PHONG TRÀO ĐÔNG KINH

NGHĨA THỤC VỚI BƯỚC

CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG VIỆT

NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

Phần 2

Từ việc tìm hiểu quá trình chuyển tiếp tư tưởng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

XX thông qua phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, với những giá trị tư tưởng

trong kho tàng lịch sử Việt Nam từ đó tạo nên niềm tin vững chắc tiến bước trong

quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ

nghĩa mà Hồ Chí Minh và cả dân tộc đã lựa chọn.

Đông Kinh nghĩa thục xuất hiện ở Hà Nội từ tháng 3 – 1907 đến tháng 12 – 1907

dưới hình thức là một trường học hợp pháp (sau đó mở rộng ra các tỉnh) trên các lĩnh

vực văn hoá, giáo dục, xã hội, kinh tế được xem như là phong trào cải cách tư tưởng –

văn hoá. Là một trường học nhằm “hoá quốc cường dân” bằng con đường mở mang dân

trí và chấn hưng kinh tế. Tên trường Đông Kinh nghĩa thục tức Đông Kinh là tên thành

Thăng Long đời nhà Hồ còn nghĩa thục là trường dạy vì nghĩa. Đông Kinh nghĩa thục

cũng là một sự mô phỏng theo mô hình Nhật Bản của “Phúc Trạch Dạ Cát” với Khánh

Ứng Nghĩa Thục năm 1858, là cơ sở giáo dục vững chắc độc đáo mà các sĩ phu yêu

nước của ta tiếp thu từ Nhật Bản. Trường được mở và chiêu sinh tháng 3 năm 1907 mặc

dù đến tháng 5 năm 1907 thì Pháp mới cấp giấy phép hoạt động. Tổ chức và lãnh đạo

Đông Kinh nghĩa thục do các sĩ phu yêu nước tiến bộ mà Thục trưởng là cụ Lương Văn

Can, ngoài ra còn có Nguyễn Quyền, Đỗ Chiến Thiết … Nhà trường tổ chức thành bốn

ban công tác, ban giáo dục, ban tài chính, ban cổ động và ban tu thư, các ban này có

quan hệ mật thiết với nhau. Với hình thức tổ chức một cách hợp pháp đã đẩy mạnh hoạt

động trên khắp các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, tư tưởng, kinh tế vì thế không chỉ bó hẹp

là một trường học dạy văn hoá mà trở thành phong trào góp phần quan trọng thúc đẩy

cách mạng giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong khi trên thế giới đã phát triển nền văn minh

vượt bật thì xã hội Việt Nam vẫn duy trì hệ tư tưởng phong kiến, những hủ tục lạc hậu…

đã làm cản trở sự phát triển đất nước. Các sĩ phu của phong trào Đông Kinh nghĩa thục

luôn trăn trở, tìm kiếm và họ đã thực hiện cuợc cải cách tư tưởng – văn hoá xã hội.

Trong số tài liệu giảng dạy của trường Nghĩa thục tuy chưa thành hệ thống chặt chẽ

nhưng đã toát lên tư tưởng canh tân, nổi bật là hai tác phẩm tiêu biểu “Văn minh tân học

sách”, “Quốc dân độc bản”, dưới nhiều bài viết của các lãnh đạo và chí sĩ yêu nước

Đông Kinh nghĩa thục. Thông qua các tài liệu giảng dạy để đưa ra những vấn đề chống

và xây nhằm khai hoá dân trí, sự mở mang học tập để tiếp thu tiến bộ và sửa đổi cái cũ

nhưng phải dựa trên nền tảng vững chắc là lòng yêu nước, ý thức độc lập, tự cường.

Cũng từ chính lòng yêu nước nhiệt thành, ý thức trách nhiệm đối với đất nước để “ngẩng

đầu lên, cúi xuống, nhìn, suy nghĩ” đi tìm nguyên nhân và đưa ra các biện pháp nhằm

khôi phục đất nước. Các sĩ phu Đông Kinh nghĩa thục nhận định rằng, chính văn minh

sẽ tạo nên sự phát triển xã hội. Vì thế, mở đầu tác phẩm “Văn minh tân học sách” có

viết: “Thiết nghĩ, văn minh là một danh từ đẹp đẽ, không phải do sự hào nhoáng màu mở

mà làm nên; các môn học văn minh là những phúc tốt lành, không phải chuyện một sớm,

một chiều có thể lấy được”3. Vậy xã hội Việt Nam đương thời có phát triển không, có

văn minh không? Chế độ phong kiến Việt Nam với sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho

giáo Trung Quốc quá nặng nề và kéo dài hàng ngàn năm ăn sâu vào tâm thức của dân

tộc. Vì thế, đầu thế kỷ XX, hệ tư tưởng ấy trở nên không còn phủ hợp khi bên ngoài chủ

nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn phát triển chủ nghĩa đế quốc. Trước hết, để làm cho

xã hội Việt Nam phát triển phải phá vỡ hệ tư tưởng “tam cương ngũ thường” lỗi thời

thông qua phá vỡ nền giáo dục tàn dư Hán nho, Tống nho được sự bảo hộ của thực dân

Pháp. Từ đó, xây dựng nền giáo dục mới về hình thức và nội dung phù hợp thời đại để

mở mang dân trí, tạo cơ sở, yêu cầu cho giải phóng dân tộc, đất nước tiến lên trình độ

văn minh. Đông Kinh nghĩa thục đã vạch rõ: “Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm, mà cũng

vì cái dốt nên phải làm như trâu, bò được đồng nào đem sắm đồ Tàu hết. Cũng vì dốt

nên nghề hay không làm, ai cũng muốn làm cái nghề ăn không… bao nhiêu cái khổ sở,

nhục nhằn ở nước Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả"4. Vì dốt, nên Đông Kinh nghĩa thục

chủ trương chống bạn hũ nho, tức chống tư tưởng phong kiến, gia trưởng không mở

mang tri thức, không phát huy vai trò sáng tạo của cá nhân là nguyên nhân làm nước

yếu, dân hèn. Cải cách văn hoá, xã hội trước là phải phá bỏ các chướng ngại vật làm cản

trở bấy lâu nay. Bài “Điếu hủ nho” đã nói rõ: “Tầm mắt không trong khỏi làng, đã chê

cười Khang, Lương. Bước chân không ra khỏi ngõ, đã coi hẹp vũ trụ”5. Để khai thông

việc tiếp thu văn minh bên ngoài, các lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục đã lên án chữ Hán

“không bỏ chữ Hán, không cứu được nước Nam”, đó là phương tiện của nền cựu học,

cản trở việc phát triển giáo dục. Đi tìm phương tiện mới với sự ủng hộ của chữ Quốc

ngữ. Một nền giáo dục mới với sự tuyên truyền sử dụng chữ Quốc ngữ là loại chữ đơn

giản, dễ phổ cập, được ra đời trong quá trình xâm lược của thực dân Pháp. “Phàm người

trong nước đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để cho trong thời

gian vài tháng, đàn bà trẻ con đều biết chữ, cho người ta có thể dùng quốc ngữ để ghi

việc đời xưa, chép việc đời nay và thư từ thì có thể chuốt lời đạt ý”6. Tức dùng chữ

Quốc ngữ để khai hoá quốc dân, dịch sách để mở mang dân trí. Tiếp theo là hàng loạt

tập tục cũ kỹ, thói quen lạc hậu của xã hội Việt Nam được thay đổi, canh tân. Đông

Kinh nghĩa thục đã mở ra cuộc cách mạng “trên chính bản thân họ”, tự mình biến đổi

tình hình, phong tục để tạo cơ sở cho sự biến đổi chính trị mà muốn làm được như thế

phải thông qua giáo dục và tự giáo dục. Như từ bỏ mái tóc bới của nam giới, mặt gọn

gàng, nam nữ bình luận với nhau một cách bình đẳng và nhất là nữ giới được đi học,

được ngồi cùng nam giới nghe diễn thuyết, trao đổi tri thức và tất nhiên gắn với khuôn

phép kỷ cương, nghiêm trang của trường học. Đông Kinh nghĩa thục là trường học có nữ

giới tham gia, điều đó khẳng định quyền bình đẳng và vai trò của phụ nữ trong xã hội.

Trong trường, nội dung đào tạo gồm giáo dục sơ đẳng và chuyên môn là trang bị kiến

thức cơ sở và kiến thức chuyên ngành, các học sinh được học rất nhiều môn mới như:

toán học, địa lý, quang học, điện học, thuỷ học… và được tiếp cận với những phương

pháp học mới. Luôn chú trọng việc phát huy óc sáng tạo của học trò, tự do bàn bạc thảo

luận chứ không áp đặt như nền giáo dục cũ. Một tư tưởng hết sức mới mẻ trong giáo dục

là coi giáo dục đóng vai trò động cơ thúc đẩy, người thầy không thể là vị thẩm phán hay

quan toà… mà chỉ là cố vấn đúng đắn và nhiệt thành với người học. Mỗi học sinh đều

được bình đẳng trên khoa học, biết tự suy nghĩ hiện thực và với phương pháp dạy học

như thế, các nhà lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục tin rằng thanh niên sẽ có chính kiến và

ý thức được phải làm gì trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Nền giáo dục của trường Nghĩa

thục, tất nhiên không nằm ngoài mục đích đó, sẽ tạo nên một nhân cách sống, lối sống

phù hợp thực tiễn. Các sĩ phu yêu nước của Đông Kinh nghĩa thục luôn nắm vững

nguyên tắc là tiếp thu cái mới nhưng trên nền tảng của giá trị truyền thống, tức là tiếp

thu nền văn minh phương Tây để canh tân đất nước nhưng không xa rời bản sắc dân tộc

Việt Nam, từ “cái sở trường của kẻ khác có thể dùng để cải biến cái sở đoản của mình”7.

Rất nhiều tài liệu giảng dạy với nội dung đề cao truyền thống lịch sử vẻ vang của dân

tộc, phát huy lòng yêu nước của dân tộc thông qua các bài “Hãy nhìn xem tình trạng đau

đớn của người Cao Ly mất nước” hay “Hải ngoại huyết thư” của Phan Bội Châu… để

vạch trần tội ác của thực dân Pháp. Khẳng định rằng, nước ta hơn bốn ngàn năm nay, có

đời hưng đời phế nhưng vẫn là người nước ta làm chủ. Cho nên trước tình cảnh hiện

nay, phải “vì tổ quốc mà quyết mù vén mây, khai thác hẳn cho nước nhà một bầu trời

quang đẵng lẫy lừng”. Từ chân lý “lòng yêu nước của dân mà sâu thì nước sẽ mạnh” hun

đúc nên ý chí cách mạng để từ đó đi đến hành động cách mạng. Chính là việc giáo dục ý

thức công dân trong nhân dân ta, mỗi công dân quan tâm đến chính sự, coi việc nước

như việc nhà trên tinh thần làm chủ đất nước. Dân trí mở mang, mỗi công dân sẽ tự ý

thức về quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với tổ quốc. Vậy trách nhiệm của mỗi

công dân trước tình cảnh nước mất nhà tan là gi? Trách nhiệm cao nhất của mỗi công

dân Việt Nam là bằng mọi cách đem lại nền hoà bình và độc lập cho dân tộc từ tay kẻ

thù cướp nước. Các nhà lãnh đạo của Đông Kinh nghĩa thục đã trang bị cho người học ý

thức về mối quan hệ giữa nước và dân “hợp cây lại thành rừng, không có cây thì không

có rừng… nước với dân như rừng với cây” cho nên “nước mất mà dân còn thì không

được”8. Vì thế, mục đích cao nhất của trường Nghĩa Thục chính là mỗi người dân phải

trang bị cho mình đầy đủ những tri thức, giá trị mới để “cứu lấy mình” tức là cứu lấy tổ

quốc.

Chính sự mở mang dân trí đã tác động tích cực đến đời sống xã hội và từng người

dân. Với hoạt động của trường Nghĩa Thục đã diễn ra một cuộc cách mạng trong đời

sống người dân. Tư tưởng “thiên mệnh” và “tôn quân” để lý giải tình cảnh mất tự do, bị

nô lệ, theo các sĩ phu chính điều đó đã làm cho con người luôn thụ động và chấp nhận số

phận làm tay sai, nô lệ cho bạn ngoại bang. Đông Kinh nghĩa thục đã vạch trần tính chất

sai lầm phản động của thuyết “tin vào số trời”, “nước yếu không nên quy vào số mệnh,

do dân bất tài mà phải thực hiện quyền lợi nhiệm vụ để cứu nước, cứu dân”9 và phải coi

việc nước như việc nhà, với tinh thần làm chủ. Với sự phê phán những ảnh hưởng tiêu

cực của các phong tục tập quán lỗi thời làm cho xã hội không phát triển, các sĩ phu đã

đưa ra tư tưởng của thời đại mới đó là: “Xưa nay ở trong, ngoài không nơi nào vài mươi

năm, vài trăm năm lại không có cuộc biến đổi về những tập tục cũ. Ngày nay vạn quốc

giao thông với nhau, học thức cũng trao đổi với nhau. Cái sở trường của kẻ khác dùng

để cải biến cái sở đoàn của mình”10. Vì thế, muốn hội nhập cùng với nền văn minh thế

giới thì công việc trước tiên làm là phải xoá bỏ những tư duy bảo thủ của Nho gia, lên án

mạnh mẽ thói hư, tật xấu tồn tại trong nhân dân. Đó chính là những trở ngại lớn cho sự

nghiệp cứu nước. Từ nếp suy nghĩ, việc làm đến cả lối ăn mặc… phải hợp với khoa học,

hợp với văn minh tiến bộ. Các nhà sáng lập và lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục đã tạo

nên phong trào cải cách đời sống văn hoá xã hội trong nhân dân, chỉ trích và kêu gọi bài

trừ thói hư như cờ bạc, rượu ché, thuốc phiện… Những thứ đó làm cho con người bị sa

ngã, đánh mất mình và cũng có nghĩa là đánh mất nước. Để một nhà nước tồn tại vững

chắc và xã hội luôn trong sự trật tự, quy củ thì phải gắn với việc hình thành hệ thống

pháp luật. Xã hội phải có pháp luật phù hợp tình hình, phong tục trình độ nước đó và tất

nhiên phải trang bị cho công dân quyền lợi, ý thức trách nhiệm trước pháp luật.

Hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục không chỉ chú ý trên lĩnh vực văn hoá – tư

tưởng nhằm “hoá dân”, nâng cao dân trí, ý thức của người dân Việt Nam, mà vân đề

cũng không kém phần quan trọng, được các nhà lãnh đạo quan tâm và trực tiếp thực hiện

đó là “chấn hưng kinh tế” làm cho nước mạnh. Muốn nước mạnh thì “dân phải mạnh”,

phải giàu, mà muốn vậy thì dân phải biết sản xuất, kinh doanh trao đổi… để cho có

nhiều hàng hoá đáp ứng nhu cầu người dân, nâng cao đời sống kinh tế. Đối với nông

nghiệp, việc đưa khoa học vào trong sản xuất được xem là cấp thiết, các sĩ phu yêu nước

đưa nông học vào trường học, trang bị kiến thức cho mọi người để đáp ứng quá trình sản

xuất. Các lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục đề nghị và bắt tay vào mở các đồn điền khai

hoang, gieo trông cây lương thực như ở Yên Lập, Mỹ Đức… Đi đôi với việc phát triển

nông nghiệp, là việc hình thành các ngành công thương nghiệp mới, vận dụng trí não để

chế tạo máy “chấn hưng công nghệ” thúc đẩy công nghệ phát triển. Các sĩ phu của Đông

Kinh nghĩa thục trực tiếp tham gia phát triển kinh tế với việc mở các cửa hiệu buôn như

Đỗ Chân Thiết, Nguyễn Quyền… mở các công ty kinh doanh, thành lập hội góp vốn vào

kinh doanh… Các tài liệu phục vụ cho việc phát triển kinh tế cũng được đưa vào trường

học như “Hợp quần doanh sinh thuyết” của Nguyễn Thượng Hiền, “Học công nghệ, học

buôn bán” của Phan Chu trinh… khẳng định việc muốn có một nền kinh tế phát triển, thì

việc đầu tiên là phải biết tiếp thu tư duy kinh tế của châu Aâu đương thời. Phải biết xây

dựng nền kinh tế hàng hoá phát triển tạo nên sức cạnh tranh, các nhà lãnh đạo Đông

Kinh nghĩa thục cũng xem cạnh tranh là động lực để phát triển. “Cuộc đời ngày nay cái

gì cũng cạnh tranh, cạnh tranh học thuật, cạnh tranh công nghệ… Kẻ mạnh sẽ thắng, kẻ

yếu sẽ thua”11, đó chính là sự phát triển của tư duy, của nhận thức mới.

Chỉ tồn tại trong vòng chín tháng, Đông Kinh Nghĩa Thục đã đi vào lịch sử tư

tưởng dân tộc là một cuộc cải cách chính trị, chuẩn bị về mặt tinh thần tư tưởng cho

cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Đã góp phần không nhỏ thức tỉnh lòng

yêu nước của nhân dân, tấn công vào hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời mở đường cho

việc tiếp thu tư tưởng mới cho việc giải phóng dân tộc. Phong trào Đông Kinh nghĩa

thục đã là nổi ám ảnh cho thực dân Pháp trước “một cái lò phiến loạn ở Bắc kỳ”12, thực

dân Pháp buộc đóng cửa trường và đàn áp. Tháng 11 năm 1907 trường bị đóng cửa, hầu

hết các giáo viên bị bắt, tài liệu giảng dạy bị tịch thu. Nhận thấy rằng, khi phong trào lúc

đầu hoà bình đến đâu nhưng nó không phải “khai phá giúp Pháp” mà nó trở thành một

phong trào quần chúng, tạo thành một sức mạnh vật chất vô biên, một thứ cách mạng

bạo lực để giải phóng dân tộc. Đông Kinh nghĩa thục không hạn chế trong khuôn khổ cải

cách hợp pháp mà các sĩ phu đã hoạt động tích cực trong phong trào Đông Du, tham gia

tổ chức đầu độc binh lính Pháp 1908… kêu gọi mọi người phát huy lòng yêu nước cứu

lấy nước nhà “Cờ độc lập xa trông phất phới. Kéo nhau ra đòi lại nước nhà” 13.

Mặc dù, khó tránh khỏi những hạn chế của điều kiện lịch sử đương thời, nhưng

Đông Kinh Nghĩa Thục là đại biểu cho ý chí tiến bộ nhất đương thời, có ý nghĩa sâu sắc

trong quá trình đổi mới đất nước ta ở giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh đất nước đang

đổi mới “đổi mới nhằm kế thừa và phát huy những thành quả, giá trị mà chủ nghĩa xã

hội đã đạt được, thay đổi, uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa

được xác định đúng hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới, sửa chữa những sai

lầm khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp đúng,

phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới”14, đó

chính là sự nghiệp đổi mới từ 1986 đến nay trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tư tưởng,

văn hoá, giáo dục… Trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, dường như vẫn thấy

được bóng dáng của những điều mà phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã ấp ủ. Trước

tình hình khủng hoảng đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã

quyết định đổi mới và việc đầu tiên phải đổi mới tư duy kinh tế, mở cửa để phát triển

kinh tế. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ

lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vai trò

thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,

kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc

biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền

kinh tế hiện đại”15. Như Đông Kinh nghĩa thục đã nói: “Ngày nay các nước giao thông

với nhau, học thức trao đổi với nhau một cách dễ dàng” phải biết áp dụng khoa học kỹ

thuật các nước tiên tiến vào phát triển kinh tế, giá trị đó càng gần với phương châm mà

Đảng đã xác định “rút ngắn, nhảy vọt” và “đi tắt, đón đầu”. Xây dựng nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều hình thức sở hữu để

phát triển được mọi nguồn lực kinh tế.

Về mặt tư tưởng, giá trị của phong trào Đông Kinh nghĩa thục đó là tinh thần tiếp

thu cái mới tiến bộ có chọn lọc trên giá trị truyền thống của dân tộc. Xây dựng lý luận

phát triển “Văn minh không có giới hạn, càng tiến thì càng cao. Có thể nói nước kia văn

minh hơn nước này, nhưng lại không thể nói văn minh nước kia đã đạt đến đỉnh điểm”

bởi vì “Các nước Âu và Mỹ có sự chế tạo tinh vi, pháp luật hoàn bị, giáo dục phổ cập,

giao thông đầy đủ. Thế mà nhà tù vẫn chưa hết, nạn hút xách, rượu chè vẫn chưa hết, mù

chữ đâu đã vắng bóng”16. Đó là tư tưởng có giá trị hết sức sâu sắc trong việc phát triển

đất nước đi đôi với giáo dục con người. Có thể thấy giá trị Đông Kinh nghĩa thục để lại

cho chúng ta ngày nay rõ nét nhất vẫn là lĩnh vực giáo dục – tư tưởng. Những áng thơ

văn của các sĩ phu Đông Kinh nghĩa thục đã bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần cách

mạng cho thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục giữ vững và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng xã hội hoá giáo dục xây dựng một xã hội học tập, không ai

không được giáo dục và giáo dục phù hợp với từng đối tượng, giáo dục gắn với đổi mới

phát triển đất nước, “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài” là tư tưởng mà ngày nay xã

hội chúng ta đang từng bước cố gắng thực hiện. Trong đó, vị trí của Đông Kinh Nghĩa

Thục đã góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng truyền thống yêu nước vẻ vang

của dân tộc Việt Nam, cũng như trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.

Tóm lại, những tư tưởng cải cách tiến bộ dù trong bối cảnh lịch sử nào đều xuất

phát từ lòng yêu nước và với mục đích nhằm đưa đất nước phát triển tiến lên. Từ việc

tìm hiểu quá trình chuyển tiếp tư tưởng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thông qua

phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, với những giá trị tư tưởng trong kho tàng lịch sử

Việt Nam từ đó tạo nên niềm tin vững chắc tiến bước trong quá trình thực hiện công

cuộc đổi mới đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh và cả

dân tộc đã lựa chọn.