1
Sáng kiến kinh nghiệm
Một số kinh nghiệm giúp
giáo viên khối 1 nâng cao
cht lượng dạy môn
Tiếng Việt
2
I.ĐT VẤN ĐỀ
Giáo dục trẻ em là mt nhiệm vụ vô cùng quan trng mà cả xã hi đều
quan m, bi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, để ngày mai thế
giới những chủ nhân tốt, xã hi có nhng công dân tốt thì ngay t ngày
m nay chúng ta phải đào to thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về tự nhiên xã
hội và có phẩm chất đạo đức của con người để các em được học lên các cấp
học trên dễ dàng. Nhim vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hi quan
tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường tiểu học.
Bởi vì nhà trường nói chung và trường tiu học nói riêng là nơi kết tinh trình
độn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa trẻ ngày hôm
nay và mai sau trở thành nhng người như thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào
cấp tiểu học các em được học những gì.
Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng
học sinh lên lp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuc vận động “
hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Những người làm quản lý giáo dục
như tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của
mình phải có chất lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phải có kế
hoạch và bin pháp cụ thể góp phn đưa chất lượng học sinh trong nhà
trường đạt hiệu quả tốt. Là phó hiu trưởng phụ trách chuyên môn của
trường, cùng với Ban gm hiệu, công việc chủ yếu là chỉ đạo, dự giờ theo
i việc giảng dạy của giáo viên tất cả các khối lớp, nhưng tôi đặc biệt chú
trọng đến khối lớp Một vì lớp Một là lớp rất quan trọng ở tiểu hc, nếu các
em không đọc thông viết thạo thì các em làm toán cũng rất khó khăn và hc
các môn học khác cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị
hổng kiến thức. Tthực tế qua mt năm chỉ đạo và theo dõi về chuyên môn
i đã chn đề tài: Mt số kinh nghiệm giúp giáo viên khối Một nâng cao
cht lượng dy môn Tiếng Việt.
3
II.NHỮNG KHÓ KHĂN:
Qua quá trình chỉ đạo và theo dõi tôi nhận thy chất lượng dạy môn Tiếng
Việt ca khối lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều nguyên nhân,
nhưng nguyên nhân chủ yếu mà mt số học sinh lớp Một đến cuối năm đọc,
viết vnn chm tập trung vào những nguyên nhân sau đây:
1. Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp
với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa
nhiệt tình giúp đỡ học sinh.
2. Đối với học sinh: Bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do
hoàn cảnh gia đình.
3. Đối với phụ huynh: Một số gia đình không quan tâm đến con em
mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN:
Học sinh lp Một khi mới vào trưng tiểu học các em còn rất bỡ ngỡ và
mọi thứ còn rất mới lạ, trong thời gian đầu các em được hc những gì
đưc dạy gì ph thuộc phần lớn vào thy cô ở trường nên để dạy cho các em
các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng có hiệu quả ngay từ năm
đầu cp đòi hi người giáo viên phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu những
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được
hoàn cảnh của các em, hiểu được tâm lý các em đòi hi phải có sự nhiệt
tình tâm huyết của người thầy
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu tôi yêu cầu giáo viên mi lớp
phân loại học sinh bắt đầu từ cuối tháng 9 cthể như sau:
*Tng số học sinh toàn khi: 272 em
Học sinh đọc, viết theo chuẩn: 150 em
Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn: 100 em
4
Học sinh chưa đọc, viết được, một số em chưa biết cầm
t: 22 em.
Từ những số liệu về tình hình học sinh mà các giáo viên khi Một báo lại,
ng với quá trình đi dự giờ để tìm hiểu rõ nguyên nhân nàoc em lại đọc,
viết còn chậm so với yêu cầu chuẩn, tôi cùng Ban giám hiu nhà trường họp
giáo viên khối Một bàn bạc để có những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay
để làm sao nâng dần chất lượng dy môn Tiếng Việt cho các em hc sinh lớp
Một.
1. Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vn dụng linh hoạt phương
pháp dy phù hợp với từng đối tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình
quan tâm, giúp đỡ học sinh.
1.1 Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:
-Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối
tượng như sau:
Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu
Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình
Nhóm 3: Gồm những học sinh khá
Nhóm 4: Gồm những học sinh giỏi
-Giáo viên có thể thay tên nm 1,2,3,4 thành tên khác như nhóm
A,B,C,D…Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo
nhưng các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo viên yêu cầu các em thực
hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong cùng mt giờ học.
Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3 và 4.
Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương này. Chẳng hạn
i 46 vần ÔN, ƠN các em chỉ cần viết ôn, ơn, con chồn, sơn ca, mỗi vần, mỗi
tchmột dòng, trong khi đó các em ở nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như
trên t 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn.
5
-Ban giám hiu chúng tôi thống nhất trong các giờ học đàn cho những em
học sinh chậm, yếu ở lại phòng hc, giáo viên tiếp tục kèm cho các em đọc, viết
nội dung nào các em còn yếu.
1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng dy học như tranh, ảnh, vật
tht….cho hc sinh hc chậm.
-Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khnăng tư duy
trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên nhng mô hình vt thật, tranh
ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên s dụng đồ dùng dy học là
không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy hc là phương
tiện chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách,
rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động
của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú
cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học chỉ sợ
những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn
trong quá trình dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất là các em học sinh học
chậm.
Ví d: Ở những bài hc về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86 Sách giáo
khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng trang vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; Tranh con
hươu sao để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần
ưu ươu phần đầu tiết học. T những hình ảnh như thế các em s d nhớ và
nhchính xác hơn c vần và các t được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật
thật đến vần của bài hc.
Như vậy dùng tranh, nh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nh
vần và t tốt hơn.
-Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các
tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 – hc kì II.
Ví d: Bài Chuyện ở lớp – Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập II
Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: vn uôc. Giáo viên treo tranh mt
người đang tuốt lúa – Giáo viên hi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói