Phân tích acid nucleic – Phân tích ADN
nhiễm sắc thể
Phương pháp phân tích đây bao gồm việc tách ADN của nhiễm sắc thể và
cắt bằng enzym cắt hạn chế để phân biệt giữa các vi sinh vật với nhau. Một chú ý
khi tách ADN nhim sắc thể phải thao c nhnhàng để tránh đứt gãy do nguyên
nhân cơ học. Nói chung các mảnh cắt nên kích thước nhỏ hơn hoặc bằng 50 kb.
Việc tách c mảnh cắt đó được thực hiện dựa vào kthuật điện di trong trường
xung điện (PFGE = Pulsed Field Gel Electrophoresis ).style="text-align: justify;
margin-top: 6.0pt"> Như vậy kỹ thuật dấu vân tay không cháp dụng trong
trường hợp trên tế bào mang plasmid mà kỹ thuật này còn được sử dụng với nhiễm
sắc thể cho mọi trường hợp.rường hợp.ường hợp.ường hợp.
Liên quan đến vấn đề này phải kể đến kỹ thuật BRENDA: phân tích kết quả
xenzym cắt hạn chế với vi sinh vật. đây cách chọn loại enzym cắt hạn chế
cùng quan trọng, theo cách chọn này th tạo ra quá nhiều mảnh cắt nên
không thphân biệt được các băng riêng rtrong khi đó đối với các trường hợp
khác lại tạo ra quá ít mảnh cắt kích thước lớn khó tách theo các kỹ thuật điện di
hiện có. Các vi sinh vật khác nhau tỷ lệ GC khác nhau (dao động từ 25-75%)
các mảnh cắt thu được sau khi xử enzym cắt hạn chế rất khác nhau. Theo Nei
M. và Li W. H. (1979) thì số mảnh cắt có thể thu được tính trên lý thuyết là:
a = (g/2)r1 x {1-(g/2)}r2
Trong đó: g - tỷ lệ GC của ADN
r1 - số cặp GC
r2 - số cặp AT trong vị trí cắt của enzym giới hạn sử dụng
a - svị trí cắt khi sử dụng enzym cắt hạn chế.
Mặt khác, người ta cũng căn cứ vào kết quả nghiên cứu các vị trí cắt của bộ
gene vi sinh vật m scho cách chọn enzym cắt. Thông thường cho mỗi phép
phân tích người ta ghi được số các băng cắt bởi enzym tính toán kích thước các
mảnh tạo thành m sở cho các phép phân tích về sau. Tuy nhiên, một trong
những nguyên nhân hạn chế cho phép phân tích trên các phương pháp tách
ADN thông thường đều dẫn đến thay đổi kích thước do đứt gãy ADN nhiễm sắc
thể, mặt khác sự mặt của plasmid lẫn cũng tạo ra sự khác biệt giả trong kết qu
phân tích, để khắc phục nhược điểm trên người ta phải thực hiện phép phân tích
ADN nhiễm sắc thể nguyên vẹn để phát hiện các nguồn ADN tạp nhiễm lẫn vào
kết quả phân tích.
+ Kthuật điện di trong trường xung điện (điện di trong trường điện thay
đổi, PFGE)
- Nguyên tắc: Trước tiên các mẫu đưa vào phân tích phải được xử trước
bằng loại enzym cắt hạn chế mà có rất ít điểm cắt. Kết quả phải tạo ra được các
mảnh kích thước lớn (50 kb 12 Mb), với kích thước này không thđiện di
theo phương pháp thông thường mà ch thể tách ra bằng kỹ thuật PFGE (ật
PFGE (ật PFGE (uật PFGE (Pulsed-Field Gel Electrophoresis ). Kthuật PFGE
lần đầu tiên được Schwartz va Cantor (1984) giới thiệu. Tuy nhiên sau đó đã có
nhiều tác giả tả lại kỹ thuật này, tuy sai khác ít nhiều nhưng sở thuyết
của các phương pháp này là như nhau: Mục đích của kỹ thuật này là tăng khả năng
di động của các mảnh ADN kích thước lớn trong điện trường, do đó các thành
phần gel và đệm hầu như không thay đổi theo các phương pháp điện di thông
thường. Tuy nhiên theo phương pháp thông thường thì sđiện di liên quan đến s
di động của c mảnh ADN kích thước khác nhau trên gel agarose trong một
trường điện không đổi. Kết quả đây là phân tlớn khó di động n phân tử nhỏ
qua mắt xích agarose, tạo ra sự tách biệt trong trường điện di. Trong trường hợp
PFGE lực làm thay đổi khả năng di động lại trường điện tích thay đổi liên tục
dẫn đến các mảnh ADN có kích thước khác nhau thay đổi hướng di động. Như vậy
kết quả là các mảnh kích thước khác nhau sẽ khả năng di động khác nhau.
Kích thước càng lớn thì mức độ di động càng chm. Sự di động khác nhau của
ADN ch yếu phụ thuộc vào kích thước chứ không phải do gel agarose như
phương pháp điện di thông thường, hình 1.2.
Hình 1.2. Sử dụng kỹ thuật PFGE phân tích nhiễm sắc thể
sau khi x lý vi Sma I với 7 chủng Haemophilus ìnluenzae.
Tiếp theo các mô tả của Schwartz va Cantor, Smith Codemine (1990) đã
đề cập đến sự di chuyển của các mảnh ADN khác nhau là hàm stuyến tính với
kích thước của chúng. Trên sở đó thể điều chỉnh các xung điện điện
trường. Tuy nhiên các nhân tkhác cũng mối tương c lẫn nhau và ảnh hưởng
đến khả năng di động của ADN như: nhiệt độ, điện thế, nồng độ agarose cũng như
nồng độ ion trong đệm.
- Chuẩn bị ADN cho PFGE: Chuẩn bị ADN tnhiễm sắc thkhông giống
như các phương pháp chuẩn bị ADN plasmid. Một vấn đề thường xảy ra là sđứt
gãy ngẫu nhiên ADN dẫn đến sai khác trong kết quả phân tích. Để hạn chế điều
này người ta phải thực hiện kỹ thuật tách ADN NST khỏi tế bào mẫu agarose
nhiệt độ nóng chảy thấp LMT (Schwartz va Cantor 1984 Smith, Klco
1988). Theo phương pháp này hỗn dịch tế bào (dịch nuôi cấy hoặc dịch huyền
phù) được trộn với LMT agarose tại 37oC. Hỗn dịch đầu tiên được xử với
enzym chất tẩy rửa để tách ADN NST khỏi thành, màng tế bào, RNA
protein. Sau đó xvới EDTA, bất hoạt nuclease tế bào với proteinase K và
N-lauroylsarcosine để loại các thành phần khác của tế bào. Kết quả là phần LMT
agarose chứa ADN NST được dùng m mẫu chạy gel 0.5-1.0% (nên m tan
65oC) và đưa lên mẫu chạy gel PFGE, tài liệu của Smith (1988) mô tả chi tiết cách
chuẩn bị mẫu tcác tế bào không thành tế bào: vi khuẩn, nấm men, nấm
sợi, tế bào thực vật động vật. Nói chung với các trường hợp thành tế bào thì
cần đến enzym phá thành tế bào. Lượng ADN NST thường dao động trong khoảng
0.5-20 µg ADN thích hợp. Nếu quá nhiều ADN thì không thphân tích được,
còn quá ít thì cũng không thể phát hiện được các băng ADN trong kết quả phân
tích. Mẫu ADN dùng cho k thuật PFGE thể được giữ 1 năm trong lạnh
chứa 0.5M EDTA.
- Sau khi thu được ADN NST trong mẫu LMT agarose thì tiến hành x
với enzym giới hạn loại ít điểm cắt. Tuy nhiên mẫu đầu tiên phải được xử
với PMSF để bất hoạt protein K sau đó PMSF lại phải loại bỏ sau một số lần rửa
với chất tẩy rửa EDTA. Sau đó chỉ cần phân nhỏ mẫu trong agarose được xử