ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------------

NGUYỄN THÀNH CÔNG

PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------------

NGUYỄN THÀNH CÔNG

PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số:60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Hồng Tiến

HÀ NỘI - 2012

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CN: Công nghiệp.

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

DDI: Vốn đầu tư trong nước.

DN: Doanh nghiệp.

FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

GDP: Tổng thu nhập quốc nội.

GPMB: Giải phóng mặt bằng.

GTSXCN: Giá trị sản xuất công nghiệp.

KCN, KCX: Khu công nghiệp, khu chế xuất.

KCNC: Khu công nghệ cao.

UBND: Ủy ban nhân dân.

USD: Đô la Mỹ

DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG TRANG TT

Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- Bảng 2.1 34 2010

Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Bảng 2.2 39 Phúc

Các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã được Chính phủ phê Bảng 2.3 43 duyệt

Bảng 2.4 Tỷ lệ lấp đầy các KCN tính theo năm, 2005-2011 47

Tỷ lệ lấp đầy tính theo các KCN đang hoạt động, năm Bảng 2.5 50 2011

Nguồn vốn đầu tư vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân Bảng 2.6 52 theo KCN tính đến 2010

Số dự án và số vốn đầu tư tại các KCN Vĩnh Phúc từ Bảng 2.7 53 1998-Quý I/2010

Dự án FDI đầu tư vào KCN phân theo quốc gia và Bảng 2.8 54 vùng lãnh thổ

GTSXCN của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Bảng 2.9 54 từ 2005-2010

Bảng 2.10 Giá trị xuất khẩu của các KCN 55

Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Bảng 2.11 56 Phúc

Cơ cầu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997- Bảng 2.12 61 2010

Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc Bảng 3.1 80 đến năm 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 3

2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ............................................ 8

7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 8

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ

PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP .......................................................... 9

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển khu công nghiệp .......................................... 9

1.1.1. Khu công nghiệp và vai trò của khu công nghiệp ........................... 9

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN ...... 17

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN ................................ 23

1.2. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN ..................... 26

1.2.1. Kinh nghiệm của một số địa phương ............................................. 26

1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Vĩnh Phúc ............................................. 31

Kết luận chương 1 ......................................................................................... 33

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC ......................................................... 34

2.1. Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển khu công nghiệp

ở Vĩnh Phúc ................................................................................................ 34

2.1.1. Những thuận lợi ............................................................................. 34

2.1.2. Những khó khăn ............................................................................ 39

2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ............... 41

2.2.1. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc .......... 41

1

2.2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ........ 45

2.2.3. Đánh giá chung về vai trò của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc .............. 67

Kết luận chương 2 ......................................................................................... 75

Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ..... 77

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC ......................................................... 77

3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển các KCN ở

tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................. 77

3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp .......................................... 77

3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 ........ 79

3.1.3. Định hướng phát triển các KCN ở Vĩnh Phúc ............................... 81

3.2. Các giải pháp phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ................. 83

3.2.1 Giải pháp về công tác quy hoạch phát triển KCN .......................... 83

3.2.3. Hoàn thiện một số cơ chế chính sách về thu hút đầu tư ................ 89

3.2.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại ........................... 93

3.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và

cho thuê đất trong xây dựng khu công nghiệp ........................................ 96

3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các khu công nghiệp ..... 99

3.2.7. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư

khu công nghiệp. ................................................................................... 102

3.2.8. Giải quyết tốt vấn đề môi trường ................................................. 103

3.3. Kiến nghị và đề xuất ........................................................................... 107

3.3.1. Đối với UBND tỉnh Vĩnh Phúc .................................................. 107

3.3.2. Đối với Chính phủ ....................................................................... 108

Kết luận chương 3 ....................................................................................... 109

KẾT LUẬN .................................................................................................. 110

2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 112

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa

ngõ của thủ đô Hà Nội và cũng là cửa ngõ nối các tỉnh khu vực Tây Bắc với

thủ đô Hà Nội. Là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên và vị

trí địa lý, thuận lợi cho việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp (KCN)

nói riêng và phát triển công nghiệp nói chung. Xây dựng và phát triển các

KCN là một trong những quyết sách trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Vĩnh Phúc.

Trong thời gian qua các KCN trên địa bàn tỉnh đã trở thành điểm đến

của các nhà đầu tư, góp phần quan trọng vào việc phân công lại lao động xã

hội phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hoàn thành mục tiêu phát

triển kinh tế xã hội của tỉnh. Việc phát triển các KCN cũng là điều kiện cho

việc hình thành các khu đô thị mới và khu du lịch, phát triển các ngành công

nghiệp phụ trợ, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, xây dựng kết

cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho tỉnh nhà.

Với phương châm “Tất cả các nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều là công

dân Vĩnh Phúc - Thành công của doanh nghiệp chính là thành công và niềm

tự hào của tỉnh”, Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng trong thu hút đầu tư, nhờ đó

mà tỉnh đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, là điểm đến

tin cậy và hấp dẫn của các nhà đầu tư, thúc đẩy công nghiệp Vĩnh Phúc phát

triển mạnh, nằm trong tốp đứng đầu cả nước về phát triển công nghiệp nói

chung và phát triển các KCN nói riêng.

Năm 2011, Vĩnh Phúc thu hút được 70 dự án mới, gồm 59 dự án DDI

3

với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2.230 tỷ đồng và 11 dự án FDI mới với tổng

vốn đầu tư gần 108 triệu USD. Lũy kế đến hết tháng 7 năm 2012, trên địa bàn

tỉnh có 630 dự án, trong đó 119 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký là 2.412,85

triệu USD; vốn thực hiện ước đạt 45 % tổng vốn đăng ký và 511 dự án DDI,

với tổng vốn đầu tư đăng ký là 25.231,54 tỷ đồng; vốn thực hiện ước đạt

47,36 % tổng vốn đăng ký. Trong đó, các dự án, đặc biệt là các dự án FDI tập

trung chủ yếu ở các khu công nghiệp của tỉnh. [9]

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn đó, việc phát triển các khu

công nghiệp cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém: tỷ trọng đóng góp của KCN

vào phát triển kinh tế xã hội còn khiêm tốn; chất lượng quy hoạch và quản lý

triển khai xây dựng theo quy hoạch chưa cao; việc triển khai đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và còn chậm; sức thu hút của các dự án vào

KCN còn hạn chế, chưa có nhiều dự án công nghệ cao; còn nhiều bất cập

trong giải quyết các vấn đề bức xúc của KCN: việc làm và thu nhập cho người

dân mất đất do phát triển KCN, vấn đề đời sống của công nhân KCN và nhân

dân xung quanh KCN, đặc biệt là vấn đề môi trường sinh thái...Những khó

khăn, bất cập đó đã và đang là những lực cản làm cho các KCN chưa phát huy

tốt vai trò khu kinh tế động lực đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế xã

hội trên địa bàn tỉnh.

Trước những vấn đề đó, cần phải có những nghiên cứu lý luận và đánh

giá thực tiễn về sự phát triển KCN. Đưa ra các giải pháp phát triển các KCN

một cách cân bằng và hợp lý, không chỉ phát triển về số lượng mà cả về chất

lượng của các KCN; phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN.

Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Phát triển các

khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sỹ

4

kinh tế chính trị.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Phát triển các KCN luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở

các địa phương và trong cả nước. Do đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu,

luận án, luận văn và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.

“Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về KCN, KCX ở Việt Nam”

(2002) - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nghiên cứu

kinh nghiệm quản lý của các KCN, KCX của nước ngoài, đánh giá những

mặt tốt và những hạn chế của mô hình hiện đại đang áp dụng vào Việt Nam,

trên cơ sở đó đề xuất một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả

quản lý các KCN, KCX ở Việt Nam.

“Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước,

bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX” (2004), của tiến sỹ Trương Thị Minh

Sâm đánh giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các

KCN, KCX vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra và đề

ra một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với

các KCN, KCX.

Năm 2004, cả nước đã có 6 hội thảo về phát triển KCN, KCX; trong đó

có hội thảo với chủ đề “Phát triển các KCN, KCX ở các tỉnh phía Bắc -

những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với

Tạp chí cộng sản và UBND tỉnh Thanh Hoá tổ chức, các bài viết đã đề cập

đến các vấn đề như vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của Đảng và

Nhà nước về phát triển các KCN, KCX; một số vấn đề lý luận về KCN, KCX;

công tác quy hoạch phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến sự

kém phát triển của các KCN phía Bắc so với phía Nam...

Tháng 7/2006, nhân kỷ niệm 15 năm xây dựng các KCN, KCX, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư đã tổ chức “Hội nghị - hội thảo quốc gia 15 năm xây dựng

5

và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam” tại Long An nhằm nhìn nhận lại

những thành tựu đạt được, những hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát

triển KCN, kiến nghị phương hướng và giải pháp phát triển KCN, KCX ở

Việt Nam.

“Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới” (2004) của

GS, TS Nguyễn Văn Thường, tác giả đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề phát

triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong đó có những phân tích

sâu sắc về vấn đề phát triển các KCN, KCX, khu kinh tế với vai trò đầu tàu

trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.

Nhiều luận án, luận văn cũng đã đề cập đến vấn đề phát triển KCN:

Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối

với các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: qua thực tiễn các KCN

phía Bắc” (1996) của tác giả Lê Hồng Yến, Trường Đại học Thương mại. Tác

giả đã đi vào phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với cá KCN Việt Nam

thông qua thực tiễn nghiên cứu, khảo sát các KCN phía Bắc, đề ra các giải

pháp nhằm hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối với các KCN

ở Việt Nam.

Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hiệu quả kinh tế xã hội của các KCN thành

phố Hà Nội” (2006) của tác giả Nguyễn Duy Cường, Học viện CTQGHCM.

Tác giả đi sâu phân tích chủ yếu những đóng góp tích cực của các KCN thành

phố Hà Nội vào sự phát triển kinh tế xã hội, đề ra những giải pháp để thúc đẩy

sự phát triển các KCN, tăng khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã

hội cho Hà Nội.

Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các tác giả trên các tạp chí chuyên

ngành cũng đề cập đến vấn đề này: Ngô Thế Bắc (2001) “KCN, KCX ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 3; Phan Tiến Ngọc (2006) “Vai

trò của KCN, KCX với phát triển kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh

6

tế, số 341; Đinh Hữu Quý (2006) “Mô hình khu kinh tế đặc biệt trong điều

kiện hội nhập”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 403; Phương Ngọc Thạch

(2006) “Các chính sách tác động không thuận lợi đến phát triển các KCN”,

Tạp chí Phát triển kinh tế, số 188; Đặng Văn Thắng (2006) “Nâng cao chất

lượng quy hoạch KCN – Bài học thực tiễn và những quan điểm định hướng”,

Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 397...

Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý

luận và thực tiễn về phát triển KCN trên bình diện của cả nước hoặc các địa

phương khác, đi sâu vào một vấn đề cụ thể để đánh giá. Chưa có những phân

tích, đánh giá toàn diện về phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc,

trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN một cách

cân bằng và hợp lý, không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng; phát huy

những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế của việc phát triển các KCN

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn thực hiện các

nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Phân tích những cơ sở lý luận về phát triển khu công nghiệp, đồng

thời tham khảo kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN.

- Đánh giá thực trạng phát triển các KCN hiện nay tại tỉnh Vĩnh Phúc.

- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu

7

Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian nghiên cứu: nghiên cứu các KCN trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc.

- Về thời gian nghiên cứu: từ khi xây dựng và phát triển các KCN của

tỉnh Vĩnh Phúc (từ 1998 đến nay).

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Luận văn kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả, đồng

thời quán triệt các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong các Văn

kiện Đại hội; các quan điểm, chủ trương, chính sách của tỉnh Vĩnh Phúc trong

phát triển các KCN.

- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế,

trong đó chú trọng đến các phương pháp: Phương pháp duy vật biện chứng;

phương pháp lôgic - lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp

thống kê, so sánh...

6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn luận giải một cách có hệ thống thực trạng phát triển các

KCN của tỉnh Vĩnh Phúc.

- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc.

- Luận văn được bảo vệ thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo

cho các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan hoạch định chính sách của

tỉnh Vĩnh Phúc về phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn

có kết cấu gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển khu công nghiệp.

- Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc. - Chương 3: Giải pháp phát triển các khu công nghiệp trên

8

địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.1. Khu công nghiệp và vai trò của khu công nghiệp

1.1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp

KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển vào

những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XX. Năm 1896, KCN đầu tiên được

thành lập ở Manchester (Anh) và vùng CN Clearing Chicago (Mỹ). Năm

1904, Ý thành lập KCN ở Napoli... và sau những năm 50 của thế kỉ XX thì sự

phát triển các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Như vậy, lịch sử hình thành và phát

triển các KCN trên thế giới đã có hơn 100 năm.

Ở Việt Nam, KCN đầu tiên được thành lập ở thành phố Hồ Chí Minh

(KCX Tân Thuận), cùng với quá trình 20 năm hình thành và phát triển cũng

đã xuất hiện nhiều khái niệm khác nhau về KCN.

- Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định

36/CP của Chính phủ ngày 24/4/1997, thì:

+ KCN là khu tập trung các DN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và

thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định,

không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết

định thành lập. Trong KCN có khu chế xuất.

+ KCX là KCN tập trung các DN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực

hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có danh

giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ

tướng chính phủ quyết định thành lập.

+ KCNC là khu tập trung các DN CN kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt

9

động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao gồm nghiên cứu, triển khai

khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có danh giới địa lý xác

định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong

KCNC có thể có DN chế xuất.

- Theo Luật đầu tư năm 2005, khoản 20, 21, 22, 23 điều 3 ghi rõ:

+ KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch

vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, được thành lập

theo quy định của Chính phủ.

+ KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ

cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có danh giới địa lý xác

định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.

+ Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng

công nghệ cao, ươm tạo DN công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao,

sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có danh giới địa lý xác định,

được thành lập theo quy định của Chính phủ.

- Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định:

+ KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch

vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo

điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.

+ KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện

dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa

lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với

khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.

Từ các khái niệm trên và thực tế quá trình phát triển KCN ở Việt Nam,

có thể hiểu một cách tổng quát về KCN như sau: "KCN là khu chuyên sản

xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có

danh giới địa lý xác định, có kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội đồng bộ, đảm

10

bảo cho sản xuất kinh doanh và đời sống của người lao động, được thành lập

theo quy định của chính phủ. Trong KCN có thể có DN chế xuất và DN công

nghệ cao."

1.1.1.2. Phân loại các KCN

Tuỳ theo góc độ tiếp cận khác nhau, có thể phân loại KCN như sau:

- Theo tính chất ngành nghề:

Theo tiêu chí này thì KCN được chia thành 3 loại: KCN chuyên ngành,

KCN đa ngành, KCN sinh thái.

+ KCN chuyên ngành: gồm các xí nghiệp công nghiệp cùng ngành

nghề hoặc từ một số ít ngành nghề khác nhau nhưng cùng sản xuất ra một số

loại sản phẩm, chủ yếu từ các ngành chủ đạo như: hoá chất - hoá dầu, điện tử

- tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ khí.

+ KCN đa ngành: gồm các xí nghiệp thuộc nhiều ngành công nghiệp

khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn được yêu cầu về lãnh thổ cho

sản xuất công nghiệp, song trong quy hoạch xây dựng cần chú ý vấn đề môi

trường nhằm hạn chế tác động xấu giữa các DN với nhau.

+ KCN sinh thái: là mô hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các

ngành công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với

nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững. Với

mô hình này thì phế liệu của nhà máy này có thể làm nguyên liệu cho nhà

máy kia hoặc sản phẩm của nhà máy này sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà

máy kia...

- Theo quy mô diện tích:

Phân loại theo tiêu chí này, phụ thuộc vào quan điểm của từng nước,

chủ yếu để phục vụ cho việc xếp hạng KCN. Thông thường có 4 loại là: KCN

nhỏ, trung bình, lớn và rất lớn.

11

- Theo các điều kiện hình thành:

Theo cách phân loại này có: các KCN thành lập mới, KCN nâng cấp

mở rộng và KCN di dời tập trung.

- Theo đặc điểm và cấp quản lý:

Theo tiêu chí này có 3 loại: KCN do chính phủ thành lập; KCN do UBND

tỉnh, thành phố quyết định thành lập; KCN do UBND huyện, thị quyết định

thành lập.

1.1.1.3. Đặc điểm của khu công nghiệp

Hiện nay, các KCN được phát triển ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là

các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm,

phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nhìn chung các KCN có các đặc

điểm chủ yếu sau:

- KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp, luôn gắn liền

phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô

thị, phân bố dân cư hợp lý.

- KCN có chính sách kinh tế đặc thù và ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư

nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn. KCN cho phép các

doanh nghiệp sử dụng những phạm vi đất đai nhất định bên trong KCN để

thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với nhiều ưu đãi

như: thủ tục hành chính, giá thuê đất...

- Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung và thu hút các DN sản

xuất công nghiệp và các DN cung cấp các dịch vụ gắn liền với hoạt động sản

xuất công nghiệp gọi chung là DN Khu công nghiệp.

- Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ

tầng với những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: hệ

thống đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc, xử lý rác thải... Nguồn vốn xây

dựng cơ sở hạ tầng thường do chính phủ bỏ ra để san lấp mặt bằng, làm

12

đường giao thông... Trong trường hợp nhà nước không đủ vốn đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng thì nhà nước có thể kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và

trong nước. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN thường do một công ty

phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Các công ty này có thể là DN trong nước,

DN 100% vốn nước ngoài, DN liên doanh thực hiện. Các công ty phát triển

cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các DN

khác thuê lại.

- Về tổ chức quản lý: trên thực tế thì các KCN đều thành lập hệ thống

Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực

hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong

KCN. Ngoài Ban quản lý các KCN, tham gia quản lý tại các KCN còn có

nhiều Bộ, Ngành: UBND tỉnh, thành phố; Bộ Kế hoạch đầu tư; Bộ Công

thương; Bộ Xây dựng; Bộ Tài nguyên môi trường...

- Sản phẩm của các doanh nghiệp KCN chủ yếu dành cho thị trường thế

giới và phục vụ xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều

doanh nghiệp KCN sản xuất kinh doanh nhằm phục vụ thị trường nội địa.

- Mọi hoạt động trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị

trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh tế

trong KCN đều lấy điều tiết của thị trường làm chính.

- KCN có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn tách biệt như

KCX. Các chế độ quản lý hành chính, các quy định trong nội bộ KCN và với

các DN ngoài KCN sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong KCN sẽ là hoạt động

của các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước với các điều

kiện bình đẳng.

- KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và

nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song. DN có vốn đầu tư

nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, DN 100% vốn

13

nước ngoài, DN liên doanh và DN 100% vốn trong nước.

1.1.1.4. Vai trò của khu công nghiệp

Ở hầu hết các nước đang phát triển, KCN đã và đang trở thành mô hình

phát triển kinh tế quan trọng. Ở nước ta, trải qua một thời gian xây dựng và

phát triển, các KCN từng bước khẳng định được vị trí, tầm quan trọng, trở

thành một động lực to lớn trong tiến trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế

quốc tế. Vai trò của KCN thể hiện ở những nội dung sau:

Thứ nhất, KCN tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Giống như

các nước đang phát triển khác, Việt Nam rất cần vốn, kỹ thuật, thị trường và

kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp công nghiệp. Song, môi trường kinh doanh

tổng thể của đất nước chưa đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư như: điều kiện kết

cấu hạ tầng, lao động có tay nghề cao, chất lượng quản lý hành chính. Nếu

chờ đầu tư để cải thiện môi trường chung thì vừa lâu vừa không khả thi vì

nguồn lực trong nước cũng như khả năng hấp thu vốn của nền kinh tế còn

thấp. Vì vậy, việc xây dựng các KCN là con đường thu hút đầu tư nhanh nhất.

Bởi vì, trong những danh giới xác định của KCN, nhà nước có thể tập trung

nguồn lực của mình nhằm tạo ra kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tạo điều

kiện giảm bớt chi phí, rủi ro ban đầu cho nhà đầu tư. Do đó, các doanh nghiệp

KCN có điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu lợi nhuận hơn bên ngoài KCN

nên KCN dễ hấp dẫn nhà đầu tư hơn, từ đó khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư

vào KCN. Nhà nước có thể thi hành những hệ thống ưu đãi có chọn lựa khác

nhau để thu hút các nhà đầu tư trong khi chưa cải cách ngay được hệ chính

sách chung.

Thứ hai, KCN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển

dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.

KCN với đặc trưng là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ

cho sản xuất công nghiệp. Một mặt, nó chuyển những vùng đất sản xuất nông

14

nghiệp không hiệu quả sang xây dựng KCN để chuyển đổi sang sản xuất công

nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặt khác, sự phát triển các KCN

kéo theo sự phát triển của các khu đô thị mới, các ngành dịch vụ phát triển

như: thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, cơ

cấu GDP của nền kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ

trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần giá trị tỷ trọng ngành

nông nghiệp. Chính từ sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tại khu vực hình

thành KCN, nó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động địa phương theo

hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và tăng tỷ trọng

lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Kết quả của quá trình này sẽ

góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương, là cơ sở để cải thiện và

nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân địa phương.

Thứ ba, KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng

có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến, hiện đại hoá cách

thức quản lý. Việc hình thành các KCN sẽ tạo ra những tiền đề cho phép tiếp

nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại hoá cách thức

quản lý một cách nhanh chóng và hiệu quả. Cùng với dòng vốn lớn đầu tư vào

các KCN, các nhà đầu tư còn đưa những thành tựu khoa học công nghệ hiện

đại và trình độ quản lý tiến tiến vào sản xuất, từ đó dẫn đến việc tiếp nhận,

chuyển giao và đưa những công nghệ tiên tiến vào nước tiếp nhận đầu tư.

Thứ tư, KCN góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Các

KCN là nơi thu hút được nhiều lao động hoạt động trong các doanh nghiệp và

trong các lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy mỗi KCN với diện tích

khoảng 100 - 150 ha, khi đã được lấp đầy toàn bộ diện tích sẽ cần số lượng

lao động lên đến 15.000 - 18.000 lao động làm việc trong các nhà máy, xí

nghiệp trong KCN. Tính đến tháng 9/2012, các KCN trên cả nước đã thu hút

15

được 1,6 triệu lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp, góp phần

tăng thu nhập đáng kể cho các lao động địa phương có KCN, ổn định và nâng

cao đời sống người dân, chất lượng nguồn lao động từng bước được nâng lên

thông qua tiếp cận công nghệ sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến hiện đại.

Trong thực tế những năm gần đây cho thấy hầu hết các KCN đều phải

tuyển thêm rất nhiều lao động ở các địa phương khác mới đáp ứng được nhu

cầu nguồn lao động ở các KCN. Như vậy, các KCN không chỉ giải quyết việc

làm cho lao động địa phương mà còn tạo việc làm cho các địa phương khác.

Thứ năm, KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường trong quá trình

phát triển công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp ở thành phố và khu vực dân

cư hiện đại không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào

KCN, đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn khu dân

cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động

bất lợi của sản xuất công nghiệp như: tiếng ồn, khói bụi, bức xạ... Mặt khác,

với sự tập trung của các DN sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định,

Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các DN

để có giải pháp thích hợp. Đồng thời về phía mình các DN công nghiệp cũng

có điều kiện phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí thấp nhất do sử

dụng lại phế thải của nhau, do có sự liên kết xử lý môi trường và sự hỗ trợ tập

trung của nhà nước. Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong

xử lý vấn đề môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN các DN phải có

hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Từng

KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư xây dựng

song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy, việc bảo

vệ môi trường trong khu vực KCN được thực hiện tốt hơn các cơ sở công

nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau.

Thứ sáu, Phát triển KCN còn là giải pháp hữu hiệu để hiện đại hoá hệ

16

thống kết cấu hạ tầng. Cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về hạ

tầng kỹ thuật trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ

gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong

vùng. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự

phát triển kinh tế địa phương. Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và

ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng

cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình

thành các ngành công nghiệp phụ trợ, các loại hình dịch vụ...các công trình hạ

tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như:

nhà ở, trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... tạo nên sự đồng bộ trong

kết cấu hạ tầng KCN.

Ngoài những vai trò cơ bản trên, KCN còn góp phần to lớn trong việc

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra cơ chế quản lý và mô

hình quản lý mới, tạo tiền đề trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế

giới, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế và ổn định thị

trường ngoại hối. KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa

phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ, mà còn có tác dụng lan toả

rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế của địa phương

và của cả nước, thực hiện tốt vai trò của khu kinh tế động lực.

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN như:

công tác quy hoạch; công tác triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng KCN; chính

sách thu hút đầu tư; chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; quá trình

triển khai và thực hiện dự án của nhà đầu tư; công tác quản lý nhà nước đối

với các KCN; sự phát triển của các loại hình dịch vụ phục vụ KCN; hiệu quả

hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN; trình độ khoa học công nghệ của

các DN trong KCN; công tác quản lý và bảo vệ môi trường...

17

Các nhân tố trên đều xuất phát từ 2 đối tượng chính, đó là:

- Các cơ quan quản lý nhà nước: là các nhân tố liên quan đến công tác

quy hoạch, hoạch định chính sách phát triển, quản lý KCN.

- Các doanh nghiệp KCN: (bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư xây dựng

và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN) là các nhân tố liên quan đến triển khai

xây dựng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh...

1.1.2.1. Nhóm các nhân tố thuộc về cơ quan quản lý nhà nước

- Công tác quy hoạch KCN:

Thực hiên tốt công tác lập quy hoạch các KCN có tác động rất lớn đến

quá trình phát triển của KCN, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của

KCN trong quá trình phát triển KT - XH địa phương.

Trong công tác quy hoạch thì yếu tố quan trọng nhất chính là xem xét

việc lựa chọn vị trí đặt KCN sao cho KCN vừa có khả năng thu hút đầu tư cao

(có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông và kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ sinh

hoạt), vừa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của địa

phương, của vùng, của đất nước đảm bảo tác dụng lan toả, kích thích sự phát

triển KT - XH của địa phương, của vùng, của đất nước, không ảnh hưởng đến

sự phát triển của các ngành khác, đặc biệt là vấn đề an ninh lương thực.

Trong công tác quy hoạch cần chú ý việc gắn kết chặt chẽ quy hoạch

xây dựng KCN với quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dịch vụ đảm bảo giải

quyết nhà ở, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động thông

qua các dịch vụ: khám chữa bệnh, đầu tư xây dựng trường học, khu vui chơi

giải trí, trung tâm thương mại, đồng thời tạo việc làm nâng cao thu nhập của

nhân dân khu vực có đất bị thu hồi để xây dựng KCN.

Để thực hiện tốt công tác quy hoạch KCN, các cơ quan quản lý nhà

nước cần phải có định hướng đúng đắn, xác định rõ mục tiêu hình thành

18

KCN, có sự thống nhất quan điểm, nhận thức về KCN và việc hình thành

KCN. Nếu không sẽ dẫn đến những quan điểm, nhận thức sai lệch, từ đó dẫn

đến những sai lầm trong thực hiện công tác quy hoạch KCN.

Việc sai sót trong quy hoạch KCN gây ra những tổn thất và ảnh hưởng

lớn đến quá trình phát triển KT - XH của địa phương: Sai sót trong công tác

lập quy hoạch KCN sẽ dẫn đến tình trạng quy hoạch treo (chậm triển khai

hoặc không triển khai được); gây lãng phí nguồn lực đầu tư: vốn, tài nguyên

đất; gây ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành khác: nông nghiệp, giao

thông, văn hoá, du lịch... Điều đó đồng nghĩa với sự không hiệu quả của KCN

và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững KCN.

- Các chính sách phát triển KCN:

Trong phát triển KCN thì việc xây dựng các chính sách đối với KCN có

ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển

KCN, đặc biệt là việc phát triển nội tại KCN.

Các chính sách phát triển KCN bao gồm: chính sách ưu đãi đầu tư;

chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chính sách thu hút, xúc tiến

đầu tư, thực hiện các thủ tục hành chính; chính sách phát triển các loại hình

dịch vụ phục vụ KCN. Các chính sách hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế -

chính trị của đất nước, của địa phương, đảm bảo các thông lệ quốc tế, thì sẽ:

+ Tạo thuận lợi cho các DN nâng cao khả năng huy động các nguồn

vốn hợp pháp, hoàn thiện các thủ tục pháp lý để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại và thực hiện dự án theo

đúng tiến độ đặt ra, tránh gây lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực: vốn,

đất đai... trong quá trình đầu tư xây dựng; giải quyết tốt vấn đề gây ô nhiễm

môi trường từ hoạt động KCN.

+ Nâng cao khả năng thu hút đầu tư, thu hút những dự án đầu tư có

19

hiệu quả KT - XH cao, nhanh chóng lấp đầy KCN.

+ Kích thích nhà đầu tư đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh; đầu

tư mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh; đầu tư phát triển khoa

học công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong sản xuất nâng cao

năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh của DN, nâng cao

hiệu quả hoạt động của DN và của KCN.

+ Cung cấp nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp

ứng yêu cầu hoạt động sản xuất của DN; hỗ trợ cung cấp các dịch vụ phục vụ

đầu tư, sản xuất; giải quyết những vấn đề xã hội: nhà ở, khám chữa bệnh,

trường học, vui chơi giải trí, việc làm... tạo nên sự yên tâm và ổn định trong

hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất

kinh doanh của DN và của KCN.

Ngược lại, các chính sách không phù hợp sẽ không kích thích được

hoạt động đầu tư; không thu hút được các nhà đầu tư vào KCN hoặc thu hút

các nhà đầu tư không đủ năng lực, những dự án không hiệu quả gây nên sự

lãng phí tài nguyên đất; thu hút những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu gây

ảnh hưởng xấu đến môi trường và tạo nên nguy cơ biến KCN thành bãi thải

công nghệ lạc hậu; gây nên sự mất ổn định về trật tự xã hội...

Như vậy, các chính sách phù hợp sẽ đẩy mạnh sự phát triển nội tại

KCN theo hướng bền vững và ngược lại. Tuy nhiên, bên cạnh việc xây dựng

các chính sách đúng đắn và hợp lý thì việc tổ chức thực hiện hiệu quả các

chính sách trên có ý nghĩa quyết đinh, thúc đẩy sự phát triển của KCN.

- Công tác quản lý nhà nước đối với việc triển khai đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng; triển khai thực hiện dự án và tổ chức sản xuất kinh doanh của

các DN trong KCN:

Quản lý tốt việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo việc thực

hiện đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch KCN đã được duyệt, đảm bảo hạ

20

tầng kỹ thuật KCN được xây dựng đồng bộ, đúng tiến độ, trên quan điểm sử

dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đảm bảo nâng cao khả năng thu hút đầu

tư, yêu cầu cảu các DN đầu tư vào KCN, không gây ảnh hưởng đến hoạt động

sản xuất nông nghiệp, giải quyết tốt các nhân tố có thể gây tổn hại đến môi

trường, nâng cao khả năng cải thiện môi trường sinh thái. Nếu không thực

hiện tốt công tác quản lý sẽ gây ra tình trạng quy hoạch KCN bị phá vỡ, chậm

triển khai đầu tư xây dựng hoặc đầu tư không đồng bộ gây lãng phí vốn, đất

đai và không giải quyết tốt các vấn đề về môi trường sinh thái.

Đồng thời quá trình quản lý triển khai dự án và tổ chức sản xuất kinh

doanh của các DN KCN sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước rà soát, loại bỏ

những DN không thực sự đủ năng lực đầu tư, những dự án hoạt động không

hiệu quả, thay thế bằng những dự án, nhà đầu tư có hiệu quả hơn góp phần

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN, nhằm đạt được sự tăng

trưởng cao của các DN và của KCN, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực

đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực: đất đai, vốn, lao động...

Việc thiếu chặt chẽ trong quản lý triển khai dự án và tổ chức sản xuất

kinh doanh của các DN sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí tài nguyên đất, đình trệ

sản xuất, đặc biệt là việc không triển khai đầu tư các hạng mục xử lý môi

trường và xuất hiện tình trạng đầu cơ đất KCN.

1.1.2.2. Nhóm các nhân tố thuộc về các doanh nghiệp KCN

- Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của DN đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng và triển khai dự án của các DN đầu tư vào KCN:

Nhân tố này có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo phát triển

KCN. Việc triển khai xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ nâng cao

hình ảnh của KCN trong thu hút đầu tư, đẩy nhanh quá trình lấp đầy KCN.

Đảm bảo có sự kết nối đồng bộ với hệ thống hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào

KCN, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của nhà đầu tư trong việc triển khai dự

21

án, tổ chức sản xuất kinh doanh, phục vụ nhu cầu về đời sống vật chất và tinh

thần của người lao động. Xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất

thải, nước thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động của KCN.

Việc triển khai đầu tư của các doanh nghiệp KCN đảm bảo đưa dự án

đầu tư vào hoạt động đúng tiến độ, tiết kiệm các nguồn lực đầu tư, tạo công

ăn việc làm cho người lao động, góp phần phát triển các loại hình dịch vụ

phục vụ sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh

nghiệp và của KCN.

Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng không đồng bộ và chậm triển

khai dự án của các nhà đầu tư vào KCN sẽ dẫn đến việc sử dụng lãng phí các

nguồn lực đầu tư, nảy sinh tình trạng "sa mạc hoá" do không có doanh nghiệp

đầu tư; không đảm bảo đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất của các doanh

nghiệp KCN, tạo nên các yếu tố ảnh hưởng xấu đến môi trường.

- Nhân tố trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp KCN:

Trình độ khoa học, công nghệ áp dụng trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp KCN ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất và

khả năng phát triển của KCN. Việc đầu tư công nghệ hiện đại phục vụ sản

xuất sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng

cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của DN,

đồng thời giảm thiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường, đảm bảo

cho DN phát triển nhanh chóng.

Nếu trình độ khoa học công nghệ lạc hậu trong sản xuất sẽ có tác dụng

ngược lại. Cùng với việc gây lãng phí nguồn lực sản xuất, chất lượng sản phẩm

và khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp kém, gây ảnh hưởng đến môi trường.

Các nhân tố trên đều thuộc các DN đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và

các DN đầu tư vào KCN. Việc thực hiện đầu tư hạ tầng đồng bộ, hiện đại;

việc triển khai dự án đúng tiến độ của các DN; yêu cầu đặt ra là các DN phải

22

có đủ năng lực tài chính, khả năng huy động các nguồn vốn để đầu tư một

cách có hiệu quả. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ các DN trong việc huy

động các nguồn vốn để thực hiện đầu tư. Đồng thời cần có sự kiểm soát chặt

chẽ của cơ quan quản lý nhà nước để hạn chế những mặt tiêu cực.

Qua phân tích trên cho thấy, mỗi nhân tố đều có những ảnh hưởng tích

cực (nếu thực hiện tốt) và ảnh hưởng tiêu cực (nếu thực hiện không tốt) đến

quá trình hình thành và phát triển KCN. Do đó, tuỳ từng thời kỳ và đặc điểm

của từng địa phương cần có những giải pháp hữu hiệu, cụ thể để đảm bảo cho

các nhân tố trên phát huy tốt nhất những tác động tích cực thúc đẩy quá trình

phát triển KCN.

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN

1.1.3.1. Tiêu chí đánh giá phát triển nội tại KCN

- Vị trí địa lý của khu công nghiệp:

Lợi thế về vị trí địa lý của KCN là tiền đề giúp cho các doanh nghiệp

đạt được hiệu quả kinh tế cao. Các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, gần các trục đường giao thông, bến cảng, nhà ga, sân bay, sự hấp dẫn

về thị trường các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, nguồn nhân lực) và thị

trường tiêu thụ sản phẩm,... có ảnh hưởng quan trọng đến sự lựa chọn đầu tư

của các doanh nghiệp.

- Chất lượng quy hoạch khu công nghiệp:

Tiêu chí này nhằm đảm bảo tính chất bền vững ngay từ giai đoạn đầu

của quá trình quy hoạch, sử dụng và phát triển KCN. Nó thể hiện ở tính hợp

lý, đồng bộ, khoa học, thực tiễn và hiệu quả trong quy hoạch các yếu tố chủ

đạo của KCN như: xác định các lĩnh vực và ngành thu hút đầu tư, đất đai, các

khu chức năng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, điện, nước, thông tin, viễn thông, dịch

vụ,... nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trường, thu

hút lao động, có mối liên kết hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN.

23

- Tỷ lệ lấp đầy KCN:

Tiêu chí này được xem xét căn cứ vào mục tiêu quy hoạch và điều kiện

hoạt động của KCN. Làm căn cứ để đánh giá hiệu quả việc sử dụng mặt bằng

KCN, nó được xác định bằng tỷ lệ diện tích đất KCN đã cho thuê so với tổng

diện tích đất quy hoach KCN để cho thuê. Qua đó, cũng có thể so sánh được sự

thành công trong việc khai thác, sử dụng diện tích đất giữa các KCN với nhau.

- Tổng số vốn đăng ký và vốn đầu tư thực hiện:

Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đầu tư thu hút vào KCN, qua đó tính

toán các chỉ tiêu: số dự án đầu tư, vốn đầu tư bình quân của một dự án và tỷ

suất vốn đầu tư trên 01 ha đất cho thuê, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên tổng

vốn thu hút, tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư.

- Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN:

Tiêu chí này bao gồm: tổng doanh thu, tổng giá trị sản xuất công

nghiệp; tổng số lao động thu hút, thu nhập bình quân của người lao động;

năng suất lao động tính theo doanh thu; tổng vốn kinh doanh; giá trị kim

ngạch xuất nhập khẩu; đóng góp vào ngân sách nhà nước.

- Trình độ công nghệ của các DN trong KCN:

Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các DN trong nội bộ

KCN cũng như giữa các KCN với nhau, nó được thể hiện: số lượng và cơ cấu

máy móc thiết bị sử dụng trong KCN; tỷ lệ máy móc thiết bị mới so với tổng

số máy móc thiết bị sử dụng; độ tuổi trung bình của công nghệ hoạt động

trong DN, tỷ lệ vốn đầu tư cho hoạt động chuyển giao, nghiên cứu và áp dụng

công nghệ mới trên tổng vốn đầu tư của KCN, thông tin về công nghệ, xuất

xứ của công nghệ.

- Hệ số chuyên môn hoá và liên kết kinh tế:

Đây là tiêu chí phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của toàn KCN,

tính chất tiên tiến trong tổ chức sản xuất phù hợp với xu thế phát triển của

24

phân công lao động xã hội theo hướng hiện đại, nó được thể hiện: tỷ lệ doanh

thu của mặt hàng chuyên môn hoá chiếm trong tổng doanh thu, tỷ lệ số DN có

liên kết kinh tế với nhau trong tổng DN nằm trong KCN, hệ số liên kết kinh tế

của KCN với các KCN khác và số DN ở bên ngoài có trao đổi kinh tế, kỹ

thuật với KCN.

- Mức độ thoả mãn nhu cầu cho các nhà đầu tư:

Tiêu chí này phản ánh mức độ hấp dẫn nội bộ của KCN đối với các nhà

đầu tư và được thể hiện ở: mức độ đảm bảo của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh

tế - kỹ thuật của KCN: điện, nước, kho tàng, bến bãi, đường xá, phương tiện

vận chuyển, bưu chính, thông tin, tài chính, ngân hàng...

1.1.3.2. Tiêu chí đánh giá tác động lan toả của KCN

- Tiêu chí về kinh tế - kỹ thuật:

Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành, địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đóng góp

vào ngân sách địa phương; thu nhập bình quân đầu người tính cho toàn khu

vực hoặc địa phương, so với mức chung của cả nước; chuyển dịch cơ cấu kinh

tế của địa phương có KCN; đóng góp của KCN cho ngân sách địa phương:

quy mô và tỷ lệ thu ngân sách địa phương từ KCN; số lượng và chất lượng hệ

thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của địa phương có KCN.

- Tiêu chí về mặt xã hội:

Chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng xã hội của KCN được tập trung vào các

chỉ tiêu về khả năng giải quyết việc làm của KCN cho lao động địa phương:

sử dụng lao động địa phương (quy mô và tỷ lệ lao động địa phương so với

tổng số lao động làm việc trong KCN); số người tham gia cung cấp dịch vụ

cho KCN trong tổng số lao động địa phương; ảnh hưởng của KCN đến sự

chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương.

25

- Tiêu chí phản ánh về môi trường:

Tiêu chí này xác định việc giải quyết các vấn đề về môi trường từ hoạt

động của KCN và việc sử dụng hiệu quả tài nguyên đất trong quá trình phát

triển KCN: mức độ khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên; tỷ lệ

diện tích đất bị bỏ hoang do DN chậm triển khai trên tổng diện tích đất cho

thuê của KCN; mức độ giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường KCN (hệ thống

xử lý chất thải tập trung), đặc biệt là các KCN gần khu dân cư; mức độ ứng

dụng công nghệ sạch và công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.

1.2. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN

1.2.1. Kinh nghiệm của một số địa phương

1.2.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương

* Những thành công tiêu biểu:

Tỉnh Hải Dương có diện tích tự nhiên hơn 1.600 km2 với dân số trên

1,7 triệu người. Tỉnh có nhiều ưu thế lớn về giao thông, bên cạnh đó với vị trí

nằm giữa tam giác động lực phát triển kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng

Ninh đã tạo cho Hải Dương có tiềm năng, lợi thế nổi bật để phát triển KCN.

Không chỉ lợi thế về vị trí địa lý, Hải Dương còn có nguồn nhân lực dồi dào

với số người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60 tuổi) năm 2011 chiếm 64,62%

dân số toàn tỉnh.

Với những lợi thế đó, đến nay trên địa bàn tỉnh, Chính phủ cho phép

quy hoạch, đầu tư xây dựng 18 khu công nghiệp tập trung với diện tích quy

hoạch gần 4.000 ha; trong đó 10 khu công nghiệp được phê duyệt quy hoạch

chi tiết với diện tích 2.086 ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân của các khu công

nghiệp đã được giao đất và xây dựng hạ tầng đạt khoảng 60%. Tính đến thời

điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có 236 dự án đầu tư nước ngoài

(FDI) của các nhà đầu tư đến từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với

tổng vốn đăng ký là 5,650 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện tại tỉnh Hải Dương ước

26

đạt 2,208 tỷ USD, bằng 39,1% tổng vốn đăng ký. Trong 6 tháng đầu năm

2012, tỉnh Hải Dương thu hút thêm 76,3 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài

(FDI). Trong đó, tổng vốn đăng ký mới là 21,8 triệu USD. Số vốn thực hiện

của các dự án FDI trong 6 tháng đầu năm tại tỉnh Hải Dương đạt 212 triệu

USD, tăng 48,9% so với cùng kỳ năm 2011. Thu hút hàng nghìn lao động trực

tiếp và lao động gián tiếp khác. [11]

Quá trình nỗ lực phấn đấu, tập trung xây dựng các KCN ở Hải Dương

đã tạo ra những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tốc độ

tăng trưởng khá, quy mô kinh tế được cải thiện. Cụ thể, giai đoạn 2006-2010,

GDP tăng bình quân 9,8%/năm; năm 2011, GDP trên địa bàn tỉnh đạt 9,3%.

Cơ cấu kinh tế của Hải Dương tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.

Việc phát triển các KCN đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, các sản

phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện khai

thác nguồn lực của địa phương mà trước đây còn ở dạng tiềm năng, như đất

đai, nhà xưởng, nguồn nhân lực… giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người lao động, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng nguồn thu

cho ngân sách của địa phương.

* Những hạn chế trong phát triển các KCN ở Hải Dương:

Dù đã có nhiều thành công trong phát triển các KCN nhưng Hải Dương

vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục: cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng

lãnh thổ, đối tác còn chưa phù hợp với yêu cầu, định hướng thu hút đầu tư và

sự phát triển của địa phương; đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông - lâm -

thủy sản đến nay còn rất thấp; các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

vẫn tập trung chủ yếu ven Quốc lộ 5A, khu vực có nhiều thuận lợi về giao

thông và kết cấu hạ tầng; tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên tổng lượng vốn đầu

tư đăng ký còn thấp; vẫn còn một số doanh nghiệp triển khai dự án chậm, dẫn

đến thực trạng lãng phí đất đai, nguồn lực và gây ô nhiễm môi trường.

27

* Bài học kinh nghiệm từ Hải Dương:

Từ kết quả nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong

phát triển các KCN Hải Dương như sau:

- Tỉnh luôn chú trọng rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các

KCN; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển CN của tỉnh đến năm

2020. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch và thu hút các nguồn vốn để đầu tư hoàn

thiện đồng bộ hạ tầng các KCN. Nâng cao hiệu quả sử dụng và tỉ lệ lấp đầy

các KCN. Rà soát, xây dựng danh mục các sản phẩm, nhóm sản phẩm, ngành

CN ưu tiên thu hút đầu tư.

- Phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đồng bộ với quy hoạch

xây dựng KCN, khu đô thị. Hải Dương đã đầu tư 1.028 tỷ đồng từ nguồn vốn

ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, gồm 152 km đường

tỉnh, đường huyện và 28 cây cầu.

- Có nhiều giải pháp cụ thể, tạo ra sự thông thoáng thật sự và đồng bộ

trong cải cách hành chính một cửa liên thông, xóa bỏ tình trạng "một cửa

nhưng nhiều khóa", tạo ra môi trường minh bạch để nâng cao khả năng cạnh

tranh, thu hút đầu tư và phát triển.

- Ưu tiên phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm có hàm lượng

công nghệ cao và các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Không cấp phép cho các

dự án công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều đất, tác động xấu đến môi trường;

thẩm định dự án, có những tiêu chuẩn, rào cản kỹ thuật để ngăn các dự án

công nghệ lạc hậu và tác động xấu đến môi trường.

- Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.

1.2.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh

* Những thành công tiêu biểu: Bắc Ninh có diện tích tự nhiên hơn 800km2, dân số khoảng 1 triệu

28

người với gần 700.000 lao động. Là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô

Hà Nội trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,

có các đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung

tâm kinh tế, thương mại và văn hoá của miền Bắc. Đây là những điều kiện

thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giao lưu với bên ngoài.

Toàn tỉnh Bắc Ninh hiện có 15 KCN tập trung đã được Chính phủ phê

duyệt quy hoạch chi tiết, tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt 865 triệu USD. 10 KCN

đã đi vào hoạt động, 5 KCN đang làm thủ tục triển khai xây dựng. Tỷ lệ lấp

đầy trên diện tích đất quy hoạch KCN đạt 53,35 %, tỷ lệ lấp đầy trên diện tích

đất thu hồi cho thuê đạt 74,84%. Đã thu hút được các dự án đầu tư lớn trong

và ngoài nước, có công nghệ hiện đại như: Samsung, Canon, ABB… phát

triển ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện tử, cơ khí chế tạo, chế biến công

nghệ cao… Đã thu hút được 500 dự án với tổng vốn đăng ký 3.782,21 triệu

USD. Hiện có 263 dự án đi vào hoạt động (trong đó 132 dự án FDI). Giá trị

sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN (không tính công ty đầu tư

phát triển hạ tầng) đạt 51.927,5 tỷ đồng.

Năm 2011, các KCN Bắc Ninh đã thu hút hơn 30.100 lao động, nâng

tổng số lao động đang làm việc tại các KCN lên hơn 87.000 lao động. Trong

đó, số lao động địa phương là hơn 35.600 lao động, chiếm 41%; mức thu

nhập bình quân 2,4 triệu đồng/người/tháng. Trong năm đã có 33 dự án mới đi

vào hoạt động, đã thu hút được một số dự án lớn như: tập đoàn Nokia, dự án

Ojitex, dự án Vinasoy, dự án AsianPacking…Giá trị sản xuất công nghiệp của

các doanh nghiệp trong KCN không ngừng tăng. Giá trị xuất khẩu đạt hơn 6,5

tỷ USD; giá trị nhập khẩu đạt khoảng hơn 5,8 tỷ USD, nộp ngân sách nhà

nước hơn 2650 tỷ đồng... [10]

Nhờ những kết quả đó, trong 15 năm qua, Bắc Ninh từ một tỉnh nông

nghiệp thuần tuý thì đến nay đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp

29

hoá, hiện đại hoá: quy mô kinh tế lớn mạnh không ngừng, năm 2011 gấp 6,6

lần so với năm 2007. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn định,

bình quân đạt 14,1%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng

hiện đại.

GDP bình quân đầu người năm 2011 đạt 2.130 USD (năm 1997 là 196 USD).

Công nghiệp phát triển nhanh, tính chung toàn ngành tăng bình quân

38%/năm, đưa Bắc Ninh đứng trong top 10 tỉnh có giá trị sản xuất công

nghiệp cao nhất toàn quốc.

* Những hạn chế trong phát triển các KCN ở Bắc Ninh:

Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, việc phát triển các KCN tỉnh Bắc

Ninh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục như: quy mô KCN chưa được

lượng hoá cho phù hợp với định hướng phát triển chung của tỉnh, chức năng

KCN chuyên ngành chưa rõ rệt, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp phụ

trợ cho ngành công nghiệp mũi nhọn. Bài toán về lao động và cơ cấu lao động

chưa cân bằng. Trình dộ tay nghề, kỹ năng và ý thức làm việc của người lao

động còn thấp. Một số doanh nghiệp được cấp phép nhưng không triển khai

xây dựng, triển khai chậm tiến độ hoặc cầm chừng, ảnh hưởng đến môi

trường đầu tư. Cũng có doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định về chế

độ báo cáo gây khó khăn cho công tác tổng hợp, phân tích và dự báo của các

cơ quan quản lý nhà nước. Các công ty đầu tư hạ tầng KCN chưa có khu lưu

trữ chất thải tạm thời theo quy định, hệ thống xử lý nước thải tập trung xây

dựng chậm so với tiến độ đề ra. Vẫn còn doanh nghiệp chưa thực hiện tốt

công tác bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật…

* Bài học kinh nghiệm từ Bắc Ninh:

Từ sự phát triển nhanh chóng của các KCN Bắc Ninh có thể rút ra một

số kinh nghiệm cụ thể sau:

- Tỉnh luôn coi trọng công tác quy hoạch KCN song song với quy

30

hoạch phát triển đô thị, khu dân cư. Gắn xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật với

hạ tầng xã hội nhằm triển khai thành công mô hình KCN - đô thị và bảo đảm

an sinh xã hội.

- Đổi mới công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, tập trung vào các thị trường

lớn, tiềm năng như châu Âu, Mỹ, Nhật,…để thu hút các dự án có vốn đầu tư

lớn, sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có giá trị gia tăng cao,

tạo môi trường đầu tư lành mạnh.

- Tiến hành công tác bồi thường GPMB nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng

nhu cầu của các nhà đầu tư.

- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước, nhất là quản lý môi trường

đối với các KCN. Hỗ trợ và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc,

tạo sự tin tưởng của nhà đầu tư, doanh nghiệp. Tăng cường công tác quản lý

nhà nước sau đầu tư.

- Thúc đẩy việc phát triển các KCN chuyên ngành, tạo lập ngành công

nghiệp mũi nhọn (điện tử, viễn thông) và công nghiệp hỗ trợ.

- Nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của các doanh nghiệp KCN, khuyến khích người lao động gắn bó

lâu dài với doanh nghiệp.

- Đôn đốc các chủ đầu tư hạ tầng và các doanh nghiệp thứ cấp thực

hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Vĩnh Phúc

Từ thực tế và kinh nghiệm phát triển KCN của các địa phương, có thể

rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích nhằm phát triển các KCN của Vĩnh

Phúc:

Thứ nhất, quy hoạch KCN phải được hết sức quan tâm, phải thường

xuyên rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế; đồng

31

thời công tác triển khai thực hiện quy hoạch phải linh hoạt, thông thoáng. Quy

hoạch phải mang tính toàn diện và hợp lý giữa quy hoạch trong và ngoài hàng

rào KCN. Đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các KCN trong khu vực.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng KCN phải đi trước một bước.

Phát triển KCN cũng có nghĩa là phát huy vai trò hạt nhân của nó đối

với sự hình thành những đô thị hiện đại, muốn vậy phải chú ý đến việc xây

dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, gắn việc xây dựng

cơ sở hạ tầng trong KCN với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN một cách

đồng bộ, hiện đại.

Thứ ba, phát triển KCN cần có sự lựa chọn kỹ lưỡng, tránh phát triển ồ

ạt, xé rào. Trong bối cảnh hiện nay, cần lựa chọn những ngành có hàm lượng

công nghệ cao để nâng cao sức cạnh tranh, tránh những ngành sử dụng công

nghệ lạc hậu, tốn nhiều đất đai và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường; chuyển

dần từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu và bảo vệ môi

trường sinh thái.

Thứ tư, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.

Việc phát triển KCN muốn đạt kết quả tốt cần có sự quan tâm, chỉ đạo

thường xuyên, nhạy bén và dám chịu trách nhiệm của chính quyền địa

phương, của Ban quản lý các KCN; sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ của các

Sở, Ban, Ngành liên quan trong quản lý cũng như trong giải quyết những

khúc mắc của doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Thứ năm, cần kết hợp giữa khâu cấp phép và khâu thanh tra, giám sát

hoạt động của KCN; đặc biệt là việc kiểm tra sau cấp phép. Đảm bảo việc cấp

phép nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư; tuy nhiên

phải thực hiện chặt chẽ và thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra, giám

sát, chế độ báo cáo của các DN tới các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm

32

bảo hoạt động của các DN lành mạnh, đúng pháp luật.

Thứ sáu, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo những điều kiện

thuận lợi nhất cho nhà đầu tư và DN. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý

"một cửa tại chỗ", tăng cường mối liên kết giữa Ban quản lý và các DN.

Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm

nâng cao trình độ tay nghề cũng như kỷ luật lao động, đáp ứng tốt nhất nhu

cầu của các DN. Bên cạnh đó, cần quan tâm giải quyết đời sống vật chất, tinh

thần của người lao động, đặc biệt là vấn đề nhà ở cho người lao động các

KCN để họ yên tâm lao động và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

Kết luận chương 1

KCN là một khái niệm rộng, gắn liền với điều kiện hình thành và phát

triển cụ thể ở mỗi quốc gia. KCN được hình thành và phát triển do những yêu

cầu khách quan, có mục tiêu xác định phù hợp với trình độ phát triển của mỗi

quốc gia. Quan niệm đúng về KCN không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà

còn có ý nghĩa tính thực tiễn cao, khẳng định sự cần thiết ra đời và phát triển

của nó.

Từ khi ra đời cho đến nay, các KCN ngày càng thể hiện rõ vai trò to

lớn đối với quá trình CNH, HĐH đất nước. Sự ra đời và không ngừng lớn

mạnh của các KCN tác động mạnh mẽ tới sự phát triển KT - XH của đất

nước. Các KCN tạo động lực cho thu hút đầu tư, tận dụng các nguồn lực: vốn,

công nghệ, lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện

đại; bảo vệ môi trường sinh thái; hình thành và phát triển các khu dân cư, khu

đô thị, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng đời sống dân cư, góp phần

quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.

Để KCN phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình, chúng ta cần xác định

được các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN, các nhân tố ảnh hưởng đến

sự phát triển của KCN, từ đó có những tác động cần thiết và đúng hướng

33

nhằm thúc đẩy sự phát triển của các KCN.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

2.1. Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển khu công nghiệp ở

Vĩnh Phúc

2.1.1. Những thuận lợi

- Về kinh tế:

Đến nay, kinh tế Vĩnh Phúc luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân

17,4%/năm, năm 2011 tăng 14,83%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo

hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trong nông nghiệp, lâm

nghiệp, thuỷ sản. Hiện nay, tỉnh có cơ cấu kinh tế: công nghiệp-xây dựng:

56,03%; dịch vụ: 30,23%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 13,74%. [60]

Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- 201

TT

Chỉ tiêu

2000 2005

2009

2010

Tổng số

1 GO, tỷ đồng (giá 1994)

Tổng số

Tăng bình quân 01-05 06-10 01-10 21,8 7,7 23,2 20,5 18,0 5,7 20,6 20,4

20,6 7,4 22,9 17,2 16,5 6,0 20,7 17,1

5,69

8,99

3,83

7.928 19.335 42.462 51.730 19,52 1.1 Nông-Lâm-Thủy sản 7,01 1.294 1.816 2.275 2.632 1.2 Công nghiệp-Xây dựng 5.552 15.443 35.886 43.817 22,70 1.082 2.076 4.301 5.281 13,92 1.3 Dịch vụ 2 GDP, tỷ đồng (giá 1994) 2.791 5.618 10.549 12.837 15,02 2.1 Nông - Lâm -Thủy sản 868 1.183 1.352 1.559 6,40 2.2 Công nghiệp-Xây dựng 1.127 2.904 6.109 7.410 20,84 2.3 Dịch vụ 796 1.531 3.087 3.868 13,96 3 GDP bình quân/người 3.1 Giá 1994 (106đ/người) 2,98 3.2 Giá hiện hành (106.đ/người)

12,7 33,6

10,5 24,6

Nguồn: Niên giám Thống kê Vĩnh Phúc năm 2010

34

Thu ngân sách liên tục tăng, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây; đạt

3.182,9 tỷ đồng vào năm 2005 và 14.505 tỷ đồng vào năm 2010, năm 2011

tổng thu ngân sách đạt 16.484 tỷ đồng. Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh

của nền kinh tế, đời sống dân cư ở Vĩnh Phúc có bước cải thiện đáng kể:

GDP bình quân đầu người trong tỉnh cũng tăng khá nhanh. Năm 2000

GDP/người của tỉnh (giá thực tế) mới chỉ đạt 3,83 triệu đồng, bằng 78,2%

GDP vùng Đồng bằng sông Hồng và 67,2% so với cả nước. Nhưng đến

năm 2007, GDP/người của tỉnh đã đạt 15,74 triệu đồng, cao hơn so mức

trung bình đồng bằng Sông Hồng (14,5 triệu đồng) và cao hơn nhiều so với

mức bình quân cả nước (13,421 triệu đồng). Năm 2008 GDP bình quân đầu

người (theo giá thực tế) đạt 22,2 triệu đồng (tương đương khoảng 1.300

USD), cao gấp 1,29 lần so với mức bình quân chung cả nước (17,2 triệu

đồng). Năm 2010, chỉ tiêu này đạt 33,6 triệu đồng, GDP bình quân/ người

(theo giá thực tế) năm 2011 đạt khoảng 43 triệu đồng/ người (tương đương

với trên 2.000 USD/năm). Nhiều công trình phúc lợi công cộng, hạ tầng kỹ

thuật quan trọng được xây dựng tạo điều kiện giao lưu hàng hoá, tỷ lệ hộ

nghèo của tỉnh đã giảm từ 18,3% (theo chuẩn QG mới) năm 2005 xuống 6%

vào năm 2010. Công tác giải quyết việc làm luôn được chú trọng, số lao động

được sắp xếp việc làm năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2007 có 17,8

ngàn lao động được sắp xếp việc làm, năm 2010 ước tính có khoảng 21 ngàn

lao động được sắp xếp việc làm, trong đó số được sắp xếp chỗ làm ổn định là

16 ngàn người. [60]

Những thành tựu to lớn về kinh tế là điều kiện quan trọng tạo ra

sức mạnh để tỉnh có thể phát triển toàn diện về mọi mặt, trong đó có

việc phát triển các KCN.

35

- Về vị trí địa lý: Tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 1.236,5 km2, dân số là

1.008,3 nghìn người, mật độ dân số 820 người/km2; là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ:

+ Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.

+ Phía Tây giáp Phú Thọ.

+ Phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội.

Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là Thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô

Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km. Vĩnh Phúc có vị trí quan

trọng đối vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội:

kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ góp phần cùng Thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến

trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về

đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội.

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các năm qua đã

tạo cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý kinh tế, tỉnh đã trở

thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh

phía Bắc. Đồng thời, sự phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và

quốc gia liên quan đã đưa Vĩnh Phúc xích gần hơn với các trung tâm kinh tế,

công nghiệp và những thành phố lớn của quốc gia và quốc tế thuộc hành lang

kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 Việt Trì - Hà

Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành

đai IV thành phố Hà Nội...

Địa hình tương đối bằng phẳng, nền địa chất thuận lợi cho việc xây

dựng các công trình công nghiệp và KCN.

Vị trí địa lý đã mang lại cho Vĩnh Phúc những thuận lợi trong phát

triển kinh tế – xã hội: nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, gần

Thành phố Hà Nội nên có nhiều thuận lợi trong liên kết, giao thương hàng

hoá, lao động kỹ thuật...

36

- Về hệ thống giao thông:

Vĩnh Phúc có mạng lưới giao thông khá phát triển với 3 loại: giao

thông đường bộ, đường sắt, đường sông. Hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh

phân bố khá hợp lý, mật độ đường giao thông cao. Hệ thống hạ tầng giao thông

đối ngoại đã và đang được đầu tư hiện đại là những tuyến chính gắn kết quan

hệ toàn diện của Vĩnh Phúc với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế.

Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai,

là cầu nối giữa vùng Trung du miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội; liền kề

cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 thông với cảng

Hải Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho giao thương và xuất khẩu hàng hoá.

- Về văn hoá - xã hội:

Cộng đồng dân cư tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều giá trị văn hóa ưu việt. Có

thể nói, cùng với cả nước, lịch sử phát triển của tỉnh là lịch sử đấu tranh dựng

nước, giữ nước. Đất Vĩnh Phúc đã từng nổi tiếng với những danh tướng và

anh hùng dân tộc: Hai Bà Trưng, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Danh Phương,

Nguyễn Thái Học. Cho đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của

văn hóa Hùng Vương và Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hóa dân gian

đặc sắc, của khoa bảng, với lối sống xã hội và chuẩn mực đạo đức luôn được

giữ gìn và phát huy.

Các giá trị văn hóa truyền thống lưu lại thông qua các di tích lịch sử

văn hoá đa dạng, góp vai trò quan trọng vào việc thu hút khách du lịch. Toàn

tỉnh hiện có 967 di tích lịch sử văn hoá, trong đó 288 di tích được xếp hạng

cấp Quốc gia, trong đó nổi bật là cụm di tích Tây Thiên (khu danh thắng Tây

Thiên, đền thờ Quốc Mẫu Năng Thị Tiêu, Thiền viện trúc lâm Tây Thiên),

tháp Bình Sơn, đền thờ Trần Nguyên Hãn, đình Thổ Tang, cụm đình Hương

Canh, chùa Hà Tiên, di chỉ Đồng Dậu... Không chỉ có nền văn hoá vật thể

37

phong phú, Vĩnh Phúc còn có nền văn hoá phi vật thể cũng đa dạng, hấp dẫn

có giá trị du lịch cao, đó là hệ thống các lễ hội, các trò chơi dân gian, văn hoá

nghệ thuật, thi ca, ẩm thực…

Người dân Vĩnh Phúc hiếu học, cầu thị… có ý thức tìm tòi, đổi mới và

sáng tạo. Truyền thống đó, trong nhiều năm qua đã là động lực cơ bản cho sự

phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng trên địa bàn tỉnh.

Tất cả những đặc điểm xã hội và nhân văn nêu trên là cơ sở gốc tạo nên

sức mạnh cho tỉnh trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ.

- Về chủ trương chính sách:

Trước hết phải nói đến chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

về CNH, HĐH đất nước và xây dựng phát triển KCN; từ đó Vĩnh Phúc đã có

chủ trương đúng đắn về quy hoạch và phát triển các KCN, coi đó là bước đột

phá để xây dựng Vĩnh Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.

Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hết sức quan tâm đến

việc phát triển các KCN, nó được xem như là một quyết sách để thực hiện

thắng lợi các mục tiêu phát triển công nghiệp. Với phương châm: “Tất cả các

nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều là công dân Vĩnh Phúc - Thành công của doanh

nghiệp chính là thành công và niềm tự hào của tỉnh”, tỉnh đã có nhiều chính sách

nhằm thu hút đầu tư phát triển các KCN: chính sách ưu đãi đầu tư, ban hành

chính sách quản lý đầu tư, thành lập Ban quản lý các KCN, cải thiện môi trường

đầu tư đảm bảo tính minh bạch, thông thoáng, hấp dẫn đối với nhà đầu tư.

- Về nguồn nhân lực:

Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, lực lượng lao động trong độ

tuổi của Tỉnh chiếm một tỷ lệ khá cao, trên 70%.

TT Ngành

Đơn vị

2000

2005

2010

38

Nguồn lao động

103 người.

567

675

737

1

Dân số trong độ tuổi lao

2

103 người.

542,3

650

718

động

Số lao động đang làm việc

3

103 người.

493,4

569

625

trong các ngành kinh tế

4

Cơ cấu sử dụng lao động

%

100,0

100,0

100,0

4.1 Nông, lâm, ngư nghiệp

%

85,7

59,2

46,4

4.2 Công nghiệp và xây dựng

%

6,5

16,6

25,5

4.3 Dịch vụ

%

7,8

24,2

28,1

Nguồn: Niên giám thống kê Vĩnh Phúc 2010

Bảng 2.2: Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc

Về chất lượng lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 36,4%

lực lượng lao động năm 2007; năm 2008, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên

đáng kể đạt 42,9%; năm 2010 tỷ lệ này đạt 51,2%. Mỗi năm có trên một vạn

người bước vào độ tuổi lao động, đây là nguồn cung cấp lao động quan trọng

đảm bảo nguồn lao động cho tỉnh. Nhìn tổng thể, lực lượng lao động tại Vĩnh

Phúc dồi dào về số lượng, đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.

Chất lượng nguồn nhân lực tại Vĩnh Phúc được đánh giá là khá hơn so với

nhiều địa phương trong cả nước. [60]

2.1.2. Những khó khăn

- Xuất phát điểm của nền kinh tế thấp:

Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập vào ngày 01/01/1997, khi mới tái lập nền

kinh tế của tỉnh rất thấp kém, chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp. Thu

ngân sách năm 1997 mới đạt 114 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế năm 1997: nông

nghiệp: 48,27 %; công nghiệp-xây dựng: 13,98%; dịch vụ: 37,75%. Kết cấu

hạ tầng yếu kém, chưa đồng bộ.[60]

Mặc dù tốc độ phát triển những năm gần đây khá cao, nhưng do xuất

phát điểm thấp, lại mới chia tách nên nền kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó

39

khăn. Kinh tế tuy tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn,

phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài. Mức sống dân cư Vĩnh Phúc chưa tương

xứng với điều kiện và tiềm năng của một tỉnh là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội.

- Vĩnh Phúc đất chật, người đông:

Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc, hiện

nay toàn tỉnh có tổng diện tích đất tự nhiên 123.176,43 ha, dân số là 1.008,3 nghìn người, mật độ dân số rất cao (820 người/km2).

Trên địa bàn tỉnh, đất có thể xây dựng KCN chủ yếu là đất trồng lúa,

đã giao cho nông hộ sản xuất lâu dài, bình quân diện tích canh tác trên đầu

người thấp, mật độ dân cư trên địa bàn tỉnh khá cao, có nhiều điểm dân cư

tập trung rất cao, cự ly giữa các điểm dân cư chỉ đủ khoảng cách ly môi

trường, vì thế, khi giải phóng mặt bằng xây dựng KCN, có nơi không còn đất

canh tác (như KCN Kim Hoa), đồng thời quỹ đất dành cho mỗi KCN cũng

không lớn. Diện tích đất đai đã được khai thác sử dụng vào các mục đích của

tỉnh tính đến hết năm 2010 có 120.263,82ha, chiếm 97,6% diện tích đất tự

nhiên. Như vậy, diện tích đất chưa sử dụng còn lại rất nhỏ, chỉ chiếm 2,4%

diện tích đất tự nhiên, nhưng lại phân bố rất manh mún, rải rác và chủ yếu là

các bãi cát vên sông nên khả năng khai thác sử dụng cho sản xuất nông

nghiệp hầu như không còn.

- Vĩnh Phúc nghèo về tài nguyên khoáng sản:

Nhìn chung, Vĩnh Phúc là tỉnh ở vị trí chuyển tiếp giữa miền núi và

đồng bằng nên rất nghèo về tài nguyên khoáng sản. Khoáng sản có giá trị

thương mại trên địa bàn chỉ bao gồm một số loại như: đá xây dựng, cao lanh,

than bùn song trữ lượng không lớn và điều kiện khai thác hạn chế.

Theo đánh giá sơ bộ tài nguyên khoáng sản Vĩnh Phúc chỉ có một vài

40

nhóm sau: Nhóm khoáng sản nhiên liệu: gồm than antraxit; than nâu ở Sông

Lô; Than bùn ở Lập Thạch, Tam Dương. Nhóm khoáng sản kim loại: Gồm

Barit, đồng, vàng, thiếc, sắt... nhóm khoáng sản này nghèo và cũng chưa được

nghiên cứu kỹ lưỡng nên chúng chưa phục vụ được cho phát triển kinh tế của

tỉnh. Nhóm khoáng sản phi kim loại: Nhóm khoáng sản phi kim loại chủ yếu là

cao lanh, nguồn gốc phong hóa từ các loại đá khác nhau. Nhóm vật liệu xây dựng: gồm sét gạch ngói khoảng 10 mỏ với tổng trữ lượng 51,8 triệu m3, cát

sỏi lòng sông và bậc thềm, cát cuội sỏi xây dựng.

- Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp còn nhiều hạn chế:

Tuy số người trong độ tuổi lao động cao nhưng chủ yếu là lao động phổ

thông, rất thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đặc biệt là thiếu nguồn

nhân lực chất lượng cao phục vụ cho những ngành công nghệ cao. Thái độ lao

động, tính tổ chức và tính kỷ luật lao động vẫn là những hạn chế phổ biến mà

các doanh nghiệp gặp phải.

- Thị trường tiêu thụ và sức mua còn kém:

Nền kinh tế tăng trưởng cao trong những năm gần đây, tuy nhiên sự

tăng trưởng đó không đồng đều giữa các khu vực kinh tế, giữa các vùng miền

và giữa các tầng lớp dân cư. Hơn nữa, sản phẩm của các doanh nghiệp FDI

chiếm thị trường lớn nhưng lại ít phục vụ cho thị trường nội địa, tại chỗ. Điều

đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến dung lượng thị trường và sức mua. Thị trường

nội tỉnh có quy mô nhỏ so với yêu cầu phát triển công nghiệp, do đó hướng ra

thị trường bên ngoài là một tất yếu khách quan nhưng đang bị tác động lớn

bởi suy thoái kinh tế toàn cầu.

2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

2.2.1. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc xuất phát là một tỉnh có nền kinh tế thấp, kém phát triển,

dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Cơ sở nền móng cho công nghiệp còn yếu,

41

nhỏ bé chưa có nhân tố "đầu tàu" làm động lực phát triển. GTSXCN tập trung

chủ yếu trong khu vực quốc doanh. Khu vực ngoài quốc doanh chủ yếu gắn

với làng nghề truyền thống, là khu vực có hoạt động kinh tế năng động, hấp

thụ nhanh các cơ chế chính sách mới. Song lại là khu vực hạn chế nhiều về

năng lực và khả năng đổi mới công nghệ. Khu vực quốc doanh tuy có tỷ trọng

lớn nhưng do nhiều năm duy trì sản xuất từ thời bao cấp lại không được tổ

chức lại trong thời kỳ đổi mới nên đã bộc lộ nhiều yếu kém, khó có thể trụ

vững làm trụ cột tiếp cho những năm sau.

Trước thực tế đó và xuất phát từ các điều kiện thuận lợi về điều kiện tự

nhiên, giao thông...Vĩnh Phúc đã chủ trương đẩy mạnh phát triển nền kinh tế

theo hướng CNH, HĐH; phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công

nghiệp. Thực hiện định hướng đó, Vĩnh Phúc đã tiến hành quy hoạch xây

dựng các KCN gắn liền với phát triển các cụm công nghiệp làng nghề.

Ngày 01/8/1998, KCN Kim Hoa - KCN đầu tiên trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Phúc được thành lập theo Quyết định số 679/QĐ-TTg của Thủ tướng chính

phủ với diện tích quy hoach giai đoạn I là 50ha. Đến nay đã lấp đầy 100%

diện tích giai đoạn I (Công ty Honda thuê toàn bộ diện tích KCN Kim Hoa).

Phát huy triệt để lợi thế của tỉnh, đồng thời với việc chỉ đạo đẩy nhanh

tiến độ triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng KCN Kim Hoa, tỉnh tiếp tục chỉ

đạo Ban quản lý các KCN phối hợp với các ngành chức năng tổ chức lập quy

hoạch các KCN khác trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có

20 KCN được phê duyệt với tổng diện tích là 6,038 ha.

42

Bảng 2.3. Các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã được Chính phủ phê duyệt

Diện tích Tình hình STT Tên KCN Vị trí địa lý (ha) đầu tư

1 Kim Hoa (Giai đoạn I) TX. Phúc Yên 50 Đang hoạt động

2 Khai Quang TP. Vĩnh Yên 262 Đang hoạt động

3 Bình Xuyên H. Bình Xuyên 271 Đang hoạt động

4 Bá Thiện H. Bình Xuyên 327 Đang hoạt động

5 Bình Xuyên II H. Bình Xuyên 485 Đang xây dựng

6 Bá Thiện II H. Bình Xuyên 308 Đang xây dựng

7 Phúc Yên TX. Phúc Yên 150 Đang xây dựng

Khởi công xây

8 Tam Dương I H. Tam Dương 700 dựng cuối năm

2010

Phát triển từ năm 9 Chấn Hưng H. Vĩnh Tường 131 2012 trở đi

Phát triển từ năm 10 Hội Hợp TP. Vĩnh Yên 150 2012 trở đi

Phát triển từ năm 11 Sơn Lôi H. Bình Xuyên 300 2012 trở đi

Phát triển từ năm 12 Nam Bình Xuyên H. Bình Xuyên 304 2012 trở đi

Phát triển sau 13 Lập Thạch II H. Lập Thạch 250 năm 2012

Phát triển sau 14 Sông Lô I H. Sông Lô 200 năm 2012

43

Phát triển sau 15 Sông Lô II H. Sông Lô 180 năm 2012

Diện tích Tình hình STT Tên KCN Vị trí địa lý (ha) đầu tư

Phát triển sau 16 Lập Thạch I H. Lập Thạch 150 năm 2012

Phát triển sau 17 Tam Dương II H. Tam Dương 750 năm 2012

Phát triển sau 18 Vĩnh Tường H. Vĩnh Tường 200 năm 2012

Phát triển sau 19 Vĩnh Thịnh H. Vĩnh Tường 270 năm 2012

Phát triển sau Thái Hòa, Liễn Sơn, 20 H. Lập Thạch 600 năm 2012 Liên Hòa

Tổng 6,038

Nguồn: Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc

Trong đó có 04 KCN đã đi vào hoạt động: KCN Kim Hoa, KCN Bình

Xuyên, KCN Khai Quang, KCN Bá Thiện. Các KCN Bình Xuyên II, KCN Bá

Thiện II, KCN Phúc Yên đang triển khai xây dựng, hiện đang thực hiện công

tác bồi thường, GPMB để triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng thời

thực hiện xúc tiến đầu tư vào KCN. Các KCN khác, UBND tỉnh và Ban quản

lý các KCN Vĩnh Phúc đang thực hiện hoàn thiện các thủ tục thành lập và xúc

tiến thu hút chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.

Như vậy, cho đến nay việc xây dựng và phát triển các KCN Vĩnh Phúc

đã hội tụ đủ các DN đầu tư thuộc đủ các thành phần kinh tế, bao gồm: DN

nhà nước, DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các

lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện, điện tử, tin học, sản xuất vật liệu xây dựng cao

cấp, ô tô, xe máy, chế biến, may mặc...Các KCN Vĩnh Phúc đã có bước tiến

44

vượt bậc, thu hút nhiều DN trong nước và nước ngoài đầu tư, trong đó có

nhiều hãng lớn đầu tư như: Honda, Toyota (Nhật), Piaggio (Italia), Foxcon,

Compal, Fullpower (Đài Loan), G.O. Max, Kumho, Lotte (Hàn Quốc), YCH

(Singapore)...tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần

phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy

nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.

2.2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

2.2.2.1. Thực trạng quy hoạch và phát triển KCN

Giai đoạn từ 2005-2010 là giai đoạn phát triển vượt bậc của tỉnh Vĩnh

Phúc trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Chỉ trong vòng 5 năm tỉnh đã

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư là 17 KCN với diện

tích là (5.455 ha) với tổng số vốn đã đầu tư vào hạ tầng các KCN khoảng 877

tỷ đồng và 13,5 triệu USD.

Năm 2011, Ban quản lý các KCN đã phối hợp với Sở Xây dựng tham

mưu, điều chỉnh giảm quy mô KCN Khai Quang từ 248,5 ha xuống còn 197

ha, báo cáo UBND tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để phù hợp với

quy hoạch chung đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030 tầm nhìn 2050; đôn đốc

Chủ đầu tư hạ tầng KCN Bình Xuyên II điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN

có liên quan đến đường Nguyễn Tất Thành kéo dài; đôn đốc các chủ đầu tư

hạ tầng KCN Tam Dương I – Khu 2 và Khu 3 hoàn thiện quy hoạch chi tiết

trình UBND tỉnh phê duyệt.

Nhìn lại hơn 10 năm phát triển, có thể nhận thấy quy hoạch phát triển

KCN của tỉnh khá hợp lý, cho phép khai thác được các tiềm năng, lợi thế của

tỉnh. Cụ thể:

- Các KCN đều được quy hoạch ở vị trí thuận lợi về giao thông, gắn với

các tuyến đường Quốc lộ, tỉnh lộ, gần các bến cảng, nhà ga, sân bay, các trung

tâm KT - XH của địa phương và các khu vực lân cận. Ví dụ, các KCN Bình

45

Xuyên, KCN Khai Quang đều nằm cạnh quốc lộ 2, đường sắt Hà Nội – Lào

Cai, cách sân bay quốc tế nội bài 20 km.

- Quy hoạch KCN được gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển KT-

XH của địa phương. Các KCN được phân bố hợp lý tại các vùng, các địa bàn

có nhiều tiềm năng phát triển KCN trong tỉnh, góp phần tạo việc làm và

chuyển đổi cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế tại mỗi địa phương

trong tỉnh, đặc biệt là sự phát triển của các làng nghề, các cụm công nghiệp và

sản xuất nông nghiệp, tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các khu vực trong

tỉnh. Do điều kiện địa lý và thổ nhưỡng, các KCN chủ yếu được quy hoạch tại

các huyện phía Bắc tỉnh là Bình Xuyên, Tam Dương, Lập Thạch và Sông Lô.

Các huyện phía Nam tỉnh như Vĩnh Tường có 02 KCN, Yên Lạc không quy

hoạch KCN, do đây là vùng đất trồng lúa năng suất cao, và đó cũng là hạn chế

trong việc thúc đẩy công nghiệp hoá các địa phương này.

- Quy hoạch KCN đã gắn với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ đảm bảo

cung cấp nhà ở cho công nhân, chuyên gia làm việc trong KCN; cung cấp các

dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, vui chơi giải trí cho người lao

động. Các KCN hiện có chủ yếu được phân bố ở thành phố Vĩnh Yên (KCN

Khai Quang), Thị xã Phúc Yên (Kim Hoa), và huyện Bình Xuyên (KCN Bá

Thiện, KCN Bình Xuyên). Khoảng cách giữa các KCN này với các trung tâm

đô thị lớn (thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên) là không lớn, do đó, tạo

điều kiện đảm bảo cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội cơ bản, cung cấp nguồn

nhân lực đầu vào cần thiết khác cho phát triển các KCN.

2.2.2.2. Tình hình và kết quả hoạt động của các KCN

Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh thuần nông, chậm phát triển, tiềm lực kinh

tế của tỉnh nhỏ bé, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có thể

nói từ khi tỉnh có chủ trương thành lập KCN, bộ mặt của tỉnh đã có bước thay

đổi nhanh chóng. Các KCN phát triển khá thành công, thể hiện ở một số chỉ

46

tiêu chủ yếu sau:

- Tỷ lệ lấp đầy KCN

Các KCN Vĩnh Phúc được quy hoạch đồng bộ, hiện đại, được đặt ở vị

trí thuận lợi về giao thông, được cung cấp đầy đủ hạ tầng kỹ thuật, các dịch

vụ hỗ trợ, quy hoạch KCN gắn liền với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ tạo

nên một quần thể vững chắc. Cùng với đó việc thực hiện công tác xúc tiến

đầu tư của ban quản lý các KCN và các công ty đầu tư phát triển hạ tầng đã

đẩy nhanh quá trình lấp đầy diện tích KCN, tính đến hết năm 2011, tỷ lệ lấp

đầy theo diện tích đất đã thu hồi, xây dựng hạ tầng: 78,1%. [7]

Bảng 2.4: Tỷ lệ lấp đầy các KCN tính theo năm, từ 2005 – 2011

Diện tích có Diện tích có thể Diện tích Tỷ lệ thể cho thuê cho thuê đã xây đất đã Tổng lấp Năm theo quy dựng cơ sở hạ tầng cho thuê diện tích đầy (đơn vị tính ha) (đơn vị hoạch (%) (đơn vị tính ha) tính ha)

(1) (2) (3) (4) (5) (6)

2005 583 390 260 130 50

2006 854 391,2 279 167,4 60

2007 1040,2 668 334 214 64

2008 1395,1 919,8 598,92 464,63 77,.6

2009 1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9

2010 1695,5 1129,6 579,22 432,1 74,6

2011 1695,5 1166,9 551,7 430,9 78,1

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

KCN Kim Hoa - giai đoạn I, có diện tích tự nhiên 50 ha, diện tích đất

công nghiệp 50 ha. Công ty Honda đã thuê lại toàn bộ diện tích đất KCN Kim

Hoa – Giai đoạn I (lấp đầy 100%) để thực hiện dự án sản xuất ô tô, xe máy.

47

Tổng vốn đăng ký 374,31 triệu USD, vốn thực hiện lũy kế 330,7 triệu USD.

Hiện nay, Công ty Honda giải quyết 8.629 lao động, năm 2011 giá trị sản

xuất công nghiệp là 26.376 tỷ đồng, doanh thu đạt 2.424,7 triệu USD, Nộp

ngân sách năm 2011 là 4.500 tỷ đồng (bao gồm cả thu nội địa và thuế xuất

nhập khẩu)

KCN Khai Quang, đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh

giảm quy mô tại văn bản số 949/TTg-KTN ngày 15/6/2011, diện tích tự nhiên

hiện nay là 197 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp là 135,78 ha. Diện tích

đất đã cho thuê là 124 ha. Tỷ lệ lấp đầy đạt 91,32%. Trong KCN hiện có 62

dự án đăng ký đầu tư, gồm 49 dự án FDI, vốn đăng ký 381,19 triệu USD, vốn

thực hiện 311,59 triệu USD (đạt 81,7%), 13 dự án DDI, vốn đăng ký 544,99

tỷ đồng, vốn thực hiện 487 tỷ đồng (đạt 89,36%). Đã có 56 dự án hoạt động

(45 dự án FDI, 11 dự án DDI), giải quyết 22.722 lao động, nộp ngân sách

năm 2011 là 750,5 tỷ đồng.

KCN Bình xuyên, diện tích đất tự nhiên 277 ha, diện tích đất công

nghiệp theo quy hoạch 186 ha, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là

139 ha, diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 101,4 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy

KCN: 54,52 %; nếu tính trên diện tích đất công nghiệp đã thu hồi và giao đất

là 139 ha thì tỷ lệ lấp đầy đạt 72,9%. KCN Bình Xuyên hiện có 39 dự án đầu

tư, gồm 22 dự án đầu tư FDI, vốn đăng ký 191,2 triệu USD, vốn thực hiện

133,5 triệu USD (đạt 69,8%), 17 dự án DDI, vốn đăng ký 1.557,49 tỷ đồng,

vốn thực hiện 1.948,43 tỷ đồng (tăng 25,1% so với vốn đăng ký). Đã có 34 dự

án hoạt động (18 dự án FDI, 16 dự án DDI), giải quyết 5.660 lao động, nộp

ngân sách năm 2011 là 517 tỷ đồng.

KCN Bá Thiện, diện tích đất tự nhiên 327 ha, diện tích đất công nghiệp

207,92 ha; diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê 207,92 ha; diện tích đất

đã cho thuê và đăng ký thuê 126 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 60,6%. KCN Bá Thiện

48

có 09 dự án FDI đăng ký đầu tư, vốn đăng ký 576,5 triệu USD, vốn thực hiện

31,9 triệu USD (bằng 5,53%). Đã có 02 dự án hoạt động nhưng chưa đủ đủ

công suất, giải quyết 120 lao động. Các dự án FDI đăng ký đầu tư vào KCN

Bá Thiện chịu nhiều tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và sự cạnh

tranh thu hút vốn đầu tư quốc tế của các quốc gia trong khu vực, do vậy chưa

triển khai đầu tư xây dựng nhà máy; đã có 04 dự án xin rút Giấy phép đầu tư,

giải thể doanh nghiệp trước thời hạn.

KCN Bình Xuyên II, diện tích đất tự nhiên là 485,1 ha, diện tích đất

công nghiệp theo quy hoạch là 281,3 ha, diện tích đã giải phóng mặt bằng, thu

hồi để xây dựng KCN là 63,887 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp là 36

ha nhưng chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật. Trong KCN Bình Xuyên II có 02

đơn vị sự nghiệp của Tập đoàn KHKT Hồng Hải đăng ký và đã được cấp

Giấy CN đầu tư thực hiện dự án sản xuất điện thoại không dây và linh kiện

điện tử; tổng vốn đăng ký 218 triệu USD, diện tích đất xin thuê 24 ha. Theo

nhà đầu tư báo cáo, cả hai dự án trên chưa thực hiện do tác động của khủng

hoảng kinh tế thế giới, do cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trên trường quốc tế và

do chưa có mặt bằng xây dựng.

KCN Bá Thiện II, diện tích đất tự nhiên là 308 ha, diện tích đất công

nghiệp theo quy hoạch là 212,4 ha; Diện tích đất đã giải phóng mặt bằng, thu

hồi và giao cho chủ đầu tư là 111,7 ha nhưng không liền mảnh, xen kẽ với

diện tích chưa đền bù. Hiện chủ đầu tư đang xây dựng hạ tầng trên diện tích

khoảng 40 ha, tạo ra được 24 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. KCN này

hiện có 01 dự án đăng ký đầu tư, vốn đăng ký 14 triệu USD, diện tích đất thuê

06 ha, mới được cấp Giấy Chứng nhận đầu tư lần đầu ngày 05/4/2012, dự

kiến tháng 3/2013 dự án đi vào hoạt động.

KCN Phúc Yên, diện tích đất tự nhiên dành cho KCN là 135,33 ha, đất

công nghiệp là 98,55 ha. KCN này hiện chưa bồi thường, GPMB, chưa xây

49

dựng hạ tầng.[8]

Bảng 2.5: Tỷ lệ lấp đầy tính theo các KCN đang hoạt động, năm 2011

Diện tích Diện tích có thể cho thuê đã đất đã Tỷ lệ lấp đầy TT xây dựng cơ sở hạ tầng cho thuê (%) (ha) (ha)

KCN Kim Hoa 50 50 100

KCN Khai Quang 135,78 124 91,32

KCN Bình Xuyên 139 101,4 72,9

KCN Bá Thiện 207,92 126 60,6

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

Như vậy, có thể thấy mặc dù những năm gần đây, đặc biệt là năm 2011

nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động đầu tư vào KCN của

tỉnh Vĩnh Phúc vẫn đạt được kết quả cao. Tỷ lệ lấp đầy KCN tương đối cao,

nếu năm 2005 mới chỉ đạt 50 %, thì đến năm 2008 là năm nền kinh tế bắt đầu

gặp nhiều khó khăn nhưng tỷ lệ lấp đầy vẫn đạt 77,6 %. Đến năm 2010 là

74,6 %, năm 2011 là 78,1 %. Đây là con số khá cao so với các tỉnh bạn có

điều kiện tương tự như Vĩnh Phúc. Nếu tính riêng các KCN đã hoạt động ổn

định thì tỷ lệ này còn cao hơn (thể hiện ở bảng 2.5).

- Vốn đầu tư thu hút và vốn đầu tư thực hiện

Trong năm 2011, Ban quản lý các KCN đã làm thủ tục cấp và trình

UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 46 dự án, gồm 40 dự án DDI đầu

tư mới với số vốn đầu tư đăng ký là 1.702,73 tỷ đồng (trong đó có 1.581,4 tỷ

đồng vốn đầu tư cấp mới và 121,33 tỷ đồng của 7 dự án điều chỉnh, tăng vốn),

bằng 25,8% về số dự án, 23,63% về vốn đầu tư so với cùng kỳ, đạt 48,65% kế

hoạch năm và 6 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư 62,46 triệu USD (trong đó

50

có 21,28 triệu USD vốn đầu tư cấp mới và 41,18 triệu USD của 11 dự án điều

chỉnh tăng vốn), bằng 60% về số dự án và 24,637% về vốn đầu tư so với cùng

kỳ, đạt 31,23% kế hoạch năm.

Đến hết năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 622 dự án thực hiện thủ tục đầu

tư qua Ban còn hiệu lực, gồm 118 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 2.342,17

triệu USD và 504 dự án DDI với tổng vốn đầu tư 27.006,63 tỷ đồng (Chưa

bao gồm 17 dự án thuộc lĩnh vực đô thị, du lịch với tổng vốn đầu tư 4.456,66

tỷ đồng). Trong đó:

- Đầu tư trong KCN: có 118 dự án, chiếm 18,97% tổng số dự án, gồm

84 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 1.948,30 triệu USD, chiếm 83,19% tổng

VĐT của các dự án FDI và 34 dự án DDI với tổng vốn đầu tư là 3.804,61 tỷ

đồng, chiếm 14,09% tổng VĐT.

- Đầu tư ngoài KCN: có 504 dự án, chiếm 81,03% tổng số dự án, gồm

có 34 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 393,82 triệu USD, chiếm 16,81% tổng

VĐT của dự án FDI và 470 dự án DDI với tổng vốn đầu tư là 23.202,02 tỷ

đồng, chiếm 85,91% tổng VĐT của các dự án DDI.

Tổng vốn đã đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN đạt 646,75 tỷ

đồng và 31,69 triệu USD. Riêng trong năm 2011, giá trị thực hiện đầu tư xây

dựng xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN của các dự án kinh doanh hạ tầng

kỹ thuật KCN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1,4 triệu USD và các dự

án có vốn đầu tư trực tiếp trong nước đạt 67 tỷ đồng. [7]

Bảng 2.6: Nguồn vốn đầu tư vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân theo

51

KCN tính đến 2010

Đơn vị Tổng Vốn Vốn Tỷ lệ vốn thực

Tên KCN tính số dự đăng thực hiện/tổng vốn

án ký hiện đầu tư (%)

Khai Quang Triệu USD 58

Trong đó: FDI Triệu USD 43 300,42 211,59 70,43

DDI Tỷ đồng 15 575,85 210,46 36,5

Bình Xuyên Triệu USD 39

Trong đó: FDI Triệu USD 21 179,23 93,19 51,99

DDI Tỷ đồng 18 1259,2 1248,5 99,2%

Kim Hoa

FDI Triệu USD 01 290,43 234,35 80,69

Bá Thiện

FDI Triệu USD 12 614,80 9,61 1,56

Bình Xuyên II

0,00 FDI Triệu USD 2 218,0 0

Tổng 112

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

Tuy đã thu hút được số lượng lớn các dự án đầu tư, vốn đầu tư lớn

nhưng vốn đầu tư thực hiện chưa cao. Chỉ tính riêng vốn FDI, ngay cả những

KCN đã thành lập từ lâu thì vốn thực hiện vẫn thấp: KCN Kim Hoa đạt cao

nhất 80,69 %, KCN Khai Quang đạt 70,43 %, KCN Bình Xuyên đạt 51,99 %.

Điều này đặt ra cho các nhà quản lý cần tăng cường kiểm tra, giám sát để

nâng cao tỷ lệ vốn thực hiện. [7]

- Về số dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư

Bảng 2.7: Số dự án và vốn đầu tư tại các KCN Vĩnh Phúc từ 1998 – quý

52

I/2010 (Đơn vị: Triệu USD)

Trong đó Tổng FDI DDI

Năm

Dự án Vốn Vốn/dự án Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư

1998-2004 16 159,17 9,95 16 159,17 - -

2005 10 56,37 5,64 10 56,37 - -

2006 35 97,41 2,78 9 30,84 26 66,57

2007 18 745,48 41,42 16 728,78 2 16,70

2008 25 516,96 20,68 22 514,20 3 2,76

2009 4 77,32 19,33 3 75,52 1 1,80

Quí I/2010 4 7,35 1,84 3 6,00 1 1,35

14,82 Tổng 112 1.660,05 79 1.570,88 33 89,17

Các KCN Vĩnh Phúc có số dự án đầu tư tương đối lớn, điều này thể

hiện phần nào sự hấp dẫn của các KCN đối với các nhà đầu tư, trong đó năm

2006 thu hút được 35 dự án đầu tư, tiếp đến là năm 2008 với 25 dự án đầu tư,

năm 2007 với 18 dự án đầu tư. Tuy nhiên số vốn trên một dự án còn thấp và

không đồng đều giữa các năm. Năm 2006 có 35 dự án đầu tư nhưng số vốn

trên một dự án chỉ đạt 2,78 triệu USD phản ánh tính manh mún và dàn trải

của các dự án đầu tư, trong khi đó năm 2009 chỉ có 4 dự án đầu tư nhưng số

vốn trên một dự án đạt 19,33 triệu USD. Điều này đặt ra cho chúng ta thấy

cần có sự chọn lựa các dự án đầu tư, không nên tiếp nhận những dự án đầu tư

vốn quá thấp, không nên chạy theo số lượng dự án đầu tư. Cần tìm kiếm

những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính lớn, ổn định đảm bảo cho quá trình sản

xuất kinh doanh.

Bảng 2.8 : Dự án FDI đầu tư vào KCN phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ

53

Stt Quốc gia và vùng Số dự án Tổng vốn đầu tư Diện tích (ha)

lãnh thổ (1.000USD)

41 22 11 3 1 1 1 1 1 1 83 1.224.208,0 152.152,5 395.427,1 3.710,0 2.500,0 5.000,0 5.000,0 6.000,0 45.000,0 5.000,0 1.843.997,6 1 Đài Loan 2 Hàn Quốc 3 Nhật 4 Trung Quốc 5 Malaysia 6 Mỹ 7 Samoa 8 Ấn Độ 9 Ý 10 Cộng hoà Seychelles Tổng

223,1 57,2 88,0 3,4 1,0 0 1,7 2,5 8,0 0,9 385,8 Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc Bảng 2.8 cho thấy các dự án đầu tư vào KCN Vĩnh Phúc chủ yếu vẫn là các quốc gia châu Á, đứng đầu là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Cần tăng cường xúc tiến đầu tư và cải cách thủ tục hành chính để thu hút được các nhà đầu tư từ Mỹ và EU, là những nhà đầu tư tiềm năng.

- Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN + Giá trị sản xuất công nghiệp:

Bảng 2.9: GTSXCN của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2005 đến 2010 (tính theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng

Năm 2007 2008 2009 2010

15.504,01 28.427,86 32.514,48 34.118,00 9.940,50 18.797,52 21.815,44 2.3789,68

64,12 66,12 67,09 69,73

18,60 29,24 32,51 36,43 GTSXCN toàn tỉnh GTSXCN trong KCN Tỷ trọng so với tổng GTSXCN toàn tỉnh (%) Tỷ trọng GTSXCN KCN so với GDP (%)

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

54

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao do thu hút được nhiều dự

án từ khu vực FDI và DDI, các doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, sản lượng

các sản phẩm chủ yếu đều tăng cao, năm 2010 sản lượng một số sản phẩm

chính đạt được: ô tô 34.426 chiếc, tăng 21,7%/năm; xe máy các loại 1,9 triệu chiếc, tăng 25%/năm; gạch ốp lát 39 triệu m2, tăng bình quân 51,1%/năm,

quần áo các loại 45,4 triệu chiếc, tăng bình quân 47,3%/năm, gạch xây dựng

700 triệu viên, tăng bình quân 9,5%/năm… Bên cạnh đó, nhiều dự án mới đi

vào hoạt động đã góp phần tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp. [60]

Tỷ trọng GTSXCN trong KCN so với tổng GTSXCN toàn tỉnh ở mức

độ khá cao, ổn định và có sự tăng trưởng liên tục qua các năm. Năm 2007 là

64,12, năm 2009 là 64,12, năm 2010 là 69,73. Riêng năm 2011, giá trị sản

xuất công nghiệp đạt 229,46 tỷ đồng/ha, chiếm 70% tổng GTSXCN toàn tỉnh.

Tỷ trọng GTSX KCN so với GDP cũng ở mức cao, tăng trưởng liên tục đồng

đều qua các năm, đến năm 2011 chiếm khoảng 40 %. Tuy thời gian phát triển

chưa lâu, song các KCN tại Vĩnh Phúc đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra

nhiều giá trị SXCN, đẩy nhanh quá trình CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Các KCN đã từng bước đưa Vĩnh Phúc tham gia vào quá trình phân công lao

động quốc tế theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa, khai thác tốt nhất

những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển

chung của nền kinh tế.

+ Về giá trị xuất khẩu:

Bảng 2.10: Giá trị xuất khẩu của các KCN

Đơn vị: triệu USD

2008 2009 2010

2007 216,3 175,0 80,9 343,8 375,6 290,0 314,73 83,8 84,4 377,5 322,4 79,0 Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh Kim ngạch xuất khẩu của các KCN Tỷ trọng (%)

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

55

Cho đến trước năm 2004, các DN đi vào hoạt động chủ yếu là các DN

có vốn đầu tư trong nước, thực hiện vốn đầu tư tại KCN với mục tiêu di

chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu tại các KCN gần

như không có. Từ năm 2005, khi các DN mới bước đầu ổn định sản xuất, với

sự đóng góp của các DN đầu tư nước ngoài kim ngạch xuất khẩu mới bắt đầu

khởi sắc. Với những cơ chế chính sách đặc thù, khuyến khích các DN trong

KCN xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài, nên kim ngạch xuất khẩu của các

DN trong KCN Vĩnh Phúc tăng trưởng mạnh, là động lực giúp hoạt động

ngoại thương của Vĩnh Phúc đạt kết quả cao như hiện nay. Đặc biệt, kim

ngạch xuất khẩu của các KCN tăng cao bắt đầu từ năm 2007 nhờ có nhiều dự

án đầu tư của các nước lớn và tập đoàn lớn. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu

của các KCN đạt 175,0 triệu USD, chiếm 80,9 % tổng kim ngạch xuất khẩu

toàn tỉnh. Đến năm 2008, chỉ số này tăng đột biến, tổng kim ngạch xuất khẩu

đạt 290,0 triệu USD, chiếm 84,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Năm

2010, nền kinh tế của tỉnh gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của khủng

hoảng kinh tế chung, nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 322,4 triệu USD,

chiếm 79 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Đây là chỉ số rất cao phản

ánh sự phát triển của các KCN Vĩnh Phúc trong việc chiếm lĩnh thị trường

quốc tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho tỉnh nhà. Các chỉ số này tăng cao

liên tục và ổn định, so với các tỉnh lân cận thì chỉ số này của Vĩnh Phúc cao

hơn nhiều.

+ Về thu nộp ngân sách: `

Bảng 2.11. Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc

2008 2009

5.704,606 9.400,258 2.799,21 1.514,84 2010 10.174,097 2.525,21

Tổng ngân sách tỉnh (tỷ đồng) Thu từ khu công nghiệp (tỷ đồng) Tỷ trọng thu từ KCN/tổng thu (%) 30 27

25 Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

Số thu nộp ngân sách nhà nước của các KCN chủ yếu từ các loại thuế.

56

Theo các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì các DN KCN đều được

miễn giảm thuế thu nhập DN trong 4 năm và được giảm 50 % số thuế phải

nộp cho 8 năm tiếp theo kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Do đó, thu ngân sách

Nhà nước của các KCN chủ yếu từ thuế giá trị gia tăng, thuế môn bài nên số

thu nộp chưa cao. Năm 2008, đạt 1.514,84 tỷ đồng chiếm 27% tổng thu ngân

sách của tỉnh; năm 2009 đạt 2.799,21, chiếm 30% tổng thu ngân sách; năm

2010 đạt 2.525,21, chiếm 25% tổng thu ngân sách của tỉnh.

Hiện nay, KCN Khai Quang nộp ngân sách năm 2011 là 750,5 tỷ đồng;

KCN Bình Xuyên nộp ngân sách năm 2011 là 517 tỷ đồng; riêng Công ty

Honda nộp ngân sách năm 2011 là 4.500 tỷ đồng (bao gồm cả thu nội địa và

thuế xuất nhập khẩu). Những con số này cho thấy vai trò quan trọng của KCN

trong việc đóng góp vào tổng thu ngân sách của tỉnh. [7]

+ Về giải quyết việc làm:

Ban quản lý các KCN chưa được ủy quyền thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về lao động trong các KCN theo quy định tại Nghị định số

29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế

xuất và khu kinh tế và Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 26/5/2009

của Bộ lao động thương binh và Xã hội về hướng dẫn nhiệm vụ quản lý NN

về lao động các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế công nghệ cao.

Nhưng năm 2011 Ban vẫn chủ động chỉ đạo phòng chuyên môn nắm bắt về

biến động lao động trong khu công nghiệp; kiểm tra, nắm bắt tình hình sử

dụng lao động, kế hoạch tuyển dụng lao động và tình hình thực hiện các chính

sách đối với người lao động của các doanh nghiệp, đặc biệt là việc điều chỉnh

lương tối thiểu cho người lao động theo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ngày

22/8/2011 của Chính phủ; phối hợp với các cơ quan có liên quan giúp đỡ

doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong công tác tuyển dụng

lao động; Chủ động tổ chức Hội thảo với các Trường, Trung tâm đào tạo nghề

57

trong tỉnh tìm biện pháp tháo gỡ, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác tuyên

truyền và tuyển dụng lao động; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đề án

Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.

Nhờ đó, đến nay các KCN của tỉnh đã giải quyết việc làm cho gần

40.000 lao động, đó là chưa tính số lao động làm việc trong các DN xây dựng

hạ tầng KCN và số lao động cung cấp dịch vụ cho các KCN. Tỷ lệ lao động

địa phương trong các KCN đạt gần 60%. Công ty Honda giải quyết 8.629 lao

động, KCN Khai Quang giải quyết 22.722 lao động. [7]

Việc thu hút lao động làm việc tại KCN phụ thuộc rất lớn vào quy mô

của DN, vào chủ trương chính sách của tỉnh. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra

hiện nay cần có sự quan tâm giải quyết của cả cơ quan quản lý nhà nước và

của các DN KCN là công nhân làm việc trong KCN phần lớn là lao động phổ

thông, chưa qua đào tạo nghề hoặc chỉ đào tạo nghề ngắn hạn dẫn đến trình

độ tay nghề kỹ thuật của họ không đáp ứng được yêu cầu của DN, các DN

phải đối mặt với tình trạng thừa nhân lực phổ thông nhưng lại thiếu nhân lực

có trình độ tay nghề cao, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho

các ngành công nghệ cao. Bên cạnh đó, ý thức của người lao động chưa tốt,

DN có thể phải gửi đi đào tạo hoặc đào tạo lại nhưng khi đã quen nghề, thạo

việc họ có thể bỏ việc bất cứ lúc nào, điều này khiến các DN luôn lo lắng về

số lượng lao động của mình cũng như gây rất nhiều khó khăn cho DN trong

công tác quản lý lao động, và các chế độ chính sách liên quan.

- Hiệu quả đầu tư trên một đơn vị diện tích đất KCN

Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Kim Hoa tính cho 01 ha:

+ Thu hút được 5,34 triệu USD.

+ Giải quyết được 122 lao động.

+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 378,8 tỷ đồng/ha (giá cố định 94).

+ Thu ngân sách năm 2011: 62,14 tỷ đồng.

58

Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Khai Quang:

+ Suất đầu tư trung bình: 5,96 triệu USD/01 ha (bao gồm cả dự án FDI

và DDI, nếu tính riêng dự án FDI thì suất đầu tư trung bình đạt 7,39 triệu

USD/ha).

+ Trung bình giải quyết được 195 lao động/01 ha.

+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 30,89 tỷ đồng/ha (giá cố định 94).

+ Thu ngân sách năm 2011 bình quân đạt 5,1 tỷ đồng/01 ha (hiện các

doanh nghiệp đang trong thời gian được miễn, giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp).

Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Bình Xuyên:

+ Suất đầu tư trung bình: 2,5 triệu USD/01 ha (bao gồm cả dự án FDI

và DDI, nếu tính riêng dự án FDI thì suất đầu tư trung bình đạt 3,85 triệu

USD/ha).

+ Trung bình giải quyết được 60 lao động/01 ha.

+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 34,7 tỷ đồng./ha (giá cố định 94).

+ Thu ngân sách năm 2011 bình quân đạt 7,05 tỷ đồng/01 ha (hiện các

doanh nghiệp đang trong thời gian được miễn, giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp). [9]

Như vậy, có thể thấy hiệu quả đầu tư trên một đơn vị diện tích đất (1

ha) KCN ở Vĩnh Phúc là khá cao, điều này chứng tỏ diện tích đất trong các

KCN của Vĩnh Phúc được khai thác khá triệt để và đem lại hiệu quả cao. Tuy

nhiên, có sự không đồng đều về các chỉ số giữa các KCN, nguyên nhân chủ

yếu là do địa điểm đặt KCN có sự khác nhau về vị trí, không gian và đặc biệt

là sự tiện ích cho các DN; ngoài ra còn do có sự khác nhau khá lớn về các dự

án đầu tư, các dự án lớn, có trình độ công nghệ hiện đại chủ yếu tập trung ở

KCN Kim Hoa, do đó các chỉ số ở KCN này cao hơn hẳn so với các KCN

khác.

59

- Trình độ công nghệ của các DN

Trình độ công nghệ của các DN phản ánh khả năng cạnh tranh của các

DN trong nội bộ KCN cũng như giữa các KCN với nhau. Các DN đầu tư vào

KCN Vĩnh Phúc đa số thực hiện dự án đầu tư mới gắn với việc đầu tư máy

móc, thiết bị mới phục vụ sản xuất. Số DN đầu tư di chuyển địa điểm ít,

chiếm tỷ lệ thấp. Tỷ lệ máy móc, thiết bị mới được đầu tư để sản xuất tại các

KCN Vĩnh Phúc chiếm trên 90% so với tổng số máy móc, thiết bị sử dụng.

Nguồn gốc xuất xứ của máy móc, thiết bị chủ yếu tập trung ở một số nước

như: Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore; một số ít có

xuất xứ từ Mỹ, Anh, Đức.

Vốn đầu tư thực hiện việc mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất chiếm

khoảng 45% đến 50% tổng vốn đầu tư của dự án (theo thống kê cơ cấu vốn

đầu tư tại Hồ sơ dự án xin cấp GCNĐT), chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu

vốn đầu tư của dự án. Điều đó cho thấy các DN rất quan tâm đến đầu tư máy

móc, thiết bị phục vụ sản xuất.

Việc thực hiện nghiên cứu đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới

vào sản xuất tại các KCN chủ yếu được các DN lớn, tập đoàn lớn đầu tư:

Honda, Toyota (Nhật), Piaggio (Italia), Foxcon, Compal, Fullpower (Đài

Loan), G.O. Max, Kumho, Lotte (Hàn Quốc), YCH (Singapore). Còn lại chưa

được các DN khác quan tâm đúng mức, đa số các DN vẫn áp dụng công nghệ

truyền thống mà DN đang sử dụng. Vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu đổi

mới và áp dụng công nghệ mới thấp.

Như vậy, đa số các DN trong KCN sử dụng máy móc mới, đặc biệt có

những DN sử dụng công nghệ hiện đại hàng đầu hiện nay, điều đó vừa tạo ra

năng suất lao động cao, vừa giải quyết các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường

phát sinh từ KCN.

- Về chuyển dịch cơ cầu kinh tế

60

Với tốc độ tăng trưởng nhanh về GTSXCN, các KCN Vĩnh Phúc đã tác

động mạnh đến sự chuyển dịch cơ cầu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng tỷ

trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành sản xuất

nông nghiệp, thực sự trở thành nhân tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cầu

kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Có thể nói, cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc là tương đối đặc thù so với

các tỉnh trong vùng và cả nước, ngay từ khi tái thành lập tỉnh, công nghiệp và

xây dựng có tỷ trọng thấp song sau hơn 10 năm phát triển, công nghiệp chiếm

tỷ trọng rất cao trong cơ cấu GDP, tới gần 60%.

Bảng 2.12: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 – 2010

Đơn vị tính: %

Ngành và lĩnh vực kinh 1997 2000 2005 2008 2009 2010

tế

Nông – lâm – ngư nghiệp 55,7 31,20 21,20 17,71 12,9 14,9

Công nghiệp – xây dựng 12,7 38,97 52,30 58,34 58,3 56,2

Dịch vụ 31,6 29,83 26,50 23,95 28,8 28,9

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2010

Trong thời kỳ 2001-2005 cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc chuyển dịch

khá nhanh: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng tăng 12,01

điểm (%) từ 40,68% năm 2000 lên 52,69% vào năm 2005. Tỷ trọng này còn

tiếp tục tăng lên và đạt cao nhất 59,93% vào năm 2007 (tăng 7,24 điểm (%) so

với năm 2005) và năm 2008 giảm đôi chút xuống 57,50% và tiếp tục giảm

còn khoảng 56,2%năm 2010; khu vực dịch vụ có xu hướng giảm tỷ trọng

trong GDP từ 27,86% năm 2005 xuống 24,48% năm 2008 sau đó tăng lên

28,9% vào năm 2010; trong khi tỷ trọng ngành nông-lâm-thủy sản giảm liên

tục rất nhanh từ 28,94% năm 2000 xuống còn 19,45% vào năm 2005 và

61

14,9% năm 2010. Như vậy có thể thấy cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc chuyển dịch

mạnh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tuy nhiên, tỷ trọng khu vực dịch

vụ tăng còn chậm. [60]

Nếu xét theo tỷ lệ đóng góp, ta thấy năm 1997 khi Vĩnh Phúc mới tái

lập tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tới 55,7%, công nghiệp chỉ có 12,7%

và dịch vụ chiếm 31,6%. Đến năm 2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm

xuống còn 21,20%, ngành công nghiệp tăng lên 52,30% và ngành dịch vụ là

26,50%. Năm 2010, tỷ trọng của ngành nông nghiệp chỉ còn 14,9%, ngành

công nghiệp tăng mạnh lên 56,2% và ngành dịch vụ là 28,9%. Với tỷ trọng

của ngành công nghiệp lên đến trên 50% cơ cấu nền kinh tế cho thấy Vĩnh

Phúc đã cơ bản tiến đến việc trở thành tỉnh công nghiệp.

- Thúc đẩy việc phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng

Sự phát triển nhanh chóng của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã kích thích

sự phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương với số lượng và chất

lượng ngày càng cao.

Vĩnh Phúc có mạng lưới giao thông khá phát triển với 3 loại: giao

thông đường bộ, đường sắt, đường sông. Nhiều tuyến được đầu tư đã mang lại

hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội. Giao thông đô thị và giao thông nông thôn

đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, đảm bảo thông thương và giao lưu kinh tế

giữa các địa phương trong tỉnh và với bên ngoài.

Tổng chiều dài đường bộ là 4.058,4km trong đó: Quốc lộ: 105,3km;

Đường tỉnh: 297,55km; Đường đô thị 103,5km; đường huyện 426km; đường xã

3.136km. đã từng bước xây dựng với quy mô hiện đại đáp ứng được nhu cầu

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của

đất nước.

Trong 10 năm qua dịch vụ thông tin liên lạc trong tỉnh phát triển khá

nhanh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong quản lý,

62

kinh doanh và đời sống xã hội. Đến nay, 100% số xã và 95% số thôn có máy

điện thoại. Dịch vụ điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh. Tính đến năm

2010 mật độ thuê bao trên địa bàn (bao gồm cả cố định và di động) đạt 92

máy/100 dân (trong đó thuê bao cố định là 19,69 máy/100 dân). [60]

Các dịch vụ tín dụng, tài chính ngân hàng phát triển nhanh và ngày

càng đa dạng về hình thức cũng như chất lượng dịch vụ. Dịch vụ tài chính của

các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã đáp ứng được nhu cầu

vay vốn cũng như cho vay phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của người

dân và doanh nghiệp.

Hệ thống cấp điện được đầu tư xây dựng hiện đại, đảm bảo cấp điện

sinh hoạt cho 100% các hộ và cấp đủ điện cho sản xuất công nghiệp. Hệ

thống cấp nước sạch đã được hoàn thiện và thực hiện việc cấp nước sạch đầy

đủ cho các đô thị, hiện đang được tiếp tục đầu tư để cấp nước sạch cho khu

vực nông thôn

- Chuyên môn hóa và liên kết kinh tế

Đây là một mục tiêu của việc xây dựng các KCN tập trung, vì các DN

cùng nằm trong một KCN là điều kiện thuận lợi để chuyên môn hóa và liên

kết kinh tế. Các KCN Vĩnh Phúc chủ yếu là các DN hoạt động trong một số

ngành: may mặc, điện, điện tử, cơ khí, sản xuất và lắp giáp ô tô, xe máy, sản

xuất vật liệu xây dựng, chế biến. Ngoài ra có một số DN hoạt động trong lĩnh

vực dịch vụ: vận tải, kho bãi, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông, ngân

hàng...

Với đặc thù đó, mối liên kết kinh tế chủ yếu được thực hiện giữa các

DN sản xuất với các DN dịch vụ trong các lĩnh vực bưu chính viễn thông,

ngân hàng, có một số DN thực hiện tốt mối liên kết kinh tế: Công ty ốc vít và

các công ty cơ khí, lắp máy; xí nghiệp sản xuất bao bì có mối liên kết kinh tế

với các DN điện, điện tử, vật liệu xây dựng...Mối liên kết giữa các DN sản

63

xuất với các DN vận tải trong KCN chưa nhiều, chủ yếu các DN quan hệ với

các DN vận tải bên ngoài.

Mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các KCN với nhau, giữa các KCN với

các cụm công nghiệp thấp, ít có sự liên kết về tổ chức sản xuất mà chủ yếu là

liên kết sử dụng các sản phẩm hỗ trợ phục vụ sản xuất, cung cấp dịch vụ;

trang thiết bị văn phòng, văn phòng phẩm, cung cấp suất ăn công nghiệp, dịch

vụ vệ sinh; thu gom phế liệu, phế thải; cung cấp lao động. Những mối liên hệ

này có giá trị gia tăng không cao.

Các KCN chưa có nhiều hỗ trợ về kỹ thuật đối với các DN sản xuất bên

ngoài, chưa có DN sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ những ngành nghề bên

ngoài. Chủ yếu mới dừng lại ở việc tạo ảnh hưởng về việc áp dụng trình độ

quản lý hoạt động sản xuất đối với các DN bên ngoài.

Như vậy, mối liên kết kinh tế giữa các DN trong các KCN; giữa các

KCN với nhau; giữa các doanh nghiệp KCN với các DN bên ngoài chưa cao.

Sự liên kết chỉ trong phạm vi hẹp, chưa đi vào chiều sâu là liên kết trong tổ

chức sản xuất và lưu thông hàng hóa, chưa có sự hỗ trợ nhiều cho nhau.

- Mức độ thỏa mãn nhu cầu của nhà đầu tư

Trong việc quản lý đối với hệ thống KCN, Chủ tịch UBND tỉnh là

người chỉ đạo các cơ quan hữu quan của tỉnh và các chủ đầu tư lập và thực

hiện Dự án đầu tư các KCN theo phương án phân kỳ hợp lý, phù hợp với khả

năng thu hút đầu tư, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và theo đúng quy định

hiện hành.

Về cơ bản, hạ tầng của các KCN đều được đảm bảo với: trạm điện công

suất lớn, đáp ứng nhu cầu sản xuất, có hệ thống đường giao thông thuận tiện,

nhà máy nước cấp và thoát nước thuận lợi, hệ thống thoát nước và xử lý nước

thải; các dịch vụ tài chính, ngân hàng, hải quan thuận tiện. Trên xu hướng đáp

ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao, tỉnh Vĩnh Phúc cũng tập trung đầu tư xây

64

dựng hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống KCN ngày càng đồng bộ, hiện đại, theo tiêu

chuẩn quốc tế, đảm bảo gắn kết đồng bộ cơ sở hạ tầng bên trong KCN với hạ

tầng xã hội bên ngoài tạo thành khu công nghiệp – đô thị hiện đại.

Bên cạnh đó, các KCN đều có quy hoạch Khu trung tâm điều hành, bố

trí các DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như: ngân hàng, bưu chính viễn

thông; đặt trụ sở giao dịch của các DN trong và ngoài KCN; có văn phòng đại

diện của các cơ quan quản lý: Ban quản lý các KCN, Hải quan, Thuế, Công ty

đầu tư phát triển hạ tầng...Đảm bảo cho việc tháo gỡ kịp thời những khó khăn

vướng mắc, đồng thời thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.

Với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, chất lượng tốt, các

KCN Vĩnh Phúc đã thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều

đó đã thấy rõ qua việc thu hút đầu tư, tỷ lệ lấp đầy, tổng vốn đầu tư... Đã được

phân tích ở phần trên, hơn nữa qua điều tra khảo sát của Phòng thương mại và

công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Vĩnh

Phúc luôn được các nhà đầu tư và DN đánh giá cao:

Năm 2005: điều tra 6.200 DN tại 42 tỉnh, thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị

trí thứ 5.

Năm 2006: Tiến hành điều tra trên 6.300 DN địa phương của cả 64

tỉnh, thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 4.

Năm 2007: Chỉ số PCI điều tra 6.700 DN dân doanh trên 64 tỉnh và

thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 7.

Năm 2008: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 7.820 DN trên 64 tỉnh,

thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 3

Năm 2009: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 9.890 DN trên 63 tỉnh,

thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 6

Năm 2010: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 7.300 DN dân doanh và

1.155 DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên 63 tỉnh, thành phố. Vĩnh

65

Phúc đứng vị trí thứ 15

Có thể thấy, sự phát triển và coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh,

trong đó quan tâm tới hệ thống KCN là một trong những việc làm được chính

quyền tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm triển khai. Việc phát huy thế mạnh

của hệ thống KCN này với sự phát triển kinh tế của địa phương, sẽ góp phần

thực hiện mục tiêu chung sớm đưa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có nền công

nghiệp phát triển, thu hút các dự án đầu tư quy mô, có sức phát triển bền

vững, đạt mục tiêu trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2015.

- Tác động tới môi trường

Hiện nay 4 khu công nghiệp đang hoạt động (Kim Hoa, Khai Quang,

Bình Xuyên và Bá Thiện) đã có trạm xử lý nước thải, có hệ thống thoát nước

mưa và nước thải riêng biệt, đang triển khai hệ thống xử lý nước thải tại 3

KCN Bình Xuyên II, Bá Thiện II và Phúc Yên; tỉnh đang đầu tư Hợp phần

thoát nước và xử lý nước thải thành phố Vĩnh Yên thuộc dự án Cải thiện môi

trường đầu tư để dần hoàn thiện hệ thống hạ tầng đô thị Vĩnh Yên; KCN Khai

Quang đã có 35/51 doanh nghiệp đã tiến hành đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung với tổng công suất là 5.800m3/ngày đêm;

KCN Bình Xuyên có 11/34 doanh nghiệp đã tiến hành ký hợp đồng đấu nối

nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung công suất 3.000m3/ngày đêm. [7]

Các KCN còn lại đều được quy hoạch trạm xử lý nước thải tập trung;

các doanh nghiệp chủ đầu tư hạ tầng có trách nhiệm xây dựng và vận hành

trạm xử lý nước thải trước khi doanh nghiệp trong KCN đi vào sản xuất, công

suất các trạm được thiết kế phù hợp.

Việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải rắn,

lỏng, khí trong KCN (về xây dựng trạm xử lý cục bộ, đấu nối hệ thống thoát

66

nước thải sinh hoạt, công nghiệp; phân loại, vận chuyển, xử lý rác thải…):

Về cơ bản các cơ sở sản xuất kinh doanh có đầy đủ các hồ sơ thủ tục về

lĩnh vực bảo vệ môi trường như: lập báo cáo đánh giá tác động hoặc đăng ký

bản cam kết bảo vệ môi trường được các cơ quan có chức năng phê duyệt

trước khi đi vào hoạt động sản xuất. Trong quá trình hoạt động các hầu hết

các doanh nghiệp đã tiến hành đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại;

thực hiện giám sát môi trường định kỳ hàng năm; ký hợp đồng xử lý nước

thải sản xuất với chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN để thu gom về hệ thống xử

lý nước thải chung của toàn khu.

Như vậy, có thể nói công tác bảo vệ môi trường ở các KCN được tỉnh

cũng như các DN, các nhà đầu tư hết sức quan tâm, nhờ đó mà những tác

động đến môi trường đã được đảm bảo, giảm thiểu những ảnh hưởng xấu đến

môi trường, là điều kiện quan trọng cho sự phát triển bền vững.

2.2.3. Đánh giá chung về vai trò của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc

2.2.3.1. Những đóng góp tích cực của các KCN

Từ nghiên cứu thực trạng và phân tích những tác động hiện có của các

KCN Vĩnh Phúc, chúng tôi nhận thấy, các KCN đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng và có những đóng góp tích cực, có thể khái quát những đóng góp

chủ yếu của các KCN trên các lĩnh vực sau:

- Tăng cường thu hút đầu tư và phát triển ngành công nghiệp của tỉnh.

Như đã phân tích ở phần trên, sự phát triển của các KCN trong thời gian qua

đã tạo ra bước phát triển vượt bậc trong thu hút đầu tư phát triển công nghiệp.

Với cơ chế thông thoáng cởi mở, các ưu đãi hấp dẫn, cùng với cơ sở hạ tầng

đồng bộ, hiện đại đã giúp Vĩnh Phúc thu hút đầu tư nhanh chóng, từ một tỉnh

thuần nông Vĩnh Phúc đã trở thành địa phương phát triển công nghiệp hàng

đầu cả nước với nguồn vốn đầu tư lớn.

- Góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách. Như bảng 2.1,

67

bảng 2.11 đã cho thấy, sự phát triển của các KCN đã góp phần quan trọng

trong thu ngân sách, tăng kim ngạch xuất khẩu và đồng thời góp phần trực

tiếp vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cầu kinh tế của địa phương theo

hướng CNH, HĐH. Khi mới tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc có cơ cấu kinh tế lạc hậu,

chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp. Nhờ vào quá trình phát triển các

KCN đã giúp cho cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch nhanh chóng theo

hướng giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của ngành

công nghiệp và dịch vụ (bảng 2.12).

- Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đào tạo và nâng cao trình độ

của người lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của các KCN, các DN đã tạo ra

được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, kể cả lao động trực tiếp và

lao động gián tiếp. Hiện nay có khoảng 50% lao động làm việc trong các

KCN là những người nghèo, nếu chỉ trông chờ vào đồng ruộng thì khó có thể

thoát nghèo, KCN đã tạo ra thu nhập cho họ cũng có nghĩa là góp phần xóa

đói giảm nghèo cho địa phương. Theo tính toàn hiện nay mức thu nhập bình

quân của người lao động trong các KCN ở Vĩnh Phúc đạt khoảng 1.700.000

đồng/tháng. Đây là con số chưa cao nhưng đã giúp người lao động có thu

nhập ổn định, cải thiện đời sống.

Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của các KCN cùng với trình độ

công nghệ ngày càng hiện đại đã tạo sức ép cho việc đào tạo nguồn nhân lực

đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các DN, nhờ đó việc đào tạo nguồn lao động

được quan tâm, giúp cho tay nghề của người lao động được nâng lên.

- Tác động lan tỏa tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác trên địa bàn

tỉnh. Sự phát triển của các KCN còn có tác động lan tỏa tích cực tới nhiều

ngành nghề và lĩnh vực. Các KCN góp phần mở rộng thị trường các yếu tố

đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng thu

68

ngoại tệ; có vai trò nhất định trong việc phát triển nguồn nhân lực cũng như

chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại; góp phần du nhập kỹ thuật

và công nghệ mới tiên tiến; sự phát triển của các KCN còn hình thành các khu

đô thị hiện đại theo quy hoạch KCN; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ngoài hàng

rào KCN; phát triển các loại hình dịch vụ: tài chính ngân hàng, bưu chính

viễn thông, bảo hiểm...

- Hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn. Qúa trình phát triển các

KCN Vĩnh Phúc không chỉ phát triển ngành công nghiệp nói chung mà còn

hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn, là thế mạnh trong cạnh tranh:

sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy; sản xuất máy tính xách tay; điện thoại di

động; điện tử công nghệ cao; cơ khí chế tạo động cơ...Những ngành này đều

đến từ những thương hiệu nổi tiếng.

Như vậy, các KCN Vĩnh Phúc đã có những tác động to lớn, thúc đẩy sự

phát triển KT-XH của tỉnh nhà. Đòi hỏi, trong thời gian tới cần có chính sách

và cơ chế chế quản lý phù hợp đảm bảo sự phát triển của các KCN, nhằm phát

huy tốt những tác động tích cực.

2.2.3.2. Những hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những đóng góp tích cực nêu trên, quá trình phát triển các

KCN Vĩnh Phúc vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu, giải

quyết, đó là:

- Thứ nhất, kết quả thu hút đầu tư các dự án công nghiệp, phát triển

KCN chưa tương xứng với tiềm năm phát triển của tỉnh và thiếu tính bền

vững. Năm 2011 Vĩnh Phúc xếp thứ 20 về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài, như vậy có thể nói công tác thu hút FDI của Vĩnh Phúc chưa lớn.

Nguyên nhân dẫn đến sự tụt giảm trên là do cơ chế, chính sách về đất

đai của tỉnh có những thay đổi, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69 của

Chính phủ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ

69

tái định cư chưa sát thực tế và còn tồn tại cơ chế hai giá trong bồi thường

GPMB. Giá thuê lại đất có hạ tầng trong khu công nghiệp cao hơn các tỉnh

trong khu vực. Cụ thể, giá thuê lại đất 50 năm tại khu công nghiệp Khai

Quang, khu công nghiệp Bình Xuyên khoảng 70-80 USD/m2. Trong khi đó

tại khu công nghiệp Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ chỉ 30-45

USD/m2; các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh khoảng 50-60 USD. [6]

Về nguyên nhân chủ quan, do việc công bố các tài liệu về cơ chế, chính

sách, quy hoạch, kế hoạch và thời gian giải quyết thủ tục hành chính, giải

quyết các khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp của các sở, ban, ngành

còn chậm và chưa đầy đủ. Ngoài ra, do Vĩnh Phúc đang thiếu quỹ đất sạch,

thiếu nguồn lao động có tay nghề cao và các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh

nghiệp. Việc giải quyết đất dịch vụ, đất các hộ dân tái lấn chiếm đất đã

GPMB chưa dứt điểm; công tác vận động, xử lý bảo vệ thi công hiệu quả

chưa cao…

- Thứ hai, quy hoạch KCN còn những hạn chế nhất định. Điển hình là

tình trạng có dấu hiệu quy hoạch "treo" ở KCN Phúc Yên mà dư luận gần đây

cũng như một số cơ quan truyền thông có đề cập đến. Ngoài ra, trong một thời

gian ngắn tỉnh đã trình Chính phủ phê duyệt thêm nhiều KCN ưu tiên thành

lập đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 (nâng tổng số KCN được phê

duyệt là 20) cũng có dấu hiệu "tự phát". Gần đây sau khi rà soát các KCN trên

địa bàn, căn cứ Nghị định số 42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử

dụng đất lúa, trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất tỉnh Vĩnh Phúc lập và hoàn

thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị

điều chỉnh giảm diện tích và đưa ra ngoài quy hoạch 04 KCN, cụ thể như sau:

+ KCN Hội Hợp (150 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa. Đề nghị đưa ra

ngoài quy hoạch danh mục KCN.

+ KCN Nam Bình Xuyên (304 ha): Quỹ đất chủ yếu là đất trồng lúa

70

nước, đề nghị điều chỉnh, đưa ra ngoài danh mục quy hoạch KCN.

+ KCN Vĩnh Tường (200 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa nước, đề nghị

điều chỉnh đưa ra ngoài quy hoạch danh mục KCN.

+ KCN Vĩnh Thịnh (270 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa nước, đất bãi,

đề nghị điều chỉnh, đưa ra ngoài quy hoạch danh mục KCN. [8]

- Thứ ba, tiến độ triển khai thực hiện của nhiều dự án còn chậm so với

tiến độ đăng ký đầu tư. Năm 2011, Ban quản lý các KCN đã làm việc với một

số chủ đầu tư hạ tầng KCN, về tình hình đầu tư, xây dựng kinh doanh hạ tầng

các KCN, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của Chủ đầu tư, từ đó nghiên

cứu, đề xuất các giải pháp phát triển KCN, báo cáo UBND tỉnh. Cụ thể: xem

xét, báo cáo UBND tỉnh gia hạn hoạt động cho dự án KCN Bá Thiện, đồng

thời đôn đốc chủ đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng hạ tầng KCN; hướng dẫn

chủ đầu tư KCN Bá Thiện II hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng hạ

tầng kỹ thuật KCN.

- Thứ tư, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội bức xúc quanh các KCN. Thực

tế thời gian qua cho thấy, việc phát triển các KCN không hài hòa với phát

triển các công trình xã hội (nhà ở cho công nhân, các công trình giáo dục, y

tế, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại...phục vụ đời sông người lao

động). Nhà ở cho công nhân đang là vấn đề gay gắt, mặc dù tỉnh cũng đã có

nhiều cố gắng. Song, nhu cầu về nhà ở ổn định cho công nhân là rất lớn, tạo

áp lực không nhỏ cho doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Theo số liệu

Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, nhu cầu nhà ở cho người lao động các

khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh là trên 16.000 người. Vì chưa có nhà ở nên

đa số công nhân phải thuê nhà tạm bợ để sinh sống, ảnh hưởng rất lớn đến đời

sống vật chất và tinh thần của người lao động, đời sống văn hóa tinh thần của

công nhân chưa được quan tâm đúng mức, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực:

71

mất an ninh trật tự, tệ nạn xã hội...ảnh hưởng đến nhân dân quanh KCN.

- Thứ năm, công tác bồi thường, GPMB, giải quyết việc làm, chuyển

đổi nghề cho người dân mất đất còn chậm. Đặc biệt là vấn đề bồi thường,

GPMB chậm đang là lực cản lớn cho sự phát triển của KCN. Một số KCN

quá trình đền bù, GPMB, thu hồi đất để xây dựng KCN chậm trễ, nhất là

chậm phổ biến công khai quy hoạch đến người dân đã xẩy ra tình trạng khiếu

kiện kéo dài mà không chịu giao đất.

Năm 2011, bồi thường, GPMB trong các KCN được 53,6 ha, trong đó:

+ KCN Khai Quang: Bồi thường, GPMB được 6 ha với 5 hộ dân đã

nhận tiền bồi thường. Hiện KCN này còn tồn tại 14 ha, ở khu Gò Rùa với 24

hộ dân do chưa có khu tái định cư và 3 trang trại các hộ dân chưa nhận tiền

bồi thường.

+ KCN Bá Thiện II: Bồi thường, GPMB được 47,6 ha với với 32 hộ

dân đã nhận tiền bồi thường, đạt 95,2% tổng diện tích đã có phương án bồi

thường. Hiện KCN này còn 2,4 ha với 9 hộ dân chưa nhận tiền bồi thường.

Hiện nay, công tác bồi thường, GPMB ở một số KCN còn nhiều vướng

mắc như: KCN Bình Xuyên còn 0,19 ha đã có phương án bồi thường và 91,7

ha với 1.213 lượt hộ dân xã Sơn Lôi chưa đồng ý kiểm kê; KCN Chấn Hưng

còn 3,6 ha với 31 hộ chưa nhận tiền; KCN Bình Xuyên II còn 0,06 ha với 01

hộ dân chưa nhận tiền bồi thường; KCN Bá Thiện còn 02 hộ đã nhận tiền bồi

thường nhưng chưa di chuyển.

Tồn tại về bồi thường, GPMB ở một số dự án như: Công ty Phanh

Nissin còn 1,85 ha, công ty TNHH Kosei Multipack còn 0,25 ha, Công ty CP

ĐT dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe vướng mắc về thủ tục bồi thường,

GPMB. [7]

- Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Ban quản lý

các KCN luôn chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong quản lý

72

hoạt động của các KCN. Tuy nhiên, còn tồn tại tình trạng buông lỏng trong

quản lý, nhất là quản lý sau cấp phép đầu tư. Điển hình như trường hợp để

chủ đầu tư tại khu công nghiệp Bình Xuyên cho thuê đất trên đất công cộng,

dịch vụ, cây xanh, đường điện (sai quy hoạch). Cụ thể là Dự án Đầu tư xây

dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Bình Xuyên do Công

ty TNHH đầu tư xây dựng An Thịnh làm chủ đầu tư. Công ty này đã được cấp

GCNQSD đất với tổng diện tích 1.295.623,5 m2, trong đó có cả đất xây xanh,

đất giao thông và đất đầu mối kỹ thuật. Tuy nhiên, khi triển khai dự án, chủ

đầu tư đã cho thuê lại đất để thực hiện xây dựng một số công trình trên đất,

sai quy hoạch với diện tích là 37.581 m2. Về phía Ban quản lý các khu công

nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, đã thẩm định một số dự án thiếu chính xác về năng

lực tài chính và kinh nghiệm. Cụ thể là trường hợp Công ty CP đầu tư xây

dựng Thăng Long, chủ đầu tư dự án Khu đô thị mới Hùng Vương – Tiền

Châu. Dự án Khu công nghiệp Chấn Hưng do UBND huyện Vĩnh Tường làm

chủ đầu tư cũng có những tồn tại. Cụ thể, năm 2005 thực hiện công tác bồi

thường giải phóng mặt bằng, số tiền các hộ đã nhận 15,630 tỷ đồng. Các hộ

dân đã nhận tiền nhưng không bàn giao đất. Vì vậy, tiến độ thực hiện dự án

chậm, đến nay dự án vẫn chưa được thực hiện.

- Thứ bảy, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các địa phương có KCN. Một

trong những mục đích khi xây dựng các KCN tập trung là giảm thiểu ô nhiễm

môi trường. Tuy nhiên, thực tế các KCN ở Vĩnh Phúc chưa thực hiện tốt chức

năng này, các công trình xử lý chất thải công nghiệp vẫn chưa được quan tâm

đầu tư đúng mức. Hệ thống xử lý chất thải ở những KCN đã đi vào hoạt động

mới chỉ ở mức B. Chất thải KCN chưa được xử lý tốt làm cho môi trường ô

nhiễm trên diện rộng không chỉ trong phạm vi KCN mà còn lan rộng ra bên

ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của nhân dân, nhất là môi

trường nước và môi trường không khí.

73

2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

- Tình hình chính trị, kinh tế, an ninh trên thế giới có nhiều biến động

lớn, diễn biến phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế thế giới và suy

giảm kinh tế trong nước đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển

kinh tế xã hội của tỉnh. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra thời cơ, thuận lợi

mới song cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mới, đó là sự cạnh tranh

quyết liệt về chất lượng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhất là về thu hút đầu

tư giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ. Việt Nam đã tham gia và thực hiện các

cam kết với các tổ chức WTO, AFTA, do vậy các nhà đầu tư nước ngoài có

thể không cần thiết phải đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam mà

vẫn khai thác được thị trường. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tác

động đến khả năng thu hút đầu tư.

- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của tỉnh còn thiếu, chưa đồng bộ và còn

nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hạ tầng giao thông.

Nhu cầu đầu tư hạ tầng lớn nhưng khả năng đáp ứng của ngân sách hạn chế.

- Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chậm ban hành hoặc chưa

đồng bộ, thiếu tính ổn định hoặc khó áp dụng, nhất là chính sách về đất đai,

ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư đối với ngành công

nghiệp hỗ trợ, với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Chính sách, cơ chế tài chính về đất đai, bồi thường giải phóng mặt

bằng thiếu tính ổn định là nguyên nhân chính tạo ra khó khăn trong công tác

giải phóng mặt bằng, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai của các dự án.

- Chi phí về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, tiền thuê đất tăng

cao và tăng nhanh trong khi ưu đãi về thuế áp dụng với các dự án đầu tư vào

KCN giảm liên tục trong các năm qua (Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày

22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành

Luật Đầu tư; Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ về

74

Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, quy định KCN là địa

bàn ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2009, Luật Thuế thu nhập

doanh nghiệp và Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi

hành, các dự án đầu tư trong KCN không được hưởng ưu đã đầu tư về thuế,

ngoài trừ một vài ngành nghề đặc biệt) đã hạn chế khả năng cạnh tranh của

Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

- Lạm phát gia tăng, giá các loại hàng hóa, vật tư, vật liệu, nguyên

nhiên liệu và năng lượng tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sức

cạnh tranh của doanh nghiệp và đời sống người lao động. Thu nhập người

công nhân không theo kịp lạm phát dẫn đến tình trạng công nhân tự ý nghỉ

việc tập thể, đình công, lãn công, ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp

đã tác động không nhỏ đến tâm lý, niềm tin của nhà đầu tư.

- Hệ thống dịch vụ còn thiếu và yếu, công tác đào tạo nghề chưa có sự

phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, nhà trường và nhà đầu tư. Nhà ở công nhân

chậm phát triển do lĩnh vực đầu tư này không có nhà nhà đầu tư quan tâm bởi

vốn đầu tư lớn, lợi nhuận thấp và nhiều rủi ro. Những vấn đề này đã ảnh

hưởng đến sự phát triển bền vững của KCN.

- Công tác quản lý quản lý KCN còn có sự chồng chéo, chưa rõ ràng

giữa Ban Quản lý các khu công nghiệp và các cơ quan chức năng trong việc

quản lý lao động, quản lý môi trường.

Kết luận chương 2

Qua thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, có thể khẳng định rằng

các KCN có vai trò rất quan trọng, mang lại hiệu quả cao, tạo ra các hạt nhân

phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp, giúp các ngành kinh tế khác phát

triển, thúc đẩy đô thị hóa nông thôn. Phát triển KCN đáp ứng được yêu cầu

75

tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm vốn đầu tư xã hội, tập trung được nguồn lực để

đầu tư và đây được xem như là một giải pháp tích cực, chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế; rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước. Các

KCN của tỉnh đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn thuộc các quốc gia, vùng

lãnh thổ có nền công nghiệp tiên tiến vào đầu tư như Honda (Nhật Bản),

Piaggio (Italia), HonHai và Compal (Đài Loan), Deawoo (Hàn Quốc) v.v...

từng bước hình thành các ngành công nghiệp chủ lực như: sản xuất, lắp ráp ô

tô, xe máy; sản xuất máy tính xách tay, điện thoại di động và ngành điện tử

(công nghệ cao); công nghiệp cơ khí, chế tạo động cơ.

Các KCN hoạt động đã có đóng góp tích cực vào quá trình phát triển

kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu lao động, bảo đảm an sinh xã hội, an

ninh quốc phòng. Tuy nhiên, trong phát triển các KCN cũng còn nhiều hạn

chế: thu hút đầu tư có xu hướng giảm sút; công tác bồi thường, GPMB gặp

nhiều khó khăn; quy hoạch KCN còn nhiều bất cập; nảy sinh các vấn đề xã

hội; ô nhiễm môi trường...đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ phát huy

những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế của KCN, để KCN thực sự

76

là khu vực kinh tế động lực cho sự phát triển.

Chương 3

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển các KCN ở tỉnh

Vĩnh Phúc

3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp

- Phát triển KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển

kinh tế – xã hội của tỉnh, và với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế:

Trong xu thế hiện nay, nền kinh tế của từng quốc gia trên thế giới đều

có mối quan hệ qua lại, đan xen và ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa và hội

nhập kinh tế giữa các quốc gia trở thành xu thế tất yếu của thời đại.

Hội nhập kinh tế quốc tế được biểu hiện cụ thể bằng đặc trưng như:

toàn cầu hóa kinh tế, thị trường hóa kinh tế và liên kết kinh tế khu vực song

phương và đa phương. Với những đặc trưng vốn có nói lên hội nhập kinh tế

quốc tế, mỗi quốc gia muốn hội nhập kinh tế thành công nhất thiết phải xây

dựng và điều chỉnh chiến lược kinh tế của mình theo hướng hội nhập và liên

kết kinh tế khu vực và thế giới theo đúng luật chơi của thế giới. Do đó, sự

phát triển của KCN nước ta nói chung và sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh Phúc

nói riêng không thể là ngoại lệ nằm ngoài cái chung ấy.

Từ đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mang tính tất yếu vừa

mang tính quy luật, vừa là con đường quan trọng để giúp Việt Nam nói chung

và tỉnh Vĩnh Phúc phát triển nhanh chóng các KCN, góp phần thực hiện thành

công CNH, HĐH đất nước, chống nguy cơ tụt hậu và rút ngắn khoảng cách

nước ta với các nước khác.

- Phát triển KCN phải đảm bảo tính bền vững:

77

Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh:

“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của

con người, nhưng không tổn hai tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương

lai”. Thế hệ hôm nay nếu không muốn mắc nợ thế hệ mai sau, thì thế hệ hôm

nay phải tuân thủ đầy đủ các nguyên lý phát triển bền vững. Do đó, phát triển

KCN Vĩnh Phúc tất yếu phải tuân thủ các nguyên tắc của phát triển bền vững,

phải đạt tới sự hài hòa, cân đối giữa 3 lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường.

Việc phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua mới chỉ tập

trung quan tâm chủ yếu đến tăng trưởng kinh tế, còn nhiều tồn tại, hạn chế về

vấn đề ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần có những giải pháp

đồng bộ phát triển các KCN của Vĩnh Phúc theo hướng bền vững, dựa trên 3

trụ cột chính là kinh tế, xã hội và môi trường.

Nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại các KCN theo hướng thu hút các dự

án sử dụng nhiều vốn, hàm lượng công nghệ cao, sử dụng không gian nhiều

tầng… Đảm bảo tổ chức sản xuất công nghiệp trong các KCN theo mô hình

hiện đại, tăng tỷ lệ diện tích cho phát triển hạ tầng và cây xanh trong các

KCN. Hạn chế sử dụng đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) theo hướng

ưu tiên phát triển các KCN trên vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Dương,

Bình Xuyên và Lập Thạch, Sông Lô. Tăng cường vai trò động lực thúc đẩy

các tiểu vùng phát triển, tạo hạt nhân phát triển các tiểu vùng của các KCN.

Phát triển các KCN tập trung, gắn sự phát triển của các KCN với sự phát triển

của hệ thống đô thị, dịch vụ, phân bố dân cư. Phát triển đồng bộ các đô thị và

các ngành dịch vụ khác gắn liền với phát triển KCN để tạo sự phát triển hài

hòa, đồng bộ hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành và lĩnh vực.

- Phát triển công nghiệp làm nền tảng của nền nền kinh tế; tiếp tục đẩy

mạnh công tác quy hoạch, đầu tư phát triển KCN và công nghiệp, từng bước

và hoàn thiện các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục ưu

78

tiên phát triển đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Ưu tiên phát triển

các KCN tại vùng đất không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là

vùng đồi núi phía Bắc tỉnh.

- Phát triển hạ tầng KCN đi đôi với phát triển đô thị, hệ thống giao

thông đối ngoại và hạ tầng xã hội. Gắn liền phát triển KCN với phát triển đô

thị, dịch vụ, nhà ở công nhân và nhà ở xã hội, hướng tới mô hình đô thị công

nghiệp. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,

đặc biệt là nhân lực trình độ cao, đáp ứng mục tiêu thu hút đầu tư các dự án có

công nghệ tiên tiến, hàm lượng tri thức cao.

3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020

Mục tiêu tổng quát

Trong báo cáo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010,

dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và xây dựng

chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn

2030 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định mục tiêu tổng quá phát

triển KCN Vĩnh Phúc đến năm 2020 là: “Hình thành hệ thống các KCN hợp

lý trên địa bàn, đảm bảo sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực

cho sự phát triển chung của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các

tiểu vùng và các địa phương trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ

cấu dân cư, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để

thu hút đầu tư phát triển CN, tăng tỷ lệ đóng góp của CN (đặc biệt là các KCN)

trong phát triển kinh tế – xã hội tỉnh”.

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ

trợ nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong

KCN đi đôi với việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ

lực như dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện tử, sản phẩm gỗ…

Hình thành hệ thống các khu công nghiệp hợp lý trên địa bàn, đảm bảo

sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực cho sự phát triển chung

của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các tiểu vùng và các địa

79

phương trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân cư, hiện

đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư

phát triển công nghiệp, tăng tỷ lệ đóng góp của công nghiệp (đặc biệt là các

khu công nghiệp) trong phát triển kinh tế – xã hội tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện

hạ tầng kỹ thuật và thu hút đầu tư vào 20 khu công nghiệp đã được thành lập

và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư với quy mô diện

tích là 6.038 ha.

Thu hút đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp tại các khu công nghiệp

theo hướng lựa chọn các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, ít phế

thải, thân thiện môi trường; hình thành các cụm khu công nghiệp điện tử, cơ

khí chế tạo… có quy mô lớn có ý nghĩa toàn vùng và cả nước.

Nghiên cứu chuẩn bị về dự trữ đất đai, phát triển hạ tầng để phát triển

thêm các khu công nghiệp (ngoài các khu công nghiệp đã xác định) khi có

điều kiện, dự kiến quy mô diện tích các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh ổn

định vào khoảng 8.500-9.000ha.

Các mục tiêu cụ thể đến năm 2020

Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược

phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030, xét

tình hình triển khai thực tế thời gian qua và khả năng cung ứng điều kiện hạ

tầng cần thiết để phát triển các KCN, đề ra mục tiêu cụ thể phát triển các

KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 như sau:

Bảng 3.1: Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN

tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020

Tiêu chí 2020

TT 1 Diện tích KCN 2 Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng (tăng thêm) 3 Vốn đầu tư sản xuất trong KCN 4 Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp 5 Giá trị sản xuất công nghiệp 6 7 Tỷ lệ đóng góp vào GTSX CN Thu hút thêm lao động 6,038 ha 1 tỷ USD 7,5 tỷ USD 70 % Tăng 17%/năm 75% 26 vạn

80

Nguồn: Ban quản lý KCN Vĩnh Phúc

Mục tiêu cụ thể để phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến 2020 là rất lớn,

không thể bố trí triển khai ngay cùng một lúc, khi cân đối với yếu tố ảnh

hưởng của phát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.

Để việc đầu tư phát triển KCN đạt hiệu quả cao nhất, sẽ lựa chọn một

số KCN và một số khu vực ưu tiên để đầu tư đồng bộ ngoài hàng rào KCN

tương đương với trong hàng rào KCN nhằm nhanh chóng phát huy hiệu quả

đầu tư.

3.1.3. Định hướng phát triển các KCN ở Vĩnh Phúc

Để đạt được mục tiêu phát triển các khu công nghiệp hướng tới thực

hiện được mục tiêu phát triển Vĩnh Phúc thành tỉnh công nghiệp vào những

năm 2020, trên cơ sở phân tích những điều kiện hiện tại về đất đai và các tài

nguyên khác cũng như các điều kiện hiện tại và dự kiến phát triển tương lai hạ

tầng và phát triển đô thị, dự kiến bố trí không gian hệ thống khu công nghiệp

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc như sau:

- Trục công nghiệp dọc theo hành lang các tuyến Quốc lộ số 2: Đây là

trục công nghiệp dự kiến được phát triển sớm trong giai đoạn đến trước và

sau năm 2010. Tuy nhiên, đây là tuyến trục đi qua các đô thị trung tâm của

tỉnh như Thị Xã Phúc Yên, Thành phố Vĩnh Yên, nên hạn chế về quy mô đất

đai, dễ gây quá tải về hạ tầng kỹ thuật, song thuận lợi về nguồn nhân lực và

các dịch vụ hạ tầng xã hội khác. Dự kiến bố trí phát triển các khu công nghiệp

với quy mô vừa phải, thu hút các ngành có hàm lượng công nghệ cao, thân

thiện với môi trường như cơ khi chế tạo, công nghiệp ô tô, xe máy.

- Trục công nghiệp Bắc – Nam dọc theo hành lang đường 302b:

Đây là tuyến hành lang thuận lợi về điều kiện đất đai cho phát triển các

khu công nghiệp. Khu vực này có hạ tầng phát triển và đã và đang được đầu tư

theo quy hoạch, đảm bảo sự kết nối thuận lợi với các trung tâm kinh tế lớn (gần

81

Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài, gần các đô thị trung tâm tỉnh…).

Trục công nghiệp này hội đủ điều kiện để phát triển sớm trong giai

đoạn đến năm 2010 và các năm tiếp theo tới 2015.

Do vị trí gần với các đô thị, các trung tâm du lịch hiện tại và tương lai,

các khu công nghiệp ở đây đặc biệt được chú ý thu hút những ngành công

nghiệp kỹ nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng ít nguyên liệu đầu vào,

suất đầu tư lớn như công nghiệp điện tử, cơ điện tử...

- Trục công nghiệp theo hướng Bắc – Nam dọc theo Quốc lộ 2C:

Đây là tuyến hành lang Bắc – Nam phía Tây thành phố Vĩnh Yên kết

nối Vĩnh Phúc với Tuyên Quang, Sơn Tây, giao cắt với trục quốc lộ số 2 và

tuyến đường xuyên Á. Ngoài một số khu công nghiệp dự kiến phát triển gắn

với quốc lộ số 2, dự kiến trong triển vọng xa khi tuyến đường xuyên Á và

đường quốc lộ 2C đi Tuyên Quang được đầu tư sẽ hình thành một số khu

công nghiệp nhằm tạo hạt nhân phát triển các khu vực còn chậm phát triển

trên địa bàn tỉnh và khai thác các nguồn lực của các tỉnh lân cận như Tuyên

Quang, Hà Nội (Sơn Tây), đảm bảo sự phát triển cân đối của lãnh thổ tỉnh.

Ngoài việc tiếp tục thu hút các ngành công nghiệp như cơ điện tử, thu

hút các ngành công nghiệp chế biến nông sản chất lượng cao trên cơ sở khai

thác nguồn nguyên liệu trong tỉnh và các tỉnh khác thuộc vùng núi phía Bắc

và Tây - Bắc và vùng phía Tây - Nam tỉnh.

- Trục công nghiệp gắn với đường cao tốc xuyên Á:

Đây là trục công nghiệp có nhiều điều kiện phát triển trong tương lai

xa, gắn với chương trình hợp tác hành lang kinh tế quốc tế Côn Minh – Lào

Cai -Hà Nội – Hải Phòng (tất nhiên quá tình hợp tác phát triển trong tuyến

hành lang này sẽ tạo điều kiện chung cho cả các khu vực khác). Việc bố trí

phát triển công nghiệp ở đây nhiều thuận lợi, có tính khả thi cao trong triển

82

vọng dài hạn.

3.2. Các giải pháp phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

3.2.1 Giải pháp về công tác quy hoạch phát triển KCN

Quy hoạch là vấn đề quan trọng nhưng cũng là vấn đề phức tạp, do đó,

để hoàn thiện công tác quy hoạch, cần thực hiện tốt một số điểm sau:

- Quy hoạch phát triển các KCN phải được xây dựng trên cơ sở quy

hoạch phát triển KT-XH của từng vùng, từng địa bàn trong tỉnh. Trên cơ sở

quy hoạch phát triển KT-XH của tỉnh, cần có quy hoạch KCN hợp lý để đảm

bảo sự phát triển hài hòa, sử dụng quỹ đất hợp lý, gắn với quy hoạch ngành

nghề phù hợp với tiềm năng và năng lực thu hút đầu tư của tỉnh, hạn chế ảnh

hưởng đến khu dân cư và các công trình xã hội khác.

- Quy hoạch KCN phải có sự gắn kết chặt chẽ với các KCN đã được

thành lập, tạo nên quần thể KCN có mối liên hệ tương tác, hỗ trợ cùng phát

triển. Các KCN mới được thành lập nằm trong quy hoạch tổng thể các KCN

trên địa bàn tỉnh. Có mối liên hệ chặt chẽ với các KCN đã được thành lập

nhằm nâng cao khả năng liên kết giữa các DN trong các KCN, và với bên

ngoài KCN. Với khả năng liên kết mạnh mẽ các KCN sẽ tạo nên một chỉnh

thể KCN thống nhất, hỗ trợ nhau cùng phát triển, thúc đẩy sự phát triển KT-

XH của địa phương.

- Quy hoạch phát triển các KCN phải gắn liền với quy hoạch phát triển

khu dân cư, khu đô thị, bảo đảm sự phát triển tương xứng giữa cơ sở hạ tầng

kỹ thuật và hạ tầng xã hội, giữa quy hoạch trong KCN và ngoài hàng rào

KCN. Xây dựng KCN, khu dân cư, khu đô thị theo quy hoạch định hướng

phát triển không gian, mô hình tổ chức chung với cơ cấu doanh nghiệp sản

xuất cộng với hệ thống dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất với khu dân cư,

nhà ở và dịch vụ thương mại, khu vui chơi giải trí, theo đó các công trình kết

cấu hạ tầng được thiết kế, xxaay dựng đáp ứng mô hình tổ chức đó.

83

- Quy hoach KCN phải đi trước một bước. Đây là quan điểm rất quan

trọng, thể hiện tầm nhận thức của tỉnh về vai trò của công tác quy hoạch. Trên

thực tế, để đảm bảo chất lượng quy hoạch tỉnh đã xây dựng quy trình thẩm

định, xem xét kỹ lưỡng các vấn đề liên quan. Do đó, công tác quy hoạch của

tỉnh được đánh giá là có chất lượng tốt, các KCN mới chủ yếu được "đưa lên

đồi" nơi mà có nhiều đất xấu, khó canh tác, hiệu quả canh tác nông nghiệp

thấp. Trong quy hoạch phát triển các KCN thì quy hoạch xây dựng kết cấu hạ

tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội là vô cùng quan trọng. Kết cầu hạ tầng phải

tạo điều kiện, tiền đề cho môi trường KT-XH, thu hút và tiếp thu được nguồn

vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh. Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội phải đồng bộ,

đáp ứng nhu cầu lâu dài, trong đó vấn đề cần quan tâm đầu tiên là nhà ở cho

người lao động trong các KCN. Cho đến nay, tỉnh đã được Chính phủ phê

duyệt 20 KCN ưu tiên thành lập đến năm 2015 định hướng đến năm 2020, là

căn cứ quan trọng để tỉnh có hướng dành quỹ đất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng kỹ thuật cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác.

- Quy hoạch ngành nghề trong KCN phải phù hợp với điều kiện thực tế

của tỉnh. Bên cạnh việc thu hút những ngành có gí trị gia tăng cao, sử dụng công

nghệ cao, sử dụng ít lao động cần bố trí những ngành nghề gắn với việc kích

thích sự phát triển của các làng nghề truyền thống của tỉnh, tạo điều kiện cho hộ

gia đình có thể làm gia công cho các KCN, nâng cao mối liên kết kinh tế, chuyển

dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

- Quy hoạch diện tích đất cho KCN cần hợp lý, phù hợp với quỹ đất

của địa phương và khả năng thu hút đầu tư. Vĩnh Phúc là tỉnh có diện tích tự

nhiên nhỏ, do vậy diện tích đất quy hoạch cho KCN cần được tính toán kỹ

lưỡng, phù hợp với quỹ đất và quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương,

tránh gây ảnh hưởng đến đến quá trình phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ

thuật và xã hội của địa phương. Đồng thời phải phù hợp với năng lực của chủ

84

đầu tư về tài chính và khả năng thu hút đầu tư, tránh để xẩy ra tình trạng quy

hoạch treo, gây lãng phí và phải đảm bảo nhu cầu cho phát triển KCN trong

tương lai.

3.2.2. Nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư

Thời gian qua công tác xúc tiến đầu tư đã được tỉnh rất quan tâm, tạo

được hình ảnh của Vĩnh Phúc một cách đầy đủ nhất cho các nhà đầu tư, thu

hút được nhiều dự án đầu tư. Nhằm đạt được mục tiêu, đến năm 2015 Vĩnh

Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Phúc lần thứ XV đã đề ra, tỉnh đã quan tâm đẩy mạnh công tác xúc tiến

đầu tư, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh, triển vọng của tỉnh đến các nhà đầu tư

nhằm thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án đầu tư vào

lĩnh vực công nghệ cao, các dự án đầu tư đến từ Mỹ và EU.

Trong năm 2012, tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn do các đồng chí lãnh đạo

tỉnh dẫn đầu đi xúc tiến đầu tư tại các nước: Bí thư Tỉnh ủy đi xúc tiến đầu tư

tại Hoa Kỳ; Chủ tịch UBND tỉnh đi xúc tiến tại Nhật Bản và Hàn Quốc...

nhằm giới thiệu tiềm năng, thế mạnh và triển vọng phát triển của tỉnh đến với

các nhà đầu tư tiếp tục quan tâm đầu tư vào Vĩnh Phúc, đặc biệt mong muốn

thu hút được các nhà đầu tư Hoa Kỳ đến tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Vĩnh Phúc.

Đồng thời, tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về môi

trường đầu tư cũng như những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

đến với các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua nhiều hình thức như hội

thảo, báo chí, qua hoạt động của các doanh nghiệp đang đầu tư tại Vĩnh Phúc.

Đặc biệt, mới đây tỉnh đã thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh là cơ

quan chuyên trách tham mưu giúp Chủ tịch UBND tỉnh và Ban Chỉ đạo Xúc

tiến và Hỗ trợ tỉnh trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến, hỗ trợ,

thu hút đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thu hút đầu tư, nhất là thu

85

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc vẫn còn chưa đáp ứng yêu cầu

của sự phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đầu tư từ

các nước có thế mạnh về công nghệ như Mỹ, một số quốc gia EU… còn hạn

chế; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước

cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thiếu; đầu tư vào lĩnh vực

công nghệ cao ngày càng tăng nhưng vẫn còn chậm triển khai …

Thời gian tới, để thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư, cần phải thực

hiện đồng bộ các nội dung sau:

- Chính quyền tỉnh phải thực sự vào cuộc, coi công tác xúc tiến đầu tư,

tiếp thị và hỗ trợ đầu tư là công tác đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp

đến tình hình đầu tư vào tỉnh. Cần có định hướng cụ thể hơn việc quảng bá

hình ảnh và môi trường đầu tư của tỉnh đến các nhà đầu tư tại quốc gia có

tiềm lực về công nghệ, kinh nghiệm. Qua đó, thu hút các nhà đầu tư tiềm năng

trong lĩnh vực công nghệ, công nghiệp phụ trợ và các lĩnh vực khuyến khích

đầu tư. Các doanh nghiệp thuộc các nước và vùng lãnh thổ tiềm năng như

Mỹ, Nhật Bản, EU, các nước NICs, kinh phí xúc tiến đầu tư có thể được huy

động từ ngân sách địa phương, đóng góp của các doanh nghiệp chủ yếu là các

công ty phát triển hạ tầng. Thiết lập quan hệ hợp tác với một số tỉnh, thành

phố trong khu vực và trên thế giới. Thực tế cho thấy tiếng nói của các nhà đầu

tư đang hoạt động có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà đầu tư mới. Có biện pháp

để đưa những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư: danh mục những dự án

khuyến khích đầu tư, những chính sách ưu đãi đầu tư, những lợi thế so sánh

của tỉnh nhà.

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư

tìm hiểu cơ hội đầu tư thông qua việc giới thiệu định hướng phát triển KT-

XH, quy hoạch các KCN. Ngoài việc cải thiện phần mềm để tăng sức cạnh

tranh, sức hấp dẫn, Vĩnh Phúc còn chủ động thực hiện các chương trình xúc

86

tiến đầu tư. Tỉnh Vĩnh Phúc đã biên soạn tài liệu giới thiệu môi trường đầu tư

của tỉnh; in sách “Vĩnh Phúc - Điểm đến của các Nhà đầu tư” bằng tiếng Nhật

Bản; dịch và lồng tiếng đĩa phim 3D giới thiệu quy hoạch TP. Vĩnh Phúc do

Tập đoàn Nikken Sekkei Civil Engineering LTD (Nhật Bản) lập và quy hoạch

thành 4 thứ tiếng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và tiếng Anh; chuẩn bị

các tài liệu giới thiệu về tiềm năng du lịch, các khu giải trí, sân golf... Các tài

liệu này đã được giới thiệu tới các doanh nghiệp, nhà đầu tư tại Nhật Bản,

Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan. Mục tiêu của hoạt động xúc tiến đầu tư này là

tập trung thu hút các dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Đã có

một số nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc đến tìm hiểu đầu tư vào lĩnh vực công

nghiệp hỗ trợ, hứa hẹn sẽ xuất hiện một làn sóng đầu tư mới vào Vĩnh Phúc

trong thời gian tới, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào

KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất, đảm bảo cơ chế

"một cửa", giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư,

hướng dẫn làm thủ tục nhanh gọn, giải quyết kịp thời hạn cấp phép trong thời

gian ngắn nhất.

- Đối với các công ty kinh doanh trong KCN cũng cần tăng cường tiếp

thị cho KCN thông qua các công ty có uy tín trong và ngoài nước để tìm kiếm

các nhà đầu tư, cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại

của khu vực và thế giới. Giới thiệu các công ty đã đầu tư hiệu quả cho các nhà

đầu tư đang có dự định đầu tư vào KCN.

- Ban quản lý các KCN cần phối hợp với các cơ quan chức năng như

Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND

tỉnh, các công ty kinh doanh hạ tầng KCN... để cùng nhau giới thiệu các

KCN. Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi giao lưu gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với

doanh nghiệp và các nhà đầu tư để giúp đỡ họ, kịp thời tháo gỡ những vướng

mắc và phát triển sản xuất kinh doanh, giúp họ ngày càng tin tưởng vào môi

87

trường đầu tư. Đồng thời có kế hoạch mời gọi các đoàn doanh nghiệp có tiềm

năng đến tham quan các KCN, hướng dẫn và tạo điều kiện cho họ tìm hiểu kỹ

về các KCN của Vĩnh Phúc, từ đó giúp họ hình thành phương án đầu tư vào

các KCN.

- Ban hành các chính sách hướng dẫn đầu tư vào KCN trong đó nêu rõ

các chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ

bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng, giá thuê đất, giá thuê hạ tầng, các

ưu đãi. Xem xét giải pháp tài chính để cung cấp cho các hoạt động xúc tiến

đầu tư, không chỉ dựa vào nỗ lực của các doanh nghiệp phát triển hạ tầng

KCN, mà cần có hoạt động chiến lược tầm vĩ mô để đạt được mục tiêu. Trước

mắt phải đầu tư kinh phí để làm công tác tuyên truyền và quảng bá hình ảnh

của địa phương đối với các nhà đầu tư, xây dựng những website với đầy đủ

thông tin hơn về tỉnh và về các KCN cũng như những ưu đãi và cam kết đầu

tư của địa phương và tình hình đầu tư thực tế của các KCN.

- Đổi mới hơn nữa về nội dung và hình thức vận động xúc tiến đầu tư

theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng KCN, từng

loại hình doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Công tác xúc tiến đầu tư cần xác

định đúng trọng tâm và phải bám sát nhu cầu thực tế của tỉnh. Tiếp cận thông

tin từ các Bộ, ngành trung ương, các tổ chức: Jica, Jetro, Kotra., Erocharm để

tổ chức các hoạt động hội thảo xúc tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh của tỉnh;

Lồng ghép chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh với chương trình xúc tiến

đầu tư quốc gia. Chú trọng hình thức xúc tiến đầu tư trực tiếp liên hệ, tiếp xúc

với các đối tác, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới để giới thiệu điều

kiện, môi trường đầu tư của tỉnh. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức đào

tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư tại Ban

quản lý các KCN và Trung tâm xúc tiến đầu tư tỉnh.

- Cần xác định lĩnh vực mũi nhọn để thực hiện xúc tiến đầu tư. Là tỉnh

88

có quỹ đất nhỏ, quỹ đất dành cho KCN không còn nhiều. Do đó, Vĩnh Phúc

cần xác định lĩnh vực mũi nhọn, có giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy để

đạt hiệu quả hoạt động của các KCN cần thực hiện tốt việc xúc tiến các dự án

sản xuất trong các lĩnh vực điện, điện tử, linh kiện điện tử, xe máy, ôtô.

3.2.3. Hoàn thiện một số cơ chế chính sách về thu hút đầu tư

3.2.3.1. Đổi mới chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư

UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Quyết định số 2475/2002/QĐ-UB

về việc quy định ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh cho các doanh nghiệp có nội

dung cho hưởng ưu đãi về đất vượt khung so với quy định của Nhà nước. Số

tiền vượt khung trái quy định của một số dự án được kiểm tra là hơn 28,5 tỷ

đồng và 210.296 USD. Đây là tình trạng "xé rào" phổ biến ở nhiều tỉnh, thành

phố trên cả nước nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, đến nay Vĩnh Phúc đã thay

đổi cách thức thu hút đầu tư, ban hành chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp và

lâu dài đem lại lợi ích cho các bên.

Có chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của pháp luật theo

hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Giảm mức thuế thu nhập cá

nhân đối với người lao động Việt Nam và nước ngoài đang làm việc trong các

doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. có chính sách thuế khuyến

khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, tiến tới xây dựng được ngành công nghiệp

sản xuất nguyên chiếc. Cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư theo hướng

phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh

nghiệp trong nước và nước ngoài. Các chính sách thuế phải khuyến khích và

tạo điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu,

áp dụng công nghệ hiện đại. Giảm thuế suất nhập khẩu đối với các bán thành

phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp giáp nhằm khuyến khích nội địa

hóa. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao động, tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN trực tiếp tuyển chọn, thuê và sử dụng

89

lao động. Có chính sách, cơ chế phù hợp để các nhà đầu tư có điều kiện vay

vốn thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc tiếp

cận vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài, khai thông các giao dịch

bảo đảm (bảo lãnh, thế chấp...). Để tạo sức hút các thành phần kinh tế đầu tư

vào KCN, cần có chính sách tạo vốn thông qua tín dụng ngân hàng tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi, dài hạn.

Tỉnh cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KCN khi vay vốn ở các ngân

hàng thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh, có chính sách hỗ trợ lãi suất cho

doanh nghiệp KCN trong thời gian đầu mới thành lập. Ưu đãi đầu tư không

chỉ với doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN mà còn phải có chính sách ưu đãi

đầu tư với doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN tùy vào đặc

điểm ngành kinh doanh có được ưu tiên hay không mà có chính sách hỗ trợ

phù hợp.

Để có được chính sách ưu đãi đầu tư đúng đắn và lâu dài, Vĩnh Phúc

cần thực hiện một số định hướng sau:

- Quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải có tính ổn định lâu

dài, ít nhất có hiệu lực từ 5 năm trở lên.

- Thủ tục, hồ sơ để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải đơn giản, rõ

ràng, công khai, quy định rõ cơ quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ, kèm theo trách

nhiệm của cơ quan đó về việc đảm bảo thời gian giải quyết cho các doanh

nghiệp.

- Xóa bỏ các chính sách ưu đãi khác nhau đối với các KCN có điều

kiện tương ứng như nhau trong cùng một khu vực nhưng nằm ở hai địa

phương khác nhau.

- Có chính sách ưu đãi riêng đối với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư

các KCN chuyên ngành, khu công nghệ cao, lập danh mục các dự án ưu tiên

kêu gọi vốn đầu tư, trong đó chú trọng đến các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật,

90

hạ tầng xã hội và các dự án có ý nghĩa lớn đối với địa phương.

- Có kế hoạch vốn ngân sách hàng năm để chi trả cho các đối tượng

được hưởng ưu đãi, hỗ trợ. Ngoài ra cần xem xét thành lập một số quỹ hỗ trợ

các gia đình bị thu hồi đất: Quỹ đào tạo lao động, quỹ hỗ trợ việc làm... Các

quỹ hộ trợ các doanh nghiệp: Quỹ hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quỹ khen

thưởng trong sản xuất kinh doanh.

3.2.3.2. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính

Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, để thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút

vốn FDI, ngoài các biện pháp tích cực cải thiện hạ tầng kỹ thuật, xã hội, đào

tạo nhân lực, thì cải cách các thủ tục hành chính luôn được đặt lên hàng đầu.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo Đề án “một cửa liên thông”. Tăng

cường đối thoại với các nhà đầu tư, giải quyết dứt điểm và kịp thời các khó

khăn và vướng mắc của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư

hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi. Trước đây, theo quy định, nhà đầu

tư làm thủ tục đăng ký kinh doanh trong 15 ngày, nhưng để tạo điều kiện

thuận lợi cho các nhà đầu tư, Vĩnh Phúc đã rút ngắn xuống còn 5 ngày, thậm

chí có dự án còn chưa tới 3 ngày.

Ban quản lý các KCN tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện

các thủ tục hành chính, như hướng dẫn thực hiện lập hồ sơ dự án, giảm thời

gian thực hiện các thủ tục về cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư, giúp

các doanh nghiệp thực hiện khắc dấu, đăng ký mã số thuế một cách nhanh

nhất, để các doanh nghiệp nhanh chóng triển khai dự án. Tiếp tục triển khai

giai đoạn II Đề án 30 của Chính phủ, Ban đã rà soát 54 thủ tục hành chính

đang triển khai tại Ban. Trong quá trình rà soát đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung

18 thủ tục chưa phù hợp, kiến nghị bãi bỏ 09 thủ tục không cần thiết; đạt 50%

tổng số TTHC, vượt chỉ tiêu đề ra. Các kiến nghị đơn giản hoá tập trung vào

các nội dung: rút ngắn thời gian giải quyết TTHC, đơn giản thành phần Hồ

91

sơ, làm rõ trình tự, cách thức thực hiện, bãi bỏ phí, lệ phí...[8]

Vì vậy, một số doanh nghiệp mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đã

nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục hành chính để triển khai xây dựng cơ bản.

Một số dự án của các công ty Hirota, K.source, Giai Thăng đã được đẩy

nhanh tiến độ, hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động sản xuất, kinh

doanh. Để thực hiện cơ chế "một cửa tại chỗ" Vĩnh Phúc cần “cải cách” bộ

phận một cửa theo hướng lo “trọn gói” thủ tục cho doanh nghiệp. Hiện nay,

các khâu giải quyết các thủ tục hành chính còn rườm rà, phân tán, chồng chéo

và kém hiệu quả, nguyên nhân cơ bản vẫn là do có nhiều đầu mối. Để thực

hiện tốt việc thu hút đầu tư phát triển các KCN, tỉnh cần cải cách quản lý nhà

nước trong cấp phép đầu tư, tăng cường hơn nữa tính liên thông, tại chỗ.

Cần thành lập Ban thu hút đầu tư để thống nhất một đầu mối, bởi hiện

nay tỉnh có 4-5 cơ quan cùng thực hiện nhiệm vụ này. Đây là nơi chịu trách

nhiệm giải quyết các trình tự, thủ tục cấp phép cũng như cung cấp thông tin

liên quan đến KCN. Khi các nhà đầu tư xin được đầu tư thì thủ tục phải nhanh

gọn, từ khâu thẩm định đến khâu cấp phép dự án, cho thuê đất, đền bù giải

phóng mặt bằng, thực thi các chính sách ưu đãi. Trong quá trình đầu tư, có

những vướng mắc phát sinh thì Ban cùng với các nhà đầu tư bàn bạc và tìm

biện pháp nhanh chóng tháo gỡ.

Tỉnh cần tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan đến các

hoạt động của các KCN theo hướng đơn giản hóa các hình thức và thủ tục cấp

phép đầu tư, tăng tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Kiên

quyết bãi bỏ những quy định không cần thiết hoặc làm cản trở đến hoạt động

của KCN. Tỉnh cần quy định rõ ràng công khai hơn các thủ tục hành chính

trên cơ sở đã đơn giản hóa và giảm bớt các thủ tục không cần thiết. Kiên

quyết xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực,

92

vô trách nhiệm trong giải quyết thủ tục hành chính.

3.2.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại

Về cơ bản, hạ tầng của các KCN đều được đảm bảo với: trạm điện công

suất lớn, đáp ứng nhu cầu sản xuất, có hệ thống đường giao thông thuận tiện, nhà

máy nước cấp và thoát nước thuận lợi, hệ thống thoát nước và xử lý nước thải;

các dịch vụ tài chính, ngân hàng, hải quan thuận tiện. Trên xu hướng đáp ứng

yêu cầu phát triển ngày càng cao, tỉnh Vĩnh Phúc cũng tập trung đầu tư xây dựng

hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống KCN ngày càng đồng bộ, hiện đại, theo tiêu chuẩn

quốc tế, đảm bảo gắn kết đồng bộ cơ sở hạ tầng bên trong KCN với hạ tầng xã

hội bên ngoài tạo thành khu công nghiệp – đô thị hiện đại.

Nhằm góp phần thu hút, mời gọi đầu tư, nhiều tuyến đường quan trọng

đã và đang được khởi công phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là

công nghiệp và đô thị. Bên cạnh việc chi trên 1.000 tỷ đồng cho đầu tư phát

triển hạ tầng, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực mời gọi các DN có năng lực đầu tư

vào lĩnh vực này theo hình thức BOT và BT. Đến nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật

đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của các DN đến đầu tư. Con đường xương

sống của tỉnh là quốc lộ 2A đoạn Vĩnh Yên - Nội Bài đã hoàn thành và đưa

vào sử dụng không chỉ giải quyết sự ùn tắc của lượng xe cộ lưu thông mà còn

mở rộng hơn cánh cửa thu hút đầu tư đối với Vĩnh Phúc, bởi trước đây không

ít nhà đầu tư ngại đến Vĩnh Phúc vì đường sá bất tiện. Đường từ quốc lộ 2A

nối khu công nghiệp Bình Xuyên với khu công nghiệp Bá Thiện đã hoàn

thành; một loạt tuyến đường khác như đường Nguyễn Tất Thành nối 4 khu

công nghiệp, quốc lộ 2B, 2C, Đại Lải - Đạo Tú cũng đang triển khai thi công

phục vụ chủ trương “Đưa công nghiệp lên đồi”. Về nguồn cấp nước sạch cho

các KCN, tỉnh có kế hoạch triển khai dự án nhà máy cung ứng nước từ nguồn

nước mặt sông Lô với quy mô lớn, hiện đang trong quá trình mời gọi đầu tư.

Trong tình trạng khó khăn chung về điện, bên cạnh việc xây mới, cải tạo

93

mạng lưới, tỉnh đã làm việc với Tập đoàn Điện lực để bố trí cung ứng đủ điện

cho sản xuất của các DN. Hệ thống liên lạc viễn thông cũng đáp ứng được

nhu cầu đến tận chân hàng rào các khu công nghiệp…

Đường trục trung tâm KĐTM Mê Linh là dự án thành phần của Dự án

cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, sử dụng nguồn vốn ODA của Cơ

quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Hiệp định vay vốn ODA ưu đãi tài

khoá 2006 (VNXIV-5) được ký vào ngày 30/3/2007. Theo Hiệp định vay vốn,

Dự án cải thiện môi trường đô thị tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm 6 dự án hợp phần

là đường trục trung tâm KĐTM Mê Linh; mở rộng hệ thống cấp nước TP

Vĩnh Yên; thoát nước và xử lý nước thải TP Vĩnh Yên; cải tạo lưới điện trung

áp TP Vĩnh Yên; cải tạo lưới điện trung áp TX Phúc Yên và hợp phần xúc

tiến, hỗ trợ nhà đầu tư FDI vào tỉnh. Tổng số khoản vay dành cho dự án là

11,718 tỷ Yên, tương đương 110 triệu USD.

Bên cạnh việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật thì Vĩnh Phúc cũng hết sức

quan tâm đến việc xây dựng hạ tầng xã hội. Tại các KCN lớn, tỉnh đã quy

hoạch đất để xây dựng nhà ở cho công nhân, điển hình là KCN Khai Quang

(12,2 ha), KCN Bá Thiện (35 ha)…, với tổng diện tích quy hoạch đã được phê

duyệt khoảng 48 ha. Một số dự án đang triển khai như: Dự án xây dựng nhà ở

cho cán bộ - công nhân viên tại KCN Bá Thiện do Công ty TNHH Quản lý và

Phát triển hạ tầng COMPAL làm chủ đầu tư (diện tích đất 35 ha, trong đó

diện tích xây dựng nhà ở cho công nhân là 15 ha, tổng diện tích sàn 305.000

m2); Dự án khu nhà ở công nhân tại KCN Khai Quang do Công ty cổ phần

Đầu tư và Xây dựng Bảo Quân làm chủ đầu tư (diện tích đất là 4,3 ha, tổng

diện tích sàn 40.000 m2, tổng vốn đầu tư hơn 300 tỷ đồng, đáp ứng chỗ ở cho

4.000 công nhân); Dự án khu nhà ở công nhân Công ty Honda Việt Nam

(tổng diện tích là 8.600 m2).

Các dự án xây dựng nhà ở cho công nhân KCN và người có thu nhập

94

thấp đều được hưởng các cơ chế, ưu đãi theo quy định tại Quyết định số

66/QĐ-TTg và Quyết định số 67/QĐ-TTg, ngày 24/4/2009 của Thủ tướng

Chính phủ, như miễn tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, hỗ trợ chi phí đền bù giải

phóng mặt bằng... Riêng dự án xây dựng nhà ở công nhân và nhà ở cho người

có thu nhập thấp tại phường Khai Quang (thành phố Vĩnh Yên) do Công ty cổ

phần Đầu tư và Xây dựng Bảo Quân làm chủ đầu tư, UBND tỉnh Vĩnh Phúc

đã có cơ chế hỗ trợ đầu tư để thực hiện thí điểm cho dự án.

Đối với các KCN đã hình thành, Sở Xây dựng phối hợp cùng các ngành

rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch để bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở cho

công nhân. Đối với các KCN đang trong giai đoạn hình thành, chủ đầu tư kinh

doanh hạ tầng KCN phải xác định nhu cầu đất để xây dựng nhà ở cho công

nhân, đồng thời lập và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch xây

dựng nhà ở cho công nhân.

Trong thời gian tới, để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng KCN, tỉnh cần chú

ý thực hiện tốt các nội dung sau:

- Cần huy động tốt các nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng KCN:

vốn từ các ngân hàng thương mại, vốn từ ngân sách nhà nước, vốn từ nhân

dân và các thành phần kinh tế, huy động vốn qua các hình thức hợp tác đầu tư

hoặc đầu tư theo hình thức BOT, BT, BO.

- Thực hiện quy trình thẩm định chặt chẽ đối với các nhà đầu tư xây

dựng hạ tầng KCN về: năng lực tài chính, về trình độ kỹ thuật để đảm bảo

tiến độ và chất lượng của công trình.

- Khuyến khích các nhà đầu tư có dự án đầu tư vào các KCN bỏ chi phí `

để tự san nền trên diện tích đất mà nhà đầu tư thuê để xây dựng nhà máy.

- Tỉnh cần hỗ trợ vốn từ ngân sách cho các công trình kỹ thuật đầu mối,

xử lý nước thải, rác thải trong KCN, vì đây là những hạng mục công trình có vốn

95

đầu tư lớn nhưng lại có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội và bảo vệ môi trường.

- Đầu tư xây dựng các công trình giao thông, điện, nước ngoài hàng rào

KCN đảm bảo cho KCN liên kết thuận lợi với bên ngoài tạo lập sự đồng bộ.

Bên cạnh đó, tập trung xây dựng các khu đô thị, khu dân cư và các công trình

hạ tầng xã hội.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng kết cầu

hạ tầng KCN. Đảm bảo xây dựng đúng quy hoạch, đúng tiến độ và chất lượng

các công trình, kịp thời phát hiện các sai phạm, những vướng mắc để có biện

pháp xử lý và hỗ trợ.

- Chỉ đạo sát sao việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, các công

trình phúc lợi công cộng và khu dịch vụ phục vụ người lao động trong KCN.

- Kiên quyết yêu cầu thực hiện việc đầu tư xây dựng và hoàn thiện các

hạng mục hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải trước khi

KCN đi vào hoạt động.

3.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và

cho thuê đất trong xây dựng khu công nghiệp

- Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng:

Trong thời gian dài, tại Vĩnh Phúc cũng như ở một số tỉnh, thành phố

trên cả nước mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác đền bù, giải phóng

mặt bằng các KCN và các công trình trọng điểm khác, nhưng đến nay vấn đề

này vẫn là khâu phức tạp và nhạy cảm nhất trong việc hình thành, phát triển

nhanh các KCN.

Để khắc phục tình trạng người dân bị thiệt hại do phải di dời, cần phải có

sự thay đổi về mặt tư duy cũng như cách làm một cách đồng bộ mới có thể khắc

phục được những khiếm khuyết của công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.

Trước tiên, cần phải tôn trọng lợi ích của dân, phải đảm bảo hài hòa các

96

loại lợi ích, mặt khác mọi hoạt động đầu tư phải mang lại lợi ích cho xã hội,

không gây thiệt hại cho bất cứ một chủ thể nào, dù đó là người dân bình

thường. Để quán triệt quan điểm này cần có các giải pháp:

- Quy hoạch phát triển KCN phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của địa phương theo hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển công

nghiệp với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tầng, kỹ thuật và xã

hội. Trên cơ sở đó thực hiện tốt công tác quy hoạch chi tiết tổng mặt bằng

theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ để phê duyệt.

- Nhanh chóng hoàn thiện các quy hoạch về sử dụng đất ổn định, lâu

dài. Quy hoạch phải mang tính dài hạn và phải công khai rộng rãi cho nhân

dân nắm rõ các khu vực đã quy hoạch. Tuyên truyền vận động người dân hiểu

biết về luật đất đai cũng như các chính sách về đất đai của tỉnh, đặc biệt là

chính sách đền bù và hỗ trợ cho người dân bị mất đất, mất nhà, phải di chuyển

đến nơi tái định cư mới. Tránh tình trạng quy hoạch chắp vá dẫn đến thay đổi

thường xuyên, làm xáo trộn cuộc sống của dân. Quan tâm đến việc xây dựng

hạ tầng kỹ thuật của khu vực tái định cư: điện, đường, trường, nước… Và

việc làm mới bảo đảm đời sống của họ và gia đình họ được cải thiện hơn

trước. Thực tế có nhiều trường hợp nông dân bị thu hồi đất và chuyển sang

thành hộ phi nông nghiệp, mặc dù được đền bù một khoản tiền khá lớn nhưng

do chưa biết cách sử dụng số tiền lớn, do vậy họ nhanh chóng rơi vào tình

trạng bần cùng hóa. Cần ưu tiên tuyển dụng họ vào làm việc trong KCN hoặc

đào tạo nghề để họ có cuộc sống mới tốt hơn. Các nhà đầu tư vào KCN có

trách nhiệm trong việc đào tạo nghề và thu nhập lao động đối với các đối

tượng có đất bị thu hồi có nguyện vọng làm việc tại doanh nghiệp.

- Việc đền bù cần công khai, minh bạch để dân có thể kiểm tra, giám

sát, tránh tình trạng tùy tiện trong việc áp đặt giá đền bù, hoặc đền bù quá

97

chậm dẫn đến tình trạng trượt giá làm ảnh hưởng tới lợi ích của người dân.

Mặt khác nhà nước cần hỗ trợ cho các công ty kinh doanh hạ tầng về vốn để

có thể thực hiện việc đền bù giải tỏa một cách nhanh gọn.

- Xây dựng mối đoàn kết giữa các chủ đầu tư với chính quyền nhân dân

địa phương. Thường xuyên trao đổi giải quyết triệt để những phát sinh hoặc

mâu thuẫn nảy sinh trong nhân dân địa phương, phải thực sự quán triệt

phương châm “lấy dân làm gốc”. Xử lý nghiêm minh những trường hợp cố

tình vi phạm, chống đối gây cản trở tiến trình phát triển các KCN nói riêng và

tiến trình xâ dựng các công trình của nhà nước nói chung.

- Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân cần nghiên cứu các biện pháp phù hợp như

xây dựng nhà ở, với nhiều loại hình như hộ gia đình, khu chung cư, khu đô thị

của các hộ trong vùng di dời, giải tỏa kết hợp với nhà ở cho người lao động

gần KCN theo hướng gắn quy hoạch KCN với quy hoạch đô thị, tránh tình

trạng các gia đình được đền bù tiền tự bơi trong cơ chế thị trường. Đối với hộ

gia đình có điều kiện kinh tế, có thể khuyến khích họ mua cổ phần bằng tiền

đền bù để góp vốn với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc vận động

nhân dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đưa họ trở thành sở hữu KCN.

Đây là một kinh nghiệm đã được một số nước áp dụng khi thu hồi đất của

nông dân và là một giải pháp để ổn định cuộc sống lâu dài của người dân bị

mất đất.

- Hoàn thiện chính sách giá cho thuê đất trong KCN

Đối với KCN chính sách giá cho thuê đất được xem như một công cụ

thu hút các nhà đầu tư. Để có chính sách giá đúng đắn đòi hỏi Tỉnh ủy,

UBND phải linh hoạt đưa ra các quyết định giá thuê đất hợp lý. Có thể chia ra

hai trường hợp, trường hợp thứ nhất thuê đất trả ngay một lần trong suốt thời

gian thuê, trường hợp thứ hai trả tiền thuê đất hàng năm hoặc theo kỳ, nhưng

phải tuân theo giá thị trường. Nhà nước có thể ưu đãi về thuế, phương thức

98

thanh toán…

3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các khu công nghiệp

Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của các

KCN dẫn đến giảm hiệu quả phát triển KT-XH là thiếu lực lượng lao động

được đào tạo. Thông thường sau khi được tuyển chọn, người lao động được

tham gia những khóa đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp để làm quen công

việc, quen thao tác trên dây chuyền.

Nhìn chung việc cung cấp lao động cho các khu công nghiệp đang gặp

mâu thuẫn: thiếu lao động kỹ thuật có tay nghề, trong khi số lao động cần bố

trí việc làm ở địa phương dư thừa rất nhiều. Đất đai nông nghiệp được chuyển

đổi sang đất KCN thì tương đối nhanh, nhưng năng lực của lực lượng lao

động đáp ứng yêu cầu phát triển KCN (đây là một bộ phận nguồn lực sản xuất

ngoài đất đai) thì không theo kịp. Dường như các cấp chính quyền chưa có sự

chuẩn bị trước về lao động cho phát triển KCN. Việc tuyển dụng lao động cho

các KCN về cơ bản được hình thành gần như tự phát. Để nâng cao hiệu quả

hoạt động của các KCN, tỉnh cần tổ chức hoạt động đào tạo lao động nhằm

đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các nhà đầu tư. Để giải quyết tốt vấn

đề này phải có một giải pháp phát triển nguồn nhân lực cung cấp cho các

KCN trong thời gian tới.

Nâng cao việc nhận thức và thực hiện tốt việc đào tạo nghề cho người

lao động để đáp ứng đòi hỏi của sản xuất tiên tiến, hiện đại. Đây là yêu cầu

đầu tiên hướng tới phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển nguồn

nhân lực cho KCN nói riêng.

Nhanh chóng xây dựng và phát triển các trường dạy nghề dưới nhiều

hình thức: đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn. Khuyến khích và tạo điều kiện

để các chủ đầu tư trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài tổ chức đào tạo tại các

99

doanh nghiệp, các trung tâm.

Quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo nghề. Tình trạng

phổ biến nhất hiện nay ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng là tình

trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Các cơ sở dạy nghề phần lớn trong tình trạng lạc

hậu, lao động đào tạo ra chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế buộc các

doanh nghiệp phải đào tạo lại, rất tốn kém. Để giải quyết tình trạng này, các

doanh nghiệp buộc phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh. Cần phát triển mô

hình liên kết đào tạo giữa nhà trường, trung tâm dạy nghề, cơ sở dạy nghề với

các cơ sở sản xuất để đào tạo theo đơn đặt hàng, làm cho quá trình đào tạo

gắn bó với các doanh nghiệp.

Có chính sách khuyến khích đào tạo xây dựng các trường dạy nghề,

trung tâm dạy nghề, các cơ sở dạy nghề, khuyến khích các doanh nghiệp tổ

chức các trung tâm dạy nghề. Làm được điều này sẽ có lợi cho cả hai phía,

phía người lao động được học nghề tại chỗ và thường được bảo đảm về việc

làm sau khi học xong, chi phí cho việc đi học cũng được giảm đi đến mức tối

thiểu vì quá trình học cũng là quá trình tạo ra sản phẩm, sẽ được trả lương để

chi trả trong thời gian học nghề. Phía nhà doanh nghiệp có thể chủ động được

nguồn tuyển dụng. Để nâng cao hiệu quả đào tạo, bổ sung chất lượng nguồn

nhân lực, các trường, các trung tâm, các cơ sở dạy nghề cần có sự liên hệ với

các cơ sở sản xuất để có sự phối hợp trong công tác đào tạo và sử dụng lao

động khi họ ra trường. Mặt khác, tăng cường, khuyến khích việc đào tạo nghề

cho người lao động ở nước ngoài. Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ người đi

học như cho vay ưu đãi với thời gian, điều kiện, phương thức trả nợ thích

hợp, hoặc hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức tuyên

truyền khác, tuyên truyền rộng lớn để thay đổi nhận thức về nghề nghiệp tới

100

học sinh và cha mẹ học sinh, từ đó định hướng học nghề cho họ.

Một vấn đề hết sức quan trọng nữa đó là việc nghiên cứu quy hoạch các

doanh nghiệp với nhu cầu lao động theo giới tính để đảm bảo cơ cấu lao động

theo giới tính một cách hợp lý trên phạm vị một vùng lãnh thổ. Giải quyết tốt

vấn đề này sẽ bảo đảm tính ổn định của nguồn lao động cũng như đời sống

tinh thần cho người lao động.

Hiện nay phần lớn số lao động trong các KCN ở Vĩnh Phúc xuất thân

từ nông thôn, trình độ văn hóa hạn chế, không nắm chắc được những quy định

của pháp luật nên chưa tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở doanh

nghiệp. Vì vậy, cần nâng cao kiến thức về pháp luật cần thiết cho người lao

động hiểu được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp và

đối với xã hội là việc cần được chú trọng.

Cần quy hoạch các KCN một cách hợp lý, tránh tình trạng tập trung

quá nhiều KCN trên một địa bàn dẫn đến tình trạng việc tập trung quá nhiều

lao động (cả lao động ngoài tỉnh) trên một địa bàn đó, gây khó khăn cho việc

tuyển dụng và gây áp lực lớn đối với cơ sở hạ tầng xã hội.

Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể, nhất là Công đoàn để bảo

vệ quyền lợi cho người lao động. Cần có kế hoạch vận động thành lập công

đoàn ở tất cả các doanh nghiệp, xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành

người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, giám sát chủ đầu tư

thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước.

Tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.

Tái sản xuất sức lao động là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển

nguồn nhân lực. UBND tỉnh và chính quyền nơi có KCN phải tạo điều kiện

nâng cao đời sống cho người lao động thông qua việc quy hoạch các khu định

cư, nâng cấp hoặc xây dựng mới hạ tầng xã hội ngoài hàng rào (bệnh viện,

trường học, khu thương mại, khu giải trí, đường xá…). Khi xây dựng các

101

KCN, đặc biệt đối với vùng trọng điểm nơi có nhiều KCN, cần gắn liền với

việc quy hoạch xây dựng khu dân cư, khu nhà ở cho công nhân. Từng bước

thực hiện để đáp ứng nhu cầu thực tế. Quy hoạch KCN, cần gắn với xây dựng

các đô thị công nghiệp. UBND tỉnh cần chủ động phối hợp với các doanh

nghiệp phát triển hạ tầng KCN, với các chủ đầu tư trong các KCN và với

chính người lao động, tạo sức mạnh chung để thực hiện công tác này.

Như vậy, vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển các

KCN, từ đó phục vụ cho sự phát triển KT-XH phải được giải quyết trên cơ sở

hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đào tạo, sự thay đổi nhận thức của người dân,

người lao động cũng như từ phía người sử dụng lao động. Tất cả những giải

pháp trên cần phải được thực hiện một cách đồng bộ, tạo môi trường thuận lợi

cho các nhà đầu tư và là điều kiện hết sức quan trọng để thu hút đầu tư vào các

KCN của tỉnh.

3.2.7. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư

khu công nghiệp.

Nếu như công tác quy hoạch phát triển và hệ thống các chính sách có vai

trò định hướng và tạo cơ chế hoạt động trong KCN theo những mục tiêu trong

từng giai đoạn phát triển, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN, đảm bảo các lợi ích của người dân, công tác đầu tư hạ tầng, nhà

đầu tư sản xuất kinh doanh, người lao động trong KCN… thì công tác nâng cao

hiệu lực, hiệu quả, năng lực quản lý Nhà nước có vai trò tác động, thúc đẩy

nhanh quá trình phát triển đó hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả và đảm bảo lợi

ích của Nhà nước. Nội dung công tác quản lý Nhà nước đối với các KCN cần

được thực hiện theo các hướng sau:

- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển

KCN; rà soát để xóa bỏ những ưu đãi không phù hợp với các điều kiện, các

102

quy định của tỉnh về KCN;

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động KCN, rà soát

lại hệ thống văn bản pháp quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành

liên quan đến hoạt động của các KCN, xử lý những bất hợp lý, chồng chéo,

mâu thuẫn nhau, bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tiễn, rút ngắn

lộ trình tạo mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong tỉnh, trong nước, và đầu

tư nước ngoài. Khi ban hành văn bản pháp quy cần ban hành đồng bộ những

văn bản pháp lý liên quan, cần tính đến khả thi của văn bản ban hành…

- Quy định và hướng dẫn việc hình thành, xây dựng, phát triển và quản

lý hoạt động của KCN. Cần xây dựng một quy trình rõ ràng về sự phối hợp

giữa việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, quy định những

chế tài cụ thể đối với việc vi phạm các cam kết về giải phóng mặt bằng, về

tiến độ và chất lượng xây dựng các công trình ngoài hàng rào.

- Cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục

hành chính Nhà nước liên quan. Thực hiện tốt cơ chế “một cửa, tại chỗ”, các

thủ tục hành chính cần được đơn giản hóa đến mức tối thiểu, đặc biệt là thủ tục

cấp phép đầu tư. Nếu làm được điều đó sẽ góp phần tiết kiệm rất lớn cho các

nhà đầu tư, đồng thời rèn luyện tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ,

tạo sự liên hệ thông suốt của hệ thống quản lý từ tỉnh đến huyện, đến Ban quản

lý các KCN.

- Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

- Kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của KCN và giả quyết các

vấn đề phát sinh.

3.2.8. Giải quyết tốt vấn đề môi trường

Thành lập KCN với mục đích giảm thiểu tác động của các cơ sở công

nghiệp, các nhà máy, góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, do cả nguyên

nhân chủ quan và khách quan mà hiện nay các KCN lại đang bị ô nhiễm môi

103

trường, đặc biệt ảnh hưởng lớn đến cuộc sống dân cư xung quanh KCN, gây

bức xúc cho nhân dân. Tình hình đó đặt ra cho Vĩnh Phúc phải hết sức quan

tâm đến công tác bảo vệ môi trương ở các KCN.

Ban quản lý các KCN chưa được ủy quyền thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về môi trường trong các KCN theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP

ngày 14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh

tế và Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 của Bộ Tài nguyên và

Môi trường quy định quản lý và bảo vệ môi trường Khu kinh tế, Khu công

nghệ cao, Khu công nghiệp và cụm công nghiệp, nhưng trong năm 2011, Ban

đã chủ động, tích cực làm việc với chủ đầu tư hạ tầng KCN Khai Quang, Bình

Xuyên và một số doanh nghiệp KCN để nắm bắt tình hình diễn biến về môi

trường và việc thực hiện các quy định về môi trường, nắm bắt những khó

khăn, vướng mắc trong công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp để

kịp thời tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh các biện pháp tháo gỡ cho doanh

nghiệp. Năm 2011, Ban đã đôn đốc chủ đầu tư hạ tầng KCN Bình Xuyên

hoàn thành khu xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành từ tháng 6/2011 và

KCN Khai Quang hoàn thành trạm xử lý nước thải giai đoạn II .

Thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong KCN, chủ đầu tư hạ tầng

KCN Khai Quang đã trồng 31,9 ha cây xanh xung quanh KCN. Các doanh

nghiệp trong KCN đã ký hợp đồng thu gom chất thải rắn với Công ty Môi

trường đô thị Vĩnh Yên, Công ty Môi trường đô thị Phúc Yên, Công ty TNHH

Thương mại Dịch vụ và Môi trường Ngôi sao xanh, Công ty cổ phần Thuận

Trường An…để thu gom, vận chuyển và tập kết chất thải đúng nơi quy định.

Hiện nay 4 khu công nghiệp (Kim Hoa, Khai Quang, Bình Xuyên và Bá

Thiện) đã có trạm xử lý nước thải, có hệ thống thoát nước mưa và nước thải

riêng biệt, đang triển khai hệ thống xử lý nước thải tại 3 KCN Bình Xuyên II,

Bá Thiện II và Phúc Yên; tỉnh đang đầu tư Hợp phần thoát nước và xử lý nước

104

thải thành phố Vĩnh Yên thuộc dự án Cải thiện môi trường đầu tư để dần hoàn

thiện hệ thống hạ tầng đô thị Vĩnh Yên; KCN Khai Quang đã có 35/51 doanh

nghiệp đã tiến hành đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung với tổng công suất là 5.800m3/ngày đêm; KCN Bình Xuyên có

11/34 doanh nghiệp đã tiến hành ký hợp đồng đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung công suất 3.000m3/ngày đêm. [7]

Tuy nhiên, việc triển khai thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt còn nhiều

hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu; chưa xây dựng nhà máy xử lý chất thải

rắn, do vậy, chất thải rắn mới chỉ được thu gom, đưa về bãi rác thải tạm. Nhìn

chung các KCN chưa có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh, bên

cạnh đó các KCN vừa xây dựng kết cấu hạ tầng vừa tiến hành sản xuất nên

không tránh khỏi ô nhiễm môi trường. Để giải quyết tốt vấn đề môi trường

trong các KCN, giảm thiểu ô nhiễm cần thực hiện đồng bộ một số vấn đề sau:

- Tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức của các đối tượng liên

quan đến KCN. Đối với Ban quản lý các KCN phải quy hoach xây dựng hệ

thống xử lý chất thải, thường xuyên đôn đốc kiểm tra và phối hợp với cơ quan

chức năng để giám sát chặt chẽ vấn đề bảo vệ môi trường. Đối với chủ đầu tư

xây dựng hạ tầng KCN phải có trách nhiệm xây dựng và tuân thủ đúng quy

định về hệ thống xử lý chất thải tập trung. Đối với doanh nghiệp KCN phải có

hệ thống xử lý chất thải đảm bảo. Đối với người dân xung quanh cần phải

theo dõi, giám sát và báo cáo với chính quyền, Ban quản lý các KCN về các

hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đối với người lao động phải có ý thức bảo

vệ môi trường.

- Đẩy nhanh quá trình đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ

tầng KCN, quá trình triển khai dự án của các nhà đầu tư vào KCN. Kiên quyết

trong quản lý các dự án có gây ô nhiễm môi trường bắt buộc phải hoàn thiện

105

các công trình xử lý đảm bảo môi trường mới được đưa vào hoạt động.

- Địa phương cần quy hoạch khu xử lý chất thải rắn và yêu cầu các

công ty đầu tư hạ tầng thực hiện các biện pháp xử lý chất thải rắn thường

xuyên và triệt để.

- Có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ

môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh KCN, xử lý chất thải, rác thải,

nước thải được hoạt động trong KCN.

- Khuyến khích các dự án đầu tư và sản xuất không gây ô nhiễm môi

trường trong các KCN.

- Thường xuyên giám sát chặt chẽ việc giải quyết ô nhiễm môi trường

của các doanh nghiệp. Xử phạt nghiêm minh các hành vi gây ô nhiễm môi

trường trong KCN. Kết hợp lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, không vì

lợi ích trước mắt mà coi nhẹ những lợi ích về môi trường dẫn đến phát triển

không bền vững. Tránh tình trạng doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt vì gây ô

nhiễm môi trường chứ không chịu đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải.

Đồng thời khen thưởng các doanh nghiệp đã nghiêm túc trong công tác môi

trường, trở thành các nhân tố điển hình nêu gương. Định kỳ thực hiện việc

quan trắc môi trường để có biện pháp giải quyết kịp thời những phát sinh có

thể xẩy ra.

- Dành nguồn ngân sách nhất định cho công tác bảo vệ môi trường và huy

động được các nguồn vốn khác cho công tác bảo vệ môi trường của KCN.

- Quy hoạch thoát nước thải cho khu công nghiệp phải tính đến nơi thải

nước cụ thể. Cần áp dụng 02 hệ thống xử lý nước thải theo tình hình thực tế

hiện nay: Hệ thống xử lý nước tại chỗ cho nhà máy và Hệ thống xử lý nước

của khu công nghiệp. Xác định công nghệ cụ thể để xử lý nước cho từng loại

106

hệ thống.

- Kiên quyết di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm lớn ra xa các khu

dân cư và đầu tư xây dựng hệ thống thiết bị lọc bụi và hấp thụ khí độc trước

khi thải vào môi trường không khí; áp dụng hệ thống xử lý nước thải trước

khi xả vào hệ thống sông ngòi; thu gom chất thải rắn và xử lý đúng quy phạm

đảm bảo tiêu chuẩn nhà nước Việt Nam về môi trường.

- Đối với khí thải từ các dây truyền sản xuất cần phải thường xuyên

định kỳ quan trắc mức độ ô nhiễm, phân tích thành phần khí thải, nước thải từ

các nguồn thải và các điểm quan trắc, các khu vực dân cư lân cận. Nếu mức

độ ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép cần có kế hoạch đình chỉ hoặc di

dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư.

- Các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát thải các chất gây ảnh hưởng xấu

tới môi trường bắt buộc phải có báo cáo đánh giá định kỳ những tác động tới

môi trường và các biện pháp xử lý khắc phục.

3.3. Kiến nghị và đề xuất

3.3.1. Đối với UBND tỉnh Vĩnh Phúc

- Chỉ đạo các cấp, các ngành tăng tập trung tháo gỡ khó khăn về bồi

thường, GPMB cho các dự án, giúp các nhà đầu tư có mặt bằng triển khai dự

án kịp tiến độ, nhất là các dự án trọng điểm. Đổi mới công tác bồi thường,

GPMB trên địa bàn tỉnh bằng việc thành lập Ban bồi thường, GPMB thuộc

UBND tỉnh để thực hiện nhiệm vụ liên quan đến công tác bồi thường, GPMB

các dự án thuộc diện nhà nước thu hồi đất.

- Phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý các KCN các nhiệm vụ đã được

quy định trong Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ

về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, theo hướng hoàn thiện mô

hình quản lý nhà nước đối với các KCN trên nguyên tắc “một cửa, tại chỗ”

107

thông qua vai trò đầu mối là Ban quản lý các KCN.

- Nghiên cứu thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư, Văn phòng đại diện

xúc tiến đầu tư ở nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về tư vấn

xúc tiến đầu tư để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư trong các

KCN trên địa bàn tỉnh.

3.3.2. Đối với Chính phủ

- Ban hành chính sách ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư trong KCN,

tạo điều kiện thu hút đầu tư, tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại Việt

Nam; có chính sách ưu đãi đối với ngành công nghiệp phụ trợ cho ô tô, xe

máy; ưu tiên, khuyến khích dự án có tỷ lệ nội địa hoá cao; ban hành Nghị

định hướng dẫn thi hành Luật công nghệ cao.

- Hướng dẫn hoàn thiện các quy định về chức năng thanh tra, xử lý vi

phạm hành chính của tổ chức thanh tra các Ban quản lý các KCN phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ của Ban quản lý các KCN.

- Ban hành Luật Khu công nghiệp nhằm tập trung, thống nhất các quy

định có liên quan đến KCN đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp

luật khác.

- Xem xét điều chỉnh Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009

của Thủ tướng Chính phủ, đề nghị có quy định để một số địa phương có điều

kiện cân đối ngân sách được đầu tư xây dựng nhà ở công nhân liền kề các khu

công nghiệp để hỗ trợ các nhà đầu tư, đồng thời ban hành kịp thời các Thông

tư hướng dẫn liên quan đến chính sách thuế, tài chính ưu đãi với các nhà đầu

108

tư có dự án đầu tư phát triển nhà ở công nhân.

Kết luận chương 3

Loại hình KCN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển KT-

XH ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới. Cần khai thác và sử dụng hữu hiệu hơn nữa

mô hình KCN để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam nói chung và

Vĩnh Phúc nói riêng trong giai đoạn hiện nay và hướng tới năm 2020.

Từ những kết quả nghiên cứu thực trạng phát triển các KCN, chúng tôi

đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp để đẩy mạnh phát triển KCN ở

Vĩnh Phúc. Trong thời gian tới, các giải pháp cần được chú ý thực hiện là:

tăng cường cải thiện môi trường đầu tư cho phát triển công nghiệp nói chung

và từng KCN nói riêng, hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài

hàng rào KCN, thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp trong KCN sao cho đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế

quốc tế, sửa đổi một số chính sách cho phù hợp....Vấn đề đặt ra là cần phải

109

thực hiện đồng bộ các giải pháp để đem lại hiệu quả như mong muốn.

KẾT LUẬN

Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc với

nhiều lợi thế để phát triển KCN. Thực tế cho thấy, KCN đang ngày càng tỏ rõ

những ưu thế của mình trong việc phát triển KT-XH: thu hút đầu tư, đóng góp

giá trị lớn vào ngân sách nhà nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm

và thu nhập cho người lao động, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng, tác động

lan tỏa tích cực đến nhiều ngành kinh tế, hình thành những ngành kinh tế mũi

nhọn để tăng cường khả năng cạnh tranh... Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và

khảo sát thực tế có thể khẳng định rằng phát triển các KCN là một hướng đi

đúng đắn để thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế xã hội của Vĩnh Phúc.

Bên cạnh đó, các KCN của Vĩnh Phúc cũng còn không ít tồn tại, hạn chế:

thu hút đầu tư giảm sút, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, tiến độ triển khai

dự án còn chậm, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội bức xúc quanh KCN, tiến độ bồi

thường, GPMB, thu hồi đất, tái định cư còn chậm chạp, công tác quản lý nhà nước

còn chưa thực sự hiệu quả, tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh KCN...

Sau một thời gian nghiên cứu và khảo sát thực tế, bước đầu luận văn đã

đạt được một số kết quả sau đây:

- Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về KCN, đồng thời nêu

được các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KCN.

- Trên cơ sở lý luận đó, cùng với quá trình điều tra khảo sát thực tế,

luận văn đã nêu lên được thực trạng phát triển các KCN Vĩnh Phúc.

- Từ việc phân tích chỉ rõ những hạn chế của KCN Vĩnh Phúc, ở

chương 3 của luận văn, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy

110

những đóng góp tích cực và khắc phục những hạn chế trong phát triển KCN.

Đồng thời có những khuyến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước để phát

triển các KCN.

Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu cũng như khả năng

còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong

nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các Thầy Cô giáo và

111

đồng nghiệp để luận văn có thể hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2004), Phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất

ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, kỷ yếu hội thảo.

2. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2003), Kỹ năng xúc tiến đầu tư, NXBCTQG, Hà

Nội.

3. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2003), Tổng hợp các chính

sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư các tỉnh đã ban hành.

4. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2006), Thực trạng của các

khu cô ng nghiệp, cụm công nghiệp năm 2005 và định hướng cơ bản cho

năm 2006.

5. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo tình hình

thực hiện nhiệm vụ năm 2009 và phương hướng năm 2010

6. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình

thực hiện nhiệm vụ năm 2010 và phương hướng năm 2011

7. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2011), Báo cáo tình hình

thực hiện nhiệm vụ năm 2011 và phương hướng năm 2012

8. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo về rà soát,

điều chỉnh quy hoạch khu công nghiệp theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày

02/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ

9. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2011), Báo cáo tổng kết 20

năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế trên

địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

10. Ban quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh (2011), Báo cáo tổng hợp tình

hình phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh.

11. Ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dương (2011), Báo cáo tổng hợp

112

tình hình phát triển KCN tỉnh Hải Dương.

12. Bộ Công nghiệp (2006), Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh

trung du và miền núi Bắc Bộ, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội.

13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng hợp đề án điều chỉnh quy

hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam thời kỳ 2005-

2020, 14. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày

14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh

tế.

15. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010), Niên

giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, NXB Thống kê, Hà Nội.

16. Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc: www.vinhphuc.gov.vn.

17. Trần Thị Dung (2004), Về việc phát triển các khu công nghiệp tại các khu

vực Bắc Bộ, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, (5), tr.14-15.

18. Nguyễn Thành Dũng (2002), Vai trò của khu chế xuất, khu thương mại tự

do, đặc khu kinh tế trước thực trạng toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, Tạp

chí Phát triển kinh tế, tr.6.

19. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và phát

triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu- trao đổi, (3),

tr.26- 27.

20. Lê Tuấn Dũng (2004), Hướng đi cho phát triển KCN tại một số tỉnh miền

núi Bắc Bộ, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, (5), tr 8-9.

21. Nguyễn Hữu Dũng (2006), Phát triển Khu công nghiệp với vấn đề lao

động- việc làm ở Việt Nam”.

22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXBCTQG, Hà Nội.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

113

thứ X, NXBCTQG, Hà Nội.

24. Đậu Thị Đức (2009), Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn

Hà Nội, luận văn thạc sỹ kinh tế, trường Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia

Hà Nội.

25. GS, TS Đặng Đình Đào (2006), Một số vấn đề phát triển KCN trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị- Hội thảo

khoa học quốc gia 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp,

khu chế xuất ở Việt Nam, Long An.

26. Ngô Văn Điển (6/2000), Các khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam;

Thực trạng và các giải pháp đang áp dụng, Ban quản lý các khu công nghiệp

Việt Nam.

27. Đặng Quang Điều (2004), Xung quanh vấn đề nhà ở cho người lao động

tại các khu công nghiệp, Tạp chí Lao động và xã hội, (260), tr.10-12.

28. Phạm Xuân Đức (2005), Cung cầu về nhà ở cho công nhân các KCN hiện

nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

29. Trần Ngọc Hiên (2005), Cơ sở lý luận phát triển mô hình KCN trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Tạp chí Thông tin khoa

học xã hội, (2), tr.12-16.

30. Đan Đức Hiệp (2002), Mô hình nào cho xây dựng và phát triển khu công

nghiệp, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4), tr.21-23.

31. Hoàng Xuân Hòa (2005), Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

người lao động ở khu công nghiệp, khu chế xuất, Tạp chí Lao động và

Công đoàn, (327), tr.8,9,15.

32. Vũ Huy Hoàng (2002), Tổng quan về hoạt động của các KCN, Kỷ yếu:

khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

33. Minh Huệ (2002), khu công nghiệp, khu chế xuất và vấn đề lao động –

114

việc làm, Tạp chí Lao động và xã hội, (203), tr.3-5.

34. Trần Ngọc Hùng (2004), Thống nhất về khuyến khích và đảm bảo đầu tư

giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, Thông tin khu công nghiệp

Việt Nam, (10), tr.30-33.

35. Bạch Minh Huyền (1997), khu công nghiệp, khu chế xuất, thực trạng và

giải pháp, Tạp chí Tài chính. (10), tr.21.

36. Võ Thành Lập (2006), khu công nghiệp Đồng Nai trong quá trình tăng

trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Kỷ yếu: 15 năm xây dựng

và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long

An.

37. Bích Liên (2004), Khu công nghiệp qua hơn 10 năm phát triển – thành

công và khó khăn cần giải quyết, Tạp chí Thông tin KT – XH, (11), tr.25.

38. Nguyễn Công Lộc (2006), Vai trò của các khu công nghiệp đối với quá

trình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc, Kỷ yếu:

15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt

Nam, Nxb Long An.

39. ThS Bùi Vĩnh Kiên (2007), Một số giải pháp phát triển các khu công

nghiệp Bắc Ninh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (7).

40. Đinh Thị Kim Khánh (2007), Năng lực cạnh tranh của tỉnh Vĩnh Phúc

trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, luận văn thạc sỹ kinh tế,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Anh Minh (1998), Để lấp đầy chỗ khu công nghiệp, Báo Đầu tư, ngày

9/4/1998.

42. Vũ Xuân Mừng (2004), Khai thác tốt lợi thế, phát triển các khu công

nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh phía Nam, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.44-48.

43. Võ Văn Một (2006), Phát triển các khu công nghiệp trong quá trình

CNH, HĐH tại tỉnh Đồng Nai, Kỷ yếu: 15 năm xây dựng và phát triển các

115

khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long An.

44. Trần Văn Phòng (2007), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của các khu

công nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Lê Dương Quang (2007), Vấn đề quy hoạch các khu công nghiệp ở nước

ta hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước, (135).

46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đầu tư,

số 59/2005/QH11.

47. Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nâng cao vai trò và hiệu quả

quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường của các khu chế xuất, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Huy Thám (1997), Mấy vấn đề khu chế xuất và khu công nghiệp

Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (8), tr. 15-17.

49. Đặng Văn Thắng (2006), Nâng cao chất lượng quy hoạch khu công

nghiệp – bài học thực tiễn và những quan điểm định hướng, Tạp chí Kinh

tế và Dự báo, (5), tr.15-18.

50. Võ Thanh Thu (2004), Thực trạng lao động tại các khu công nghiệp, khu

chế xuất tại miền Đông Nam Bộ, Thông tin KCN Việt Nam, (10), tr. 8-9.

51. Tạ Trung Tính (5/2004), Vĩnh Phúc với việc xây dựng các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.

52. Nguyễn Chơn Trung (2004), Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất

trong quá trình CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Bùi Quang Tuấn (2005), Vai trò của khu công nghiệp và khu chế xuất đối

với tiến trình công nghiệp hóa ở Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế

thế giới, (1), tr. 21.

54. Vũ Anh Tuấn (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, những

116

vấn đề đặt ra, Tạp chí Phát triển kinh tế, (2), tr. 8-10.

55. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc lần thứ XIV.

56. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc lần thứ XV.

57. Trang Web của Bộ Kế hoach và đầu tư: www.mpi.gov.vn

58. Trang Web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn

59. Trang Web của Ban quản lý các KCN tỉnh Vĩnh Phúc: bqlkcnvp.gov.vn

60. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã

hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

61. Lê Hồng Yến (1996), Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối

với các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: qua thực tiễn các KCN

phía Bắc (1996), Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học Thương mại, Hà Nội.

62. Lê Hồng Yến (2005), Quản lý nhà nước về môi trường trong các khu công

117

nghiệp, Tạp chí Quản lý nhà nước, tr.25-28.