ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------------
NGUYỄN THÀNH CÔNG
PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------------
NGUYỄN THÀNH CÔNG
PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số:60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Hồng Tiến
HÀ NỘI - 2012
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CN: Công nghiệp.
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
DDI: Vốn đầu tư trong nước.
DN: Doanh nghiệp.
FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
GDP: Tổng thu nhập quốc nội.
GPMB: Giải phóng mặt bằng.
GTSXCN: Giá trị sản xuất công nghiệp.
KCN, KCX: Khu công nghiệp, khu chế xuất.
KCNC: Khu công nghệ cao.
UBND: Ủy ban nhân dân.
USD: Đô la Mỹ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG TRANG TT
Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- Bảng 2.1 34 2010
Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Bảng 2.2 39 Phúc
Các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã được Chính phủ phê Bảng 2.3 43 duyệt
Bảng 2.4 Tỷ lệ lấp đầy các KCN tính theo năm, 2005-2011 47
Tỷ lệ lấp đầy tính theo các KCN đang hoạt động, năm Bảng 2.5 50 2011
Nguồn vốn đầu tư vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân Bảng 2.6 52 theo KCN tính đến 2010
Số dự án và số vốn đầu tư tại các KCN Vĩnh Phúc từ Bảng 2.7 53 1998-Quý I/2010
Dự án FDI đầu tư vào KCN phân theo quốc gia và Bảng 2.8 54 vùng lãnh thổ
GTSXCN của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Bảng 2.9 54 từ 2005-2010
Bảng 2.10 Giá trị xuất khẩu của các KCN 55
Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Bảng 2.11 56 Phúc
Cơ cầu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997- Bảng 2.12 61 2010
Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc Bảng 3.1 80 đến năm 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ............................................ 8
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 8
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP .......................................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển khu công nghiệp .......................................... 9
1.1.1. Khu công nghiệp và vai trò của khu công nghiệp ........................... 9
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN ...... 17
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN ................................ 23
1.2. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN ..................... 26
1.2.1. Kinh nghiệm của một số địa phương ............................................. 26
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Vĩnh Phúc ............................................. 31
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC ......................................................... 34
2.1. Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển khu công nghiệp
ở Vĩnh Phúc ................................................................................................ 34
2.1.1. Những thuận lợi ............................................................................. 34
2.1.2. Những khó khăn ............................................................................ 39
2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ............... 41
2.2.1. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc .......... 41
1
2.2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ........ 45
2.2.3. Đánh giá chung về vai trò của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc .............. 67
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 75
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ..... 77
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC ......................................................... 77
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển các KCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................. 77
3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp .......................................... 77
3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 ........ 79
3.1.3. Định hướng phát triển các KCN ở Vĩnh Phúc ............................... 81
3.2. Các giải pháp phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ................. 83
3.2.1 Giải pháp về công tác quy hoạch phát triển KCN .......................... 83
3.2.3. Hoàn thiện một số cơ chế chính sách về thu hút đầu tư ................ 89
3.2.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại ........................... 93
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và
cho thuê đất trong xây dựng khu công nghiệp ........................................ 96
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các khu công nghiệp ..... 99
3.2.7. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
khu công nghiệp. ................................................................................... 102
3.2.8. Giải quyết tốt vấn đề môi trường ................................................. 103
3.3. Kiến nghị và đề xuất ........................................................................... 107
3.3.1. Đối với UBND tỉnh Vĩnh Phúc .................................................. 107
3.3.2. Đối với Chính phủ ....................................................................... 108
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 109
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 112
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa
ngõ của thủ đô Hà Nội và cũng là cửa ngõ nối các tỉnh khu vực Tây Bắc với
thủ đô Hà Nội. Là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên và vị
trí địa lý, thuận lợi cho việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp (KCN)
nói riêng và phát triển công nghiệp nói chung. Xây dựng và phát triển các
KCN là một trong những quyết sách trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Vĩnh Phúc.
Trong thời gian qua các KCN trên địa bàn tỉnh đã trở thành điểm đến
của các nhà đầu tư, góp phần quan trọng vào việc phân công lại lao động xã
hội phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hoàn thành mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh. Việc phát triển các KCN cũng là điều kiện cho
việc hình thành các khu đô thị mới và khu du lịch, phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho tỉnh nhà.
Với phương châm “Tất cả các nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều là công
dân Vĩnh Phúc - Thành công của doanh nghiệp chính là thành công và niềm
tự hào của tỉnh”, Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng trong thu hút đầu tư, nhờ đó
mà tỉnh đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, là điểm đến
tin cậy và hấp dẫn của các nhà đầu tư, thúc đẩy công nghiệp Vĩnh Phúc phát
triển mạnh, nằm trong tốp đứng đầu cả nước về phát triển công nghiệp nói
chung và phát triển các KCN nói riêng.
Năm 2011, Vĩnh Phúc thu hút được 70 dự án mới, gồm 59 dự án DDI
3
với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2.230 tỷ đồng và 11 dự án FDI mới với tổng
vốn đầu tư gần 108 triệu USD. Lũy kế đến hết tháng 7 năm 2012, trên địa bàn
tỉnh có 630 dự án, trong đó 119 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký là 2.412,85
triệu USD; vốn thực hiện ước đạt 45 % tổng vốn đăng ký và 511 dự án DDI,
với tổng vốn đầu tư đăng ký là 25.231,54 tỷ đồng; vốn thực hiện ước đạt
47,36 % tổng vốn đăng ký. Trong đó, các dự án, đặc biệt là các dự án FDI tập
trung chủ yếu ở các khu công nghiệp của tỉnh. [9]
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn đó, việc phát triển các khu
công nghiệp cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém: tỷ trọng đóng góp của KCN
vào phát triển kinh tế xã hội còn khiêm tốn; chất lượng quy hoạch và quản lý
triển khai xây dựng theo quy hoạch chưa cao; việc triển khai đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và còn chậm; sức thu hút của các dự án vào
KCN còn hạn chế, chưa có nhiều dự án công nghệ cao; còn nhiều bất cập
trong giải quyết các vấn đề bức xúc của KCN: việc làm và thu nhập cho người
dân mất đất do phát triển KCN, vấn đề đời sống của công nhân KCN và nhân
dân xung quanh KCN, đặc biệt là vấn đề môi trường sinh thái...Những khó
khăn, bất cập đó đã và đang là những lực cản làm cho các KCN chưa phát huy
tốt vai trò khu kinh tế động lực đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Trước những vấn đề đó, cần phải có những nghiên cứu lý luận và đánh
giá thực tiễn về sự phát triển KCN. Đưa ra các giải pháp phát triển các KCN
một cách cân bằng và hợp lý, không chỉ phát triển về số lượng mà cả về chất
lượng của các KCN; phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Phát triển các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sỹ
4
kinh tế chính trị.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Phát triển các KCN luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
các địa phương và trong cả nước. Do đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu,
luận án, luận văn và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
“Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về KCN, KCX ở Việt Nam”
(2002) - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nghiên cứu
kinh nghiệm quản lý của các KCN, KCX của nước ngoài, đánh giá những
mặt tốt và những hạn chế của mô hình hiện đại đang áp dụng vào Việt Nam,
trên cơ sở đó đề xuất một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý các KCN, KCX ở Việt Nam.
“Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước,
bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX” (2004), của tiến sỹ Trương Thị Minh
Sâm đánh giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các
KCN, KCX vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra và đề
ra một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với
các KCN, KCX.
Năm 2004, cả nước đã có 6 hội thảo về phát triển KCN, KCX; trong đó
có hội thảo với chủ đề “Phát triển các KCN, KCX ở các tỉnh phía Bắc -
những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với
Tạp chí cộng sản và UBND tỉnh Thanh Hoá tổ chức, các bài viết đã đề cập
đến các vấn đề như vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của Đảng và
Nhà nước về phát triển các KCN, KCX; một số vấn đề lý luận về KCN, KCX;
công tác quy hoạch phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến sự
kém phát triển của các KCN phía Bắc so với phía Nam...
Tháng 7/2006, nhân kỷ niệm 15 năm xây dựng các KCN, KCX, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã tổ chức “Hội nghị - hội thảo quốc gia 15 năm xây dựng
5
và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam” tại Long An nhằm nhìn nhận lại
những thành tựu đạt được, những hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát
triển KCN, kiến nghị phương hướng và giải pháp phát triển KCN, KCX ở
Việt Nam.
“Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới” (2004) của
GS, TS Nguyễn Văn Thường, tác giả đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề phát
triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong đó có những phân tích
sâu sắc về vấn đề phát triển các KCN, KCX, khu kinh tế với vai trò đầu tàu
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.
Nhiều luận án, luận văn cũng đã đề cập đến vấn đề phát triển KCN:
Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối
với các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: qua thực tiễn các KCN
phía Bắc” (1996) của tác giả Lê Hồng Yến, Trường Đại học Thương mại. Tác
giả đã đi vào phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với cá KCN Việt Nam
thông qua thực tiễn nghiên cứu, khảo sát các KCN phía Bắc, đề ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối với các KCN
ở Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ kinh tế “Hiệu quả kinh tế xã hội của các KCN thành
phố Hà Nội” (2006) của tác giả Nguyễn Duy Cường, Học viện CTQGHCM.
Tác giả đi sâu phân tích chủ yếu những đóng góp tích cực của các KCN thành
phố Hà Nội vào sự phát triển kinh tế xã hội, đề ra những giải pháp để thúc đẩy
sự phát triển các KCN, tăng khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã
hội cho Hà Nội.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các tác giả trên các tạp chí chuyên
ngành cũng đề cập đến vấn đề này: Ngô Thế Bắc (2001) “KCN, KCX ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 3; Phan Tiến Ngọc (2006) “Vai
trò của KCN, KCX với phát triển kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh
6
tế, số 341; Đinh Hữu Quý (2006) “Mô hình khu kinh tế đặc biệt trong điều
kiện hội nhập”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 403; Phương Ngọc Thạch
(2006) “Các chính sách tác động không thuận lợi đến phát triển các KCN”,
Tạp chí Phát triển kinh tế, số 188; Đặng Văn Thắng (2006) “Nâng cao chất
lượng quy hoạch KCN – Bài học thực tiễn và những quan điểm định hướng”,
Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 397...
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý
luận và thực tiễn về phát triển KCN trên bình diện của cả nước hoặc các địa
phương khác, đi sâu vào một vấn đề cụ thể để đánh giá. Chưa có những phân
tích, đánh giá toàn diện về phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc,
trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN một cách
cân bằng và hợp lý, không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng; phát huy
những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế của việc phát triển các KCN
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích những cơ sở lý luận về phát triển khu công nghiệp, đồng
thời tham khảo kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN.
- Đánh giá thực trạng phát triển các KCN hiện nay tại tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
7
Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: nghiên cứu các KCN trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Về thời gian nghiên cứu: từ khi xây dựng và phát triển các KCN của
tỉnh Vĩnh Phúc (từ 1998 đến nay).
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả, đồng
thời quán triệt các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong các Văn
kiện Đại hội; các quan điểm, chủ trương, chính sách của tỉnh Vĩnh Phúc trong
phát triển các KCN.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế,
trong đó chú trọng đến các phương pháp: Phương pháp duy vật biện chứng;
phương pháp lôgic - lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp
thống kê, so sánh...
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn luận giải một cách có hệ thống thực trạng phát triển các
KCN của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn được bảo vệ thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan hoạch định chính sách của
tỉnh Vĩnh Phúc về phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển khu công nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc. - Chương 3: Giải pháp phát triển các khu công nghiệp trên
8
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khu công nghiệp và vai trò của khu công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp
KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển vào
những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XX. Năm 1896, KCN đầu tiên được
thành lập ở Manchester (Anh) và vùng CN Clearing Chicago (Mỹ). Năm
1904, Ý thành lập KCN ở Napoli... và sau những năm 50 của thế kỉ XX thì sự
phát triển các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Như vậy, lịch sử hình thành và phát
triển các KCN trên thế giới đã có hơn 100 năm.
Ở Việt Nam, KCN đầu tiên được thành lập ở thành phố Hồ Chí Minh
(KCX Tân Thuận), cùng với quá trình 20 năm hình thành và phát triển cũng
đã xuất hiện nhiều khái niệm khác nhau về KCN.
- Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định
36/CP của Chính phủ ngày 24/4/1997, thì:
+ KCN là khu tập trung các DN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định,
không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCN có khu chế xuất.
+ KCX là KCN tập trung các DN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có danh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ
tướng chính phủ quyết định thành lập.
+ KCNC là khu tập trung các DN CN kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt
9
động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao gồm nghiên cứu, triển khai
khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có danh giới địa lý xác
định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong
KCNC có thể có DN chế xuất.
- Theo Luật đầu tư năm 2005, khoản 20, 21, 22, 23 điều 3 ghi rõ:
+ KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, được thành lập
theo quy định của Chính phủ.
+ KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có danh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
+ Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng
công nghệ cao, ươm tạo DN công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao,
sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có danh giới địa lý xác định,
được thành lập theo quy định của Chính phủ.
- Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định:
+ KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo
điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
+ KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa
lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với
khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.
Từ các khái niệm trên và thực tế quá trình phát triển KCN ở Việt Nam,
có thể hiểu một cách tổng quát về KCN như sau: "KCN là khu chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
danh giới địa lý xác định, có kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội đồng bộ, đảm
10
bảo cho sản xuất kinh doanh và đời sống của người lao động, được thành lập
theo quy định của chính phủ. Trong KCN có thể có DN chế xuất và DN công
nghệ cao."
1.1.1.2. Phân loại các KCN
Tuỳ theo góc độ tiếp cận khác nhau, có thể phân loại KCN như sau:
- Theo tính chất ngành nghề:
Theo tiêu chí này thì KCN được chia thành 3 loại: KCN chuyên ngành,
KCN đa ngành, KCN sinh thái.
+ KCN chuyên ngành: gồm các xí nghiệp công nghiệp cùng ngành
nghề hoặc từ một số ít ngành nghề khác nhau nhưng cùng sản xuất ra một số
loại sản phẩm, chủ yếu từ các ngành chủ đạo như: hoá chất - hoá dầu, điện tử
- tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ khí.
+ KCN đa ngành: gồm các xí nghiệp thuộc nhiều ngành công nghiệp
khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn được yêu cầu về lãnh thổ cho
sản xuất công nghiệp, song trong quy hoạch xây dựng cần chú ý vấn đề môi
trường nhằm hạn chế tác động xấu giữa các DN với nhau.
+ KCN sinh thái: là mô hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các
ngành công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với
nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững. Với
mô hình này thì phế liệu của nhà máy này có thể làm nguyên liệu cho nhà
máy kia hoặc sản phẩm của nhà máy này sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà
máy kia...
- Theo quy mô diện tích:
Phân loại theo tiêu chí này, phụ thuộc vào quan điểm của từng nước,
chủ yếu để phục vụ cho việc xếp hạng KCN. Thông thường có 4 loại là: KCN
nhỏ, trung bình, lớn và rất lớn.
11
- Theo các điều kiện hình thành:
Theo cách phân loại này có: các KCN thành lập mới, KCN nâng cấp
mở rộng và KCN di dời tập trung.
- Theo đặc điểm và cấp quản lý:
Theo tiêu chí này có 3 loại: KCN do chính phủ thành lập; KCN do UBND
tỉnh, thành phố quyết định thành lập; KCN do UBND huyện, thị quyết định
thành lập.
1.1.1.3. Đặc điểm của khu công nghiệp
Hiện nay, các KCN được phát triển ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là
các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm,
phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nhìn chung các KCN có các đặc
điểm chủ yếu sau:
- KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp, luôn gắn liền
phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô
thị, phân bố dân cư hợp lý.
- KCN có chính sách kinh tế đặc thù và ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn. KCN cho phép các
doanh nghiệp sử dụng những phạm vi đất đai nhất định bên trong KCN để
thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với nhiều ưu đãi
như: thủ tục hành chính, giá thuê đất...
- Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung và thu hút các DN sản
xuất công nghiệp và các DN cung cấp các dịch vụ gắn liền với hoạt động sản
xuất công nghiệp gọi chung là DN Khu công nghiệp.
- Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng với những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: hệ
thống đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc, xử lý rác thải... Nguồn vốn xây
dựng cơ sở hạ tầng thường do chính phủ bỏ ra để san lấp mặt bằng, làm
12
đường giao thông... Trong trường hợp nhà nước không đủ vốn đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng thì nhà nước có thể kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN thường do một công ty
phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Các công ty này có thể là DN trong nước,
DN 100% vốn nước ngoài, DN liên doanh thực hiện. Các công ty phát triển
cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các DN
khác thuê lại.
- Về tổ chức quản lý: trên thực tế thì các KCN đều thành lập hệ thống
Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong
KCN. Ngoài Ban quản lý các KCN, tham gia quản lý tại các KCN còn có
nhiều Bộ, Ngành: UBND tỉnh, thành phố; Bộ Kế hoạch đầu tư; Bộ Công
thương; Bộ Xây dựng; Bộ Tài nguyên môi trường...
- Sản phẩm của các doanh nghiệp KCN chủ yếu dành cho thị trường thế
giới và phục vụ xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều
doanh nghiệp KCN sản xuất kinh doanh nhằm phục vụ thị trường nội địa.
- Mọi hoạt động trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị
trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh tế
trong KCN đều lấy điều tiết của thị trường làm chính.
- KCN có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn tách biệt như
KCX. Các chế độ quản lý hành chính, các quy định trong nội bộ KCN và với
các DN ngoài KCN sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong KCN sẽ là hoạt động
của các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước với các điều
kiện bình đẳng.
- KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và
nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song. DN có vốn đầu tư
nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, DN 100% vốn
13
nước ngoài, DN liên doanh và DN 100% vốn trong nước.
1.1.1.4. Vai trò của khu công nghiệp
Ở hầu hết các nước đang phát triển, KCN đã và đang trở thành mô hình
phát triển kinh tế quan trọng. Ở nước ta, trải qua một thời gian xây dựng và
phát triển, các KCN từng bước khẳng định được vị trí, tầm quan trọng, trở
thành một động lực to lớn trong tiến trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế. Vai trò của KCN thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, KCN tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Giống như
các nước đang phát triển khác, Việt Nam rất cần vốn, kỹ thuật, thị trường và
kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp công nghiệp. Song, môi trường kinh doanh
tổng thể của đất nước chưa đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư như: điều kiện kết
cấu hạ tầng, lao động có tay nghề cao, chất lượng quản lý hành chính. Nếu
chờ đầu tư để cải thiện môi trường chung thì vừa lâu vừa không khả thi vì
nguồn lực trong nước cũng như khả năng hấp thu vốn của nền kinh tế còn
thấp. Vì vậy, việc xây dựng các KCN là con đường thu hút đầu tư nhanh nhất.
Bởi vì, trong những danh giới xác định của KCN, nhà nước có thể tập trung
nguồn lực của mình nhằm tạo ra kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tạo điều
kiện giảm bớt chi phí, rủi ro ban đầu cho nhà đầu tư. Do đó, các doanh nghiệp
KCN có điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu lợi nhuận hơn bên ngoài KCN
nên KCN dễ hấp dẫn nhà đầu tư hơn, từ đó khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư
vào KCN. Nhà nước có thể thi hành những hệ thống ưu đãi có chọn lựa khác
nhau để thu hút các nhà đầu tư trong khi chưa cải cách ngay được hệ chính
sách chung.
Thứ hai, KCN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
KCN với đặc trưng là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp. Một mặt, nó chuyển những vùng đất sản xuất nông
14
nghiệp không hiệu quả sang xây dựng KCN để chuyển đổi sang sản xuất công
nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặt khác, sự phát triển các KCN
kéo theo sự phát triển của các khu đô thị mới, các ngành dịch vụ phát triển
như: thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, cơ
cấu GDP của nền kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần giá trị tỷ trọng ngành
nông nghiệp. Chính từ sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tại khu vực hình
thành KCN, nó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động địa phương theo
hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và tăng tỷ trọng
lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Kết quả của quá trình này sẽ
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương, là cơ sở để cải thiện và
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân địa phương.
Thứ ba, KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng
có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến, hiện đại hoá cách
thức quản lý. Việc hình thành các KCN sẽ tạo ra những tiền đề cho phép tiếp
nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại hoá cách thức
quản lý một cách nhanh chóng và hiệu quả. Cùng với dòng vốn lớn đầu tư vào
các KCN, các nhà đầu tư còn đưa những thành tựu khoa học công nghệ hiện
đại và trình độ quản lý tiến tiến vào sản xuất, từ đó dẫn đến việc tiếp nhận,
chuyển giao và đưa những công nghệ tiên tiến vào nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ tư, KCN góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Các
KCN là nơi thu hút được nhiều lao động hoạt động trong các doanh nghiệp và
trong các lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy mỗi KCN với diện tích
khoảng 100 - 150 ha, khi đã được lấp đầy toàn bộ diện tích sẽ cần số lượng
lao động lên đến 15.000 - 18.000 lao động làm việc trong các nhà máy, xí
nghiệp trong KCN. Tính đến tháng 9/2012, các KCN trên cả nước đã thu hút
15
được 1,6 triệu lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp, góp phần
tăng thu nhập đáng kể cho các lao động địa phương có KCN, ổn định và nâng
cao đời sống người dân, chất lượng nguồn lao động từng bước được nâng lên
thông qua tiếp cận công nghệ sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến hiện đại.
Trong thực tế những năm gần đây cho thấy hầu hết các KCN đều phải
tuyển thêm rất nhiều lao động ở các địa phương khác mới đáp ứng được nhu
cầu nguồn lao động ở các KCN. Như vậy, các KCN không chỉ giải quyết việc
làm cho lao động địa phương mà còn tạo việc làm cho các địa phương khác.
Thứ năm, KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường trong quá trình
phát triển công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp ở thành phố và khu vực dân
cư hiện đại không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào
KCN, đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn khu dân
cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động
bất lợi của sản xuất công nghiệp như: tiếng ồn, khói bụi, bức xạ... Mặt khác,
với sự tập trung của các DN sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định,
Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các DN
để có giải pháp thích hợp. Đồng thời về phía mình các DN công nghiệp cũng
có điều kiện phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí thấp nhất do sử
dụng lại phế thải của nhau, do có sự liên kết xử lý môi trường và sự hỗ trợ tập
trung của nhà nước. Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong
xử lý vấn đề môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN các DN phải có
hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Từng
KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư xây dựng
song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy, việc bảo
vệ môi trường trong khu vực KCN được thực hiện tốt hơn các cơ sở công
nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau.
Thứ sáu, Phát triển KCN còn là giải pháp hữu hiệu để hiện đại hoá hệ
16
thống kết cấu hạ tầng. Cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về hạ
tầng kỹ thuật trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ
gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong
vùng. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự
phát triển kinh tế địa phương. Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và
ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng
cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình
thành các ngành công nghiệp phụ trợ, các loại hình dịch vụ...các công trình hạ
tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như:
nhà ở, trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... tạo nên sự đồng bộ trong
kết cấu hạ tầng KCN.
Ngoài những vai trò cơ bản trên, KCN còn góp phần to lớn trong việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra cơ chế quản lý và mô
hình quản lý mới, tạo tiền đề trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế và ổn định thị
trường ngoại hối. KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa
phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ, mà còn có tác dụng lan toả
rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế của địa phương
và của cả nước, thực hiện tốt vai trò của khu kinh tế động lực.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển KCN như:
công tác quy hoạch; công tác triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng KCN; chính
sách thu hút đầu tư; chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; quá trình
triển khai và thực hiện dự án của nhà đầu tư; công tác quản lý nhà nước đối
với các KCN; sự phát triển của các loại hình dịch vụ phục vụ KCN; hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN; trình độ khoa học công nghệ của
các DN trong KCN; công tác quản lý và bảo vệ môi trường...
17
Các nhân tố trên đều xuất phát từ 2 đối tượng chính, đó là:
- Các cơ quan quản lý nhà nước: là các nhân tố liên quan đến công tác
quy hoạch, hoạch định chính sách phát triển, quản lý KCN.
- Các doanh nghiệp KCN: (bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư xây dựng
và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN) là các nhân tố liên quan đến triển khai
xây dựng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh...
1.1.2.1. Nhóm các nhân tố thuộc về cơ quan quản lý nhà nước
- Công tác quy hoạch KCN:
Thực hiên tốt công tác lập quy hoạch các KCN có tác động rất lớn đến
quá trình phát triển của KCN, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của
KCN trong quá trình phát triển KT - XH địa phương.
Trong công tác quy hoạch thì yếu tố quan trọng nhất chính là xem xét
việc lựa chọn vị trí đặt KCN sao cho KCN vừa có khả năng thu hút đầu tư cao
(có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông và kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ sinh
hoạt), vừa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của địa
phương, của vùng, của đất nước đảm bảo tác dụng lan toả, kích thích sự phát
triển KT - XH của địa phương, của vùng, của đất nước, không ảnh hưởng đến
sự phát triển của các ngành khác, đặc biệt là vấn đề an ninh lương thực.
Trong công tác quy hoạch cần chú ý việc gắn kết chặt chẽ quy hoạch
xây dựng KCN với quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dịch vụ đảm bảo giải
quyết nhà ở, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động thông
qua các dịch vụ: khám chữa bệnh, đầu tư xây dựng trường học, khu vui chơi
giải trí, trung tâm thương mại, đồng thời tạo việc làm nâng cao thu nhập của
nhân dân khu vực có đất bị thu hồi để xây dựng KCN.
Để thực hiện tốt công tác quy hoạch KCN, các cơ quan quản lý nhà
nước cần phải có định hướng đúng đắn, xác định rõ mục tiêu hình thành
18
KCN, có sự thống nhất quan điểm, nhận thức về KCN và việc hình thành
KCN. Nếu không sẽ dẫn đến những quan điểm, nhận thức sai lệch, từ đó dẫn
đến những sai lầm trong thực hiện công tác quy hoạch KCN.
Việc sai sót trong quy hoạch KCN gây ra những tổn thất và ảnh hưởng
lớn đến quá trình phát triển KT - XH của địa phương: Sai sót trong công tác
lập quy hoạch KCN sẽ dẫn đến tình trạng quy hoạch treo (chậm triển khai
hoặc không triển khai được); gây lãng phí nguồn lực đầu tư: vốn, tài nguyên
đất; gây ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành khác: nông nghiệp, giao
thông, văn hoá, du lịch... Điều đó đồng nghĩa với sự không hiệu quả của KCN
và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững KCN.
- Các chính sách phát triển KCN:
Trong phát triển KCN thì việc xây dựng các chính sách đối với KCN có
ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển
KCN, đặc biệt là việc phát triển nội tại KCN.
Các chính sách phát triển KCN bao gồm: chính sách ưu đãi đầu tư;
chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chính sách thu hút, xúc tiến
đầu tư, thực hiện các thủ tục hành chính; chính sách phát triển các loại hình
dịch vụ phục vụ KCN. Các chính sách hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế -
chính trị của đất nước, của địa phương, đảm bảo các thông lệ quốc tế, thì sẽ:
+ Tạo thuận lợi cho các DN nâng cao khả năng huy động các nguồn
vốn hợp pháp, hoàn thiện các thủ tục pháp lý để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại và thực hiện dự án theo
đúng tiến độ đặt ra, tránh gây lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực: vốn,
đất đai... trong quá trình đầu tư xây dựng; giải quyết tốt vấn đề gây ô nhiễm
môi trường từ hoạt động KCN.
+ Nâng cao khả năng thu hút đầu tư, thu hút những dự án đầu tư có
19
hiệu quả KT - XH cao, nhanh chóng lấp đầy KCN.
+ Kích thích nhà đầu tư đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh; đầu
tư mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh; đầu tư phát triển khoa
học công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong sản xuất nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh của DN, nâng cao
hiệu quả hoạt động của DN và của KCN.
+ Cung cấp nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp
ứng yêu cầu hoạt động sản xuất của DN; hỗ trợ cung cấp các dịch vụ phục vụ
đầu tư, sản xuất; giải quyết những vấn đề xã hội: nhà ở, khám chữa bệnh,
trường học, vui chơi giải trí, việc làm... tạo nên sự yên tâm và ổn định trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN và của KCN.
Ngược lại, các chính sách không phù hợp sẽ không kích thích được
hoạt động đầu tư; không thu hút được các nhà đầu tư vào KCN hoặc thu hút
các nhà đầu tư không đủ năng lực, những dự án không hiệu quả gây nên sự
lãng phí tài nguyên đất; thu hút những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường và tạo nên nguy cơ biến KCN thành bãi thải
công nghệ lạc hậu; gây nên sự mất ổn định về trật tự xã hội...
Như vậy, các chính sách phù hợp sẽ đẩy mạnh sự phát triển nội tại
KCN theo hướng bền vững và ngược lại. Tuy nhiên, bên cạnh việc xây dựng
các chính sách đúng đắn và hợp lý thì việc tổ chức thực hiện hiệu quả các
chính sách trên có ý nghĩa quyết đinh, thúc đẩy sự phát triển của KCN.
- Công tác quản lý nhà nước đối với việc triển khai đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng; triển khai thực hiện dự án và tổ chức sản xuất kinh doanh của
các DN trong KCN:
Quản lý tốt việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo việc thực
hiện đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch KCN đã được duyệt, đảm bảo hạ
20
tầng kỹ thuật KCN được xây dựng đồng bộ, đúng tiến độ, trên quan điểm sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đảm bảo nâng cao khả năng thu hút đầu
tư, yêu cầu cảu các DN đầu tư vào KCN, không gây ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp, giải quyết tốt các nhân tố có thể gây tổn hại đến môi
trường, nâng cao khả năng cải thiện môi trường sinh thái. Nếu không thực
hiện tốt công tác quản lý sẽ gây ra tình trạng quy hoạch KCN bị phá vỡ, chậm
triển khai đầu tư xây dựng hoặc đầu tư không đồng bộ gây lãng phí vốn, đất
đai và không giải quyết tốt các vấn đề về môi trường sinh thái.
Đồng thời quá trình quản lý triển khai dự án và tổ chức sản xuất kinh
doanh của các DN KCN sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước rà soát, loại bỏ
những DN không thực sự đủ năng lực đầu tư, những dự án hoạt động không
hiệu quả, thay thế bằng những dự án, nhà đầu tư có hiệu quả hơn góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN, nhằm đạt được sự tăng
trưởng cao của các DN và của KCN, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực
đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực: đất đai, vốn, lao động...
Việc thiếu chặt chẽ trong quản lý triển khai dự án và tổ chức sản xuất
kinh doanh của các DN sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí tài nguyên đất, đình trệ
sản xuất, đặc biệt là việc không triển khai đầu tư các hạng mục xử lý môi
trường và xuất hiện tình trạng đầu cơ đất KCN.
1.1.2.2. Nhóm các nhân tố thuộc về các doanh nghiệp KCN
- Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của DN đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng và triển khai dự án của các DN đầu tư vào KCN:
Nhân tố này có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo phát triển
KCN. Việc triển khai xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ nâng cao
hình ảnh của KCN trong thu hút đầu tư, đẩy nhanh quá trình lấp đầy KCN.
Đảm bảo có sự kết nối đồng bộ với hệ thống hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào
KCN, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của nhà đầu tư trong việc triển khai dự
21
án, tổ chức sản xuất kinh doanh, phục vụ nhu cầu về đời sống vật chất và tinh
thần của người lao động. Xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất
thải, nước thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động của KCN.
Việc triển khai đầu tư của các doanh nghiệp KCN đảm bảo đưa dự án
đầu tư vào hoạt động đúng tiến độ, tiết kiệm các nguồn lực đầu tư, tạo công
ăn việc làm cho người lao động, góp phần phát triển các loại hình dịch vụ
phục vụ sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp và của KCN.
Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng không đồng bộ và chậm triển
khai dự án của các nhà đầu tư vào KCN sẽ dẫn đến việc sử dụng lãng phí các
nguồn lực đầu tư, nảy sinh tình trạng "sa mạc hoá" do không có doanh nghiệp
đầu tư; không đảm bảo đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất của các doanh
nghiệp KCN, tạo nên các yếu tố ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Nhân tố trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp KCN:
Trình độ khoa học, công nghệ áp dụng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp KCN ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất và
khả năng phát triển của KCN. Việc đầu tư công nghệ hiện đại phục vụ sản
xuất sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của DN,
đồng thời giảm thiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường, đảm bảo
cho DN phát triển nhanh chóng.
Nếu trình độ khoa học công nghệ lạc hậu trong sản xuất sẽ có tác dụng
ngược lại. Cùng với việc gây lãng phí nguồn lực sản xuất, chất lượng sản phẩm
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp kém, gây ảnh hưởng đến môi trường.
Các nhân tố trên đều thuộc các DN đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và
các DN đầu tư vào KCN. Việc thực hiện đầu tư hạ tầng đồng bộ, hiện đại;
việc triển khai dự án đúng tiến độ của các DN; yêu cầu đặt ra là các DN phải
22
có đủ năng lực tài chính, khả năng huy động các nguồn vốn để đầu tư một
cách có hiệu quả. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ các DN trong việc huy
động các nguồn vốn để thực hiện đầu tư. Đồng thời cần có sự kiểm soát chặt
chẽ của cơ quan quản lý nhà nước để hạn chế những mặt tiêu cực.
Qua phân tích trên cho thấy, mỗi nhân tố đều có những ảnh hưởng tích
cực (nếu thực hiện tốt) và ảnh hưởng tiêu cực (nếu thực hiện không tốt) đến
quá trình hình thành và phát triển KCN. Do đó, tuỳ từng thời kỳ và đặc điểm
của từng địa phương cần có những giải pháp hữu hiệu, cụ thể để đảm bảo cho
các nhân tố trên phát huy tốt nhất những tác động tích cực thúc đẩy quá trình
phát triển KCN.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN
1.1.3.1. Tiêu chí đánh giá phát triển nội tại KCN
- Vị trí địa lý của khu công nghiệp:
Lợi thế về vị trí địa lý của KCN là tiền đề giúp cho các doanh nghiệp
đạt được hiệu quả kinh tế cao. Các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, gần các trục đường giao thông, bến cảng, nhà ga, sân bay, sự hấp dẫn
về thị trường các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, nguồn nhân lực) và thị
trường tiêu thụ sản phẩm,... có ảnh hưởng quan trọng đến sự lựa chọn đầu tư
của các doanh nghiệp.
- Chất lượng quy hoạch khu công nghiệp:
Tiêu chí này nhằm đảm bảo tính chất bền vững ngay từ giai đoạn đầu
của quá trình quy hoạch, sử dụng và phát triển KCN. Nó thể hiện ở tính hợp
lý, đồng bộ, khoa học, thực tiễn và hiệu quả trong quy hoạch các yếu tố chủ
đạo của KCN như: xác định các lĩnh vực và ngành thu hút đầu tư, đất đai, các
khu chức năng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, điện, nước, thông tin, viễn thông, dịch
vụ,... nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trường, thu
hút lao động, có mối liên kết hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN.
23
- Tỷ lệ lấp đầy KCN:
Tiêu chí này được xem xét căn cứ vào mục tiêu quy hoạch và điều kiện
hoạt động của KCN. Làm căn cứ để đánh giá hiệu quả việc sử dụng mặt bằng
KCN, nó được xác định bằng tỷ lệ diện tích đất KCN đã cho thuê so với tổng
diện tích đất quy hoach KCN để cho thuê. Qua đó, cũng có thể so sánh được sự
thành công trong việc khai thác, sử dụng diện tích đất giữa các KCN với nhau.
- Tổng số vốn đăng ký và vốn đầu tư thực hiện:
Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đầu tư thu hút vào KCN, qua đó tính
toán các chỉ tiêu: số dự án đầu tư, vốn đầu tư bình quân của một dự án và tỷ
suất vốn đầu tư trên 01 ha đất cho thuê, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên tổng
vốn thu hút, tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư.
- Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN:
Tiêu chí này bao gồm: tổng doanh thu, tổng giá trị sản xuất công
nghiệp; tổng số lao động thu hút, thu nhập bình quân của người lao động;
năng suất lao động tính theo doanh thu; tổng vốn kinh doanh; giá trị kim
ngạch xuất nhập khẩu; đóng góp vào ngân sách nhà nước.
- Trình độ công nghệ của các DN trong KCN:
Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các DN trong nội bộ
KCN cũng như giữa các KCN với nhau, nó được thể hiện: số lượng và cơ cấu
máy móc thiết bị sử dụng trong KCN; tỷ lệ máy móc thiết bị mới so với tổng
số máy móc thiết bị sử dụng; độ tuổi trung bình của công nghệ hoạt động
trong DN, tỷ lệ vốn đầu tư cho hoạt động chuyển giao, nghiên cứu và áp dụng
công nghệ mới trên tổng vốn đầu tư của KCN, thông tin về công nghệ, xuất
xứ của công nghệ.
- Hệ số chuyên môn hoá và liên kết kinh tế:
Đây là tiêu chí phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của toàn KCN,
tính chất tiên tiến trong tổ chức sản xuất phù hợp với xu thế phát triển của
24
phân công lao động xã hội theo hướng hiện đại, nó được thể hiện: tỷ lệ doanh
thu của mặt hàng chuyên môn hoá chiếm trong tổng doanh thu, tỷ lệ số DN có
liên kết kinh tế với nhau trong tổng DN nằm trong KCN, hệ số liên kết kinh tế
của KCN với các KCN khác và số DN ở bên ngoài có trao đổi kinh tế, kỹ
thuật với KCN.
- Mức độ thoả mãn nhu cầu cho các nhà đầu tư:
Tiêu chí này phản ánh mức độ hấp dẫn nội bộ của KCN đối với các nhà
đầu tư và được thể hiện ở: mức độ đảm bảo của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế - kỹ thuật của KCN: điện, nước, kho tàng, bến bãi, đường xá, phương tiện
vận chuyển, bưu chính, thông tin, tài chính, ngân hàng...
1.1.3.2. Tiêu chí đánh giá tác động lan toả của KCN
- Tiêu chí về kinh tế - kỹ thuật:
Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đóng góp
vào ngân sách địa phương; thu nhập bình quân đầu người tính cho toàn khu
vực hoặc địa phương, so với mức chung của cả nước; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của địa phương có KCN; đóng góp của KCN cho ngân sách địa phương:
quy mô và tỷ lệ thu ngân sách địa phương từ KCN; số lượng và chất lượng hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của địa phương có KCN.
- Tiêu chí về mặt xã hội:
Chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng xã hội của KCN được tập trung vào các
chỉ tiêu về khả năng giải quyết việc làm của KCN cho lao động địa phương:
sử dụng lao động địa phương (quy mô và tỷ lệ lao động địa phương so với
tổng số lao động làm việc trong KCN); số người tham gia cung cấp dịch vụ
cho KCN trong tổng số lao động địa phương; ảnh hưởng của KCN đến sự
chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương.
25
- Tiêu chí phản ánh về môi trường:
Tiêu chí này xác định việc giải quyết các vấn đề về môi trường từ hoạt
động của KCN và việc sử dụng hiệu quả tài nguyên đất trong quá trình phát
triển KCN: mức độ khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên; tỷ lệ
diện tích đất bị bỏ hoang do DN chậm triển khai trên tổng diện tích đất cho
thuê của KCN; mức độ giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường KCN (hệ thống
xử lý chất thải tập trung), đặc biệt là các KCN gần khu dân cư; mức độ ứng
dụng công nghệ sạch và công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.
1.2. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN
1.2.1. Kinh nghiệm của một số địa phương
1.2.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương
* Những thành công tiêu biểu:
Tỉnh Hải Dương có diện tích tự nhiên hơn 1.600 km2 với dân số trên
1,7 triệu người. Tỉnh có nhiều ưu thế lớn về giao thông, bên cạnh đó với vị trí
nằm giữa tam giác động lực phát triển kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh đã tạo cho Hải Dương có tiềm năng, lợi thế nổi bật để phát triển KCN.
Không chỉ lợi thế về vị trí địa lý, Hải Dương còn có nguồn nhân lực dồi dào
với số người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60 tuổi) năm 2011 chiếm 64,62%
dân số toàn tỉnh.
Với những lợi thế đó, đến nay trên địa bàn tỉnh, Chính phủ cho phép
quy hoạch, đầu tư xây dựng 18 khu công nghiệp tập trung với diện tích quy
hoạch gần 4.000 ha; trong đó 10 khu công nghiệp được phê duyệt quy hoạch
chi tiết với diện tích 2.086 ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân của các khu công
nghiệp đã được giao đất và xây dựng hạ tầng đạt khoảng 60%. Tính đến thời
điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có 236 dự án đầu tư nước ngoài
(FDI) của các nhà đầu tư đến từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với
tổng vốn đăng ký là 5,650 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện tại tỉnh Hải Dương ước
26
đạt 2,208 tỷ USD, bằng 39,1% tổng vốn đăng ký. Trong 6 tháng đầu năm
2012, tỉnh Hải Dương thu hút thêm 76,3 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài
(FDI). Trong đó, tổng vốn đăng ký mới là 21,8 triệu USD. Số vốn thực hiện
của các dự án FDI trong 6 tháng đầu năm tại tỉnh Hải Dương đạt 212 triệu
USD, tăng 48,9% so với cùng kỳ năm 2011. Thu hút hàng nghìn lao động trực
tiếp và lao động gián tiếp khác. [11]
Quá trình nỗ lực phấn đấu, tập trung xây dựng các KCN ở Hải Dương
đã tạo ra những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tốc độ
tăng trưởng khá, quy mô kinh tế được cải thiện. Cụ thể, giai đoạn 2006-2010,
GDP tăng bình quân 9,8%/năm; năm 2011, GDP trên địa bàn tỉnh đạt 9,3%.
Cơ cấu kinh tế của Hải Dương tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Việc phát triển các KCN đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, các sản
phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện khai
thác nguồn lực của địa phương mà trước đây còn ở dạng tiềm năng, như đất
đai, nhà xưởng, nguồn nhân lực… giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng nguồn thu
cho ngân sách của địa phương.
* Những hạn chế trong phát triển các KCN ở Hải Dương:
Dù đã có nhiều thành công trong phát triển các KCN nhưng Hải Dương
vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục: cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng
lãnh thổ, đối tác còn chưa phù hợp với yêu cầu, định hướng thu hút đầu tư và
sự phát triển của địa phương; đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông - lâm -
thủy sản đến nay còn rất thấp; các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vẫn tập trung chủ yếu ven Quốc lộ 5A, khu vực có nhiều thuận lợi về giao
thông và kết cấu hạ tầng; tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên tổng lượng vốn đầu
tư đăng ký còn thấp; vẫn còn một số doanh nghiệp triển khai dự án chậm, dẫn
đến thực trạng lãng phí đất đai, nguồn lực và gây ô nhiễm môi trường.
27
* Bài học kinh nghiệm từ Hải Dương:
Từ kết quả nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong
phát triển các KCN Hải Dương như sau:
- Tỉnh luôn chú trọng rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các
KCN; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển CN của tỉnh đến năm
2020. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch và thu hút các nguồn vốn để đầu tư hoàn
thiện đồng bộ hạ tầng các KCN. Nâng cao hiệu quả sử dụng và tỉ lệ lấp đầy
các KCN. Rà soát, xây dựng danh mục các sản phẩm, nhóm sản phẩm, ngành
CN ưu tiên thu hút đầu tư.
- Phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đồng bộ với quy hoạch
xây dựng KCN, khu đô thị. Hải Dương đã đầu tư 1.028 tỷ đồng từ nguồn vốn
ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, gồm 152 km đường
tỉnh, đường huyện và 28 cây cầu.
- Có nhiều giải pháp cụ thể, tạo ra sự thông thoáng thật sự và đồng bộ
trong cải cách hành chính một cửa liên thông, xóa bỏ tình trạng "một cửa
nhưng nhiều khóa", tạo ra môi trường minh bạch để nâng cao khả năng cạnh
tranh, thu hút đầu tư và phát triển.
- Ưu tiên phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao và các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Không cấp phép cho các
dự án công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều đất, tác động xấu đến môi trường;
thẩm định dự án, có những tiêu chuẩn, rào cản kỹ thuật để ngăn các dự án
công nghệ lạc hậu và tác động xấu đến môi trường.
- Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh
* Những thành công tiêu biểu: Bắc Ninh có diện tích tự nhiên hơn 800km2, dân số khoảng 1 triệu
28
người với gần 700.000 lao động. Là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô
Hà Nội trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,
có các đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung
tâm kinh tế, thương mại và văn hoá của miền Bắc. Đây là những điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giao lưu với bên ngoài.
Toàn tỉnh Bắc Ninh hiện có 15 KCN tập trung đã được Chính phủ phê
duyệt quy hoạch chi tiết, tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt 865 triệu USD. 10 KCN
đã đi vào hoạt động, 5 KCN đang làm thủ tục triển khai xây dựng. Tỷ lệ lấp
đầy trên diện tích đất quy hoạch KCN đạt 53,35 %, tỷ lệ lấp đầy trên diện tích
đất thu hồi cho thuê đạt 74,84%. Đã thu hút được các dự án đầu tư lớn trong
và ngoài nước, có công nghệ hiện đại như: Samsung, Canon, ABB… phát
triển ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện tử, cơ khí chế tạo, chế biến công
nghệ cao… Đã thu hút được 500 dự án với tổng vốn đăng ký 3.782,21 triệu
USD. Hiện có 263 dự án đi vào hoạt động (trong đó 132 dự án FDI). Giá trị
sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN (không tính công ty đầu tư
phát triển hạ tầng) đạt 51.927,5 tỷ đồng.
Năm 2011, các KCN Bắc Ninh đã thu hút hơn 30.100 lao động, nâng
tổng số lao động đang làm việc tại các KCN lên hơn 87.000 lao động. Trong
đó, số lao động địa phương là hơn 35.600 lao động, chiếm 41%; mức thu
nhập bình quân 2,4 triệu đồng/người/tháng. Trong năm đã có 33 dự án mới đi
vào hoạt động, đã thu hút được một số dự án lớn như: tập đoàn Nokia, dự án
Ojitex, dự án Vinasoy, dự án AsianPacking…Giá trị sản xuất công nghiệp của
các doanh nghiệp trong KCN không ngừng tăng. Giá trị xuất khẩu đạt hơn 6,5
tỷ USD; giá trị nhập khẩu đạt khoảng hơn 5,8 tỷ USD, nộp ngân sách nhà
nước hơn 2650 tỷ đồng... [10]
Nhờ những kết quả đó, trong 15 năm qua, Bắc Ninh từ một tỉnh nông
nghiệp thuần tuý thì đến nay đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp
29
hoá, hiện đại hoá: quy mô kinh tế lớn mạnh không ngừng, năm 2011 gấp 6,6
lần so với năm 2007. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn định,
bình quân đạt 14,1%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng
hiện đại.
GDP bình quân đầu người năm 2011 đạt 2.130 USD (năm 1997 là 196 USD).
Công nghiệp phát triển nhanh, tính chung toàn ngành tăng bình quân
38%/năm, đưa Bắc Ninh đứng trong top 10 tỉnh có giá trị sản xuất công
nghiệp cao nhất toàn quốc.
* Những hạn chế trong phát triển các KCN ở Bắc Ninh:
Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, việc phát triển các KCN tỉnh Bắc
Ninh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục như: quy mô KCN chưa được
lượng hoá cho phù hợp với định hướng phát triển chung của tỉnh, chức năng
KCN chuyên ngành chưa rõ rệt, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp phụ
trợ cho ngành công nghiệp mũi nhọn. Bài toán về lao động và cơ cấu lao động
chưa cân bằng. Trình dộ tay nghề, kỹ năng và ý thức làm việc của người lao
động còn thấp. Một số doanh nghiệp được cấp phép nhưng không triển khai
xây dựng, triển khai chậm tiến độ hoặc cầm chừng, ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư. Cũng có doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định về chế
độ báo cáo gây khó khăn cho công tác tổng hợp, phân tích và dự báo của các
cơ quan quản lý nhà nước. Các công ty đầu tư hạ tầng KCN chưa có khu lưu
trữ chất thải tạm thời theo quy định, hệ thống xử lý nước thải tập trung xây
dựng chậm so với tiến độ đề ra. Vẫn còn doanh nghiệp chưa thực hiện tốt
công tác bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật…
* Bài học kinh nghiệm từ Bắc Ninh:
Từ sự phát triển nhanh chóng của các KCN Bắc Ninh có thể rút ra một
số kinh nghiệm cụ thể sau:
- Tỉnh luôn coi trọng công tác quy hoạch KCN song song với quy
30
hoạch phát triển đô thị, khu dân cư. Gắn xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật với
hạ tầng xã hội nhằm triển khai thành công mô hình KCN - đô thị và bảo đảm
an sinh xã hội.
- Đổi mới công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, tập trung vào các thị trường
lớn, tiềm năng như châu Âu, Mỹ, Nhật,…để thu hút các dự án có vốn đầu tư
lớn, sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có giá trị gia tăng cao,
tạo môi trường đầu tư lành mạnh.
- Tiến hành công tác bồi thường GPMB nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng
nhu cầu của các nhà đầu tư.
- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước, nhất là quản lý môi trường
đối với các KCN. Hỗ trợ và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc,
tạo sự tin tưởng của nhà đầu tư, doanh nghiệp. Tăng cường công tác quản lý
nhà nước sau đầu tư.
- Thúc đẩy việc phát triển các KCN chuyên ngành, tạo lập ngành công
nghiệp mũi nhọn (điện tử, viễn thông) và công nghiệp hỗ trợ.
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của các doanh nghiệp KCN, khuyến khích người lao động gắn bó
lâu dài với doanh nghiệp.
- Đôn đốc các chủ đầu tư hạ tầng và các doanh nghiệp thứ cấp thực
hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Vĩnh Phúc
Từ thực tế và kinh nghiệm phát triển KCN của các địa phương, có thể
rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích nhằm phát triển các KCN của Vĩnh
Phúc:
Thứ nhất, quy hoạch KCN phải được hết sức quan tâm, phải thường
xuyên rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế; đồng
31
thời công tác triển khai thực hiện quy hoạch phải linh hoạt, thông thoáng. Quy
hoạch phải mang tính toàn diện và hợp lý giữa quy hoạch trong và ngoài hàng
rào KCN. Đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các KCN trong khu vực.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng KCN phải đi trước một bước.
Phát triển KCN cũng có nghĩa là phát huy vai trò hạt nhân của nó đối
với sự hình thành những đô thị hiện đại, muốn vậy phải chú ý đến việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, gắn việc xây dựng
cơ sở hạ tầng trong KCN với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN một cách
đồng bộ, hiện đại.
Thứ ba, phát triển KCN cần có sự lựa chọn kỹ lưỡng, tránh phát triển ồ
ạt, xé rào. Trong bối cảnh hiện nay, cần lựa chọn những ngành có hàm lượng
công nghệ cao để nâng cao sức cạnh tranh, tránh những ngành sử dụng công
nghệ lạc hậu, tốn nhiều đất đai và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường; chuyển
dần từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.
Việc phát triển KCN muốn đạt kết quả tốt cần có sự quan tâm, chỉ đạo
thường xuyên, nhạy bén và dám chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương, của Ban quản lý các KCN; sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ của các
Sở, Ban, Ngành liên quan trong quản lý cũng như trong giải quyết những
khúc mắc của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Thứ năm, cần kết hợp giữa khâu cấp phép và khâu thanh tra, giám sát
hoạt động của KCN; đặc biệt là việc kiểm tra sau cấp phép. Đảm bảo việc cấp
phép nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư; tuy nhiên
phải thực hiện chặt chẽ và thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát, chế độ báo cáo của các DN tới các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm
32
bảo hoạt động của các DN lành mạnh, đúng pháp luật.
Thứ sáu, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo những điều kiện
thuận lợi nhất cho nhà đầu tư và DN. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý
"một cửa tại chỗ", tăng cường mối liên kết giữa Ban quản lý và các DN.
Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm
nâng cao trình độ tay nghề cũng như kỷ luật lao động, đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của các DN. Bên cạnh đó, cần quan tâm giải quyết đời sống vật chất, tinh
thần của người lao động, đặc biệt là vấn đề nhà ở cho người lao động các
KCN để họ yên tâm lao động và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Kết luận chương 1
KCN là một khái niệm rộng, gắn liền với điều kiện hình thành và phát
triển cụ thể ở mỗi quốc gia. KCN được hình thành và phát triển do những yêu
cầu khách quan, có mục tiêu xác định phù hợp với trình độ phát triển của mỗi
quốc gia. Quan niệm đúng về KCN không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa tính thực tiễn cao, khẳng định sự cần thiết ra đời và phát triển
của nó.
Từ khi ra đời cho đến nay, các KCN ngày càng thể hiện rõ vai trò to
lớn đối với quá trình CNH, HĐH đất nước. Sự ra đời và không ngừng lớn
mạnh của các KCN tác động mạnh mẽ tới sự phát triển KT - XH của đất
nước. Các KCN tạo động lực cho thu hút đầu tư, tận dụng các nguồn lực: vốn,
công nghệ, lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại; bảo vệ môi trường sinh thái; hình thành và phát triển các khu dân cư, khu
đô thị, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng đời sống dân cư, góp phần
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.
Để KCN phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình, chúng ta cần xác định
được các tiêu chí đánh giá sự phát triển của KCN, các nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển của KCN, từ đó có những tác động cần thiết và đúng hướng
33
nhằm thúc đẩy sự phát triển của các KCN.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển khu công nghiệp ở
Vĩnh Phúc
2.1.1. Những thuận lợi
- Về kinh tế:
Đến nay, kinh tế Vĩnh Phúc luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân
17,4%/năm, năm 2011 tăng 14,83%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trong nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản. Hiện nay, tỉnh có cơ cấu kinh tế: công nghiệp-xây dựng:
56,03%; dịch vụ: 30,23%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 13,74%. [60]
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- 201
TT
Chỉ tiêu
2000 2005
2009
2010
Tổng số
1 GO, tỷ đồng (giá 1994)
Tổng số
Tăng bình quân 01-05 06-10 01-10 21,8 7,7 23,2 20,5 18,0 5,7 20,6 20,4
20,6 7,4 22,9 17,2 16,5 6,0 20,7 17,1
5,69
8,99
3,83
7.928 19.335 42.462 51.730 19,52 1.1 Nông-Lâm-Thủy sản 7,01 1.294 1.816 2.275 2.632 1.2 Công nghiệp-Xây dựng 5.552 15.443 35.886 43.817 22,70 1.082 2.076 4.301 5.281 13,92 1.3 Dịch vụ 2 GDP, tỷ đồng (giá 1994) 2.791 5.618 10.549 12.837 15,02 2.1 Nông - Lâm -Thủy sản 868 1.183 1.352 1.559 6,40 2.2 Công nghiệp-Xây dựng 1.127 2.904 6.109 7.410 20,84 2.3 Dịch vụ 796 1.531 3.087 3.868 13,96 3 GDP bình quân/người 3.1 Giá 1994 (106đ/người) 2,98 3.2 Giá hiện hành (106.đ/người)
12,7 33,6
10,5 24,6
Nguồn: Niên giám Thống kê Vĩnh Phúc năm 2010
34
Thu ngân sách liên tục tăng, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây; đạt
3.182,9 tỷ đồng vào năm 2005 và 14.505 tỷ đồng vào năm 2010, năm 2011
tổng thu ngân sách đạt 16.484 tỷ đồng. Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh
của nền kinh tế, đời sống dân cư ở Vĩnh Phúc có bước cải thiện đáng kể:
GDP bình quân đầu người trong tỉnh cũng tăng khá nhanh. Năm 2000
GDP/người của tỉnh (giá thực tế) mới chỉ đạt 3,83 triệu đồng, bằng 78,2%
GDP vùng Đồng bằng sông Hồng và 67,2% so với cả nước. Nhưng đến
năm 2007, GDP/người của tỉnh đã đạt 15,74 triệu đồng, cao hơn so mức
trung bình đồng bằng Sông Hồng (14,5 triệu đồng) và cao hơn nhiều so với
mức bình quân cả nước (13,421 triệu đồng). Năm 2008 GDP bình quân đầu
người (theo giá thực tế) đạt 22,2 triệu đồng (tương đương khoảng 1.300
USD), cao gấp 1,29 lần so với mức bình quân chung cả nước (17,2 triệu
đồng). Năm 2010, chỉ tiêu này đạt 33,6 triệu đồng, GDP bình quân/ người
(theo giá thực tế) năm 2011 đạt khoảng 43 triệu đồng/ người (tương đương
với trên 2.000 USD/năm). Nhiều công trình phúc lợi công cộng, hạ tầng kỹ
thuật quan trọng được xây dựng tạo điều kiện giao lưu hàng hoá, tỷ lệ hộ
nghèo của tỉnh đã giảm từ 18,3% (theo chuẩn QG mới) năm 2005 xuống 6%
vào năm 2010. Công tác giải quyết việc làm luôn được chú trọng, số lao động
được sắp xếp việc làm năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2007 có 17,8
ngàn lao động được sắp xếp việc làm, năm 2010 ước tính có khoảng 21 ngàn
lao động được sắp xếp việc làm, trong đó số được sắp xếp chỗ làm ổn định là
16 ngàn người. [60]
Những thành tựu to lớn về kinh tế là điều kiện quan trọng tạo ra
sức mạnh để tỉnh có thể phát triển toàn diện về mọi mặt, trong đó có
việc phát triển các KCN.
35
- Về vị trí địa lý: Tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 1.236,5 km2, dân số là
1.008,3 nghìn người, mật độ dân số 820 người/km2; là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.
+ Phía Tây giáp Phú Thọ.
+ Phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội.
Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là Thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô
Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km. Vĩnh Phúc có vị trí quan
trọng đối vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội:
kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ góp phần cùng Thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến
trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về
đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các năm qua đã
tạo cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý kinh tế, tỉnh đã trở
thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh
phía Bắc. Đồng thời, sự phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và
quốc gia liên quan đã đưa Vĩnh Phúc xích gần hơn với các trung tâm kinh tế,
công nghiệp và những thành phố lớn của quốc gia và quốc tế thuộc hành lang
kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 Việt Trì - Hà
Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành
đai IV thành phố Hà Nội...
Địa hình tương đối bằng phẳng, nền địa chất thuận lợi cho việc xây
dựng các công trình công nghiệp và KCN.
Vị trí địa lý đã mang lại cho Vĩnh Phúc những thuận lợi trong phát
triển kinh tế – xã hội: nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, gần
Thành phố Hà Nội nên có nhiều thuận lợi trong liên kết, giao thương hàng
hoá, lao động kỹ thuật...
36
- Về hệ thống giao thông:
Vĩnh Phúc có mạng lưới giao thông khá phát triển với 3 loại: giao
thông đường bộ, đường sắt, đường sông. Hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh
phân bố khá hợp lý, mật độ đường giao thông cao. Hệ thống hạ tầng giao thông
đối ngoại đã và đang được đầu tư hiện đại là những tuyến chính gắn kết quan
hệ toàn diện của Vĩnh Phúc với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế.
Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai,
là cầu nối giữa vùng Trung du miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội; liền kề
cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 thông với cảng
Hải Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho giao thương và xuất khẩu hàng hoá.
- Về văn hoá - xã hội:
Cộng đồng dân cư tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều giá trị văn hóa ưu việt. Có
thể nói, cùng với cả nước, lịch sử phát triển của tỉnh là lịch sử đấu tranh dựng
nước, giữ nước. Đất Vĩnh Phúc đã từng nổi tiếng với những danh tướng và
anh hùng dân tộc: Hai Bà Trưng, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Danh Phương,
Nguyễn Thái Học. Cho đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của
văn hóa Hùng Vương và Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hóa dân gian
đặc sắc, của khoa bảng, với lối sống xã hội và chuẩn mực đạo đức luôn được
giữ gìn và phát huy.
Các giá trị văn hóa truyền thống lưu lại thông qua các di tích lịch sử
văn hoá đa dạng, góp vai trò quan trọng vào việc thu hút khách du lịch. Toàn
tỉnh hiện có 967 di tích lịch sử văn hoá, trong đó 288 di tích được xếp hạng
cấp Quốc gia, trong đó nổi bật là cụm di tích Tây Thiên (khu danh thắng Tây
Thiên, đền thờ Quốc Mẫu Năng Thị Tiêu, Thiền viện trúc lâm Tây Thiên),
tháp Bình Sơn, đền thờ Trần Nguyên Hãn, đình Thổ Tang, cụm đình Hương
Canh, chùa Hà Tiên, di chỉ Đồng Dậu... Không chỉ có nền văn hoá vật thể
37
phong phú, Vĩnh Phúc còn có nền văn hoá phi vật thể cũng đa dạng, hấp dẫn
có giá trị du lịch cao, đó là hệ thống các lễ hội, các trò chơi dân gian, văn hoá
nghệ thuật, thi ca, ẩm thực…
Người dân Vĩnh Phúc hiếu học, cầu thị… có ý thức tìm tòi, đổi mới và
sáng tạo. Truyền thống đó, trong nhiều năm qua đã là động lực cơ bản cho sự
phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng trên địa bàn tỉnh.
Tất cả những đặc điểm xã hội và nhân văn nêu trên là cơ sở gốc tạo nên
sức mạnh cho tỉnh trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ.
- Về chủ trương chính sách:
Trước hết phải nói đến chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về CNH, HĐH đất nước và xây dựng phát triển KCN; từ đó Vĩnh Phúc đã có
chủ trương đúng đắn về quy hoạch và phát triển các KCN, coi đó là bước đột
phá để xây dựng Vĩnh Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.
Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hết sức quan tâm đến
việc phát triển các KCN, nó được xem như là một quyết sách để thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển công nghiệp. Với phương châm: “Tất cả các
nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều là công dân Vĩnh Phúc - Thành công của doanh
nghiệp chính là thành công và niềm tự hào của tỉnh”, tỉnh đã có nhiều chính sách
nhằm thu hút đầu tư phát triển các KCN: chính sách ưu đãi đầu tư, ban hành
chính sách quản lý đầu tư, thành lập Ban quản lý các KCN, cải thiện môi trường
đầu tư đảm bảo tính minh bạch, thông thoáng, hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
- Về nguồn nhân lực:
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, lực lượng lao động trong độ
tuổi của Tỉnh chiếm một tỷ lệ khá cao, trên 70%.
TT Ngành
Đơn vị
2000
2005
2010
38
Nguồn lao động
103 người.
567
675
737
1
Dân số trong độ tuổi lao
2
103 người.
542,3
650
718
động
Số lao động đang làm việc
3
103 người.
493,4
569
625
trong các ngành kinh tế
4
Cơ cấu sử dụng lao động
%
100,0
100,0
100,0
4.1 Nông, lâm, ngư nghiệp
%
85,7
59,2
46,4
4.2 Công nghiệp và xây dựng
%
6,5
16,6
25,5
4.3 Dịch vụ
%
7,8
24,2
28,1
Nguồn: Niên giám thống kê Vĩnh Phúc 2010
Bảng 2.2: Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc
Về chất lượng lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 36,4%
lực lượng lao động năm 2007; năm 2008, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên
đáng kể đạt 42,9%; năm 2010 tỷ lệ này đạt 51,2%. Mỗi năm có trên một vạn
người bước vào độ tuổi lao động, đây là nguồn cung cấp lao động quan trọng
đảm bảo nguồn lao động cho tỉnh. Nhìn tổng thể, lực lượng lao động tại Vĩnh
Phúc dồi dào về số lượng, đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
Chất lượng nguồn nhân lực tại Vĩnh Phúc được đánh giá là khá hơn so với
nhiều địa phương trong cả nước. [60]
2.1.2. Những khó khăn
- Xuất phát điểm của nền kinh tế thấp:
Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập vào ngày 01/01/1997, khi mới tái lập nền
kinh tế của tỉnh rất thấp kém, chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp. Thu
ngân sách năm 1997 mới đạt 114 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế năm 1997: nông
nghiệp: 48,27 %; công nghiệp-xây dựng: 13,98%; dịch vụ: 37,75%. Kết cấu
hạ tầng yếu kém, chưa đồng bộ.[60]
Mặc dù tốc độ phát triển những năm gần đây khá cao, nhưng do xuất
phát điểm thấp, lại mới chia tách nên nền kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó
39
khăn. Kinh tế tuy tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn,
phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài. Mức sống dân cư Vĩnh Phúc chưa tương
xứng với điều kiện và tiềm năng của một tỉnh là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội.
- Vĩnh Phúc đất chật, người đông:
Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc, hiện
nay toàn tỉnh có tổng diện tích đất tự nhiên 123.176,43 ha, dân số là 1.008,3 nghìn người, mật độ dân số rất cao (820 người/km2).
Trên địa bàn tỉnh, đất có thể xây dựng KCN chủ yếu là đất trồng lúa,
đã giao cho nông hộ sản xuất lâu dài, bình quân diện tích canh tác trên đầu
người thấp, mật độ dân cư trên địa bàn tỉnh khá cao, có nhiều điểm dân cư
tập trung rất cao, cự ly giữa các điểm dân cư chỉ đủ khoảng cách ly môi
trường, vì thế, khi giải phóng mặt bằng xây dựng KCN, có nơi không còn đất
canh tác (như KCN Kim Hoa), đồng thời quỹ đất dành cho mỗi KCN cũng
không lớn. Diện tích đất đai đã được khai thác sử dụng vào các mục đích của
tỉnh tính đến hết năm 2010 có 120.263,82ha, chiếm 97,6% diện tích đất tự
nhiên. Như vậy, diện tích đất chưa sử dụng còn lại rất nhỏ, chỉ chiếm 2,4%
diện tích đất tự nhiên, nhưng lại phân bố rất manh mún, rải rác và chủ yếu là
các bãi cát vên sông nên khả năng khai thác sử dụng cho sản xuất nông
nghiệp hầu như không còn.
- Vĩnh Phúc nghèo về tài nguyên khoáng sản:
Nhìn chung, Vĩnh Phúc là tỉnh ở vị trí chuyển tiếp giữa miền núi và
đồng bằng nên rất nghèo về tài nguyên khoáng sản. Khoáng sản có giá trị
thương mại trên địa bàn chỉ bao gồm một số loại như: đá xây dựng, cao lanh,
than bùn song trữ lượng không lớn và điều kiện khai thác hạn chế.
Theo đánh giá sơ bộ tài nguyên khoáng sản Vĩnh Phúc chỉ có một vài
40
nhóm sau: Nhóm khoáng sản nhiên liệu: gồm than antraxit; than nâu ở Sông
Lô; Than bùn ở Lập Thạch, Tam Dương. Nhóm khoáng sản kim loại: Gồm
Barit, đồng, vàng, thiếc, sắt... nhóm khoáng sản này nghèo và cũng chưa được
nghiên cứu kỹ lưỡng nên chúng chưa phục vụ được cho phát triển kinh tế của
tỉnh. Nhóm khoáng sản phi kim loại: Nhóm khoáng sản phi kim loại chủ yếu là
cao lanh, nguồn gốc phong hóa từ các loại đá khác nhau. Nhóm vật liệu xây dựng: gồm sét gạch ngói khoảng 10 mỏ với tổng trữ lượng 51,8 triệu m3, cát
sỏi lòng sông và bậc thềm, cát cuội sỏi xây dựng.
- Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp còn nhiều hạn chế:
Tuy số người trong độ tuổi lao động cao nhưng chủ yếu là lao động phổ
thông, rất thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đặc biệt là thiếu nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho những ngành công nghệ cao. Thái độ lao
động, tính tổ chức và tính kỷ luật lao động vẫn là những hạn chế phổ biến mà
các doanh nghiệp gặp phải.
- Thị trường tiêu thụ và sức mua còn kém:
Nền kinh tế tăng trưởng cao trong những năm gần đây, tuy nhiên sự
tăng trưởng đó không đồng đều giữa các khu vực kinh tế, giữa các vùng miền
và giữa các tầng lớp dân cư. Hơn nữa, sản phẩm của các doanh nghiệp FDI
chiếm thị trường lớn nhưng lại ít phục vụ cho thị trường nội địa, tại chỗ. Điều
đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến dung lượng thị trường và sức mua. Thị trường
nội tỉnh có quy mô nhỏ so với yêu cầu phát triển công nghiệp, do đó hướng ra
thị trường bên ngoài là một tất yếu khách quan nhưng đang bị tác động lớn
bởi suy thoái kinh tế toàn cầu.
2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.1. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc xuất phát là một tỉnh có nền kinh tế thấp, kém phát triển,
dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Cơ sở nền móng cho công nghiệp còn yếu,
41
nhỏ bé chưa có nhân tố "đầu tàu" làm động lực phát triển. GTSXCN tập trung
chủ yếu trong khu vực quốc doanh. Khu vực ngoài quốc doanh chủ yếu gắn
với làng nghề truyền thống, là khu vực có hoạt động kinh tế năng động, hấp
thụ nhanh các cơ chế chính sách mới. Song lại là khu vực hạn chế nhiều về
năng lực và khả năng đổi mới công nghệ. Khu vực quốc doanh tuy có tỷ trọng
lớn nhưng do nhiều năm duy trì sản xuất từ thời bao cấp lại không được tổ
chức lại trong thời kỳ đổi mới nên đã bộc lộ nhiều yếu kém, khó có thể trụ
vững làm trụ cột tiếp cho những năm sau.
Trước thực tế đó và xuất phát từ các điều kiện thuận lợi về điều kiện tự
nhiên, giao thông...Vĩnh Phúc đã chủ trương đẩy mạnh phát triển nền kinh tế
theo hướng CNH, HĐH; phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp. Thực hiện định hướng đó, Vĩnh Phúc đã tiến hành quy hoạch xây
dựng các KCN gắn liền với phát triển các cụm công nghiệp làng nghề.
Ngày 01/8/1998, KCN Kim Hoa - KCN đầu tiên trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc được thành lập theo Quyết định số 679/QĐ-TTg của Thủ tướng chính
phủ với diện tích quy hoach giai đoạn I là 50ha. Đến nay đã lấp đầy 100%
diện tích giai đoạn I (Công ty Honda thuê toàn bộ diện tích KCN Kim Hoa).
Phát huy triệt để lợi thế của tỉnh, đồng thời với việc chỉ đạo đẩy nhanh
tiến độ triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng KCN Kim Hoa, tỉnh tiếp tục chỉ
đạo Ban quản lý các KCN phối hợp với các ngành chức năng tổ chức lập quy
hoạch các KCN khác trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có
20 KCN được phê duyệt với tổng diện tích là 6,038 ha.
42
Bảng 2.3. Các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã được Chính phủ phê duyệt
Diện tích Tình hình STT Tên KCN Vị trí địa lý (ha) đầu tư
1 Kim Hoa (Giai đoạn I) TX. Phúc Yên 50 Đang hoạt động
2 Khai Quang TP. Vĩnh Yên 262 Đang hoạt động
3 Bình Xuyên H. Bình Xuyên 271 Đang hoạt động
4 Bá Thiện H. Bình Xuyên 327 Đang hoạt động
5 Bình Xuyên II H. Bình Xuyên 485 Đang xây dựng
6 Bá Thiện II H. Bình Xuyên 308 Đang xây dựng
7 Phúc Yên TX. Phúc Yên 150 Đang xây dựng
Khởi công xây
8 Tam Dương I H. Tam Dương 700 dựng cuối năm
2010
Phát triển từ năm 9 Chấn Hưng H. Vĩnh Tường 131 2012 trở đi
Phát triển từ năm 10 Hội Hợp TP. Vĩnh Yên 150 2012 trở đi
Phát triển từ năm 11 Sơn Lôi H. Bình Xuyên 300 2012 trở đi
Phát triển từ năm 12 Nam Bình Xuyên H. Bình Xuyên 304 2012 trở đi
Phát triển sau 13 Lập Thạch II H. Lập Thạch 250 năm 2012
Phát triển sau 14 Sông Lô I H. Sông Lô 200 năm 2012
43
Phát triển sau 15 Sông Lô II H. Sông Lô 180 năm 2012
Diện tích Tình hình STT Tên KCN Vị trí địa lý (ha) đầu tư
Phát triển sau 16 Lập Thạch I H. Lập Thạch 150 năm 2012
Phát triển sau 17 Tam Dương II H. Tam Dương 750 năm 2012
Phát triển sau 18 Vĩnh Tường H. Vĩnh Tường 200 năm 2012
Phát triển sau 19 Vĩnh Thịnh H. Vĩnh Tường 270 năm 2012
Phát triển sau Thái Hòa, Liễn Sơn, 20 H. Lập Thạch 600 năm 2012 Liên Hòa
Tổng 6,038
Nguồn: Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc
Trong đó có 04 KCN đã đi vào hoạt động: KCN Kim Hoa, KCN Bình
Xuyên, KCN Khai Quang, KCN Bá Thiện. Các KCN Bình Xuyên II, KCN Bá
Thiện II, KCN Phúc Yên đang triển khai xây dựng, hiện đang thực hiện công
tác bồi thường, GPMB để triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng thời
thực hiện xúc tiến đầu tư vào KCN. Các KCN khác, UBND tỉnh và Ban quản
lý các KCN Vĩnh Phúc đang thực hiện hoàn thiện các thủ tục thành lập và xúc
tiến thu hút chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
Như vậy, cho đến nay việc xây dựng và phát triển các KCN Vĩnh Phúc
đã hội tụ đủ các DN đầu tư thuộc đủ các thành phần kinh tế, bao gồm: DN
nhà nước, DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các
lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện, điện tử, tin học, sản xuất vật liệu xây dựng cao
cấp, ô tô, xe máy, chế biến, may mặc...Các KCN Vĩnh Phúc đã có bước tiến
44
vượt bậc, thu hút nhiều DN trong nước và nước ngoài đầu tư, trong đó có
nhiều hãng lớn đầu tư như: Honda, Toyota (Nhật), Piaggio (Italia), Foxcon,
Compal, Fullpower (Đài Loan), G.O. Max, Kumho, Lotte (Hàn Quốc), YCH
(Singapore)...tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
2.2.2. Thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.2.1. Thực trạng quy hoạch và phát triển KCN
Giai đoạn từ 2005-2010 là giai đoạn phát triển vượt bậc của tỉnh Vĩnh
Phúc trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Chỉ trong vòng 5 năm tỉnh đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư là 17 KCN với diện
tích là (5.455 ha) với tổng số vốn đã đầu tư vào hạ tầng các KCN khoảng 877
tỷ đồng và 13,5 triệu USD.
Năm 2011, Ban quản lý các KCN đã phối hợp với Sở Xây dựng tham
mưu, điều chỉnh giảm quy mô KCN Khai Quang từ 248,5 ha xuống còn 197
ha, báo cáo UBND tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để phù hợp với
quy hoạch chung đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030 tầm nhìn 2050; đôn đốc
Chủ đầu tư hạ tầng KCN Bình Xuyên II điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN
có liên quan đến đường Nguyễn Tất Thành kéo dài; đôn đốc các chủ đầu tư
hạ tầng KCN Tam Dương I – Khu 2 và Khu 3 hoàn thiện quy hoạch chi tiết
trình UBND tỉnh phê duyệt.
Nhìn lại hơn 10 năm phát triển, có thể nhận thấy quy hoạch phát triển
KCN của tỉnh khá hợp lý, cho phép khai thác được các tiềm năng, lợi thế của
tỉnh. Cụ thể:
- Các KCN đều được quy hoạch ở vị trí thuận lợi về giao thông, gắn với
các tuyến đường Quốc lộ, tỉnh lộ, gần các bến cảng, nhà ga, sân bay, các trung
tâm KT - XH của địa phương và các khu vực lân cận. Ví dụ, các KCN Bình
45
Xuyên, KCN Khai Quang đều nằm cạnh quốc lộ 2, đường sắt Hà Nội – Lào
Cai, cách sân bay quốc tế nội bài 20 km.
- Quy hoạch KCN được gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển KT-
XH của địa phương. Các KCN được phân bố hợp lý tại các vùng, các địa bàn
có nhiều tiềm năng phát triển KCN trong tỉnh, góp phần tạo việc làm và
chuyển đổi cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế tại mỗi địa phương
trong tỉnh, đặc biệt là sự phát triển của các làng nghề, các cụm công nghiệp và
sản xuất nông nghiệp, tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các khu vực trong
tỉnh. Do điều kiện địa lý và thổ nhưỡng, các KCN chủ yếu được quy hoạch tại
các huyện phía Bắc tỉnh là Bình Xuyên, Tam Dương, Lập Thạch và Sông Lô.
Các huyện phía Nam tỉnh như Vĩnh Tường có 02 KCN, Yên Lạc không quy
hoạch KCN, do đây là vùng đất trồng lúa năng suất cao, và đó cũng là hạn chế
trong việc thúc đẩy công nghiệp hoá các địa phương này.
- Quy hoạch KCN đã gắn với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ đảm bảo
cung cấp nhà ở cho công nhân, chuyên gia làm việc trong KCN; cung cấp các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, vui chơi giải trí cho người lao
động. Các KCN hiện có chủ yếu được phân bố ở thành phố Vĩnh Yên (KCN
Khai Quang), Thị xã Phúc Yên (Kim Hoa), và huyện Bình Xuyên (KCN Bá
Thiện, KCN Bình Xuyên). Khoảng cách giữa các KCN này với các trung tâm
đô thị lớn (thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên) là không lớn, do đó, tạo
điều kiện đảm bảo cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội cơ bản, cung cấp nguồn
nhân lực đầu vào cần thiết khác cho phát triển các KCN.
2.2.2.2. Tình hình và kết quả hoạt động của các KCN
Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh thuần nông, chậm phát triển, tiềm lực kinh
tế của tỉnh nhỏ bé, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có thể
nói từ khi tỉnh có chủ trương thành lập KCN, bộ mặt của tỉnh đã có bước thay
đổi nhanh chóng. Các KCN phát triển khá thành công, thể hiện ở một số chỉ
46
tiêu chủ yếu sau:
- Tỷ lệ lấp đầy KCN
Các KCN Vĩnh Phúc được quy hoạch đồng bộ, hiện đại, được đặt ở vị
trí thuận lợi về giao thông, được cung cấp đầy đủ hạ tầng kỹ thuật, các dịch
vụ hỗ trợ, quy hoạch KCN gắn liền với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ tạo
nên một quần thể vững chắc. Cùng với đó việc thực hiện công tác xúc tiến
đầu tư của ban quản lý các KCN và các công ty đầu tư phát triển hạ tầng đã
đẩy nhanh quá trình lấp đầy diện tích KCN, tính đến hết năm 2011, tỷ lệ lấp
đầy theo diện tích đất đã thu hồi, xây dựng hạ tầng: 78,1%. [7]
Bảng 2.4: Tỷ lệ lấp đầy các KCN tính theo năm, từ 2005 – 2011
Diện tích có Diện tích có thể Diện tích Tỷ lệ thể cho thuê cho thuê đã xây đất đã Tổng lấp Năm theo quy dựng cơ sở hạ tầng cho thuê diện tích đầy (đơn vị tính ha) (đơn vị hoạch (%) (đơn vị tính ha) tính ha)
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
2005 583 390 260 130 50
2006 854 391,2 279 167,4 60
2007 1040,2 668 334 214 64
2008 1395,1 919,8 598,92 464,63 77,.6
2009 1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9
2010 1695,5 1129,6 579,22 432,1 74,6
2011 1695,5 1166,9 551,7 430,9 78,1
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
KCN Kim Hoa - giai đoạn I, có diện tích tự nhiên 50 ha, diện tích đất
công nghiệp 50 ha. Công ty Honda đã thuê lại toàn bộ diện tích đất KCN Kim
Hoa – Giai đoạn I (lấp đầy 100%) để thực hiện dự án sản xuất ô tô, xe máy.
47
Tổng vốn đăng ký 374,31 triệu USD, vốn thực hiện lũy kế 330,7 triệu USD.
Hiện nay, Công ty Honda giải quyết 8.629 lao động, năm 2011 giá trị sản
xuất công nghiệp là 26.376 tỷ đồng, doanh thu đạt 2.424,7 triệu USD, Nộp
ngân sách năm 2011 là 4.500 tỷ đồng (bao gồm cả thu nội địa và thuế xuất
nhập khẩu)
KCN Khai Quang, đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh
giảm quy mô tại văn bản số 949/TTg-KTN ngày 15/6/2011, diện tích tự nhiên
hiện nay là 197 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp là 135,78 ha. Diện tích
đất đã cho thuê là 124 ha. Tỷ lệ lấp đầy đạt 91,32%. Trong KCN hiện có 62
dự án đăng ký đầu tư, gồm 49 dự án FDI, vốn đăng ký 381,19 triệu USD, vốn
thực hiện 311,59 triệu USD (đạt 81,7%), 13 dự án DDI, vốn đăng ký 544,99
tỷ đồng, vốn thực hiện 487 tỷ đồng (đạt 89,36%). Đã có 56 dự án hoạt động
(45 dự án FDI, 11 dự án DDI), giải quyết 22.722 lao động, nộp ngân sách
năm 2011 là 750,5 tỷ đồng.
KCN Bình xuyên, diện tích đất tự nhiên 277 ha, diện tích đất công
nghiệp theo quy hoạch 186 ha, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là
139 ha, diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 101,4 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy
KCN: 54,52 %; nếu tính trên diện tích đất công nghiệp đã thu hồi và giao đất
là 139 ha thì tỷ lệ lấp đầy đạt 72,9%. KCN Bình Xuyên hiện có 39 dự án đầu
tư, gồm 22 dự án đầu tư FDI, vốn đăng ký 191,2 triệu USD, vốn thực hiện
133,5 triệu USD (đạt 69,8%), 17 dự án DDI, vốn đăng ký 1.557,49 tỷ đồng,
vốn thực hiện 1.948,43 tỷ đồng (tăng 25,1% so với vốn đăng ký). Đã có 34 dự
án hoạt động (18 dự án FDI, 16 dự án DDI), giải quyết 5.660 lao động, nộp
ngân sách năm 2011 là 517 tỷ đồng.
KCN Bá Thiện, diện tích đất tự nhiên 327 ha, diện tích đất công nghiệp
207,92 ha; diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê 207,92 ha; diện tích đất
đã cho thuê và đăng ký thuê 126 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 60,6%. KCN Bá Thiện
48
có 09 dự án FDI đăng ký đầu tư, vốn đăng ký 576,5 triệu USD, vốn thực hiện
31,9 triệu USD (bằng 5,53%). Đã có 02 dự án hoạt động nhưng chưa đủ đủ
công suất, giải quyết 120 lao động. Các dự án FDI đăng ký đầu tư vào KCN
Bá Thiện chịu nhiều tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và sự cạnh
tranh thu hút vốn đầu tư quốc tế của các quốc gia trong khu vực, do vậy chưa
triển khai đầu tư xây dựng nhà máy; đã có 04 dự án xin rút Giấy phép đầu tư,
giải thể doanh nghiệp trước thời hạn.
KCN Bình Xuyên II, diện tích đất tự nhiên là 485,1 ha, diện tích đất
công nghiệp theo quy hoạch là 281,3 ha, diện tích đã giải phóng mặt bằng, thu
hồi để xây dựng KCN là 63,887 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp là 36
ha nhưng chưa hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật. Trong KCN Bình Xuyên II có 02
đơn vị sự nghiệp của Tập đoàn KHKT Hồng Hải đăng ký và đã được cấp
Giấy CN đầu tư thực hiện dự án sản xuất điện thoại không dây và linh kiện
điện tử; tổng vốn đăng ký 218 triệu USD, diện tích đất xin thuê 24 ha. Theo
nhà đầu tư báo cáo, cả hai dự án trên chưa thực hiện do tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới, do cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trên trường quốc tế và
do chưa có mặt bằng xây dựng.
KCN Bá Thiện II, diện tích đất tự nhiên là 308 ha, diện tích đất công
nghiệp theo quy hoạch là 212,4 ha; Diện tích đất đã giải phóng mặt bằng, thu
hồi và giao cho chủ đầu tư là 111,7 ha nhưng không liền mảnh, xen kẽ với
diện tích chưa đền bù. Hiện chủ đầu tư đang xây dựng hạ tầng trên diện tích
khoảng 40 ha, tạo ra được 24 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. KCN này
hiện có 01 dự án đăng ký đầu tư, vốn đăng ký 14 triệu USD, diện tích đất thuê
06 ha, mới được cấp Giấy Chứng nhận đầu tư lần đầu ngày 05/4/2012, dự
kiến tháng 3/2013 dự án đi vào hoạt động.
KCN Phúc Yên, diện tích đất tự nhiên dành cho KCN là 135,33 ha, đất
công nghiệp là 98,55 ha. KCN này hiện chưa bồi thường, GPMB, chưa xây
49
dựng hạ tầng.[8]
Bảng 2.5: Tỷ lệ lấp đầy tính theo các KCN đang hoạt động, năm 2011
Diện tích Diện tích có thể cho thuê đã đất đã Tỷ lệ lấp đầy TT xây dựng cơ sở hạ tầng cho thuê (%) (ha) (ha)
KCN Kim Hoa 50 50 100
KCN Khai Quang 135,78 124 91,32
KCN Bình Xuyên 139 101,4 72,9
KCN Bá Thiện 207,92 126 60,6
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
Như vậy, có thể thấy mặc dù những năm gần đây, đặc biệt là năm 2011
nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động đầu tư vào KCN của
tỉnh Vĩnh Phúc vẫn đạt được kết quả cao. Tỷ lệ lấp đầy KCN tương đối cao,
nếu năm 2005 mới chỉ đạt 50 %, thì đến năm 2008 là năm nền kinh tế bắt đầu
gặp nhiều khó khăn nhưng tỷ lệ lấp đầy vẫn đạt 77,6 %. Đến năm 2010 là
74,6 %, năm 2011 là 78,1 %. Đây là con số khá cao so với các tỉnh bạn có
điều kiện tương tự như Vĩnh Phúc. Nếu tính riêng các KCN đã hoạt động ổn
định thì tỷ lệ này còn cao hơn (thể hiện ở bảng 2.5).
- Vốn đầu tư thu hút và vốn đầu tư thực hiện
Trong năm 2011, Ban quản lý các KCN đã làm thủ tục cấp và trình
UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 46 dự án, gồm 40 dự án DDI đầu
tư mới với số vốn đầu tư đăng ký là 1.702,73 tỷ đồng (trong đó có 1.581,4 tỷ
đồng vốn đầu tư cấp mới và 121,33 tỷ đồng của 7 dự án điều chỉnh, tăng vốn),
bằng 25,8% về số dự án, 23,63% về vốn đầu tư so với cùng kỳ, đạt 48,65% kế
hoạch năm và 6 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư 62,46 triệu USD (trong đó
50
có 21,28 triệu USD vốn đầu tư cấp mới và 41,18 triệu USD của 11 dự án điều
chỉnh tăng vốn), bằng 60% về số dự án và 24,637% về vốn đầu tư so với cùng
kỳ, đạt 31,23% kế hoạch năm.
Đến hết năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 622 dự án thực hiện thủ tục đầu
tư qua Ban còn hiệu lực, gồm 118 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 2.342,17
triệu USD và 504 dự án DDI với tổng vốn đầu tư 27.006,63 tỷ đồng (Chưa
bao gồm 17 dự án thuộc lĩnh vực đô thị, du lịch với tổng vốn đầu tư 4.456,66
tỷ đồng). Trong đó:
- Đầu tư trong KCN: có 118 dự án, chiếm 18,97% tổng số dự án, gồm
84 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 1.948,30 triệu USD, chiếm 83,19% tổng
VĐT của các dự án FDI và 34 dự án DDI với tổng vốn đầu tư là 3.804,61 tỷ
đồng, chiếm 14,09% tổng VĐT.
- Đầu tư ngoài KCN: có 504 dự án, chiếm 81,03% tổng số dự án, gồm
có 34 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 393,82 triệu USD, chiếm 16,81% tổng
VĐT của dự án FDI và 470 dự án DDI với tổng vốn đầu tư là 23.202,02 tỷ
đồng, chiếm 85,91% tổng VĐT của các dự án DDI.
Tổng vốn đã đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN đạt 646,75 tỷ
đồng và 31,69 triệu USD. Riêng trong năm 2011, giá trị thực hiện đầu tư xây
dựng xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN của các dự án kinh doanh hạ tầng
kỹ thuật KCN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1,4 triệu USD và các dự
án có vốn đầu tư trực tiếp trong nước đạt 67 tỷ đồng. [7]
Bảng 2.6: Nguồn vốn đầu tư vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân theo
51
KCN tính đến 2010
Đơn vị Tổng Vốn Vốn Tỷ lệ vốn thực
Tên KCN tính số dự đăng thực hiện/tổng vốn
án ký hiện đầu tư (%)
Khai Quang Triệu USD 58
Trong đó: FDI Triệu USD 43 300,42 211,59 70,43
DDI Tỷ đồng 15 575,85 210,46 36,5
Bình Xuyên Triệu USD 39
Trong đó: FDI Triệu USD 21 179,23 93,19 51,99
DDI Tỷ đồng 18 1259,2 1248,5 99,2%
Kim Hoa
FDI Triệu USD 01 290,43 234,35 80,69
Bá Thiện
FDI Triệu USD 12 614,80 9,61 1,56
Bình Xuyên II
0,00 FDI Triệu USD 2 218,0 0
Tổng 112
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
Tuy đã thu hút được số lượng lớn các dự án đầu tư, vốn đầu tư lớn
nhưng vốn đầu tư thực hiện chưa cao. Chỉ tính riêng vốn FDI, ngay cả những
KCN đã thành lập từ lâu thì vốn thực hiện vẫn thấp: KCN Kim Hoa đạt cao
nhất 80,69 %, KCN Khai Quang đạt 70,43 %, KCN Bình Xuyên đạt 51,99 %.
Điều này đặt ra cho các nhà quản lý cần tăng cường kiểm tra, giám sát để
nâng cao tỷ lệ vốn thực hiện. [7]
- Về số dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư
Bảng 2.7: Số dự án và vốn đầu tư tại các KCN Vĩnh Phúc từ 1998 – quý
52
I/2010 (Đơn vị: Triệu USD)
Trong đó Tổng FDI DDI
Năm
Dự án Vốn Vốn/dự án Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư
1998-2004 16 159,17 9,95 16 159,17 - -
2005 10 56,37 5,64 10 56,37 - -
2006 35 97,41 2,78 9 30,84 26 66,57
2007 18 745,48 41,42 16 728,78 2 16,70
2008 25 516,96 20,68 22 514,20 3 2,76
2009 4 77,32 19,33 3 75,52 1 1,80
Quí I/2010 4 7,35 1,84 3 6,00 1 1,35
14,82 Tổng 112 1.660,05 79 1.570,88 33 89,17
Các KCN Vĩnh Phúc có số dự án đầu tư tương đối lớn, điều này thể
hiện phần nào sự hấp dẫn của các KCN đối với các nhà đầu tư, trong đó năm
2006 thu hút được 35 dự án đầu tư, tiếp đến là năm 2008 với 25 dự án đầu tư,
năm 2007 với 18 dự án đầu tư. Tuy nhiên số vốn trên một dự án còn thấp và
không đồng đều giữa các năm. Năm 2006 có 35 dự án đầu tư nhưng số vốn
trên một dự án chỉ đạt 2,78 triệu USD phản ánh tính manh mún và dàn trải
của các dự án đầu tư, trong khi đó năm 2009 chỉ có 4 dự án đầu tư nhưng số
vốn trên một dự án đạt 19,33 triệu USD. Điều này đặt ra cho chúng ta thấy
cần có sự chọn lựa các dự án đầu tư, không nên tiếp nhận những dự án đầu tư
vốn quá thấp, không nên chạy theo số lượng dự án đầu tư. Cần tìm kiếm
những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính lớn, ổn định đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh.
Bảng 2.8 : Dự án FDI đầu tư vào KCN phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ
53
Stt Quốc gia và vùng Số dự án Tổng vốn đầu tư Diện tích (ha)
lãnh thổ (1.000USD)
41 22 11 3 1 1 1 1 1 1 83 1.224.208,0 152.152,5 395.427,1 3.710,0 2.500,0 5.000,0 5.000,0 6.000,0 45.000,0 5.000,0 1.843.997,6 1 Đài Loan 2 Hàn Quốc 3 Nhật 4 Trung Quốc 5 Malaysia 6 Mỹ 7 Samoa 8 Ấn Độ 9 Ý 10 Cộng hoà Seychelles Tổng
223,1 57,2 88,0 3,4 1,0 0 1,7 2,5 8,0 0,9 385,8 Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc Bảng 2.8 cho thấy các dự án đầu tư vào KCN Vĩnh Phúc chủ yếu vẫn là các quốc gia châu Á, đứng đầu là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Cần tăng cường xúc tiến đầu tư và cải cách thủ tục hành chính để thu hút được các nhà đầu tư từ Mỹ và EU, là những nhà đầu tư tiềm năng.
- Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN + Giá trị sản xuất công nghiệp:
Bảng 2.9: GTSXCN của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2005 đến 2010 (tính theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2007 2008 2009 2010
15.504,01 28.427,86 32.514,48 34.118,00 9.940,50 18.797,52 21.815,44 2.3789,68
64,12 66,12 67,09 69,73
18,60 29,24 32,51 36,43 GTSXCN toàn tỉnh GTSXCN trong KCN Tỷ trọng so với tổng GTSXCN toàn tỉnh (%) Tỷ trọng GTSXCN KCN so với GDP (%)
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
54
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao do thu hút được nhiều dự
án từ khu vực FDI và DDI, các doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, sản lượng
các sản phẩm chủ yếu đều tăng cao, năm 2010 sản lượng một số sản phẩm
chính đạt được: ô tô 34.426 chiếc, tăng 21,7%/năm; xe máy các loại 1,9 triệu chiếc, tăng 25%/năm; gạch ốp lát 39 triệu m2, tăng bình quân 51,1%/năm,
quần áo các loại 45,4 triệu chiếc, tăng bình quân 47,3%/năm, gạch xây dựng
700 triệu viên, tăng bình quân 9,5%/năm… Bên cạnh đó, nhiều dự án mới đi
vào hoạt động đã góp phần tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp. [60]
Tỷ trọng GTSXCN trong KCN so với tổng GTSXCN toàn tỉnh ở mức
độ khá cao, ổn định và có sự tăng trưởng liên tục qua các năm. Năm 2007 là
64,12, năm 2009 là 64,12, năm 2010 là 69,73. Riêng năm 2011, giá trị sản
xuất công nghiệp đạt 229,46 tỷ đồng/ha, chiếm 70% tổng GTSXCN toàn tỉnh.
Tỷ trọng GTSX KCN so với GDP cũng ở mức cao, tăng trưởng liên tục đồng
đều qua các năm, đến năm 2011 chiếm khoảng 40 %. Tuy thời gian phát triển
chưa lâu, song các KCN tại Vĩnh Phúc đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra
nhiều giá trị SXCN, đẩy nhanh quá trình CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các KCN đã từng bước đưa Vĩnh Phúc tham gia vào quá trình phân công lao
động quốc tế theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa, khai thác tốt nhất
những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển
chung của nền kinh tế.
+ Về giá trị xuất khẩu:
Bảng 2.10: Giá trị xuất khẩu của các KCN
Đơn vị: triệu USD
2008 2009 2010
2007 216,3 175,0 80,9 343,8 375,6 290,0 314,73 83,8 84,4 377,5 322,4 79,0 Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh Kim ngạch xuất khẩu của các KCN Tỷ trọng (%)
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
55
Cho đến trước năm 2004, các DN đi vào hoạt động chủ yếu là các DN
có vốn đầu tư trong nước, thực hiện vốn đầu tư tại KCN với mục tiêu di
chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu tại các KCN gần
như không có. Từ năm 2005, khi các DN mới bước đầu ổn định sản xuất, với
sự đóng góp của các DN đầu tư nước ngoài kim ngạch xuất khẩu mới bắt đầu
khởi sắc. Với những cơ chế chính sách đặc thù, khuyến khích các DN trong
KCN xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài, nên kim ngạch xuất khẩu của các
DN trong KCN Vĩnh Phúc tăng trưởng mạnh, là động lực giúp hoạt động
ngoại thương của Vĩnh Phúc đạt kết quả cao như hiện nay. Đặc biệt, kim
ngạch xuất khẩu của các KCN tăng cao bắt đầu từ năm 2007 nhờ có nhiều dự
án đầu tư của các nước lớn và tập đoàn lớn. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
của các KCN đạt 175,0 triệu USD, chiếm 80,9 % tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn tỉnh. Đến năm 2008, chỉ số này tăng đột biến, tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt 290,0 triệu USD, chiếm 84,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Năm
2010, nền kinh tế của tỉnh gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế chung, nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 322,4 triệu USD,
chiếm 79 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Đây là chỉ số rất cao phản
ánh sự phát triển của các KCN Vĩnh Phúc trong việc chiếm lĩnh thị trường
quốc tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho tỉnh nhà. Các chỉ số này tăng cao
liên tục và ổn định, so với các tỉnh lân cận thì chỉ số này của Vĩnh Phúc cao
hơn nhiều.
+ Về thu nộp ngân sách: `
Bảng 2.11. Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc
2008 2009
5.704,606 9.400,258 2.799,21 1.514,84 2010 10.174,097 2.525,21
Tổng ngân sách tỉnh (tỷ đồng) Thu từ khu công nghiệp (tỷ đồng) Tỷ trọng thu từ KCN/tổng thu (%) 30 27
25 Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
Số thu nộp ngân sách nhà nước của các KCN chủ yếu từ các loại thuế.
56
Theo các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì các DN KCN đều được
miễn giảm thuế thu nhập DN trong 4 năm và được giảm 50 % số thuế phải
nộp cho 8 năm tiếp theo kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Do đó, thu ngân sách
Nhà nước của các KCN chủ yếu từ thuế giá trị gia tăng, thuế môn bài nên số
thu nộp chưa cao. Năm 2008, đạt 1.514,84 tỷ đồng chiếm 27% tổng thu ngân
sách của tỉnh; năm 2009 đạt 2.799,21, chiếm 30% tổng thu ngân sách; năm
2010 đạt 2.525,21, chiếm 25% tổng thu ngân sách của tỉnh.
Hiện nay, KCN Khai Quang nộp ngân sách năm 2011 là 750,5 tỷ đồng;
KCN Bình Xuyên nộp ngân sách năm 2011 là 517 tỷ đồng; riêng Công ty
Honda nộp ngân sách năm 2011 là 4.500 tỷ đồng (bao gồm cả thu nội địa và
thuế xuất nhập khẩu). Những con số này cho thấy vai trò quan trọng của KCN
trong việc đóng góp vào tổng thu ngân sách của tỉnh. [7]
+ Về giải quyết việc làm:
Ban quản lý các KCN chưa được ủy quyền thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về lao động trong các KCN theo quy định tại Nghị định số
29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế
xuất và khu kinh tế và Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 26/5/2009
của Bộ lao động thương binh và Xã hội về hướng dẫn nhiệm vụ quản lý NN
về lao động các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế công nghệ cao.
Nhưng năm 2011 Ban vẫn chủ động chỉ đạo phòng chuyên môn nắm bắt về
biến động lao động trong khu công nghiệp; kiểm tra, nắm bắt tình hình sử
dụng lao động, kế hoạch tuyển dụng lao động và tình hình thực hiện các chính
sách đối với người lao động của các doanh nghiệp, đặc biệt là việc điều chỉnh
lương tối thiểu cho người lao động theo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ngày
22/8/2011 của Chính phủ; phối hợp với các cơ quan có liên quan giúp đỡ
doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong công tác tuyển dụng
lao động; Chủ động tổ chức Hội thảo với các Trường, Trung tâm đào tạo nghề
57
trong tỉnh tìm biện pháp tháo gỡ, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác tuyên
truyền và tuyển dụng lao động; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đề án
Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.
Nhờ đó, đến nay các KCN của tỉnh đã giải quyết việc làm cho gần
40.000 lao động, đó là chưa tính số lao động làm việc trong các DN xây dựng
hạ tầng KCN và số lao động cung cấp dịch vụ cho các KCN. Tỷ lệ lao động
địa phương trong các KCN đạt gần 60%. Công ty Honda giải quyết 8.629 lao
động, KCN Khai Quang giải quyết 22.722 lao động. [7]
Việc thu hút lao động làm việc tại KCN phụ thuộc rất lớn vào quy mô
của DN, vào chủ trương chính sách của tỉnh. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra
hiện nay cần có sự quan tâm giải quyết của cả cơ quan quản lý nhà nước và
của các DN KCN là công nhân làm việc trong KCN phần lớn là lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo nghề hoặc chỉ đào tạo nghề ngắn hạn dẫn đến trình
độ tay nghề kỹ thuật của họ không đáp ứng được yêu cầu của DN, các DN
phải đối mặt với tình trạng thừa nhân lực phổ thông nhưng lại thiếu nhân lực
có trình độ tay nghề cao, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho
các ngành công nghệ cao. Bên cạnh đó, ý thức của người lao động chưa tốt,
DN có thể phải gửi đi đào tạo hoặc đào tạo lại nhưng khi đã quen nghề, thạo
việc họ có thể bỏ việc bất cứ lúc nào, điều này khiến các DN luôn lo lắng về
số lượng lao động của mình cũng như gây rất nhiều khó khăn cho DN trong
công tác quản lý lao động, và các chế độ chính sách liên quan.
- Hiệu quả đầu tư trên một đơn vị diện tích đất KCN
Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Kim Hoa tính cho 01 ha:
+ Thu hút được 5,34 triệu USD.
+ Giải quyết được 122 lao động.
+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 378,8 tỷ đồng/ha (giá cố định 94).
+ Thu ngân sách năm 2011: 62,14 tỷ đồng.
58
Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Khai Quang:
+ Suất đầu tư trung bình: 5,96 triệu USD/01 ha (bao gồm cả dự án FDI
và DDI, nếu tính riêng dự án FDI thì suất đầu tư trung bình đạt 7,39 triệu
USD/ha).
+ Trung bình giải quyết được 195 lao động/01 ha.
+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 30,89 tỷ đồng/ha (giá cố định 94).
+ Thu ngân sách năm 2011 bình quân đạt 5,1 tỷ đồng/01 ha (hiện các
doanh nghiệp đang trong thời gian được miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp).
Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng đất KCN Bình Xuyên:
+ Suất đầu tư trung bình: 2,5 triệu USD/01 ha (bao gồm cả dự án FDI
và DDI, nếu tính riêng dự án FDI thì suất đầu tư trung bình đạt 3,85 triệu
USD/ha).
+ Trung bình giải quyết được 60 lao động/01 ha.
+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 34,7 tỷ đồng./ha (giá cố định 94).
+ Thu ngân sách năm 2011 bình quân đạt 7,05 tỷ đồng/01 ha (hiện các
doanh nghiệp đang trong thời gian được miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp). [9]
Như vậy, có thể thấy hiệu quả đầu tư trên một đơn vị diện tích đất (1
ha) KCN ở Vĩnh Phúc là khá cao, điều này chứng tỏ diện tích đất trong các
KCN của Vĩnh Phúc được khai thác khá triệt để và đem lại hiệu quả cao. Tuy
nhiên, có sự không đồng đều về các chỉ số giữa các KCN, nguyên nhân chủ
yếu là do địa điểm đặt KCN có sự khác nhau về vị trí, không gian và đặc biệt
là sự tiện ích cho các DN; ngoài ra còn do có sự khác nhau khá lớn về các dự
án đầu tư, các dự án lớn, có trình độ công nghệ hiện đại chủ yếu tập trung ở
KCN Kim Hoa, do đó các chỉ số ở KCN này cao hơn hẳn so với các KCN
khác.
59
- Trình độ công nghệ của các DN
Trình độ công nghệ của các DN phản ánh khả năng cạnh tranh của các
DN trong nội bộ KCN cũng như giữa các KCN với nhau. Các DN đầu tư vào
KCN Vĩnh Phúc đa số thực hiện dự án đầu tư mới gắn với việc đầu tư máy
móc, thiết bị mới phục vụ sản xuất. Số DN đầu tư di chuyển địa điểm ít,
chiếm tỷ lệ thấp. Tỷ lệ máy móc, thiết bị mới được đầu tư để sản xuất tại các
KCN Vĩnh Phúc chiếm trên 90% so với tổng số máy móc, thiết bị sử dụng.
Nguồn gốc xuất xứ của máy móc, thiết bị chủ yếu tập trung ở một số nước
như: Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore; một số ít có
xuất xứ từ Mỹ, Anh, Đức.
Vốn đầu tư thực hiện việc mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất chiếm
khoảng 45% đến 50% tổng vốn đầu tư của dự án (theo thống kê cơ cấu vốn
đầu tư tại Hồ sơ dự án xin cấp GCNĐT), chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu
vốn đầu tư của dự án. Điều đó cho thấy các DN rất quan tâm đến đầu tư máy
móc, thiết bị phục vụ sản xuất.
Việc thực hiện nghiên cứu đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới
vào sản xuất tại các KCN chủ yếu được các DN lớn, tập đoàn lớn đầu tư:
Honda, Toyota (Nhật), Piaggio (Italia), Foxcon, Compal, Fullpower (Đài
Loan), G.O. Max, Kumho, Lotte (Hàn Quốc), YCH (Singapore). Còn lại chưa
được các DN khác quan tâm đúng mức, đa số các DN vẫn áp dụng công nghệ
truyền thống mà DN đang sử dụng. Vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu đổi
mới và áp dụng công nghệ mới thấp.
Như vậy, đa số các DN trong KCN sử dụng máy móc mới, đặc biệt có
những DN sử dụng công nghệ hiện đại hàng đầu hiện nay, điều đó vừa tạo ra
năng suất lao động cao, vừa giải quyết các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường
phát sinh từ KCN.
- Về chuyển dịch cơ cầu kinh tế
60
Với tốc độ tăng trưởng nhanh về GTSXCN, các KCN Vĩnh Phúc đã tác
động mạnh đến sự chuyển dịch cơ cầu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng tỷ
trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành sản xuất
nông nghiệp, thực sự trở thành nhân tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cầu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Có thể nói, cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc là tương đối đặc thù so với
các tỉnh trong vùng và cả nước, ngay từ khi tái thành lập tỉnh, công nghiệp và
xây dựng có tỷ trọng thấp song sau hơn 10 năm phát triển, công nghiệp chiếm
tỷ trọng rất cao trong cơ cấu GDP, tới gần 60%.
Bảng 2.12: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 – 2010
Đơn vị tính: %
Ngành và lĩnh vực kinh 1997 2000 2005 2008 2009 2010
tế
Nông – lâm – ngư nghiệp 55,7 31,20 21,20 17,71 12,9 14,9
Công nghiệp – xây dựng 12,7 38,97 52,30 58,34 58,3 56,2
Dịch vụ 31,6 29,83 26,50 23,95 28,8 28,9
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2010
Trong thời kỳ 2001-2005 cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc chuyển dịch
khá nhanh: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng tăng 12,01
điểm (%) từ 40,68% năm 2000 lên 52,69% vào năm 2005. Tỷ trọng này còn
tiếp tục tăng lên và đạt cao nhất 59,93% vào năm 2007 (tăng 7,24 điểm (%) so
với năm 2005) và năm 2008 giảm đôi chút xuống 57,50% và tiếp tục giảm
còn khoảng 56,2%năm 2010; khu vực dịch vụ có xu hướng giảm tỷ trọng
trong GDP từ 27,86% năm 2005 xuống 24,48% năm 2008 sau đó tăng lên
28,9% vào năm 2010; trong khi tỷ trọng ngành nông-lâm-thủy sản giảm liên
tục rất nhanh từ 28,94% năm 2000 xuống còn 19,45% vào năm 2005 và
61
14,9% năm 2010. Như vậy có thể thấy cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc chuyển dịch
mạnh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tuy nhiên, tỷ trọng khu vực dịch
vụ tăng còn chậm. [60]
Nếu xét theo tỷ lệ đóng góp, ta thấy năm 1997 khi Vĩnh Phúc mới tái
lập tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tới 55,7%, công nghiệp chỉ có 12,7%
và dịch vụ chiếm 31,6%. Đến năm 2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm
xuống còn 21,20%, ngành công nghiệp tăng lên 52,30% và ngành dịch vụ là
26,50%. Năm 2010, tỷ trọng của ngành nông nghiệp chỉ còn 14,9%, ngành
công nghiệp tăng mạnh lên 56,2% và ngành dịch vụ là 28,9%. Với tỷ trọng
của ngành công nghiệp lên đến trên 50% cơ cấu nền kinh tế cho thấy Vĩnh
Phúc đã cơ bản tiến đến việc trở thành tỉnh công nghiệp.
- Thúc đẩy việc phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng
Sự phát triển nhanh chóng của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đã kích thích
sự phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương với số lượng và chất
lượng ngày càng cao.
Vĩnh Phúc có mạng lưới giao thông khá phát triển với 3 loại: giao
thông đường bộ, đường sắt, đường sông. Nhiều tuyến được đầu tư đã mang lại
hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội. Giao thông đô thị và giao thông nông thôn
đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, đảm bảo thông thương và giao lưu kinh tế
giữa các địa phương trong tỉnh và với bên ngoài.
Tổng chiều dài đường bộ là 4.058,4km trong đó: Quốc lộ: 105,3km;
Đường tỉnh: 297,55km; Đường đô thị 103,5km; đường huyện 426km; đường xã
3.136km. đã từng bước xây dựng với quy mô hiện đại đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
đất nước.
Trong 10 năm qua dịch vụ thông tin liên lạc trong tỉnh phát triển khá
nhanh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong quản lý,
62
kinh doanh và đời sống xã hội. Đến nay, 100% số xã và 95% số thôn có máy
điện thoại. Dịch vụ điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh. Tính đến năm
2010 mật độ thuê bao trên địa bàn (bao gồm cả cố định và di động) đạt 92
máy/100 dân (trong đó thuê bao cố định là 19,69 máy/100 dân). [60]
Các dịch vụ tín dụng, tài chính ngân hàng phát triển nhanh và ngày
càng đa dạng về hình thức cũng như chất lượng dịch vụ. Dịch vụ tài chính của
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã đáp ứng được nhu cầu
vay vốn cũng như cho vay phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của người
dân và doanh nghiệp.
Hệ thống cấp điện được đầu tư xây dựng hiện đại, đảm bảo cấp điện
sinh hoạt cho 100% các hộ và cấp đủ điện cho sản xuất công nghiệp. Hệ
thống cấp nước sạch đã được hoàn thiện và thực hiện việc cấp nước sạch đầy
đủ cho các đô thị, hiện đang được tiếp tục đầu tư để cấp nước sạch cho khu
vực nông thôn
- Chuyên môn hóa và liên kết kinh tế
Đây là một mục tiêu của việc xây dựng các KCN tập trung, vì các DN
cùng nằm trong một KCN là điều kiện thuận lợi để chuyên môn hóa và liên
kết kinh tế. Các KCN Vĩnh Phúc chủ yếu là các DN hoạt động trong một số
ngành: may mặc, điện, điện tử, cơ khí, sản xuất và lắp giáp ô tô, xe máy, sản
xuất vật liệu xây dựng, chế biến. Ngoài ra có một số DN hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ: vận tải, kho bãi, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông, ngân
hàng...
Với đặc thù đó, mối liên kết kinh tế chủ yếu được thực hiện giữa các
DN sản xuất với các DN dịch vụ trong các lĩnh vực bưu chính viễn thông,
ngân hàng, có một số DN thực hiện tốt mối liên kết kinh tế: Công ty ốc vít và
các công ty cơ khí, lắp máy; xí nghiệp sản xuất bao bì có mối liên kết kinh tế
với các DN điện, điện tử, vật liệu xây dựng...Mối liên kết giữa các DN sản
63
xuất với các DN vận tải trong KCN chưa nhiều, chủ yếu các DN quan hệ với
các DN vận tải bên ngoài.
Mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các KCN với nhau, giữa các KCN với
các cụm công nghiệp thấp, ít có sự liên kết về tổ chức sản xuất mà chủ yếu là
liên kết sử dụng các sản phẩm hỗ trợ phục vụ sản xuất, cung cấp dịch vụ;
trang thiết bị văn phòng, văn phòng phẩm, cung cấp suất ăn công nghiệp, dịch
vụ vệ sinh; thu gom phế liệu, phế thải; cung cấp lao động. Những mối liên hệ
này có giá trị gia tăng không cao.
Các KCN chưa có nhiều hỗ trợ về kỹ thuật đối với các DN sản xuất bên
ngoài, chưa có DN sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ những ngành nghề bên
ngoài. Chủ yếu mới dừng lại ở việc tạo ảnh hưởng về việc áp dụng trình độ
quản lý hoạt động sản xuất đối với các DN bên ngoài.
Như vậy, mối liên kết kinh tế giữa các DN trong các KCN; giữa các
KCN với nhau; giữa các doanh nghiệp KCN với các DN bên ngoài chưa cao.
Sự liên kết chỉ trong phạm vi hẹp, chưa đi vào chiều sâu là liên kết trong tổ
chức sản xuất và lưu thông hàng hóa, chưa có sự hỗ trợ nhiều cho nhau.
- Mức độ thỏa mãn nhu cầu của nhà đầu tư
Trong việc quản lý đối với hệ thống KCN, Chủ tịch UBND tỉnh là
người chỉ đạo các cơ quan hữu quan của tỉnh và các chủ đầu tư lập và thực
hiện Dự án đầu tư các KCN theo phương án phân kỳ hợp lý, phù hợp với khả
năng thu hút đầu tư, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và theo đúng quy định
hiện hành.
Về cơ bản, hạ tầng của các KCN đều được đảm bảo với: trạm điện công
suất lớn, đáp ứng nhu cầu sản xuất, có hệ thống đường giao thông thuận tiện,
nhà máy nước cấp và thoát nước thuận lợi, hệ thống thoát nước và xử lý nước
thải; các dịch vụ tài chính, ngân hàng, hải quan thuận tiện. Trên xu hướng đáp
ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao, tỉnh Vĩnh Phúc cũng tập trung đầu tư xây
64
dựng hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống KCN ngày càng đồng bộ, hiện đại, theo tiêu
chuẩn quốc tế, đảm bảo gắn kết đồng bộ cơ sở hạ tầng bên trong KCN với hạ
tầng xã hội bên ngoài tạo thành khu công nghiệp – đô thị hiện đại.
Bên cạnh đó, các KCN đều có quy hoạch Khu trung tâm điều hành, bố
trí các DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như: ngân hàng, bưu chính viễn
thông; đặt trụ sở giao dịch của các DN trong và ngoài KCN; có văn phòng đại
diện của các cơ quan quản lý: Ban quản lý các KCN, Hải quan, Thuế, Công ty
đầu tư phát triển hạ tầng...Đảm bảo cho việc tháo gỡ kịp thời những khó khăn
vướng mắc, đồng thời thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
Với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, chất lượng tốt, các
KCN Vĩnh Phúc đã thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều
đó đã thấy rõ qua việc thu hút đầu tư, tỷ lệ lấp đầy, tổng vốn đầu tư... Đã được
phân tích ở phần trên, hơn nữa qua điều tra khảo sát của Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Vĩnh
Phúc luôn được các nhà đầu tư và DN đánh giá cao:
Năm 2005: điều tra 6.200 DN tại 42 tỉnh, thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị
trí thứ 5.
Năm 2006: Tiến hành điều tra trên 6.300 DN địa phương của cả 64
tỉnh, thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 4.
Năm 2007: Chỉ số PCI điều tra 6.700 DN dân doanh trên 64 tỉnh và
thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 7.
Năm 2008: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 7.820 DN trên 64 tỉnh,
thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 3
Năm 2009: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 9.890 DN trên 63 tỉnh,
thành phố. Vĩnh Phúc đứng vị trí thứ 6
Năm 2010: Kết quả điều tra dựa trên ý kiến của 7.300 DN dân doanh và
1.155 DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên 63 tỉnh, thành phố. Vĩnh
65
Phúc đứng vị trí thứ 15
Có thể thấy, sự phát triển và coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh,
trong đó quan tâm tới hệ thống KCN là một trong những việc làm được chính
quyền tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm triển khai. Việc phát huy thế mạnh
của hệ thống KCN này với sự phát triển kinh tế của địa phương, sẽ góp phần
thực hiện mục tiêu chung sớm đưa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có nền công
nghiệp phát triển, thu hút các dự án đầu tư quy mô, có sức phát triển bền
vững, đạt mục tiêu trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2015.
- Tác động tới môi trường
Hiện nay 4 khu công nghiệp đang hoạt động (Kim Hoa, Khai Quang,
Bình Xuyên và Bá Thiện) đã có trạm xử lý nước thải, có hệ thống thoát nước
mưa và nước thải riêng biệt, đang triển khai hệ thống xử lý nước thải tại 3
KCN Bình Xuyên II, Bá Thiện II và Phúc Yên; tỉnh đang đầu tư Hợp phần
thoát nước và xử lý nước thải thành phố Vĩnh Yên thuộc dự án Cải thiện môi
trường đầu tư để dần hoàn thiện hệ thống hạ tầng đô thị Vĩnh Yên; KCN Khai
Quang đã có 35/51 doanh nghiệp đã tiến hành đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung với tổng công suất là 5.800m3/ngày đêm;
KCN Bình Xuyên có 11/34 doanh nghiệp đã tiến hành ký hợp đồng đấu nối
nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung công suất 3.000m3/ngày đêm. [7]
Các KCN còn lại đều được quy hoạch trạm xử lý nước thải tập trung;
các doanh nghiệp chủ đầu tư hạ tầng có trách nhiệm xây dựng và vận hành
trạm xử lý nước thải trước khi doanh nghiệp trong KCN đi vào sản xuất, công
suất các trạm được thiết kế phù hợp.
Việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải rắn,
lỏng, khí trong KCN (về xây dựng trạm xử lý cục bộ, đấu nối hệ thống thoát
66
nước thải sinh hoạt, công nghiệp; phân loại, vận chuyển, xử lý rác thải…):
Về cơ bản các cơ sở sản xuất kinh doanh có đầy đủ các hồ sơ thủ tục về
lĩnh vực bảo vệ môi trường như: lập báo cáo đánh giá tác động hoặc đăng ký
bản cam kết bảo vệ môi trường được các cơ quan có chức năng phê duyệt
trước khi đi vào hoạt động sản xuất. Trong quá trình hoạt động các hầu hết
các doanh nghiệp đã tiến hành đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại;
thực hiện giám sát môi trường định kỳ hàng năm; ký hợp đồng xử lý nước
thải sản xuất với chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN để thu gom về hệ thống xử
lý nước thải chung của toàn khu.
Như vậy, có thể nói công tác bảo vệ môi trường ở các KCN được tỉnh
cũng như các DN, các nhà đầu tư hết sức quan tâm, nhờ đó mà những tác
động đến môi trường đã được đảm bảo, giảm thiểu những ảnh hưởng xấu đến
môi trường, là điều kiện quan trọng cho sự phát triển bền vững.
2.2.3. Đánh giá chung về vai trò của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.3.1. Những đóng góp tích cực của các KCN
Từ nghiên cứu thực trạng và phân tích những tác động hiện có của các
KCN Vĩnh Phúc, chúng tôi nhận thấy, các KCN đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng và có những đóng góp tích cực, có thể khái quát những đóng góp
chủ yếu của các KCN trên các lĩnh vực sau:
- Tăng cường thu hút đầu tư và phát triển ngành công nghiệp của tỉnh.
Như đã phân tích ở phần trên, sự phát triển của các KCN trong thời gian qua
đã tạo ra bước phát triển vượt bậc trong thu hút đầu tư phát triển công nghiệp.
Với cơ chế thông thoáng cởi mở, các ưu đãi hấp dẫn, cùng với cơ sở hạ tầng
đồng bộ, hiện đại đã giúp Vĩnh Phúc thu hút đầu tư nhanh chóng, từ một tỉnh
thuần nông Vĩnh Phúc đã trở thành địa phương phát triển công nghiệp hàng
đầu cả nước với nguồn vốn đầu tư lớn.
- Góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách. Như bảng 2.1,
67
bảng 2.11 đã cho thấy, sự phát triển của các KCN đã góp phần quan trọng
trong thu ngân sách, tăng kim ngạch xuất khẩu và đồng thời góp phần trực
tiếp vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cầu kinh tế của địa phương theo
hướng CNH, HĐH. Khi mới tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc có cơ cấu kinh tế lạc hậu,
chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp. Nhờ vào quá trình phát triển các
KCN đã giúp cho cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch nhanh chóng theo
hướng giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của ngành
công nghiệp và dịch vụ (bảng 2.12).
- Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đào tạo và nâng cao trình độ
của người lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của các KCN, các DN đã tạo ra
được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, kể cả lao động trực tiếp và
lao động gián tiếp. Hiện nay có khoảng 50% lao động làm việc trong các
KCN là những người nghèo, nếu chỉ trông chờ vào đồng ruộng thì khó có thể
thoát nghèo, KCN đã tạo ra thu nhập cho họ cũng có nghĩa là góp phần xóa
đói giảm nghèo cho địa phương. Theo tính toàn hiện nay mức thu nhập bình
quân của người lao động trong các KCN ở Vĩnh Phúc đạt khoảng 1.700.000
đồng/tháng. Đây là con số chưa cao nhưng đã giúp người lao động có thu
nhập ổn định, cải thiện đời sống.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của các KCN cùng với trình độ
công nghệ ngày càng hiện đại đã tạo sức ép cho việc đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các DN, nhờ đó việc đào tạo nguồn lao động
được quan tâm, giúp cho tay nghề của người lao động được nâng lên.
- Tác động lan tỏa tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác trên địa bàn
tỉnh. Sự phát triển của các KCN còn có tác động lan tỏa tích cực tới nhiều
ngành nghề và lĩnh vực. Các KCN góp phần mở rộng thị trường các yếu tố
đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng thu
68
ngoại tệ; có vai trò nhất định trong việc phát triển nguồn nhân lực cũng như
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại; góp phần du nhập kỹ thuật
và công nghệ mới tiên tiến; sự phát triển của các KCN còn hình thành các khu
đô thị hiện đại theo quy hoạch KCN; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ngoài hàng
rào KCN; phát triển các loại hình dịch vụ: tài chính ngân hàng, bưu chính
viễn thông, bảo hiểm...
- Hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn. Qúa trình phát triển các
KCN Vĩnh Phúc không chỉ phát triển ngành công nghiệp nói chung mà còn
hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn, là thế mạnh trong cạnh tranh:
sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy; sản xuất máy tính xách tay; điện thoại di
động; điện tử công nghệ cao; cơ khí chế tạo động cơ...Những ngành này đều
đến từ những thương hiệu nổi tiếng.
Như vậy, các KCN Vĩnh Phúc đã có những tác động to lớn, thúc đẩy sự
phát triển KT-XH của tỉnh nhà. Đòi hỏi, trong thời gian tới cần có chính sách
và cơ chế chế quản lý phù hợp đảm bảo sự phát triển của các KCN, nhằm phát
huy tốt những tác động tích cực.
2.2.3.2. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những đóng góp tích cực nêu trên, quá trình phát triển các
KCN Vĩnh Phúc vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu, giải
quyết, đó là:
- Thứ nhất, kết quả thu hút đầu tư các dự án công nghiệp, phát triển
KCN chưa tương xứng với tiềm năm phát triển của tỉnh và thiếu tính bền
vững. Năm 2011 Vĩnh Phúc xếp thứ 20 về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, như vậy có thể nói công tác thu hút FDI của Vĩnh Phúc chưa lớn.
Nguyên nhân dẫn đến sự tụt giảm trên là do cơ chế, chính sách về đất
đai của tỉnh có những thay đổi, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69 của
Chính phủ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ
69
tái định cư chưa sát thực tế và còn tồn tại cơ chế hai giá trong bồi thường
GPMB. Giá thuê lại đất có hạ tầng trong khu công nghiệp cao hơn các tỉnh
trong khu vực. Cụ thể, giá thuê lại đất 50 năm tại khu công nghiệp Khai
Quang, khu công nghiệp Bình Xuyên khoảng 70-80 USD/m2. Trong khi đó
tại khu công nghiệp Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ chỉ 30-45
USD/m2; các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh khoảng 50-60 USD. [6]
Về nguyên nhân chủ quan, do việc công bố các tài liệu về cơ chế, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch và thời gian giải quyết thủ tục hành chính, giải
quyết các khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp của các sở, ban, ngành
còn chậm và chưa đầy đủ. Ngoài ra, do Vĩnh Phúc đang thiếu quỹ đất sạch,
thiếu nguồn lao động có tay nghề cao và các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh
nghiệp. Việc giải quyết đất dịch vụ, đất các hộ dân tái lấn chiếm đất đã
GPMB chưa dứt điểm; công tác vận động, xử lý bảo vệ thi công hiệu quả
chưa cao…
- Thứ hai, quy hoạch KCN còn những hạn chế nhất định. Điển hình là
tình trạng có dấu hiệu quy hoạch "treo" ở KCN Phúc Yên mà dư luận gần đây
cũng như một số cơ quan truyền thông có đề cập đến. Ngoài ra, trong một thời
gian ngắn tỉnh đã trình Chính phủ phê duyệt thêm nhiều KCN ưu tiên thành
lập đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 (nâng tổng số KCN được phê
duyệt là 20) cũng có dấu hiệu "tự phát". Gần đây sau khi rà soát các KCN trên
địa bàn, căn cứ Nghị định số 42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử
dụng đất lúa, trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất tỉnh Vĩnh Phúc lập và hoàn
thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị
điều chỉnh giảm diện tích và đưa ra ngoài quy hoạch 04 KCN, cụ thể như sau:
+ KCN Hội Hợp (150 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa. Đề nghị đưa ra
ngoài quy hoạch danh mục KCN.
+ KCN Nam Bình Xuyên (304 ha): Quỹ đất chủ yếu là đất trồng lúa
70
nước, đề nghị điều chỉnh, đưa ra ngoài danh mục quy hoạch KCN.
+ KCN Vĩnh Tường (200 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa nước, đề nghị
điều chỉnh đưa ra ngoài quy hoạch danh mục KCN.
+ KCN Vĩnh Thịnh (270 ha): Hiện trạng là đất trồng lúa nước, đất bãi,
đề nghị điều chỉnh, đưa ra ngoài quy hoạch danh mục KCN. [8]
- Thứ ba, tiến độ triển khai thực hiện của nhiều dự án còn chậm so với
tiến độ đăng ký đầu tư. Năm 2011, Ban quản lý các KCN đã làm việc với một
số chủ đầu tư hạ tầng KCN, về tình hình đầu tư, xây dựng kinh doanh hạ tầng
các KCN, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của Chủ đầu tư, từ đó nghiên
cứu, đề xuất các giải pháp phát triển KCN, báo cáo UBND tỉnh. Cụ thể: xem
xét, báo cáo UBND tỉnh gia hạn hoạt động cho dự án KCN Bá Thiện, đồng
thời đôn đốc chủ đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng hạ tầng KCN; hướng dẫn
chủ đầu tư KCN Bá Thiện II hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng hạ
tầng kỹ thuật KCN.
- Thứ tư, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội bức xúc quanh các KCN. Thực
tế thời gian qua cho thấy, việc phát triển các KCN không hài hòa với phát
triển các công trình xã hội (nhà ở cho công nhân, các công trình giáo dục, y
tế, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại...phục vụ đời sông người lao
động). Nhà ở cho công nhân đang là vấn đề gay gắt, mặc dù tỉnh cũng đã có
nhiều cố gắng. Song, nhu cầu về nhà ở ổn định cho công nhân là rất lớn, tạo
áp lực không nhỏ cho doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Theo số liệu
Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, nhu cầu nhà ở cho người lao động các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh là trên 16.000 người. Vì chưa có nhà ở nên
đa số công nhân phải thuê nhà tạm bợ để sinh sống, ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động, đời sống văn hóa tinh thần của
công nhân chưa được quan tâm đúng mức, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực:
71
mất an ninh trật tự, tệ nạn xã hội...ảnh hưởng đến nhân dân quanh KCN.
- Thứ năm, công tác bồi thường, GPMB, giải quyết việc làm, chuyển
đổi nghề cho người dân mất đất còn chậm. Đặc biệt là vấn đề bồi thường,
GPMB chậm đang là lực cản lớn cho sự phát triển của KCN. Một số KCN
quá trình đền bù, GPMB, thu hồi đất để xây dựng KCN chậm trễ, nhất là
chậm phổ biến công khai quy hoạch đến người dân đã xẩy ra tình trạng khiếu
kiện kéo dài mà không chịu giao đất.
Năm 2011, bồi thường, GPMB trong các KCN được 53,6 ha, trong đó:
+ KCN Khai Quang: Bồi thường, GPMB được 6 ha với 5 hộ dân đã
nhận tiền bồi thường. Hiện KCN này còn tồn tại 14 ha, ở khu Gò Rùa với 24
hộ dân do chưa có khu tái định cư và 3 trang trại các hộ dân chưa nhận tiền
bồi thường.
+ KCN Bá Thiện II: Bồi thường, GPMB được 47,6 ha với với 32 hộ
dân đã nhận tiền bồi thường, đạt 95,2% tổng diện tích đã có phương án bồi
thường. Hiện KCN này còn 2,4 ha với 9 hộ dân chưa nhận tiền bồi thường.
Hiện nay, công tác bồi thường, GPMB ở một số KCN còn nhiều vướng
mắc như: KCN Bình Xuyên còn 0,19 ha đã có phương án bồi thường và 91,7
ha với 1.213 lượt hộ dân xã Sơn Lôi chưa đồng ý kiểm kê; KCN Chấn Hưng
còn 3,6 ha với 31 hộ chưa nhận tiền; KCN Bình Xuyên II còn 0,06 ha với 01
hộ dân chưa nhận tiền bồi thường; KCN Bá Thiện còn 02 hộ đã nhận tiền bồi
thường nhưng chưa di chuyển.
Tồn tại về bồi thường, GPMB ở một số dự án như: Công ty Phanh
Nissin còn 1,85 ha, công ty TNHH Kosei Multipack còn 0,25 ha, Công ty CP
ĐT dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe vướng mắc về thủ tục bồi thường,
GPMB. [7]
- Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Ban quản lý
các KCN luôn chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong quản lý
72
hoạt động của các KCN. Tuy nhiên, còn tồn tại tình trạng buông lỏng trong
quản lý, nhất là quản lý sau cấp phép đầu tư. Điển hình như trường hợp để
chủ đầu tư tại khu công nghiệp Bình Xuyên cho thuê đất trên đất công cộng,
dịch vụ, cây xanh, đường điện (sai quy hoạch). Cụ thể là Dự án Đầu tư xây
dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Bình Xuyên do Công
ty TNHH đầu tư xây dựng An Thịnh làm chủ đầu tư. Công ty này đã được cấp
GCNQSD đất với tổng diện tích 1.295.623,5 m2, trong đó có cả đất xây xanh,
đất giao thông và đất đầu mối kỹ thuật. Tuy nhiên, khi triển khai dự án, chủ
đầu tư đã cho thuê lại đất để thực hiện xây dựng một số công trình trên đất,
sai quy hoạch với diện tích là 37.581 m2. Về phía Ban quản lý các khu công
nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, đã thẩm định một số dự án thiếu chính xác về năng
lực tài chính và kinh nghiệm. Cụ thể là trường hợp Công ty CP đầu tư xây
dựng Thăng Long, chủ đầu tư dự án Khu đô thị mới Hùng Vương – Tiền
Châu. Dự án Khu công nghiệp Chấn Hưng do UBND huyện Vĩnh Tường làm
chủ đầu tư cũng có những tồn tại. Cụ thể, năm 2005 thực hiện công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng, số tiền các hộ đã nhận 15,630 tỷ đồng. Các hộ
dân đã nhận tiền nhưng không bàn giao đất. Vì vậy, tiến độ thực hiện dự án
chậm, đến nay dự án vẫn chưa được thực hiện.
- Thứ bảy, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các địa phương có KCN. Một
trong những mục đích khi xây dựng các KCN tập trung là giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Tuy nhiên, thực tế các KCN ở Vĩnh Phúc chưa thực hiện tốt chức
năng này, các công trình xử lý chất thải công nghiệp vẫn chưa được quan tâm
đầu tư đúng mức. Hệ thống xử lý chất thải ở những KCN đã đi vào hoạt động
mới chỉ ở mức B. Chất thải KCN chưa được xử lý tốt làm cho môi trường ô
nhiễm trên diện rộng không chỉ trong phạm vi KCN mà còn lan rộng ra bên
ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của nhân dân, nhất là môi
trường nước và môi trường không khí.
73
2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Tình hình chính trị, kinh tế, an ninh trên thế giới có nhiều biến động
lớn, diễn biến phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế thế giới và suy
giảm kinh tế trong nước đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra thời cơ, thuận lợi
mới song cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mới, đó là sự cạnh tranh
quyết liệt về chất lượng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhất là về thu hút đầu
tư giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ. Việt Nam đã tham gia và thực hiện các
cam kết với các tổ chức WTO, AFTA, do vậy các nhà đầu tư nước ngoài có
thể không cần thiết phải đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam mà
vẫn khai thác được thị trường. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tác
động đến khả năng thu hút đầu tư.
- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của tỉnh còn thiếu, chưa đồng bộ và còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hạ tầng giao thông.
Nhu cầu đầu tư hạ tầng lớn nhưng khả năng đáp ứng của ngân sách hạn chế.
- Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chậm ban hành hoặc chưa
đồng bộ, thiếu tính ổn định hoặc khó áp dụng, nhất là chính sách về đất đai,
ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư đối với ngành công
nghiệp hỗ trợ, với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chính sách, cơ chế tài chính về đất đai, bồi thường giải phóng mặt
bằng thiếu tính ổn định là nguyên nhân chính tạo ra khó khăn trong công tác
giải phóng mặt bằng, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai của các dự án.
- Chi phí về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, tiền thuê đất tăng
cao và tăng nhanh trong khi ưu đãi về thuế áp dụng với các dự án đầu tư vào
KCN giảm liên tục trong các năm qua (Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành
Luật Đầu tư; Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ về
74
Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, quy định KCN là địa
bàn ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2009, Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp và Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi
hành, các dự án đầu tư trong KCN không được hưởng ưu đã đầu tư về thuế,
ngoài trừ một vài ngành nghề đặc biệt) đã hạn chế khả năng cạnh tranh của
Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Lạm phát gia tăng, giá các loại hàng hóa, vật tư, vật liệu, nguyên
nhiên liệu và năng lượng tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và đời sống người lao động. Thu nhập người
công nhân không theo kịp lạm phát dẫn đến tình trạng công nhân tự ý nghỉ
việc tập thể, đình công, lãn công, ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp
đã tác động không nhỏ đến tâm lý, niềm tin của nhà đầu tư.
- Hệ thống dịch vụ còn thiếu và yếu, công tác đào tạo nghề chưa có sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, nhà trường và nhà đầu tư. Nhà ở công nhân
chậm phát triển do lĩnh vực đầu tư này không có nhà nhà đầu tư quan tâm bởi
vốn đầu tư lớn, lợi nhuận thấp và nhiều rủi ro. Những vấn đề này đã ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của KCN.
- Công tác quản lý quản lý KCN còn có sự chồng chéo, chưa rõ ràng
giữa Ban Quản lý các khu công nghiệp và các cơ quan chức năng trong việc
quản lý lao động, quản lý môi trường.
Kết luận chương 2
Qua thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, có thể khẳng định rằng
các KCN có vai trò rất quan trọng, mang lại hiệu quả cao, tạo ra các hạt nhân
phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp, giúp các ngành kinh tế khác phát
triển, thúc đẩy đô thị hóa nông thôn. Phát triển KCN đáp ứng được yêu cầu
75
tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm vốn đầu tư xã hội, tập trung được nguồn lực để
đầu tư và đây được xem như là một giải pháp tích cực, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước. Các
KCN của tỉnh đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn thuộc các quốc gia, vùng
lãnh thổ có nền công nghiệp tiên tiến vào đầu tư như Honda (Nhật Bản),
Piaggio (Italia), HonHai và Compal (Đài Loan), Deawoo (Hàn Quốc) v.v...
từng bước hình thành các ngành công nghiệp chủ lực như: sản xuất, lắp ráp ô
tô, xe máy; sản xuất máy tính xách tay, điện thoại di động và ngành điện tử
(công nghệ cao); công nghiệp cơ khí, chế tạo động cơ.
Các KCN hoạt động đã có đóng góp tích cực vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu lao động, bảo đảm an sinh xã hội, an
ninh quốc phòng. Tuy nhiên, trong phát triển các KCN cũng còn nhiều hạn
chế: thu hút đầu tư có xu hướng giảm sút; công tác bồi thường, GPMB gặp
nhiều khó khăn; quy hoạch KCN còn nhiều bất cập; nảy sinh các vấn đề xã
hội; ô nhiễm môi trường...đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ phát huy
những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế của KCN, để KCN thực sự
76
là khu vực kinh tế động lực cho sự phát triển.
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển các KCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc
3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp
- Phát triển KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển
kinh tế – xã hội của tỉnh, và với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế:
Trong xu thế hiện nay, nền kinh tế của từng quốc gia trên thế giới đều
có mối quan hệ qua lại, đan xen và ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa và hội
nhập kinh tế giữa các quốc gia trở thành xu thế tất yếu của thời đại.
Hội nhập kinh tế quốc tế được biểu hiện cụ thể bằng đặc trưng như:
toàn cầu hóa kinh tế, thị trường hóa kinh tế và liên kết kinh tế khu vực song
phương và đa phương. Với những đặc trưng vốn có nói lên hội nhập kinh tế
quốc tế, mỗi quốc gia muốn hội nhập kinh tế thành công nhất thiết phải xây
dựng và điều chỉnh chiến lược kinh tế của mình theo hướng hội nhập và liên
kết kinh tế khu vực và thế giới theo đúng luật chơi của thế giới. Do đó, sự
phát triển của KCN nước ta nói chung và sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh Phúc
nói riêng không thể là ngoại lệ nằm ngoài cái chung ấy.
Từ đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mang tính tất yếu vừa
mang tính quy luật, vừa là con đường quan trọng để giúp Việt Nam nói chung
và tỉnh Vĩnh Phúc phát triển nhanh chóng các KCN, góp phần thực hiện thành
công CNH, HĐH đất nước, chống nguy cơ tụt hậu và rút ngắn khoảng cách
nước ta với các nước khác.
- Phát triển KCN phải đảm bảo tính bền vững:
77
Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh:
“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của
con người, nhưng không tổn hai tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương
lai”. Thế hệ hôm nay nếu không muốn mắc nợ thế hệ mai sau, thì thế hệ hôm
nay phải tuân thủ đầy đủ các nguyên lý phát triển bền vững. Do đó, phát triển
KCN Vĩnh Phúc tất yếu phải tuân thủ các nguyên tắc của phát triển bền vững,
phải đạt tới sự hài hòa, cân đối giữa 3 lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường.
Việc phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua mới chỉ tập
trung quan tâm chủ yếu đến tăng trưởng kinh tế, còn nhiều tồn tại, hạn chế về
vấn đề ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần có những giải pháp
đồng bộ phát triển các KCN của Vĩnh Phúc theo hướng bền vững, dựa trên 3
trụ cột chính là kinh tế, xã hội và môi trường.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại các KCN theo hướng thu hút các dự
án sử dụng nhiều vốn, hàm lượng công nghệ cao, sử dụng không gian nhiều
tầng… Đảm bảo tổ chức sản xuất công nghiệp trong các KCN theo mô hình
hiện đại, tăng tỷ lệ diện tích cho phát triển hạ tầng và cây xanh trong các
KCN. Hạn chế sử dụng đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) theo hướng
ưu tiên phát triển các KCN trên vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Dương,
Bình Xuyên và Lập Thạch, Sông Lô. Tăng cường vai trò động lực thúc đẩy
các tiểu vùng phát triển, tạo hạt nhân phát triển các tiểu vùng của các KCN.
Phát triển các KCN tập trung, gắn sự phát triển của các KCN với sự phát triển
của hệ thống đô thị, dịch vụ, phân bố dân cư. Phát triển đồng bộ các đô thị và
các ngành dịch vụ khác gắn liền với phát triển KCN để tạo sự phát triển hài
hòa, đồng bộ hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành và lĩnh vực.
- Phát triển công nghiệp làm nền tảng của nền nền kinh tế; tiếp tục đẩy
mạnh công tác quy hoạch, đầu tư phát triển KCN và công nghiệp, từng bước
và hoàn thiện các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục ưu
78
tiên phát triển đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Ưu tiên phát triển
các KCN tại vùng đất không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là
vùng đồi núi phía Bắc tỉnh.
- Phát triển hạ tầng KCN đi đôi với phát triển đô thị, hệ thống giao
thông đối ngoại và hạ tầng xã hội. Gắn liền phát triển KCN với phát triển đô
thị, dịch vụ, nhà ở công nhân và nhà ở xã hội, hướng tới mô hình đô thị công
nghiệp. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là nhân lực trình độ cao, đáp ứng mục tiêu thu hút đầu tư các dự án có
công nghệ tiên tiến, hàm lượng tri thức cao.
3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020
Mục tiêu tổng quát
Trong báo cáo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010,
dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn
2030 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định mục tiêu tổng quá phát
triển KCN Vĩnh Phúc đến năm 2020 là: “Hình thành hệ thống các KCN hợp
lý trên địa bàn, đảm bảo sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực
cho sự phát triển chung của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các
tiểu vùng và các địa phương trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu dân cư, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để
thu hút đầu tư phát triển CN, tăng tỷ lệ đóng góp của CN (đặc biệt là các KCN)
trong phát triển kinh tế – xã hội tỉnh”.
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ
trợ nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong
KCN đi đôi với việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ
lực như dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện tử, sản phẩm gỗ…
Hình thành hệ thống các khu công nghiệp hợp lý trên địa bàn, đảm bảo
sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực cho sự phát triển chung
của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các tiểu vùng và các địa
79
phương trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân cư, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư
phát triển công nghiệp, tăng tỷ lệ đóng góp của công nghiệp (đặc biệt là các
khu công nghiệp) trong phát triển kinh tế – xã hội tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện
hạ tầng kỹ thuật và thu hút đầu tư vào 20 khu công nghiệp đã được thành lập
và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư với quy mô diện
tích là 6.038 ha.
Thu hút đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp tại các khu công nghiệp
theo hướng lựa chọn các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, ít phế
thải, thân thiện môi trường; hình thành các cụm khu công nghiệp điện tử, cơ
khí chế tạo… có quy mô lớn có ý nghĩa toàn vùng và cả nước.
Nghiên cứu chuẩn bị về dự trữ đất đai, phát triển hạ tầng để phát triển
thêm các khu công nghiệp (ngoài các khu công nghiệp đã xác định) khi có
điều kiện, dự kiến quy mô diện tích các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh ổn
định vào khoảng 8.500-9.000ha.
Các mục tiêu cụ thể đến năm 2020
Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược
phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030, xét
tình hình triển khai thực tế thời gian qua và khả năng cung ứng điều kiện hạ
tầng cần thiết để phát triển các KCN, đề ra mục tiêu cụ thể phát triển các
KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 như sau:
Bảng 3.1: Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN
tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020
Tiêu chí 2020
TT 1 Diện tích KCN 2 Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng (tăng thêm) 3 Vốn đầu tư sản xuất trong KCN 4 Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp 5 Giá trị sản xuất công nghiệp 6 7 Tỷ lệ đóng góp vào GTSX CN Thu hút thêm lao động 6,038 ha 1 tỷ USD 7,5 tỷ USD 70 % Tăng 17%/năm 75% 26 vạn
80
Nguồn: Ban quản lý KCN Vĩnh Phúc
Mục tiêu cụ thể để phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến 2020 là rất lớn,
không thể bố trí triển khai ngay cùng một lúc, khi cân đối với yếu tố ảnh
hưởng của phát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.
Để việc đầu tư phát triển KCN đạt hiệu quả cao nhất, sẽ lựa chọn một
số KCN và một số khu vực ưu tiên để đầu tư đồng bộ ngoài hàng rào KCN
tương đương với trong hàng rào KCN nhằm nhanh chóng phát huy hiệu quả
đầu tư.
3.1.3. Định hướng phát triển các KCN ở Vĩnh Phúc
Để đạt được mục tiêu phát triển các khu công nghiệp hướng tới thực
hiện được mục tiêu phát triển Vĩnh Phúc thành tỉnh công nghiệp vào những
năm 2020, trên cơ sở phân tích những điều kiện hiện tại về đất đai và các tài
nguyên khác cũng như các điều kiện hiện tại và dự kiến phát triển tương lai hạ
tầng và phát triển đô thị, dự kiến bố trí không gian hệ thống khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc như sau:
- Trục công nghiệp dọc theo hành lang các tuyến Quốc lộ số 2: Đây là
trục công nghiệp dự kiến được phát triển sớm trong giai đoạn đến trước và
sau năm 2010. Tuy nhiên, đây là tuyến trục đi qua các đô thị trung tâm của
tỉnh như Thị Xã Phúc Yên, Thành phố Vĩnh Yên, nên hạn chế về quy mô đất
đai, dễ gây quá tải về hạ tầng kỹ thuật, song thuận lợi về nguồn nhân lực và
các dịch vụ hạ tầng xã hội khác. Dự kiến bố trí phát triển các khu công nghiệp
với quy mô vừa phải, thu hút các ngành có hàm lượng công nghệ cao, thân
thiện với môi trường như cơ khi chế tạo, công nghiệp ô tô, xe máy.
- Trục công nghiệp Bắc – Nam dọc theo hành lang đường 302b:
Đây là tuyến hành lang thuận lợi về điều kiện đất đai cho phát triển các
khu công nghiệp. Khu vực này có hạ tầng phát triển và đã và đang được đầu tư
theo quy hoạch, đảm bảo sự kết nối thuận lợi với các trung tâm kinh tế lớn (gần
81
Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài, gần các đô thị trung tâm tỉnh…).
Trục công nghiệp này hội đủ điều kiện để phát triển sớm trong giai
đoạn đến năm 2010 và các năm tiếp theo tới 2015.
Do vị trí gần với các đô thị, các trung tâm du lịch hiện tại và tương lai,
các khu công nghiệp ở đây đặc biệt được chú ý thu hút những ngành công
nghiệp kỹ nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng ít nguyên liệu đầu vào,
suất đầu tư lớn như công nghiệp điện tử, cơ điện tử...
- Trục công nghiệp theo hướng Bắc – Nam dọc theo Quốc lộ 2C:
Đây là tuyến hành lang Bắc – Nam phía Tây thành phố Vĩnh Yên kết
nối Vĩnh Phúc với Tuyên Quang, Sơn Tây, giao cắt với trục quốc lộ số 2 và
tuyến đường xuyên Á. Ngoài một số khu công nghiệp dự kiến phát triển gắn
với quốc lộ số 2, dự kiến trong triển vọng xa khi tuyến đường xuyên Á và
đường quốc lộ 2C đi Tuyên Quang được đầu tư sẽ hình thành một số khu
công nghiệp nhằm tạo hạt nhân phát triển các khu vực còn chậm phát triển
trên địa bàn tỉnh và khai thác các nguồn lực của các tỉnh lân cận như Tuyên
Quang, Hà Nội (Sơn Tây), đảm bảo sự phát triển cân đối của lãnh thổ tỉnh.
Ngoài việc tiếp tục thu hút các ngành công nghiệp như cơ điện tử, thu
hút các ngành công nghiệp chế biến nông sản chất lượng cao trên cơ sở khai
thác nguồn nguyên liệu trong tỉnh và các tỉnh khác thuộc vùng núi phía Bắc
và Tây - Bắc và vùng phía Tây - Nam tỉnh.
- Trục công nghiệp gắn với đường cao tốc xuyên Á:
Đây là trục công nghiệp có nhiều điều kiện phát triển trong tương lai
xa, gắn với chương trình hợp tác hành lang kinh tế quốc tế Côn Minh – Lào
Cai -Hà Nội – Hải Phòng (tất nhiên quá tình hợp tác phát triển trong tuyến
hành lang này sẽ tạo điều kiện chung cho cả các khu vực khác). Việc bố trí
phát triển công nghiệp ở đây nhiều thuận lợi, có tính khả thi cao trong triển
82
vọng dài hạn.
3.2. Các giải pháp phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
3.2.1 Giải pháp về công tác quy hoạch phát triển KCN
Quy hoạch là vấn đề quan trọng nhưng cũng là vấn đề phức tạp, do đó,
để hoàn thiện công tác quy hoạch, cần thực hiện tốt một số điểm sau:
- Quy hoạch phát triển các KCN phải được xây dựng trên cơ sở quy
hoạch phát triển KT-XH của từng vùng, từng địa bàn trong tỉnh. Trên cơ sở
quy hoạch phát triển KT-XH của tỉnh, cần có quy hoạch KCN hợp lý để đảm
bảo sự phát triển hài hòa, sử dụng quỹ đất hợp lý, gắn với quy hoạch ngành
nghề phù hợp với tiềm năng và năng lực thu hút đầu tư của tỉnh, hạn chế ảnh
hưởng đến khu dân cư và các công trình xã hội khác.
- Quy hoạch KCN phải có sự gắn kết chặt chẽ với các KCN đã được
thành lập, tạo nên quần thể KCN có mối liên hệ tương tác, hỗ trợ cùng phát
triển. Các KCN mới được thành lập nằm trong quy hoạch tổng thể các KCN
trên địa bàn tỉnh. Có mối liên hệ chặt chẽ với các KCN đã được thành lập
nhằm nâng cao khả năng liên kết giữa các DN trong các KCN, và với bên
ngoài KCN. Với khả năng liên kết mạnh mẽ các KCN sẽ tạo nên một chỉnh
thể KCN thống nhất, hỗ trợ nhau cùng phát triển, thúc đẩy sự phát triển KT-
XH của địa phương.
- Quy hoạch phát triển các KCN phải gắn liền với quy hoạch phát triển
khu dân cư, khu đô thị, bảo đảm sự phát triển tương xứng giữa cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và hạ tầng xã hội, giữa quy hoạch trong KCN và ngoài hàng rào
KCN. Xây dựng KCN, khu dân cư, khu đô thị theo quy hoạch định hướng
phát triển không gian, mô hình tổ chức chung với cơ cấu doanh nghiệp sản
xuất cộng với hệ thống dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất với khu dân cư,
nhà ở và dịch vụ thương mại, khu vui chơi giải trí, theo đó các công trình kết
cấu hạ tầng được thiết kế, xxaay dựng đáp ứng mô hình tổ chức đó.
83
- Quy hoach KCN phải đi trước một bước. Đây là quan điểm rất quan
trọng, thể hiện tầm nhận thức của tỉnh về vai trò của công tác quy hoạch. Trên
thực tế, để đảm bảo chất lượng quy hoạch tỉnh đã xây dựng quy trình thẩm
định, xem xét kỹ lưỡng các vấn đề liên quan. Do đó, công tác quy hoạch của
tỉnh được đánh giá là có chất lượng tốt, các KCN mới chủ yếu được "đưa lên
đồi" nơi mà có nhiều đất xấu, khó canh tác, hiệu quả canh tác nông nghiệp
thấp. Trong quy hoạch phát triển các KCN thì quy hoạch xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội là vô cùng quan trọng. Kết cầu hạ tầng phải
tạo điều kiện, tiền đề cho môi trường KT-XH, thu hút và tiếp thu được nguồn
vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh. Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội phải đồng bộ,
đáp ứng nhu cầu lâu dài, trong đó vấn đề cần quan tâm đầu tiên là nhà ở cho
người lao động trong các KCN. Cho đến nay, tỉnh đã được Chính phủ phê
duyệt 20 KCN ưu tiên thành lập đến năm 2015 định hướng đến năm 2020, là
căn cứ quan trọng để tỉnh có hướng dành quỹ đất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác.
- Quy hoạch ngành nghề trong KCN phải phù hợp với điều kiện thực tế
của tỉnh. Bên cạnh việc thu hút những ngành có gí trị gia tăng cao, sử dụng công
nghệ cao, sử dụng ít lao động cần bố trí những ngành nghề gắn với việc kích
thích sự phát triển của các làng nghề truyền thống của tỉnh, tạo điều kiện cho hộ
gia đình có thể làm gia công cho các KCN, nâng cao mối liên kết kinh tế, chuyển
dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
- Quy hoạch diện tích đất cho KCN cần hợp lý, phù hợp với quỹ đất
của địa phương và khả năng thu hút đầu tư. Vĩnh Phúc là tỉnh có diện tích tự
nhiên nhỏ, do vậy diện tích đất quy hoạch cho KCN cần được tính toán kỹ
lưỡng, phù hợp với quỹ đất và quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương,
tránh gây ảnh hưởng đến đến quá trình phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và xã hội của địa phương. Đồng thời phải phù hợp với năng lực của chủ
84
đầu tư về tài chính và khả năng thu hút đầu tư, tránh để xẩy ra tình trạng quy
hoạch treo, gây lãng phí và phải đảm bảo nhu cầu cho phát triển KCN trong
tương lai.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư
Thời gian qua công tác xúc tiến đầu tư đã được tỉnh rất quan tâm, tạo
được hình ảnh của Vĩnh Phúc một cách đầy đủ nhất cho các nhà đầu tư, thu
hút được nhiều dự án đầu tư. Nhằm đạt được mục tiêu, đến năm 2015 Vĩnh
Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lần thứ XV đã đề ra, tỉnh đã quan tâm đẩy mạnh công tác xúc tiến
đầu tư, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh, triển vọng của tỉnh đến các nhà đầu tư
nhằm thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án đầu tư vào
lĩnh vực công nghệ cao, các dự án đầu tư đến từ Mỹ và EU.
Trong năm 2012, tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn do các đồng chí lãnh đạo
tỉnh dẫn đầu đi xúc tiến đầu tư tại các nước: Bí thư Tỉnh ủy đi xúc tiến đầu tư
tại Hoa Kỳ; Chủ tịch UBND tỉnh đi xúc tiến tại Nhật Bản và Hàn Quốc...
nhằm giới thiệu tiềm năng, thế mạnh và triển vọng phát triển của tỉnh đến với
các nhà đầu tư tiếp tục quan tâm đầu tư vào Vĩnh Phúc, đặc biệt mong muốn
thu hút được các nhà đầu tư Hoa Kỳ đến tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Vĩnh Phúc.
Đồng thời, tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về môi
trường đầu tư cũng như những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
đến với các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua nhiều hình thức như hội
thảo, báo chí, qua hoạt động của các doanh nghiệp đang đầu tư tại Vĩnh Phúc.
Đặc biệt, mới đây tỉnh đã thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh là cơ
quan chuyên trách tham mưu giúp Chủ tịch UBND tỉnh và Ban Chỉ đạo Xúc
tiến và Hỗ trợ tỉnh trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến, hỗ trợ,
thu hút đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thu hút đầu tư, nhất là thu
85
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc vẫn còn chưa đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đầu tư từ
các nước có thế mạnh về công nghệ như Mỹ, một số quốc gia EU… còn hạn
chế; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước
cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thiếu; đầu tư vào lĩnh vực
công nghệ cao ngày càng tăng nhưng vẫn còn chậm triển khai …
Thời gian tới, để thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư, cần phải thực
hiện đồng bộ các nội dung sau:
- Chính quyền tỉnh phải thực sự vào cuộc, coi công tác xúc tiến đầu tư,
tiếp thị và hỗ trợ đầu tư là công tác đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình đầu tư vào tỉnh. Cần có định hướng cụ thể hơn việc quảng bá
hình ảnh và môi trường đầu tư của tỉnh đến các nhà đầu tư tại quốc gia có
tiềm lực về công nghệ, kinh nghiệm. Qua đó, thu hút các nhà đầu tư tiềm năng
trong lĩnh vực công nghệ, công nghiệp phụ trợ và các lĩnh vực khuyến khích
đầu tư. Các doanh nghiệp thuộc các nước và vùng lãnh thổ tiềm năng như
Mỹ, Nhật Bản, EU, các nước NICs, kinh phí xúc tiến đầu tư có thể được huy
động từ ngân sách địa phương, đóng góp của các doanh nghiệp chủ yếu là các
công ty phát triển hạ tầng. Thiết lập quan hệ hợp tác với một số tỉnh, thành
phố trong khu vực và trên thế giới. Thực tế cho thấy tiếng nói của các nhà đầu
tư đang hoạt động có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà đầu tư mới. Có biện pháp
để đưa những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư: danh mục những dự án
khuyến khích đầu tư, những chính sách ưu đãi đầu tư, những lợi thế so sánh
của tỉnh nhà.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư
tìm hiểu cơ hội đầu tư thông qua việc giới thiệu định hướng phát triển KT-
XH, quy hoạch các KCN. Ngoài việc cải thiện phần mềm để tăng sức cạnh
tranh, sức hấp dẫn, Vĩnh Phúc còn chủ động thực hiện các chương trình xúc
86
tiến đầu tư. Tỉnh Vĩnh Phúc đã biên soạn tài liệu giới thiệu môi trường đầu tư
của tỉnh; in sách “Vĩnh Phúc - Điểm đến của các Nhà đầu tư” bằng tiếng Nhật
Bản; dịch và lồng tiếng đĩa phim 3D giới thiệu quy hoạch TP. Vĩnh Phúc do
Tập đoàn Nikken Sekkei Civil Engineering LTD (Nhật Bản) lập và quy hoạch
thành 4 thứ tiếng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và tiếng Anh; chuẩn bị
các tài liệu giới thiệu về tiềm năng du lịch, các khu giải trí, sân golf... Các tài
liệu này đã được giới thiệu tới các doanh nghiệp, nhà đầu tư tại Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan. Mục tiêu của hoạt động xúc tiến đầu tư này là
tập trung thu hút các dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Đã có
một số nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc đến tìm hiểu đầu tư vào lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ, hứa hẹn sẽ xuất hiện một làn sóng đầu tư mới vào Vĩnh Phúc
trong thời gian tới, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào
KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất, đảm bảo cơ chế
"một cửa", giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư,
hướng dẫn làm thủ tục nhanh gọn, giải quyết kịp thời hạn cấp phép trong thời
gian ngắn nhất.
- Đối với các công ty kinh doanh trong KCN cũng cần tăng cường tiếp
thị cho KCN thông qua các công ty có uy tín trong và ngoài nước để tìm kiếm
các nhà đầu tư, cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại
của khu vực và thế giới. Giới thiệu các công ty đã đầu tư hiệu quả cho các nhà
đầu tư đang có dự định đầu tư vào KCN.
- Ban quản lý các KCN cần phối hợp với các cơ quan chức năng như
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND
tỉnh, các công ty kinh doanh hạ tầng KCN... để cùng nhau giới thiệu các
KCN. Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi giao lưu gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với
doanh nghiệp và các nhà đầu tư để giúp đỡ họ, kịp thời tháo gỡ những vướng
mắc và phát triển sản xuất kinh doanh, giúp họ ngày càng tin tưởng vào môi
87
trường đầu tư. Đồng thời có kế hoạch mời gọi các đoàn doanh nghiệp có tiềm
năng đến tham quan các KCN, hướng dẫn và tạo điều kiện cho họ tìm hiểu kỹ
về các KCN của Vĩnh Phúc, từ đó giúp họ hình thành phương án đầu tư vào
các KCN.
- Ban hành các chính sách hướng dẫn đầu tư vào KCN trong đó nêu rõ
các chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ
bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng, giá thuê đất, giá thuê hạ tầng, các
ưu đãi. Xem xét giải pháp tài chính để cung cấp cho các hoạt động xúc tiến
đầu tư, không chỉ dựa vào nỗ lực của các doanh nghiệp phát triển hạ tầng
KCN, mà cần có hoạt động chiến lược tầm vĩ mô để đạt được mục tiêu. Trước
mắt phải đầu tư kinh phí để làm công tác tuyên truyền và quảng bá hình ảnh
của địa phương đối với các nhà đầu tư, xây dựng những website với đầy đủ
thông tin hơn về tỉnh và về các KCN cũng như những ưu đãi và cam kết đầu
tư của địa phương và tình hình đầu tư thực tế của các KCN.
- Đổi mới hơn nữa về nội dung và hình thức vận động xúc tiến đầu tư
theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng KCN, từng
loại hình doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Công tác xúc tiến đầu tư cần xác
định đúng trọng tâm và phải bám sát nhu cầu thực tế của tỉnh. Tiếp cận thông
tin từ các Bộ, ngành trung ương, các tổ chức: Jica, Jetro, Kotra., Erocharm để
tổ chức các hoạt động hội thảo xúc tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh của tỉnh;
Lồng ghép chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh với chương trình xúc tiến
đầu tư quốc gia. Chú trọng hình thức xúc tiến đầu tư trực tiếp liên hệ, tiếp xúc
với các đối tác, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới để giới thiệu điều
kiện, môi trường đầu tư của tỉnh. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức đào
tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư tại Ban
quản lý các KCN và Trung tâm xúc tiến đầu tư tỉnh.
- Cần xác định lĩnh vực mũi nhọn để thực hiện xúc tiến đầu tư. Là tỉnh
88
có quỹ đất nhỏ, quỹ đất dành cho KCN không còn nhiều. Do đó, Vĩnh Phúc
cần xác định lĩnh vực mũi nhọn, có giá trị gia tăng cao. Thực tế cho thấy để
đạt hiệu quả hoạt động của các KCN cần thực hiện tốt việc xúc tiến các dự án
sản xuất trong các lĩnh vực điện, điện tử, linh kiện điện tử, xe máy, ôtô.
3.2.3. Hoàn thiện một số cơ chế chính sách về thu hút đầu tư
3.2.3.1. Đổi mới chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Quyết định số 2475/2002/QĐ-UB
về việc quy định ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh cho các doanh nghiệp có nội
dung cho hưởng ưu đãi về đất vượt khung so với quy định của Nhà nước. Số
tiền vượt khung trái quy định của một số dự án được kiểm tra là hơn 28,5 tỷ
đồng và 210.296 USD. Đây là tình trạng "xé rào" phổ biến ở nhiều tỉnh, thành
phố trên cả nước nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, đến nay Vĩnh Phúc đã thay
đổi cách thức thu hút đầu tư, ban hành chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp và
lâu dài đem lại lợi ích cho các bên.
Có chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của pháp luật theo
hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Giảm mức thuế thu nhập cá
nhân đối với người lao động Việt Nam và nước ngoài đang làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. có chính sách thuế khuyến
khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, tiến tới xây dựng được ngành công nghiệp
sản xuất nguyên chiếc. Cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư theo hướng
phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài. Các chính sách thuế phải khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu,
áp dụng công nghệ hiện đại. Giảm thuế suất nhập khẩu đối với các bán thành
phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp giáp nhằm khuyến khích nội địa
hóa. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao động, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN trực tiếp tuyển chọn, thuê và sử dụng
89
lao động. Có chính sách, cơ chế phù hợp để các nhà đầu tư có điều kiện vay
vốn thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc tiếp
cận vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài, khai thông các giao dịch
bảo đảm (bảo lãnh, thế chấp...). Để tạo sức hút các thành phần kinh tế đầu tư
vào KCN, cần có chính sách tạo vốn thông qua tín dụng ngân hàng tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi, dài hạn.
Tỉnh cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KCN khi vay vốn ở các ngân
hàng thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh, có chính sách hỗ trợ lãi suất cho
doanh nghiệp KCN trong thời gian đầu mới thành lập. Ưu đãi đầu tư không
chỉ với doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN mà còn phải có chính sách ưu đãi
đầu tư với doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN tùy vào đặc
điểm ngành kinh doanh có được ưu tiên hay không mà có chính sách hỗ trợ
phù hợp.
Để có được chính sách ưu đãi đầu tư đúng đắn và lâu dài, Vĩnh Phúc
cần thực hiện một số định hướng sau:
- Quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải có tính ổn định lâu
dài, ít nhất có hiệu lực từ 5 năm trở lên.
- Thủ tục, hồ sơ để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải đơn giản, rõ
ràng, công khai, quy định rõ cơ quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ, kèm theo trách
nhiệm của cơ quan đó về việc đảm bảo thời gian giải quyết cho các doanh
nghiệp.
- Xóa bỏ các chính sách ưu đãi khác nhau đối với các KCN có điều
kiện tương ứng như nhau trong cùng một khu vực nhưng nằm ở hai địa
phương khác nhau.
- Có chính sách ưu đãi riêng đối với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư
các KCN chuyên ngành, khu công nghệ cao, lập danh mục các dự án ưu tiên
kêu gọi vốn đầu tư, trong đó chú trọng đến các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật,
90
hạ tầng xã hội và các dự án có ý nghĩa lớn đối với địa phương.
- Có kế hoạch vốn ngân sách hàng năm để chi trả cho các đối tượng
được hưởng ưu đãi, hỗ trợ. Ngoài ra cần xem xét thành lập một số quỹ hỗ trợ
các gia đình bị thu hồi đất: Quỹ đào tạo lao động, quỹ hỗ trợ việc làm... Các
quỹ hộ trợ các doanh nghiệp: Quỹ hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quỹ khen
thưởng trong sản xuất kinh doanh.
3.2.3.2. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, để thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút
vốn FDI, ngoài các biện pháp tích cực cải thiện hạ tầng kỹ thuật, xã hội, đào
tạo nhân lực, thì cải cách các thủ tục hành chính luôn được đặt lên hàng đầu.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo Đề án “một cửa liên thông”. Tăng
cường đối thoại với các nhà đầu tư, giải quyết dứt điểm và kịp thời các khó
khăn và vướng mắc của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư
hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi. Trước đây, theo quy định, nhà đầu
tư làm thủ tục đăng ký kinh doanh trong 15 ngày, nhưng để tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư, Vĩnh Phúc đã rút ngắn xuống còn 5 ngày, thậm
chí có dự án còn chưa tới 3 ngày.
Ban quản lý các KCN tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện
các thủ tục hành chính, như hướng dẫn thực hiện lập hồ sơ dự án, giảm thời
gian thực hiện các thủ tục về cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư, giúp
các doanh nghiệp thực hiện khắc dấu, đăng ký mã số thuế một cách nhanh
nhất, để các doanh nghiệp nhanh chóng triển khai dự án. Tiếp tục triển khai
giai đoạn II Đề án 30 của Chính phủ, Ban đã rà soát 54 thủ tục hành chính
đang triển khai tại Ban. Trong quá trình rà soát đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung
18 thủ tục chưa phù hợp, kiến nghị bãi bỏ 09 thủ tục không cần thiết; đạt 50%
tổng số TTHC, vượt chỉ tiêu đề ra. Các kiến nghị đơn giản hoá tập trung vào
các nội dung: rút ngắn thời gian giải quyết TTHC, đơn giản thành phần Hồ
91
sơ, làm rõ trình tự, cách thức thực hiện, bãi bỏ phí, lệ phí...[8]
Vì vậy, một số doanh nghiệp mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đã
nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục hành chính để triển khai xây dựng cơ bản.
Một số dự án của các công ty Hirota, K.source, Giai Thăng đã được đẩy
nhanh tiến độ, hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Để thực hiện cơ chế "một cửa tại chỗ" Vĩnh Phúc cần “cải cách” bộ
phận một cửa theo hướng lo “trọn gói” thủ tục cho doanh nghiệp. Hiện nay,
các khâu giải quyết các thủ tục hành chính còn rườm rà, phân tán, chồng chéo
và kém hiệu quả, nguyên nhân cơ bản vẫn là do có nhiều đầu mối. Để thực
hiện tốt việc thu hút đầu tư phát triển các KCN, tỉnh cần cải cách quản lý nhà
nước trong cấp phép đầu tư, tăng cường hơn nữa tính liên thông, tại chỗ.
Cần thành lập Ban thu hút đầu tư để thống nhất một đầu mối, bởi hiện
nay tỉnh có 4-5 cơ quan cùng thực hiện nhiệm vụ này. Đây là nơi chịu trách
nhiệm giải quyết các trình tự, thủ tục cấp phép cũng như cung cấp thông tin
liên quan đến KCN. Khi các nhà đầu tư xin được đầu tư thì thủ tục phải nhanh
gọn, từ khâu thẩm định đến khâu cấp phép dự án, cho thuê đất, đền bù giải
phóng mặt bằng, thực thi các chính sách ưu đãi. Trong quá trình đầu tư, có
những vướng mắc phát sinh thì Ban cùng với các nhà đầu tư bàn bạc và tìm
biện pháp nhanh chóng tháo gỡ.
Tỉnh cần tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan đến các
hoạt động của các KCN theo hướng đơn giản hóa các hình thức và thủ tục cấp
phép đầu tư, tăng tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Kiên
quyết bãi bỏ những quy định không cần thiết hoặc làm cản trở đến hoạt động
của KCN. Tỉnh cần quy định rõ ràng công khai hơn các thủ tục hành chính
trên cơ sở đã đơn giản hóa và giảm bớt các thủ tục không cần thiết. Kiên
quyết xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực,
92
vô trách nhiệm trong giải quyết thủ tục hành chính.
3.2.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại
Về cơ bản, hạ tầng của các KCN đều được đảm bảo với: trạm điện công
suất lớn, đáp ứng nhu cầu sản xuất, có hệ thống đường giao thông thuận tiện, nhà
máy nước cấp và thoát nước thuận lợi, hệ thống thoát nước và xử lý nước thải;
các dịch vụ tài chính, ngân hàng, hải quan thuận tiện. Trên xu hướng đáp ứng
yêu cầu phát triển ngày càng cao, tỉnh Vĩnh Phúc cũng tập trung đầu tư xây dựng
hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống KCN ngày càng đồng bộ, hiện đại, theo tiêu chuẩn
quốc tế, đảm bảo gắn kết đồng bộ cơ sở hạ tầng bên trong KCN với hạ tầng xã
hội bên ngoài tạo thành khu công nghiệp – đô thị hiện đại.
Nhằm góp phần thu hút, mời gọi đầu tư, nhiều tuyến đường quan trọng
đã và đang được khởi công phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là
công nghiệp và đô thị. Bên cạnh việc chi trên 1.000 tỷ đồng cho đầu tư phát
triển hạ tầng, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực mời gọi các DN có năng lực đầu tư
vào lĩnh vực này theo hình thức BOT và BT. Đến nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của các DN đến đầu tư. Con đường xương
sống của tỉnh là quốc lộ 2A đoạn Vĩnh Yên - Nội Bài đã hoàn thành và đưa
vào sử dụng không chỉ giải quyết sự ùn tắc của lượng xe cộ lưu thông mà còn
mở rộng hơn cánh cửa thu hút đầu tư đối với Vĩnh Phúc, bởi trước đây không
ít nhà đầu tư ngại đến Vĩnh Phúc vì đường sá bất tiện. Đường từ quốc lộ 2A
nối khu công nghiệp Bình Xuyên với khu công nghiệp Bá Thiện đã hoàn
thành; một loạt tuyến đường khác như đường Nguyễn Tất Thành nối 4 khu
công nghiệp, quốc lộ 2B, 2C, Đại Lải - Đạo Tú cũng đang triển khai thi công
phục vụ chủ trương “Đưa công nghiệp lên đồi”. Về nguồn cấp nước sạch cho
các KCN, tỉnh có kế hoạch triển khai dự án nhà máy cung ứng nước từ nguồn
nước mặt sông Lô với quy mô lớn, hiện đang trong quá trình mời gọi đầu tư.
Trong tình trạng khó khăn chung về điện, bên cạnh việc xây mới, cải tạo
93
mạng lưới, tỉnh đã làm việc với Tập đoàn Điện lực để bố trí cung ứng đủ điện
cho sản xuất của các DN. Hệ thống liên lạc viễn thông cũng đáp ứng được
nhu cầu đến tận chân hàng rào các khu công nghiệp…
Đường trục trung tâm KĐTM Mê Linh là dự án thành phần của Dự án
cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, sử dụng nguồn vốn ODA của Cơ
quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Hiệp định vay vốn ODA ưu đãi tài
khoá 2006 (VNXIV-5) được ký vào ngày 30/3/2007. Theo Hiệp định vay vốn,
Dự án cải thiện môi trường đô thị tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm 6 dự án hợp phần
là đường trục trung tâm KĐTM Mê Linh; mở rộng hệ thống cấp nước TP
Vĩnh Yên; thoát nước và xử lý nước thải TP Vĩnh Yên; cải tạo lưới điện trung
áp TP Vĩnh Yên; cải tạo lưới điện trung áp TX Phúc Yên và hợp phần xúc
tiến, hỗ trợ nhà đầu tư FDI vào tỉnh. Tổng số khoản vay dành cho dự án là
11,718 tỷ Yên, tương đương 110 triệu USD.
Bên cạnh việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật thì Vĩnh Phúc cũng hết sức
quan tâm đến việc xây dựng hạ tầng xã hội. Tại các KCN lớn, tỉnh đã quy
hoạch đất để xây dựng nhà ở cho công nhân, điển hình là KCN Khai Quang
(12,2 ha), KCN Bá Thiện (35 ha)…, với tổng diện tích quy hoạch đã được phê
duyệt khoảng 48 ha. Một số dự án đang triển khai như: Dự án xây dựng nhà ở
cho cán bộ - công nhân viên tại KCN Bá Thiện do Công ty TNHH Quản lý và
Phát triển hạ tầng COMPAL làm chủ đầu tư (diện tích đất 35 ha, trong đó
diện tích xây dựng nhà ở cho công nhân là 15 ha, tổng diện tích sàn 305.000
m2); Dự án khu nhà ở công nhân tại KCN Khai Quang do Công ty cổ phần
Đầu tư và Xây dựng Bảo Quân làm chủ đầu tư (diện tích đất là 4,3 ha, tổng
diện tích sàn 40.000 m2, tổng vốn đầu tư hơn 300 tỷ đồng, đáp ứng chỗ ở cho
4.000 công nhân); Dự án khu nhà ở công nhân Công ty Honda Việt Nam
(tổng diện tích là 8.600 m2).
Các dự án xây dựng nhà ở cho công nhân KCN và người có thu nhập
94
thấp đều được hưởng các cơ chế, ưu đãi theo quy định tại Quyết định số
66/QĐ-TTg và Quyết định số 67/QĐ-TTg, ngày 24/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ, như miễn tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, hỗ trợ chi phí đền bù giải
phóng mặt bằng... Riêng dự án xây dựng nhà ở công nhân và nhà ở cho người
có thu nhập thấp tại phường Khai Quang (thành phố Vĩnh Yên) do Công ty cổ
phần Đầu tư và Xây dựng Bảo Quân làm chủ đầu tư, UBND tỉnh Vĩnh Phúc
đã có cơ chế hỗ trợ đầu tư để thực hiện thí điểm cho dự án.
Đối với các KCN đã hình thành, Sở Xây dựng phối hợp cùng các ngành
rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch để bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở cho
công nhân. Đối với các KCN đang trong giai đoạn hình thành, chủ đầu tư kinh
doanh hạ tầng KCN phải xác định nhu cầu đất để xây dựng nhà ở cho công
nhân, đồng thời lập và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch xây
dựng nhà ở cho công nhân.
Trong thời gian tới, để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng KCN, tỉnh cần chú
ý thực hiện tốt các nội dung sau:
- Cần huy động tốt các nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng KCN:
vốn từ các ngân hàng thương mại, vốn từ ngân sách nhà nước, vốn từ nhân
dân và các thành phần kinh tế, huy động vốn qua các hình thức hợp tác đầu tư
hoặc đầu tư theo hình thức BOT, BT, BO.
- Thực hiện quy trình thẩm định chặt chẽ đối với các nhà đầu tư xây
dựng hạ tầng KCN về: năng lực tài chính, về trình độ kỹ thuật để đảm bảo
tiến độ và chất lượng của công trình.
- Khuyến khích các nhà đầu tư có dự án đầu tư vào các KCN bỏ chi phí `
để tự san nền trên diện tích đất mà nhà đầu tư thuê để xây dựng nhà máy.
- Tỉnh cần hỗ trợ vốn từ ngân sách cho các công trình kỹ thuật đầu mối,
xử lý nước thải, rác thải trong KCN, vì đây là những hạng mục công trình có vốn
95
đầu tư lớn nhưng lại có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội và bảo vệ môi trường.
- Đầu tư xây dựng các công trình giao thông, điện, nước ngoài hàng rào
KCN đảm bảo cho KCN liên kết thuận lợi với bên ngoài tạo lập sự đồng bộ.
Bên cạnh đó, tập trung xây dựng các khu đô thị, khu dân cư và các công trình
hạ tầng xã hội.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng kết cầu
hạ tầng KCN. Đảm bảo xây dựng đúng quy hoạch, đúng tiến độ và chất lượng
các công trình, kịp thời phát hiện các sai phạm, những vướng mắc để có biện
pháp xử lý và hỗ trợ.
- Chỉ đạo sát sao việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, các công
trình phúc lợi công cộng và khu dịch vụ phục vụ người lao động trong KCN.
- Kiên quyết yêu cầu thực hiện việc đầu tư xây dựng và hoàn thiện các
hạng mục hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải trước khi
KCN đi vào hoạt động.
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và
cho thuê đất trong xây dựng khu công nghiệp
- Hoàn thiện cơ chế chính sách đền bù giải phóng mặt bằng:
Trong thời gian dài, tại Vĩnh Phúc cũng như ở một số tỉnh, thành phố
trên cả nước mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác đền bù, giải phóng
mặt bằng các KCN và các công trình trọng điểm khác, nhưng đến nay vấn đề
này vẫn là khâu phức tạp và nhạy cảm nhất trong việc hình thành, phát triển
nhanh các KCN.
Để khắc phục tình trạng người dân bị thiệt hại do phải di dời, cần phải có
sự thay đổi về mặt tư duy cũng như cách làm một cách đồng bộ mới có thể khắc
phục được những khiếm khuyết của công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
Trước tiên, cần phải tôn trọng lợi ích của dân, phải đảm bảo hài hòa các
96
loại lợi ích, mặt khác mọi hoạt động đầu tư phải mang lại lợi ích cho xã hội,
không gây thiệt hại cho bất cứ một chủ thể nào, dù đó là người dân bình
thường. Để quán triệt quan điểm này cần có các giải pháp:
- Quy hoạch phát triển KCN phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương theo hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển công
nghiệp với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tầng, kỹ thuật và xã
hội. Trên cơ sở đó thực hiện tốt công tác quy hoạch chi tiết tổng mặt bằng
theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ để phê duyệt.
- Nhanh chóng hoàn thiện các quy hoạch về sử dụng đất ổn định, lâu
dài. Quy hoạch phải mang tính dài hạn và phải công khai rộng rãi cho nhân
dân nắm rõ các khu vực đã quy hoạch. Tuyên truyền vận động người dân hiểu
biết về luật đất đai cũng như các chính sách về đất đai của tỉnh, đặc biệt là
chính sách đền bù và hỗ trợ cho người dân bị mất đất, mất nhà, phải di chuyển
đến nơi tái định cư mới. Tránh tình trạng quy hoạch chắp vá dẫn đến thay đổi
thường xuyên, làm xáo trộn cuộc sống của dân. Quan tâm đến việc xây dựng
hạ tầng kỹ thuật của khu vực tái định cư: điện, đường, trường, nước… Và
việc làm mới bảo đảm đời sống của họ và gia đình họ được cải thiện hơn
trước. Thực tế có nhiều trường hợp nông dân bị thu hồi đất và chuyển sang
thành hộ phi nông nghiệp, mặc dù được đền bù một khoản tiền khá lớn nhưng
do chưa biết cách sử dụng số tiền lớn, do vậy họ nhanh chóng rơi vào tình
trạng bần cùng hóa. Cần ưu tiên tuyển dụng họ vào làm việc trong KCN hoặc
đào tạo nghề để họ có cuộc sống mới tốt hơn. Các nhà đầu tư vào KCN có
trách nhiệm trong việc đào tạo nghề và thu nhập lao động đối với các đối
tượng có đất bị thu hồi có nguyện vọng làm việc tại doanh nghiệp.
- Việc đền bù cần công khai, minh bạch để dân có thể kiểm tra, giám
sát, tránh tình trạng tùy tiện trong việc áp đặt giá đền bù, hoặc đền bù quá
97
chậm dẫn đến tình trạng trượt giá làm ảnh hưởng tới lợi ích của người dân.
Mặt khác nhà nước cần hỗ trợ cho các công ty kinh doanh hạ tầng về vốn để
có thể thực hiện việc đền bù giải tỏa một cách nhanh gọn.
- Xây dựng mối đoàn kết giữa các chủ đầu tư với chính quyền nhân dân
địa phương. Thường xuyên trao đổi giải quyết triệt để những phát sinh hoặc
mâu thuẫn nảy sinh trong nhân dân địa phương, phải thực sự quán triệt
phương châm “lấy dân làm gốc”. Xử lý nghiêm minh những trường hợp cố
tình vi phạm, chống đối gây cản trở tiến trình phát triển các KCN nói riêng và
tiến trình xâ dựng các công trình của nhà nước nói chung.
- Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân cần nghiên cứu các biện pháp phù hợp như
xây dựng nhà ở, với nhiều loại hình như hộ gia đình, khu chung cư, khu đô thị
của các hộ trong vùng di dời, giải tỏa kết hợp với nhà ở cho người lao động
gần KCN theo hướng gắn quy hoạch KCN với quy hoạch đô thị, tránh tình
trạng các gia đình được đền bù tiền tự bơi trong cơ chế thị trường. Đối với hộ
gia đình có điều kiện kinh tế, có thể khuyến khích họ mua cổ phần bằng tiền
đền bù để góp vốn với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc vận động
nhân dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đưa họ trở thành sở hữu KCN.
Đây là một kinh nghiệm đã được một số nước áp dụng khi thu hồi đất của
nông dân và là một giải pháp để ổn định cuộc sống lâu dài của người dân bị
mất đất.
- Hoàn thiện chính sách giá cho thuê đất trong KCN
Đối với KCN chính sách giá cho thuê đất được xem như một công cụ
thu hút các nhà đầu tư. Để có chính sách giá đúng đắn đòi hỏi Tỉnh ủy,
UBND phải linh hoạt đưa ra các quyết định giá thuê đất hợp lý. Có thể chia ra
hai trường hợp, trường hợp thứ nhất thuê đất trả ngay một lần trong suốt thời
gian thuê, trường hợp thứ hai trả tiền thuê đất hàng năm hoặc theo kỳ, nhưng
phải tuân theo giá thị trường. Nhà nước có thể ưu đãi về thuế, phương thức
98
thanh toán…
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các khu công nghiệp
Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của các
KCN dẫn đến giảm hiệu quả phát triển KT-XH là thiếu lực lượng lao động
được đào tạo. Thông thường sau khi được tuyển chọn, người lao động được
tham gia những khóa đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp để làm quen công
việc, quen thao tác trên dây chuyền.
Nhìn chung việc cung cấp lao động cho các khu công nghiệp đang gặp
mâu thuẫn: thiếu lao động kỹ thuật có tay nghề, trong khi số lao động cần bố
trí việc làm ở địa phương dư thừa rất nhiều. Đất đai nông nghiệp được chuyển
đổi sang đất KCN thì tương đối nhanh, nhưng năng lực của lực lượng lao
động đáp ứng yêu cầu phát triển KCN (đây là một bộ phận nguồn lực sản xuất
ngoài đất đai) thì không theo kịp. Dường như các cấp chính quyền chưa có sự
chuẩn bị trước về lao động cho phát triển KCN. Việc tuyển dụng lao động cho
các KCN về cơ bản được hình thành gần như tự phát. Để nâng cao hiệu quả
hoạt động của các KCN, tỉnh cần tổ chức hoạt động đào tạo lao động nhằm
đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các nhà đầu tư. Để giải quyết tốt vấn
đề này phải có một giải pháp phát triển nguồn nhân lực cung cấp cho các
KCN trong thời gian tới.
Nâng cao việc nhận thức và thực hiện tốt việc đào tạo nghề cho người
lao động để đáp ứng đòi hỏi của sản xuất tiên tiến, hiện đại. Đây là yêu cầu
đầu tiên hướng tới phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển nguồn
nhân lực cho KCN nói riêng.
Nhanh chóng xây dựng và phát triển các trường dạy nghề dưới nhiều
hình thức: đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn. Khuyến khích và tạo điều kiện
để các chủ đầu tư trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài tổ chức đào tạo tại các
99
doanh nghiệp, các trung tâm.
Quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo nghề. Tình trạng
phổ biến nhất hiện nay ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng là tình
trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Các cơ sở dạy nghề phần lớn trong tình trạng lạc
hậu, lao động đào tạo ra chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế buộc các
doanh nghiệp phải đào tạo lại, rất tốn kém. Để giải quyết tình trạng này, các
doanh nghiệp buộc phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh. Cần phát triển mô
hình liên kết đào tạo giữa nhà trường, trung tâm dạy nghề, cơ sở dạy nghề với
các cơ sở sản xuất để đào tạo theo đơn đặt hàng, làm cho quá trình đào tạo
gắn bó với các doanh nghiệp.
Có chính sách khuyến khích đào tạo xây dựng các trường dạy nghề,
trung tâm dạy nghề, các cơ sở dạy nghề, khuyến khích các doanh nghiệp tổ
chức các trung tâm dạy nghề. Làm được điều này sẽ có lợi cho cả hai phía,
phía người lao động được học nghề tại chỗ và thường được bảo đảm về việc
làm sau khi học xong, chi phí cho việc đi học cũng được giảm đi đến mức tối
thiểu vì quá trình học cũng là quá trình tạo ra sản phẩm, sẽ được trả lương để
chi trả trong thời gian học nghề. Phía nhà doanh nghiệp có thể chủ động được
nguồn tuyển dụng. Để nâng cao hiệu quả đào tạo, bổ sung chất lượng nguồn
nhân lực, các trường, các trung tâm, các cơ sở dạy nghề cần có sự liên hệ với
các cơ sở sản xuất để có sự phối hợp trong công tác đào tạo và sử dụng lao
động khi họ ra trường. Mặt khác, tăng cường, khuyến khích việc đào tạo nghề
cho người lao động ở nước ngoài. Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ người đi
học như cho vay ưu đãi với thời gian, điều kiện, phương thức trả nợ thích
hợp, hoặc hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức tuyên
truyền khác, tuyên truyền rộng lớn để thay đổi nhận thức về nghề nghiệp tới
100
học sinh và cha mẹ học sinh, từ đó định hướng học nghề cho họ.
Một vấn đề hết sức quan trọng nữa đó là việc nghiên cứu quy hoạch các
doanh nghiệp với nhu cầu lao động theo giới tính để đảm bảo cơ cấu lao động
theo giới tính một cách hợp lý trên phạm vị một vùng lãnh thổ. Giải quyết tốt
vấn đề này sẽ bảo đảm tính ổn định của nguồn lao động cũng như đời sống
tinh thần cho người lao động.
Hiện nay phần lớn số lao động trong các KCN ở Vĩnh Phúc xuất thân
từ nông thôn, trình độ văn hóa hạn chế, không nắm chắc được những quy định
của pháp luật nên chưa tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở doanh
nghiệp. Vì vậy, cần nâng cao kiến thức về pháp luật cần thiết cho người lao
động hiểu được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp và
đối với xã hội là việc cần được chú trọng.
Cần quy hoạch các KCN một cách hợp lý, tránh tình trạng tập trung
quá nhiều KCN trên một địa bàn dẫn đến tình trạng việc tập trung quá nhiều
lao động (cả lao động ngoài tỉnh) trên một địa bàn đó, gây khó khăn cho việc
tuyển dụng và gây áp lực lớn đối với cơ sở hạ tầng xã hội.
Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể, nhất là Công đoàn để bảo
vệ quyền lợi cho người lao động. Cần có kế hoạch vận động thành lập công
đoàn ở tất cả các doanh nghiệp, xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành
người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, giám sát chủ đầu tư
thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Tái sản xuất sức lao động là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực. UBND tỉnh và chính quyền nơi có KCN phải tạo điều kiện
nâng cao đời sống cho người lao động thông qua việc quy hoạch các khu định
cư, nâng cấp hoặc xây dựng mới hạ tầng xã hội ngoài hàng rào (bệnh viện,
trường học, khu thương mại, khu giải trí, đường xá…). Khi xây dựng các
101
KCN, đặc biệt đối với vùng trọng điểm nơi có nhiều KCN, cần gắn liền với
việc quy hoạch xây dựng khu dân cư, khu nhà ở cho công nhân. Từng bước
thực hiện để đáp ứng nhu cầu thực tế. Quy hoạch KCN, cần gắn với xây dựng
các đô thị công nghiệp. UBND tỉnh cần chủ động phối hợp với các doanh
nghiệp phát triển hạ tầng KCN, với các chủ đầu tư trong các KCN và với
chính người lao động, tạo sức mạnh chung để thực hiện công tác này.
Như vậy, vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển các
KCN, từ đó phục vụ cho sự phát triển KT-XH phải được giải quyết trên cơ sở
hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đào tạo, sự thay đổi nhận thức của người dân,
người lao động cũng như từ phía người sử dụng lao động. Tất cả những giải
pháp trên cần phải được thực hiện một cách đồng bộ, tạo môi trường thuận lợi
cho các nhà đầu tư và là điều kiện hết sức quan trọng để thu hút đầu tư vào các
KCN của tỉnh.
3.2.7. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
khu công nghiệp.
Nếu như công tác quy hoạch phát triển và hệ thống các chính sách có vai
trò định hướng và tạo cơ chế hoạt động trong KCN theo những mục tiêu trong
từng giai đoạn phát triển, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, đảm bảo các lợi ích của người dân, công tác đầu tư hạ tầng, nhà
đầu tư sản xuất kinh doanh, người lao động trong KCN… thì công tác nâng cao
hiệu lực, hiệu quả, năng lực quản lý Nhà nước có vai trò tác động, thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển đó hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả và đảm bảo lợi
ích của Nhà nước. Nội dung công tác quản lý Nhà nước đối với các KCN cần
được thực hiện theo các hướng sau:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển
KCN; rà soát để xóa bỏ những ưu đãi không phù hợp với các điều kiện, các
102
quy định của tỉnh về KCN;
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động KCN, rà soát
lại hệ thống văn bản pháp quy do các cấp chính quyền địa phương ban hành
liên quan đến hoạt động của các KCN, xử lý những bất hợp lý, chồng chéo,
mâu thuẫn nhau, bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tiễn, rút ngắn
lộ trình tạo mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong tỉnh, trong nước, và đầu
tư nước ngoài. Khi ban hành văn bản pháp quy cần ban hành đồng bộ những
văn bản pháp lý liên quan, cần tính đến khả thi của văn bản ban hành…
- Quy định và hướng dẫn việc hình thành, xây dựng, phát triển và quản
lý hoạt động của KCN. Cần xây dựng một quy trình rõ ràng về sự phối hợp
giữa việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, quy định những
chế tài cụ thể đối với việc vi phạm các cam kết về giải phóng mặt bằng, về
tiến độ và chất lượng xây dựng các công trình ngoài hàng rào.
- Cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục
hành chính Nhà nước liên quan. Thực hiện tốt cơ chế “một cửa, tại chỗ”, các
thủ tục hành chính cần được đơn giản hóa đến mức tối thiểu, đặc biệt là thủ tục
cấp phép đầu tư. Nếu làm được điều đó sẽ góp phần tiết kiệm rất lớn cho các
nhà đầu tư, đồng thời rèn luyện tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ,
tạo sự liên hệ thông suốt của hệ thống quản lý từ tỉnh đến huyện, đến Ban quản
lý các KCN.
- Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
- Kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của KCN và giả quyết các
vấn đề phát sinh.
3.2.8. Giải quyết tốt vấn đề môi trường
Thành lập KCN với mục đích giảm thiểu tác động của các cơ sở công
nghiệp, các nhà máy, góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, do cả nguyên
nhân chủ quan và khách quan mà hiện nay các KCN lại đang bị ô nhiễm môi
103
trường, đặc biệt ảnh hưởng lớn đến cuộc sống dân cư xung quanh KCN, gây
bức xúc cho nhân dân. Tình hình đó đặt ra cho Vĩnh Phúc phải hết sức quan
tâm đến công tác bảo vệ môi trương ở các KCN.
Ban quản lý các KCN chưa được ủy quyền thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về môi trường trong các KCN theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP
ngày 14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh
tế và Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định quản lý và bảo vệ môi trường Khu kinh tế, Khu công
nghệ cao, Khu công nghiệp và cụm công nghiệp, nhưng trong năm 2011, Ban
đã chủ động, tích cực làm việc với chủ đầu tư hạ tầng KCN Khai Quang, Bình
Xuyên và một số doanh nghiệp KCN để nắm bắt tình hình diễn biến về môi
trường và việc thực hiện các quy định về môi trường, nắm bắt những khó
khăn, vướng mắc trong công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp để
kịp thời tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh các biện pháp tháo gỡ cho doanh
nghiệp. Năm 2011, Ban đã đôn đốc chủ đầu tư hạ tầng KCN Bình Xuyên
hoàn thành khu xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành từ tháng 6/2011 và
KCN Khai Quang hoàn thành trạm xử lý nước thải giai đoạn II .
Thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong KCN, chủ đầu tư hạ tầng
KCN Khai Quang đã trồng 31,9 ha cây xanh xung quanh KCN. Các doanh
nghiệp trong KCN đã ký hợp đồng thu gom chất thải rắn với Công ty Môi
trường đô thị Vĩnh Yên, Công ty Môi trường đô thị Phúc Yên, Công ty TNHH
Thương mại Dịch vụ và Môi trường Ngôi sao xanh, Công ty cổ phần Thuận
Trường An…để thu gom, vận chuyển và tập kết chất thải đúng nơi quy định.
Hiện nay 4 khu công nghiệp (Kim Hoa, Khai Quang, Bình Xuyên và Bá
Thiện) đã có trạm xử lý nước thải, có hệ thống thoát nước mưa và nước thải
riêng biệt, đang triển khai hệ thống xử lý nước thải tại 3 KCN Bình Xuyên II,
Bá Thiện II và Phúc Yên; tỉnh đang đầu tư Hợp phần thoát nước và xử lý nước
104
thải thành phố Vĩnh Yên thuộc dự án Cải thiện môi trường đầu tư để dần hoàn
thiện hệ thống hạ tầng đô thị Vĩnh Yên; KCN Khai Quang đã có 35/51 doanh
nghiệp đã tiến hành đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung với tổng công suất là 5.800m3/ngày đêm; KCN Bình Xuyên có
11/34 doanh nghiệp đã tiến hành ký hợp đồng đấu nối nước thải vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung công suất 3.000m3/ngày đêm. [7]
Tuy nhiên, việc triển khai thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt còn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu; chưa xây dựng nhà máy xử lý chất thải
rắn, do vậy, chất thải rắn mới chỉ được thu gom, đưa về bãi rác thải tạm. Nhìn
chung các KCN chưa có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh, bên
cạnh đó các KCN vừa xây dựng kết cấu hạ tầng vừa tiến hành sản xuất nên
không tránh khỏi ô nhiễm môi trường. Để giải quyết tốt vấn đề môi trường
trong các KCN, giảm thiểu ô nhiễm cần thực hiện đồng bộ một số vấn đề sau:
- Tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức của các đối tượng liên
quan đến KCN. Đối với Ban quản lý các KCN phải quy hoach xây dựng hệ
thống xử lý chất thải, thường xuyên đôn đốc kiểm tra và phối hợp với cơ quan
chức năng để giám sát chặt chẽ vấn đề bảo vệ môi trường. Đối với chủ đầu tư
xây dựng hạ tầng KCN phải có trách nhiệm xây dựng và tuân thủ đúng quy
định về hệ thống xử lý chất thải tập trung. Đối với doanh nghiệp KCN phải có
hệ thống xử lý chất thải đảm bảo. Đối với người dân xung quanh cần phải
theo dõi, giám sát và báo cáo với chính quyền, Ban quản lý các KCN về các
hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đối với người lao động phải có ý thức bảo
vệ môi trường.
- Đẩy nhanh quá trình đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ
tầng KCN, quá trình triển khai dự án của các nhà đầu tư vào KCN. Kiên quyết
trong quản lý các dự án có gây ô nhiễm môi trường bắt buộc phải hoàn thiện
105
các công trình xử lý đảm bảo môi trường mới được đưa vào hoạt động.
- Địa phương cần quy hoạch khu xử lý chất thải rắn và yêu cầu các
công ty đầu tư hạ tầng thực hiện các biện pháp xử lý chất thải rắn thường
xuyên và triệt để.
- Có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ
môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh KCN, xử lý chất thải, rác thải,
nước thải được hoạt động trong KCN.
- Khuyến khích các dự án đầu tư và sản xuất không gây ô nhiễm môi
trường trong các KCN.
- Thường xuyên giám sát chặt chẽ việc giải quyết ô nhiễm môi trường
của các doanh nghiệp. Xử phạt nghiêm minh các hành vi gây ô nhiễm môi
trường trong KCN. Kết hợp lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, không vì
lợi ích trước mắt mà coi nhẹ những lợi ích về môi trường dẫn đến phát triển
không bền vững. Tránh tình trạng doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt vì gây ô
nhiễm môi trường chứ không chịu đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải.
Đồng thời khen thưởng các doanh nghiệp đã nghiêm túc trong công tác môi
trường, trở thành các nhân tố điển hình nêu gương. Định kỳ thực hiện việc
quan trắc môi trường để có biện pháp giải quyết kịp thời những phát sinh có
thể xẩy ra.
- Dành nguồn ngân sách nhất định cho công tác bảo vệ môi trường và huy
động được các nguồn vốn khác cho công tác bảo vệ môi trường của KCN.
- Quy hoạch thoát nước thải cho khu công nghiệp phải tính đến nơi thải
nước cụ thể. Cần áp dụng 02 hệ thống xử lý nước thải theo tình hình thực tế
hiện nay: Hệ thống xử lý nước tại chỗ cho nhà máy và Hệ thống xử lý nước
của khu công nghiệp. Xác định công nghệ cụ thể để xử lý nước cho từng loại
106
hệ thống.
- Kiên quyết di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm lớn ra xa các khu
dân cư và đầu tư xây dựng hệ thống thiết bị lọc bụi và hấp thụ khí độc trước
khi thải vào môi trường không khí; áp dụng hệ thống xử lý nước thải trước
khi xả vào hệ thống sông ngòi; thu gom chất thải rắn và xử lý đúng quy phạm
đảm bảo tiêu chuẩn nhà nước Việt Nam về môi trường.
- Đối với khí thải từ các dây truyền sản xuất cần phải thường xuyên
định kỳ quan trắc mức độ ô nhiễm, phân tích thành phần khí thải, nước thải từ
các nguồn thải và các điểm quan trắc, các khu vực dân cư lân cận. Nếu mức
độ ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép cần có kế hoạch đình chỉ hoặc di
dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư.
- Các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát thải các chất gây ảnh hưởng xấu
tới môi trường bắt buộc phải có báo cáo đánh giá định kỳ những tác động tới
môi trường và các biện pháp xử lý khắc phục.
3.3. Kiến nghị và đề xuất
3.3.1. Đối với UBND tỉnh Vĩnh Phúc
- Chỉ đạo các cấp, các ngành tăng tập trung tháo gỡ khó khăn về bồi
thường, GPMB cho các dự án, giúp các nhà đầu tư có mặt bằng triển khai dự
án kịp tiến độ, nhất là các dự án trọng điểm. Đổi mới công tác bồi thường,
GPMB trên địa bàn tỉnh bằng việc thành lập Ban bồi thường, GPMB thuộc
UBND tỉnh để thực hiện nhiệm vụ liên quan đến công tác bồi thường, GPMB
các dự án thuộc diện nhà nước thu hồi đất.
- Phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý các KCN các nhiệm vụ đã được
quy định trong Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ
về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, theo hướng hoàn thiện mô
hình quản lý nhà nước đối với các KCN trên nguyên tắc “một cửa, tại chỗ”
107
thông qua vai trò đầu mối là Ban quản lý các KCN.
- Nghiên cứu thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư, Văn phòng đại diện
xúc tiến đầu tư ở nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về tư vấn
xúc tiến đầu tư để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư trong các
KCN trên địa bàn tỉnh.
3.3.2. Đối với Chính phủ
- Ban hành chính sách ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư trong KCN,
tạo điều kiện thu hút đầu tư, tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại Việt
Nam; có chính sách ưu đãi đối với ngành công nghiệp phụ trợ cho ô tô, xe
máy; ưu tiên, khuyến khích dự án có tỷ lệ nội địa hoá cao; ban hành Nghị
định hướng dẫn thi hành Luật công nghệ cao.
- Hướng dẫn hoàn thiện các quy định về chức năng thanh tra, xử lý vi
phạm hành chính của tổ chức thanh tra các Ban quản lý các KCN phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của Ban quản lý các KCN.
- Ban hành Luật Khu công nghiệp nhằm tập trung, thống nhất các quy
định có liên quan đến KCN đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp
luật khác.
- Xem xét điều chỉnh Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009
của Thủ tướng Chính phủ, đề nghị có quy định để một số địa phương có điều
kiện cân đối ngân sách được đầu tư xây dựng nhà ở công nhân liền kề các khu
công nghiệp để hỗ trợ các nhà đầu tư, đồng thời ban hành kịp thời các Thông
tư hướng dẫn liên quan đến chính sách thuế, tài chính ưu đãi với các nhà đầu
108
tư có dự án đầu tư phát triển nhà ở công nhân.
Kết luận chương 3
Loại hình KCN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển KT-
XH ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới. Cần khai thác và sử dụng hữu hiệu hơn nữa
mô hình KCN để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam nói chung và
Vĩnh Phúc nói riêng trong giai đoạn hiện nay và hướng tới năm 2020.
Từ những kết quả nghiên cứu thực trạng phát triển các KCN, chúng tôi
đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp để đẩy mạnh phát triển KCN ở
Vĩnh Phúc. Trong thời gian tới, các giải pháp cần được chú ý thực hiện là:
tăng cường cải thiện môi trường đầu tư cho phát triển công nghiệp nói chung
và từng KCN nói riêng, hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài
hàng rào KCN, thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong KCN sao cho đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, sửa đổi một số chính sách cho phù hợp....Vấn đề đặt ra là cần phải
109
thực hiện đồng bộ các giải pháp để đem lại hiệu quả như mong muốn.
KẾT LUẬN
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc với
nhiều lợi thế để phát triển KCN. Thực tế cho thấy, KCN đang ngày càng tỏ rõ
những ưu thế của mình trong việc phát triển KT-XH: thu hút đầu tư, đóng góp
giá trị lớn vào ngân sách nhà nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm
và thu nhập cho người lao động, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng, tác động
lan tỏa tích cực đến nhiều ngành kinh tế, hình thành những ngành kinh tế mũi
nhọn để tăng cường khả năng cạnh tranh... Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
khảo sát thực tế có thể khẳng định rằng phát triển các KCN là một hướng đi
đúng đắn để thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế xã hội của Vĩnh Phúc.
Bên cạnh đó, các KCN của Vĩnh Phúc cũng còn không ít tồn tại, hạn chế:
thu hút đầu tư giảm sút, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, tiến độ triển khai
dự án còn chậm, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội bức xúc quanh KCN, tiến độ bồi
thường, GPMB, thu hồi đất, tái định cư còn chậm chạp, công tác quản lý nhà nước
còn chưa thực sự hiệu quả, tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh KCN...
Sau một thời gian nghiên cứu và khảo sát thực tế, bước đầu luận văn đã
đạt được một số kết quả sau đây:
- Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về KCN, đồng thời nêu
được các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KCN.
- Trên cơ sở lý luận đó, cùng với quá trình điều tra khảo sát thực tế,
luận văn đã nêu lên được thực trạng phát triển các KCN Vĩnh Phúc.
- Từ việc phân tích chỉ rõ những hạn chế của KCN Vĩnh Phúc, ở
chương 3 của luận văn, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy
110
những đóng góp tích cực và khắc phục những hạn chế trong phát triển KCN.
Đồng thời có những khuyến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước để phát
triển các KCN.
Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu cũng như khả năng
còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong
nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các Thầy Cô giáo và
111
đồng nghiệp để luận văn có thể hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2004), Phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất
ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, kỷ yếu hội thảo.
2. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2003), Kỹ năng xúc tiến đầu tư, NXBCTQG, Hà
Nội.
3. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2003), Tổng hợp các chính
sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư các tỉnh đã ban hành.
4. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2006), Thực trạng của các
khu cô ng nghiệp, cụm công nghiệp năm 2005 và định hướng cơ bản cho
năm 2006.
5. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo tình hình
thực hiện nhiệm vụ năm 2009 và phương hướng năm 2010
6. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình
thực hiện nhiệm vụ năm 2010 và phương hướng năm 2011
7. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2011), Báo cáo tình hình
thực hiện nhiệm vụ năm 2011 và phương hướng năm 2012
8. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2012), Báo cáo về rà soát,
điều chỉnh quy hoạch khu công nghiệp theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày
02/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ
9. Ban quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc (2011), Báo cáo tổng kết 20
năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
10. Ban quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh (2011), Báo cáo tổng hợp tình
hình phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh.
11. Ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dương (2011), Báo cáo tổng hợp
112
tình hình phát triển KCN tỉnh Hải Dương.
12. Bộ Công nghiệp (2006), Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh
trung du và miền núi Bắc Bộ, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội.
13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng hợp đề án điều chỉnh quy
hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam thời kỳ 2005-
2020, 14. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày
14/3/2008 của Chính phủ về Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh
tế.
15. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010), Niên
giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, NXB Thống kê, Hà Nội.
16. Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc: www.vinhphuc.gov.vn.
17. Trần Thị Dung (2004), Về việc phát triển các khu công nghiệp tại các khu
vực Bắc Bộ, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, (5), tr.14-15.
18. Nguyễn Thành Dũng (2002), Vai trò của khu chế xuất, khu thương mại tự
do, đặc khu kinh tế trước thực trạng toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, Tạp
chí Phát triển kinh tế, tr.6.
19. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu- trao đổi, (3),
tr.26- 27.
20. Lê Tuấn Dũng (2004), Hướng đi cho phát triển KCN tại một số tỉnh miền
núi Bắc Bộ, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, (5), tr 8-9.
21. Nguyễn Hữu Dũng (2006), Phát triển Khu công nghiệp với vấn đề lao
động- việc làm ở Việt Nam”.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXBCTQG, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
113
thứ X, NXBCTQG, Hà Nội.
24. Đậu Thị Đức (2009), Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn
Hà Nội, luận văn thạc sỹ kinh tế, trường Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
25. GS, TS Đặng Đình Đào (2006), Một số vấn đề phát triển KCN trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị- Hội thảo
khoa học quốc gia 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam, Long An.
26. Ngô Văn Điển (6/2000), Các khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam;
Thực trạng và các giải pháp đang áp dụng, Ban quản lý các khu công nghiệp
Việt Nam.
27. Đặng Quang Điều (2004), Xung quanh vấn đề nhà ở cho người lao động
tại các khu công nghiệp, Tạp chí Lao động và xã hội, (260), tr.10-12.
28. Phạm Xuân Đức (2005), Cung cầu về nhà ở cho công nhân các KCN hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
29. Trần Ngọc Hiên (2005), Cơ sở lý luận phát triển mô hình KCN trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Tạp chí Thông tin khoa
học xã hội, (2), tr.12-16.
30. Đan Đức Hiệp (2002), Mô hình nào cho xây dựng và phát triển khu công
nghiệp, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4), tr.21-23.
31. Hoàng Xuân Hòa (2005), Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người lao động ở khu công nghiệp, khu chế xuất, Tạp chí Lao động và
Công đoàn, (327), tr.8,9,15.
32. Vũ Huy Hoàng (2002), Tổng quan về hoạt động của các KCN, Kỷ yếu:
khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Minh Huệ (2002), khu công nghiệp, khu chế xuất và vấn đề lao động –
114
việc làm, Tạp chí Lao động và xã hội, (203), tr.3-5.
34. Trần Ngọc Hùng (2004), Thống nhất về khuyến khích và đảm bảo đầu tư
giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, Thông tin khu công nghiệp
Việt Nam, (10), tr.30-33.
35. Bạch Minh Huyền (1997), khu công nghiệp, khu chế xuất, thực trạng và
giải pháp, Tạp chí Tài chính. (10), tr.21.
36. Võ Thành Lập (2006), khu công nghiệp Đồng Nai trong quá trình tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Kỷ yếu: 15 năm xây dựng
và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long
An.
37. Bích Liên (2004), Khu công nghiệp qua hơn 10 năm phát triển – thành
công và khó khăn cần giải quyết, Tạp chí Thông tin KT – XH, (11), tr.25.
38. Nguyễn Công Lộc (2006), Vai trò của các khu công nghiệp đối với quá
trình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc, Kỷ yếu:
15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt
Nam, Nxb Long An.
39. ThS Bùi Vĩnh Kiên (2007), Một số giải pháp phát triển các khu công
nghiệp Bắc Ninh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (7).
40. Đinh Thị Kim Khánh (2007), Năng lực cạnh tranh của tỉnh Vĩnh Phúc
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, luận văn thạc sỹ kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Anh Minh (1998), Để lấp đầy chỗ khu công nghiệp, Báo Đầu tư, ngày
9/4/1998.
42. Vũ Xuân Mừng (2004), Khai thác tốt lợi thế, phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh phía Nam, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.44-48.
43. Võ Văn Một (2006), Phát triển các khu công nghiệp trong quá trình
CNH, HĐH tại tỉnh Đồng Nai, Kỷ yếu: 15 năm xây dựng và phát triển các
115
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long An.
44. Trần Văn Phòng (2007), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của các khu
công nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Lê Dương Quang (2007), Vấn đề quy hoạch các khu công nghiệp ở nước
ta hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước, (135).
46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đầu tư,
số 59/2005/QH11.
47. Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nâng cao vai trò và hiệu quả
quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường của các khu chế xuất, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
48. Nguyễn Huy Thám (1997), Mấy vấn đề khu chế xuất và khu công nghiệp
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (8), tr. 15-17.
49. Đặng Văn Thắng (2006), Nâng cao chất lượng quy hoạch khu công
nghiệp – bài học thực tiễn và những quan điểm định hướng, Tạp chí Kinh
tế và Dự báo, (5), tr.15-18.
50. Võ Thanh Thu (2004), Thực trạng lao động tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất tại miền Đông Nam Bộ, Thông tin KCN Việt Nam, (10), tr. 8-9.
51. Tạ Trung Tính (5/2004), Vĩnh Phúc với việc xây dựng các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
52. Nguyễn Chơn Trung (2004), Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất
trong quá trình CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Bùi Quang Tuấn (2005), Vai trò của khu công nghiệp và khu chế xuất đối
với tiến trình công nghiệp hóa ở Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế
thế giới, (1), tr. 21.
54. Vũ Anh Tuấn (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, những
116
vấn đề đặt ra, Tạp chí Phát triển kinh tế, (2), tr. 8-10.
55. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lần thứ XIV.
56. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lần thứ XV.
57. Trang Web của Bộ Kế hoach và đầu tư: www.mpi.gov.vn
58. Trang Web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
59. Trang Web của Ban quản lý các KCN tỉnh Vĩnh Phúc: bqlkcnvp.gov.vn
60. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
61. Lê Hồng Yến (1996), Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối
với các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: qua thực tiễn các KCN
phía Bắc (1996), Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học Thương mại, Hà Nội.
62. Lê Hồng Yến (2005), Quản lý nhà nước về môi trường trong các khu công
117
nghiệp, Tạp chí Quản lý nhà nước, tr.25-28.