Phong trào đấu tranh tự vệ của nông dân Yên
Thế
Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song
song với các cuộc đấu tranh Cần Vương còn có
các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đổng
bào miền núi. Theo bước chân xâmợc của thực
dân Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân
ta nổ ra từ đồng bằng, rồi lan dần lên trung du,
miền núi: Trong hàng lot cuộc nổi dậy của nông
dân cui thế kỉ XIX, nổi bật nhất là phong trào
nông dân Yên Thế.
Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song
với các cuộc đấu tranh Cần Vương còn có các cuộc
đấu tranh tự phát của nông dân và đổng bào mi
ền núi.
Theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp, phong
trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng bằng,
rồi lan dần lên trung du, min núi: Trong hàng lot
cuộc nổi dậy của nông dân cuối thế kỉ XIX, nổi bật
nhất là phong trào nông dân Yên Thế.
Phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913)
Phong trào nông dân Yên Thế là phong trào đ
ấu tranh
vũ trang lớn và kéo dài nhất trong phong trào chng
Pháp cuối thế kỉ XIX sang hơn mười năm đầu thế kỉ
XX.
Căn cứ Yên Thế ở phía tây Bắc Giang, có diện tích
rộng từ 40 đến 50 km2, gồm đất đồi là chyếu, có
y cối rậm rạp, gò bụi um tùm. T đây có thể đi
thông sang Tam Đảo, Thái Nguyên, xuống Phúc Y
ên,
Vĩnh Yên...
Tình hình suy sụp của nông nghiệp Việt Nam dưới
thời Nguyễn đã làm cho nông dân nhiều vùng đống
bằng miền Bắc buộc phải bỏ làng mạc đi nơi khác
kiếm sống, trong đómột số người đã lên Yên Thế.
Từ giữa thế kí XIX, họ bắt đầu lập ra một số làng
mạc và tchức làm ăn, chống lại các thế lực đe dọa
từ bên ngoài tới. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi
chiếm đóng ra Bắc Kì, Yên Thế trở thành đối tượng
bình định đầu tiên của chúng. Để bảo vệ cuộc sống
của mình, nông dân Yên Thế đã nổi dậy chống Pháp.
Phong trào bắt đầu bùng nổ từm 1884 và kéo dài
mãi tới năm 1913.
Lãnh đạo phong trào đa số là nông dân, như: Cả
Dinh, CHuỳnh, Cai Cờ, Cả Trọng (con Đề Tm).
Nhưng người có công và đóng vai trò to lớn hơn cả l
à
Lương Văn Nắm (Đề Nắm) và tiếp đó là Hoàng Hoa
Thám (Đề Tm). Trong hàng ngũ chỉ huy còn phải
kể đến nhiều nhân vật khác, đc biệt có bà Ba Cẩn
(vợ ba Dề Thám).
Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du
kích, ly ít đánh nhiều. Nghĩa quân thường đánh
những trận nhỏ, dựa vào địa hình him trở và công s
dã chiến để đánh gần, đánh nhanh, rồi rút lui nhanh.
Tên sĩ quan thực dân Galiêni (Galliéni) trong cun
"Ba binh đoàn ở Bắc Kì"(l) đã nhận xét: nghĩa quân
Yên Thế tất cả đều can đm, thiện chiến, tuyệt đối
phục tùng người chỉ huy, xuất sắc trong cách đánh
phục kích và đánh trong rừng, hiểu biết một cách kì
lmọi thuận lợi của địa hình để vận dụng trong chiến
đấu.
Nhờ chiến thuật đánh du kích mà nghĩa quân Yên
Thế đã có thể duy trì được cuộc chiến đấu trong gần
80 năm ròng rã.
Phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế được
bắt đầu bằng việc chống trả cuộc hành binh của quân
Pháp tháng 6-1884 vào căn cứ Yên Thế, do tướng
Bờrie đờ Litxlơ chỉ huy. Trong cuộc hành binh này,
quân Pháp đã bị các đội quân của Đề Nắm, Đề Tm
chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải rút lui.
Khởi nghĩa Yên Thế diễn ra qua bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892) Giai đoạn n
ày, các
toán nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự
phối hợp và chhuy thống nhất. Lúc bấy giờ xuất
hiện hàng chục toán nghĩa quân của Đề Nắm, Bá
Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật, Đề Chung...
Mỗi thủ lĩnh cầm đầu một toán quân và làm chmột
vùng.
Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống
nhất vào một mối, nhưng nghĩa quân vẫn hoạt động
có hiệu quả. Tháng 11-1890, nghĩa quân Đề Tm đã
giành thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng.
Từ đầu đến cuối tháng 12-1890, ba lần quân Pháp tấn
công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị
nghĩa quân Đề Tm đánh bại.
Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã làm chhầu hết