism’ (Nghịch lí văn hoá của chủ nghĩa tư bản toàn cầu)/ Journal o f Economic Issues, Vol XXXVIII, No. 2, June.

(12) . Keyserling, Die neuentstehende Welt, Darmstadt, 1926, dẫn theo Kaniowski (1999), sđd, tr. 3.

(13) . Tác giả Nguyễn Xuân Kính cho rằng, trong nghiên cứu về phân kì có thể sử dụng một số các thuật ngữ như thời kì, giai đoạn hay kỉ nguyên.

(14) . Tham khảo English Oxford Dictionary,

3rd Edition (Từ điển Oxford, tái bàn lần thứ 3).

(24) . Dukhovnye tradỉtsỉỉ Russkoỉ kul’tury: ỉstorỉỉa ỉ sovremennost’: k 265-letiiu so dnỉa rozhdeniia G.R. Derzhavina: koỉỉektivnaia monografiia (2008)/ [nauchnyi redactor, N.L. Potanina], Tambov, Tambovskii gos. Universitet (Truyền thống tâm hồn của vãn hoá Nga: lịch sử và hiện tại); Literary tradition and practice in Russian culture: papers from an international conference on the occasion o f the seventieth birthday o f Yury Mikhailovich Lotman: Russian culture, structure and tradition/ 2 - 6 July 1992, Keele University, UK/ ed. Valentina Polukhina, Joe Andrew and Robert Reid, Amsterdam: Rodopi, 1993 (các bài viết được xuất bản bằng tiếng Nga và tiếng Anh trong hội thảo quốc tế kỉ niệm 70 năm ngày sinh của Y.M. Lotman: Truyền thống thực tiễn văn học trong văn hoá Nga); Volkov Solomon (2008), The magical chorus: a to history o f Russian culture from Tolstoy Solzhnitsyn! do Antonina w. Bouis dịch từ nguyên bản tiếng Nga, New York: Alfred A.Knopf (Dàn đồng ca kì diệu: lịch sử văn hoá Nga từ Tolstoy đến Solzhnitsyn).

(15) . Michel Bailey (2008), Review work: Stuart Clark. Vanities of the Eye: Vision in Early Modem European Culture. New York: Oxford University Press. 2007, The American Historical Review, Vol 113, No4, October 2008, p. 1102. (Đọc sách: Stuart Clark. Nghệ thuật hình ảnh ưong văn hoá châu Âu thời Cận đại).

(16) . William Green (1992), sđd, tr. 15.

(25) . Madness and the mad in Russian culture (2007)/ ed. By Angela Britlinger and Ilya Vinitsky, University of Toronto Press, Toronto (Sự điên khùng và những người điên trong văn hoá Nga).

(26) . Women in Russian culture and society, 1700 - 1825 (2007) ed. By Wendy Rosslyn and Alessandra Tosi, Palgrave Macmillan, New York (Phụ nữ trong văn hoá xã hội Nga).

(17) . Jerry H. Bentley (1996), Cross - Cultural Interaction and Periodization in World History, The American Historical Review, Vol. 101, No3 (June 1996), p. 752 (Tiếp biến văn hoá và phân kì lịch sử thế giới).

68___________ _______ ______________________ NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

(Tiếp theo trang 37)

(27) . Times o f trouble: violence in Russian literature and culture (2007), ed. By Marcus c. Levitt and Tatyana Novikov, University of Wisconsin Press, Madison (Những thời kì rắc rối: bạo lực trong vãn học và văn hoá Nga).

(28) . Reflective laughter: aspects o f humour in Russian culture (2004), ed. By Lesley Milne, Anthem Press, London (Cái cười mang tính phàn ánh: những khía cạnh hài hước trong văn hoá Nga).

các lăng khác với đặc trưng vòm mái cong - những yếu tố mềm mại, mỗi nhà bia ở lăng Phạm Đôn Nghị đều có cấu trúc như một long đình với bốn mái đá phẳng và góc cạnh. Mỗi đầu đao và hai đầu mái chạm khắc đầu rồng, phần trung khu chạm hình chữ “vạn”. Mặc dù các kiến trúc được thiết kế bằng các khối đá tảng lớn nhưng các nhà bia ở đây vẫn tạo được dáng vẻ thanh thoát. Phải chăng đã có sự chi phối của tâm thức Phật giáo trong kiến trúc lăng mộ ở đây.

(29) . Niilo Kauppi (2010), Radicalism in French culture: a sociology o f French theory in the 1960s- Public intellectuals and the sociology o f knowledge, Ashgate Publishing Company, England, USA, p. 1 (Chủ nghĩa cấp tiến trong văn hoá Pháp: một nghiên cửu xã hội học về lí thuyết Pháp trong thập ki 1960 - trí thức đại chúng và xã hội học tri thức).

(30) . Rhoda Bubendey Métraux & Margaret ỉn French culture: a Mead (2001), Themes preface to a study o f French Community, Berghahn Books (Những chủ đề trong văn hoá Pháp - mở đề cho một nghiên cứu về xã hội Pháp).

(31) . Rhoda Bubendey Métraux (2001), sđd,

XXV.

Qua khu lăng mộ và đền thờ, mộ Phạm Đôn Nghị nằm sau cùng, được bao bọc bởi những bức tường đá ong. Mộ phần của quận công Phạm Đôn Nghị được làm bằng đá tảng đặt ở giữa khu mộ, thấp thoáng dưới bóng những bụi cây. Mộ phần cũng chính là hình khối của kiến trúc kết hợp điêu khắc, nó như một đài tưởng niệm về người quá cố. Tuy công trình đã khởi xây từ thế kỉ XVIII, nhưng nhờ được bảo quản tốt, nên các nét chữ khắc trên mộ nhìn từ xa như hoa văn họa tiết vẫn còn sắc sảo. Trải

(32) . Printed images in early modern Britain: essays in interpretation (2010), ed. By Michael Hunter, Ashgate, Burlington (In hình ảnh ở nước Anh thời Cận đại)

bao thời gian, khu di tích lãng đá Phạm Đôn Nghị được xem là một quần thể kiến trúc điêu khắc đá hoành tráng, độc đáo thòi Lê - Trịnh còn tồn tại đến ngày nay.n

(33) . Paul Davis (2008), Translation and the po et’s life: the ethics o f translating in English culture, 1646 - 1726, Oxford University Press (Dịch thuật và đời sống của nhà thơ: về đạo đức dịch thuật trong văn hoá Anh, 1646 -1726).

Q.T.N.A

(34) . Paul Davis (2008), sđd, tr. 3 - 4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(35) . Donna Landry (2008), Noble brutes: how eastern horses transformed English culture, John Hopkins University Press (Những kè vũ phu quý tộc: giống ngựa châu Á đã thay đổi văn hoá Anh như thế nào).

1. Đặng Phong Lan (2003), Nghệ thuật điêu khắc lăng mộ thế ki XVII, XVIII ở Hiệp Hòa, Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ văn hóa học, Viện Nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.

(36) . Nguyễn Xuân Kính (2011), sđd, tr. 9.

2. Nguyễn Quân, Phan cẩm Thượng (1989),

M ĩ thuật của người Việt, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội.

(37) . Thế kỉ XVI và XVII ở châu Âu còn

được gọi là thời kì Cận đại (early modern).

3. Bảo tàng tinh Hà Tây, Hồ sơ di tích lăng

(38) . Thomas Postlewait (1988), sđd, ừ. 318.

Phạm Đôn Nghị.