Quản trị hiệu quả làm việc nhân viên

PMP (PerformanceManagementProcess) - tạm dịch là Quá trình

quản trị hiệu quả làm việc - bàn là một xu thế quản trị không thể

thiếu trong nhiều tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, đang được

áp dụng khá phổ biến từ nhiều năm qua.

Ở Việt Nam, nhiều tổ chức, công ty cũng áp dụng hình thức đánh

giá thành tích nhân viên, theo đó, hàng năm nhân viên được cấp

trên đánh giá kết quả và thái độ làm việc vào cuối năm để xét

khen thưởng, đề bạt, nâng lương. . . Cũng có nơi áp dụng cơ chế

bình bầu, xét kết quả thi đua, khen thưởng ở từng phòng ban,

sau đó đề nghị lên ban giám đốc phê duyệt. Cách đánh giá thành

tích này của các tổ chức, công ty Việt Nam thường gây nhiều

tranh cãi, đôi khi có tác dụng ngược là gây ra sự bất mãn, mất

đoàn kết trong đội ngũ nhân viên vì nó không được xây dựng một

cách khoa học, dựa trên các tiêu chí cũng như phương pháp

đánh giá rõ ràng, công bằng, mà phần nhiều chỉ dựa vào sự nhận

xét theo cảm tính, đôi khi rất thiên vị, của người đánh giá.

Trong phạm vi bài viết này, người viết xin được chia sẻ kinh

nghiệm quản trị hiệu quả làm việc được áp dụng ở nhiều công ty

nước ngoài, đặc biệt là các công ty Âu, Mỹ.

Tuy quá trình, tiêu chí và phương pháp có thể có sự khác biệt đôi

chút, nhưng nhìn chung, Quá trình quản trị hiệu quả làm việc

(PMP) ở các tập đoàn lớn thường có những điểm cơ bản giống

nhau.

Bốn chức năng của quy trình quản trị hiệu quả làm việc

Có người hiểu Quá trình quản trị hiệu quả làm việc là một hệ

thống đánh giá thành tích nhân viên. Cũng có người bảo Quá

trình quản trị hiệu quả làm việc là một hệ thống khen thưởng, kỷ

luật. Một số khác cho rằng đây là quá trình kiểm soát hiệu quả

làm việc và thái độ trong công việc của nhân viên. Thực ra, vấn

đề không đơn giản như vậy. Cũng như mọi quá trình quản trị

khác, Quá trình quản trị hiệu quả làm việc của nhân viên cũng có

bốn chức năng chính là: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm

soát.

Bốn chức năng chính nêu trên đã thể hiện rõ rằng quá trình quản

trị thành tích và năng lực của nhân viên cần phải được hoạch

định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát như thế nào để đảm bảo kết

quả cuối cùng "sẽ như mong đợi" chứ không phải là "sẽ rõ vào

cuối năm". Với việc thực hiện đầy đủ các chức năng này thông

thường kết quả đánh giá cuối cùng sẽ đạt được kết quả tích cực

(nghĩa là nhân viên có thành tích tốt, năng lực làm việc tốt) nhiều

hơn là tiêu cực (thành tích kém, năng lực kém).

Hai đối tượng của quá trình quản trị hiệu quả làm việc

Đối tượng của Quá trình quản trị hiệu quả làm việc bao gồm cả

hai khía cạnh:

- Thành tích hay kết quả làm việc của nhân viên.

- Năng lực hay kỹ năng của nhân viên.

Hai đối tượng của Quá trình quản trị hiệu quả làm việc về thực

chất là hai khía cạnh của một công việc, thường được các

chuyên gia gọi là khía cạnh "cái gì" và khía cạnh "thế nào" của

một công việc (the "what" and the "how" of a job). Khía cạnh "cái

gì" của một công việc được hiểu là kết quả, thành tích đạt được

của công việc ấy, trong khi khía cạnh "thế nào" được hiểu là kết

quả ấy, thành tích ấy đạt được như thế nào, bằng cách nào, nhờ

vào những năng lực gì.

Thông thường khía cạnh "cái gì" chiếm tỷ trọng khoảng 60-70%

trong tổng kết quả đánh giá, trong khi khía cạnh "thế nào" chiếm

tỷ trọng khoảng 30-40% vốn, khi áp dụng tỷ lệ 70-30, một nhân

viên đạt điểm 4 (thang điểm từ 1 đến 5) trong phần đánh giá kết

quả công việc và điểm 3 trong phần đánh giá năng lực thực hiện

công việc, người đó sẽ có kết quả đánh giá tổng thể cuối cùng là

4 x 0,7 + 3 x 0,3 = 3,7 điểm.

Năm giai đoạn thực hiện của quá trình quản trị hiệu quả làm việc

Một chu trình Quá trình quản trị hiệu quả làm việc chuyên nghiệp

thường được xây dựng và triển khai theo năm bước chính sau:

Thiết lập mục tiêu công việc cho nhân viên.

- Theo dõi, chấn chỉnh.

- Kèm cặp, hướng dẫn.

Đánh giá hiệu quả, bao gồm có kết quả và năng lực thực hiện.

Khen thưởng và kế hoạch phát triển nghề nghiệp.

Mô hình dưới đây thể hiện một chu trình khép kín của Quá trình

quản trị hiệu quả làm việc bao gồm năm giai đoạn. Nhìn vào chu

trình này, chúng ta có thể thấy bước đầu tiên rất quan trọng là

phải thiết lập mục tiêu cho nhân viên (khía cạnh "cái gì"). Thường

các mục tiêu này được thảo luận và thống nhất giữa nhân viên và

cấp trên trực tiếp vào đầu năm hoặc cuối năm trước, và có thể

được phê chuẩn bởi một cấp cao hơn. Các mục tiêu phải rõ ràng,

định lượng được (đo lường được), khả thi, thực tế, và có mốc

thời gian hoàn thành cụ thể (thường gọi là mục tiêu SMART).

Đồng thời với giai đoạn thiết lập mục tiêu này, nhân viên cũng sẽ

"đăng ký" và thỏa thuận với cấp trên của mình một số các năng

lực cần phải được xây dựng và cải thiện cho bản thân mình. Các

năng lực này (khía cạnh "thế nào") cũng sẽ được đánh giá vào

cuối kỳ cùng với phần kết quả công việc (khía cạnh "cái gì").

Sau khi thiết lập mục tiêu và xác định các năng lực cần có rồi thì

không phải đợi đến cuối năm (hay cuối thời kỳ) mới đánh giá kết

quả mà phải có sự theo dõi, giám sát của cấp trên trực tiếp để

phẫn hồi và chấn chỉnh tức thời cho những sai lệch hoặc yếu kém

có thể có trong quá trình làm việc. Việc theo dõi, phản hồi này

thường được thực hiện với chu kỳ hàng tháng, mỗi ba tháng,

hoặc bất kỳ khi nào có sai lệch, yếu kém nghiêm trọng, thông qua

đối thoại trực tiếp giữa cấp trên với nhân viên. Nhờ vậy sẽ tránh

được tình trạng, vào cuối năm, kết quả đánh giá tệ hại, nhân viên

hoàn toàn đi chệch mục tiêu hoặc quá yếu kém về năng lực.

Kế đến là việc kèm cặp, hướng dẫn để nhân viên khắc phục

những sai lệch, yếu kém được phát hiện trong quá trình làm việc.

Đánh giá cuối kỳ cũng thông qua đối thoại trực tiếp giữa nhân

viên và cấp trên trực tiếp. Thường nhân viên tự cho điểm dựa

vào kết quả thực hiện từng mục tiêu và mức độ các năng lực xây

dựng hoặc cải thiện được, sau đó cấp trên cho điểm và giải thích

cho nhân viên kết quả cho điểm của mình. Nếu có sự chênh lệch

quá xa giữa hai ý kiến, cấp trên cao hơn có thể xem xét lại kết

quả đánh giá để phê chuẩn.

Nhiều tổ chức, công ty kết thúc quá trình đánh giá bằng một đợt

khen thưởng, nâng lương, đề bạt. . . Nếu chỉ có vậy thì quả thật

là chưa đủ. Nhân viên không chỉ kỳ vọng vào vấn đề lương

thưởng bằng tiền hoặc hiện vật. Họ quan tâm rất nhiều đến con

đường phát triển nghề nghiệp của mình. Sau một đợt đánh giá,

không phải bất kỳ nhân viên nào có thành tích và năng lực tốt

cũng đều sẽ được đề bạt ngay lập tức. Nhiều người hoàn toàn an

tâm với công việc và chức vụ hiện tại, nhưng vẫn muốn biết con

đường tương lai sẽ như thế nào. Cấp trên có trách nhiệm phải

đối thoại với nhân viên để lắng nghe nguyện vọng của họ, đồng

thời dựa vào kết quả đánh giá cũng như yêu cầu tương lai của tổ

chức để vạch ra con đường phát triển nghề nghiệp cho từng

nhân viên. Có nhân viên sẽ được khuyên nên chọn con đường

này, có nhân viên sẽ được khuyên nên chuyển hướng sang công

việc khác . . . Bao gồm trong kế hoạch phát triển nghề nghiệp là

một chương trình đào tạo dài hạn để hỗ trợ nhân viên thực hiện

mục tiêu phát triển nghề nghiệp của mình. Triết lý quá trình quản

trị hiệu quả làm việc và chính sách giữ người

Với một chu trình quản trị hiệu quả làm việc khoa học như trên,

nhiều tổ chức, công ty không phải cứ bỏ mặc nhân viên làm việc

và chỉ đánh giá để biết kết quả cuối cùng rồi thưởng, phạt, mà họ

thực sự đồng hành cùng nhân viên trong việc cải thiện kết quả và

nâng cao năng lực làm việc Tổ chức còn đóng vai trò quan trọng

trong việc định hướng nghề nghiệp cho nhân viên và hỗ trợ nhân

viên thực hiện mục tiêu nghề nghiệp cho mình.

Thiết tưởng, sự trung thành của nhân viên không phải chỉ mua

được bằng tiền thông qua lương thưởng mà quan trọng hơn,

chính con đường phát triển nghề nghiệp mới là điều có thể giữ

chân họ lâu dài cho tổ chức, doanh nghiệp.