Quản trị công ty - yêu cầu của

doanh nghiệp đương đại

Bài viết giới thiệu về Quản trị công ty (QTCT) cũng như quan điểm tiếp cận vấn

đề này, từ đó phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của QTCT đối với doanh

nghiệp và nền kinh tế. Phân tích cho thấy việc xây dựng và phát triển hệ thống

QTCT tại Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập là cần thiết và cấp bách. Dựa trên

những tiền đề hiện có và đặc thù của nền kinh tế, chúng ta có thể triển khai các

nghiên cứu cụ thể ở từng khía cạnh của QTCT tại Việt Nam. Những nghiên cứu

này cũng góp phần hoàn thiện các định chế quản trị trong nước cũng như đóng

góp vào kho tri thức của thế giới.

1. Giới thiệu

Trong 10 năm qua, kinh tế Việt Nam duy trì tăng trưởng với tốc độ cao. Với vai

trò là thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) từ đầu năm 2007,

chúng ta càng phải thúc đẩy việc cải tổ và phát triển kinh tế theo hướng thị trường.

Sự phát triển này đòi hỏi sự tập trung nhiều hơn vào hiệu quả hoạt động của khối

doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ khác

nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước và tăng cường chất lượng

cuộc sống. Hơn thế nữa, kinh tế tăng trưởng cũng thay đổi cách phân bổ quyền

kiểm soát nguồn lực của nền kinh tế. Đặc biệt là quá trình cổ phần hoá và cải tổ hệ

thống đã làm biến đổi cách các doanh nghiệp kiểm soát tài nguyên kinh tế và vận

hành. Những thay đổi này thể hiện ở hình thức sở hữu, cơ cấu đầu tư, chính sách

quản trị hành chính và nhân sự.

Quá trình cổ phần hóa và sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong

thời gian vừa qua bộc lộ nhiều vấn đề liên quan đến QTCT. Báo cáo của Ngân

Hàng Thế Giới (World Bank, 2006) về QTCT tại Việt Nam cho thấy chúng ta

chưa tuân thủ các nguyên tắc QTCT của thế giới, còn nhiều lỗ hổng từ khuôn khổ

pháp lý cho đến cách vận hành của doanh nghiệp. Báo cáo của Chương Trình Phát

Triển Mê Kông về tình hình QTCT tại các doanh nghiệp Việt Nam (MPDF, 2006)

cho thấy có nhiều vấn đề nghiêm trọng trong QTCT tại Việt Nam. Sự khác biệt

giữa tuân thủ luật pháp và thực thi trong thực tế, hệ thống kiểm soát nội bộ yếu,

các chính sách bảo vệ cổ đông nhỏ chưa rõ ràng, thiếu cơ chế công bố thông tin

minh bạch. Đặc biệt là thiếu nhiều khuôn khổ luật pháp để hướng dẫn và kiểm soát

cũng như vấn đề cơ chế thực thi luật pháp và quyền sở hữu (những nghiên cứu này

thực hiện trước khi Luật Doanh Nghiệp và Luật Chứng Khoán có hiệu lực). Ngoài

ra, các dịch vụ quan trọng như kế toán, kiểm toán, ngân hàng và hệ thống luật

pháp vẫn còn nhiều hạn chế để có thể hoà nhập với môi trường mới (ADB, 2007).

Báo chí gần đây đăng nhiều vấn đề của thị trường chứng khoán với những tiêu đề

lớn như giao dịch nội gián, công ty niêm yết chưa hiểu rõ về công bố thông tin,

phương án phát hành cổ phần của các công ty niêm yết, hạn chế tín dụng đầu tư

chứng khoán v.v. Những thông tin này khiến nhiều nhà đầu tư phân vân và đã gây

ra tranh cãi. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, các nhà đầu tư bên ngoài khó

có thể thẩm định cơ hội đầu tư của mình cũng như những hành động của người

bên trong. Cần có những công cụ mà xã hội có thể sử dụng để đảm bảo rằng các

doanh nghiệp vận hành hiệu quả qua đó các nhà đầu tư và nhà tài trợ có thể hoàn

toàn yên tâm đầu nguồn lực và nỗ lực của mình vào doanh nghiệp. Với một hệ

thống công bình và minh bạch, QTCT có thể tạo ra những lá chắn cho những hành

vi gian lận, đồng thời thu hút niềm tin và nguồn vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài.

Mục tiêu của bài viết là tổng hợp và phân tích vai trò của QTCT đối với hiệu quả

hoạt động của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nói chung. Đặc biệt là vai trò

QTCT trong nền kinh tế hội nhập của Việt Nam hiện nay. Các phần 2,3, và 4 sẽ

giới thiệu về QTCT, các quan điểm tiếp cận và những thành tựu nghiên cứu từ đó

phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của QTCT đối với doanh nghiệp và nền kinh

tế hội nhập. Phần 5 và 6 tập trung phân tích khả năng thực hiện cũng như nhu cầu

cấp bách cần phải xây dựng hệ thống QTCT tại Việt Nam. Baì viết kết thúc với

những câu hỏi đặt ra cho các nhà nghiên cứ có thể tiếp tục triển khai để xây dựng

và hoàn thiện QTCT tại Việt Nam.

2. Các quan điểm tiếp cận và định nghĩa

Trước hết, cần phân biệt rõ khái niệm quản trị công ty (Corporate governance) và

Quản trị kinh doanh (Business Management).

Quản trị kinh doanh là công tác điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện. Còn QTCT là quá trình tác động

của cổ đông tới hoạt động của toàn công ty nhằm đảm bảo quyền lợi của của mình

và xã hội. Rộng hơn, QTCT phát triển đến quyền lợi của những người liên quan

(stakeholders) không chỉ là cổ đông mà còn là nhân viên, khách hàng, nhà cung

cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước. Vì thế, theo quy chế QTCT của Bộ Tài

Chính mới ban hành vào tháng 3 năm 2007, QTCT được định nghĩa là "hệ thống

các quy tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng điều hành và được kiểm soát

một cách có hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan đến công

ty"

Về mặt lịch sử, từ thế kỷ 18, vấn đề tách rời sở hữu và quản lý doanh nghiệp đã

được Adam Smith ghi nhận trong tác phẩm của mình "các quản trị gia, với vai trò

là người quản lý tiền của người khác, không thể kỳ vọng rằng họ sẽ quan tâm đến

số tiền này như người chủ thực sự của nó". Doanh nghiệp còn được xem là "nỗ lực

nhóm" của những người sở hữu các nguồn lực mà doanh nghiệp cần (Alchian,

Demsetz, 1972), nguồn lực có thể là vốn, lao động và tri thức. Vì vậy việc phân bổ

sự gánh chịu các chi phí và hưởng thành quả của doanh nghiệp phải công bằng.

Hơn nữa, mô hình doanh nghiệp hiện đại là những công ty cổ phần trong đó có rất

nhiều cổ đông nhỏ và phân tán, cấu trúc này càng dễ dàng nảy sinh mâu thuẫn

giữa người sở hữu và quản lý các nguồn lực (Berle 1933). Những vấn đế này phát

sinh chi phí mà Jensen gọi là "chi phí đại diện" và đòi hỏi cần có các hợp đồng

giữa người chủ và người đại diện để giải quyết (Jensen 1976,1983). Lý thuyết

người đại diện ra đời từ đó. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng mối quan hệ

này lại càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn.

Theo quan điểm về phát triển kinh tế quốc gia, QTCT được định nghĩa là "cân

bằng giữa mục tiêu kinh tế và xã hội cũng như giữa mục tiêu cá nhân và cộng

đồng" (Cadbury report, 1992). Bởi vậy, khuôn khổ QTCT khuyến khích sử dụng

hiệu quả tài nguyên đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội khi sử

dụng tài nguyên. Theo quan điểm tài chính, Shleifer xem QTCT liên quan đến

"cách các nhà cung cấp tài chính đảm bảo có thể thu lợi từ đầu tư của mình"

(Shleifer 1997, trang 737). Quan điểm này liên quan đến vấn đề người đại diện

giữa những người bên trong và những nhà tài trợ bên ngoài. Mối quan hệ này chịu

ảnh hưởng của các yếu tố luật pháp và kinh tế, đặc biệt là tác động của cổ đông

lớn (các tổ chức hoặc Nhà nước) đến hiệu quả doanh nghiệp.

Theo quan điểm đạo đức, QTCT được xem là những quy tắc tự nguyện trong hành

xử của người quản lý doanh nghiệp cần phải tuân thủ. Những quy tắc này bao gồm

kỳ vọng và quy định cụ thể hơn những yêu cầu của pháp luật, của nghề nghiệp và

thị trường vốn đã có.

Các quan điểm khác lại xem xét ở đặc tính và cấu trúc của QTCT. QTCT được

xem là cơ chế thúc đẩy công bằng, minh bạch và tín nhiệm. Cấu trúc QTCT cụ thể

hoá việc phân phối quyền và trách nhiệm của hội đồng quản trị (HĐQT), người

quản lý, cổ đông và những người liên quan, trong đó chỉ rõ quy định và quy trình

ra quyết định về các vấn đề của doanh nghiệp. (OECD, 2004). Những đặc tính này

thể hiện qua các văn bản luật và điều lệ doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với cấu trúc

sở hữu ngày càng đa dạng nảy sinh thêm vấn đề quan hệ giữa hội đồng quản trị và

các cổ đông nhỏ. Những cổ đông có quyền kiểm soát có thể thao túng doanh

nghiệp để đạt mục tiêu của mình và gây thiệt hại đến các cổ đông khác. QTCT

cũng được xem là phản ứng chiến lược của tổ chức với rủi ro. Cụ thể hơn, QTCT

tạo ra cấu trúc để doanh nghiệp xây dựng mục tiêu và cách thức đạt những mục

tiêu này, kiểm soát thành quả đồng thời khuyến khích sử dụng tài nguyên một

cách hiệu quả.

Nhiều định nghĩa khác nhau là do quan điểm và hoàn cảnh từng định chế và quốc

gia đối diện với vấn đề này. Tuy nhiên, nếu nhìn ở các định nghĩa này, chúng ta

thấy có những điểm chung nhất đó là những mối quan hệ quản lý trung thực để

tạo ra thành quả bền vững cho doanh nghiệp và xã hội.

3. Những thành tựu nghiên cứu

Có 2 vấn đề lớn trong các công ty đại chúng hiện đại là các cổ đông nhỏ thường

quá nhỏ bé và thiếu kiến thức để kiểm soát hoạt động hằng ngày doanh nghiệp.

Mặt khác kiểm soát là hàng hoá công cộng, kiểm soát tốn kém chi phí nhưng

người hưởng lợi là tất cả vì thế cổ đông nhỏ không có động lực kiểm soát doanh

nghiệp (Oliver Hart, 1995). Hart cũng khẳng định kết luận của Jensen (1976) là

mặc dù chi phí đại diện có tồn tại trong các doanh nghiệp hiện đại nhưng cổ đông

vẫn chấp nhận chi phí này. Do sự tách rời sở hữu và quản lý cũng như thiếu các cơ

chế kiểm soát, người quản lý của các công ty đại chúng có thể theo đuổi mục tiêu

của mình mà người phải trả giá lại là các cổ đông. Người quản lý đầu tư vào

những dự án an toàn cho mình, hưởng thụ cuộc sống bằng chi phí của doanh

nghiệp, và tạo ra những rào cản để bảo vệ mình. Tất cả những hành động này

không mang lại lợi ích tối ưu cho người chủ thực sự của doanh nghiệp.

Thông qua khảo sát và so sánh các mô hình QTCT của nhiều quốc gia, Shleifer và

cộng cự (1997) đặt ra nhiều vấn đề cho các nghiên cứu về QTCT bao gồm vai trò

và động lực của người quản lý cấp cao với giá trị của doanh nghiệp, tác động của

thể chế và luật pháp, cơ chế sở hữu tập trung và tác động của cổ đông tổ chức.

Nghiên cứu về lịch sử QTCT cũng như các đặc tính và những khác biệt giữa các

mô hình, Morck (2005) tìm ra những yếu tố tác động đến sự khác biệt của QTCT

đó là:

 hệ tư tưởng,

 mô hình gia đình trị,

 vai trò của tập đoàn,

 các vấn đề pháp luật,

sự phát triển của thị trường tài chính, và chính trị.

Về khía cạnh tài chính và khuôn khổ pháp lý, báo cáo Cadbury (1992) là bản phân

tích tổng hợp về QTCT đồng thời nêu lên các khuôn khổ và quy định trong hệ

thống báo cáo kế toán, tài chính, kiểm toán, vai trò của HĐQT, và đặc biệt là các

"quy tắc hành xử" về QTCT để các doanh nghiệp sử dụng hoàn thiện mình. Ngân

Hàng Thế Giới, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD) và các Ngân

hàng khu vực đã thành lập các trung tâm và tiến hành nhiều chương trình nghiên

cứu về QTCT trong nhiều năm qua. Từ năm 1999, OECD đã đưa ra các nguyên

tắc QTCT và dùng để làm chuẩn đánh giá mức độ tuân thủ các tiêu chí này của các

quốc gia trong tổ chức. Những nguyên tắc này đã được sửa đổi và bổ sung trong

phiên bản mới năm 2004. Ngân Hàng Thế Giới đã dùng những nguyên tắc này để

thực hiện các đánh giá tình hình tuân thủ nguyên tắc của các nước để cung cấp

thông tin cho nhà đầu tư, năm 2006 đã có một nghiên cứu về QTCT ở Việt Nam.

Khủng hoảng kinh tế Châu Á vào cuối thế kỷ 20 đã đẩy quá trình nghiên cứu về

QTCT đi xa hơn. Một trong những bài học từ khủng hoảng là QTCT yếu kém và

không hiệu quả có thể tạo ra những khoản nợ lớn cho từng doanh nghiệp nói

chung và cho cả xã hội nói riêng. Các nhà kinh tế Thái Lan cho rằng, những sai

lầm trong QTCT cũng nguy hiểm giống như những cú sốc kinh tế vĩ mô khác. Họ

cũng kết luận rằng khủng hoảng kinh tế Châu Á vừa qua chỉ có thể được giải

quyết một cách triệt để và bền vững nếu chính phủ và khối doanh nghiệp cùng bắt

tay hợp tác. Cho dù một nền kinh tế mạnh nhưng thiếu các cơ chế kiểm soát minh

bạch, quyền lợi của cổ đông cũng như trách nhiệm của các thành viên quản trị

không rõ ràng thì có thể dễ dàng sụp đổ nhanh chóng nếu lòng tin của nhà đầu tư

mất đi (Charles, 2001, 2003). Những vụ bê bối tài chính ở Hoa Kỳ vào năm 2001

(trường hợp Enron) là đỉnh điểm cho những mối quan ngại của giới nghiên cứu về

QTCT.

Tại các nước, các vấn đề liên quan đến QTCT cũng phát sinh từ quá trình cổ phần

hoá (tư nhân hoá). Việc tạo ra một cấu trúc quản trị tốt sẽ là cơ sở để quá trình cổ

phần hoá thành công. Những quy định không rõ ràng và thiếu minh bạch đã dẫn

đến những hành vi cải tổ thiếu nghiêm túc. Không những thế, ngay cả tại các công

ty toàn cầu hiện nay, chủ để QTCT được đặt ra như là cơ chế đảm bảo cho sự phát

triển bền vững của doanh nghiệp.

Tại Nga, Trung Quốc và các nước Đông Âu, chủ đề cải tổ doanh nghiệp và QTCT

được nghiên cứu rất nhiều. Đặc biệt là các nghiên cứu tại Trung Quốc về vai trò

của Doanh nghiệp nhà nước và quá trình cổ phần hoá. Nghiên cứu cho thấy thành

công của cải tổ doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng để tạo ra tương lai

thịnh vượng tại Trung Quốc (Hovey, 2007). Tuy nhiên quá trình này cũng tiềm ẩn

nhiều vấn đề cần giải quyết liên quan đến thất nghiệp và công bằng xã hội. Nghiên

cứu này cũng đề nghị quá trình cải tổ DNNN nên đa dạng hoá sở hữu thông qua

đấu giá cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược cả trong nước và ngoài nước, các

quỹ tương trợ, quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm xã hội (quỹ lương hưu) và các cổ đông

nhỏ khác. Khi cổ phần hoá vì, những ưu đãi về nguồn lực đầu vào không còn nữa

thì doanh nghiệp mất đi lợi thế quan trọng nhất của mình, liệu là các doanh nghiệp

này có thể tiếp tục dựa trên tiền đề này không.

Hiện nay, các nghiên cứu về QTCT tập trung vào các chủ đề như vấn đề người đại

diện và vấn đề thao túng của HĐQT, cấu trúc sở hữu, cải tổ doanh nghiệp nhà

nước, lương bổng người quản lý, vai trò của HĐQT và quản trị viên độc lập, cơ

chế bảo vệ nhà đầu tư, tương quan QTCT và hiệu quả doanh nghiệp, khuôn khổ

pháp lý QTCT, những đặc thù về QTCT tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi

v.v.

Chúng ta đã có những động thái mới về vấn đề này, mới đây Bộ tài chính đã ra

quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 về việc ban hành Quy chế QTCT

áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao

dịch Chứng khoán. Gần đây nhất là Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007

hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Điều này cho

thấy các vấn đề đã phát sinh và khẳng định sự thừa nhận và cam kết giải quyết các

vướng mắc QTCT của Chính phủ. Hiện nay, Luật Doanh Nghiệp và Luật Chứng

Khoán là hai cơ sở pháp lý cơ bản nhất, ngoài ra còn có các văn bản dưới luật do

các Bộ ngành ban hành.

Ở khía cạnh doanh nghiệp, Điều Lệ và quy chế hoạt động là cơ sở của việc xử lý

các vấn đề liên quan. Về hình thức, chúng ta đã có những khuôn khổ cho vấn đề

này, tuy nhiên về mặt nội dung và thực thi chưa được rõ ràng. Chính vì thế, trong

bản báo cáo đánh giá của Ngân Hàng Thế Giới, chúng ta đều chưa được tuân thủ

nguyện tắc của OECD. Hơn nữa, hiện tại, rất ít có các nghiên cứu thực chứng về

các chủ đề của QTCT được thực hiện và công bố ở Việt Nam. Các vấn đề chỉ được

báo chí nêu và phân tích dưới khía cạnh chủ quan của người làm báo và thiếu các

bằng chứng nghiên cứu.

4. Ý nghĩa và tầm quan trọng của quản trị công ty trong nền kinh tế toàn cầu

Trong thế giới toàn cầu, các doanh nghiệp và các quốc gia có hệ thống QTCT yếu

thường sẽ gánh chịu những hậu quả những vụ bê bối tài chính và khủng hoảng

(Sullivan, 2003). Các nghiên cứu cho thấy cách mà doanh nghiệp quản lý, thể hiện

qua QTCT, quyết định rất lớn đến số phận của từng công ty và cả nền kinh tế

trong thời đại toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá và tự do hoá thị trường tài chính mở ra

những thị trường mới báo hiệu những cơ hội lợi nhuận đáng kể. Nhưng nó cũng

đưa doanh nghiệp đến những cuộc cạnh tranh khốc liệt và những biến động khôn

lường trong thị trường tài chính.

Các doanh nghiệp đều biết rằng để có thể mở rộng hoạt động và cạnh tranh quốc

tế, chúng ta cần những nguồn lực khác với cách truyền thống chúng ta tiếp cận.

Không thu hút được những nguồn lực phù hợp sẽ đe doạ sự tồn vong của doanh

nghiệp và có thể gây hậu quả lan truyền cho cả nền kinh tế. Thiếu vốn (vốn tài

chính, vốn nhân lực, vốn tri thức) làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp, không tạo ra việc làm và khó có thể đạt được các chỉ tiêu kinh tế xã hội

khác từ đó dẫn đến đói nghèo. Nếu doanh nghiệp không thu hút được nguồn lực

này sẽ chịu rủi ro trở thành tài sản của tập đoàn đa quốc gia, nguy hiểm hơn là

không thể tồn tại trong thị trường cạnh tranh toàn cầu, và toàn bộ nền kinh tế

không thể hưởng lợi từ toàn cầu hoá.

Tham nhũng và quản lý yếu kém đã kích hoạt cho các cuộc khủng hoảng tài chính

và nó đã tiêu tốn hàng tỷ Dollar của nhà đầu tư cũng như phá hoại năng lực tài

chính của doanh nghiệp và nền kinh tế. Các nhà đầu tư trước khi cam kết đầu tư họ

yêu cầu những bằng chứng tuân thủ các nguyên tắc kinh doanh minh bạch và giảm

thiểu khả năng gây ra tham nhũng hoặc lũng đoạn. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư

mong muốn có thể phân tích và so sánh các cơ hội đầu tư tiềm năng từ những

chuẩn mực chung. Thực vậy, một doanh nghiệp uy tín không chỉ có thể tự tin

trước những yêu cầu ngặt nghèo của các nhà đầu tư quốc tế mà còn là điều kiện

để tiếp thị quốc tế, đó là nền tảng cho sự phát triển phồn vinh của doanh nghiệp

và đất nước.

Nói tóm lại, các nhà đầu tư dù là trong nước hay bên ngoài luôn tìm kiếm các

doanh nghiệp có cấu trúc QTCT tốt. QTCT là cơ sở của "luật chơi" trong đó các

doanh nghiệp được quản lý nội bộ và được giám sát bởi HĐQT nhằm bảo vệ

quyền lợi của các chủ thể tài trợ nguồn lực cho doanh nghiệp. Điều đó thể hiện

qua những biểu hiện công khai và minh bạch. Chính phủ cần phải minh bạch và

dân chủ để người dân có thể đánh giá liệu là quyền lợi có thực sự được tôn trọng

và phục vụ. Doanh nghiệp cũng cần có những cách thức minh bạch và dân chủ để

người chủ sở hữu nguồn lực doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định sáng

suốt về cơ hội đầu tư của mình.

5. QTCT có thể giúp doanh nghiệp và nền kinh tế không?

Yếu tố quyết định người ta tham gia vào tổ chức thông qua đầu tư nguồn lực và

niềm tin là sẽ họ sẽ nhận được những phần thưởng công bằng từ doanh nghiệp.

Nếu có sự bất công bằng trong việc phân chia chi phí và lợi ích thì họ sẽ mất niềm

tin và không tiếp tục tham gia vào doanh nghiệp. Khi niềm tin mất đi, doanh

nghiệp có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Tại châu Á, các nghiên cứu cho thấy có nhiều điều chưa rõ ràng về công khai

minh bạch liên quan đến quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp, giữa chủ nợ và

chủ doanh nghiệp, và các chế tài luật pháp liên quan đến phá sản doanh nghiệp và

chủ nghĩa tư bản thân hữu (Sullivan, 2003). Các vấn đề định giá tài sản doanh

nghiệp cổ phần hoá, giao dịch nội gián, và những gian lận tại thị trường chứng

khoán vừa qua thể hiện những khiếm khuyết trong cơ chế kiểm soát. Trong điều

kiện thông tin bất cân xứng, nhóm người nội bộ dễ dàng có được những lợi thế

cho mình nhưng người trả giá lại là các cổ đông nhỏ và xã hội. Các vấn đề này có

một điểm chung đó là nó liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế

và mối tương quan giữa những nguyên tắc này và cách các doanh nghiệp tổ chức

quản lý.

Thực vậy, QTCT giúp doanh nghiệp và nền kinh tế thu hút vốn đầu tư và tăng

cường nền tảng cho hoạt động kinh tế và năng lực cạnh tranh dài hạn. Thứ nhất

yêu cầu tính minh bạch trong các giao dịch, kế toán và kiểm toán, mua hàng, v.v.

sẽ giúp giải quyết vấn đề "cung" của tham nhũng. Tham nhũng làm bòn rút tài

nguyên của doanh nghiệp, xói mòn năng lực cạnh tranh và xua đuổi nhà đầu tư.

Những yêu cầu minh bạch trên có thể giảm thiểu cơ hội cho tham nhũng phát sinh.

Thứ hai, quy trình QTCT cải thiện vấn đề quản lý của doanh nghiệp bằng cách

giúp các quản trị viên và HĐQT xây dựng những chiến lược tốt và đảm bảo các

giao dịch mua bán (cả mua bán doanh nghiệp) được thực hiện dựa trên những lý

do chính đáng, hệ thống đãi ngộ phản ảnh đúng thành quả công việc, tạo động lực

làm việc.

Thứ ba, ngay cả ở những quốc gia mà hoạt động niêm yết và thị trường chứng

khoán chưa hoạt động mạnh như Việt Nam, QTCT tốt giúp ngăn ngừa các khủng

hoảng hệ thống ngân hàng bằng cách tiếp nhận những chuẩn mực về minh bạch

trong các quan hệ với các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng. Các quy trình phá sản

doanh nghiệp cũng đảm bảo rằng có các phương pháp giải quyết các thất bại của

doanh nghiệp cũng công bằng cho những người liên quan, bao gồm nhân viên, chủ

doanh nghiệp và các chủ nợ. Nếu không có các quy trình phá sản doanh nghiệp,

đặc biệt là hệ thống thực thi thì khó có thể ngăn cản người bên trong thu vén tài

sản còn lại cho riêng mình.

Thứ tư, những nghiên cứu mới đây cho thấy các quốc gia có cơ chế QTCT tốt và

bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ thì cũng có thị trường tài chính lớn mạnh và rất

thanh khoản. Ở các nước có hệ thống luật yếu thì doanh nghiệp chủ yếu tập trung

vào một số nhà đầu tư chứ không phân tán. Bởi vậy, nếu muốn thu hút các nhà đầu

tư nhỏ cho dù là trong nước hay nước ngoài thì vấn đề QTCT là mối bận tâm

nhiều nhất của họ. Những nhà đầu tư này có nguồn vốn đa dạng và mong muốn

đầu tư dài hạn. Hơn thế nữa, QTCT tăng tường niềm tin của công chúng vào tính

xác thực của quá trình cổ phần hoá, giúp đảm bảo rằng quốc gia sẽ nhận được

những điều tốt nhất từ quá trình đầu tư này, từ đó tạo ra việc làm và giúp kinh tế

tăng trưởng.

QTCT rõ ràng có lợi cho doanh nghiệp và quốc gia, và quá trình toàn cầu hoá hiện

nay lại khiến vấn đề càng trở nên cấp bách. Để làm được điều này cả doanh nghiệp

và chính phủ cần có những thay đổi căn bản. Doanh nghiệp cần thay đổi cách vận

hành, chính phủ cần phải thiết lập và duy trì khuôn khổ định chế phù hợp. Nếu

không có luật lệ và cấu trúc ràng buộc tự nhiên, xáo trộn sẽ xảy ra. Nếu không có

những ràng buộc này, các doanh nghiệp trở thành các nhà tư bản trên sòng bài và

đầu tư của họ chỉ là những đánh cuộc cho rủi may. Hy vọng rằng người kia sẽ giữ

lời hứa, hi vọng rằng doanh nghiệp sẽ nói thật, hi vọng rằng nhân viên sẽ được trả

lương đầy đủ, hy vọng rằng chủ nợ sẽ được hoàn trả đều là những ước mơ. Vì thế

QTCT hướng đến thiết lập các cấu trúc qua đó cho phép mọi người có thêm tự do

trong khuôn khổ của luật pháp. Những thay đổi bao gồm tiếp nhận những chuẩn

mực quốc tế về báo cáo tài chính minh bạch, rõ ràng và chính xác thì các nhà đầu

tư mới có thể so sánh các cơ hội đầu tư. QTCT tốt giúp giảm rủi ro, giúp thành quả

hoạt động tốt hơn, tăng khả năng tiếp cận thị trường vốn, mở rộng tiếp thị trường

hàng hoá dịch vụ, cải thiện năng lực lãnh đạo, tính minh bạch và trách nhiệm xã

hội. Các thể chế này là cơ sở để thiết lập một thành tố quan trong nhất trong kinh

doanh đó là chữ tín.

6. Khởi đầu của một hành trình dài

Cho dù là ở quốc gia nào thì các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội từ các doanh

nghiệp để có thể hưởng lợi trong tương lai. Họ không có thời gian và khả năng để

có thể tự mình vận hành doanh nghiệp và đảm bảo mang lại lợi ích từ đầu tư của

mình. Họ thuê những chuyên gia quản lý điều hành doanh nghiệp và giải quyết các

vấn đề hằng ngày. Điểm hạn chế của mô hình này là người quản lý thường không

phải là chủ sở hữu và vì thế họ không gánh chịu những rủi ro mất mát cơ hội đầu

tư cũng như lợi nhuận. Những người quản lý này có thể hành động gây thiệt hại

cho giá trị đầu tư của cổ đông. Họ không thận trọng trong việc quản lý doanh

nghiệp hoặc không mạnh dạn khi thấy mình an toàn hoặc quá liều lĩnh khi có nguy

nguy cơ với mình. Họ có thể không làm những việc có lợi ích lâu dài cho doanh

nghiệp mà ngược lại bảo vệ chính mình bằng cách đầu tư vào những ngành vận

hành dễ, tham gia vào các hoạt động làm thất thoát tài sản doanh nghiệp và các

hoạt động nội gián.

Nhu cầu QTCT ở Việt Nam mở rộng xa hơn không chỉ là vấn đề tách rời sở hữu

và quản lý nói trên. Chúng ta còn có vấn đề liên quan đến thiếu các quyền sở hữu,

lạm dụng quyền của cổ đông lớn, vi phạm hợp đồng và giao dịch nội bộ. Càng tệ

hơn là những hành động này lại chưa được phát hiện và xử phạt đầy đủ. Điều này

là bởi vì thiếu các định chế xã hội và kinh tế cần thiết để đảm bảo cho dân chủ và

thị trường phát triển.

Trong nghiên cứu mới đây của Ngân Hàng Thế Giới về QTCT ở Việt nam. Một

câu hỏi lớn đó là cơ chế thực thi luật pháp. QTCT phụ thuộc vào hệ thống các định

chế (luật, quy định, hợp đồng và các chuẩn mực khác) qua đó làm nền tảng cho

các doanh nghiệp phát triển trong thị trường cạnh tranh. Những định chế này đảm

bảo rằng các quy định về QTCT phải được tuân thủ. Khối tư nhân và nhà nước

phải hợp tác để xây dựng những quy tắc ràng buộc lẫn nhau và đồng thời định

hướng cách công ty quản lý chính mình. Mặc dù chúng ta đã có Luật Doanh

Nghiệp, Luật Chứng Khoán cùng các văn bản dưới luật và hướng dẫn của Bộ Tài

chính liên quan đến QTCT, nhưng việc thực thi các văn bản luật này còn phải chờ

thời gian trải nghiệm.

Hơn nữa, việc thiết lập QTCT tại các nước đang phát triển như Việt Nam đòi hỏi

không chỉ là thu nhập các mô hình QTCT tốt từ các quốc gia phát triển. Quan

trọng là chú ý đến thiết lập các định chế kinh tế và xã hội phù hợp cho nhu cầu cụ

thể. Chỉ có những định chế được thiết kế và vận hành tốt mới có thể giúp thực thi

các hướng dẫn và nguyên tắc QTCT. Nếu không nhận dạng các nguyên tắc và vấn

đề QTCT cốt lõi của doanh nghiệp thì các định chế tốt nhất cũng không thể nào

đưa ra những lời giải thích hợp. Cho đến thời điểm này, những nghiên cứu thực

chứng về QTCT của doanh nghiệp còn rất hạn chế, việc xác định vấn đề còn bỏ

ngõ.

Ở Thái Lan, từ sau khủng hoảng kinh tế, Hiệp hội các Nhà Quản Trị đã thực hiện

việc "Đánh giá thành tích QTCT của các công ty niêm yết" qua đó công bố thông

tin và thưởng cho các công ty có thành tích tốt. Các nghiên cứu này cũng khẳng

định rõ sự tương quan giữa QTCT tốt và thành quả doanh nghiệp, giá cổ phiếu

trên thị trường cũng như niềm tin của nhà đầu tư. Mặt khác những mô hình QTCT

tốt sẽ là kiểu mẫu để cho các doanh nghiệp khác có thể học tập và triển khai.

Thực tế, các doanh nghiệp còn ngại ngùng vì khi thực hiện công việc này vì nghĩ

rằng chi phí cao hơn lợi ích mang lại đồng thời tính minh bạch càng gia tăng thì

việc kinh doanh ngày càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước

cho thấy rằng hệ thống QTCT tốt sẽ thu hút được nhiều hơn thương mại và đầu tư

quốc tế, đồng thời tạo ra cơ chế để hạn chế tham nhũng. Các nhà kinh tế cũng

khuyến cáo nên tránh sao chép toàn bộ hệ thống của các quốc gia khác hoặc mời

chuyên gia nước ngoài viết các văn bản luật mẫu. Mặc dù các nhà tài trợ vẫn

không ngừng tạo áp lực để hoàn tất các công việc này theo cách của họ, việc làm

này cần phải xem xét cẩn trọng. Để xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ

thống chuẩn mực cho phép đổi mới và sáng kiến hơn là định trước những việc mà

người ta có thể làm. Vì vậy mà QTCT được xem là cơ chế cho các tổ chức tự điều

tiết. Nhưng cần nhấn mạnh rằng kinh tế thị trường không có nghĩa là thiếu vắng sự

can thiệp của chính phủ.

7. Kết luận

Tất cả những vấn đề nêu trên đều thể hiện trong môi trường kinh doanh ở Việt

Nam và càng bộc lộ rõ qua quá trình cổ phần hóa và sự phát triển của thị trường

chứng khoán gần đây. Khi mà các nguyên tắc căn bản công bằng, tín nhiệm, trách

nhiệm, công khai và minh bạch chưa được thực hiện một cách nghiêm túc thì sẽ

còn nhiều khoảng trống để xác định và cải tiến. Cần nhận thấy rằng QTCT tốt sẽ

nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và là tiền đề phát triển kinh

tế bền vững.

Ở quan điểm vĩ mô, hệ thống QTCT tốt giúp doanh nghiệp hoà nhập với nền kinh

tế toàn cầu. Chất lượng QTCT tại từng quốc gia ảnh hưởng lớn đến khả năng duy

trì năng suất, tăng trưởng và phát triển bền vững trong dài hạn. Ở cấp độ vi mô,

mục đích của QTCT là tạo điều kiện thuận lợi và kích thích hiệu quả hoạt động

của doanh nghiệp bằng cách tạo ra và duy trì động lực của người bên trong doanh

nghiệp làm việc hiệu quả cao nhất. QTCT tốt có thể hạn chế người bên trong lạm

dụng quyền lực đồng thời là công cụ kiểm soát hành vi quản lý để đảm bảo uy tín

của doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và xã hội.

Ở Việt Nam, mọi việc đang chỉ mới bắt đầu, cơ hội nghiên cứu về QTCT ở Việt

Nam có thể tiếp cận ở hai hướng. Thứ nhất các nghiên cứu có thể tập trung vào

xác định các vấn đề liên quan đến thể chế và quy định của luật pháp, bao gồm

hoàn thiện các cơ chế luật, các quy định về kế toán, báo cáo, kiểm toán, đây là

khuôn khổ chung cho QTCT. Công việc này đang được các cơ quan luật và Bộ Tài

Chính thực hiện.

Hướng nghiên cứu thứ hai tập trung vào các doanh nghiệp với các vấn đề hiện tại

như cơ chế cải tổ doanh nghiệp nhà nước, chính sách đãi ngộ cho cán bộ quản lý

và HĐQT, vai trò quản trị viên độc lập, các mô hình cấu trúc sở hữu và thành quả

của doanh nghiệp, các mô hình công ty mẹ con, sáp nhập & mua lại, và các vấn đề

QTCT đặc thù tại các công ty đại chúng và niêm yết. Ngoài ra có thể mở rộng

nghiên cứu thực chứng trong tương quan về QTCT với thị giá doanh nghiệp, vai

trò của các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức, vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài với

thành quả doanh nghiệp, và các nguyên tắc hành xử QTCT nói chung ở Việt Nam.

Những nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện khuôn khổ QTCT tại Việt Nam

giúp tăng cường năng lực cạnh tranh toàn cầu cũng như ngăn ngừa những nguy cơ

khủng hoảng. Hơn thế nữa, đây sẽ là nền tảng để xây dựng các chuẩn mực quản trị

chung không chỉ cho các công ty đại chúng, niêm yết mà các công ty cổ phần

khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Anh

[1.] Alchian, Armen A. and Harold Demsetz (1972). “Production, Information

Costs, and Economic Organization.” American Economic Review LXII, no.

5: 777-795

[2.] Asia Development Bank (2007). Asian Development Outlook.

[3.] Cadbury (1992). The financial aspects of Corporate governance. The

Committee on the Financial Aspects of Corporate Governance.

[4.] Center for International Private Enterprise (CIPE) (2002). Instituting corporate

governance in developing, emerging and transitional economies, a

Handbook.

[5.] Charles P. O. (2001), Corporate Governance and National Development.

OECD Development Center.

[6.] Charles P. O. (2003). Corporate Governance in Developing, Transition &

Emerging–Market Economies. OECD Development Center, Policy Brief 23.

[7.] Claessens S. (2003). Corporate governance and development. Global

Corporate Governance, The International Bank for Reconstruction and

Development/The World Bank.

[8.] Hovey M., Naughton T. (2007). Survey of enterprise reform in China: The

way forward. Economic system.

[9.] Jensen (1976). Theory of the firm: managerial behavior, agency costs and

ownership structure. Journal of Financial Economics, V.3, No. 4, pp. 305–

360.

[10.] Jensen (1983). Separation of Ownership and Control. Journal of Law and

Economics, Vol XXVI.

[11.] Morck, R., Lloyd Steier, The global history of corporate governance – An

introduction. NBERWorking Paper 11062, 2005.

[12.] Nick Freeman, N. V. Lan. Corporate Governance in Vietnam, the beginning

of a long journey. Private sector discussion. Vol. 22. oct 2006, MPDF, IFC.

[13.] OECD (1999, 2004). Principles of Corporate Governance.

[14.] Oliver Hart(1995).Corporate Governance: Some Theory and Implications.

The Economic Journal Vol. 105, No. 430., pp. 678-689.

[15.] Sullivan J.D. (2003), Introduction to Corporate governance. Center for

International Private Enterprise.

[16.] World Bank. Report On The Observance Of Standards And Codes (ROSC),

Corporate governance country assessment, Vietnam, June 2006.

Tiếng việt

[17.] Bộ Tài Chính. Quy chế về QTCT dành cho các doanh nghiệp niêm yết trên

sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán. Số

12/2007/QĐ-BTC ngày 13/32007.

[18.] Nghị định, số 187/2004/ND-CP, ngày 16/112004 v/v chuyển công ty nhà

nước thành công ty cổ phần (Cổ phần hoá).

[19.] Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam. Luật Chứng Khoán. Số.

70/2006/QH11. có hiệu lực từ 1/1/2007.

[20.] Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam. Luật Doanh Nghiệp. Số

60/2005/QH11. Có hiệu lực từ 1/7/2006.

Ghi chú :

 Người bên trong được hiểu là cán bộ điều hành cấp cao và thành viên hội

đồng quản trị.

 Adam Smith (1776), An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth

of Nations, Trang 391.

 Theo Jensen (1976), chi phí đại diện bao gồm chi tiêu dành cho kiểm soát,

chi tiêu để khuyến khích người đại diện và những thất thoát từ vấn đề đại

diện.

 h

ttp://wps.pearsoned.co.uk/wps/media/objects/1065/1090612/glossary.html

 Các nguyên tắc QTCT của OECD phiên bản 2004 bao gồm: Đảm bảo

khuôn khổ pháp lý về QTCT, Quyền lợi của cổ đông, Đối xử các cổ đông

công bằng, Vai trò của những người liên quan trong QTCT, Công bố và

minh bạch thông tin, và Trách nhiệm của hội đồng quản trị.