
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Ninh Bình
Chúng tôi, gồm:
Số
T
T
Họ và tên Năm
sinh
Nơi công tác Chức danh Trình độ
chuyên
môn
Tỷ lệ
(%) đóng
góp
1 Bùi Thị Bích Hường 1978 Trường
THPT
Kim Sơn B
Chủ tịch CĐ Thạc sĩ
20%
2Nguyến Thị Thúy 1984 Trường
THPT
Kim Sơn B
Tổ phó Cử nhân
20%
3Phạm Thị Hồng 1986 Trường
THPT
Kim Sơn B
Giáo viên Cử nhân
15%
4Phạm Thị Lành 1988 Trường
THPT
Kim Sơn B
Giáo viên Cử nhân
30%
5Đồng Thị Thanh Thảo 1985 Trường
THPT
Kim Sơn B
Giáo viên Cử nhân
15%
Là các đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Dạy học chủ đề tích hợp chương
Cacbohdrat theo mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học trực tiếp kết hợp trực tuyến –
Hóa học 12 cơ bản
I. TÊN SÁNG KIẾN VÀ LĨNH VỰC ÁP DỤNG
1. Tên sáng kiến

“Dạy học chủ đề tích hợp chương Cacbohdrat theo mô hình lớp học đảo ngược trong dạy
học trực tiếp kết hợp trực tuyến – Hóa học 12 cơ bản”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến đuợc áp dụng vào lĩnh vực giáo dục nói chung và
áp dụng trong dạy học hoá học 12 nói riêng
II. NỘI DUNG
1. Giải pháp cũ thường làm
a. Về phương pháp dạy học
Mỗi PPDH đều có những ưu thế và nhược điểm riêng. PPDH truyền thống là cách
thức dạy học quen thuộc, duy trì qua nhiều thế hệ. Trong đó, người GV đóng vai trò là trung tâm
và truyền tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Theo đó, giáo viên là người thuyết trình, diễn
giảng còn học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với PPDH truyền thống, giáo
viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo.
Ưu điểm của PPDH truyền thống là :
+ Chủ động trong tiến trình đào tạo: tập trung vào chủ điểm, kiểm soát được nội dung và
thứ tự thông tin truyền đạt trong thời gian định trước.
+Truyền đạt được khối lượng lớn kiến thức trong một thời gian giới hạn.
+ Phù hợp với số đông người học, thiếu trường lớp, thiếu phương tiện.
+ Người dạy trình bày và giải thích nội dung mới cũng như chỉ đạo và kiểm tra các bước
học tập
+ Chú trọng khả năng tái hiện chính xác tri thức
Nhược điểm
Theo quan sát và điều tra chúng tôi thấy hiện nay việc dạy học và việc học trong
chương cacbohidrat thuờng diễn ra như sau :
* Với GV
- Phương pháp dạy học của hầu hết các giáo viên vẫn mang nặng các phương pháp truyền
thụ, thuyết trình, thông báo, chủ yếu tập trung vào nội dung dạy học, ít chú ý đến khả năng ứng
dụng, liên hệ thực tế hoặc mở rộng kiến thức giữa các vấn đề khác nhau cuả cùng một đơn vị
kiến thức đó nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng
sáng tạo và năng động.
- GV đã chú ý đến việc soạn và thiết kế bài giảng theo hướng phát triển năng lực của học
sinh, nhưng chưa có nhiều liên hệ thực tế, chưa vận dụng nhiều câu hỏi thực tế. Trong giáo án
của GV chủ yếu tóm tắt lại kiến thức sách giáo khoa, không hoạch định hoặc hoạch định không
rõ ràng các hoạt động của giáo viên và học sinh trong mỗi giờ dạy, cách tổ chức , định hướng
của giáo viên chưa được thể hiện rõ.

- Trong giờ luyện tập GV thường nêu và đưa ra phương pháp giải các bài tập thường gặp,
chỉ rèn kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào bài học cụ thể để học sinh trả lời tốt các câu hỏi
trong đề thi.
- Chưa huớng dẫn học sinh tìm hiểu các vấn đề thực tế liên quan tới nội dung chương
cacbohidrat mặc dù chương này có rất nhiều kiến thức liên quan đến đời sống sức khỏe con
người.
- Về hình thức kiểm tra thì giáo viên đang nặng về hình thức kiểm tra trí nhớ và chủ yếu
theo hình thức truyền thống là phát đề để các em làm trên giấy, chưa đề cao việc kiểm tra đánh
giá nhằm phát triển năng lực của học sinh, chưa định hướng vào khả năng vận dụng tri thức
trong những tình huống thực tiễn.
- Trong kiểm tra đánh giá , nếu không áp dụng các phần mềm công nghệ để thiết kế kiểm
tra đánh giá dưới dạng trò chơi mà chỉ tập trung vấn đề truyền tải kiến thức và kiểm tra đáng giá
thông thường trên giấy, có thể làm cho học sinh mệt mỏi, căng thẳng, giảm hiệu quả dạy – học
như mong muốn, đồng thời việc thu bài diễn ra trong thời gian dài hơn so kiểm tra trên phần
mềm công nghệ có giới hạn thời gian nhất định nên học sinh hay tranh thủ để trao đổi, nhìn trộm
bài của bạn làm giảm tính xác thực khi kiểm tra đánh giá.
* Với học sinh
- Học sinh khó nắm được hiệu quả của bài giảng, dễ bị “ù lỳ” khi nghe quá lâu.
- Đa số học sinh chú trọng việc tiếp thu kiến thức nhưng kĩ năng vận dụng các kiến thức
hoá học về cácbohidrat vào đời sống hàng ngày là còn kém.
- Học sinh không được làm việc theo nhóm và thảo luận với nhau về các kiến thức nên
không dám mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước đám đông.
- Nếu giáo viên không giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu trước ở nhà mà đến giờ lên
lớp chỉ sử dụng mỗi bài powerpoint thông thường để truyền đạt kiến thức theo phương pháp dạy
học truyền thống sẽ làm cho học sinh dễ nhàm chán, không chủ động và tích cực tiếp thu kiến
thức mới, và mau quên.
- Học sinh ít được giao các bài tập tìm hiểu về các vấn đề liên quan tới đời sống thực tiễn
ví dụ như các bệnh thường gặp và cách phòng tránh các bệnh nguy hiểm khi cơ thể dư thừa
gluxit, cách sử dụng các loại thức ăn có chứa các hàm lượng gluxit như thế nào để đảm bảo sức
khỏe con người.
b. Về hình thức tổ chức
- Tổ chức học trực tiếp tại trường
Ưu điểm:

- Học sinh được trao đổi thảo luận trực tiếp, tiết kiệm được thời gian kết nối giữa giáo
viên – học sinh, học sinh – học sinh.
- Qúa trình dạy – học không bị gián đoạn bởi lí do khách quan như sự cố của thiết bị máy
móc hoặc kết nối mạng internet.
Nhược điểm:
- Tổ chức dạy học trực tiếp tại trường, những học sinh nghỉ học tiết học đó do bị ốm hoặc
phải đi cách ly do mắc covid sẽ không được tham gia học tập cùng thầy cô và các bạn, mà phải
mượn lại vở của các bạn để tự ghi bài và tự tiếp thu kiến thức, ít có cơ hội trao hoặc lười biếng
không trao đổi với bạn bè thầy cô để hiểu rõ hơn thậm chí dễ lười biếng, không ghi chép, tìm
hiểu và tiếp thu kiến thức bài mới làm cho kiến thức phần đó bị hổng dần sẽ ảnh hưởng đến
phần kiến thức có liên quan về sau dẫn đến tình trạng chán học.
c. Về chủ đề tích hợp kiến thức
Trong sách giáo khoa Hóa học lớp 12 THPT hiện nay, chương cacbohdrat trình bày trong
4 bài gồm
+ Bài 5: Glucozơ
+ Bài 6: Saccaozơ, tinh bột và xenlulozơ
+ Bài 7: Luyện tập : Cấu tạo và tính chất của cacbohdrat
+ Bài 8: Thực hành: Điều chế, tính chất hóa học của este và cacbohdrat
- Kiến thức chương cacbohidrat được thực hiện trong 6 tiết theo chương trình giáo dục
truyền thống còn gọi là chương trình giáo dục ”định hướng nội dung” hay dạy học ”định hướng
đầu vào, điều khiển đầu vào”. Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội dung
là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong
chương trình dạy học. Những nội dung của các môn học này dựa trên các khoa học chuyên
ngành tương ứng. Người ta chú trọng việc trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học
khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Kiến thức về cacbohdrat trong môn Hóa học nói riêng và các môn học khác có liên
quan theo phân phối chương trình của các bộ môn riêng biệt đã thực hiện trong những năm học
qua tức là dạy hết bài 5 rồi đến bài 6 , bài 7 và ít được giáo viên tích hợp cụ thể giữa các bộ môn
khác nhau có liên quan đến đơn vị kiến thức của chương.
Ưu điểm:
- Truyền thụ cho người học một hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực
khác nhau.
- Kiến thức chia nhỏ, trình bày theo thứ tự từng đơn vị kiến thức, phù hợp với việc tiếp
thu kiến thức và có vận dụng kiến thức để làm các bài tập đối với tất cả các đối tượng học sinh.

Nhược điểm :
Theo quan sát và điều tra tôi thấy hiện nay việc dạy học và việc học trong chuơng
cacbohdrat thuờng diễn ra như sau :
- Tiến trình đó làm cho học sinh học một cách dàn trải và cảm thấy kiến thức trở lên quá
tải, khó nhớ, bị lặp lại dẫn đến tình trạng chán nản trong việc tiếp thu kiến thức.
- Một số môn học khác nhau có liên quan đến một đơn vị kiến thức nhưng được xây dựng
nội dung dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng khác nhau làm mất nhiều thời gian để
trình bày đồng thời làm cho học sinh không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng
ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn xoay quanh vị kiến thức đó.
- Với cách giảng dạy theo nội dung kiến thức từng bài , từng lĩnh vực khoa học theo các
bộ môn khác nhau được cung cấp cho học sinh sẽ được thực hiện theo trình tự, sau quá trình học
tập học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức theo trình tự bài học và thường dừng lại ở trình độ biết,
hiểu và vận dụng giải bài tập còn những vấn đề liên quan tới thực tiễn đa số học sinh thường
không biết hoặc biết rất ít vì vậy đã giảm hứng thú của học sinh với môn học.
2. Giải pháp mới của sáng kiến
a. Về phương pháp dạy học
Theo chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, trong quá trình dạy học phải hướng tới
phát triển các năng lực chung mà học sinh cần có trong cuộc sống như: năng lực tự học, năng
lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, tìm kiếm và xử lý thông tin…nhằm phát
triển năng lực, phẩm chất tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực
chung cần có của con người mới ở xã hội hiện đại. Vì vậy cần phải thay đổi phương pháp dạy
học phù hợp để khắc phục những hạn chế của phương pháp cũ và đạt được mục tiêu dạy học
mới đó là phát triển các năng lực cho học sinh giúp học sinh biết liên hệ, vận dụng kiến thức
môn học vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Để đạt được hiệu quả tối ưu trong các mục
tiêu nêu trên, chúng tôi đã áp dụng hình thức dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược khi dạy
chủ đề tích hợp chương cacbohidrat.
b. Về hình thức tổ chức
Tổ chức dạy học trực tiếp kết hợp trực tuyến qua các phần mềm hỗ trợ như zoom,
googlemeet, mteamm, padlet, kahoot, quizzi…
Ở Việt Nam, mô hình dạy học trực tuyến đã được áp dụng từ lâu nhưng chủ yếu trong
bậc đại học cho những sinh viên theo ngành đạo tạo từ xa mà chưa áp dụng trong các bậc học
khác.
Ưu điểm: