
Phong Trào Đấu Tranh Chống Thực Dân Pháp
Của Nhân Dân An Giang (Từ Năm 1867 Đến
Những Năm Đầu Thế Kỉ XX)
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn
công Đà Nẵng, mở đầu quá trình xâm lược nước
ta. Sau đó, chúng quay vào đánh Gia Định. Năm
1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân Pháp chiếm
Gia Định, Biên Hòa và Định Tường (1862). Ba
tỉnh miền Tây Nam Kì bị cô lập. Trước tình hình
đó, triều đình Huế “chủ động giảng hòa”. Hòa ước
ngày 5/6/1862 được kí kết, triều Nguyễn đã giao
ba tỉnh miền Đông Nam Kì cho Pháp.
Nhân dân Nam Kì nổi lên chống Pháp. Ở Cần
Giuộc có Quản Là, Đồng Tháp Mười có Võ Duy
Dương, Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu
L’Espérance trên vàm Nhật Tảo (Tân An),

Trương Định chọn Gò Công làm trung tâm kháng
chiến.
Lúc này nhân sĩ Nam Kì bị phân hóa, có kẻ theo
giặc như Tôn Thọ Tường, Huỳnh Công Tấn, Trần
Bá Lộc, có những sĩ phu yêu nước theo phong trào
“Tị địa” đến các tỉnh miền Tây Nam Kì như Phan
Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân. Đặc biệt, vùng Thất
Sơn (An Giang) trở thành căn cứ kháng chiến
chống Pháp của Hoàng than A-soa (Cam-pu-chia).
Sau khi chiếm Vĩnh Long, ngày 22/6/1867, quân
Pháp đem 1000 quân và tàu chiến đánh chiếm
thành Châu Đốc, An Giang thất thủ. Ngày hôm
sau, chúng đánh chiếm Hà Tiên. Ngày 26/6/1867,
Đô đốc Hải quân Pháp De La Grandière tuyên bố
ba tỉnh miền Tây Nam Kì thuộc Pháp.
Sau tháng 6/1867, nhân dân ba tỉnh miền Tây

Nam Kì phất cao ngọn cờ kháng chiến chống quân
xâm lược như Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long có
Phan Tốn, Phan Liêm, năm 1868, Nguyễn Trung
Trực đánh chiếm thành Kiên Giang gây cho Pháp
nhiều thiệt hại.
Tại Châu Đốc, lãnh binh Lê Văn Sanh và Đỗ Đăng
Tàu bí mật tổ chức các đội thuyền ở núi Sam,
mương Vệ Thủy (phường Vĩnh Mỹ, Châu Đốc),
kéo dây ngang sông Hậu ngăn tàu chiến giặc. Sau
đó, hai ông rút vào Ô Long Vĩ (huyện Châu Phú).
Trong buổi đầu quân Pháp đặt chân đến An
Giang, chúng đã gặp sự phản ứng mạnh mẽ của
nhân dân An Giang, điển hình là cuộc khởi nghĩa
Bảy Thưa (1867-1873) do Quản cơ Trần Văn
Thành lãnh đạo.
Trích:

Sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, ngày 22/4/1873, Đô
đốc Nam Kì ra Nghị định “nghiêm cấm không cho
dân chúng được theo đạo Lành”, vì Đạo này xúi giục
dân chúng đi lạc khỏi đường ngay nẻo chính.
(Societes, Diverses Privincé, 1875-1882.)
Nhiều nhà yêu nước như Nguyễn Văn Tư, Trần
Văn Tuấn (quê ở Long Xuyên), kết án tù chung
thân đày qua đảo Réunion, Phan Văn Trang (quê
Thạnh Mỹ Tây) làm Xã trưởng can tội “đồng lõa”
bị xét xử năm 1875 và bị đày đi Côn Đảo.
Trích:
Trần Văn Thành (1820 - 1873), quê quán tại làng
Bình Thạnh Đông (nay thuộc xã Phú Bình, huyện
Phú Tân). Dưới thời vua Tự Đức, ông từng giữ chức
Quản cơ. Sau đó, ông xin giải ngũ. Năm 1849, Trần
Văn Thành gia nhấp giáo phái Bửu Sơn Kì Hương

của Đoàn Minh Huyên. Ông cùng gia đình khai khẩn
tại ruộng Bửu Minh các (nay thuộc xã Thạnh Mỹ
Tây, Châu Phú). Công việc khai khẩn không thành,
ông trở về Cồn Nhỏ (xã Phú Bình, huyện Phú Tân).
Năm 1867, thực dân Pháp đánh chiếm An Giang,
Quản cơ Trần Văn Thành tổ chức nhân dân trong
vùng lập bè cản trên sông Hậu. Sau đó, ông cùng
gia đình rút vào căn cứ Bảy Thưa chiêu mộ nghĩa
binh lập căn cứ tổ chức đánh Pháp.
Thà thua xuống Láng xuống bưng
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần
(Vè Vương Thông)
Sau cuộc đàn áp khởi nghĩa của Nguyễn Trung
Trực tại Rạch Gía, thực dân Pháp tổ chức cuộc
bình định vùng chiếm đóng. Thời gian này, Quản
cơ Trần Văn Thành xúc tiến xây dựng căn cứ