
M ĐU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ở Việt Nam, giáo dục và đào tạo có ví trí đặc biệt quan trọng, được ghi nhận trong
Hiến pháp 2013: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn
đầu tư khác cho giáo dục. Để tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục
phổ thông nói riêng bên cạnh nguồn lực của nhà nước đầu tư, việc thu hút nguồn lực từ
xã hội cho giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc “thực hiện đa dạng hóa các
loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện
để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ
sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao.Tổ chức,
gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo
dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
Trong bối cảnh giáo dục nước ta triển khai thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế trong khả năng điều kiện nguồn lực đất nước, địa phương, cơ sở giáo dục yêu cầu
phải: tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội, tạo bước chuyển biến rõ rệt, thực
chất trong thu hút, sử dụng và quản lý các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức ở trong và
ngoài nước đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế.
Để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội theo chủ trương, chính sách “Xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục” ngoài việc ban hành, hoàn thiện cơ chế, chính sách cần phải xác
lập các nội dung và phương thức quản lý nhà nước về xã hội hóa giáo dục phù hợp, thiết
thực, hiệu quả để huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo
dục.
Là trung tâm trọng điểm kinh tế - tài chính cả nước với quy mô dân số lớn, mật độ
dân cư đông, yêu cầu về giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng đối với Thành
phố Hồ Chí Minh rất lớn và cấp bách. Nhận thức vai trò, tầm quan trọng của giáo dục và
nguồn lực đầu tư cho giáo dục, những năm qua chính quyền Thành phố đã ban hành
nhiều chủ chính sách, đề án, chương trình, kế hoạch, xác lập phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp quản lý nhà nước về xã hội hóa giáo dục qua đó giúp giáo dục của thành
phố trong đây có giáo dục phổ thông đạt được những kết quả khả quan trọng trong xây
dựng xã hội học tập, huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục, vận động
sự tham gia rộng rãi của Nhân dân, của toàn xã hội tham gia hoạt động giáo dục, xây
dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp Nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện
môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, thuận lợi cho các hoạt động giáo dục và đào tạo,
đa dạng hóa các loại hình, phương thức thực hiện hoạt động giáo dục và đào tạo, phát
triển mạnh các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập. Tuy nhiên, quá trình thực hiện
công tác xã hội hóa giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn
nhiều khó khăn, bất cập chưa đạt mục tiêu, yêu cầu, chỉ tiêu đề ra, nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên thuộc về công tác quản lý nhà nước do hệ thống quản lý giáo dục đứt
khúc theo cơ cấu quản lý khác nhau theo hệ thống quản lý của các cơ quan chủ quản;
đầu tư tản mạn, thiếu tập trung và chưa đúng mức để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao cho địa phương; các biện pháp huy động xã hội hóa giáo dục đa
dạng, phong phú nhưng vẫn mang tính tình thế; thống văn bản pháp quy về thực hiện
công tác xã hội hóa giáo dục vẫn còn những mặt chưa được cụ thể hóa, tính pháp chế
còn ít, tính động viên khuyến khích là chủ yếu; chưa xây dựng được một chiến lược và
một cơ chế để tạo ra sự đồng thuận xã hội cao trong công tác xã hội hóa giáo dục;công